1. QUY ĐỊNH BOX XUẤT BẢN :

       

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]

    ----•Nội dung cần:

    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)

    - Tác giả

    - Dịch giả

    - Đơn vị phát hành

    - Số trang ( nên có)

    - Giá bìa (nên có)

    - Ngày xuất bản (nên có)

    --- Quy định

    1 . Thành viên post có thể tự type hoặc copy từ nơi khác (để nguồn)

    2 . Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn

    3. Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ

    Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Hoa Sen Xanh - Chương Xuân Di (Full 2 Tập)

Thảo luận trong 'Sách XB Hoàn'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      <div>
      CHƯƠNG 35
      Muôn dặm đường về

      Beta: Phong Tiêu

      “Học giả dẫu bị gài bẫy,

      Cũng dễ dàng mắc mưu;

      Kiến có mắt,

      Nhưng bò nhanh hơn loài khác.”

      (Cách ngôn Sakya)
      Năm 1264, tức năm Giáp Tý, Mộc theo lịch Tạng, tức niên hiệu Cảnh Định thứ năm, nhà Nam Tống, tức niên hiệu Chí Nguyên thứ nhất, Mông Cổ.

      Bát Tư Ba ba mươi tuổi, Kháp Na hai mươi sáu tuổi.

      Sau hành trình hai tháng vất vả vùng đồng bằng Hoa Bắc, chúng tôi đến Lan Châu, rồi tới Tấy Ninh. Hai thành phố quan trọng này là nơi tập trung đông đảo các dân tộc ở biên giới phía tấy. những con phố chật hẹp dòng người qua lại tấp nập với đủ loại trang phục có màu sắc khác nhau, họ trao đổi với nhau bằng rất nhiều thứ ngôn ngữ, quả thực vô cùng phức tạp. Cả Bát Tư Ba và Kháp Na đều tinh thông tiếng Mông Cổ, tiếng Tạng và tiếng Hán nhưng ở đấy họ còn tiếng Khương, tiếng Uyghur và các thứ tiếng địa phương khác. Thậm chí, trong cùng ngữ hệ, khẩu của từng vùng cũng rất khác nhau, thế nên, thường xuyên xảy ra cảnh tượng ông gà, bà vịt.

      Đúng lúc Bát Tư Ba đau đầu vì hỗn tạp của các loại ngôn ngữ trong quá trình giao tiếp với cư dân địa phương Senge xuất .

      Khi đoàn chúng tôi dừng lại ở Tấy Ninh để nghỉ ngơi, dưỡng sức thanh niên người Tạng tên là Senge tìm đến, rằng muốn theo hầu Bát Tư Ba. Vào thời thịnh trị của vương triều Tufan, tổ tiên của Senge được tán phổ phái trấn giữ vùng biên cương Thanh Hải, nhưng sau đó, vì đức vua ban bổ lệnh rút quân nên họ tộc của Senge cư trú đời đời mảnh đất này. Senge là người giỏi ngoại ngữ thiên bẩm, có thể lưu loát tiếng Hán, tiếng Tạng, tiếng Mông Cổ và cả tiếng Uyghur.

      Bát Tư Ba để Senge làm thông dịch cho mình, thường xuyên đề nghị cậu ấy thông báo về tình hình đời sống của người Tạng dải đất Thanh Hải. Senge là người năng , năng biết, kiến thức phong phú, lại thông minh, lanh lợi nên rất được Bát Tư Ba tín nhiệm.

      Khoảng cuối tháng Bảy, đầu tháng Tám, Senge đưa em Bát Tư Ba đến thăm hồ Thanh Hải. Nưóc biếc dạt dào làm nổi bật vẻ đẹp của dãy núi Côn Luân uốn lượn, xanh ngút phía xa xa. Cỏ hoa rì rào lay động trong làn gió mùa hạ, cảnh tượng bát ngát, tươi đẹp ấy khiến người ta ngỡ ngàng, con tim rộn ràng hòa ca. Dùng tay vốc vốc nước trong veo, tinh khiết, tâm hồn chừng như cũng được gột rửa, bỗng trở nên nhõm, thanh thản lạ kỳ. Hai em họ lặng ngắm cảnh hồ, dãy núi tĩnh lặng phía xa, sóng nước lăn tăn, ánh hoàng hôn phủ lên bóng dáng gầy guộc của họ. Khung cảnh tuyệt đẹp ấy, bảy trăm năm sau vẫn in đậm trong trái tim tôi, mãi phai nhòa.

      Sau khi rời Tấy Ninh, theo kế hoạch ban đầu, chúng tôi vượt núi Côn Luân, vượt sông Trường Giang ở thượng nguồn, sau đó tiếp tục vượt đèo Tanggula để vào đất Tạng. Đấy chính là tuyến đường Thanh - Tạng. Tuyến đường này tuy khá cao so với mực nước biển nhưng đường quá gập ghềnh, khó chịu. Năm xưa, đại sư Ban Trí Đạt dắt díu hai chú nhóc, vượt chặng đường này để đến đất Lương Châu. Nhưng Bát Tư Ba chọn hướng khác: vào đất Tạng qua Dogans (1).

      (1) Nay là vùng đất Tạng giao giữa Thanh Hải và Tứ Xuyên.

      Vùng Dogans, từ nam chí bắc cắt ngang dãy Côn Luân, dãy Bayan Har và dãy Tanggula, đường là núi đồi trập trùng, muôn phần hiểm trở, những đoạn bằng phẳng hơn đều là mạng lưới đầm lầy dày đặc. Tuy vậy, nếu theo tuyến đường này, có thể rút ngắn thời gian vào đất Tạng tháng. Vì nóng lòng trở về Sakya, Bát Tư Ba nề hà chọn tuyến đường đầy gian nan này.

      Ra khỏi thung lũng Huangshui với độ cao chỉ hai nghìn mét so với mực nước biển, chúng tôi bắt đầu phải đối mặt với cung đường vô cùng gian khổ, núi cao chồng chất núi cao. Cứ qua khe núi là nhiệt độ lại giảm mạnh, vào tháng nóng nhất của mùa hè Trung Nguyên ở đấy vẫn phải khoác áo dày cộm, nhiều lớp. Di chuyển con đường gập ghềnh, trắc trở chưa đầy chục ngày mà đám binh sĩ người Mông Cổ ai nấy đều sạm nắng, những đốm tròn sẫm đỏ nét gò má. Như thế cũng chưa ăn thua. Kể từ ngày bắt đầu phải leo núi cao, các triệu chứng: chóng mặt, buồn nôn, thở gấp, phản ứng độ cao thôi giày vò những con người quen sống ở miền đồng bằng.

      - Kháp Na, uống thuốc nào.

      Kháp Na gắng gượng hé mở đôi mắt sưng tấy, mệt mỏi quay đầu lại, gương mặt nhợt nhạt, khóe miệng phồng rộp, bờ môi tím tái, nứt nẻ như ruộng đồng mùa khô hạn, máu rỉ ra qua từng vết nứt. Cậu ấy tức ngực, khó thở, chẳng thiết ăn uống, nếu gắng gượng nuốt được vài miếng ngay lập tức lại nôn sạch. Buổi tối đau đầu buốt óc, cả đêm quằn quại sao yên giấc. Thế nên, mới có mấy ngày mà cậu ấy hốc hác, héo hon trông thấy. Bát Tư Ba muốn nghỉ lại vài ngày để chữa bệnh cho Kháp Na và cậu ấy có thể tịnh dưỡng, nhưng Kháp Na muốn vì mình mà lỡ dở kế hoạch, cậu ấy cắn răng chịu đựng, cố lê lết thân thể ốm yếu của mình từng chặng núi cao trùng điệp.

      - Tiểu Lam? - Cậu ấy nhìn tôi từ xuống dưới bằng ánh mắt yếu ớt, rất đỗi ngạc nhiên. - Em cải trang đó à? Đôi mắt và mái tóc màu xanh của em đâu?

      Tôi cúi xuống nhìn lại mình, kéo lọn tóc vào lòng bàn tay, tươi cười đắc ý:

      - Cuối cùng tôi cũng luyện được phép thuật biến mái tóc và đôi mắt màu xanh thành màu đen giống hai người! Rồi tôi vận đồ của người ở. Trông cũng giống con trai đấyy chứ?

      Tôi lè lưỡi tinh nghịch với cậu ấy:

      - Nhưng mà tài nghệ chưa cao nên chỉ giữ được , hai canh giờ. Tôi tu luyện thêm.

      Kháp Na tròn xoe mắt, miệng kéo thành hình chữ O:

      - Nhưng sao gương mặt của em cũng khác thế? ràng là em, nhưng giống mà hệt như chú bé xinh xắn đến ngỡ ngàng.

      Tôi phì cười, thu lại phép thuật, trở lại với dung mạo quen thuộc:

      - Trông tôi thế này, dù có vận đồ nam giới cũng chẳng thể giống họ. Nhưng tôi quan sát hai người rất lâu mới tìm ra cách che những đặc trưng của nữ giới đó.

      Thấy tôi trở lại với hình hài cũ, Kháp Na thở phào. Tôi đỡ cậu ấy ngồi dậy, tựa lưng vào gối. Cậu ấy mỉm cười dịu dàng, nhìn tôi:

      - Lúc chỉ có ta và đại ca, em cần phải cải trang. Nhưng vận đồ nam giới, chỉnh trang dung mạo, hạ thấp điệu em có thể xuất công khai với thân phận của người hầu được đó. Vậy cũng hay.

      Tôi gật đầu vui vẻ, cuối cùng tôi cũng có thể xuất bên cạnh họ mà cần phải lo lắng gì cả. Kháp Na hỏi tôi:

      - Đại ca đâu rồi?

      - bàn chuyện với Senge trong lán. Bấy giờ Lâu Cát rất tín nhiệm Senge.

      Tôi đưa bát thuốc nóng hổi cho Kháp Na:

      - Đấy là thuốc do Senge mang tới, có tên gọi Hồng Cảnh Thiên. Cậu ta bảo, thuốc này trị đau đầu rất tốt. Cậu mau uống !

      Kháp Na nhăn mặt, nhấp ngụm rồi thở dài:

      - ngờ ta lại yếu đến vậy, ta gấy cản trở cho đại ca rồi!

      - phải chỉ mình cậu đâu, rất nhiều người bị đau đầu, khó thở, tim đập mạnh đó. Lâu Cát cũng chẳng khá hơn, chẳng qua chàng khỏe hơn cậu chút xíu. Vả lại, chàng có quá nhiều việc phải xử lý nên chẳng có thời gian bận tâm đến sức khỏe nữa.

      Tôi giúp cậu ấy nằm xuống rồi ngồi bên giường, nhàng xoa bóp huyệt thái dương cho cậu ấy.

      - Cậu xa quê nhiều năm, từ lâu thích nghi được với khí hậu vùng núi cao. Nơi đấy khác hẳn Lương Châu, mà đường phía trước còn nhiều chặng gian nan. Sức khỏe cậu thế này, tôi lo lắm.

      Kháp Na khẽ rùng mình, ngẩng lên, ánh mắt chiếu thẳng vào tôi. Ánh mắt mệt mỏi, vô hồn ban nãy bỗng lóe sáng, sóng mắt trong veo in bóng gương mặt ngẩn ngơ của tôi. Lúc nào tôi cũng có cảm giác ánh mắt cậu ấy nhìn tôi rất kỳ lạ, nhưng sao lý giải nổi kỳ lạ ở điểm gì. Chúng tôi cứ lặng lẽ nhìn nhau như thế rồi cậu ấy nghiêng đầu sang bên, ho khan chặp, khẽ đẩy cánh tay tôi vuốt lưng cậu ấy, giọng hờ hững:

      - Ta sao, mấy hôm nữa quen thôi. Em hãy dành nhiều thời gian cho đại ca, chăm sóc huynh ấy !

      Tôi ngán ngẩm ngồi xuống, ôm đầu vẻ bực bội:

      - Hai em cậu làm sao thế? Sau khi rời khỏi Đại Đô ai thèm để ý đến tôi. Hai người cứ đùn đẩy tôi qua lại thế là thế nào?

      Kháp Na giật mình, nhìn tôi dò hỏi:

      - Đại ca bảo em đến chỗ ta ư?

      Tôi ngồi xổm, đập tay vào đầu:

      - Hai người cứ tiếp tục thế này, tôi bỏ về núi Côn Luân ngay, từ nay làm phiền hai người nữa!

      - Đừng , Tiểu Lam! - Kháp Na hốt hoảng tung chăn, chân trần nhảy xuống giường, ôm chầm lấy tôi, giọng cuống quýt, tha thiết. - Em bảo rằng theo chúng ta suốt đời. Em hứa mãi mãi rời xa ta kia mà!

      Tôi cảm nhận được nỗi lo sợ khôn xiết trong giọng gấp gáp của cậu ấy, thấy thương vô chừng. Tôi vùi đầu vào khuôn ngực của cậu ấy, thầm sung sướng. Tôi giao hẹn với đại sư Ban Trí Đạt kia mà, chỉ cần họ còn sống, tôi theo họ, bao giờ rời xa. Nhưng tôi vẫn giả bộ đáng thương, chớp chóp mắt, ngước nhìn Kháp Na:

      - Cậu đừng xua đuổi tôi nữa! Tự tôi quyết định lúc nào ở bên cậu, lúc nào ở bên Lâu Cát, được ?

      Kháp Na gật đầu lia lịa, siết tôi chặt hơn nữa:

      - Ta nào muốn xua đuổi em, chẳng qua là...

      Cậu ấy buông lửng câu , ánh mắt đột nhiên đượm buồn, biết suy nghĩ chuyện gì rồi thở dài não nề. Tôi sợ cậu ấy để chân trần lâu cảm lạnh, bèn giật giật tay áo, nhắc nhở cậu ấy nằm xuống giường. Lúc này cậu ấy mới chợt nhớ ra mình ôm riết lấy tôi, lập tức buông tôi ra. Cậu ấy nghiêng sang bên, ho dữ dội, gương mặt đỏ rẩn.

      Đầu tháng Chín, sau gần tháng trèo đèo vượt núi, muôn phần vất vả, cực nhọc, cuối cùng những trảng cỏ rộng lớn mênh mông cũng xuất trước mắt chúng tôi. Hồ Zaling và hồ Eling nơi thượng nguồn sông Hoàng Hà mênh mông, bát ngát càng tôn thêm vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ của đỉnh núi Anemaqen dưới nền trời xanh ngắt. Những đám mấy lơ thơ, bầu bạn với lớp tuyết trắng ngàn năm tuổi đỉnh núi, chẳng thể phân biệt nổi đâu là mấy, đâu là tuyết. Núi tuyết sừng sững, hồ nước bát ngát, những đồng cỏ trải dài bất tận, những đàn dê, đàn cừu nhẩn nha gặm cỏ, khung cảnh thơ mộng như tiên cảnh khiến những con dân của vùng đồng bằng phải thốt lên kinh ngạc.

      Chúng tôi giữa gian thần tiên ấy chừng mười hai ngày đến vùng Kapayu thuộc Dogans. Nơi đây chính là huyện Ngọc Thụ, tỉnh Thanh Hải ngày nay, cũng là trạm nghỉ đường Tây Tạng. Hệ thống trạm nghỉ mà Bát Tư Ba xây dựng từ hai, ba năm trước nay vào hoạt động ổn định. Chế độ trạm nghỉ, với chức năng cung cấp lương thực, vật dụng cần thiết và nơi ăn chốn ở cho lữ khách tốt hơn nhiều so với việc đến đâu phải dựng lều trại đến đó. Bởi vậy, Bát Tư Ba hạ lệnh dừng lại nơi đây nghỉ ngơi dăm bữa để đoàn người được giải lao, hồi sức sau chặng đường mệt nhọc.

      Trong thời gian đoàn chúng tôi dừng chân tại đây, nhà sư đến xin được theo Bát Tư Ba. Người đó tên gọi Dampa, hồi từng tới Sakya, theo đại sư Ban Trí Đạt học đạo. Trước khi Lương Châu, ngài Ban Trí Đạt cử nhà sư trẻ này tới Thiên Trúc tu học. Học xong, Dampa trở về sinh sống tại quê hương. Nghe Bát Tư Ba đường hồi hương có ghé qua Kapayu, Dampa liền đến xin gặp mặt. Cậu ta vốn là tín đồ của giáo phái Sakya, lại tinh thông Phật điển, kiến thức Phật pháp uyên thâm và chỉ hơn Bát Tư Ba bảy tuổi nên hai người trò chuyện rất tâm đầu ý hợp. Bát Tư Ba quyết định giữ Dampa lại.

      Dampa ngỏ ý mời Bát Tư Ba tổ chức pháp hội trong thời gian đoàn chúng tôi lưu lại Kapayu. Tin tức này vừa truyền , người Tạng ở khắp nơi lập tức thông báo cho nhau. Ngày tổ chức pháp hội, hơn vạn tăng nhân, tín đồ và thường dân nườm nượp đổ về nơi Bát Tư Ba đăng đàn thuyết pháp. Lúc này, Kapayu chỉ là thị trấn vùng thảo nguyên bao la, dân số chỉ khoảng nghìn người. Phần lớn tăng ni, Phật tử đổ về đây trong ngày pháp hội là người từ những thôn làng, thị trấn ở vùng lân cận. số tín đồ ở những nơi xa xôi hơn cũng vội vã lên đường, suốt ngày đêm ngừng nghỉ để kịp dự pháp hội.

      Để kỷ niệm kiện trọng đại này, về sau, địa danh Kapayu được đổi thành "Chindu", trong tiếng Tạng có nghĩa là "vạn người tụ hội". Nơi đây chính là khu tự trị Chindu của tộc người Tạng ở huyện Ngọc Thụ ngày nay.

      Cuối tháng Chín, nhiệt độ tiếp tục giảm mạnh, những đợt tuyết bắt đầu lả tả rơi thảo nguyên vùng cao giá lệnh. Bát Tư Ba chào từ biệt Chindu để lên đường La-ta. Lúc này, đoàn chúng tôi cao nguyên được hơn hai tháng, khi cả đoàn còn chưa kịp thích nghi với tượng sốc độ cao thử thách khác xuất : băng giá.

      Nhiệt độ càng ngày càng xuống thấp, thảo nguyên đìu hiu, cỏ cây héo úa, lạc đà và ngựa chẳng kiếm nổi thức ăn. Cuối tháng Mười, thời tiết bắt đầu bước vào kỳ đại hàn. Thường mỗi sớm tinh mơ, khi thức giấc và mở cửa lán trại chúng tôi thấy lớp tuyết dày ngang bụng người tích tụ bên ngoài. Tuyết dày phủ kín đường, việc lại vô cùng khó khăn. Binh lính thường phải xúc tuyết, dọn đường cho cả đoàn người ngựa. Ngày lại ngày di chuyển trong mù trời tuyết trắng, cao nguyên mênh mông băng giá có lấy bóng người, cũng may trước đó chúng tôi tích trữ lương thực, thuốc men đầy đủ. Nhưng ngày nào cũng phải gặm thịt bò khô và những miếng bánh nướng rắn đanh, nguội ngơ nguội ngắt, quả thực là bụng dạ rất khổ sở. Nước rất khó sôi, chúng tôi phải đun rất lâu mới có được nồi canh thịt bò nho . Nồi canh quý hiếm ấy, Bát Tư Ba chẳng nỡ ăn, chàng dành cả cho em trai đau ốm.

      Hành trình gian nan, khắc nghiệt là thế cộng với căn bệnh sốc độ cao mãi khỏi, chống cự nổi, cuối cùng Kháp Na đổ bệnh. Bát Tư Ba, lòng như lửa đốt, quyết định dừng lại nghỉ ngơi nhiều ngày tại trạm nghỉ ở Xương Đô và cho người tìm thầy thuốc người Tạng khắp nơi tìm mua cho Kháp Na những thứ thuốc quý nhất. Chỉ cần có thể chữa khỏi bệnh cho em trai, chàng tiếc bất cứ thứ gì.

