1. QUY ĐỊNH BOX XUẤT BẢN :

       

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]

    ----•Nội dung cần:

    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)

    - Tác giả

    - Dịch giả

    - Đơn vị phát hành

    - Số trang ( nên có)

    - Giá bìa (nên có)

    - Ngày xuất bản (nên có)

    --- Quy định

    1 . Thành viên post có thể tự type hoặc copy từ nơi khác (để nguồn)

    2 . Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn

    3. Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ

    Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Hoa Sen Xanh - Chương Xuân Di (Full 2 Tập)

Thảo luận trong 'Sách XB Hoàn'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 10:Đại sư viên tịch

      tỏ ra hào hứng khi có người tung hô,

      tỏ ra phẫn uất khi có kẻ chê trách,

      Kiên tâm vững chí theo đuổi học thuật,

      Ấy mới là phong thái của bậc trí giả chân chính.”

      (Cách ngôn Sakya)




      - Tiểu Lam, từ lâu ta biết ngươi là linh thú, biết tiếng người, có chút phép lực và ngươi theo hai em chúng để tu luyện phép thuật.

      Tôi nghe mà tim đập chân run, hồn bay phách lạc, ước sao có thể phi thân thoát khỏi chốn này.

      giường bệnh, ngài Ban Trí Đạt gầy gò, ốm yếu tưởng chừng chỉ còn da bọc xương, trông ngài chẳng khác nào chiếc lá vàng khô héo, cơn gió cũng có thể thổi bay. Khuôn mặt già nua nhăn nheo, chằng chịt những nếp nhăn sâu trũng và những đốm đồi mồi. Ngài gắng gượng giữ nhịp thở, chừng như muôn phần vất vả, chỉ có đôi mắt sáng lấp lánh trí tuệ là hiển sức sống.

      Có nằm mơ tôi cũng tưởng tượng nổi, trước lúc lâm chung, ngài Ban Trí Đạt lại cho gọi tôi, còn cầu gặp riêng. Khi Kháp Na nhàng đặt tôi bên cạnh giường của đại sư rồi nhàng bước ra ngoài, tim tôi đập thình thịch, lòng hoang mang vô hạn. Chẳng ngờ, tôi chưa kịp mở lời, ngài nhìn thấu tâm can tôi, thế nên tứ chi tôi mềm nhũn, tôi ấp úng, lập cập giải thích:

      - Tôi… nhưng tôi… Thưa đại sư, tôi chưa bao giờ có ý định hãm hại họ…

      Đôi mắt khép hờ của ngài bỗng mở to, ngài khẽ nghiêng người về phía tôi, ánh nhìn sắc lẹm:

      - Nếu ngươi có ý định hãm hại chúng, lẽ nào ta lại để cho ngươi sống đến tận bây giờ?

      Dường như câu ấy khiến ngài hao tổn rất nhiều sức lực, ngài mệt nhọc đổ người xuống chiếc gối, thở dốc, lúc sau mới nhắm mắt lại, lắc đầu:

      - Ngươi đừng lo, ta có ý trách mắng gì ngươi cả. Mấy năm qua, ta vẫn thầm quan sát và nhận thấy ngươi có ý đồ gì xấu với Lâu Cát và Kháp Na. Ngược lại, ngươi giúp đỡ chúng rất nhiều.

      Khối đá đè nặng trong lòng tôi nãy giờ bớt chút đỉnh, tôi thầm thở phào, nhưng vẫn có cảm giác sống lưng lạnh toát.

      Đại sư tiếp tục câu chuyện, nhưng ngài rất vất vả:

      - Sau này ngươi cần lén lút học cách tu tập nữa. Ngay bây giờ, ta truyền cho ngươi bộ phép tu gồm những câu chú tinh diệu, thâm thúy nhất. Người thường học phép tu này chỉ có thể kéo dài tuổi thọ, nhưng loài tinh tu luyện theo phép tu này có thể biến hóa vô cùng, chạy nhanh ngàn dặm.

      Nỗi lo lắng trong tôi hoàn toàn tan biến, tôi vui mừng đến mức chỉ muốn nhảy cẫng lên. Tôi vội vàng tập trung tinh thần, chăm chú ngước nhìn đại sư, vẻ mặt khẩn cầu. Đại sư thở gấp hồi mới lấy lại được hơi sức, ngài :

      - Nhưng ta có điều kiện.

      Tôi cảm thấy có chút hụt hẫng. Kết giao với loài người nhiều năm, tôi hiểu rằng, có thứ gì bỗng dưng từ trời rơi xuống cả.

      Đại sư nhìn tôi bằng ánh mắt sắc nhọn và nghiêm khắc:

      - Ngươi phải lập lời thề, theo hai em chúng, dốc sức bảo vệ chúng bằng mọi phép thuật mà ngươi có, cho đến khi chúng rời bỏ cõi đời này.

      Tôi sững sờ, tôi nghĩ ngài buộc tôi phải tránh xa em họ, nào ngờ… Tôi gật đầu quả quyết, cắn rách ngón chân trước, để máu tươi xuống lòng bàn tay đại sư, kết lại thành vệt sẫm đỏ.

      Đó là cách mà loài thú chúng tôi lập lời thề. Loài thú tùy tiện thề nguyền bởi vì chúng tôi được phép bội ước, nếu , bị trời trừng phạt. Tôi sống thọ hơn loài người rất nhiều, mấy mươi năm ngắn ngủi của đời người có là bao, dùng khoảng thời gian đó để đổi lấy những đạo pháp quý báu, mối giao dịch hời thế này, làm gì có con thú nào từ chối kia chứ! Nhưng lần đầu tiên trong đời lập lời thề, tôi hề nghĩ tới những điều này, từ tận đáy lòng mình, tôi mong muốn được ở bên em họ.

      Tôi quỳ xuống bên giường đại sư, từng câu từng chữ rành rọt cất lên:

      - Thưa đại sư, Lam Kha Mai Đóa xin lập lời thề trước Phật Tổ, cả đời theo Lâu Cát và Kháp Na, dốc hết sức mình bảo vệ họ cho đến khi họ lìa xa cõi đời này.

      Khi ấy tôi hề biết rằng, lời thề đó theo tôi gần bốn mươi năm. Tôi nhìn thấu mọi diện mạo của đời sống con người, nếm trải đủ mùi vị của hợp tan, chứng kiến biết bao cuộc sinh ly tử biệt. Kể từ đó, cuộc đời dằng dặc của tôi có thêm những chương đoạn hấp dẫn nhất, tuyệt vời nhất, khó quên nhất.

      Sau khi tôi lập lời thề, đại sư đổ người xuống chiếc gối dài, thở phào, chừng như thỏa nguyện, yên lòng.

      Ngày trận tuyết lớn nhất mùa đông xuất ở Lương Châu cũng là ngày đại sư Ban Trí Đạt trút hơi thở cuối cùng. Hôm đó, đại sư khoác lên mình chiếc áo cà sa rực rỡ, trang trọng, ngồi xếp bằng đài sen, sau lưng ngài là tượng Bồ Tát Văn Thù, vị Bồ Tát mà giáo phái Sakya sùng bái, toàn bộ tu sĩ trong đền Hoán Hóa và tín đồ quỳ gối trước ngài. Bát Tư Ba và Kháp Na đứng hai bên, đỡ lấy cơ thể chỉ còn lại chút sống yếu ớt của đại sư.

      Khi ấy, đại sư Ban Trí Đạt chủ trì nghi lễ sau cùng, cũng là nghi lễ quan trọng nhất cuộc đời ngài: nghi lễ trao quyền lãnh đạo giáo phái.

      Ngoài kia, nền trời ảm đạm, những bông tuyết trắng ào ạt tuôn rơi, lớp tuyết phủ mặt đất cao đến tận đầu gối. Ở đây, giữa đại điện, bầu khí trầm buồn, yên ắng, chỉ có duy nhất tiếng củi cháy lép bép bếp than. Sau khi trao tù và [1] và y bát [2] cho Bát Tư Ba, đại sư Ban Trí Đạt cầu các môn đồ và tín đồ làm lễ bái lạy vị pháp vương mới. Nghi lễ kết thúc, ánh mắt đại sư dồn về phía Bát Tư Ba:

      - Lâu Cát, bây giờ con hãy quỳ xuống trước mặt ta, nhắc lại toàn bộ lời thề mà hôm qua con thề với ta trước chứng giám của Phật Tổ và các đệ tử, tín đồ phái Sakya có mặt ở đây.

      Giọng đại sư tuy yếu ớt nhưng chứa đựng uy nghiêm thể kháng cự. Bát Tư Ba quỳ xuống tấm thảm, thành khẩn vái lạy:

      - Xin Phật Tổ chứng giám, xin bác làm chứng cho con: Lạc Truy Kiên Tán xin thề trọn đời náu thân nơi cửa Phật, phụng thờ Phật Tổ, vinh danh giáo phái Sakya, giáo hóa chúng sinh, bảo vệ và thống nhất đất Tạng.

      Dưới ánh sáng lung linh của dãy đèn dài, gương mặt cương nghị của Bát Tư Ba toát lên khí khái kiên định, vững vàng, đó là thứ ánh sáng rực rỡ, huyền hoặc của sao Mai dần trỗi lên giữa nền trời nhung gấm.
      <div>

      <hr align="left" size="1" width="33%" />


      [1] Loại nhạc cụ được làm từ sừng trâu, sừng bò hoặc vỏ ốc, thanh phát ra từ loại nhạc cụ này vang rất xa. Tù và trong tiếng Phạn có tên gọi Dharma Sankha, là khí cụ thường được sử dụng trong các buổi lễ cúng bái của Phật giáo Tây Tạng. Trong các cuốn kinh văn, thanh trầm bổng, vang vọng của loại khí cụ này thường được ví với thanh kỳ diệu ngân vang khi Phật Tổ thuyết pháp. (DG)

       

      [2] Chỉ áo cà sa và cái bát của người tu hành, đây là những vật dụng mà các các nhà sư truyền lại cho môn đồ sau khi viên tịch, việc truyền lại y bát cũng tượng trưng cho việc trao lại quyền năng cho người kế tục.

      +++++++++
      Đại sư Ban Trí Đạt gật đầu hài lòng, nhắm mắt lại nghỉ ngơi lấy sức, lúc sau mới tiếp tục căn dặn:

      - Năm hai mươi tuổi con thọ giới Cụ túc để trở thành tăng nhân thực . Ta những mong đích thân thọ giới cho con nhưng xem ra, ta chẳng thể chờ đến ngày ấy. Nhưng ta gửi thư về Sakya, sau khi ta qua đời, con hãy lập tức lên đường trở về Sakya, đại đệ tử Ngũ Do Ba chủ trì buổi lễ thọ giới Cụ túc cho con. – Nhắc đến cố hương, vị đại sư ngước nhìn phía trước, ánh mắt ngập tràn nỗi nhớ thương, lưu luyến. – Ta xa quê năm năm, tiếc rằng chẳng còn cơ hội quay lại. Lâu Cát, giờ đây con là lãnh tụ của giáo phái Sakya, con nhất định phải trở về chỉnh đốn lại giáo phái.

      Bát Tư Ba đáp lời trong tiếng nức nở thống thiết.

      Căn dặn Bát Tư Ba xong xuôi, gương mặt mệt mỏi của đại sư quay sang Kháp Na:

      - Kháp Na, vì là con út nên trách nhiệm của con là phải sinh con đẻ cái, nối dõi tông đường, kế tục huyết mạch của dòng họ Khon. Ta biết con và Công chúa chung sống hòa hợp, bởi vì tuổi tác cách biệt quá lớn, quả rất khó cho các con. Nếu Công chúa thể sinh hạ huyết mạch của nhà họ Khon, ngày sau con hãy cưới người con có thân phận cao quý khác làm vợ.

      Kháp Na sững sờ, sau đó cúi đầu yên lặng hồi lâu, hẳn là cậu ấy phải quyết tâm lắm mới cất được những tiếng dè dặt:

      - Thưa bác, con mới mười ba tuổi, con… con muốn kết hôn nữa…

      - Kháp Na! – biết sức mạnh nào giúp ngài Ban Trí Đạt lớn tiếng nghiêm khắc như vậy. – Con phải nhớ rằng, trách nhiệm với gia tộc vĩnh viễn quan trọng hơn tình cảm cá nhân!

      Vì quá xúc động, đại sư đổ nhào xuống. Bát Tư Ba và Kháp Na vội vã chạy lại đỡ ngài, vuốt ngực cho ngài. Khi lấy lại nhịp thở đều đặn, đại sư nghiêm mắt nhìn Kháp Na, cánh tay chực đưa lên lại đổ xuống vì mất sức.

      - Trước khi ta qua đời, con hãy thề độc .

      Bát Tư Ba kéo áo em trai, ra hiệu bằng ánh mắt. Kháp Na quỳ sụp dưới đất, dập đầu tấm thảm, cắn răng thốt ra từng tiếng nặng nhọc:

      - Phật Tổ cao chứng giám, Kháp Na Đa Cát xin thề nghe theo lời chỉ dạy của bác, nhất định sinh hạ huyết mạch của dòng họ Khon, nối dõi tông đường.

      Khi Kháp Na ngẩng lên, những giọt nước mắt dồn tụ nãy giờ tràn khỏi khóe mắt, xuống tấm đệm, tựa hồ những hạt trân châu tuôn rơi khi sợi dây gắn kết bị đứt.

      Sau khi nghe Kháp Na thề nguyện, gương mặt đại sư Ban Trí Đạt phảng phất nụ cười mãn nguyện trước lúc lâm chung:

      - Lâu Cát, Kháp Na, các con phải ghi nhớ những lời thề này suốt cuộc đời…

      Ngày Mười bốn tháng Mười năm 1251, đại sư Ban Trí Đạt của phái Sakya viên tịch tại ngôi đền Hoán Hóa, hưởng thọ bảy mươi tuổi. Bát Tư Ba trở thành vị pháp vương thứ năm của giáo phái Sakya khi mới mười bảy tuổi.

      Trong buổi đại lễ ra mắt tân pháp vương ngay sau đó, Bát Tư Ba khoác áo cà sa rực rỡ, trang trọng mà trước đó người bác của cậu từng mặc, đầu đội mũ ngũ sắc, tọa đài sen tráng lệ, thần thái trang nghiêm khi tiếp nhận nghi thức vái lạy của tín đồ và tăng chúng. Bát Tư Ba ở đài cao, lưng vươn thẳng như cây bạch dương, dung mạo thanh tú, thần thái thoát tục, mọi cử chỉ, hành động đều rất mực chỉn chu, khoan thai, đĩnh đạc. Người ta có thể dễ dàng nhận thấy ở cậu phong thái của bậc cao tăng tương lai.

      Dù biết sớm muộn gì cũng đến ngày này, sớm muộn cậu ấy cũng trở thành người nhà Phật, nhưng vào khoảnh khắc Bát Tư Ba khoác lên mình chiếc áo cà sa trang trọng ấy, lòng tôi bất giác buồn vô hạn.

      tháng sau ngày đại sư Ban Trí Đạt viên tịch, Vương gia Khoát Đoan cũng qua đời vì bệnh tật. Sau khi Khoát Đoan qua đời, con cháu của ngài còn được sống những ngày tháng huy hoàng như trước nữa.

      Nghe đến đây, chàng trai trẻ đưa ra bình luận sắc sảo:

      - Khoát Đoan là con trai của Oa Khoát Đài, em trai của Quý Do. Sau khi quyền lực được chuyển từ chi hệ Oa Khoát Đài sang chi hệ Đà Lôi, chắc chắn con cháu của Oa Khoát Đài thất thế, gia đình Khoát Đoan cũng tránh khỏi bị ảnh hưởng.

      Tôi bổ sung:

      - Sau khi lên ngôi, Mông Kha ra tay trừng trị tất cả đám con cháu của Oa Khoát Đài – những kẻ năm xưa phản đối ông ta kế vị Khả hãn. Tuy gia đình Khoát Đoan bị liên lụy vì quan hệ của Khoát Đoan và Mông Kha xưa nay vẫn rất tốt đẹp, nhưng vì thế mà nhiều vùng đất thuộc quyền cai quản của Khoát Đoan bị tước , trong đó có cả vùng Tây Tạng. Khi bệnh trạng ở vào giai đoạn nguy kịch, Khoát Đoan vẫn lệnh cho con trai Khởi Tất Thiếp Mộc Nhi hộ tống Bát Tư Ba đến gặp Hốt Tất Liệt, thực ra, mục đích chính của Khoát Đoan là muốn gây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa con trai với vị tướng soái khi đó nắm giữ quân quyền trong tay.

      Chàng trai trẻ chau mày:

      - Mông Kha tước bỏ quyền cai trị Tây Tạng của Khoát Đoan, điều này đồng nghĩa với việc vị thế mà Khoát Đoan xây dựng cho phái Sakya ở Wusi cũng tan biến. Thêm vào đó, sau khi Khoát Đoan qua đời, người nào trong số con cháu của ông ta có thế lực lớn trong vương triều Mông Kha, vậy giáo phái Sakya hẳn lâm vào tình cảnh khốn đốn…

      Tôi gật đầu đồng tình:

      - Đúng là như vậy! Tuy lúc này ở Lương Châu, Bát Tư Ba và Kháp Na vẫn nhận được hậu đãi của gia tộc Khoát Đoan, nhưng ở Tây Tạng, địa vị của giáo phái Sakya bắt đầu có dấu hiệu lung lay.

      Tôi ngước nhìn màn đêm mịt mù ngoài cửa sổ, buột miệng thở dài:

      - Đại sư Ban Trí Đạt ra , để lại cho Bát Tư Ba cả núi nguy cơ chất chồng…

    2. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      Chương 11 : theo Hốt Tất Liệt

      “Người uyên bác, trí tuệ và đa mưu túc trí,

      dễ dàng thuyết phục kẻ nắm uy quyền;

      Đại bàng tuy thống trị bầu trời,

      Nhưng bằng lòng làm vật cưỡi của tiên ông.”

      (Cách ngôn Sakya)
       

      Năm 1253, tức năm Quý Sửu, Hỏa theo lịch Tạng, tức niên hiệu Bảo Hựu thứ nhất, nhà Nam Tống, tức niên hiệu Mông Kha Hãn thứ ba, Mông Cổ.

      Bát Tư Ba mười chín tuổi, Kháp Na mười lăm tuổi, Hốt Tất Liệt ba mươi tám tuổi.

      - Em tỉnh rồi à?

      Tôi uể oải hé mắt, bắt gặp nụ cười tươi rói, rạng rỡ hơn cả ánh mặt trời ghé sát bên mình. Đưa mắt nhìn xung quanh, thấy màn đêm bao phủ, đoàn người dựng trại khu đất trống, bằng phẳng. Tôi thiếp chiếc chiếu trải trong lán trại của cậu ấy, sợ đêm núi khiến tôi bị lạnh, cậu ấy chu đáo đắp cho tôi mảnh chăn. Bát Tư Ba bóp đầu mũi tôi, nở nụ cười ấm áp:

      - Lần này tiến bộ nhiều lắm, em chỉ thiếp có ba ngày, tám canh giờ, ít hơn lần trước hai canh giờ.

      Tôi ngượng ngùng biết sao.

      Mười bảy tuổi trở thành lãnh tụ của giáo phái, tháng Tám, năm thứ hai sau khi trở thành tân pháp vương Sakya, Bát Tư Ba tổ chức nghi lễ khai quang [1] tòa tháp thờ linh vị đại sư Ban Trí Đạt tại Lương Châu. Sau đó, cậu lên đường trở về Sakya từ hướng Dogans [2] theo di nguyện của người bác. Cậu phải trở về Sakya trước sinh nhật lần thứ hai mươi để chịu lễ thọ giới Cụ túc do đại đệ tử Ngũ Do Ba của đại sư Ban Trí Đạt chủ trì. Chuyến này kéo dài năm, Bát Tư Ba trải qua sinh nhật tuổi mười chín của mình trong cỗ xe ngựa tròng trành những cung đường quanh co, hiểm trở.

      Tôi vọt lên lòng cậu ấy, ngước nhìn nụ cười ấm áp của cậu ấy, báo tin khẩn:

      - Kháp Na nhờ tôi với cậu, cậu ấy nhận được thư từ Sakya gửi đến, báo tin đại sư Ngũ Do Ba viên tịch từ hai năm trước, ngài mất sau đại sư Ban Trí Đạt khoảng ba ngày.

      Kể từ lúc Bát Tư Ba lên đường, tôi gánh trọng trách đưa tin cho hai em họ. Sau khi được đại sư Ban Trí Đạt truyền cho phương pháp tu luyện quý báu, phép thuật của tôi ngày càng tiến bộ, cơ thể như chim én, tốc độ nhanh như bay, chỉ bốn hoặc năm canh giờ là tôi có thể chạy cả ngàn dặm đường. Nhưng điều đáng xấu hổ là, cứ chạy đến nơi là tôi ngã vật ra, ngủ li bì mấy ngày liền. Nản quá, ràng là tôi học hành đến nơi đến chốn đây mà!

      Xa quê hương gần mười năm, Bát Tư Ba còn nhớ dung mạo của đại sư Ngũ Do Ba nữa, chỉ nhớ mang máng rằng, đó là ông lão hiền từ, nhân hậu. Nghe tin đại sư qua đời, Bát Tư Ba trở nên trầm buồn, cậu chắp tay, nhắm mắt tụng niệm đoạn kinh văn. Tôi ở bên bầu bạn với cậu, cùng chia sẻ nỗi buồn. Tôi hỏi:

      - Bây giờ cậu tính thế nào? Có trở về Sakya nữa ?

      Sau năm trời vượt núi cao, sông sâu, lúc này chúng tôi tiến vào địa phận của vùng Đức Khâm, thuộc Vân Nam, cách La-ta, cố đô của vương triều Tufan còn bao xa nữa. Tuy nhiên, từ La-ta đến Sakya còn phải vượt qua mấy ngọn núi tuyết sừng sững, hiểm trở, hành trình này cũng mất chừng nửa năm. Năm mười tuổi, Bát Tư Ba rời xa đất Tạng nên giờ đây, cậu ấy rất khó thích nghi với khí hậu vùng cao nguyên băng giá này, đường , thường hay bị nhức đầu, khó thở, nhưng cậu ấy luôn kiên cường chịu đựng. Mùa đông sắp tới gần, các đỉnh núi, tuyết trắng bao phủ, đường càng gian nan. Bởi vậy, tôi luôn cầu mong, với lý do này, cậu ấy tiếp nữa.

      Bờ môi của cậu ấy nứt nẻ, tím tái vì thiếu dưỡng khí nhưng vẻ mặt nghiêm nghị, kiên định, từng lời thốt ra chắc như đinh đóng cột:

      -  Chắc chắn về! Ta viết thư mời các vị cao tăng đại đức khác chủ trì buổi lễ thọ giới Cụ túc cho ta. Ta rời đất Tạng khi tuổi còn quá nên mối quan hệ giao hảo với các giáo phái khác ở quê hương mấy khăng khít. Ta muốn nhân dịp này, mời tôn sư của các giáo phái lớn đến chủ trì lễ thọ giới Cụ túc cho ta, để khỏa lấp những cách ngăn giữa ta với họ bấy lâu nay.

      Cậu ấy vuốt ve sống lưng tôi, trầm ngâm hồi lâu, giọng bỗng chất chứa nỗi xót xa:

      - Tuy bác ta lập ta làm pháp vương, nhưng chỉ e các thế lực khác trong giáo phái Sakya chịu phục tùng. Nếu đại sư Ngũ Do Ba còn sống, với danh tiếng của danh sư đức cao vọng trọng, chắc chắn ngài thuyết phục được mọi người. Nhưng ngài viên tịch, ta lo rằng nội bộ phái Sakya xảy ra tranh chấp. Bởi vậy, ta nhất định phải trở về.

      Trong lòng tôi cũng canh cánh nỗi bất an. Em trai thứ hai và thứ ba của Bát Tư Ba năm nay cũng mười chín tuổi, và họ có chút quyền thừa kế chỉ vì luật lệ đặc biệt của giáo phái này. Bây giờ, khi đại sư Ngũ Do Ba viên tịch, rất có thể hai người em trai và các thế lực của gia tộc họ ngoại của họ sinh lòng đố kỵ, muốn tranh đoạt quyền lực. Thêm vào đó, họ lại sinh ra và trưởng thành ở Sakya, có lợi thế của cư dân bản địa.

      - Lâu Cát à, Kháp Na còn thông tin nữa muốn báo cho cậu. – Tôi gõ gõ bộ vuốt lên đầu, ra sức nhớ lại mớ thông tin khô khan, phức tạp đó. – Mông Kha Hãn ban bố chiếu thư, chia đất Tạng cho các em trai của ngài là Hốt Tất Liệt, Húc Liệt Ngột và A Lý Bất Ca làm đất phong vương.

      Mặt mày biến sắc, đôi môi của Bát Tư Ba càng tím tái:

      - Vậy… còn phái Sakya sao?

      - Được cắt cho công tử Khởi Tất. Nhưng công tử Khởi Tất cũng chỉ được cai quản vùng Sakya, vùng đất đai khác thuộc Wusi đều bị tước.

      Tôi thở dài ảo não. Sakya thuộc vùng Hậu Tạng nghèo nàn, hẻo lánh, dân quá vài nghìn, đất canh tác quá nghìn mẫu. Xem ra, Mông Kha Hãn muốn tống khứ triệt để cháu con nhà Khoát Đoan ra khỏi trung tâm quyền lực của đất Tạng rồi!

      Bát Tư Ba đặt tôi xuống chiếu rồi đứng lên, lại lại trong lán, dưới ánh sáng leo lét của ngọn đèn dầu chiều muộn, gương mặt cương nghị với những đường nét như tạc tượng của cậu toát lên vẻ suy tư, đăm chiêu, già dặn tương xứng với lứa tuổi của cậu. Cậu ấy trầm tư rất lâu mới quay lại nhìn tôi:

      - Lam Kha, ta nhờ em việc: hãy về đất Tạng trước và nghe ngóng xem phản ứng của các giáo phái lớn đối với chiếu thư của Mông Kha Hãn ra sao.
      <div>

      <hr align="left" size="1" width="33%" />


      [1] nghi thức của Phật giáo. Sau khi hoàn tất tòa tháp, bức điêu khắc tượng Phật,… tín đồ Phật giáo chọn ngày lành tháng tốt, tổ chức nghi lễ kéo tấm vải niệm đỏ phủ công trình kiến trúc xuống, đánh dấu việc bắt đầu thờ cúng tượng Phật, tháp thiêng đó. (DG)



      [2] Dogans: tiếng Trung Quốc cận đại gọi tắt là vùng Khang, chỉ phía đông bắc Xương Đô, Tây Tạng ngày nay, là bộ phận của khu tự trị tộc người Tạng, huyện Ganzi và huyện Aba, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. (DG)

      Vừa mới gặp lại cậu ấy, còn chưa kịp hỏi han câu nào phải lên đường, tôi thực muốn chút nào nhưng chẳng dám ra, chỉ lặng lẽ thở dài, ai bảo tôi thề độc trước mặt đại sư Ban Trí Đạt rằng theo hai em họ kia chứ!

      Đêm đó, tôi nằm cạnh chiếu ngủ của cậu ấy như mọi khi. Sống chung với con người lâu nhưng tôi vẫn thể thích nghi hoàn toàn với thói quen thức giấc khi mặt trời mọc và nghỉ ngơi khi mặt trời lặn của họ. Ban đêm, tôi ngủ rất ít và vẫn rất cảnh giác như trước đây. Ngoài kia, gió lớn ào ào thổi những bông tuyết trắng tuôn rơi ràn rạt. Trong đêm khuya, tôi nằm nghe tiếng ngáy lúc dài lúc ngắn của tên lính gác, tiếng tru của loài sói từ xa vọng lại. Lò than vẫn hồng rực, xua cái giá lạnh thấu xương, sưởi ấm giấc ngủ cho người trong lán. Tôi quay lại ngắm nhìn cậu ấy. Dưới ánh sáng lung linh của tàn lửa, khuôn ngực cậu ấy phập phồng, nhịp thở đều đều, những sợi râu lún phún chiếc cằm thanh tú, chiếc cổ dài khẽ rung động. Cậu ấy trưởng thành rồi. Tôi lẳng lặng liếm những vết nứt nẻ vì giá rét bờ môi tím tái của cậu ấy. Làn môi của cậu ấy vẫn mềm mượt, ngọt ngào như hương vị mà tôi quen thuộc suốt mấy năm qua. Sợ cậu ấy giật mình tỉnh giấc, tôi vội vã úp mặt xuống giả vờ ngủ, trong lồng ngực, trái tim tôi loạn nhịp.

      Sáng sớm hôm sau, khi cậu ấy còn chưa tỉnh giấc, tôi lên đường.

      Vài ngày sau, trong cỗ xe ngựa tròng trành, tôi trở về báo cáo tình hình với Bát Tư Ba:

      - Các giáo phái lớn đều nhân cơ hội này tạo dựng mối quan hệ với các vương gia. Mông Kha Hãn triệu mời đại sư Dorje của phái Pagmodru và đại sư Karmapa của phái Karma Kagyu vào cung điện của ông ta để thuyết giảng Phật pháp.

      Bát Tư Ba thoáng sững sờ, xe ngựa rung lắc dữ dội, cậu bị cộc đầu vào khung cửa nhưng chẳng bận tâm đến vết thương, cất giọng khẽ khàng mà chất chứa phiền muộn:

      - Phái Sakya được mời ư?

      Phái Sakya được mời đến hoàng cung, có nghĩa là được Mông Kha Hãn xem trọng. Tôi thở dài, lẳng lặng liếm vết thương sưng tấy trán cậu ấy, chần chừ hồi lâu mới thông báo tin tức còn tệ hơn nữa:

      - Tôi nghe , chỉ vì tranh chấp giáo dân ở vùng Gyantse [1] mà hai giáo phái Sakya và Pagmodru xảy ra xung đột. Đại sư Shakya Zangpo, người giữ chức bản khâm [2] của Sakya thay đại sư Ngũ Do Ba đường đến La-ta để tranh luận với giáo phái Pagmodru về cuộc xung đột này.