      - Kháp Na, uống chút canh thịt bò nào!

      Thời gian này, tôi thường xuyên hóa phép giấu màu mắt xanh và tóc xanh, cải trang thành người hầu theo Kháp Na và Bát Tư Ba. Sức khỏe của Kháp Na tốt nên dọc đường , tôi luôn ở bên, chăm sóc cậu ấy. Tôi đỡ Kháp Na ngồi dậy, tựa lưng vào gối, đút cho cậu từng thìa canh thịt bò . Nhìn gương mặt suy nhược vì đau ốm hai má hóp lại và chiếc cằm lún phún râu của cậu ấy, tôi khỏi xót xa:

      - Cậu gầy trông thấy!

      Cậu ấy vừa ho khan vừa uống canh thịt bò hầm đông trùng hạ thảo. Chừng như đắng miệng, cậu ấy ngậm lúc mới gắng gượng nuốt vào bụng. Tôi lựa lời động viên:

      - Dù thế nào cũng phải cố gắng ăn nhiều, nếu , cậu đủ sức để chống chọi với bệnh tật đâu.

      Loài người yếu ớt, chả trách tuổi thọ của họ lại ngắn như vậy!

      Sau rất nhiều nỗ lực, cuối cùng cậu ấy cũng uống hết bát canh, sắc mặt hồng hào lên đôi chút. Cậu ấy lấy hơi, nhìn tôi, hỏi:

      - Có phải đại ca ra lệnh cho cả đoàn dừng lại ?

      Tôi gật đầu:

      - Chàng sai Senge tìm thêm Hồng Cảnh Thiên.

      Kháp Na lắc đầu, xoay người, muốn rời khỏi giường:

      - Chúng ta tới Xương Đô, chỉ còn khoảng tháng nữa là tới La-ta. Đại ca vẫn muốn đến La-ta vào dịp năm mới của người Tạng, ta thể cản trở kế hoạch của huynh ấy.

      Tôi vội kéo cậu ấy lại:

      - Cậu làm gì thế?

      Chỉ mới cử động đôi chút mà cậu ấy thở ra hơi nhưng vẫn cố chấp đòi ra ngoài:

      - với đại ca tiếp tục lên đường, đừng vì ta mà kéo dài thời gian.

      Tôi vừa bực mình vừa lo lắng, giữ cậu ấy lại:

      - Cậu cứ như vậy hồi phục sao được?

      Cậu ấy quay lại nhìn tôi, đôi đồng tử đen sẫm thấm đẫm nỗi bi ai:

      - Tiểu Lam à, ta vốn chẳng giỏi giang, tài cán gì, ta chỉ muốn nhân chuyến này, dốc sức trợ giúp đại ca. Nếu cơ thể tàn tạ này của ta trở thành vật cản huynh ấy, ta thà bỏ nó còn hơn!

      Tôi thở dài, níu lấy tay áo cậu ấy:

      - Cậu ngang ngạnh quá đấy! Đành vậy! Cậu ngồi xuống đây, tôi có cách giúp cậu bình phục.

      Cậu ấy nhìn tôi ngơ ngác, vẻ nửa tin nửa ngờ. Tôi đỡ lấy gương mặt Kháp Na, khẽ cắn môi, rồi chầm chậm áp môi mình lên bờ môi tím tái của cậu ấy. Khi môi chúng tôi chạm nhau, cậu ấy khẽ rùng mình, hai mắt mở to như chiếc chuông gió, ngỡ ngàng, sững sờ, bất động trong thoáng chốc rồi lập tức đẩy tôi ra. Tuy mạnh nhưng hẳn là cậu ấy phải gạn hết sức tàn của người bị bệnh.

      Cậu ấy thở gấp, giọng run rẩy:

      - Tiểu Lam, em... em... em làm gì vậy?

      - Truyền linh khí của tôi cho cậu thôi mà! Cậu biết đấy, loài rất hiếm khi chịu truyền linh khí cho người khác, vì việc đó khiến cho phép thuật của chúng tôi bị tổn hại- Nhưng tôi sẵn lòng làm việc đó vì cậu. - Tôi phụng phịu vì cảm thấy oan ức. - Cậu muốn lên đường ngay kia mà! Nếu với tình trạng này, chưa đến La-ta, cậu mất mạng rồi!

      Cậu ấy sũng sờ, lúng túng cúi đầu, dám nhìn tôi:

      - Nhưng... nhưng mà... chẳng lẽ có cách nào khác sao?

      Những tinh phép thuật cao siêu chỉ cần đặt ngón tay lên trán người khác là có thể truyền được linh khí, nhưng tôi chưa tu luyện được tới trình độ đó, phải dùng cách trực tiếp và đơn giản nhất.

      Ngó thấy cậu ấy vẫn cúi gằm, chẳng chịu ngẩng lên, chiếc cổ dài đỏ au cách khó hiểu, tôi bực bội trách:

      - Cậu ngại ngùng gì chứ! Tôi là tinh, giống loài người các cậu, tôi quá coi trọng chuyện đó đâu. Nếu cậu chịu cứ ở đó mà chờ cho đến khi nào hết bệnh. Tôi tin rằng Lâu Cát cũng quyết định như vậy!

      Cậu ấy vẫn do dự:

      - Nhưng làm vậy có gây tổn hại cho em ?

      Tôi mỉm cười:

      - Đừng lo, chỉ truyền cho cậu chút ít linh khí thôi mà, tu luyện thời gian là có thế lấy lại được.

      Tôi dối. Linh khí tiêu hao phải mất rất nhiều thời gian khổ công tu luyện mới bù đắp được. Đây chính là nguyên nhân vì sao loài thường bao giờ chịu truyền linh khí cho người khác.

      Cậu ấy cúi đầu, cắn môi, quệt tay vào y phục, mãi sau mói chịu ngẩng lên nhìn tôi, ánh mắt trong veo, long lanh. Cậu ấy hít thở sâu, chừng như phải quyết tâm ghê lắm, rồi chầm chậm ngẩng đầu, từ từ khép mắt lại. Tôi nhàng bước đến, hai tay giữ lấy gương mặt cậu, nhàng chạm vào làn môi cậu.

      Tôi vừa truyền linh khí vừa sinh lòng tà tâm. Hơi thở gấp gáp của cậu ấy phả vào má tôi, cảm giác gai gai. Hàng mi dài cặp mắt khép chặt khẽ rung động. Bờ môi tím ngắt dần hồng hào trở lại, biết vì được truyền linh khí hay còn bởi nguyên nhân nào khác. Ngắm nhìn gương mặt tuấn tú, đáng ấy, biết vì sao trái tim tôi đột nhiên loạn nhịp.

      Tôi vội rời khỏi bờ môi cậu ấy, đằng hắng tiếng, thông báo:

      - Xong rồi!

      Cậu ấy mở mắt, sắc diện ốm yếu hoàn toàn tan biến. Kể từ lúc khởi hành, cậu ấy cứ đau yếu mãi, dung mạo tuấn kiệt bị những trận ốm giày vò, trở nên nhàu nhĩ, ảm đạm. Nhưng giờ đây, vẻ hồng hào trở lại gương mặt cậu ấy, ánh mắt sống động, long lanh, rạng rỡ. Tôi mừng thầm, linh khí của tôi quả nhiên rất công hiệu. Đấy mới là dung mạo thực của Kháp Na chứ!

      Hai tay Kháp Na túm chặt mảnh chăn, chừng như muốn kéo cho rách, khuôn ngực phập phồng, cúi đầu lí nhí:

      - Tiểu Lam, đừng với đại ca rằng em... rằng em...

      Tôi vội ngắt lời cậu ấy, ngước mặt nhìn trần nhà:

      - Tôi biết rồi, yên tâm, tôi .

      Kể từ hôm đó, hiểu sao, mỗi khi nhìn thấy Kháp Na là tôi lại nhớ đến cảm giác tim đập thình thịch khi áp môi vào môi cậu ấy. Đây đâu phải lần đầu tiên tôi và cậu ấy làm chuyện đó, nhưng vì sao cảm giác của lần này lại mãnh liệt như vậy? Tôi bực dọc cốc đầu mình, tự trừng phạt. Tiểu Lam à, càng ngày càng giống con người rồi đó, sao cứ mãi bận tâm về chuyện môi chạm môi ấy chứ?

      ----------------------------------------oOo----------------------------------------
      Tôi đưa mắt về phía lò than cháy lép bép, suy nghĩ vẩn vơ, lát sau mới cất tiếng:

      - Về Sakya lần này, Bát Tư Ba thu nạp Senge làm người hầu cận và thu nhận Dampa làm đệ tử. Khi ấy, chúng tôi đều biết rằng, ngày sau họ trở thành hai nhân vật quyền lực trong triều đình nhà Nguyên... Bát Tư Ba cử Senge đến Trung Đô. Chàng trai trẻ tuổi, thông minh, mẫn cán này rất được lòng Hốt Tất Liệt. Nhà vua giữ cậu ta ở lại và phong tước. Cậu ta nhanh chóng nhận ra vấn đề khiến Hốt Tất Liệt đau đầu nhất kể từ khi dời đô về Trung Nguyên đến nay là nhu cầu về quốc khố quá lớn nên thường hiến kế thu gom tiền bạc giúp Nhà vua. Hốt Tất Liệt vì vậy đặc biệt trọng dụng cậu ta, phong Senge làm thượng thư hữu thừa tướng, về sau, Senge trở thành bậc trọng thần, nắm giữ quyền lực rất lớn trong triều đình nhà Nguyên, là người Tạng duy nhất trong lịch sử Trung Quốc làm quan đên chức tể tướng ở Trung Nguyên.

      Chàng trai trẻ vừa lắng nghe vừa gật đầu:

      - Tôi thuộc lắm lịch sử triều Nguyên chỉ biết có tên nịnh thần Ahama, mà biết còn có tể tướng người Tạng nổi tiếng như vậy.

      - Số phận của Senge cũng giống như Ahama, đều bị liệt vào những câu chuyện kể về gian thần, sau cùng đều bị Hốt Tất Liệt chém đầu cả nhà. Nhưng thực ra, nếu xét cách khách quan, cả Senge và Ahama đều chỉ là công cụ vơ vét tài sản của Hốt Tất Liệt. Vì Hốt Tất Liệt cần tiền nên cả Senge và Ahama đều trổ tài giúp ông ta kiếm nhiều tiền. Nhưng hành vi đục khoét, vơ vét của cải của họ khiến rất nhiều người bất mãn. Để yên lòng dân, Hốt Tất Liệt đẩy họ ra làm vật thế thân cho mình.

      - Vậy Senge có phải là gian thần như sử sách chép?

      Tôi thở dài:

      - Senge quá thông minh, mẫn cán, lại giỏi chính . Thực chất cậu ta xấu, chí ít cậu ta chính trực hơn Ahama rất nhiều, nếu , sao có thể gây dựng được lòng tín nhiệm nơi Bát Tư Ba đến thế? Sau khi được phong làm tể tướng, cậu ta làm tròn bổn phận, cúc cung tận tụy, chỉnh đốn vấn đề tài chính. Cậu ta tra xét ra Trung thư tỉnh làm thâm hụt khoản tiền khổng lồ trong quốc khố, dâng sớ đòi bãi miễn chức vụ của những người đứng đầu Trung thư tỉnh.

      Chàng trai trẻ lắc đầu:

      - Chắc chắn có rất nhiều người phản đối.

      Tôi thở dài:

      - Bởi vậy, chàng trai trẻ người Tạng được Bát Tư Ba rất mực mến, tiến cử với Hốt Tất Liệt, người mà ngày sau trải qua giai đoạn huy hoàng, quyền thế nghiêng ngả triều chính này phải chịu kết cục vô cùng bi thảm.




    2. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      CHƯƠNG 36 :Thánh địa của miền núi tuyết

      Beta : Dĩnh Dĩnh

      cần chỉ dẫn tận tường.

      Bậc tri giả vẫn thấu tỏ mọi  ;

      Quả hồng có hương vị thế nào,

      Chỉ nhìn vỏ của nó là biết. »

       (Cách ngôn Sakya)
      Năm 1265, tức năm Ất Sửu, Mộc theo lịch Tạng, tức niên hiệu Hàm Thuần thứ nhất, nhà Nam Tống, tức niên hiệu Chí Nguyên thứ hai, Mông Cổ.

      Bát Tư Ba ba mươi mốt tuổi, Kháp Na hai mươi bảy tuổi.

      Bát Tư Ba và Kháp Na ăn Tết năm 1265 theo lịch của người Hán trong ngôi đền Drikung Thil ở Modrogongkar, cách La-ta chừng trăm dặm. Đây là ngôi đền chính của phái Drikung, trong những giáo phái lớn ở đất Tạng. Hai giáo phái Drikung và Sakya ra đời cùng thời điểm nhưng trong khi phái Sakya chật vật "trở mình" ở vùng Hậu Tạng nghèo nàn phái Drikung lại thảnh thơi phát triển ở vùng Tiền Tạng giàu có, phì nhiêu. Trong vòng hơn trăm năm, phái Drikung phát triển thành giáo phái lớn mạnh nhất đất Tạng, thánh địa La-ta cũng thuộc phạm vi thế lực của giáo phái này.

      Tin tức Bát Tư Ba trở về quê hương từ lâu được truyền tới các giáo phái lớn khắp đất Tạng nên phái Drikung, từng là kẻ thù lớn nhất của phái Sakya, cũng chuẩn bị nghi lễ nghênh đón Bát Tư Ba rất mực long trọng. Pháp vương Chung Dorje Rinpoche năn nỉ Bát Tư Ba và Bạch Lan Vương ngự lại trong ngôi đền Drikung Thil. Dù rất muốn nhanh chóng đến La-ta nhưng tiện từ chối lời mời nhiệt tình của Chung Dorje, Bát Tư Ba đành ở lại trong đền Drikung Thil khoảng chục ngày.

      Mối mâu thuẫn giữa phái Drikung và phái Sakya bắt đầu từ thời đại của đại sư Ban Trí Đạt. Mấy chục năm trước, phái Drikung cử số nhà tu hành Kora vòng quanh núi thiêng Kailash để cầu phúc. đường đến Kailash đoàn người có ghé thăm đền Sakya và gặp đại sư Ban Trí Đạt. Đám người này ỷ mình là người của giáo phái Drikung hùng mạnh nên cả gan buông lời xấc xược, tỏ thái độ kiêu căng, ngạo mạn trước mặt đại sư. Đại sư thẳng thắn phản bác, phê phán khiến đám thầy tu vô cùng tức tối. Sau đó phái Drikung ỷ vào thế lực của Mông Kha Hãn, đưa người đến Sakya, cho ngựa giẫm nát khu vườn thiền tịnh của ngài Ban Trí Đạt, dỡ tung mái nhà, biến chỗ ở của ngài thành khu phố chợ khiến các tín đồ Sakya vô cùng căm phẫn.

      Mối xung đột giữa hai giáo phái bị đẩy lên cao trào khi biến thành vụ kiện tụng đình đám. Bản khâm của Sakya khi đó là ngài Shakya Zangpo phải đeo gông, vượt núi cao đến La-ta để đối chất với phái Drikung. Khi ấy Bát Tư Ba vừa mới quyết định theo Hốt Tất Liệt, Mông Kha Hãn vẫn tại vị nên tất nhiên nghiêng vế phái Drikung. Vụ án đó kết thúc cách ràng, minh bạch, phái Sakya thua đơn thiệt kép. Nhưng sau đó, Hốt Tất Liệt lên ngôi Đại hãn, địa vị của Bát Tư Ba ngày càng được nâng cao, phái Sakya phải chịu lép vế như xưa nữa, phái Drikung buộc phải cúi đầu làm hòa. Trở về quê hương lần này, Bát Tư Ba mang vai trọng trách lớn lao, quy hoạch lại đất Tạng theo chế độ cai quản vạn hộ hầu, chia lại đất đai và các ngôi đền. Những việc làm này có liên quan mật thiết và ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của các giáo phái nên phái Drikung sao dám thất lễ với Bát Tư Ba? tiếp đón long trọng này chính là cách phái Drikung bày tỏ thái độ cúi đầu làm hòa.

      Điều này vừa đúng ý Bát Tư Ba vì chàng muốn gây xung đột với bất cứ giáo phái nào. Từ lâu chàng có ý định xóa bỏ mối hằn thù kéo dài suốt mấy chục năm qua của hai phái Sakya và Drikung. chỉ vậy, ngay cả với phái Phaktru thường xuyên tranh chấp với Sakya, Bát Tư Ba cũng gửi thư cho họ, biểu thị thiện ý hàn gắn và chung sống hòa bình.

      Chúng tôi cái Tết náo nhiệt tại ngôi đền Drikung Thil với tiếp đón nhiệt tình của phái Drikung. Ngày mùng Hai Tết Tạng, chúng tôi lên đường. Chung Dorje còn bố trí cả đội quân long trọng tiển chúng tôi La-ta. Bát Tư Ba muốn tới nơi trước dịp Tết của người Hán, vì chàng phải gửi thư chúc Tết Hốt Tất Liệt từ La-ta.

      Thế là vào buổi sáng mùa đông tươi đẹp của ngày Ba mươi Tết (theo lịch Hán), đoàn chúng tôi hùng dũng tiến vào cố đô La-ta thời vàng son của vương triều Tufan. Nơi đây chính là thánh địa Phật giáo mà ngày nay chúng ta gọi là Lhasa.

      Đền Jokhang lộng lẫy, nguy nga được Tán phổ Tùng Tán Cán Bố xây dựng từ thời vương triều Tufan. Ngôi đền lấp lánh ánh vàng nền tuyết trắng xóa ra sống động trước mắt chúng tôi. Vừa tới nơi, Bát Tư Ba chẳng kịp đối chiêm bái tượng Phật Thích Ca Mâu Ni mười hai tuổi mà Công chúa Văn Thành rước từ Trường An xa xôi đến đây, vội vã ăn bữa trưa qua loa rồi giam mình trong Phật điện Jokhang, đấy là nơi ở dành riêng cho Bát Tư Ba được các nhà sư chuẩn bị hết sức chu đáo.

      Hằng năm, theo thông lệ, Bát Tư Ba đều viết thư chúc Tết Hốt Tất Liệt. Với tài văn chương, thơ phú của chàng, bức thư chúc mừng năm mới có gì khó khăn, nhưng hiểu sao, lần này rất lạ lùng, chàng chỉ cho phép Senge theo hầu. Bát Tư Ba lưu lại trong Phật điện rất lâu khiến tôi tò mò quá đổi.

      Tôi bèn lẻn vào Phật điện để rồi há hốc miệng, tròn mắt quan sát mọi thứ xung quanh. Phật điện được trang hoàng nguy nga, lộng lẫy kém gì cung điện của Hốt Tất Liệt ở Trung Đô. Xem ra, các thế lực ở đất Tạng đầu tư rất nhiều công sức và tiền bạc để lấy lòng Bát Tư Ba. Nhưng chàng đâu có để tâm đến sang trọng, xa hoa của nơi ăn chốn ở này, chỉ lẳng lặng ngồi xếp bằng, chăm chú viết thư, chốc chốc lại dừng bút ngẫm ngợi, hề ngẩng lên. Sau khi hạ bút thảo những nét cuối cùng, chàng cẩn trọng xem xét lại lượt rồi mới bỏ vào phong thư, đóng con dấu của riêng chàng, xong xuôi mới gọi Senge tới:

      - Hãy cử người cấp tốc chuyển thư này về Trung Đô. Nhớ kĩ, chỉ Đại hãn mới được phép mở thư!

      Senge khỏi ngạc nhiên:

      - Thưa thầy, đây vốn là thư chúc Tết hằng năm thầy vẫn gửi Đại hãn kia mà, vì sao phải gấp gáp như vậy?