      - Quả nhiên là vậy! – Vẻ mặt Bát Tư Ba càng lộ nét ưu tư. – Ta e rằng năm xưa, khi phái Sakya dựa vào thế lực của Vương gia Khoát Đoan để hiệu triệu toàn đất Tạng gây nên bất mãn trong các giáo phái lớn khác. Giờ đây, Mông Kha Hãn…

      Chưa kịp hết câu, cỗ xe bỗng nhiên nghiêng ngả dữ dội rồi đột ngột dừng lại.

      Tiếng hô hoán ồn ã phía trước xen lẫn tiếng ngựa hí chát chúa. Chúng tôi chưa hết ngạc nhiên có người bẩm báo:

      - Bẩm ngài, phía trước có đoàn quân Mông Cổ, khoảng vài trăm nghìn người. Khe núi này quá hẹp, chúng ta phải nhường đường cho họ, e là đêm nay phải dựng trại ở đây.

      Bát Tư Ba ôm tôi vào lòng, vén tấm rèm cửa nặng trịch:

      - Ai là người dẫn đầu đoàn quân đó?

      - Bẩm, là Vương gia Hốt Tất Liệt, người thống lĩnh quân đội phía nam ạ!

      Chính là người đó, con trai của con trai út của Thành Cát Tư Hãn, em trai của đương kim Đại hãn Mông Cổ, vị vương gia quyền thế lẫy lừng! Hai năm trước, tại Lục Bàn Sơn, Hốt Tất Liệt từng gặp nhà sư trẻ mười bảy tuổi Bát Tư Ba và hết lời khen ngợi cậu ấy. Nghe Mông Kha Hãn cử Hốt Tất Liệt dẫn quân đánh chiếm Vân Nam, chẳng trách lại gặp ngài ở chốn này. Bát Tư Ba lệnh cho đám tùy tùng hạ trại ven đường, sau đó khoác lên mình tấm áo tăng ni sạch , chuẩn bị gặp cố nhân. Tôi mới học được phép thân, rất muốn biết hiệu quả ra sao nên niệm thần chú, lặng lẽ theo Bát Tư Ba đến doanh trại của Hốt Tất Liệt.

      Vương gia Hốt Tất Liệt khoác áo lông cừu, thân hình cao lớn, tráng kiện, hàm én mày ngài, khuôn mặt vuông vức, dáng vẻ bệ vệ, uy nghi, ở ngài toát lên khí chất của bậc đế vương tương lai. Bụng ngài phệ hơn so với hai năm trước, nếp nhăn nơi khóe mắt sâu hơn nhưng hào khí lẫm liệt như chim ưng sải cánh thảo nguyên, vốn là nét đặc trưng của các đấng nam tử Mông Cổ vẫn còn nguyên vẹn.

      Gặp lại Bát Tư Ba giữa vùng núi non hiểm trở, heo hút của dải đất Vân Nam mênh mông này, ngài mừng lắm. Sau màn chào hỏi xã giao, Vương gia Hốt Tất Liệt mời Bát Tư Ba vào lán trại, hai người chuyện trò, đàm đạo rôm rả. Vương gia , sau khi trận chiến Vân Nam kết thúc, ngài đến Ngũ Hành Sơn bái Phật và trân trọng mời Bát Tư Ba lưu lại trong doanh trại để cùng ngài tới đó. Nghĩ đến lễ thọ giới Cụ túc sắp tới, Bát Tư Ba có phần do dự.

      Hốt Tất Liệt nhiệt thành đề nghị Bát Tư Ba cùng, ngài vuốt bộ râu quai nón rậm và dày, cười bảo:

      - Ta định cử người đến Wusi trưng thu quân lương, mừng thay lại gặp được pháp sư ở đây. Liệu ngài có thể thay ta làm việc đó khi đại quân của ta tiến đánh Vân Nam hay ? Được vậy, đại quân của ta phải lo lắng về vấn đề lương thực nữa.

      Bát Tư Ba biến sắc mặt, cuống quýt cúi thưa:

      - Tufan là vùng xa xôi, hẻo lánh, đất đai cằn cỗi, dân cư thưa thớt, làm sao cáng đáng nổi nhiệm vụ cung cấp lương thực cho cả đại quân Mông Cổ? Xin Vương gia niệm tình lê dân Tufan khốn khổ, nghèo đói mà xá miễn nhiệm vụ này.

      người ở ngôi cao như Hốt Tất Liệt làm sao chấp nhận được cự tuyệt thẳng thắn như thế? Sau câu của Bát Tư Ba, ngài sa sầm nét mặt. Nhưng Bát Tư Ba là người rất có nguyên tắc, cậu ấy bao giờ chịu cúi đầu trước uy quyền. Vị pháp sư trẻ tuổi vẫn hiên ngang đón ánh mắt giận dữ của Vương gia, hề sợ hãi. Chỉ trong khoảnh khắc, bầu khí hân hoan lúc đầu tan biến. Hốt Tất Liệt hầm hừ nạt nộ:

      - Việc quân cơ phải được xếp ở vị trí số , thể chỉ vì lòng nhân từ yếu đuối mà lơ là quân dịch được. Nếu muốn thương xót lê dân bá tính chờ ngày đại quân giành thắng lợi, ta ban bố lệnh xá miễn quân dịch cũng chưa muộn. Ngài bằng lòng giúp ta, ta ép ngài, ta cử người khác vậy.

      Tuy già dặn trước tuổi nhưng dù sao Bát Tư Ba cũng chỉ là thanh niên mười chín tuổi, nghe vậy, cậu liền chắp tay, khảng khái trả lời:

      - Nếu vậy, tăng nhân của đất Tufan còn lý do gì để lưu lại đây thêm nữa, xin Vương gia hãy cho phép bần tăng trở về Sakya.

      Mất hết thể diện, Hốt Tất Liệt nổi giận đùng đùng, ngài hất tay áo, gằn giọng:

      - Được thôi, ngài về !

      - Kìa Đại vương!

      Giọng ngọt như mật của ai đó rót vào tai, lập tức xua tan cơn nộ khí dần bốc cao của Hốt Tất Liệt. Mỹ nhân kiều diễm ngồi bên cạnh Vương gia khàng vén gọn lớp lông chồn gắn ở cổ tay áo, để lộ những ngón tay ngọc ngà, ý nhị ấn khẽ lên mu bàn tay gân guốc của Hốt Tất Liệt:

      - Xin Đại vương bớt giận! Hai năm trước gặp đại sư Bát Tư Ba, ngài hết lời khen ngợi kia mà, cớ gì hôm nay lại nổi giận vì chút chuyện cỏn con ấy?

      Tôi từng thấy người phụ nữ tuyệt sắc này trong doanh trại của Hốt Tất Liệt hai năm trước. ấy là Vương phi Khabi, được Hốt Tất Liệt rất mực sủng ái. Thông thường, phụ nữ được theo đoàn quân, nhưng cả hai lần tôi đều được chứng kiến người phụ nữ này đường hoàng ở bên cạnh Vương gia Hốt Tất Liệt, còn tham dự các hội nghị, các buổi yến tiệc cùng tướng sĩ. Hẳn là ấy phải có điều gì đó đặc biệt ngoài nhan sắc mới khiến Hốt Tất Liệt say mê đến vậy.
      <div>

      <hr align="left" size="1" width="33%" />


      [1] Huyện Gyantse nằm phía nam khu tự trị Tây Tạng, phía đông Shigatse, nằm vùng thượng du sông Nyangqu. (DG)



      [2] Bản khâm tương đương với trụ trì, là người cai quản giáo xứ Sakya.

      Vương phi Khabi ghé sát tai Hốt Tất Liệt thào, thính giác nhạy bén giúp tôi nghe được trọn vẹn những lời ấy :

      - Khi chia khu vực Wusi cho các em cai quản, Mông Kha Hãn chia cho Đại vương vùng đất nghèo nàn nhất, khiến ngài rất bất mãn, ngài còn nhớ chứ? Nghe , các em của ngài đều ra sức gây dựng mối quan hệ khăng khít với các giáo phái lớn ở Wusi, trừ giáo phái Sakya. Sakya từng được Khoát Đoan tôn làm giáo phái thủ lĩnh của vùng Wusi nên có sức ảnh hưởng sâu rộng đến vùng đất bao la ấy. Nếu Đại vương muốn khống chế Wusi giáo phái Sakya bị ghẻ lạnh nay chính là món quà hậu hĩnh mà Phật Tổ tặng cho ngài. Xin Đại vương đừng bỏ lỡ hội ngàn năm có này!

      Tôi giật mình sửng sốt, người phụ này quả đơn giản, ấy suy nghĩ rất thấu đáo và sáng suốt, phản ứng nhanh nhạy, phân tích sắc bén, chả trách Hốt Tất Liệt cầm quân đánh trận cũng đưa ấy theo. Hốt Tất Liệt như vừa tỉnh cơn mơ, hạ thấp giọng, gật gù:

      - Vương phi chí phải.

      Khabi nháy mắt với Hốt Tất Liệt rồi làm bộ cười đon đả, cất cao giọng để những người có mặt đều có thể nghe :

      - Đại vương, tuy bên cạnh ngài vẫn có các đại sư phái Shangpa Kagyu nhưng luận về học vấn và công đức, pháp sư Bát Tư Ba tuổi trẻ tài cao của chúng ta đây hơn hẳn. Ngài nên giữ pháp sư ở lại với chúng ta. Những chuyện quân cơ quân vụ đó để sau hãy tính, có được ?

      Quay sang Bát Tư Ba, Khabi cất giọng hết sức tự nhiên, cởi mở:

      - Thần thiếp nóng lòng muốn được pháp sư truyền giảng về nghi lễ quán đỉnh Hevajra vô cùng đặc sắc của phái Sakya. Hai năm trước, lúc còn ở Lục Bàn Sơn, thiếp có ý này rồi, tiếc thay đại sư Ban Trí Đạt bệnh nặng qua đời, pháp sư phải lập tức trở về Lương Châu nên nguyện vọng của thiếp đành tạm gác lại cho đến hôm nay. Liệu pháp sư có thể giúp thần thiếp được thỏa nguyện hay ?

      Bát Tư Ba hiểu rằng Vương phi làm vậy là để xoa dịu bầu khi căng thẳng khi nãy. Cậu ấy là người thông minh, nhạy bén, biết thời biết thế, ứng xử khéo léo nên lập tức chắp tay thưa rằng:

      - Vương phi có lòng thành tâm hướng Phật như vậy, bần tăng đâu thể khước từ.

      Khabi cười tươi như hoa, mỗi lời thốt ra như nhả ngọc phun châu, mưa xuân phơi phới, đám nam nhi trong lán ai nấy đều gật gù tán đồng. Bằng tài ăn khéo léo của mình, Khabi giúp cho buổi tiệc trở lại bầu khí hân hoan lúc đầu.

      Tối hôm đó, Bát Tư Ba lưu lại trong doanh trại của Hốt Tất Liệt. Chờ khi chỉ còn mình cậu ấy trong lán, tôi hóa phép trở lại nguyên hình. Mỗi lần sử dụng phép thuật như vậy, tôi đều rất mệt mỏi, chỉ lát là chìm vào giấc ngủ mê mệt. Tinh mơ hôm sau, tôi tỉnh lại và hoảng hốt khi bắt gặp hai quầng mắt thâm đen của cậu ấy.

      Nhưng Bát Tư Ba chẳng hề bận tâm, cậu ấy bước ra khỏi lán trại, vốc tuyết lên rửa mặt, xong xuôi, cậu ấy phủi sạch tàn tuyết tay, hít hơi sâu rồi quay đầu lại nhìn tôi:

      - Lam Kha, chúng ta về Sakya nữa. Nếu như cơ duyên cho ta gặp lại Đại vương Hốt Tất Liệt, vậy đây chính là chỉ ý của Phật Tổ. Chúng ta hãy cùng ngài hành hương về Ngũ Đài Sơn.

      - Vậy… – Tôi chưa hiểu hết chuyện này. – Vậy còn lễ thọ giới Cụ túc của cậu?

      - Ta đành tìm ngôi chùa nào đó và mời người khác chủ trì buổi lễ vậy. Tình thế cấp bách, ta buộc phải đưa ra quyết định.

      Hơi thở của cậu ấy phả vào gian những sợi trắng bồng bềnh, Bát Tư Ba ngước nhìn dãy núi tuyết trắng xóa uốn lượn trùng điệp, vẻ ưu tư hiển giữa hai hàng lông mày thanh tú:

      - Thời điểm này mà trở về Sakya cũng thể giải quyết được vấn đề gì. Ta phải ở lại bên cạnh Đại vương Hốt Tất Liệt, chờ đợi thời cơ để thay đổi cục diện bất lợi nay của phái Sakya.

      - Buồn ngủ chưa? – Tôi mỉm cười hỏi chàng trai trẻ. – Khuya rồi đó.

      Ánh mắt nhìn tôi thoáng mơ màng nhưng cậu ta tỉnh lại rất nhanh, lắc đầu quầy quậy:

      - sao, sao, trò chuyện cả đêm cũng hề gì. bảo rằng, khi nào trời sáng, tôi phải rời khỏi đây và bao giờ gặp lại nữa nên tôi phải tận dụng thời gian lắng nghe câu chuyện của .

      Tôi lắc đầu cười, lôi trong tủ ra chiếc chăn lông cừu dày bịch, đưa cho chàng trai đắp lên người, tiếp tục câu chuyện:

      - Mông Kha Hãn chia đất Tạng cho các em làm đất phong, các giáo phái ở Tây Tạng buộc phải suy xét đến tồn vong và phát triển của giáo phái mình bằng cách bợ đỡ, dựa dẫm vào hoàng thất Mông Cổ. Kể từ thời điểm này cho đến đời nhà Thanh, nếu giáo phái muốn chiếm ưu thế tuyệt đối so với các thế lực khác, muốn nắm giữ quyền cai trị Tây Tạng trong tay, đều phải giành ủng hộ của triều đình trung ương. Đổi lại, triều đình trung ương cũng cần phò trợ các giáo phái này vì họ chính là người đại diện cho triều đình tại địa phương để đảm bảo an ninh vùng biên cương.

      Chàng trai trẻ nhấp ngụm trà bơ cho dịu giọng, kéo cao tấm chăn, quấn kín người:

      - Đúng vậy. Ví như phái Gelug, giáo phái này vốn phải giáo phái lớn, nhưng sau khi vị Đạt Lai Lạt Ma thứ năm của họ đến Bắc Kinh diện kiến Hoàng đế Thuận Trị, giáo phái này chiếm được ưu thế tuyệt đối và có quyền thống trị đất Tạng.

      - Năm 1253, Bát Tư Ba mười chín tuổi, cậu tình cờ gặp lại Hốt Tất Liệt ở Vân Nam. Khi ấy, cảm quan chính trị nhạy bén thôi thúc Bát Tư Ba đưa ra quyết định quan trọng là theo Hốt Tất Liệt.

      Tôi ngước nhìn màn đêm đen như mực ngoài cửa sổ, đêm khuya thanh vắng, chỉ có tiếng chuông gió lanh canh vẫn rộn ràng ngoài hiên.