      Thần sắc nghiêm nghị, Bát Tư Ba đúng lên cử động đôi chân tê dại của mình:

      - Trong thư này, ngoài lời chúc mừng năm mới, ta còn trình bày những dự định bước đầu về kế hoạch phân chia thường dân và tín đồ ở đất Tạng, ta gọi là kế hoạch phân chia cư dân Mid và Lad. Việc này phải được đồng ý của Đại hãn.

      Senge càng ngạc nhiên hơn:

      - Mid và Lad ư? Thưa thầy, đệ tử chỉ biết Lad là cư dân thuộc quyền cai quản của các tu viện lớn ở đất Tạng. Họ trồng cấy đất đai thuộc sở hữu của các tu viện nên chỉ cần nộp thuế cho tu viện. Đây là quan hệ phổ biến ở đất Tạng sau khi vương triều Tufan sụp đổ. Còn Mid đệ tử biết.

      Bát Tư Ba gõ những ngón tay xuống mặt bàn, vẽ đăm chiêu, tư lự:

      - Bốn trăm năm qua, đất Tạng bị chia năm xẻ bảy, các tu viện cắt đất, khoanh vùng cai quản, hầu hết các hộ dân đất Tạng đều thuộc quyền cai quản của tu viện. Nhưng nay, đất Tạng quy thuộc Mông Cổ, dân cư nơi đây buộc phải gánh trách nhiệm đóng thuế và nghĩa vụ lao dịch với quốc gia. Ta gọi những người dân phải nộp thuế cho nhà nước là Mid.

      Senge nhíu mày, phân tích sắc sảo:

      - Nhưng các tu viện lớn chiếm số lượng lớn đất đai và dân cư suốt nhiều năm qua, hầu hết tài sản của đất Tạng đều thuộc về tu viện. Nếu buộc các tu viện trao trả cư dân Lad của họ, để biến những người này thành cư dân Mid của nhà nước, chắc chắn họ phản đối.

      Bát Tư Ba khẽ gật đầu:

      - Trò đúng. Kế hoạch này ảnh hưởng đến lợi ích trực tiếp của các tu viện lớn, trong đó có cả tu viện Sakya. Nếu buộc toàn bộ dân cư thuộc sở hữu của tu viện trở thành Mid là điều thể. Trước khi lên đường, ta thảo luận với Đại hãn về vấn đề này rất lâu, khó khăn lắm mới thuyết phục được ngài chấp thuận chế độ quản lý đặc biệt dành riêng cho đất Tạng. Đó là, những cư dân thuộc quyền cai quản của tu viện, chịu trách nhiệm phụng thờ Phật Tổ, được miễn nghĩa vụ lao dịch và thuế khóa. Những cu dân còn lại buộc phải thực nghĩa vụ này.

      Senge quan sát vẻ mặt của Bát Tư Ba, thận trọng hỏi:

      - Thưa thầy, phải chăng Đại hãn giao toàn quyền quyết định tu viện nào được phép sở hữu bao nhiêu Lad, chuyển đổi bao nhiêu Mid cho thầy?

      Bát Tư Ba chậm rãi gật đầu, nét mặt căng thẳng.

      Senge hít hơi sâu, đầu óc nhạy bén của cậu ta lập tức nhận biết được tầm quan trọng của vấn đề:

      - Nếu được phân vào hàng ngũ những cư dân Lad, phải đóng thuế cho triều đình và phải chịu nghĩa vụ lao dịch. Trở thành cư dân Mid, tức là phải nộp tô thuế cho tu viện. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các bên! Đất Tạng có bao nhiêu giáo phái bao nhiêu tu viện, lẽ dĩ nhiên các giáo phái và tu viện đều dốc sức để giành lấy vế phần mình nhiều cư dân Lad và nhượng cho triều đình ít cư dân Mid.

      Đát Tư Ba đăm chiêu:

      - Về phần Đại hãn, ngài mong rằng số lượng cư dân đóng thuế cho mình càng nhiều càng tốt. Đô thành của ngài vừa xây dựng lại ngài còn cả cuộc chiến cam go, trường kỳ với nước Tống ở phía nam nên quốc khố là vấn đề vô cùng cần kíp.

      Senge chậc lưỡi:

      - Thầy bị kẹp ở giữa thế này, phải làm sao cho ổn thỏa, cho đẹp lòng các bên đây?

      Bát Tư Ba khẽ khép mắt, hai tay đưa lên xoa bóp huyệt thái dương:

      - Ta hiểu vô cùng gian nan, bởi vì phái Sakya vừa là giáo phái ở đất Tạng, lại vừa là đại diện của Đại hãn. Chúng ta phải xét suy mưu lợi cho đất Tạng, đồng thời cũng phải suy nghĩ cho Đại hãn. Rất khó khiến đôi bên đều vừa lòng đẹp ý, ta chỉ có thể dốc hết sức mình, cầu lấy công bằng, thỏa đáng mà thôi.

      - Trách nhiệm của thầy quả là vô cùng nặng nề. Chả trách, suốt dọc đường , thầy luôn đăm chiêu, suy nghĩ. - Senge tỏ ra lo lắng, rồi chợt nhớ ra điều gì, vội hỏi. - Đệ tử hiểu rồi, phái Drikung ân cần khoản đãi chúng ta như vậy, chắc chắn pháp vương Chung Dorje của họ đưa ra đề nghị gì với thầy, đúng ?

      Bát Tư Ba cười buồn, tán dương Senge:

      - Trò rất thông minh! Đúng vậy, Chung Dorje viện cớ đền Drikung Thil cách La-ta xa, khẩn cầu ta cắt toàn bộ dân cư của La-ta cho phái Drikung.

      Senge xì mũi tức tối:

      - Lão già khôn ngoan ấy quá tham lam! La-ta từng là cố đô của vương triều Tufan, đất đai phì nhiêu, cư dân đông đúc. Chia toàn bộ cư dân La-ta cho họ, phái Drikung nghiễm nhiên trở thành giáo phái hùng mạnh nhất đất Tạng!

      Bát Tư Ba khẽ lắc đầu:

      - Ta hiểu thâm ý của ông ta, trong thư gửi Đại hãn, ta cũng ghi nguyện vọng của phái Drikung. Nhưng nguyện vọng của họ có đạt được hay , ta thể quyết định, Đại hãn tự định đoạt.

      Senge suy nghĩ lát rồi gật gù:

      - Nếu Đại hãn chấp thuận, phái Drikung cũng thể oán trách ai.

      Rồi cậu ta cung kính cúi người, thưa với sư phụ rằng:

      - Thưa thầy, bức thư quan trọng nhường này, chi bằng hãy giao cho con, con đích thân chuyển đến tận tay Đại hãn và trình bày ràng với ngài những suy nghĩ của thầy.

      Bát Tư Ba gật đầu:

      - Đúng đấy, con thông minh, lanh lợi, lại có tài ăn , chắc chắn biết cách giải thích tường tận với Đại hãn.

      Senge vui mừng nhận lệnh:

      - Con thúc ngựa nhanh, chỉ nửa năm là có thể đến được Trung Đô. Thưa thầy, con hứa, ngày này sang năm trao ý chỉ của Đại hãn đến tận tay thầy!

      Senge tận lực cho chuyến công cán này. Tuy chỉ làm phận của người đưa thư nhưng được tiếp kiến Hốt Tất Liệt. Thế nên, đối với người nuôi tham vọng thăng tiến như Senge đây là cơ hội ngàn năm có . Sau đó quả nhiên Senge tận dụng dịp may hiếm có này để phô diễn tài năng trước mặt Hốt Tất Liệt. Đây là lần đầu tiên vị tể tướng tương lai của triều Nguyên xuất trước mặt Hốt Tất Liệt.

      Senge rồi, đại điện rộng lớn chỉ còn lại mình Bát Tư Ba. Chàng đứng bên cửa sổ, ngắm nhìn những giọt nước tuyết tí tách rơi, ánh nắng ngày đông giá phản chiếu bóng dáng liêu của chàng. Nghe được cuộc đối thoại giữa chàng và Senge, tôi biết chàng phải lo nghĩ nhiều việc trọng đại nên dám làm phiền, chỉ lặng lẽ trốn trong góc khuất, ngắm nhìn chàng. Bát Tư Ba trầm ngâm hồi lâu rồi đột nhiên thở dài:

      - Em ở đây phải ?

      Tôi giật mình thảng thốt, liền hóa thành thiếu nữ, do dự lát, mới chầm chậm bước ra khỏi trướng rủ màn che:

      - Sao chàng biết em ở đây?

      Chàng giật mình quay lại, thấy tôi, hai mắt tròn xoe ngạc nhiên, ấp úng:

      - Em... em ở đây ư?

      Tôi càng ngạc nhiên hơn:

      - Chàng biết em ở đây sao? Vậy khi nãy chàng về ai thế?

      Chàng sững sờ, mặt bỗng ửng đỏ, hấp tấp chuyển đề tài:

      - Em ở bên Kháp Na kia mà!

      Tôi dẩu môi, phụng phịu:

      - Lại đùn đẩy người ta về phía Kháp Na rồi!

      - Ta...

      Rồi chàng im bặt, quay đầu, tiếp tục nhìn ngắm những giọt nước tuyết tí tách rơi, giọng bình thản:

      - Đệ ấy khỏe, em nên ở bên đệ ấy nhiều hơn.

      Tôi lại gần chàng, lấy tay che miệng, tủm tỉm cười:

      - Lúc cậu ấy tắm, em cũng phải ở bên sao?

      Bát Tư Ba biết phải sao, ánh mắt tránh né tôi:

      - Trời lạnh như vậy, nơi đây lại là vùng núi cao băng giá, đệ ấy nên chăm chỉ tắm rửa như vậy. Lỡ bị cảm lạnh, làm sao đệ ấy chịu nổi.

      Tôi thở dài:

      - Chàng biết Kháp Na ưa sạch thế nào mà!

      Bát Tư Ba có vẻ bối rối khi chúng tôi ở bên nhau, mới trò chuyện được đôi câu, chàng giục giã:

      - Chắc giờ này đệ ấy tắm xong rồi. Em gọi Kháp Na , chúng ta cùng nhau dạo quanh thành La-ta nào!

      Tôi hóa phép trở lại nguyên hình, báo tin cho Kháp Na. đường , tôi cứ băn khoăn mãi. Đây đâu phải là lần đầu tiên hai chúng tôi ở bên nhau. Thời gian trước, tôi vẫn thường hóa thành thiếu nữ để thu hẹp dần khoảng cách với chàng kia mà. Nhưng Bát Tư Ba đâu có bối rối như bây giờ, dường như chàng càng lúc càng muốn tôi lại gần. Tất cả những biểu này đều bắt đầu từ sau buổi tối hôm đó. Tối hôm đó, sau khi Khabi với Bát Tư Ba rằng linh khí của tôi có thể bị phản ứng ngược, chàng làm gì? Vì sao giờ đây chàng cứ muốn đẩy tôi về phía Kháp Na?

      Mãi tới khi leo lên núi Hồng Sơn, nơi cao nhất ở thành La-ta, tôi vẫn tìm ra được đáp án cho câu hỏi đó. Bát Tư Ba lệnh cho những người hầu cận ở dưới chân núi, chỉ hai em lên núi. Đến lưng chừng, khi thấy xung quanh có ai khác, tôi liền hóa phép thành người, theo sau họ.

      Vì suy nghĩ quá say sưa, chẳng đế ý đến những bậc đá lối dốc đứng nên tôi vấp ngã, đổ người về phía trước. Tất nhiên là tôi chẳng "ngán" cú ngã này, nhưng chưa kịp phô diễn phép thuật Bát Tư Ba và Kháp Na, mỗi người giữ lấy cánh tay của tôi, kéo tôi lại. Tôi há hốc miệng, nhìn sang hai bên, Kháp Na bối rối, còn Bát Tư Ba khiến tôi kinh ngạc hơn, hàng lông mày xô lại, rúm ró, vẻ mặt đau khổ. Sau đó, cả hai buông tay cùng lúc, vì mất đà, tôi ngã sóng soài ra đất.

      Tôi bực bội, lồm cồm bò dậy, hất cánh tay Kháp Na hốt hoảng chìa ra, chực đỡ tôi lên, mặc cho hai người hỏi han ân cần, tôi hùng hổ lao về phía trước:

      - Từ nay hai người làm ơn đừng như vậy nữa có được ? Em cần ai giúp hết, em tự được!

      Hai em họ nhìn nhau rồi lẳng lặng quay mặt . Bát Tư Ba giấu cánh tay vừa đỡ lấy tôi ra sau lưng, cắn môi như thể chịu đựng cơn đau. gương mặt của cả hai đều hiển những biểu cảm hết sức phức tạp, tôi sao hiểu nổi.

      Mặt trời ngả về tây, chiếu rọi những mảng tường thành đổ nát núi Hồng Sơn. Tôi đứng cách xa, dõi mắt ngắm nhìn bóng dáng cao gầy của hai người giữa cảnh hoang phế của tan tích xưa cũ. Tôi xuất nên em họ trò chuyện rất thoải mái. Tôi nghe thấy Bát Tư Ba thở dài chiêm nghiệm:

      - Nơi đây từng là cung điện của vương triều Tufan. Vị tán phổ vĩ đại nhất của vương triều là Tùng Tán Cán Bố dời đô từ Sơn Nam về mảnh đất trũng thấp, rộng rãi này và kiến tạo thành đô La-ta. Ngài cho xây dựng cung điện núi Hồng Sơn để đón Công chúa Văn Thành. Tiếc thay vào giai đoạn cuối của vương triều Tufan, toàn bộ công trình kiến trúc năm xưa bị hủy hoại bởi khói lửa chiến tranh.

      Kháp Na đứng mái nhà sập đổ, dõi mắt nhìn ra xung quanh, cánh tay chỉ về phía những con đường hẹp dẫn lên đỉnh núi:

      - Cung điện này được xây ở nơi cao nhất trong thành La-ta, lại chỉ có bốn con đường dẫn lên núi. Hẳn là năm xưa, nơi đây được canh giữ vô cùng cẩn mật, phòng thủ dễ dàng và kẻ địch khó tấn công. Nhưng dù là như vậy, vương triều Tufan từng thời vàng son, thịnh trị cũng tránh khỏi kết cục sụp đổ. Chỉ còn lại những mảng tường đổ nát, tiêu điều vẫn lưu giữ chút bóng dáng của năm tháng huy hoàng thuở trước.

      Bát Tư Ba vẫn chắp tay sau lưng, nhìn em trai mình, ánh mắt đầy ý:

      - Nguyên nhân là do tranh giành quyền lực trong nội bộ vương triều. Langdarma, vị tán phổ cuối cùng, ra lệnh giết hại Phật tử, tiêu diệt Phật giáo nên bị tăng nhân giết chết. Hai bà vợ của ông ta, ai cũng lăm le muốn đưa con trai mình lên ngôi nên chia phe cánh tàn sát lẫn nhau, khiến cho thực lực của vương triều ngày suy giảm và cuối cùng sụp đổ. đế quốc hùng mạnh cũng giống như bức tường kiên cố; chẳng thể trụ vững nếu bị thổi nát, mục ruỗng từ bên trong.

      Kháp Na giật mình ngẩng lên, ánh mắt cậu nhìn trai khác lạ.

      Bát Tư Ba vỗ vào bức tường thấp lè tè bên cạnh, hỏi:

      - Kháp Na, đệ biết vì sao ta lệnh cho người hầu ở lại dưới chân núi để chỉ có hai chúng ta lên đây ?

      Kháp Na chợt biến sắc mặt:

      - Ngoài việc thăm thú di tích của vương triều Tufan, hẳn đại ca còn muốn với đệ chuyện gì đó?

      - Ta muốn bàn với đệ về dự định của ta. - Nét mặt của Bát Tư Ba trở nên nghiêm trang, chàng nhìn em trai, trịnh trọng . - Ta dự định di dời giáo phái Sakya ra khỏi vùng Sakya.

      - Vì sao? - Kháp Na thốt lên kinh ngạc, lắc đầu phản đối kịch liệt. – Sở dĩ có tên gọi phái Sakya là vì kể từ khi giáo phái được sáng lập, tổ tiên chúng ta xây dựng tu viện và các trang viên vùng đất Sakya. Trải qua hơn hai trăm năm mới gây dựng được giáo phái như ngày nay. Và với nỗ lực của huynh, Sakya mới trở thành giáo phái lớn mạnh nhất đất Tạng. Nếu rời khỏi Sakya, giáo phái chúng ta sao có thể lấy tên là phái Sakya được nữa?

      - Ta hiểu những lo lắng của đệ. Ta đâu nỡ từ bỏ cơ nghiệp mà tổ tiên khổ công gây dựng từ bao đời nay. Nhưng ta buộc lòng phải toan tính cho tương lai của giáo phái. - Vẻ mặt của Bát Tư Ba nghiêm nghị đến lạnh lùng, chàng hướng mắt về phía mái vàng lung linh đỉnh ngôi đền Jokhang và khu phố Bakhor chạy quanh ngôi đền. - Trở về quê hương lần này, ngoài việc làm tròn trách nhiệm mà Đại hãn giao phó là phân chia các đại vạn hộ hầu và các cư dân Lad và Mid của đất Tạng, ta còn dự định vô cùng quan trọng khác: tính toán kĩ lưỡng, chu toàn và chọn địa điểm phù hợp để xây dựng thành trì tương lai của phái Sakya.

      - Nơi nào là tốt nhất? - Suy nghĩ lát, Kháp Na như bừng tỉnh. - Đại ca, ý huynh là Sakya ở nơi sâu xa, hẻo lánh, thuận tiện cho việc cai trị toàn bộ đất Tạng?

      - Đúng vậy! - Bát Tư Ba hân hoan, dõng dạc . - Sau bao năm vất vả, bác và ta mới đưa giáo phái của chúng ta trở thành giáo phái thủ lĩnh của đất Tạng, nhưng cả bác và ta đều muốn mưu lợi cho riêng giáo phái mình. Bước tiếp theo, ta muốn hoàn thành tâm nguyện của bác: tận dụng nguồn lực và trợ giúp của Đại hãn để chấm dứt tình trạng chia năm xẻ bảy, tiến tới thống nhất đất Tạng!

      Kháp Na hiểu ra vấn đề, hào hứng tiếp lời:

      - Nếu vậy, thành trì của phái Sakya nhất định phải nằm ở vị trí trung tâm của đất Tạng, với giao thông thuận lợi, địa hình bằng phẳng, đất đai phì nhiêu, trù phú và cư dân đông đúc.

      Bát Tư Ba gật đầu:

      - đường , ta ngừng quan sát để chọn lựa nơi hợp lý nhất.

      Kháp Na cúi nhìn những ngôi nhà san sát dưới chân núi, sông ngòi lấp lánh ánh bạc trong bóng chiều rực rỡ, những ngọn đồi phủ trắng tuyết xung quanh, rồi quay lại nhìn Bát Tư Ba:

      - Thành La-ta nằm ở nơi lòng chảo của nhiều nhánh sông lớn, tựa lưng vào núi, giáp mặt với sông, dễ phòng thủ khó tấn công, chả trách năm xưa Tùng Tán Cán Bố quyết định dời đô về đây, gây dựng nên cơ nghiệp hai trăm năm của vương triều Tufan. Có phải đại ca muốn xây dựng thành trì của phái Sakya ở La-ta ?

      - Đúng là ta có suy nghĩ đó nên mới đưa đệ đến đây bàn bạc. - Bát Tư Ba nhíu mày đăm chiêu, giọng trầm buồn. - Nhưng điều khiến ta lo lắng nhất là phái Drikung.

      Kháp Na cũng chau mày nghĩ ngợi:

      - Đúng vậy, sau khi vương triều Tufan sụp đổ, phái Drikung xây dựng thành trì vững chắc ở Modro Gongkar, giáp La-ta, các ngôi đền ở La-ta đều thuộc về phái này. Nếu phái Sakya di dời đến đây, phái Drikung có chịu nhượng bộ ? Lẽ nào chúng ta ép buộc họ bằng thánh lệnh?

      Bát Tư Ba lắc đầu cả quyết:

      - thể làm vậy! Tuy chúng ta được Đại hãn nâng đỡ nhưng ở đất Tạng này, phái Sakya vẫn chỉ là giáo phái so với các giáo phái lớn khác. Nếu chúng ta dùng quyền lực áp chế họ, chỉ gây mâu thuẫn với phái Drikung, mà các giáo phái khác ở đất Tạng cũng phản đối chúng ta. khi ta trở về Trung Đô, phái Sakya còn người bảo trợ nữa, vô cùng nguy hiểm.

      Kháp Na hiểu rằng hậu quả của quyết định đó là hết sức nghiêm trọng, cậu cúi đầu suy nghĩ hồi lâu:

      - Tuy La-ta là địa điểm lý tưởng để xây dựng thành trì nhưng chúng ta thể công khai tranh giành địa bàn với họ. Chi bằng đại ca hãy quan sát thêm nhũng nơi khác, biết đâu lại tìm được mảnh đất lý tưởng cho giáo phái của chúng ta.

      Bát Tư Ba gật đầu ảo não. Cánh tay trái vẫn giấu kín trong tay áo, giờ đưa ra sau lưng.

      em họ cùng hướng mắt về phía thành La-ta tuyết phủ đẹp mê hồn dưới bóng chiều rạng rỡ, hai cái bóng cao gầy ấy nổi bật nền đền đài, cung điện hoang phế năm xưa. Phải gồng gánh sức nặng ngàn cân của những trọng trách lớn lao nên lưng Bát Tư Ba chừng như còng xuống.

      Bốn trăm năm sau, đống đổ nát của di tích cung điện Tufan núi Hồng Sơn, xuất công trình kiến trúc vô cùng nguy nga, lộng lẫy, cũng là biểu tượng của thánh địa La-ta: cung điện Bố Đạt La.

      Chàng trai trẻ đưa ra nhận định sắc sảo:

      - Cư dân Mid và Lad có phải là khái niệm nông nô mà chúng ta thường nhắc đến?

      Tôi gật đầu:

      - Đúng vậy. Chỉ khác là cư dân Mid thuộc quyền sở hữu của các lãnh chúa, còn cư dân Lad thuộc quyền sở hữu của các tu viện. Thân phận, địa vị của họ như nhau, đời này nối tiếp đời khác đều được tự do.

      Chàng trai trẻ lắc đầu:

      - Nhưng đối với các tu viện hề như nhau. bên là nộp thuế cho tu viện, bên là nộp thuế cho địa chủ và nhà nước. Chả trách họ tranh giành khốc liệt như vậy.

      Tôi khẽ thở dài:

      - Thực ra, khi kế hoạch phân chia này được thực lợi ích của tu viện bị giảm . Vì số cư dân thuộc quyền sở hữu của họ giảm chỉ còn sáu mươi phần trăm, bốn mươi phần trăm còn lại thuộc về nhà nước.

      - Vậy chắc chắn họ phản đối đến cùng.

      Tôi cười buồn:

      - Nhưng đó là kết quả tối ưu mà Bát Tư Ba phải nỗ lực thuyết phục Hốt Tất Liệt mới giành được. Bởi vì nếu chiếu theo ý của Hốt Tất Liệt ngài muốn phần lớn cư dân đất Tạng phải nộp thuế cho mình.

      Chàng trai trẻ lắc đầu:

      - Nhưng mất quyền lợi suốt mấy trăm năm qua, chắc chắn các tu viện ở đất Tạng biết ơn Bát Tư Ba mà càng oán hận ngài.

      - Đúng vậy. Bát Tư Ba chia đất Tạng thành mười ba vạn hộ hầu, phần lớn trong số đó đều là những thế lực lâu đời ở đất Tạng, có cả tu viện lẫn lãnh chúa địa phương. Bát Tư Ba xem xét đến quyền và lợi ích hình thành trong quá trình phát triển cũng như truyền thống lịch sử của các giáo phái. Quyền lực suốt mấy trăm năm, giờ đây bị tước mất, các giáo phái sao chịu để yên? - Tôi ngừng lại, gắng gượng nuốt vào lòng dư vị đắng chát vừa trào lên, cố kiềm chế cảm xúc - Thế nhưng, phải toàn bộ mười ba vạn hộ hầu này đều ghi ơn Bát Tư Ba. Bọn họ đều nuôi tham vọng và ý đồ riêng, để rồi sau đó, phái Sakya phải trả giá bằng máu.




    3. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      CHƯƠNG 37
      Vạn hộ hầu Shalu
      Beta : thuylinhvu

      “Thể chất yếu ớt nhưng mưu trí, tài giỏi,

      Kẻ địch dẫu mạnh cũng chẳng đáng ngại;

      Mãnh hổ dẫu là chúa tể rừng xanh,

      Vẫn bị thỏ con khiến cho mất mạng.”

      (Cách ngôn Sakya)
      Rời La-ta, đoàn chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình về phía tây, vượt đèo Kampala khi mùa xuân vừa tới, bắt đầu từ đây, đường dễ chịu hơn rất nhiều. Ngay sau đó, chúng tôi được mãn nhãn bởi bữa tiệc phong cảnh thịnh soạn, khi khung cảnh đẹp nhất của chặng đường hồi hương gian nan ra trước mắt. Đó là cảnh đẹp diễm lệ của hồ thiêng Yamdrok-tso, trong ba hồ nước thiêng lớn nhất ở đất Tạng. Chúng tôi có mấy chục ngày đêm di chuyển con đường , uốn lượn mải miết ven hồ thiêng. Nước hồ lấp lánh muôn sắc, in bóng những ngọn núi tuyết thánh khiết, sừng sững, chẳng khác nào chốn bồng lai tiên cảnh, những lỗi rẽ quanh co, khúc khuỷu, hệt những chuỗi san hô bồng bềnh dưới lòng đại dương xanh bát ngát. Ngày nào tôi cũng ôm lấy cửa sổ xe ngựa, dán mắt vào khung cảnh như mơ ấy, vậy mà vẫn thấy thỏa mãn. Thế là, chiều ý tôi, buổi tối nọ, dưới bầu trời ngàn sao lấp lánh, Kháp Na ôm tôi tay, mình lẳng lặng đến bên hồ nước thiêng. Cậu ấy muốn tôi được chiêm ngưỡng bầu trời thăm thẳm, yên bình trong đêm thanh tịnh.

      - Xong chưa?

      Kháp Na ngồi xoay lưng lại, hướng mắt ra phía hồ nước, vẻ sốt ruột.

      - Xong rồi.

      Tôi hóa phép thành người, cột tóc lại bằng sợi dây màu lam, thướt tha bước ra. Tôi lại biến ra ngọn lửa trong lòng bàn tay để soi sáng cảnh vật xung quanh. Nơi đây cách lán trại của đoàn chúng tôi chừng dặm, đủ an toàn để phải lo có ai đó bắt gặp. Kháp Na quay lại. Thấy tôi mỉm cười dịu dàng dưới ảnh lửa bập bùng, cậu ấy sững sờ, ánh mắt ngẩn ngơ. Tôi tươi cười bước lại gần, trỏ tay lên bầu trời với muôn ngàn vì sao lấp lánh:

      - Người Tạng có lời ca rằng: “ trời có cảnh tiên – Dưới đất có hồ thiêng – trời có ngàn sao – Ven hồ có đàn dê.” Cậu nhìn xem, bầu trời đêm lung linh, huyền ảo thế này, hồ nước mỹ lệ, kỳ ảo thế này, tiên cảnh là đây chứ đâu.

      Ngày mai thôi, tôi rời hồ Yamdrok-tso để đến Nagarze, nghĩ vậy, lòng chợt mênh mang nỗi tiếc nuối:

      - Hồ nước thiêng tuyệt đẹp thế này, ai mà muốn lưu lại thêm vài ngày để ngắm nhìn cảnh tiên giữa chốn nhân gian kia chứ!

      Kháp Na hướng ánh nhìn về phía mặt hồ yên ả, lăn tăn gợn sóng dưới bầu trời đêm lấp lánh:

      - Nếu em thích, sau này ta đưa em quay lại đây ngắm cảnh. Vì chuyến trở về này có nhiều việc hệ trọng, chúng ta thể chậm trễ.

      - Tôi hiểu mà.

      Tôi bước ra mép hồ, vốc vốc nước, nước lạnh buốt khiến tôi rùng mình. Tôi than thở:

      - biết khi nào mới có dịp quay lại!

      - Chắc chắn có mà!

      Cậu ấy chầm chậm đến bên tôi, nhìn tôi chăm chú, ngập ngừng như thế muốn điều gì, vẻ mặt rất khó hiểu. - Kháp Na, sao thế?

      Tôi nhìn theo ánh mắt trốn tránh của cậu ấy, thấy rằng đến lúc phải giãi bày mọi chuyện:

      - Tôi nhận ra, suốt mười tháng chặng đường từ Đại Đô tới đây, cậu thường nhìn tôi rất chăm chú, vẻ mặt rất phức tạp. Tôi hiểu nổi, nhưng tôi có cảm giác hình như cậu muốn với tôi điều gì đó.

      Cậu ấy có chút bối rối, vội quay mặt . Tôi xoay gương mặt cậu ấy lại, nhìn thẳng vào mắt cậu ấy:

      - Kháp Na, vậy mà tôi vẫn tin rằng giữa hai chúng ta có gì là bí mật cả.

      Cậu ấy chừng như phải tranh đấu quyết liệt, lời chực cất lên lại bị kìm lại. Cuối cùng, cậu ấy lấy hết can đảm để hỏi khẽ:

      - Tiểu Lam à, ta… ta muốn hỏi em… Nếu ta làm chuyện gì phải với em, em có… em có tha thứ cho ta , có bỏ mặc ta ?

      Tôi giật mình, phản ứng đầu tiên của tôi là lắc đầu:

      - Sao cậu có thể làm chuyện gì phải với tôi được? bao giờ có chuyện đó!

      Khóe môi run run, bàn tay lạnh buốt của Kháp Na nắm chặt tay tôi:

      - Tiểu Lam, ta… ta… Tôi băn khoăn:

      - Lẽ nào cậu làm chuyện gì…?

      Cậu ấy sững sờ giây lát rồi lắc đầu:

      - Ta… Ý ta là… “giả như”.

      - Kháp Na, dù cậu có làm chuyện gì, tôi cũng tha thứ cho cậu. – Tôi đặt bàn tay lạnh băng của Kháp Na vào lòng bàn tay mình, khẽ . – Bởi vì cậu là người thân của tôi, câu và Lâu Cát là những người quan trọng nhất đối với tôi!

      Cậu ấy khẽ rùng mình, ngẩng lên nhìn tôi, cặp mắt sáng long lanh hơn cả vì sao bầu trời đêm. Làn gió thổi tới, nước hồ ì oạp vỗ bờ, những thanh tưởng chừng bé mà sống động trong đêm thanh vắng. Kháp Na chừng như rất xúc động, cắn chặt môi hồi lâu rồi gật đầu:

      - Tiểu Lam, em yên tâm, ta hứa với em nuốt lời. Ta nhất định giúp em thỏa nguyện.

      Cậu ấy nắm tay tôi chặt đến mức khiến tôi thấy đau mà chẳng hề hay biết. Tôi định mở lời nhưng sững sờ khi nhìn thấy ánh mắt cậu ấy. Ánh mắt đó có quyết liệt, đau thương và cả dằn vặt. Đêm đó, tôi cứ trằn trọc mãi, ngủ được khi nhớ lại ánh mắt của cậu ấy. Tôi hiểu được vì sao cậu ấy lại dằn vặt. Rốt cuộc, cậu ấy làm gì?

      Tạm biệt hồ thiêng Yamdrok-tso, chúng tôi dừng chân tại Nagarze ngày ngắn ngủi rồi lập tức lên đường, tiến về vùng Hậu Tạng. Địa điểm phân chia ranh giới giữa vùng Tiền Tạng và Hậu Tạng là Shigatse, nơi đây vốn là dải đất được bồi tụ bởi dòng sống Nyang Chu, nằm con đường huyết mạch nối giữa Tiền Tạng và Hậu Tạng. tiếp chưa đầy hai trăm dặm về phía tây, tới nơi được mệnh danh là “trang viên màu mỡ nhất”: Samdruptse. Nơi đây ngày sau trở thành thành phố lớn thứ hai ở Tây Tạng: Shigatse. Nhưng vào thời điểm này, Samdruptse vẫn chỉ là làng bản , lệ thuộc vào Vạn hộ hầu Shalu ở cách đó chừng bốn mươi dặm.

      Vạn hộ hầu Shalu vốn là danh gia vọng tộc bậc nhất ở vùng Hậu Tạng, huyết thống cao quý ai sánh bằng. Hai trăm năm trước, vị vua cuối cùng của vương triều Tufan là Langdarma hạ lệnh tiêu diệt đạo Phật, bị tăng nhân sát hại. Hai bà phi của ngài tìm cách đưa con trai mình lên ngôi, ngần ngại chia phe cánh tàn sát lẫn nhau, dẫn đến vương triều diệt vong. Nhưng huyết thống của Songtsan Gampo vẫn được lưu truyền đến hậu thế. Tuy hai con trai của vua Langdarma chết trong cuộc nội chiến nhưng cháu nội của ông ta vẫn tiếp tục duy trì huyết thống của dòng tộc. trong số hai người con trai của người cháu này trở thành quốc vương của vương quốc Guge lừng danh. Người còn lại chính là tổ tiên của Vạn hộ hầu Shalu.

      Tuy vương triều Tufan sụp đổ nhưng con cháu của bậc tán phổ vẫn được nể trọng hết mực. Vào thời Bắc Tống, gia tộc này có tăng nhân tên gọi Gendun Drup, ông cho xây dựng ngôi đền Shalu mảnh đất Chundui ở phía đông nam Samdruptse. Kể từ đó, gia tộc này tự xưng mình thuộc dòng họ Shalu. Bởi vậy, trước khi người Mông Cổ xuất ở đất Tạng gia tộc này nhiều đời là vạn hộ hầu và là gia tộc lớn nhất vùng Hậu Tạng.

      Lúc này, người đứng đầu Shalu là Jichoi. Bát Tư Ba vừa tới La-ta, ông ta cử người đến chào mừng, thăm hỏi. Shalu cách Sakya chừng hai trăm dặm, để đến được Sakya tất phải ngang qua nơi này. Vạn hộ hầu Shalu chuẩn bị tươm tất mọi thứ, chỉ chờ Bát Tư Ba ghé thăm. So với vùng Tiền Tạng Hậu Tạng là vùng địa hình núi cao, dốc đứng, dân cư thưa thớt, đất đai cằn cỗi, chỉ có khu vực từ Gyantse đến Samdruptse là lũng sông bằng phẳng, rộng lớn. Phần lớn của cải của vùng Hậu Tạng đều rơi vào khu vực này. Vạn hộ hầu Shalu chính là chủ nhân kho của ấy.

      Vừa đặt chân đến vùng lũng sông bằng phẳng ấy, Bát Tư Ba bồi hồi xúc động khi nhìn ngắm những cánh đồng thanh khoa xanh tốt, bát ngát dưới nắng xuân rực rỡ. Chàng với em trai:

      - Nơi đây quả là miền đất hứa, đất đai phì nhiêu, màu mỡ, giao thông thuận tiện.

      Kháp Na lập tức thấu hiểu tâm của trai:

      - Đại ca cho rằng nơi đây rất thích hợp để chúng ta xây dựng thành trì mới cho giáo phái?

      Bát Tư Ba gật đầu, mỉm cười:

      - Nơi đây rộng khoảng bảy, tám trăm dặm, ngoài đền Shalu của Vạn hộ hầu Shalu, còn giáo phái lớn nào khác. Có thể đây chính là vùng đất thích hợp nhất.

      Kháp Na vẫn băn khoăn, lo lắng:

      - Chính vì Vạn hộ hầu Shalu là chủ nhân cai quản vùng đất này hàng trăm năm qua nên ở đây mới tồn tại của các giáo phái lớn khác. Nếu phái Sakya di dời đến đây, chỉ e gây xung đột lợi ích với họ.

      Bát Tư Ba bình thản đáp:

      - Khi ta vừa tới La-ta, Jichoi cho người mang thư đến, khẩn khoản mời ta ghé thăm trang viên Shalu của ông ta vài ngày trước khi về Sakya. Ông ta muốn tạo dựng mối quan hệ với chúng ta, ta cũng muốn nhân dịp này, dò xem ý tứ của ông ta ra sao.

      Đúng như Bát Tư Ba dự đoán, Vạn hộ hầu Shalu quả nhiên có ý gây dựng quan hệ. Ông ta tiếp đón Bát Tư Ba vô cùng long trọng. đường trở về Sakya, hầu như chúng tôi đều trú ngụ trong các ngôi đền. Nhưng Jichoi khác, ông ta mời chúng tôi tới đền Shalu mà rước chúng tôi về trang viên rộng lớn như mê cung của ông ta, vì lúc này, đền Shalu vẫn chỉ là ngôi đền .

      Trang viên Shalu tọa lạc ở lưng chừng núi, dưới chân núi là những mái nhà lụp xụp của các gia đình nông nô sống lệ thuộc vào trang viên này. Trang viên được xây cất bằng đá, vô cùng kiên cố. Xung quan các ô cửa sổ, người ta quét sơn đen. Phía cửa ra vào, người ta ghép và trát rất kỳ công dãy dài các phiến đá, làm thành mái che, bên phủ tấm vải màu đen trắng kết hợp, tượng trưng cho may mắn. Cả trang viên giống hệt thành lũy vững chắc, được bảo vệ bởi tường bao dày dặn, đồ sộ.

      Buổi tối, Jichoi và con trai Selangqe bày tiệc rượu tẩy trần cho em Bát Tư Ba. Jichoi chừng bốn mươi tuổi, có bộ ria mép được chăm sóc kĩ lưỡng, tóc dài tết thành lọn, vấn gọn đỉnh đầu, chụp chiếc mũ màu trắng hình bát úp, phía vành tai trái treo lủng lẳng sợi dây dài xâu đủ loại châu ngọc. Nhìn thoáng qua cũng đủ biết ông ta là quý tộc tầm cỡ, cao sang, quyền quý.

      Jichoi mở yến tiệc linh đình, bố trí đủ món sơn hào hải vị, có cả màn ca múa tưng bừng. Ông ta ra mặt lấy lòng em Bát Tư Ba, những lời chúc tụng, bợ đỡ tuôn như suối. Đôi bên chủ khách đều được dịp tận hứng.

      Tôi cải trang thành người hầu đứng sau lưng Kháp Na. Đúng lúc tôi chán ngấy với những lời nịnh bợ vô nghĩa và sắp buồn ngủ chợt thấy thập thò ngoài cửa. chừng hai mươi tuổi, cố đeo chuỗi hạt đá ngọc và mã não rất to, khoác mình lụa là, gấm vóc lấp lánh, thế nhưng đầu lại có bất cứ thứ trang sức gì, tóc tai rối tung, bù xù. xinh xắn, đáng nhưng khóe môi lại trưng ra vẻ ngây ngô, dại khờ tương xứng với tuổi tác. Đôi mắt to tròn nhưng ngơ ngác, vô hồn, chẳng có lấy nét sống động, linh hoạt. có làn da trắng bóc, hệt như giấy trong suốt, tuy nước da ấy rất hiếm gặp ở người Tạng nhưng lại là màu trắng yếu ớt, tái dại.

      Nhác thấy , Jichoi khẽ chau mày, thào căn dặn con trai.