      - Phái Sakya lâm vào tình cảnh khốn đốn, họ buộc phải tìm kiếm cây đại thụ khác. Đúng lúc ấy, người đầy dã tâm và có thực lực là Hốt Tất Liệt xuất . Kể từ đó, Bát Tư Ba theo ngài, cho đến khi qua đời.

    3. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 12 :Lễ bái sư


      “Muốn lưu tiếng thơm cho mình,

      Trước hết hãy làm việc thiện;

      Muốn sửa dung nhan, hình vóc

      Trước hết phải lau gương soi.”

      (Cách ngôn Sakya)




      Những tháng cuối năm 1253, thời tiết giá buốt bất thường, đến nỗi hơi thở cũng bị đóng băng. Bát Tư Ba lưu lại trong doanh trại của Hốt Tất Liệt, giữa vùng núi non hiểm trở, heo hút ở Vân Nam, chờ mệnh lệnh tiếp theo của Mông Kha Hãn. Những lúc rảnh rỗi, Hốt Tất Liệt thường cho vời Bát Tư Ba đến để đàm đạo về Phật pháp. Nhà sư tuổi trẻ tài cao, kiến thức uyên thâm, tư duy sắc sảo lại khiêm tốn, nho nhã, lịch duyệt ngày càng được Hốt Tất Liệt mến, nể trọng. Vương phi Khabi nhân dịp này lại đề nghị Bát Tư Ba truyền giảng nghi lễ quán đỉnh Hevajra độc đáo của phái Sakya.

      Hốt Tất Liệt những phản đối mà còn rất đỗi háo hức muốn tiếp nhận nghi lễ này. Ngài lệnh cho thuộc hạ bày trí lại lán trại trang hoàng để chuẩn bị cho nghi lễ quán đỉnh. Các dòng cờ phướn được chăng khắp nơi. Người ta dựng đài cao giữa lán trại, xung quanh xếp những cành thông và những bó hoa. Giữa mùa đông giá lạnh kiếm được hoa tươi, Khabi cùng đám tỳ nữ miệt mài suốt ba ngày để tết những dải hoa lụa tuyệt đẹp, khó mà phân biệt được là hoa giả hay hoa . Sau khi bày biện tinh tươm, trang trí cầu kỳ và đặt thêm bếp lửa, cả lán trại trở nên rực rỡ, rạng ngời như trong ngày xuân nắng ấm.

      Bát Tư Ba khoác áo cà sa trang trọng, đầu đội mũ ngũ sắc, vầng hào quang thánh khiết, chói lọi tỏa rạng từ người cậu. Cậu ấy đứng trước bục cao, phong thái đường hoàng, đĩnh đạc, lưng vươn thẳng như cây thông ngạo nghễ giữa mùa đông băng giá, nụ cười rạng rỡ tựa nắng mai ngày xuân. Cậu ấy khiêm cung vái Hốt Tất Liệt và Khabi vái, cất giọng trầm ấm, giọng ấy có sức thu hút mãnh liệt:

      - Nghi lễ quán đỉnh bắt nguồn từ Thiên Trúc. Vào ngày kế vị của tân quốc vương, thượng sư tưới lên đầu vị vua mới thứ nước biển được lấy về từ bốn phương, cầu chúc quốc vương an khang, hạnh phúc, quốc thái dân an, quốc gia phồn thịnh. Về sau, nghi lễ này được truyền vào đất Tạng, chia thành lễ quán đỉnh truyền pháp và lễ quán đỉnh kết duyên. Lễ quán đỉnh truyền pháp được tổ chức cho riêng những tín đồ đạo Phật, còn lễ quán đỉnh kết duyên được tổ chức cho những ai muốn tiếp nhận lễ quán đỉnh để từ đó phụng thờ thần Hevajra và tu tập theo phép tu của bản giáo.

      Khabi gật đầu nhiệt thành, hôm nay ấy vận xiêm y lấp lánh ngọc ngà, châu báu, đài các, quý phái bội phần. Thị nữ thận trọng dâng lên chiếc hộp bằng gấm, Khabi từ tốn mở nắp hộp, bên trong là viên minh châu cực lớn, ánh sáng phát ra chói lòa, kỳ ảo.

      - Pháp sư, khi ta lấy chồng, của hồi môn quý giá nhất mà cha mẹ tặng cho ta chính là viên dạ minh châu được vớt lên dưới lòng biển sâu ở tận Tây phương xa xôi. Viên minh châu này ban đêm phát quang rực rỡ, mang theo bên mình có thể tránh tà. Hôm nay, ta xin dâng tặng món quà này cho pháp sư để tỏ lòng tôn kính của đệ tử với sư phụ.

      Hốt Tất Liệt ngồi tấm thảm Ba Tư quý hiếm, bật cười ha hả:

      - Viên minh châu này là báu vật vô cùng quý hiếm, đáng giá hàng trăm nén vàng, hàng nghìn nén bạc, nó tượng trưng cho lòng thành hướng Phật của Vương phi, thế nên pháp sư hãy giúp nàng thỏa nguyện.

      Bát Tư Ba nghiêm cẩn chắp tay lại, khiêm cung cúi đầu nhận lấy hộp lễ vật:

      - Tạ ơn Vương phi… Xin mời Vương phi theo bần tăng lên quán đỉnh đàn dâng hoa, kết Phật duyên.

      Bát Tư Ba chỉ dẫn Khabi bước đến quán đỉnh đàn dựng giữa lán trại, hướng dẫn Vương phi dâng hoa lụa và quả ngọt lên tượng Bồ Tát Văn Thù được đặt ở giữa quán đỉnh đàn. Sau đó, cậu ấy nhấc chiếc bình pha lê trong suốt ở phía trước tượng Phật lên, dõng dạc tuyên bố:

      - Nước được dùng trong lễ quán đỉnh hôm nay vốn là tuyết trắng tinh khiết đỉnh núi tuyết, nơi có dấu chân người. Tuyết trắng tan ra thành nước được đặt trước tượng Bồ Tát Văn Thù trải qua bảy bảy bốn mươi chín lần cúng tế. Tuy phải là thứ nước được lấy về từ biển lớn bốn phương nhưng là thứ nước tinh khiết tuyệt đối, tan chảy từ băng tuyết vĩnh cửu. Dòng nước thánh khiết này mang lại phúc lộc dồi dào cho người chịu lễ.

      Tôi niệm thần chú, trốn ở góc khuất để quan sát, nghe đến đây, khỏi vênh vang tự đắc. Tôi phải trèo lên ngọn núi cao nhất để lấy thứ tuyết tinh khiết về, dễ dàng chút nào!

      Khabi quỳ trước tượng Bồ Tát Văn Thù, chắp tay vái lạy thành khẩn. Bát Tư Ba vừa tụng kinh vừa tưới những giọt nước trong chiếc bình pha lê lên đầu Khabi, chỉ là tượng trưng vài giọt, rồi thôi. Sau đó, cậu ấy đặt vào tay Khabi khay gỗ, bên trong đựng ấn vàng khắc bốn chữ “Bồ Tát Văn Thù” và cuốn kinh bằng tiếng Mông Cổ do chính Bát Tư Ba biên soạn:

      - Vương phi, bần tăng truyền kim ấn và chân ngôn mật chú [1] cho người, kể từ bây giờ, người có thể phụng thờ thần Hevajra và tu tập giáo lý của bản giáo. Ngày mai, bần tăng truyền giảng đạo quả pháp của phái Sakya cho người.

      Khabi đón lấy khay gỗ, mặt mày rạng rỡ. Hốt Tất Liệt đứng bên quan sát, lấy làm thích thú, bèn ngồi xuống, đề nghị Bát Tư Ba làm lễ quán đỉnh cho cả mình nữa. Sau khi lặp lại tuần tự các bước của nghi lễ quán đỉnh cho Hốt Tất Liệt, Bát Tư Ba tuyên bố nghi lễ kết thúc. Cậu ấy tuyên đọc số giới luật mà đệ tử tu hành tại gia cần tuân theo, rồi gương mặt cậu ấy bỗng nghiêm trang lạ lùng, cậu ấy chậm rãi :

      - Tuy Đại vương và Vương phi có thân phận cao quý nhưng trước Phật Tổ, mọi chúng sinh đều bình đẳng như nhau, bởi vậy còn quy định nữa, mong Đại vương và Vương phi tuân thủ.

      Hốt Tất Liệt và Khabi tỏ ra rất đỗi ngạc nhiên, Bát Tư Ba dõng dạc tiếp:

      - Sau khi tiếp nhận nghi lễ quán đỉnh, người chịu lễ phải tuân thủ lời thề trước Phật Tổ, lễ tạ bậc thượng sư của mình.

      Khabi gật đầu:

      - tiếp nhận quán đỉnh, đệ tử tất phải tuân thủ pháp độ của giáo phái. Có điều, biết nghi thức bái tạ thượng sư phải thực ra sao?

      Bát Tư Ba lặng lẽ liếc sang Hốt Tất Liệt, vẻ mặt bình thản, cất giọng trầm ấm:

      - Thượng sư tọa đài cao, đệ tử vái lạy và lắng nghe thượng sư răn dạy, được trái ý thượng sư.

      Quả nhiên mặt Hốt Tất Liệt biến sắc:

      - Sao có thể thế được! Ta đường đường là vương gia, thống lĩnh đại quân phía nam, xưa nay chỉ bái lạy tổ tông và vị huynh trưởng là Đại hãn, quyết bái lạy người ngoài.
      <div>

      <hr align="left" size="1" width="33%" />


      [1] Chân ngôn mật chú là lời huyền nhiệm chứa đựng năng lực đưa đến kết quả siêu nhiên nào đó. Vốn xuất phát từ đạo Bà-la-môn Ấn Độ, chân ngôn mật chú có thể là tiết, chữ, hoặc câu kệ. Trong Phật giáo, người tu hành cho rằng, chân ngôn chứa đựng sức mạnh đặc biệt của vũ trụ hoặc biểu khía cạnh nào đó của Phật tính. Trong nhiều trường phái, chân ngôn mật chú được lặp lại trong các buổi tu tập, đặc biệt trong Kim cương thừa ở Tây Tạng, chân ngôn mật chú trở thành phương tiện trợ giúp tâm thức hành giả. Hành giả luôn luôn vừa đọc chân ngôn vừa quán tưởng đối tượng và tay giữ kim ấn theo chỉ dẫn. Câu chân ngôn quan trọng và lâu đời nhất của Phật giáo Tây Tạng là: Úm ma ni bát ni hồng.

      Khi ấy Hốt Tất Liệt ba mươi tám tuổi, là vương gia quyền cao chức trọng, lời ra, vạn người phải tuân theo, vốn dĩ chỉ có kẻ khác phải vái lạy ngài, giờ đây buộc ngài phải vái lạy và nhận người tuổi đời chỉ bằng nửa tuổi ngài làm sư phụ, e rằng ngài khó lòng chấp thuận.

      Lúc này, Bát Tư Ba mới chắp tay, khẽ cúi người mà rằng:

      - Từ xưa đến nay, các đệ tử đều hành lễ với sư phụ như vậy. Đại vương là người có thân phận tôn quý, bằng lòng vái lạy cũng sao, nhưng thượng sư nhất định phải được tọa ngai cao. Nếu như chút chuyện này Đại vương cũng kiên quyết chấp thuận, vậy xin chớ tôn bần tăng làm thượng sư của ngài và cũng cần phải tiếp nhận chân ngôn mật chú của phái Sakya làm gì.

      Hốt Tất Liệt chừng như tức nghẹn cổ, vì đây phải lần đầu tiên Bát Tư Ba chống lại ý nguyện của ngài. Thái độ kiên quyết tuân thủ nguyên tắc của Bát Tư Ba khiến người ta vừa bực bội vừa buồn cười. Nhận thấy bầu khí sắp có chiều hướng xấu , Khabi vội vàng bước đến, kiều vái lạy Hốt Tất Liệt, thưa rằng:

      - Bẩm Đại vương, thần thiếp có ý thế này.

      Nàng đưa mắt quan sát thần sắc của hai người, dịu dàng cất tiếng:

      - Lúc nghe giảng pháp và ở những nơi vắng người, thượng sư có thể tọa ngai cao. Khi các bậc vương tử, phò mã, quan viên và thần dân tụ họp, Đại vương cần thiết phải thể tôn nghiêm, ngài ngự ngai cao. Pháp sư và Đại vương thấy sao?

      Hốt Tất Liệt thở phào nhõm, giọng cũng khoan hòa hơn nhiều:

      - Vương phi phải lắm, cứ làm theo ý nàng!

      Hốt Tất Liệt nhượng bộ như vậy, Bát Tư Ba cũng có lý do gì từ chối. Cậu ấy suy nghĩ lát, lại bước lên phía trước, tâu rằng:

      - Bẩm Đại vương, bần tăng vẫn còn thỉnh cầu.

      Khabi sợ cậu ấy lại nêu ra “ sách” gì đó khiến Hốt Tất Liệt bực dọc, vội vàng nháy mắt ra hiệu, nhưng Bát Tư Ba vẫn vờ như nhìn thấy, cúi gập người, cung kính thưa rằng:

      - Những việc liên quan đến Tufan, cúi xin Đại vương thuận theo ý của bần tăng.

      Hốt Tất Liệt nhìn chăm chăm vào Bát Tư Ba rất lâu, sau đó khẽ thở dài:

      - Những ngày qua cùng thượng sư đàm đạo, ta rất mực nể phục phẩm cách thanh cao và kiến thức sâu rộng của thượng sư. Nay thượng sư mở lời thỉnh cầu, vậy ta quyết định thế này, phàm những việc liên quan đến Tufan, ta nghe theo chỉ dạy của thượng sư, nếu thượng sư đồng ý, ta quyết ban chiếu chỉ. Còn những việc lớn khác, xin thượng sư chớ vì thiện tâm mà cầu xin cho kẻ khác, làm khó cho ta, vì như vậy khiến ta khó lòng thu phục kẻ dưới.

      Bát Tư Ba khẽ giật mình, cậu hiểu người tôn quý như Hốt Tất Liệt lại hứa hẹn với mình như vậy quả dễ dàng gì. Bởi vậy, Bát Tư Ba ngước đôi mắt sáng rạng rỡ lên, gật đầu bày tỏ đồng ý tuyệt đối.

      Khi các vấn đề “gai góc” đều được giải quyết ổn thỏa, tâm trạng của Hốt Tất Liệt trở nên hân hoan hơn nhiều, ngài khoát tay ra lệnh cho đám tùy tùng dâng rất nhiều lễ vật quý báu: ngọc ấn mỡ cừu, áo cà sa đính trân châu, ngoài ra, còn có những bộ y phục của tăng sĩ được cắt may rất kỳ công, những tấm đệm dát vàng, v.v… chất đầy cả lán trại.

      Hốt Tất Liệt đắc ý nhìn núi lễ vật chất ngất, cười sảng khoái:

      - Thượng sư, ta định ban bố sắc lệnh, chỉ cho phép vùng Wusi được tu tập giáo pháp của giáo phái Sakya, ngài thấy sao?