      Selangqe lập tức đứng lên, bước ra phía cửa, khẽ dỗ dành :

      - Kangtsoban, hôm nay nhà ta có khách quý đến thăm, muội đừng gây chuyện nhé! Để ta đưa muội chơi trốn tìm.

      Kangtsoban ngờ nghệch gật đầu, nhưng khi Selangqe định kéo ấy Kangtsoban chợt trỏ tay vào Kháp Na ngồi trong phòng khách, lắp bắp:

      - Người đó… đẹp… Ta muốn.

      Selangqe phì cười, kéo Kangtsoban ra ngoài, ậm ừ cho qua chuyện:

      - Được được được, nếu muội ngoan ngoãn về phòng ngủ sáng sớm mai, cậu ấy là của muội.

      Bị Selangqe cầm tay lôi , Langtsoban vẫn ngoái đầu nhìn về phía Kháp Na, nở nụ cười ngờ nghệch, vỗ vai Selangqe:

      - Ta muốn , ta muốn !

      Đoạn đối thoại này chỉ có tôi nghe thấy, cả Bát Tư Ba và Kháp Na đều hay biết, cũng thấy gương mặt của . Khi ấy, tôi chỉ cảm thấy buồn cười, vì ngờ rằng Vạn hộ hầu Shalu – hậu duệ của vương triều Tufan quyền quý – lại sinh ra con ngớ ngẩn như vậy. Tôi đâu biết rằng, cái liếc nhìn vô cớ của ấy là khởi nguồn cho cơn ác mộng tiếp theo của cuộc đời Kháp Na.

      Hôm sau, nhận lời mời của Jichoi, Bát Tư Ba đến đền Shalu lễ Phật. Kháp Na ở lại, tham quan trang viên Shalu cùng hướng dẫn viên rất mực ân cần, chu đáo: Selangqe. Tôi vẫn đóng vai người hầu, theo Kháp Na. Chúng tôi qua hết gian nhà này đến chái nhà khác, tầng tầng lớp lớp, vừa bước vào khu vườn trồng bạt ngàn hoa cánh bướm ăn vận lộng lẫy bỗng từ đâu lao tới, kéo tay áo Selangqe, gào khóc thảm thiết. Tôi lập tức nhận ra, đó là con mắc bệnh ngớ ngẩn của Jichoi mà tôi thấy tối qua: Kangtsoban.

      Selangqe vội vàng gọi người hầu đưa tiểu thư về phòng. Nhưng Kangtsoban chịu, nằng nặc gào khóc: - Đồ trai tồi! Huynh hứa sáng nay tặng cho ta kia mà!

      Kháp Na đứng ngay bên cạnh nên Selangqe rất xấu hổ cố thoát khỏi bàn tay của em:

      - Sao muội nhớ dai thế? Ta chỉ đùa thôi mà, muội đừng làm ồn nữa, người ta là vương gia được đích thân Đại hãn phong tước, đâu phải cứ muốn là được!

      Bị mấy thị nữ giữ lại, Kangtsoban vẫn cố vùng vẫy. Trong lúc giằng co, giày của bị tuột, đầu tóc rối bù, dáng vẻ khổ sở. Selangqe bị em làm cho áo quần xộc xệch, vội xin lỗi khách:

      - Xin Bạch Lan Vương thứ lỗi, em tôi chỉ lỡ lời thôi, hề có ý bất kính với ngài.

      Kháp Na tò mò hỏi:

      - Đó là…

      - Là em Kangtsoban của tôi. – Selangqe lắc đầu thở dài, giọng chất chứa muộn phiền. – Nó là nỗi bất hạnh của gia tộc chúng tôi. Cha tôi chỉ có mình nó là con nên từ cưng nựng nó như bảo bối. Em tôi vốn lanh lợi, hoạt bát, dễ thương, nhưng năm mười hai tuổi, suýt nữa mất mạng sau trận sốt cao kéo dài hơn mười ngày liền. Cha tôi mời những thầy thuốc tốt nhất về chữa trị cho nó, tuy giữ được mạng nhưng kể từ đó, em tôi thành ra như vậy. Năm nay nó hai mươi hai tuổi. Nếu như những bình thường khác, có lẽ nó sinh vài đứa con rồi. Cha tôi lo lắng con bị nhà chồng bạc đãi nên mặc dù ít kẻ vì ham hố địa vị và tiền của của gia đình chúng tôi, đến ngỏ lời xin cưới em tôi, cha tôi đều từ chối. Ông chỉ muốn nó được sống yên ổn trong nhà tôi.

      Kangtsoban để mặc mấy người hầu lôi xềnh xệch, áo quần quệt dưới đất, nhàu nát. Kháp Na thấy thương tình, gật đầu với Selangqe:

      - Em huynh đáng thương, để ta thử xem sao.

      Kháp Na bước về phía Langtsoban lúc này vẫn kêu gào ầm ĩ, ngồi xuống trước mặt ấy, nhàng hỏi:

      - Tiểu thư muốn ta làm gì nào?

      Kangtsoban ngây ra nhìn Kháp Na lát rồi đột nhiên giơ chân lên, chỉ vào chiếc giày rơi dưới đất:

      - Giày của ta!

      Selangqe giật mình thảng thốt, Kháp Na vui vẻ nhặt chiếc giày lên:

      - Để ta giúp tiểu thư!

      Kangtsoban nín khóc, ngoan ngoãn ngồi xuống để Kháp Na xỏ giày cho mình. Nụ cười rạng rỡ của che nét ngây dại lúc đầu, làm gương mặt vốn rất xinh đẹp, đáng sáng bừng. Dáng vẻ ngoan ngoãn, dễ thương ấy khỏi khiến người ta phải động lòng, nuối tiếc, nếu có trận ốm ấy, hẳn Kangtsoban tiểu thư kiều, duyên dáng.

      Bát Tư Ba và Jichoi đứng ngoài cửa chứng kiến toàn bộ việc. Jichoi kéo tay áo chấm nước mắt, gương mặt già nua, tội nghiệp:

      Đây là lần đầu tiên Kangtsoban chủ động gần gũi với người lạ. ngờ Bạch Lan Vương lại khiêm nhường, tốt bụng như vậy! Đây quả là mối lương duyên trời Phật ban tặng!

      Tôi nhìn thấy rất , Bát Tư Ba khẽ chau mày khi nghe câu của Jichoi rồi chàng hướng mắt về phía Kháp Na ân cần xỏ giày cho Kangtsoban, vẻ mặt chẳng lấy gì làm vui. Sau đó, suốt cả ngày, Kangtsoban cứ bám riết lấy Kháp Na. Cậu ấy đâu, nàng bám theo đó, cứ bật cười ngờ nghệch, chịu rời, cũng hề cảm thấy xấu hổ, thẹn thùng như những bình thường khác. Nếu ai đó định kéo cậu ấy , nàng lập tức gào khóc, giãy giụa, kêu la inh ỏi khiến Kháp Na cũng cảm thấy phiền toái và mệt mỏi. Cuối cùng, tôi phải hóa phép khiến nàng tự nhiên buồn ngủ để Kháp Na được yên thân.

      lo lắng của Bát Tư Ba quả nhiên ứng nghiệm ngay buổi tối hôm đó. Jichoi đến gặp chàng, ấp úng mãi mới bày tỏ nguyện vọng muốn hai gia đình kết thành thông gia, cùng nhau phát triển. Ông ta hứa chắc như đinh đóng cột trước mặt Kháp Na rằng, chỉ cần cậu ấy đối xử tốt với Kangtsoban, ông ta phản đối cậu ấy cưới thêm vợ. Kháp Na cúi đầu lặng lẽ. Bát Tư Ba từ chối thẳng thắn: - phải chê trách gì tiểu thư nhà ngài, mà vì em trai ta có người thương, nó muốn cưới nào khác ngoài đó.

      Kháp Na giật mình, ngẩng lên nhìn Bát Tư Ba, vẻ mặt vừa kinh ngạc vừa lo lắng. Lúc ấy, tôi vẫn đóng vai người hầu, thấy tim mình bỗng đập nhanh dữ dội, vội đưa mắt nhìn Kháp Na. Vừa chạm phải ánh mắt tôi, cậu ấy lập tức quay mặt , vờ rót nước nhưng nước tràn ra khỏi cốc, chảy lênh láng mặt bàn mà cậu ấy hay biết. Chỉ có Bát Tư Ba vẫn bình thản, tiếp chuyện và tiễn Jichoi ra về.

      Sau khi Jichoi ra về với bộ mặt đưa đám, Kháp Na cười buồn, hỏi trai:

      - Đại Ca vẫn luôn mong mỏi phái Sakya có thể di dời đến đây kia mà? Nếu đệ cưới Kangtsoban, chắc chắn Jichoi đồng ý cho chúng ta xây dựng thành trì tại lũng sông Nyang Chu.

      Bát Tư Ba nhìn em trai bằng ánh mắt xót thương:

      - Kháp Na, đệ hy sinh quá nhiều cho giáo phái. Ta muốn đệ phải đánh đổi hạnh phúc của mình thêm lần nữa.

      Kháp Na xúc động:

      - Nhưng phái Sakya là tâm huyết cả đời của huynh…

      Bát Tư Ba nghiêm nghị ngắt lời em trai:

      - Ta thuyết phục Jichoi. Nhưng nếu vì đệ từ chối cưới con ông ta mà ông ta chấp thuận đề nghị của ta, ta tìm cách khác.

      Chàng nhìn em trai, ánh mắt lấp lánh:

      - Kháp Na, nếu như biết tâm tư của đệ, có thể ta suy nghĩ thêm về cuộc hôn nhân này. Nhưng bây giờ… Đệ còn trẻ, ta muốn được thấy đệ chung sống hạnh phúc bên người con đệ thương đến đầu bạc răng long, sinh con đẻ cái, gia đình yên ấm.

      Kháp Na sững sờ, khuôn ngực phập phồng, ngón tay bấu chặt lấy ghế. lúc lâu sau, cậu ấy mới nhắm mắt lại, khẽ:

      - Đại ca, đệ chẳng có tâm tư gì cả, cũng thương ai, huynh hiểu lầm rồi!

      - Nhưng…

      Kháp Na vội ngắt lời trai:

      - Đại ca, chỉ cần có lợi cho huynh, có ích cho giáo phái, đệ cưới ai cũng được!

      Bát Tư Ba liếc nhìn tôi, trả lời dứt khoát:

      - Kháp Na, ta đồng ý để đệ cưới ngớ ngẩn!

      Kháp Na ngửa đầu cười lớn, tiếng cười thê lương, chua chát:

      - Như thế chẳng phải càng tốt hơn sao? Đệ bằng lòng cưới ấy vì chí ít, ấy gây ra những chuyện động trời như Mukaton và Dankhag.

      Bát Tư Ba đột nhiên cao giọng, nghiêm khắc:

      - Kháp Na, đừng nhắc đến chuyện này nữa! Ta quyết đồng ý!

      Tối hôm đó, cả ba chúng tôi tiếp tục rơi vào trạng thái trằn trọc yên. Tâm trạng của tôi vô cùng nặng nề. Dường như tôi hiểu ra phần nào, nhưng tôi muốn tiếp tục truy xét nữa. Trong dòng suy nghĩ mông lung, hỗn loạn của tôi, gương mặt của Kháp Na và Bát Tư Ba cứ , đan cài trước mắt. Sau đó, tôi hiểu nổi trái tim mình nữa.

      ***

      Chàng trai trẻ nhấp ngụm trà bơ, khoanh chân lại:

      - Tôi nhớ là trong lịch sử Tây Tạng, giai đoạn này được gọi là chính quyền Sakya, hay triều đại Sakya. Lần đầu tiên trong lịch sử Tây Tạng, phái Sakya thiết lập chính quyền với mô hình kết hợp giữa chính trị và tôn giáo. Ngày sau, phái Gelug cũng học theo họ.

      Tôi gật đầu:

      - Chính xác. Nhưng việc thiết lập chính quyền như thế phải được chấp thuận của chính quyền trung ương. Cậu xem xét quyền hạn của phái Sakya ở đất Tạng .

      Tôi bấm ngón tay, bắt đầu phân tích:

      - Thứ nhất, căn cứ theo tước phong của hoàng đế triều Nguyên, phái Sakya là giáo phái thủ lĩnh ở Tây Tạng, có quyền cai quản toàn bộ tu viện, tăng nhân và cư dân Lad của tất cả các giáo phái ở đất Tạng. Pháp chỉ do đế sư ban bố và chiếu chỉ của hoàng đế được ban hành và áp dụng động thời tại Tây Tạng.

      Chàng trai trẻ bổ sung câu đầy vẻ hiểu biết:

      - Làm vậy để đề phòng trường hợp người Tạng chỉ biết đến Sakya mà biết chính quyền trung ương là gì.

      Hai là, quản lý cơ cấu hành chính ở Tây Tạng theo mệnh lệnh của hoàng đế triều Nguyên. Ví dụ như việc phân chia vạn hộ hầu, thiên hộ hầu, việc quản lý cư dân Mid, trưng thu thuế khóa, ban thưởng nông nô và trang viên cho những người có công, có quyền trừng phạt những quý tộc và tu viện chống lại triều Nguyên và chính quyền Sakya, thu hồi nông nô và trang viên có họ, v.v… Ngoài ra, đế sư có quyền tiến cử để hoàng đế phong tước cho các quan chức và vạn hộ hầu ở Tây Tạng. Chức quan thấp hơn thiên hộ hầu do đế sư trực tiếp sắc phong.

      Chàng trai trẻ khẽ thở dài:

      Đó đều là thực quyền! Có thể phái Sakya trở mình chỉ trong chớp mắt, bước lên mây!

      Tôi vội giải thích:

      - Nhưng cả đời Bát Tư Ba chưa bao giờ hạ lệnh tước đoạt trang viên và nông nô của ai.

      Chàng trai trẻ lập tức tiếp lời:

      - Nhưng còn những người khác ở Sakya sao? Thời gian Bát Tư Ba lưu lại đất Tạng rất ngắn ngủi, khi ngài tới Trung nguyên, chắc chắn phải có người thay ngài lãnh đạo giáo phái chứ? Quyền lực to lớn như vậy, ai mà thèm thuồng cho được!

      Tôi biết phải phản bác ra sao, đành cúi đầu, lẳng lặng uống trà.


    4. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      CHƯƠNG 38
      Cố hương

      Beta: Phong Tiêu

      “Người đức độ, nhân ái sống chan hòa với mọi người;

      Động vật cùng loài, sống gắn kết thành bầy đồng cỏ.”

      (Cách ngôn Sakya)
      Khi chúng tôi rời khỏi trang viên Shalu, Kangtsoban gào khóc dữ dội, kiên quyết cho Kháp Na lên xe ngựa. Chủ nhà phải nhờ đến mấy tỳ nữ lực lưỡng mới có thể chế được nàng. Jichoi sa sầm mặt mày, từ biệt qua quýt với hai em Bát Tư Ba. Xem ra, với lợi thế huyết thống cao quý, gia đình giàu có, sung túc, Vạn hộ hầu Shalu rất tự tin về cuộc hôn nhân này. Nếu tin tức truyền ra ngoài, chắc chắn bàn dân thiên hạ khỏi kinh ngạc khi Bát Tư Ba khước từ thẳng thừng cuộc hôn nhân có lợi nhường ấy.

      Chúng tôi lên đường. Bát Tư Ba, Kháp Na và tôi bắt đầu rơi vào trạng thái khó xử chưa từng thấy. Bấy lâu nay, khi phép thuật ngày cao, tôi rất thích hóa thành người, kể cả phải cải trang thành người hầu cũng sao. Nhưng hôm nay, tôi chẳng buồn hóa phép nữa, lẳng lặng làm tiểu hồ ly kiệm lời. Kháp Na và Bát Tư Ba cũng ai bảo ai, đều lặng lẽ, ít .

      Tháng 5 năm 1265, sau hành trình năm tròn gian khổ, cuối cùng, hai em Bát Tư Ba cũng trở về quê hương Sakya mà họ cách biệt hai mươi mốt năm. Tên gọi Sakya hàm chứa rất nhiều ý nghĩa: là địa danh, tên ngôi đền, thậm chí là tên gọi của cả gia tộc. Cái tên Sakya đè nặng đôi vai gầy guộc của cả hai em nhiều năm qua, vậy mà họ lại chẳng có chút ấn tượng nào về hình thù của cố hương.

      Sau năm ròng vượt đèo vượt núi, rốt cuộc tôi hiểu vì sao Bát Tư Ba muốn dời thành trì của giáo phái.

      Ngôi đền Sakya tọa lạc khu đồi phía nam của dãy núi Benbo, nằm bên bờ Bắc sông Trum-chu, xung quanh chỉ toàn núi cao, đồi trọc, đá sỏi cằn cỗi. Xấy đền núi vốn là kiến trúc truyền thống của Tấy Tạng, đảm bảo độ an toàn, đề phòng bị tấn công. Ngôi đền nằm độ cao bốn nghìn ba trăm mét so với mực nước biển, khí hậu giá buốt, cấy cỏ thưa thớt Thảng hoặc các lũng sông, người dân nơi đấy có thể trồng lúa mì thanh khoa và rau cải, điều kiện địa lý của vùng đất này có thể là kém nhất ở đất Tạng. Nếu trong gia tộc Sakya xuất đại sư Ban Trí Đạt và Bát Tư Ba khó có thể thoát khỏi nghèo nàn để sánh ngang với các giáo phái lớn khác, càng thể trở thành giáo phái thủ lĩnh của cả đất Tạng.

      Ngôi đền là toàn bộ thành trì của giáo phái Sakya quanh ngôi đền chỉ có vài hộ dân thưa thớt. kết hợp của ba màu: đỏ, trắng và xanh vốn là nét đặc trưng của phái Sakya xuất và nổi bật ở mọi nơi. Thứ màu sắc rực rỡ bắt mắt ấy từ xa có thể quan sát rất dễ dàng. Những năm qua, Bát Tư Ba ngừng chuyển toàn bộ số bổng lộc có được do triều đình và quý tộc Mông Cổ ban thưởng về Sakya và lệnh cho bản khâm Shakya Zangpo tu sửa ngôi đền sao cho khang trang. Thế nên, ngôi đền bé trước kia, sau khi nhận được nguồn tài trợ dồi dào từ Bát Tư Ba, ngày mở rộng, trở thành quẩn thể kiến trúc tráng lệ trải dài khắp vạt núi.

      Người của giáo phái tề tựu đông đúc về đấy, đứng chen chân khắp con đường dẫn từ núi Benbo về ngôi đền. Mười mấy chiếc kèn dài Dungchen và kèn ốc loa rền vang, chấn động cả vùng núi. Xe ngựa của Bát Tư Ba và Kháp Na được trang trí những dòng cờ phướn và hoa cánh bướm sặc sỡ. Hàng ngũ nghênh đón đứng chờ từ rất sớm. Xe ngựa chầm chậm tiến sát chân núi, đám đông dân chúng hai bên đường hò reo phấn khích khi Bát Tư Ba và Kháp Na vẫy tay chào họ.

      Xe ngựa thể tiếp vì núi cao dốc đứng, Bát Tư Ba và Kháp Na bèn xuống ngựa. Hôm nay, họ ăn vận rất mực trang trọng. Hai em ngước nhìn những bức tường kiên cố và những dãy nhà khang trang của ngôi đền bằng ánh mắt đầy háo hức. Quê hương ở ngay trước mắt họ. Hai người ngước nhìn đền đài, lầu các cao, khỏi xúc động.

      Bản khâm Shakya Zangpo bước đến, dâng khăn lụa Ha đa cho Bát Tư Ba. phụ nữ chừng ba mươi tuổi, môi thắm má hồng bước tới trao khăn lụa cho Kháp Na. Khi cậu còn băn khoăn, nhìn người phụ nữ chăm chú ấy chừng như kìm nổi, nắm chặt tay Kháp Na:

      - Kháp Na, em trai út của ta, ta là chị cả Zhuoma của đệ.

      ra đó là em chỉ kém Bát Tư Ba vài tháng tuổi, là con của dì ba. Bát Tư Ba và Kháp Na vội vàng đáp lễ, Zhuoma tươi cười đưa hai người giới thiệu vói họ hàng, bè bạn. Ba trong số năm người vợ của cha họ qua đời, chỉ còn lại dì ba và dì năm. Dì ba là mẹ đẻ của Zhuoma, còn dì năm sinh ra Yeshe. Còn có cả vợ chồng chị hai, vợ chồng chị ba, vợ chồng chị tư và hàng đàn các cháu trai cháu . Chỉ riêng việc nhớ tên từng người thôi cũng đủ hoa mắt chóng mặt.

      Kháp Na đưa mắt nhìn hết lượt đám đông họ hàng thân thích, hỏi Zhuoma:

      - rể đâu rồi chị?

      Nào ngờ Zhuoma nước mắt ngắn dài, buồn bã cúi đầu:

      - Chàng mắc bệnh và qua đời mấy năm trước rồi.

      Biết mình lỡ lời, Kháp Na vội xin lỗi.

      - sao! Hai người trở về từ đất Hán, còn đem theo bao nhiêu tráng sĩ thế này, chọn cho Zhuoma người để nó đầu gối tay ấp nửa đời còn lại là được mà!

      Giọng khàn khàn của phụ nữ cất lên. ra đó là dì năm. Bà ta chưa đến năm mươi tuổi, ngọc ngà, châu báu ngồn ngộn khắp người, chạc "ba châu" đỉnh đầu trĩu nặng, chỉ chực rơi xuống đất. Bà ta gầy gò, thó, làn da nhăn nheo nhưng gương mặt trang điểm kĩ càng vẫn giữ được nét xinh đẹp khi xưa.

      Kháp Na chẳng buồn để ý đến bà ta. Cậu quay đầu, theo Bát Tư Ba lên núi. Hai em họ bao giờ tha thứ cho bà ta. Dì năm tuy xấu hổ nhưng dám bỏ trước mặt mọi người. Tiếng cười rúc rích lan trong đám đông, bà ta uất hận, vần vò chiếc khăn tay, như thể muốn vắt nó ra nước.

      Núi cao, bậc dựng đứng, Kháp Na thở phì phò, trống ngực đập thình thịch. Bước vào gian chính điện, tôi thấy ở giữa đặt bức tượng Bồ Tát Văn Thù mạ vàng rất lớn bên đặt tượng thờ vị pháp vương đời thứ nhất Kunga Nyingpo và đời thứ hai Sonam Tsemo, bên đặt tượng thờ pháp vương đời thứ ba Dragpa Gyaltsen và đời thứ tư Ban Trí Đạt. Bốn vị pháp vương đầu đội mũ đỏ, thân khoác lễ phục; tay kết hình pháp ấn. Hai em Bát Tư Ba vái lạy thành khẩn, dâng lên bảy bát nước thánh mang về từ hồ thiêng Yamdrok-tso và tự tay thay đèn dầu cho bàn thờ Phật.

      Nghỉ ngơi được lát, Bát Tư Ba liền thúc giục Shakya Zangpo đưa chúng tôi tham quan ngôi đền. Dù sắc mặt còn hơi nhợt nhạt vì mất sức, Kháp Na vẫn kiên trì cùng. Chúng tôi đến từng Labrang(1) vái lạy Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Bồ Tát Kim Cương Thủ. Sau đó, Shakya Zangpo đưa hai em họ đến khu nhà vắng vẻ. Thiết kế phòng ốc hoàn toàn giống các Phật điện, vẻ xinh xắn, trang nhã khiến cho khu nhà khác biệt hoàn toàn khi đứng cạnh các gian thờ Phật.

      (1)   Lanbrang trong tiếng Tạng có nghĩa là Phật điện.

      Tiếng cửa gỗ bật mở ken két, bụi bay mù mịt. Giữa phòng đặt bức tượng Bồ Tát nho , hai bên là những hố tròn, bên xếp những tấm đệm trải cũ mèm, nhàu nát. tường vốn có những bức bích họa được điêu khắc tinh xảo nhưng vì bụi phủ lâu nên sắc màu phai nhạt, thậm chí đôi chỗ còn bị tróc lở. Chậu than lớn nguội ngắt nền đất, xỉ than và khói bụi trộn lẫn, như minh chứng của tháng năm dằng dặc.

      Bát Tư Ba đưa mắt nhìn quanh rồi bất chợt run rẩy:

      -Đấy là...

      Giọng già nua của Shakya Zangpo cất lên:

      - Pháp vương có thể vẫn nhớ, Bạch Lan Vương có lẽ là . Đấy chính là nơi ở của mẫu thân hai vị. Hai em ngài đều ra đời ở đấy.

      Kháp Na giật mình nhìn trai. Bát Tư Ba, mắt ngấn nước, gật đầu với em trai. Kháp Na bồi hồi bước về phía buồng ngủ, đẩy cánh cửa, đồ vật đầu tiên xuất trước mắt cậu là những đồ chơi của trẻ : chiếc nôi dành cho trẻ sơ sinh, thùng gỗ tập đứng, ngựa gỗ, ghế xích đu, xe đồ chơi... Shakya Zangpo mở rộng cửa sổ để ánh nắng rực rỡ ùa vào căn phòng, chùm sáng nhảy múa những đồ dùng dành cho con nít phủ bụi thời gian, khiêến cho chúng càng trở nên hư ảo.

      Bát Tư Ba lại gần con ngựa gỗ, khẽ đung đưa, làm dậy lên cơn sóng bụi. Chàng khẽ :

      - Kháp Na à, ta còn nhớ năm đệ ba tuổi, ta thường cho đệ cưỡi con ngựa gỗ này. Khi ấy, đệ cười giòn tan, gương mặt ngây thơ, rất đỗi đáng . Mẹ ngồi bên cạnh, vừa xâu chuỗi hạt vừa mỉm cười nhìn hai em nô đùa. Ta bao giờ quên khoảng thời gian hạnh phúc, ngọt ngào ấy.

      Kháp Na quay đầu lại hỏi Shakya Zangpo:

      - Lúc đại ca ra đời sao?

      Shakya Zangpo đến bên cạnh Bát Tư Ba, nhìn chàng với ánh mắt hiền từ, nhân hậu:

      - Tôi còn nhớ, pháp vương là con đầu, lại là con trai nên khi ấy, đại sư Ban Trí Đạt và cha hai người mừng đến nổi cả đêm ngủ, cứ ngồi lặng lẽ bên cạnh, ngắm nhìn ngài, chẳng nỡ rời mắt, miệng ngừng thốt lên: "Sakya có người nối dõi rồi!" Khi ấy, cha ngài ngoài năm mươi, đối với cha ngài riêng, với giáo phái chung, việc sinh con nối dõi là vô cùng quan trọng. Chẳng ngờ sau đó, cha ngài lại có thêm ngần ấy người con. Có điều, pháp vương từ thông minh, sáng láng nên được cha rất mực thương . Chỉ tiếc rằng sau đó, cha ngài ..

      Đại sư Shakya Zangpo năm nay ngoài sáu mươi, chuyện đau lòng năm xưa khiến ngài ủ dột lắc đầu, gương mặt già nua, buồn thương khắc khoải:

      - Sau đó, mẫu thân của hai người cũng qua đời. Đại sư Ban Trí Đạt vô cùng đau lòng, lại thương hai người trẻ dại, côi cút, đưa cả hai về nơi ở của mình để tiện chăm sóc, bảo vệ. Trước khi hai người ăn bất cứ món gì, cũng phải có người nếm thử, người lạ nào được phép lại gần. Khi đại sư chuẩn bị lên đường Lương Châu, hai người còn rất , đại sư vốn định đưa hai người cùng vì chặng đường quá gian nan, hiểm trở. Nhưng ngài lại chẳng yên lòng nếu để hai người ở lại, sau khi suy xét cặn kẽ mọi bề, ngài hạ quyết tâm lớn. Khi ra , đại sư biết rằng mình chẳng thể quay lại quê hương được nữa. Ngay cả hai người cũng phải mất hai mươi mốt năm mới hồi hương.

      Nhắc lại chuyện xưa, hai em khỏi xúc động, nước mắt lưng tròng. Kháp Na lại gần chiếc nôi của trẻ sơ sinh, âu yếm vuốt ve:

      - Đại ca, xin hãy cho người tu sửa lại căn phòng, đệ muốn ở lại nơi này.

      Ngài Shakya Zangpo vội can ngăn:

      - Nơi đây lâu ai ở, phòng ốc cũ nát. Chúng tôi sắp xếp nơi ở tốt nhất cho Vương gia.

      - Ta cần nhà cao cửa rộng, cơm ngon áo đẹp, ta muốn ở đây, vì ta muốn được gần mẹ ta.

      Kháp Na nhìn đăm đăm lòng bàn tay đầy bụi cùa mình, thở dài:

      - Ta còn nhớ chút gì về hình dáng của mẹ.

      Bát Tư Ba quay lại, nhàng với ngài Shakya Zangpo:

      - Xin đại sư hãy chiều theo ý muốn của Kháp Na.

      Sau khi nhận lệnh, Shakya Zangpo lập tức tập trung nhân lực, tiến hành trùng tu phòng ốc. Bát Tư Ba bận bịu vói công việc chính , còn Kháp Na cả ngày cùng đám thợ thu dọn căn phòng. Cậu muốn vứt bỏ bất cứ vật dụng gì, kỳ công lau dọn sạch rồi đặt vào chỗ cũ. Dưới giám sát và đốc thúc của Shakya Zangpo, công việc trùng tu nơi ở của Kháp Na được tiến hành nhanh chóng, chưa đầy tháng biến thành khu nhà tươm tất. Từ đó về sau, Kháp Na quyết định sống trong căn phòng năm xưa của mẹ cậu. Là người ham mê đọc sách, cậu đặt cho khu nhà của mình cái tên rất nho nhã: Lang Như Thư Lầu(2).

      (2)   Có nghĩa là nhà sách Lang Như. Lang Như vốn là tên ngôi đình nổi tiếng trong Di Hòa Viên, ở Bắc Kinh, Trung Quốc.

      Khi Kháp Na dồn toàn bộ tâm trí vào công cuộc trùng tu Lang Như Thư Lầu cũng là lúc Bát Tư Ba bận tối tăm mặt mũi. Chàng muốn xây dựng chính quyền thống nhất đất Tạng: chính quyền Sakya, điều mà kể từ khi vương triều Tufan sụp đổ đến nay, chưa từng xuất đất Tạng. Việc làm cần thiết đầu tiên mà chính quyền mới này phải thực đó là: phân chia vạn hộ hầu của đất Tạng. Lẽ dĩ nhiên, các giáo phái lớn và các đại lãnh chúa phải là trong số các vạn hộ hầu, nhưng bên cạnh đó, Bát Tư Ba cũng muốn nâng đỡ số thế lực mởi, để kìm hãm các giáo phái vốn chiếm hữu những mảnh đất trù phú nhất và số lượng dân cư đông đúc nhất, đặc biệt là phái Drikung và Phaktru ở Tiền Tạng.

      Đúng lúc đó, Thiên hộ hầu Yarseng thuộc phái Phaktru lặng lẽ đến Sakya.

      Lúc này, phái Phaktru mới ra đời được chừng sáu mươi năm, do dòng họ Lang nổi tiếng ở vùng núi Sơn Nam sáng lập. Tuy là giáo phái ra đời muộn nhất ở đất Tạng nhưng phái Phaktru có nền tảng vô cùng vững chắc. Vùng Sơn Nam vốn là cái nôi của vương triều Tufan, sở hữu những cánh đồng phì nhiêu, màu mỡ, rộng lớn nhất đất Tạng. Gia tộc Lang đời đời kế thừa quyền cai quản vùng đất trù phú ấy. Các pháp vương của giáo phái này đều là những người tài ba, lỗi lạc, hoài bão lớn lao. Dưới nỗ lực ngừng của các vị pháp vương từ đời thứ nhất đến đời thứ tám, phái Phaktru phát triển rất nhanh chóng, xếp ngang hàng với phái Drikung ở La-ta về diện tích đất đai chiếm hữu.

      Thiên hộ hầu Yarseng chịu cai quản của phái Phaktru, đất đai của thiên hộ hầu này chính là vùng lũng sông Yarlung - cái nôi của vương triều Tufan. Gia tộc Yarseng lâu đời hơn cả gia tộc Lang của phái Phaktru vì huyết thống của dòng họ này có thể tính từ thời đại Tufan. Thiên hộ hầu Yarseng từ lâu rất bất mãn với thân phận của thiên hộ hầu bé mà phái Phaktru phong cho ông ta nên thầm đến Sakya ngay khi hay tin Bát Tư Ba trở về đất Tạng.

      Điều này cũng hợp ý Bát Tư Ba vì chàng hề muốn thế lực của phái Phaktru ngày lớn mạnh và bành trướng. Thiên hộ hầu Yarseng và Bát Tư Ba trao đổi rất lâu. Ba ngày sau, Yarseng lặng lẽ rời Sakya.

      Ngày mà Kháp Na dọn vào sống trong Lang Như Thư Lầu cũng là ngày Bát Tư Ba bước đầu hoàn thiện kế hoạch phân chia mười ba vạn hộ hầu và số lượng các cư dân Mid, cư dân Lad thuộc quyền sở hữu của các vạn hộ hầu này. Ngắm nhìn Bát Tư Ba miệt mài viết lách bên bàn làm việc trong Phật điện Lakhang, tôi khỏi lo lắng:

      - Chàng thăng chức cho Thiên hộ hầu Yarseng thành vạn hộ hầu, lại cắt mảnh đất lớn của phái Phaktru chia cho ông ta, chàng sợ phái Phaktru tức giận sao?

      Bát Tư Ba dừng bút, hàng mày dài xô lại:

      - Chắc chắn họ tức giận. Ngoài Phaktru, ta còn cắt nhiều hộ dân ở Nagarze của phái Drikung cho Vạn hộ hầu Yamdro. Ta phải làm vậy để cân bằng số lượng các hộ dân thuộc quyền cai quản của mười ba vạn hộ hầu ở đất Tạng, vì ổn nếu để thế lực của hai giáo phái này quá lớn mạnh.

      - Và rồi có kẻ cười người khóc. - Tôi nhìn Bát Tư Ba mà lòng đầy lo âu. - Vậy là từ nay, chàng phải đối đầu với mối hiềm khích của hai phái Drikung và Phaktru.

      Bát Tư Ba khảng khái đáp:

      - Dù biết kết mối thù hằn nhưng ta thể làm khác. Tuy phái Sakya được Đại hãn nâng đỡ nhưng thực lực của giáo phái chúng ta chẳng thể so sánh với Drikung vàPhaktru. Ta làm cho sức mạnh của họ giảm , cũng là vì lo nghĩ cho tương lai của giáo phái mình.

      Trong lòng tôi cứ dấy lên cảm giác nơm nớp lo sợ, mí mắt giật liên tục, nhưng vẫn cố gượng cười:

      - Mong là xảy ra chuyện gì.

      Bát Tư Ba đứng lên, chậm rãi bước trong Phật điện trong bóng chiều nhập nhoạng, lưng hơi còng xuống vì nhiều ngày miệt mài bên bàn làm việc. Từ khi trở về đất Tạng, chàng có quá nhiều việc phải suy nghĩ, mỗi ngày chỉ ngủ chừng ba canh giờ, giấc ngủ lại chẳng sâu, rất dễ tỉnh giấc, ăn uống cũng được ngon miệng nên ngày càng gầy. Tuy mới ba mươi tuổi, gương mặt vẫn tuấn tú, điển trai như xưa nhưng vầng trán cao xuất đôi ba nếp nhăn. Lúc chàng mỉm cười, khóe mắt cũng xếp nếp những dấu vết của thời gian và lo toan mòn mỏi.

      Lòng tôi bỗng chùng xuống khi ngắm nhìn dáng hình cao gầy, độc ấy. Cũng giống như Kháp Na, tôi rất muốn chia sẻ nỗi vất vả với chàng, nhưng chẳng giúp được gì.

      Tin tức về việc phân chia mười ba vạn hộ hầu truyền khắp vùng Hậu Tạng, làm dấy lên phản kháng. Năm Vạn hộ hầu Lalo, Laqiang, Chumig, Gyangtso và Shalu liên kết lại phản đối Bát Tư Ba cắt hàng nghìn hộ dân Lad của họ, chuyển thành cư dân Mid. Riêng Vạn hộ hầu Shalu và Chumig, vì là hai vạn hộ hầu lớn nhất Hậu Tạng nên bị cắt ba nghìn hộ dân để chuyển thành những cư dân Mid, phải nộp thuế cho nhà nước. Cả năm vạn hộ hầu đều lên tiếng chỉ trích và cho rằng quyền lợi của mình bị tổn hại nghiêm trọng. Họ kiên quyết phản đối phân chia này.

      Mùa thu năm đó, thời tiết ở Sakya đột ngột thay đổi, suốt mùa mưa gió dầm dề, cả vùng Sakya chìm trong bầu khí u, ẩm thấp đến ngột ngạt. Giữa lúc nước sôi lửa bỏng ấy, nguồn tin quan trọng được truyền về Sakya: người đứng đầu cuộc chống đối chính là Vạn hộ hầu Shalu - ngài Jichoi mà trước đó từng niềm nở tiếp đón Bát Tư Ba tại dinh cơ của mình.

      Ông ta muốn trả thù vì chúng ta chấp nhận cuộc hôn nhân đó.

      Kháp Nạ mặt mày biến sắc, phẫn uất đập tay xuống mặt bàn.

      Bát Tư Ba nghiêm nét mặt:

      - Ta sớm dự lỉệu được tình huống này. ai dễ chịu khi da thịt của mình bị cắt xén.

      - Vậy huynh định xử trí ra sao? mới chỉ có vùng Hậu Tạng gây rối loạn, nửa tháng sau, tin tức truyền đến vùng Tiền Tạng, khi đó, chắc chắn Drikung và Phaktru liên kết tất cả các giáo phái để chống ỉạỉ Sakya. Đến lúc đó, chúng ta chẳng thể làm gì ngoài việc gửi tấu chương xin Đại hãn điều quân đến đây.

      - Đây là mâu thuẫn của nội bộ đất Tạng, chưa đến bước đường cùng, ta tuyệt đối nhờ vả quân đội của người Mông Cổ. - Bát Tư Ba đăm chiêu suy nghĩ. - Thế này vậy, ngày mai ta Chumig chuyến. Vạn hộ hầu Chumig là người hòa nhã nhất trong số năm vạn hộ hầu ở Hậu Tạng. Ông ta lại có quan hệ rất tốt với giáo phái chúng ta. Ta thử thuyết phục ông ta xem sao.

      Kháp Na lo lắng lắc đầu:

      - Lẽ nào phải thuyết phục từng người ? Và dù đại ca có thuyết phục được cả bốn vạn hộ hầu đó nữa vẫn còn Vạn hộ hầu Shalu. Ông ta là người đứng sau chỉ huy mọi chuyện, sức ảnh hưởng của ông ta ở Hậu Tạng rất lớn, dễ dàng thuyết phục được ông ta đâu.

      - Được người nào hay người đó.

      Bát Tư Ba tỏ ra rất quyết tâm, chẳng chút nề hà. Chàng vừa thu dọn giấy tờ bàn vừa với Kháp Na:

      - Ngày mai đệ hãy cùng ta.