      - Đại vương, tuyệt đối thể được! – Bát Tư Ba biến sắc mặt, vội bước lên phía trước can gián. – Đất Tạng có rất nhiều giáo phái, các giáo phái lớn đều trải qua hàng trăm năm lịch sử với số lượng tín đồ đông đảo, thực lực tương đương nhau. Nếu Đại vương ép buộc họ tin theo giáo phái Sakya, chỉ e phản tác dụng, khiến cho đất Tạng rối loạn. Sau khi vương triều Tufan sụp đổ, vùng Wusi ly loạn suốt mấy trăm năm, thể để tình trạng này ngày càng trầm trọng. Các giáo phái lớn tuy có nhiều điểm khác biệt nhưng đều phụng thờ Phật Tổ, mỗi giáo phái đều có nét đặc sắc, độc đáo của riêng mình. Sakya học hỏi được rất nhiều điều bổ ích từ các giáo phái đó.

      Hốt Tất Liệt chừng như rất cảm động, lòng tôn kính đối với Bát Tư Ba lại được dịp tăng thêm:

      - Thượng sư vì lợi ích của giáo phái mình mà suy tính cho đại cục, quả là người có tấm lòng quảng đại.

      Sau khi bái Bát Tư Ba làm thượng thư, Hốt Tất Liệt lập tức trao cho Bát Tư Ba chiếu thư với thân phận vương gia. Chiếu thư mô tả quá trình Hốt Tất Liệt và Khabi quy y cửa Phật và tiếp nhận nghi lễ quán đỉnh. Vương gia Mông Cổ ban chiếu thư vốn là kiện hết sức bình thường vào thời điểm đó, hơn nữa Hốt Tất Liệt còn tuyên bố trong chiếu thư rằng, chiếu thư được ban bố là nhờ phúc đức của Thành Cát Tư Hãn và Mông Kha Hãn. Điều đáng là, đối với giáo phái Sakya trong tình thế khốn đốn, chiếu thư này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vì nó tuyên bố với mọi tăng nhân ở đất Tạng rằng, Hốt Tất Liệt và Bát Tư Ba kết thành quan hệ thượng sư và đệ tử, và giáo phái Sakya chính thức nằm dưới bảo hộ của Hốt Tất Liệt.

      Đây là chiếu thư chính thức đầu tiên mà Hốt Tất Liệt ban tặng cho Bát Tư Ba nên cậu ấy xem nó như món quà quý giá, luôn mang theo bên mình. Về sau, khi cậu ấy trùng tu đền Sakya, bức chiếu thư này được cất giữ trong đại điện của ngôi đền, đến tận ngày nay.

      Ngày thứ ba sau khi Bát Tư Ba được thụ phong làm thượng sư cũng là ngày người Hán đón năm mới. Tuy là người Mông Cổ nhưng Hốt Tất Liệt đón nhận văn hóa truyền thống của người Hán hết sức cởi mở. Từ khi tiếp nhận trọng trách thống lĩnh quân đội miền Nam, ngài chiêu nạp hàng loạt nho sĩ người Hán, thực thi luật pháp của người Hán tại các khu vực mình cai quản. Các quý tộc Mông Cổ khác thường chê trách ngài về điều này nhưng Hốt Tất Liệt bỏ ngoài tai hết thảy.

      Vào ngày cuối cùng của năm cũ, Hốt Tất Liệt ban phát rượu thịt cho toàn quân, Khabi cùng với những người hầu nô nức dán câu đối và chữ “phúc” khắp các lán trại theo phong tục của người Hán. Đêm Giao thừa, tuyết rơi ào ạt nhưng tiếng cười vẫn rộn ràng khắp doanh trại. Vì là đoàn quân viễn chinh nên mọi thứ đều khá đơn sơ, mộc mạc, nhưng khí ngày Tết vì thế mà kém phần náo nhiệt. Sau khi yến tiệc kết thúc, Bát Tư Ba trở về lán trại của mình, lập tức ngồi vào bàn viết. Tôi sáp lại, dò hỏi:

      - Cậu viết gì thế?

      Cậu ấy tặng cho tôi nụ cười rạng rỡ tựa gió xuân, cọ cọ cán bút vào chiếc mũi nhọn hoắt của tôi:

      - Viết lời chúc mừng năm mới Đại vương.

      Viết xong, cậu ấy nhẩm đọc lượt, rồi mới thận trọng gập lại, bỏ vào túi gấm, quay lại nhìn tôi, mắt sáng long lanh như sao mai, vành môi uốn cong quyến rũ:

      - Lam Kha, zhaxidele, chúc mừng năm mới!

      Lòng tôi phơi phới, tôi ngước nhìn nụ cười ấm áp của cậu ấy, khẽ :

      - Chúc mừng năm mới!

      hiểu sao tôi chẳng thể hân hoan nổi. Mỗi khi nghĩ đến việc sang năm mới cậu ấy hai mươi tuổi, nghĩ đến số phận thể khác được của cậu ấy, nghĩ đến những thanh quy giới luật mà cậu ấy phải tuân thủ suốt kiếp là lòng tôi lại phiền muộn, yên.

      Trong cung điện bé của Hốt Tất Liệt từ lâu hình thành thông lệ: vào ngày đầu năm mới theo lịch của người Hán, Hốt Tất Liệt tiếp nhận lời chúc mừng của triều thần. Bát Tư Ba là người Tạng, vốn chỉ ăn Tết của người Tạng, nhưng sau khi náu thân nơi phủ đệ của Hốt Tất Liệt, cũng nhập gia tùy tục.

      Tết năm 1254, Bát Tư Ba dâng lên Hốt Tất Liệt áng thơ dài, cung chúc đại gia đình Hốt Tất Liệt an khang, hạnh phúc, trường thọ.

      Về sau, viết lời chúc Tết trở thành thông lệ, hằng năm, vào ngày đầu tiên của năm mới, dù ở nơi nào, Bát Tư Ba cũng đều gửi thư chúc Tết cho Hốt Tất Liệt và việc này được duy trì cho đến năm cuối cùng trước khi Bát Tư Ba viên tịch.

      Tết của người Hán qua lâu, sau nhiều tháng trời đóng quân chờ đợi giữa vùng núi non Vân Nam hiểm trở, cuối cùng Hốt Tất Liệt cũng nhận được mệnh lệnh của Mông Kha Hãn: rút quân. Lý do rất nực cười: Hốt Tất Liệt đánh trận nhiều năm, vết thương ở chân chưa lành, bởi vậy Mông Kha Hãn lệnh cho Hốt Tất Liệt dẫn quân lên phía bắc, đến Cam Túc nghỉ ngơi, dưỡng thương. Sau khi mệnh lệnh được chuyển đến doanh trại, Hốt Tất Liệt ở lại trong lán mình rất lâu, ngày hôm sau, ngài ra lệnh nhổ trại, rút quân.

      Sau này tôi mới biết, có rất nhiều quý tộc Mông Cổ dựng chuyện kể tội Hốt Tất Liệt trước mặt Mông Kha Hãn. Họ với Đại hãn rằng, Vương gia chiêu nạp rất nhiều mưu sĩ người Hán, ngài khắp nơi học hỏi phương cách trị quốc, ngài dùng lịch của người Hán, học tiếng Hán, áp dụng luật pháp của người Hán, ngài tăng gia sản xuất, tích trữ lương thực, hẳn là ngài nuôi dã tâm sau khi chiếm đất Hán lên ngôi vua từ lâu. Mông Kha Hãn vốn rất kiêng nể và đề phòng người em trai tài ba, nắm giữ binh quyền trong tay này nên khi nghe những lời sàm tấu kia, lại càng muốn Hốt Tất Liệt tiếp tục lập công trạng nữa, hạ lệnh cho Vương gia rút quân về Nội Mông Cổ. Mông Kha Hãn thậm chí sắp xếp ổn thỏa đất phong của Hốt Tất Liệt ở Nội Mông Cổ.

      Giã từ những ngọn núi tuyết trắng bao phủ, đoàn quân lập tức lên đường hướng về phía bắc. Khi tới Nội Mông Cổ là mùa xuân ấm áp, cây cỏ tốt tươi, chim chóc bay lượn, vạn vật hồi sinh. Sau khi đại quân đến đất phong, Hốt Tất Liệt lúc ấy mới hay mình được ban cho thứ gì. Đó là mảnh đất xa xôi gồm hai thành trì là Hoàn Châu và Phủ Châu. Nhà cửa lụp xụp, tường thành đổ nát, chẳng có nổi cung điện tươm tất cho Hốt Tất Liệt náu thân. Thuộc hạ của Hốt Tất Liệt, ai nấy đều bất bình, cho rằng Mông Kha Hãn làm vậy quá đáng, nhưng Hốt Tất Liệt hề tỏ ra bất mãn, ngài là người con của thảo nguyên mênh mông, ngài thích được ngắm nhìn những thảm cỏ hoa rực rỡ màu sắc hơn là chui rúc trong những ngôi nhà thấp lè tè ở thành Phủ Châu, vì vậy ngài quyết định dựng trại giữa thảo nguyên bao la.

      - Hốt Tất Liệt bái Bát Tư Ba làm thượng sư, giữ nghi lễ sư phụ và đệ tử. Sau khi ngài xưng đế, phương thức mà Vương phi Khabi nêu ra về xuất và vai vế của hai người luân phiên trong các bối cảnh khác nhau vẫn tiếp tục được duy trì. Về sau, triều Nguyên tôn Lạt Ma giáo làm quốc giáo, thiết lập chế độ đế sư. Quy định mà Hốt Tất Liệt đặt ra được các triều đại nhà Nguyên tuân thủ nghiêm ngặt.

      - Tôi lòng khâm phục Bát Tư Ba! Sau vài lần khiến Hốt Tất Liệt phải tức giận, có thể nhận thấy tính cách cương trực, thái độ cương quyết và tính nguyên tắc vững vàng ở cậu ấy rất . Tôi đoán rằng, Hốt Tất Liệt cũng nhận thấy hiếm có người nào dám cự lại ông ta như thế.

      Chàng trai trẻ hơ tay bên lò sưởi, quay đầu mỉm cười với tôi:

      - Vậy bằng cách nào cậu ấy có thể chiếm được lòng tin của Hốt Tất Liệt và được ông ta mến như thế?

      - Dựa vào nhân cách của chính cậu ấy. – Tôi thấy khóe mắt mình ươn ướt, dường như bóng dáng khiêm nhường, nho nhã, cụ cười rạng rỡ, ấm áp tựa đóa tuyết liên thánh khiết miền đất tuyết của người đó lại thấp thoáng đâu đây. – Cậu ấy thông minh, mẫn tiệp, cần cù, hiếu học, kiến thức uyên thâm, lại rất mực khiêm tốn, hòa nhã, quá câu nệ các nghi lễ giáo điều của nhà Phật. Tuy là bậc thượng thư của Hốt Tất Liệt nhưng cậu ấy khi nào tỏ ra kiêu ngạo, luôn giữ thái độ điềm đạm, khoan hòa, nho nhã trước mặt nhà vua. Mỗi khi Hốt Tất Liệt phạm phải sai lầm, Bát Tư Ba tìm cách can gián khéo léo, khiến ngài mất thể diện.

      - Bởi vậy, tôi cũng hết sức thán phục Hốt Tất Liệt. Vì ông ta chịu lắng nghe những lời can gián của bậc trung thần nên ông ta trở thành bậc đế vương cũng là lẽ đương nhiên. Đâu là lời a dua nịnh hót, những kẻ bề tôi kia hay dở ra sao, hẳn trong lòng ông ta đều hiểu .

      Tôi khẽ gật đầu:

      - Mối quan hệ giữa Bát Tư Ba và Hốt Tất Liệt ngày càng khăng khít. Đối với bậc đế vương, mối quan hệ bằng hữu thân tình có bất cứ xung đột nào về lợi ích này là điều rất đáng quý. Bát Tư Ba rất được lòng Hốt Tất Liệt nên cậu được ban thưởng rất nhiều của cải. Ngoài nhu cầu tối thiểu hằng ngày của bản thân và tùy tùng, Bát Tư Ba bao giờ lãng phí quân lương. Những lễ vật mà Hốt Tất Liệt ban tặng, Bát Tư Ba đều cất giữ cẩn trọng, sau này, số của cải đó được cậu dùng vào việc trùng tu ngôi đền Sakya.

      Chàng trai trẻ nghiêng đầu nhìn tôi, mỉm cười:

      - Vậy còn những việc liên quan đến Tufan sao, Hốt Tất Liệt có giữ đúng lời hứa, trước khi đưa ra quyết định phải xin ý kiến của thượng sư ?

      - Lúc này Hốt Tất Liệt vẫn chỉ là vương gia có thế lực, Đại hãn Mông Cổ là Mông Kha, Hốt Tất Liệt có quyền phán quyết những việc liên quan đến Tây Tạng. Nhưng Hốt Tất Liệt hứa hẹn như vậy cũng cho thấy rằng ông ấy hề bằng lòng với việc phân chia đất phong ở Tây Tạng cho các em của Mông Kha Hãn. Và dã tâm của ông ấy còn lớn hơn thế rất nhiều. Sau này, khi Hốt Tất Liệt trở thành hoàng đế, ông ấy mới có cơ hội thực lời hứa với Bát Tư Ba.

    4. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 13 :Bí mật của Vương phi


      “Làm việc thiện cầu trả ơn,

      Bị đặt điều màng trả đũa;

      Luôn khắc cốt ghi tâm lòng tốt của người khác,

      Đó là phẩm cách của con người cao thượng.”

      right;" align="(Cách ngôn Sakya)

      Tuy sinh ra nơi thảo nguyên mênh mông nhưng sau nhiều năm tháng chung sống với người Hán, Hốt Tất Liệt dần chịu ảnh hưởng bởi văn hóa và truyền thống xây dựng thành trì, cung điện của người Hán. Bởi vậy, trong thời gian cư trú tạm thời thảo nguyên Phủ Châu, Hốt Tất Liệt thăm thú khắp chốn, tìm kiếm vị trí phù hợp để xây dựng cung điện. Mùa xuân năm đó, Hốt Tất Liệt tìm thấy và rất ưng ý nơi có tên gọi là Long Cương, nằm ở phía đông Hoàn Châu, phía bắc Loan Thủy. Khu vực này đất đai rộng rãi, phòng thủ dễ, tấn công khó, Hốt Tất Liệt hạ lệnh xây dựng thành trì ở đây.

      Bị tước mất quyền thống lĩnh quân đội, chán ngán những tháng ngày an nhàn, tẻ nhạt thảo nguyên, giờ đây, Hốt Tất Liệt tìm ra cách thức để vận động và giải khuây. Ngài chìm đắm trong kế hoạch xây dựng thành quách, cung điện suốt cả ngày, lúc nào cũng dẫn theo Bát Tư Ba bên mình nên cậu ấy cũng bận rộn liên miên. Tôi được tự do vui chơi, thời gian thoải mái, ngoài những lúc tu luyện, tôi thường lẻn vào trong núi bắt vài con thú hoang để thay đổi khẩu vị.

      ngày kia, sau khi xơi tái chú thỏ non, sợ bị Bát Tư Ba quở trách vì tội lẻn ăn vụng, tôi quyết định “xóa dấu vết” trước khi trở về. Tôi đứng bên ngoài lán trại của Bát Tư Ba, chùi sạch mép, định vào bỗng nghe thấy tiếng trò chuyện từ bên trong vẳng ra. Thính giác nhạy bén cho tôi biết đó là giọng ngọt như mật, êm như nhung và trong như nước suối:

      - Thượng sư, thiếp chưa hiểu hết đoạn kinh văn này, ngài hãy giảng lại lần nữa cho thiếp nghe, được ?

      - Xin Vương phi hãy tự trọng!

      Đó là giọng của Bát Tư Ba. Cậu ấy xưa nay vẫn luôn hiền hòa, nhã nhặn và rất ít khi nổi nóng.

      - Bần tăng là người nhà Phật, xin Vương phi chớ làm vậy!

      Tôi thót tim, vội lao vào lán. Mỹ nhân với làn da trắng nõn nà, mềm mại, đôi mắt hớp hồn phô bày những đường cong quyến rũ của cơ thể chiếu khách. Đó chính là Vương phi Khabi – vợ của Vương gia Hốt Tất Liệt. Sao hôm nay ta lại ăn mặc diêm dúa, điệu bộ lả lơi như vậy? Tôi nổi giận, xù lông, nhe nanh, gầm gừ đe dọa ta.

      Khabi lướt đôi mắt lúng liếng về phía tôi, lườm khẽ cái rồi yểu điệu đứng lên:

      - “Trong bụng là rượu thịt, trong tâm là Phật Tổ.” Tình cảm nam nữ vốn là thiên tính của con người, chắc rằng pháp sư có người con xinh đẹp nhất thế gian ở bên cạnh nên người phụ nữ nếm đủ mùi tục lụy như thiếp mới chẳng thể lọt vào mắt xanh của ngài.

      Lúc này, Bát Tư Ba đứng cách xa ba trượng, xoay lưng về phía Khabi, nghe thấy vậy, cậu chau mày, quay đầu lại, nghiêm giọng:

      - Vương phi biết đùa, bần tăng lòng thờ Phật, những người theo hầu đều là đàn ông, làm gì có người con nào như lời Vương phi ?

      - Pháp sư, người khác nhận ra có nghĩa ta nhận ra. – Khabi ranh mãnh nháy mắt với tôi, đủng đỉnh vén gọn những sợi tóc mai lòa xòa ra sau vành tai, nở nụ cười đong đưa. – Tiểu hồ ly bên cạnh ngài là loài thú linh hiếm có trong trời đất, nếu tu luyện thành người, ắt là tuyệt sắc giai nhân.

      Vốn định xông lên cắn cho ta cái nhưng lời của Khabi như tiếng sấm dội bên tai, tôi trợn tròn hai mắt, đầu óc choáng váng, quên sạch mọi thứ diễn ra. Tôi… tôi… tôi có thể hóa thành người ư? Và còn là giai nhân tuyệt sắc ư?

      Bát Tư Ba quá đỗi kinh ngạc:

      - Vương phi…

      Lạ lùng thay, chỉ trong khoảnh khắc, vẻ đong đưa, lơi lả của Khabi hoàn toàn biến mất, ấy thong thả cúi đầu vái Bát Tư Ba vái, ngắt lời cậu:

      - Xin thượng sư chớ lo lắng, thần thiếp chỉ muốn thử xem ngài có như những gã đàn ông bình thường khác, dễ dàng bị mê hoặc bởi nữ sắc hay mà thôi.

      Khabi lúc này trở lại với dáng vẻ đoan trang, hiền thục, cử chỉ nho nhã, lịch duyệt thường thấy. Chỉ trong chớp mắt, thái độ của ấy xoay chuyển trăm tám mươi độ, giờ đây, ấy lại là Vương phi đài các, quý phái mà chúng tôi quen biết. Cả tôi và Bát Tư Ba đều hiểu dụng ý của ấy, lẳng lặng lắng nghe, khỏi ngạc nhiên.

      Khabi mỉm cười như thể chưa từng xảy ra chuyện khi nãy, ấy nhấc gót chuẩn bị bước ra ngoài:

      - Thượng sư quả là người kiên định, vững vàng, thần thiếp trở về bẩm báo với Đại vương, chắc chắn ngài rất vui mừng.

      Cả hai chúng tôi đều há hốc miệng ngạc nhiên. Lẽ nào những cử chỉ, hành động và lời đưa đẩy của ấy khi nãy chỉ là vì muốn thử lòng Bát Tư Ba? Khi bóng dáng tha thướt, kiều của ấy khuất dạng, chúng tôi nhìn nhau rất lâu nhưng biết phải mở lời ra sao. Đầu óc tôi lúc này chỉ quanh quẩn với câu của Khabi: “Tiểu hồ ly bên cạnh ngài là loài thú linh hiếm có trong trời đất, nếu tu luyện thành người, ắt là tuyệt sắc
      giai nhân.”

      biết tôi chìm vào suy tư bao lâu, ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu, tôi quay , lao ra khỏi lán trại.

      Lán trại của Khabi nằm kế bên lán trại của Hốt Tất Liệt, được trang trí rất mực cầu kỳ nên khó để nhận ra. Tôi thấy thị nữ bưng những khay đồ ăn nóng hổi ra vào nườm nượp, phục vụ bữa tối. Tôi hơi do dự, nằm phủ phục bên ngoài lán chờ đợi. mải mê tính toán xem phải tranh thủ lúc có người, lẻn vào trong lán như thế nào đột nhiên tôi thấy mình bị xách cổ, nhấc bổng lên rồi bị tung lên trung.

      Tôi hốt hoảng, chuyện gì thế này? Dù gắng sức quẫy đạp nhưng ăn thua, tôi vẫn chẳng thể thoát khỏi gọng kìm. Chưa biết phải đối phó ra sao, bỗng trước mặt tôi xuất gương mặt tròn trịa, bầu bĩnh, đó là chú nhóc bụ bẫm chừng mười tuổi, lông mày dài và đậm, trông rất kháu khỉnh. Chú bé khoác mình chiếc áo khoác kiểu Mông Cổ hoa văn sặc sỡ, đường chỉ tinh tế, cầu kỳ, nửa ống tay được thít lại bên hông, hai má phừng phừng, khuôn ngực phập phồng, nhịp thở gấp, có vẻ như chú nhóc vừa chơi đùa hết mình.

      - Chà, con hồ ly! Lông màu xanh này, cả mắt cũng màu xanh nữa, đẹp quá!

      Tóc tết đuôi sam thả trước ngực, đính những hạt mã não cỡ bự. Chú bé cười tít mắt, để lộ hai chiếc răng thỏ rất dễ thương, lát sau, chú bé quay đầu về phía lán trại, hét lên đầy phấn khích:

      - Mẹ ơi, con bắt được con hồ ly màu xanh này!

      Bàn tay với những ngón ngọc ngà nhàng vén rèm cửa, người phụ nữ xinh đẹp trong bộ xiêm y lụa là thả bước kiều tiến về phía chú nhóc. Tôi sững sờ, người đó là Khabi. Tôi vội vàng lên tiếng kêu cứu, ấy thấy tôi tỏ ra rất đỗi ngạc nhiên:

      - Chân Kim, con cưỡi ngựa kia mà? Con bắt được con hồ ly này ở đâu vậy?

      Chú nhóc tên là Chân Kim ấy lắc lư cái đầu tỏ vẻ đắc ý, dưới bóng hoàng hôn, đôi má ửng đỏ của chú nhóc hắt lên thứ ánh sáng của khỏe khoắn, rắn rỏi.

      - Con tóm được nó trảng cỏ phía trước lán trại của mẹ. Chắc là nó ngửi thấy mùi thức ăn nên định tới đây ăn vụng.

      Thằng bé đắc chí cười hỉ hả, giơ tay thụi cái vào mũi tôi. Tôi định cắn nó nhưng nó nhanh nhẹn né được. Nó nhảy chân sáo, tung tăng chạy đến trước mặt Khabi, ngước lên, hớn hở nhìn mẹ:

      - Mẹ ơi, con muốn nuôi nó. Con chó lông vàng của con chết năm ngoái rồi, con muốn có con thú cưng khác. Tiểu hồ ly này rất đáng , chắc chắn nó thú vị hơn con chó lông vàng kia rất nhiều.

      Khabi mỉm cười duyên dáng, rút khăn tay lau mồ hôi cho con trai, cất giọng âu yếm:

      - Nhưng mẹ được biết là con hồ ly này có chủ. Con muốn nuôi nó phải xin phép chủ nhân của nó trước.

      Mùi mồ hôi người Chân Kim tỏa lan tứ phía, bàn tay túm cổ tôi của thằng nhóc cũng ướt đầm khiến tôi cảm thấy vô cùng khó chịu. Thằng nhóc cào cào lớp lông lưng tôi, cao giọng:

      - Ai là chủ nhân của nó vậy ạ? Để con với người đó nhường nó lại cho con, họ muốn đổi lấy thứ gì cũng được.

      - Hoàng tử Chân Kim!

      Chân Kim quay đầu lại, thấy Bát Tư Ba mỉm cười hồn hậu đứng sau lưng. Chân Kim chớp chớp đôi mắt xíu, rồi như chợt nhớ ra:

      - Ngài chính là vị Lạt Ma mà cha mẹ ta rất mực nể trọng? Là người mà cha mẹ muốn ta gọi là thượng sư, còn muốn ta theo ngài học Phật pháp?

      Bát Tư Ba khiêm nhường hành lễ:

      - Trí nhớ của Hoàng tử đáng nể, hôm qua ngài mới đến đây, chỉ gặp ta có lát, chẳng ngờ hôm nay ngài vẫn nhớ , ta rất vui.

      - Con hồ ly này là của ngài ư?

      Chân Kim tươi cười, đợi Bát Tư Ba trả lời, đôi mắt hình hai hòn bi ve đảo vòng chừng như suy nghĩ lung lắm rồi nhấc tôi đưa ra trước mặt:

      - Nếu ngài là thượng sư của ta, vậy sư phụ có thể tặng cho đệ tử con hồ ly này, xem như quà gặp mặt, được ?

      - Bẩm Hoàng tử, thực ra ta phải chủ nhân của nó. Tiểu hồ ly này sống cùng ta và em trai ta gần mười năm qua, chúng ta chưa bao giờ xem nó là thú cưng. Nó muốn trở về với rừng xanh hoặc theo chúng ta đều do nó tự quyết định.

      Thấy tôi bị chú nhóc túm cổ nhấc bổng lên, Bát Tư Ba chừng như thương xót, bèn ra hiệu cho Chân Kim thả tôi xuống.

      - Tiểu hồ ly này là thú thiêng hiếm có, nó rất thông minh, lanh lợi, tốt bụng và hiểu chuyện, ngài nên thử kết bạn với nó, nên giam hãm và biến nó thành thú cưng.

      Chân Kim “xì” tiếng đầy mỉa mai, tỏ vẻ bất mãn:

      -  Kết bạn với con hồ ly ư?

      Bát Tư Ba mỉm cười nhân hậu, “bẻ” lại:

      - Vì sao thể? Vạn vật giữa núi rừng, sông suối, từ nhành cây, ngọn cỏ, hết thảy đều có tình cảm, huống hồ tiểu hồ ly này lại là kết tinh linh khí của cả đất trời. Dám hỏi Hoàng tử, ngài thích tiểu hồ ly này ở điểm gì?

      - Nó rất thú vị, đáng , tinh nghịch, lại rất đẹp nữa.

      Thằng nhóc túm chặt phần da thịt phía sau cổ tôi, lúc lắc khiến tôi chóng hết cả mặt, tôi khẽ gầm gừ biểu thị vẻ hài lòng. Tên tiểu quỷ biết trời cao đất dày, ngươi tưởng bắt nạt ta mà dễ à? Chẳng qua có nhiều người ở đây nên ta thể thi triển phép thuật thôi nhé! Thằng nhóc lắc tôi mạnh quá khiến tôi phát bực, bèn tung cú đá trừng phạt. Cú đá nện xuống ngực nó, chẳng khác nào châu chấu đá xe. Thằng nhóc khoái chí bật cười ha hả, khoa chân múa tay chạy nhảy tung tăng:

      - Vui quá! Vui quá! Thầy xem, cứ như thể nó hiểu ta vừa gì ấy.

      Bát Tư Ba đưa tay giữ Chân Kim lại, nghiêm nét mặt, :

      - Nếu nhốt nó vào lồng, tước bỏ tự do của nó dù bộ lông của nó có đẹp chừng nào rồi cũng mất màu, tính cách hoạt bát, lanh lợi của nó rồi cũng còn, và nó cũng nảy sinh thiện cảm với con người. Đến lúc đó, Hoàng tử chẳng còn thấy nó thú vị nữa.

      Khabi nãy giờ đứng quan sát mọi chuyện, lúc này mới hắng giọng, nghiêm nét mặt, giọng tuy mềm mại nhưng có uy nghiêm của mệnh lệnh:

      - Đủ rồi, Chân Kim, đừng đùa nữa, trả lại thượng sư con!

      bằng lòng nhưng Chân Kim dám trái ý mẹ. Xem ra Khabi giáo dục con cái rất nghiêm khắc, hề nuông chiều. Chân Kim trả tôi lại cho Bát Tư Ba nhưng vẻ mặt tiếc nuối vô chừng, ngước bộ mặt phụng phịu lên hỏi:

      - Thầy ơi, ta có thể đến chơi với nó thường xuyên ?

      - Tất nhiên là được.

      Bát Tư Ba vuốt ve đầu tôi, nghĩ lát, lại bổ sung:

      - Nhưng Hoàng tử được ép buộc nó làm những việc mà nó thích.

      Đừng hòng nhé, việc gì tôi phải chơi cùng với tên nhóc kiêu ngạo đó chứ! Tôi nằm gọn trong lòng Bát Tư Ba, nhe nanh, diễn vẻ mặt hung tợn dọa nạt. Tên nhóc hơi sững sờ, ngay sau đó liền cười tươi rạng rỡ, đầy vẻ lưu luyến. Đúng như dự đoán của tôi, Khabi nhìn tôi chằm chằm, đôi mắt đẹp của ấy chứa đầy ý.

      Đêm đó, tôi trằn trọc yên. Bên cạnh tôi, Bát Tư Ba dường như cũng ngủ được. Tôi biết thế, nhưng do dự mãi mới khẽ hỏi:

      - Lâu Cát… cậu… nếu như… nếu như tôi có thể biến thành người, cậu có đuổi tôi ?

      - Đừng những lời ngốc nghếch.

      Cậu ấy vòng tay tạo thành nơi nương náu an toàn cho tôi, như mọi đêm khi tôi nằm bên cậu ấy. Bóng đêm trùm lên đôi mắt sâu hun hút của cậu ấy. Bát Tư Ba trở mình, xoay lưng về phía tôi, giọng nhè vẳng bên tai tôi:

      - Ngủ !

      Đêm tịch mịch, vắng lặng, vầng trăng biếng nhác giấu mình trong đám mây lững lờ trôi, những vì sao thôi nhấp nháy, dường như chìm dần vào giấc ngủ. Trong lán trại hoa lệ, Khabi nằm nghiêng, thân hình thon thả, tuyệt mỹ dưới lớp chăn hoa gấm, hương thơm thoang thoảng tỏa lan, gương mặt tuyệt sắc, hơi thở đều đều. Người đẹp, đến cả dáng ngủ cũng đẹp.

      Đôi mắt ấy đột nhiên mở trừng trừng, những tia sáng màu xanh lam lấp lánh , ánh nhìn chiếu thẳng vào tôi. Trong bóng đêm, ấy ngồi dậy, bật cười khe khẽ, tỏ ra hề kinh ngạc:

      - Đến rồi hả?

      Khabi nhẩn nha kéo những lọn tóc rối từ sau lưng thả ra ngước ngực, khuôn ngực khẽ rướn lên, gợi cảm sao tả xiết:

      - Ta đoán chắc nhận ra từ lâu, nhưng vì sao bây giờ mới đến tìm ta?

      Tôi ngồi xuống trước mặt ấy, gật gật đầu, rất mực hồi hộp, căng thẳng khi nhìn vào đôi mắt màu lam nhạt của ấy, khẽ :

      - là vương phi, tôi đâu dám tự tiện đến gặp . Đây hẳn là bí mật lớn nhất của . Nếu như thừa nhận việc tôi đến tìm chẳng khác nào ôm rơm rặm bụng.

      Khóe môi ấy treo nụ cười khó hiểu, thừa nhận cũng phủ nhận. ấy thong thả dựng thẳng chiếc gối lên rồi ngả người, bật cười khúc khích:

      - Vậy vì sao hôm nay lại đến? lẽ lại muốn ôm rơm rặm bụng?

      - Tôi để ý hôm nay đến lán trại của Hốt Tất Liệt, và chắc chắn rằng buổi tối cần đến hầu hạ của đám tỳ nữ nên tôi mới quyết định đến đây. – Tôi lấy hết can đảm, rốt cuộc cũng lắp bắp được vài câu. – Tôi… tôi đến tìm … là để… là vì… muốn học hỏi phép biến hình.

      - Phép biến hình? đùa đấy à?

      ấy phì cười, vươn vai cái, chiếc váy lụa bó sát người xô lên cao, để lộ làn da trắng muốt, nõn nà, ngay cả tôi nhìn thấy cũng phải nuốt nước bọt. Khabi xua tay biếng nhác:

      - Tu luyện đến trình độ nhất định, phép biến hình tự khắc đến với dễ dàng như việc ăn cơm, uống nước hằng ngày vậy, đâu cần phải học.

      Tôi rối trí, cúi đầu xấu hổ:

      - Nhưng tôi, nhưng tôi… quả biết…

      ấy nhấc bổng tôi lên, đưa ra trước mặt, quan sát tỉ mỉ, vẻ mặt hoài nghi, ngạc nhiên hỏi:

      - phải chứ, lẽ nào đến bây giờ mà vẫn chưa biết biến hình?

      Tôi thành thực gật đầu.

      Hàng lông mày cong cong như mảnh trăng lưỡi liềm của ấy chau lại, ánh mắt lấp lánh, ấy hỏi khẽ:

      - chắc cũng phải ba trăm tuổi rồi nhỉ?

      Tôi thà gật đầu.

      ấy xoay tôi sang trái rồi sang phải, lắc lư hồi khiến tôi chóng cả mặt, rồi lại cào cào bộ lông của tôi ra quan sát kỹ lưỡng khiến tôi thấy nhói buốt. Sau hồi kiểm tra soi xét, ấy lắc đầu:

      - Sao lại thế nhỉ? là hồ ly xanh kia mà, loài hồ ly kết tinh linh khí của trời đất. Hơn nữa, theo Bát Tư Ba chừng ấy năm, chắc hẳn học lỏm được ít đạo pháp, lẽ ra phải biến hình được từ lâu rồi chứ? Vì sao ba trăm tuổi rồi mà vẫn giữ hình hài của tiểu hồ ly?

      Lòng dạ rối bời, tôi gãi gãi đầu, chừng như sắp khóc:

      - Tôi… tôi cũng biết nữa, có ai chỉ dạy tôi đâu…

      Ngón trỏ trái của ấy chạm vào vết sẹo hình hoa sen trán tôi, miệng lẩm nhẩm đọc thần chú:

      - Để ta xem nào.

      lát sau, như thể vấp phải trở lực nào đó, ngón trỏ của ấy đột ngột bắn ra khỏi trán tôi. ấy mở mắt, khẽ hít thở:

      - Lạ quá, ai đó yểm đạo bùa lên người . Đạo bùa này tuy có thể giúp ích cho việc tu luyện nhưng lại trói buộc linh hồn và thể xác .

      - Đạo bùa ư? – Tôi băn khoăn ngước nhìn gương mặt kiều diễm của ấy. – Nhưng… sao tôi hề hay biết?

      - Người yểm bùa có lẽ định hãm hại , bởi vì đạo bùa này chỉ trói buộc thân thể , khiến bị tổn thương nguyên khí.

      Như sấm dội bên tai, tôi chao đảo, ngã dúi dụi, đầu va vào chân giường, trong đêm thanh tĩnh, tiếng va đập nghe rất . Khabi vội lao đến kéo tôi lại:

      - Khẽ chứ, muốn đánh thức đám người hầu ngoài kia à?

      Tôi cắn môi, buồn bã :

      - Chính ngài Ban Trí Đạt. Trước lúc lâm chung, ông ấy truyền dạy cho tôi đoạn kệ, rằng giúp ích cho việc tu luyện của tôi. Mấy năm qua, ngày nào tôi cũng tụng niệm đoạn kệ đó.

      - Vị cao tăng danh tiếng lẫy lừng Ban Trí Đạt ư?

      Khabi nhấc tôi lên ngang mặt, khẽ chau mày suy ngẫm, sau đó, chừng như hiểu ra mọi chuyện, ấy :

      - Cũng phải thôi, ông ấy có thừa năng lực để làm việc này.

      Đột nhiên, tôi thấy buồn vô hạn. Tôi giữ đúng lời hứa với ông ấy, ở bên bảo vệ em Bát Tư Ba kia mà. Tôi tức giận gào lên:

      - Vì sao ông ấy lại làm vậy? Vì sao lại lừa dối tôi?

      Khabi vội vàng bịt miệng tôi lại, hầm hừ:

      - Vì sao ư? Vì muốn hóa phép thành người.

      Tôi sững sờ, chưa kịp hỏi lại Khabi lên tiếng:

      - cũng biết rất rằng, hồ ly xanh là loài đẹp nhất, cao quý nhất trong tộc hồ ly đúng ? Huống hồ lại còn là hồ ly xanh thuần chủng. khi biến hình thành người, chắc chắn thế gian này nào có thể so bì nhan sắc với . Ngay cả hồ ly tạp chủng là ta đây cũng chỉ có thể ngưỡng mộ và ghen tị mà thôi. Tuy Bát Tư Ba là người tu hành nhưng cậu ấy cũng là người đàn ông, làm sao động lòng cho được? Ngài Ban Trí Đạt làm vậy vì muốn mê hoặc cậu ấy.

      Tôi như phát sốt, nghiến răng uất ức:

      - Tôi… tôi chỉ muốn có hình hài của con người thôi, bao giờ tôi có ý định mê hoặc người khác…

      - bao giờ ư? – Khabi ngắt lời tôi, đôi mắt sắc sảo của ấy nhìn xoáy vào tôi. – Vậy cần đến hình hài của con người để làm gì? có dám thề rằng hề có chút tình cảm nào với Bát Tư Ba? Ta thường bắt gặp nhìn cậu ấy đắm đuối.

      Tôi suýt ngất, đầu lưỡi như cứng lại, ngắc ngứ:

      - Tôi… tôi… đó là vì…

      ấy lại ngắt lời tôi, nụ cười nhàng nở môi, chừng như thấu hiểu tất cả:

      - cần giải thích. Ta là người từng trải, nhiều kinh nghiệm, lẽ nào ta nhận ra trái tim tiểu hồ ly của rung động và khao khát! ba trăm tuổi, đến lúc rồi đó!

      Tôi… tôi rung động, khao khát ư? Lẽ nào những khoảnh khắc tim đập loạn nhịp, những xúc cảm khó hiểu, tâm trạng buồn vui thất thường ấy đều vì nguyên nhân này? Khabi thêm gì nữa, thảnh thơi ngả người xuống gối, hai tay bắt tréo trước ngực. Trong màn đêm mù mịt, đôi mắt màu lam nhạt của ấy nhấp nháy, vẻ mặt hả hê như được xem kịch vui khiến tôi càng rối bời.

      Tôi biết phải đối đáp ra sao, bèn chuyển đề tài, gặng hỏi:

      - Vậy tôi… phải làm sao để gỡ bỏ bùa chú của ngài Ban Trí Đạt?

      Khabi bật cười, chỉ dẫn qua quýt:

      - tu luyện theo đạo pháp mà ông ấy truyền dạy cho nữa. Hãy khổ luyện, rất nhanh thôi có được hình hài mà mơ ước bấy lâu.

      - Chúng tôi sống vùng thảo nguyên ở ngoại thành Phủ Châu suốt ba năm. Với Hốt Tất Liệt, đây là những ngày tháng dằng dặc buồn chán. Tuy sống trong cảnh lụa là, gấm vóc, nhàn hạ, vô ưu nhưng ông ấy bị tước mất binh quyền, niềm vui duy nhất của Hốt Tất Liệt lúc này là xây dựng thành quách. Hốt Tất Liệt “bị” cho nghỉ dưỡng ba năm công cuộc xây dựng tòa thành cũng kéo dài ba năm, bởi vậy nó rất kiên cố.

      Tôi tập tễnh đến bên tủ sách, lật mở cuốn sách giới thiệu về di tích Thượng Đô, nhà Nguyên, chỉ cho chàng trai trẻ bức hình chụp khung cảnh hoang phế của tường thành:

      - Sau khi công trình hoàn tất, Hốt Tất Liệt đặt tên cho nó là phủ Khai Bình, nơi đây chính là kinh đô Thượng Đô của nhà Nguyên.

      Chàng trai trẻ đón lấy cuốn sách, lật xem:

      - Kinh đô của triều Nguyên phải là Yên Kinh, mà giờ là Bắc Kinh sao? Ngày nay, ở Bắc Kinh vẫn còn di tích tường thành Yên Kinh của nhà Nguyên kia mà.

      - Đúng vậy. Nhưng Hốt Tất Liệt làm Đại hãn, mà theo cách của người Hán tức là lên ngôi ở phủ Khai Bình cũng chính là kinh đô Thượng Đô. Bốn năm sau ông ấy mới xây dựng Yên Kinh.

      Tôi ngắm nghía tòa thành đổ nát hoang tàn, chợt bồi hồi nhớ lại những năm tháng phồn hoa rực rỡ qua. Mới hơn bảy trăm năm mà tất cả thành hoang phế, chỉ còn lại chút tàn tích.

      - Đối với Hốt Tất Liệt, Thượng Đô có ý nghĩa vô cùng đặc biệt. Vì nó chứng kiến những năm tháng sa cơ lỡ vận của ông ấy, cũng là nhân chứng cho những năm tháng huy hoàng khi ông ấy lên ngôi hoàng đế. Sau khi dời đô đến Yên Kinh, tình cảm mà Hốt Tất Liệt dành cho Thượng Đô vẫn rất sâu nặng. Bởi vậy ông ấy biến Thượng Đô thành “cung điện mùa hè” của mình, và nơi đây cũng được xem là kinh đô thứ hai của nhà Nguyên. Về sau, hoàng thất nhà Nguyên hình thành thông lệ: tháng Tư hằng năm đến Thượng Đô, tháng Chín mùa thu mới trở lại Đại Đô. Thời gian cư trú tại Thượng Đô của các hoàng đế nhà Nguyên kéo dài nửa năm.

      Chàng trai trẻ bông đùa:

      - Ồ, ra truyền thống mùa hè đến sống ở sơn trang Thừa Đức để tránh nắng của các hoàng đế nhà Thanh là học theo người Mông Cổ ư?

    5. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 14 : Biện luận ở Ngũ Đài Sơn

      “Học giả thường mờ nhạt chính quê hương mình;

      Giống như châu báu bị thờ ơ giữa miền hải đảo.”

      (Cách ngôn Sakya)


      Theo di nguyện của đại sư Ban Trí Đạt năm hai mươi tuổi, Bát Tư Ba phải thọ giới Cụ túc để trở thành nhà sư đúng nghĩa. Nếu gặp biến cố, giờ này cậu ấy thọ giới ở Sakya. Sau khi quyết định theo Hốt Tất Liệt, Bát Tư Ba lưu lại trong doanh trại quân binh, sau đó rong ruổi cùng đoàn quân đất Vân Nam, vì thế việc thọ giới của cậu ấy đành phải lùi lại. Sau khi đến thảo nguyên Phủ Châu và ổn định cuộc sống, Bát Tư Ba tiếp tục trù bị kế hoạch thọ giới của mình. Đường về Sakya xa xôi vạn dặm, phải nửa năm mới đến nơi, lập tức khởi hành cũng kịp nữa. Vậy nên, Bát Tư Ba dự định thọ giới tại ngôi chùa nào đó đất Hán.

      Khi Bát Tư Ba vẫn cân nhắc xem nên mời vị cao tăng nào chủ trì buổi lễ thọ giới kiện bất ngờ xảy ra khiến cậu phải bỏ dở kế hoạch.

      Trong lúc miệt mài với công việc xây dựng thành trì Hốt Tất Liệt đột ngột nhận được mệnh lệnh từ Mông Kha Hãn. phải lệnh dẫn quân đánh trận, cũng phải chiếu chỉ tiếp tục tước bỏ quyền lực của ông mà là nhiệm vụ kỳ quặc: chủ trì cuộc tranh biện giữa Phật giáo và Đạo giáo về thực hư của cuốn Kinh Lão Tử giáo hóa người Hồ [1] .

      Vậy căn nguyên của việc này ra sao?

      Kinh Lão Tử giáo hóa người Hồ là cuốn sách mỏng, được lưu truyền từ đời Tấn. Theo Sử ký của Tư Mã Thiên sau khi Lão Tử ra khỏi lãnh thổ Trung Quốc, ai biết ông đâu. Bởi vậy, cuốn sách này viết tiếp cuộc hành trình bí đó của Lão Tử. Sách viết rằng, Lão Tử về hướng tây, qua Tây vực, đến Thiên Trúc và truyền đạo cho Phật Thích Ca. Từ đó, cuốn sách khẳng định Phật giáo có nguồn gốc từ Đạo giáo và Đạo giáo uyên thâm hơn Phật giáo. Tuy nhiên, điều khiến các tín đồ Phật giáo phẫn nộ hơn cả là việc cuốn sách dựng lên câu chuyện: tinh trùng của Lão Tử được truyền vào miệng người mẹ của Phật Thích Ca, sau đó bà mang bầu Đức Phật. Câu chuyện bịa đặt này khiến các đệ tử nhà Phật khỏi nổi giận, bất bình.

      Khi đó, hai phái Phật giáo và Đạo giáo như nước với lửa, cuộc xung đột kịch liệt giữa hai phái tập trung vào việc tranh luận thực hư của cuốn sách này.

      Vì đây là mệnh lệnh của Mông Kha Hãn nên Hốt Tất Liệt dám chậm trễ. Phủ Châu cách thánh địa Phật giáo Ngũ Đài Sơn xa nên Hốt Tất Liệt quyết định tổ chức cuộc tranh biện đặc biệt quan trọng này tại vùng núi nổi tiếng Ngũ Đài Sơn.

      Năm 1254, mùa thu năm Bát Tư Ba hai mươi tuổi, cậu bỏ dở kế hoạch thọ giới Tỷ Khâu để theo Hốt Tất Liệt đến Ngũ Đài Sơn. Phật giáo và Đạo giáo đều cử những vị cao tăng, đạo sĩ đức cao vọng trọng nhất của mình tham dự cuộc tranh biện quan trọng này. Về phía Phật giáo, Mông Kha Hãn cử đại sư Namo, người Kashmir mà ngài tôn làm quốc sư đến tham dự. Hốt Tất Liệt, dĩ nhiên là cử Bát Tư Ba làm người đại diện. Ngoài ra còn có quốc sư Tây Phồn [2] , quốc sư Hà Tây, các nhà sư đến từ Uyghur, quốc sư nước Đại Lý, đất Hán có đại diện là các vị trưởng lão các chùa Viên Phúc, Phụng Tiên ở Yên Kinh, tổng cộng ba trăm người. Phía Đạo giáo cũng thua kém, họ cử ra hơn hai trăm người tham dự, dẫn đầu đoàn là Trương chân nhân. Chưa hết, Hốt Tất Liệt còn lệnh cho thuộc hạ của mình là các danh sĩ người Hán: Diêu Khu, Đậu Hán Khanh… giữ vai trò “chứng nghĩa”, tức là người làm chứng cho cuộc tranh biện.

      Thư mời bay khắp nơi như bông tuyết. Hành cung [3] của Hốt Tất Liệt ở Ngũ Đài Sơn lúc nào cũng nườm nượp người ra vào làm nhiệm vụ liên lạc, đưa tin. Chỉ trong vòng tháng ngắn ngủi, hơn năm trăm khách mời đến từ hai phía hội tụ đông đủ về Ngũ Đài Sơn, khiến thánh địa Phật giáo này trở nên náo nhiệt hơn bao giờ hết. Là người đại diện cho phía Phật giáo bên cạnh “chủ nhà” Hốt Tất Liệt, Bát Tư Ba bận rộn với công việc tiếp đón các vị đại sư, cả ngày lúc nào ngơi nghỉ.

      Tuy mỗi bên cử mấy trăm người đến tham dự nhưng phải tất cả đều được đăng đàn. Kết quả cuối cùng sau khi bàn bạc và thống nhất, mỗi bên chỉ cử ra mười bảy người tham gia cuộc tranh biện, đó đều là những người giỏi nhất, uyên bác nhất. Về phía Phật giáo, Bát Tư Ba hai mươi tuổi là người trẻ nhất. Tuy đứng giữa các vị cao tăng râu tóc bạc phơ nhưng Bát Tư Ba tỏ ra rất mực điềm tĩnh, chững chạc, đối đáp trôi chảy, lưu loát. Trước khi diễn ra buổi tranh biện chính thức, các thành viên của đội tranh biện tập trung lại, cả ngày bàn bạc, phân tích, xem xét, đánh giá, họ miệt mài đến mức ăn ngủ cùng nhau. Sau vài ngày trao đổi, thảo luận, các nhà sư đều bày tỏ nể phục tư duy sắc bén và tầm kiến thức sâu rộng,
      uyên bác của Bát Tư Ba. Ngay cả vị quốc sư Namo lúc đầu tỏ ra hết sức kiêu ngạo cũng có cái nhìn khác đối với Bát
      Tư Ba.

      ngày trước khi diễn ra cuộc tranh biện, lễ đài được bố trí xong xuôi tại hành cung của Hốt Tất Liệt. Vẻ mặt của những người tham gia tranh biện đều căng như dây đàn, khí căng thẳng, hồi hộp và lo lắng bao trùm Ngũ Đài Sơn.

      Ngay cả kẻ chẳng liên quan gì như tôi cũng toát mồ hôi, hơi thở gấp gáp lạ thường.

      Trong phòng mình, Bát Tư Ba cho tôi uống sữa bò, rút khăn tay lau miệng cho tôi, mỉm cười nhìn tôi trìu mến:

      - Lam Kha, chúng ta leo núi nào!

      Tôi uống no căng bụng, nghe thấy vậy, giật mình, nấc lên từng hồi:

      - Cậu… cậu… Ngày mai diễn ra cuộc tranh biện chính thức rồi. Người ta… người ta ai nấy đều gấp rút chuẩn bị, sao cậu vẫn còn tâm trạng thảnh thơi để leo núi?

      Thấy tôi vừa nấc vừa , cậu ấy kìm được bật cười, vuốt sống lưng tôi.

      - Chính vì ngày mai ta tham gia cuộc tranh biện nên hôm nay càng phải ra ngoài dạo cho tinh thần thoải mái.

      Vẻ mặt bình thản, vô ưu của cậu ấy khiến người ta có cảm giác cuộc chiến sinh tử diễn ra ngày mai dường như hề tồn tại. Giọng trầm ấm vang lên:

      - Đạo tràng ở Ngũ Đài Sơn là nơi năm xưa Bồ Tát Văn Thù hiển linh thuyết pháp. Từ thời Bắc Ngụy, người ta dựng chùa ở đây để thờ cúng. Đến thời nhà Đường, thánh địa Phật giáo này phát triển rất rực rỡ. Phái Sakya tôn thờ Bồ Tát Văn Thù, bởi vậy ngay khi đặt chân đến đây, ta có ý định thăm thú, chiêm bái và làm lễ nhưng bận rộn nên chưa thực được. Hôm nay, ta muốn bỏ lỡ cơ hội này.
      <div>

      <hr align="left" size="1" width="33%" />


      [1] Lão Tử: nhà triết học nổi tiếng thời xưa ở Trung Quốc. Ông là người khai sáng ra Đạo giáo, môn học về vũ trụ, thiên nhiên, vật chất. Người Hồ: theo nghĩa hẹp dùng để chỉ các dân tộc bên ngoài Trung Quốc, thuộc vùng Trung và Tây Á. Trong trường hợp này, “người Hồ” dùng để chỉ người Ấn Độ (Thiên Trúc). Sách Kinh Lão Tử giáo hóa người Hồ, nguyên tác là Lão Tử hóa Hồ kinh là tác phẩm của Đạo giáo Trung Quốc nhằm tự đề cao tôn giáo của mình, cho rằng sau khi Lão Tử truyền lại bộ Đạo đức kinh cho viên quan Doãn Hỉ trấn giữ Hàm Cốc Quan ngài cưỡi trâu về hướng tây để hóa độ, giáo hóa người Hồ (tức người Ấn Độ) và truyền đạo cho Phật Thích Ca và hai mươi tám thiền tổ Ấn Độ. Cuốn sách này từ lâu bị xem là ngụy thư (viết về những điều ) và bị đốt bỏ từ đời Đường, Trung Quốc. (DG)

       

      [2] Tây Phồn: tên gọi chung chỉ vùng Tây vực và khu vực biên giới phía tây của Trung Quốc vào thời cổ đại. (DG)

       

      [3] Hành cung là nơi ở tạm thời của vua chúa thời xưa khi công cán ở địa phương. (DG)



      cần người theo hầu, Bát Tư Ba ôm tôi tay, chầm chậm leo lên ngọn núi mỹ lệ nhất Ngũ Đài Sơn – núi Thúy Nham ở Trung Đài [1] . Tôi nhiều lần bảo với cậu rằng hãy thả tôi xuống để tôi tự , nhưng cậu muốn tôi bị mệt vì thương tật ở chân sau nên cứ ôm tôi và leo lên cao như thế.

      Ở trong vòng tay cậu ấy, nghe nhịp tim gấp gáp của cậu ấy, toàn thân tôi nóng bừng. Đây phải là lần đầu tiên tôi ở sát bên cậu ấy như vậy, nhưng vì sao tôi lại có cảm giác kỳ lạ này? Khabi từng trái tim tôi thổn thức, giờ đây tôi chợt nhận ra, tôi chẳng thể viện cớ để phản bác được nữa.

      Ngày hôm đó, trời thu trong xanh, thoáng đãng, tùng bách vươn cao hai bên lối , tre trúc xanh um, rì rào trong gió . Những đền đài, lầu các, đình viện giữa trập trùng núi non, cảnh sắc nên thơ. đường , cậu ấy tươi cười trò chuyện với tôi, nụ cười rạng rỡ lúc nào tắt môi. Nếu như có mối bận tâm về cuộc tranh biện của ngày hôm sau chuyến Ngũ Đài Sơn lần này của tôi có thể coi là chuyến du ngoạn tuyệt vời nhất trong đời.

      Buổi tối, Bát Tư Ba miệt mài bên bàn giấy, tôi cứ ngỡ cậu ấy phác thảo những nội dung quan trọng của buổi tranh biện ngày mai nên chỉ lặng lẽ cuộn tròn bàn, dám làm phiền. Lúc viết xong, cậu ấy nhẩm đọc lượt rồi mỉm cười đẩy trang giấy về phía tôi. Khi ấy tôi mới ngỡ ngàng, ra đó là bài thơ vịnh cảnh Ngũ Đài Sơn. Trời ơi, cậu ấy vẫn còn tâm trạng để làm thơ ư! Ngắm nhìn gương mặt thảnh thơi, thư thái, vẻ an nhiên tự tại của cậu ấy mà tôi vừa bực mình vừa buồn cười. Đêm đó, cậu ấy ngủ say đến lúc trời sáng, còn tôi, lòng cứ bồn chồn yên, mồ hôi vã ra như tắm.

      Người đời sau dịch bài thơ bằng tiếng Tạng của Bát Tư Ba sang tiếng Hán, với tiêu đề Lên Ngũ Đài Sơn chiêm bái Bồ Tát Văn Thù:

      “Ngũ Đài phảng phất chốn Tu Di,

      Kiên cố hoàng kim khó sánh bì,

      Năm ngọn núi cao khoe dáng đẹp;

      Bàn tay tạo hóa khéo tinh vi,

      Trung Đài – Sư tử giận oai phong,

      Vách núi nguyên sơ, sen trắng trong;

      Đông Đài – Voi chúa vươn ngà quý,

      Cỏ cây xanh thẳm mấy từng ;

      Nam Đài – Tuấn mã giữa đồng xanh,

      Hoa vàng khoe sắc thắm long lanh;

      Tây Đài – Khổng tước xòe đuôi múa,

      Hào quang chiếu rọi khắp xung quanh;

      Bắc Đài – Đại bàng dang cánh lượn,

      Cây cao ngọc lục ngạo thiên thanh.” [2]

      Ngày diễn ra cuộc tranh biện, trời xanh, nắng vàng rực rỡ. Dưới ánh mai lấp lánh, năm đỉnh núi có hai ở Ngũ Đài Sơn lên xanh ngắt, nguy nga. Nơi diễn ra cuộc biện luận là thiền viện Văn Thù nằm giữa trấn Đài Hoài. Hơn năm trăm vị khách đến từ hai phái Phật giáo và Đạo giáo, cùng rất nhiều quan lại do Hốt Tất Liệt cử đến ngồi kín đại điện rộng lớn trong thiền viện. Tôi niệm chú, náu thân Phật đài phía trước đại điện, hồi hộp quan sát cuộc tranh luận.

      Đại diện của Phật giáo và Đạo giáo ngồi ở hai bên, chiếc đệm nổi bật ở vị trí trung tâm là người giữ vai trò chủ tọa của buổi biện luận hôm nay – Vương gia Hốt Tất Liệt. Ngài tuyên bố “khai mạc”: Theo tập tục tranh biện của các giáo phái Thiên Trúc, bên thua cuộc phải dâng hoa cho bên thắng cuộc và phải theo học giáo lý của đối phương.

      Hai bên đồng thanh bày tỏ chấp thuận.

      Mở đầu cuộc biện luận là nội dung của các kinh văn kinh điển bằng tiếng Hán, vì thông thạo ngôn ngữ này nên Bát Tư Ba chỉ yên lặng lắng nghe.

      Cuộc tranh luận đến hồi cam go, quyết liệt, các đạo sĩ lập luận rằng cuốn Sử ký của Tư Mã Thiên là bằng chứng chứng minh tính xác thực của cuốn kinh Lão Tử giáo hóa người Hồ. Bát Tư Ba tỏ ra ngạc nhiên như thể đây là lần đầu tiên nghe nhắc đến cuốn sách này. Cậu đứng lên, khiêm tốn đặt câu hỏi:

      - Bần tăng là người Tạng, xin thứ lỗi cho bần tăng thông thạo điển tịch chữ Hán, dám hỏi đạo huynh đây, Kinh Lão Tử giáo hóa người Hồ là sách gì vậy?

      Người biện luận chính bên phía Đạo giáo là Trương chân nhân. Ngài vân vê bộ râu dê hồi, lỗ mũi hướng thiên, vênh mặt ngó tên nhãi kém mình hơn ba chục tuổi ở bên kia chiến tuyến, ánh mắt khinh khỉnh:

      - Danh tiếng của Phật sống Bát Tư Ba, người Tufan vang dội khắp đất Hán, ta những tưởng đó phải là Lạt Ma học vấn sâu rộng, uyên thâm, trác việt, chẳng ngờ chỉ là hư danh mà thôi. Ngay cả cuốn Kinh Lão Tử giáo hóa người Hồ tiếng tăm lẫy lừng mà cũng biết ư? Đây là cuốn sách gối đầu giường của các bậc đế vương đời trước đó!

      “Trọng tài” Hốt Tất Liệt chừng cũng rất bức xúc vì câu đầy mỉa mai, khinh miệt đối với Bát Tư Ba, bèn đằng hắng tiếng, cất giọng bực bội:

      - Nội dung chính của cuộc tranh luận hôm nay là những giáo pháp trong cuốn sách này. Trương chân nhân đâu cần phải mượn uy danh của các đời vua trước để tô điểm cho giáo phái mình.

      Trương chân nhân giật mình sợ hãi khi nghe Hốt Tất Liệt quở trách, vội vã cúi đầu nhận lỗi. Bát Tư Ba vẫn tỏ ra rất mực khiêm nhường, tiếp tục chất vấn đối phương:

      - Đạo trưởng đưa ra bằng chứng là cuốn Sử ký do người Hán viết, vậy xin hỏi đạo trưởng, cuốn Sử ký có ghi chép về việc Lão Tử giáo hóa người Hồ ra sao ?

      Trương chân nhân lúc này nhã nhặn hơn, ông ta trả lời Bát Tư Ba bằng ngữ điệu răn dạy của bề đối với kẻ dưới:

      - Tất nhiên là có.

      - Xin các vị nhìn xem đây có phải là cuốn Sử ký ? Các vị là người Hán, chắc chắn thông thuộc cuốn sách này hơn người Tufan chúng tôi.

      Bát Tư Ba lấy ra cuốn sách từ trong áo, đưa đến trước mặt các vị đạo sĩ ở phía đối diện