      Kháp Na nhìn Bát Tư Ba chăm chăm, ậm ừ đáp lời.

      ngờ, tối đó, Kháp Na bị cảm lạnh, ngày hôm sau sốt cao. Ở nơi núi cao, băng giá này, trận cảm thông thường cũng có thể lấy mạng người ta. Thế nên, Bát Tư Ba để Kháp Na ở lại, đồng thời dặn dò người nhà phải mời thầy thuốc tốt nhất đến chữa bệnh cho Kháp Na rồi vội vả lên đường khi mới tờ mờ sáng.

      Tôi bưng chén thuốc đến bên giường, gọi khẽ. Sau khi Mukaton qua đời, Kháp Na mắc bệnh ho khan mãn tính. Trở về vùng cao nguyên băng giá, sức khỏe cậu ấy ngày yếu , cứ thời gian lại ốm trận. Mấy năm qua, tôi gần như thuộc làu các vị thuốc mà Kháp Na uống nên cũng dễ chăm sóc cậu ấy.

      Kháp Na chừng như rất mệt mỏi, xua tay:

      - Tiểu Lam, cần ở lại chăm sóc ta đâu, mau bảo vệ đại ca!

      Tôi đặt chén thuốc xuống, kê cao gối giúp cậu ấy ngồi dậy.

      - Nhưng Lâu Cát dặn tôi phải ở lại chăm sóc cậu.

      - Ta chỉ bị cảm , sao đâu. Ta rất lo cho an nguy của đại ca. Huynh ấy gánh vác trọng trách lớn lao, lại vào thời điểm cam go này, rất dễ có kẻ sinh lòng muốn hãm hại huynh ấy. Huynh ấy là rường cột của giáo phái, nếu huynh ấy có mệnh hệ gì, giáo phái chúng ta nguy mất. Ta muốn có bất cứ chuyện gì xảy ra với huynh ấy...

      Cậu ấy phải dừng lại vì cơn ho ập đến, lát sau, ánh mắt khẩn thiết hướng về phía tôi:

      - Em hãy và bảo vệ huynh ấy, chỉ có như thế ta mới an lòng.

      Lời của cậu ấy khiến tôi bất gíac thấy lo cho an nguy của Bát Tư Ba nhưng tôi cũng an tâm khi thấy Kháp Na nằm dài giường bệnh.

      - Nhưng cậu cũng cần có người ở bên chăm sóc.

      Cậu ấy bật cười khanh khách:

      - Ta là con út của giáo phái, lại là vương gia. Chỉ cần ta gật đầu, có hàng dài những người muốn được chăm sóc cho ta.

      Bỗng tôi nảy ra ý định, vỗ tay đắc chí:

      - Cứ làm vậy .

      Sau đó, tôi cúi xuống, tìm kiếm bờ môi cậu ấy.

      -Tiểu Lam!

      Cậu ấy hốt hoảng nghiêng đầu sang bên, tránh né, lấy tay che mặt, hơi thở gấp gáp, giọng hổn hển:

      - Em làm gì vậy?

      Tôi ấm ức:

      - Tôi chỉ định truyền linh khí cho cậu thôi mà. Như thế cậu nhanh chóng khỏi bệnh và chúng ta có thể lập tức lên đường, đuổi theo Lâu Cát.

      - được!

      Cậu ấy nghiêm giọng từ chối khiến tôi giật mình sợ hãi. Phản ứng của cậu ấy quá gay gắt.

      Thấy tôi nhìn với  vẻ kinh ngạc, Kháp Na vội vàng giải thích:

      - Ta muốn em làm như vậy. Vả lại, đại ca lên đường được thời gian rồi, chắc chắn ta thể đuổi kịp huynh ấy, nhưng em có thể sử dụng phép thuật để đuổi theo huynh ấy. Ta ở lại đây, chịu khó dưỡng bệnh, chờ hai người trở về.

      Cậu ấy cũng có lý, tôi liền gật đầu tán đồng:

      - Nhưng cậu phải hứa uống thuốc đúng giờ và giữ gìn sức khỏe.

      Cậu ấy vội vã nhận lời:

      - Ta biết rồi em mau .

      Tôi gật đầu, định biến hình để lên đường chợt nghe cậu ấy gọi khẽ:

      - Tiểu Lam!

      Tôi quay đầu lại, bắt gặp ánh mắt tha thiết của Kháp Na.

      - Có chuyện gì vậy?

      Cậu ấy lặng nhìn tôi lát rồi mỉm cười dịu dàng:

      - có gì, ta chỉ muốn gọi em tiếng vậy thôi, em mau .

      đường đuổi theo Bát Tư Ba, tôi cứ băn khoăn mãi về nụ cười của Kháp Na. Nụ cười đó rất đẹp, ánh mắt đó lấp lánh, trong veo. Tôi ở bên cậu ấy lâu nên gần như thuộc làu từng cử chỉ, động tác và biểu cảm của cậu ấy. hiểu sao, cảm giác bất an cứ cuồn cuộn trong lòng tôi. Vì sao nụ cười tuyệt đẹp ấy lại chất chứa dư vị của nỗi bi ai, tuyệt vọng?

      - Tuy chỉ tồn tại chừng trăm năm vào triều đại nhà Nguyên và tan vỡ khi triều Nguyên sụp đổ nhưng chính quyền Sakya có ảnh hưởng rất lớn đến vùng Tây Tạng.

      Tôi tập tễnh đến bên cửa sổ, ngước nhìn bầu trời đêm khi tuyết ngừng rơi, gió dữ thôi thét gào, phá phách. Tôi quay lại bên lò sưởi, chậm rãi giải thích cho chàng trai trẻ:

      - Chàng thiết lập thể chế hành chính với hợp nhất của chính trị và tôn giáo, nhưng chàng giữ thân phận của quốc vương. Chính quyền ấy có được nhờ triều Nguyên nên chỉ  có thể phát huy hiệu lực khi được hoàng đế Mông Cổ thừa nhận.

      Chàng trai trẻ gật đầu tán đồng:

      - Hồi du lịch Tây Tạng, tôi đọc các tài liệu liên quan và biết rằng, Tây Tạng trở thành phần thể tách rời của Trung Quốc kể từ triều Nguyên, sau đó còn bị chia năm xẻ bảy như trước kia nữa.

      Tôi gật đầu:

      - Đúng vậy. Sau khi triều Nguyên sụp đổ, bất kể giáo phái nào ở Tây Tạng muốn xây dựng chính quyền địa phương đều phải được vương triều trung ương thừa nhận. Thể chế chính trị này duy trì suốt hơn năm trăm năm kể từ thời đại của Bát Tư Ba cho đến thời nhà Thanh. Chính vì vậy, chúng ta thường hiểu rằng, Tây Tạng trở thành phần của các vương triều Trung Nguyên vào thời đại của nhà Nguyên.

      Chàng trai trẻ tổng kết:

      - Bởi vậy, công lao của Bát Tư Ba đối với lịch sử và bản đồ Trung Quốc lớn hơn bất cứ nhà sư nào trước đó.

      Tôi mỉm cười tán đồng:

      - Cậu chí phải.




    5. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      CHƯƠNG 39
      Pháp hội Chumig
      Beta: Thạch Thạch

      Tri thức có ở khắp nơi,

      Ngay cả trong lời của trẻ ;

      Hương liệu có ở khắp nơi

      Ngay cả trong gan ruột của dã thú.

       (Cách ngôn Sakya)

       
      Vùng Chumig nằm ở bên này lưu vực sông Nyang Chu, tiếp giáp với lãnh thổ của Vạn hộ hầu Shalu, xếp thứ hai ở vùng Hậu Tạng về trù phú. Bát Tư Ba đồng loạt cắt ba nghìn hộ dân Mid của Vạn hộ hầu Chumig và Vạn hộ hầu Shalu. Nếu thuyết phục được Vạn hộ hầu Chumig chấp nhận phân chia này Bát Tư Ba có thế giảm được phân nửa trở lực ở vùng Hậu Tạng. Vậy nên, chàng bước vào trang viên của Vạn hộ hầu Chumig với quyết tâm "nhất định phải thành công".

      Vạn hộ hầu Chumig - ngài Duirang – mới ba mươi tuổi, dáng vẻ nho nhã, thái độ ôn hòa, chừng mực, quả là người điềm đạm, mực thước. Từ xa, chúng tôi thấy ngài đứng chờ bên đường. Vừa trông thấy Bát Tư Ba, ngài tỏ ra hết sức mừng rỡ. Ngài rằng lúc gửi thiệp mời đại sư Bát Tư Ba tham dự pháp hội ở Chumig, ngài mảy may hy vọng đại sư tới. Nào ngờ, đại sư chịu gác sang bên trăm công ngàn việc để đến đây, khiến gia tộc của ngài được nở mày nở mặt...

      Lúc này Bát Tư Ba mới nhớ ra chuyện đó. Khoảng tháng trước, khi năm vạn hộ hầu liên kết phản đối kế hoạch phân chia đất đai và cư dân, Bát Tư Ba nhận được thiệp mời tham dự pháp hội Chumig của phái Kadampa. Khi ấy, Bát Tư Ba bận bịu với núi việc, chẳng có thời gian nên viết thư từ chối khéo léo. Tính thời gian còn khoảng ba ngày nữa, pháp hội được tổ chức. Bát Tư Ba quyết định tùy cơ ứng biến, chàng bảo rằng đột nhiên có thời gian rảnh rỗi nên muốn đên đây học hỏi giáo pháp của phái Kadampa.

      Duirang rước Bát Tư Ba vào trang viên của mình, nơi ăn chốn ở sắp xếp vô cùng chu đáo, nhưng Bát Tư Ba chẳng lựa được lúc nào để trò chuyện riêng với ông ấy. Duirang phát thiệp mời đến tất cả các bậc cao tăng đại đức của giáo phái nên các tăng nhân cứ nườm nượp ra vào trang viên của ông ấy, khiến chủ nhà có cả thời gian để ăn bữa cơm yên ổn. Duirang luôn chân luôn tay luôn miệng bố trí, sắp bày mọi việc cho ngày pháp hội. Cứ thế, Bát Tu Ba chẳng có cơ hội nào để trao đổi riêng, chàng quyết định, nhân dịp này kết giao với các chi phái của phái Kadampa, xây dụng mối quan hệ hòa hảo với các tu viện.

      Người đặt nền móng đầu tiên cho phái Kadampa là vị cao tăng người Thiên Trúc, Atisha. Hơn hai trăm năm trước, vương triều Guge ở vùng Ali mời đại sư Atisha đến đất Tạng truyền giáo và đại đệ tử của vị cao tăng này, ngài Dromtonpa, về sau lập ra giáo phái Kadampa. Phái này tu theo tông pháp Hiển Tông, dòng tu này phát triển rất mạnh mẽ và được truyền bá rộng rãi. So với các giáo phái Mật Tông khác như Sakya và Kagyu, phái Kadampa coi trọng việc tu tập và tuân thủ giới luật hơn là cai quản chính quyền địa phương. Giáo phái này chủ trương xây dựng thế lực chính trị lớn mạnh. Bởi vậy, so với những người khác, Vạn hộ hầu Chumig là tín đồ Kadampa ôn hòa, nhã nhặn nhất. Sau này, vào cuối thời nhà Minh, nhà sư Tsongkhapa của phái Kadampa sáng lập ra chi phái Hoàng giáo Gelug nên toàn bộ phái Kadampa sáp nhập vào phái Gelug.

      Biết tin Bát Tư Ba cũng tới tham dự pháp hội Chumig, toàn bộ tăng sư của các tu viện lân cận lũ lượt đổ về Chumig để được tận mắt chứng kiến phong thái của bậc thánh nhân. Trong ngày đầu tiên diễn ra pháp hội, có tới bảy mươi nghìn tăng nhân đến tham dự, đây là pháp hội tập trung đông người tham dự nhất trong lịch sử Tây Tạng. Duirang vui mừng khôn xiết, nhiệt liệt cảm tạ Bát Tư Ba vì xuất của chàng khiến cho pháp hội lần này có quy mô lớn đến vậy.

      Trong suốt thời gian diễn ra pháp hội, Bát Tư Ba tỏ ra là danh sư bình dị, dễ gần, khiêm tốn, ngại học hỏi, định kiến, thiên vị, hào hứng tiếp thu giáo pháp của phái Kadampa. Mỗi tối, Bát Tư Ba đều cùng các vị cao tăng của phái Kadampa ngồi thiền, tụng niệm kinh Phật và làm phép quán đỉnh cho rất nhiều người. Điều đó khiến cho nhiều tăng nhân của phái Kadampa thay đổi cách nhìn về Bát Tư Ba, số người ca ngợi, ủng hộ chàng ngày nhiều, ngay cả Duirang cũng dần tâm phục khẩu phục.

      Tôi lẻn đến phòng của Duirang nghe trộm, vì tôi rất muốn biết ông ta có chấp thuận phục tùng Bát Tư Ba hay . Nhưng khi tới đó, tôi lại thấy lão hòa thượng vóc dáng cao lớn bực tức, trách móc Duirang:

      - Ngài xem, có người xuất gia nào như ? đến đâu cũng mở cờ gióng trống, kéo theo cả đám tùy tùng, quan viên, phục trang, cưỡi ngựa, dựng trại giống hệt người Mông Cổ. còn nhớ mình là người Tạng nữa ?

      Tôi nhận ra đó là đại sư Chomden Rigdrel trụ trì đền Narthang. Trong số các tăng nhân của phái Kadampa, ông ta là người có định kiến với Bát Tư Ba hơn cả. Những ngày qua, ông ta thường tỏ ra lạnh nhạt với Bát Tư Ba nhưng chàng vẫn khiêm tốn, nhún nhường.

      Duirang đồng tìnhvới đánh giá của Chomden Rigdrel:

      - Đại sư Chomden Rigdrel, người Mông Cổ chiếm thế thượng phong, gót sắt của họ đạp bằng mọi chốn, ai dám phục tùng họ? Bát Tư Ba theo người Mông Cổ hơn hai mươi năm, lần này lại phụng lệnh Đại hãn Hốt Tất Liệt trở về đất Tạng, việc ngài ấy đến đâu có quan quân hộ tống đến đó là điều khó tránh khỏi.

      Chomden Rigdrel mỉa mai, châm biếm:

      - làm quan to, mặc triều phục lộng lẫy của Mông Cổ cần phải tuân thủ các giáo pháp của Phật Tổ nữa sao? còn lưu tâm đến nỗi buồn vui của chúng sinh nữa ?

      Duirang chắp tay sau lưng, chầm chậm cất buớc trong phòng:

      - Đại sư, ta chẳng bận tâm việc ngài ấy vận trang phục của người Mông Cổ. Điều ta đắn đo là Chumig có nên tiếp tục chống lại mệnh lệnh của ngài ấy hay ? Tất nhiên, ta hiểu mục đích chuyến này của Bát Tư Ba. Thực ra, ngài ấy hoàn toàn có thể dùng uy quyền của người Mông Cổ để ép buộc chúng ta phải chấp thuận. Nhưng ta để ý thấy những ngày qua, dù nhận được câu trả lời từ phía ta, ngài ấy vẫn nhẫn nại chờ đợi. Với thân phận như vậy mà ngài ấy vẫn rộng lượng, khiêm nhường, quả là hiếm có. Chả trách Đại hãn Mông Cổ xem trọng ngài ấy đến vậy.

      Chomden Rigdrel tỏ ra tức tối:

      - Ý của ngài là, ngài cúi đầu trước người Mông Cổ?

      Duirang sa sầm nét mặt:

      - Năm xưa, khi người Mông Cổ tấn công Wusi, các giáo phái ở đất Tạng đông đảo là thế, vì sao hợp sức để chống trả? Giờ đây, khi đất Tạng quy thuận Mông Cổ mấy mươi năm, vạn hộ hầu bé như ta sao dám đối địch với Bát Tư Ba? Ngài ấy đích thân đến đây tỏ thành ý, ta nghĩ rằng đến lúc phải nhún nhường.

      - Nhưng Vạn hộ hầu Shalu....

      Duirang ngắt lời Chomden Rigdrel, ánh mắt sắc lẹm:

      - Tưởng rằng ta biết sao? Ông cũng có những toan tính của riêng mình. Chumig đời nào trở thành khiên chắn của Shalu.

      Chomden Rigdrel quay mặt , hậm hực. Tôi hớn hở ra về, định bụng báo tin vui cho Bát Tư Ba, rằng nhũng cố gắng mệt mỏi của chàng cuối cùng cũng có kết quả đáng mừng. Về tới nơi, thấy chàng vẫn miệt mài bên bàn làm việc; ý nghĩ tinh nghịch chợt lóe lên trong đầu, tôi muốn dọa chàng. Thế là tôi liền hóa thành người, nhón bước lại gần, vỗ vào vai chàng.

      Nào ngờ, chàng hét lên tiếng đau đớn, cánh tay đặt vội lên bờ vai mà tôi vừa chạm vào, giật mình quay lại, gương mặt co rúm vì phải chống chịu với cơn đau. Trông thấy tôi, hai mắt chàng mở to, chàng lập tức lùi lại phía sau, giữ khoảng cách an toàn.

      - Lâu Cát, chàng... chàng làm sao vậy?

      Tôi bàng hoàng nhìn lại bàn tay mình, tôi vỗ rất thôi mà, sao chàng lại phản ứng dữ dội như thể vừa bị giáng đòn chí mạng vậy?

      - Ta sao. - Chàng khẽ thở dốc, buông thõng cánh tay vừa ôm lấy vai xuống, quay mặt . - Ta tập trung cao độ để viết bức thư quan trọng gửi Đại hãn em đến và làm ta giật mình. Ai trong trường hợp này cũng phản ứng như vậy.

      - Nhưng em chỉ vỗ thôi mà, vì sao chàng lại đau đớn như vậy?

      Chàng xoay khớp bả vai, khẽ nhíu mày, như thể gắng gượng chống chịu với cơn đau buốt:

      - Chắc tại va chạm đột ngột nên gân cốt nai bả vai hơi đau

      - Vậy ư? Để em xem nào.

      Tôi định lại gần nhưng chàng nhanh chóng lùi lại. Tôi biết phải làm sao, đành quay tìm lọ thuốc bôi, đưa cho chàng:

      - Đây là thuốc bôi vết thương điều chế từ hoa tuyết liên núi Thiên Sơn, công hiệu lắm đó.

      Chàng chịu đón lấy mà ra hiệu cho tôi đặt lên bàn rồi cầm lọ thuốc lên, ngập ngừng :

      - Em ra ngoài , ta quen cởi y phục trước mặt người khác.

      Hai má nóng bừng, tôi luống cuống rời khỏi phòng chàng. Đêm đó, tôi sao chợp mắt được, treo mình cành thông trong vườn nhà, buồn bực, bứt rứt yên. Tôi bứt rụng cả vạt lá. Vì sao khi tôi là hồ ly chàng cưng nựng, dịu dàng, còn khi tôi hóa phép thành người chàng lại muốn né tránh, thích trò chuyện với riêng tôi, thậm chí cố tình gán ghép tôi với Kháp Na?

      Tôi những muốn xích lại gần chàng, nhưng sau khi rời khỏi Đại Đô, khoảng cách giữa chúng tôi ngày càng xa. Lúc tôi ở bên chàng, chàng buộc tôi hóa phép trở lại nguyên hình với lý do: muốn những người khác bắt gặp chàng ở cạnh . Nhưng cái cớ này rất khiên cưỡng, vì thính giác của tôi rất nhạy bén, nếu có người đến, chắc chắn tôi phát ra từ sớm và lập tức trở lại nguyên hình. Huống hồ, lúc trước tôi vẫn thường ở bên chàng trong hình hài đó thôi. Khi ấy, chàng hề lo lắng về điều này. Tôi từng rất vui sướng vì nghĩ rằng, tôi tu luyện thành công, nêu bây giờ chàng chạm vào tôi, tôi bị đẩy trở lại nguyên hình như trước nữa. Nhưng chàng dần xa lánh và muốn chạm vào tôi. Vậy tôi khổ công tu luyện còn có ý nghĩa gì nữa?

      Tôi cứ ngồi chạc cây, thẫn thờ, vẩn vơ suy nghĩ mãi, nhưng đầu óc đơn giản của loài hồ ly chẳng thể giúp tôi lý giải nổi vì sao quan hệ của chúng tôi từng bước từ chỗ thân mật đến chỗ xa cách như vậy. Giá như Kháp Na ở đây tốt biết mấy, cậu ấy phân tích cho tôi hiểu, dịu dàng an ủi, động viên tôi. Nụ cười hút hồn của cậu ấy giúp tôi quên hết mọi ưu phiền. Nhớ đến Kháp Na lòng tôi chợt thắt lại, biết cậu ấy khỏi bệnh chưa có còn ho khan nữa ? Sau đó, tôi nhận ra, tôi rất nhớ Kháp Na, nhớ quay quắt nụ cười trong sáng, đôi mắt long lanh của cậu ấy, nhớ mọi thứ về cậu ấy. Mừng thay, mai là ngày cuối cùng của pháp hội Chumig, Duirang chịu thần phục Bát Tư Ba, mọi việc sắp kết thúc và tôi có thể nhanh chóng trở về Sakya.

      Vào ngày cuối cùng của pháp hội, mấy trăm cao tăng tập trung trong đại điện của ngôi đền Chumig, cùng nhau thảo luận bộ kinh văn Sáu luận thuyết của phái Kadampa. Trời vào độ giữa thu, nắng trưa chói chang, đại điện lại chật kín người, bầu khí rất đỗi ngột ngạt, oi bức. Các nhà sư ai nấy đều thả trần nửa vai để giảm bớt sức nóng. Nhưng riêng Bát Tư Ba, dù mồ hôi lấm tấm trán, y phục của chàng vẫn rất mực chỉnh tề. Chàng ngồi thiền đài cao giữa chính điện, pháp tướng trang nghiêm.

      Trong lúc mọi người thảo luận rôm rả, Chomden Rigdrel đột nhiên đứng dậy, lớn:

      - Đêm qua ta làm bài thơ, muốn nhân đây đọc hầu các vị cao tăng đại đức. Ý các vị ra sao?

      Ai nấy đều háo hức cổ vũ Chomden Rigdrel. Ông ta ném ánh nhìn mấy thiện cảm về phía Bát Tư Ba, thủng thẳng cất giọng:

      - "Bóng mây nha sở che mờ giáo pháp của Phật Tổ

      Chốn quan trường tước đoạt hạnh phúc của chúng sinh

      Tăng nhân lấm lem thế tục, tham lam quyền tước

      hiểu hết ba điều này, sao xứng là bậc thánh giả."

      Ông ta vừa dứt lời, cả đại điện lao xao bàn tán. Ai cũng nhận ra bài thơ này dùng để châm biếm Bát Tư Ba, bởi vì "Bát Tư Ba" trong tiếng Tạng có nghĩa là "bậc thánh giả". Bát Tư Ba vẫn khép hờ đôi mắt, vẻ mặt bình thản, tĩnh tại như mọi khi, trầm ngâm . Chomden Rigdrel được nước lấn tới, khoát tay, cất giọng oang oang:

      - Thiết lập nha sở, nuôi dã tâm thống trị toàn bộ vùng Wusi, phong quan phong tước cho các giáo phái lớn, ra khỏi cửa là mang theo đoàn tùy tùng đông đảo, phô trương thanh thế. Kể từ khi vương triều Tufan sụp đổ cho đến nay, ở đất Tạng này chưa bao giờ xảy ra chuyện tương tự. Nghiêm trọng hơn, người làm những việc này lại là nhà sư mà lẽ ra phải toàn tâm toàn ý phụng Phật Tổ!

      Ông ta nhìn thẳng vào Bát Tư Ba, ánh mắt đầy khinh miệt và khiêu khích.

      - Tăng nhân mà giũ sạch bụi trần, tĩnh tâm tu tập sao gọi là tăng nhân? Chi bằng mà làm quan lớn, mà ôm chân bọn Mông Cổ!

      Công nhiên khiêu khích như thế là cố ý gây khó dễ cho Bát Tư Ba. Phản ứng của những người xung quanh rất khác nhau, có ké tán đồng, có người phản đối, có kẻ rắp tâm hỏng chuyện vui. Duirang sa sầm mặt mày, ghé tai với người hầu cận, người đó lập tức nhận lệnh ngay. lát sau, hàng chục nô bộc lực lưỡng xuất ỏ cổng đền, chuẩn bị tiến về phía Chomden Rigdrel.

      Bát Tư Ba đột nhiên đứng dậy, khoát tay ngăn họ lại rồi chậm rãi bước đến giữa đại điện, mỉm cười, cất giọng ôn hòa:

      - Đại sư Chomden Rigdrel, ta cũng lúc cao hứng, muốn họa lại bài thơ của đại sư, mời các vị cùng thưòng thức, được ?

      Cả đại điện lập tức chìm trong yên lặng, mọi ánh mắt đều đổ dồn về vị quốc sư phong thái đĩnh đạc, dáng vẻ an nhiên, điềm tĩnh kia. Chàng cất giọng ngâm thư thái:

      - "Phật dạy rằng giáo pháp của người có lúc thịnh lúc suy

      Hạnh phúc của chúng sinh được định bởi duyên nghiệp

      Muốn giáo hóa phải tùy cơ ứng biến

      hiểu hết ba điều này, sao xứng là bậc hiền nhân."

      Những tiếng bàn tán râm ran khắp đại điện, nhiều người tấm tắc khen ngợi. Chỉ trong thời gian ngắn như vậy, Bát Tư Ba ứng đối rất nhịp nhàng, chuẩn mực và sâu sắc, thậm chí khéo léo gắn tên của Chomden Rigdrel vào bài thơ. Trong tiếng Tạng, "Chomden Rigdrel" có nghĩa là nhà hiền triết lòng hướng Phật. Trí tuệ mẫn tiệp, thông tuệ, nhạy bén của Bát Tư Ba khiến người ta phải khâm phục, ngưỡng mộ. Chomden Rigdrel hoàn toàn bất ngờ trước "đòn phản công" của Bát Tư Ba, vì chàng dùng quyền lực để trấn áp mà đáp trả bằng thơ ca. Ông ta cứ đứng ngây ra đó, trơ như gỗ đá, biết phải tiếp lời ra sao.

      Bát Tư Ba đưa mắt khắp lượt tăng chúng, gương mặt cương nghị, ánh mắt kiên định.

      - Tuy mang danh "bậc thánh giả" nhưng ta tự thẹn với lòng mình vì mấy năm qua dành nhiều tâm sức vào công việc chính mà sao nhãng việc tu tập và nghiên cứu kinh văn của các giáo phái. Ta cảm thấy vô cùng may mắn vì nhân dịp này được học hỏi từ các vị cao tăng phái Kadampa nhiều kiến thức Phật giáo uyên thâm, quý báu. Ta cũng vô cùng cảm phục công đức bao la của đại sư Chomden Rigdrel vì đại sư dày công biên soạn cuốn Đại Tạng kinh mục lục luận điển quảng thuyết, giúp truyền bá ngày càng rộng rãi hơn các giáo lý Phật pháp. Có điều, ta e rằng đại sư bế quan tu tập nhiều năm nên chưa nắm bắt được tình hình trước mắt của đất Tạng. Những suy nghĩ và đường lối của đại sư khiến đất Tạng bị lập với thế giới bên ngoài. Cách nghĩ đó tuy hay nhưng thể áp dụng. - Giọng chàng trầm vang, mạnh mẽ, có sức lay động. - Trước kia, người Mông Cổ tin theo Phật pháp, họ có tín ngưỡng riêng của họ, đó là tín ngưỡng Saman. Nhưng kể từ thời đại của bác ta, với những nỗ lực phi thường, ngài Ban Trí Đạt thuyết phục được người Mông Cổ quy y Phật pháp, chấm dứt chiến tranh với đất Tạng. Dù chúng ta và họ khác nhau về chủng tộc, ngôn ngữ, nhưng Phật dạy rằng mọi chúng sinh đều bình đẳng. Trang phục, lễ nghi phải thứ quan trọng, quan trọng hơn cả là làm thế nào để chấm dứt tình trạng chia năm xẻ bảy diễn ra bao năm qua quê hương chúng ta!

      Mọi người đều như vừa bừng tỉnh sau giấc mộng dài, ngay cả Chomden Rigdrel cũng cúi đầu xấu hổ. Duirang nháy mắt ra hiệu cho các nô bộc lập tức rút lui. Sau đó, ông ấy bước tới, cung kính vái lạy Bát Tư Ba, thưa rằng:

      - Thưa quốc sư, chúng tôi đây tầm nhìn hạn hẹp, kiến thức nông cạn, có cái nhìn toàn vẹn về thế cục. Nay được quốc sư ban lời vàng ngọc, mới chợt tỉnh ngộ, hiểu ra tất thảy. Vạn hộ hầu Chumig nguyện tuân theo pháp chỉ của phái Sakya, bằng lòng cắt ba nghìn cư dân Mid.

      Đến lúc này, gương mặt Bát Tư Ba mới rạng rỡ trở lại sau bao ngày tháng. Gió mát xua tan mây đen bầu trời, ánh nắng rực rỡ chiếu qua khung cửa sổ đại điện, dát vàng cả gian, phủ lên mình Bát Tư Ba vầng hào quang chói lọi. Chàng nổi bật giữa vầng hào quang lấp lánh ấy, thần sắc trang nghiêm, phong thái bất phàm. Tất cả những người có mặt trong đại điện lúc đó đều quỳ sụp xuống, dập đầu vái lạy trước cảnh tượng kỳ ảo, thần thánh ấy.

      Hoàn thành nhiệm vụ ở Chumig, Bát Tư Ba lên xe ngựa, ra về trong tiếng hoan hô dậy sóng của Duirang và các tăng nhân phái Kadampa. Chàng dự định tiếp về hướng nam, ghé thăm Vạn hộ hầu Gyangtso ở Nyadong, vùng cực nam của Hậu Tạng. Tôi thầm thở dài, cứ ngỡ được về Sakya gặp Kháp Na, nào ngờ Bát Tư Ba lại muốn nhân tiện viếng thăm và thuyết phục hầu hết các vạn hộ hầu ở vùng Hậu Tạng, chỉ trừ Vạn hộ hầu Shalu. Nếu cứ đà này, có lẽ phải đến mùa đông mới về được Sakya. Nhưng tôi nhớ Kháp Na da diết nên dự định trốn về Sakya vài ngày sau khi đoàn chúng tôi tới Nyadong.

      Nhưng khi chúng tôi chưa kịp đặt chân đến Nyadong đội xe ngựa của Sakya đuổi theo và bắt kịp chúng tôi. Dẫn đầu là Dampa, đệ tử mà Bát Tư Ba mới thu nhận ở Chindu.

      - Có chuyện gì? - Bát Tư Ba vừa đỡ lấy Dampa vừa gạn hỏi, vẻ mặt đầy lo lắng.

      Dampa hổn hển:

      - Thưa thầy, cần phải thuyết phục từng vạn hộ hầu nữa, mời thầy về Sakya ngay. Bạch Lan Vương... Bạch Lan Vương...

      Tôi thốt lên kinh hãi rồi vội che miệng, cũng may tiếng kêu của loài hồ lỵ rất nên gây chú ý.

      - Kháp Na làm sao?

      hết sức giữ bình tĩnh, giọng của Bát Tư Ba vẫn run lên vì xúc động.

      Dampa vội vàng xua tay để xóa hiểu lầm của Bát Tư Ba, hớn hở báo tin:

      - Xin thầy đừng lo lắng, là chuyện vui. Bạch Lan Vương sắp kết hôn, vợ ngài là con của Vạn hộ hầu Shalu.

      Cậu ta thở dốc rồi thông báo tin quan trọng nhất:

      - Vạn hộ hầu Shalu đồng ý quy thuận phái Sakya, cùng bốn vạn hộ hầu khác.

      Trái tim tôi như vừa bị vật nhọn đâm trúng, đầu óc hoàn toàn trống rỗng. Bát Tư Ba túm chặt lấy cánh tay Dampa, sắc mặt nhợt nhạt:

      - Sao lại có đám cưới này? Jichoi nhân lúc ta vắng đếnSakya ư?

      Dampa khỏi kinh ngạc trước thái độ nghiêm trọng của Bát Tư Ba.

      - Dạ thưa, phải, Bạch Lan Vương đích thân đến trang viên Shalu cầu hôn.

      - Nó Shalu ư? Nó ốm kia mà! - Bát Tư Ba nghiêm mặt, quát. - mau, rốt cuộc xảy ra chuyện gì?

      Dampa rất mực bối rối:

      - Sau khi thầy rời khỏi Sakya, Bạch Lan Vương cũng lập tức lên đường. Ngài chỉ đem theo người hầu cận thân thiết là Kunga Zangpo, rằng đến suối nước nóng ngọn đồi phía bắc của dãy núi Benbo để chữa bệnh, nên ai băn khoăn gì cả. Nhưng năm, sáu ngày sau thấy Bạch Lan Vương quay về, bản khâm sốt ruột, sai người đến suối nước nóng tìm kiếm thấy Vương gia đâu.

      Sắc mặt của Bát Tư Ba càng lúc càng xấu , giọng chất chứa cơn phẫn nộ:

      - Nó lén đến Shalu?

      Dampa cúi đầu, tiếp tục bẩm báo:

      - Bản khâm biết thầy bận việc lớn ở Chumig nên dám cho người đến báo tin, chỉ sai gia nhân khắp nơi tìm kiếm. Năm ngày sau, Kunga Zangpo đột nhiên trở về Sakya và mang theo tin vui này. Vạn hộ hầu Shalu chọn ngày Hai mươi tám tháng này là ngày lành tháng tốt để tổ chức hôn lễ. Được kết làm thông gia với Shalu nên tất cả những người trong giáo phái đều vui mừng khôn xiết. Bản khâm sai người sắp xếp, bố trí mọi thứ để tổ chức hôn lễ long trọng, nghênh đón Vương phi của Bạch Lan Vương về Sakya vào ngày Hai mươi tám tới, đồng thời lệnh cho đệ tử lập tức lên đường, đón thầy về Sakya.

      Bát Tư Ba chao đảo:

      - Kháp Na ờ đâu?

      - Bạch Lan Vương cùng đoàn rước dâu đường về Sakya, khoảng Hai mươi lăm là về tới nơi.

      - Ngày Hai mươi tám ư? Vậy là chỉ còn tám ngày nữa.

      Gương mặt Bát Tư Đa lạnh băng, chàng quay lại hỏi người đánh xe:

      - Nếu lập tức lên đường bao lâu mới về tới?

      Phu xe thưa:

      - Bẩm, nếu theo tuyến đường bình thường mất khoảng nửa tháng.

      Bát Tư Ba xem xét lại đoàn người ngựa cồng kềnh của mình, lập tức hạ lệnh:

      - Chia thành hai đoàn , xếp tất cả những vật dụng cồng kềnh lên mấy cỗ xe ngựa, cho sau cùng đoàn tùy tùng. Giảm tối đa trọng lượng cỗ xe của ta, ta chỉ cần Dampa theo là đủ. Lập tức xuất phát, trong vòng tám ngày phải về đến Sakya!

      Cỗ xe tăng tốc hết mức có thể, đường núi gập ghềnh, hiểm trở, xe xóc, người mệt tôi nằm bò chiếc đệm lông cừu, lòng buồn se sắt.

      - Lam Kha, sao thế? Có phải xe ngựa xóc quá ?

      Chàng nhấc tôi lên, đặt vào lòng mình, nhìn tôi lo lắng.

      Tôi mỏi mệt, lờ đờ, giọng yếu ớt:

      - Em đau đầu, chóng mặt, khó chịu vô cùng.

      Chàng hốt hoảng, siết chặt tôi hơn nữa:

      - Ta ôm em chặt như vậy em thấy khó chịu nữa.

      Tôi nhắm mắt lại, để mặc chàng săn sóc, mặc chàng tỉ tê vỗ về, an ủi. Chừng hơn canh giờ sau, tôi bắt đau khóc lóc.

      - Em vẫn thấy khó chịu vô cùng. Hình như có cái dằm trong tim em, xe ngựa cứ nảy lên cái, dằm lại cắm sâu vào tim em, cứ thế, nó đâm nát tim em rồi.

      Nước mắt tôi lăn dài má, thấm vào lớp áo tăng ni cùa chàng. Tôi cào cào móng vuốt vào ngực mình, run rẫy:

      - Em muốn nhổ cái dằm đó ra, nhưng em tìm được nó, tìm được nó!

      Bát Tư Ba bối rối lau nước mắt cho tôi, lo lắng dỗ dành:

      - Lam Kha, cho ta hay, em làm sao vậy?

      - Em biết nữa, em chưa bao giờ đau đớn, khó chịu thế này.

      Rồi tôi hạ quyết tâm, ngẩng lên với chàng trong làn nước mắt:

      - Em phải về trước đây, em phải tìm Kháp Na.

      Bàn tay chàng đột nhiên siết chặt hơn, hai mắt khép hờ, lặng yên . lúc lâu sau, chàng mới hé mở cặp mắt mỏi mệt, gật đầu với tôi.

      ♣♣♣
      Nhắc lại cuộc chạm trán và đối đáp với Chomden Rigdrel, tuy Bát Tư Ba giành chiến thắng bằng trí tuệ sắc sảo của mình nhưng tôi vẫn than vắn thở dài:

      - Tuy Bát Tư Ba có công lớn đối với việc thống nhất đất Tạng nhưng thể tránh khỏi những lời gièm pha, chỉ trích của những nhà tu hành tuân thủ tuyệt đối giới luật của nhà Phật. Chàng theo người Mông Cổ lâu nên cách ăn mặc, cách hành xử cũng giống hệt người Mông Cổ. Trong con mắt của số người Tạng bảo thủ chàng chẳng khác nào người Mông Cổ mặc áo của người Tạng.

      Chàng trai trẻ lên tiếng:

      - Phái Sakya trở lên lớn mạnh, tất cả đều dựa vào thế lực của người Mông Cổ. Bởi vậy, hưng thịnh hay suy yếu của giáo phái này gắn chặt với hưng thịnh và suy yếu của triều Nguyên. đúng với câu: thành cũng nhờ Mông Cổ, bại cũng do Mông Cổ.

      Tôi cười buồn:

      - Bát Tư Ba xuất hành quả giống nhà sư. Đoàn tùy tùng theo hầu chàng chính là tổ chức Labrang mà chàng lập ra cho riêng mình, phỏng theo cơ cấu cai quản thị vệ của các vương gia Mông Cổ. Chàng có khoảng mười ba quan thị vệ lo liệu công việc cho mình, trong số đó có cả nhà sư và người thường. Senge là trong số họ. Trong suốt những năm tháng mà uy danh của Bát Tư Ba lừng lẫy khắp nơi, những viên quan thị vệ này tới đâu cũng được kẻ khác vì nể.

      Chàng trai trẻ bật cười:

      - Thế mới ngài chính là chính khách mặc áo nhà sư.

      - Nhưng chế độ Labrang mà Bát Tư Ba sáng lập ra cũng có ảnh hưởng rất lớn đối với các thế hệ tiếp theo. Vì các thủ lĩnh tôn giáo sau này đều học theo chàng, Labrang trở thành tổ chức thị vệ mà bất cứ lãnh tụ tôn giáo nào đất Tạng cũng cần có. Tổ chức này chỉ kéo dài cho đến khi triều Nguyên bị diệt vong mà ngay cả trong thời nhà Minh, nhà Thanh, người ta vẫn có thể thấy bóng dáng của chính quyền Sakya trong cấu trúc tổ chức chính quyền của vùng Tây Tạng.


    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :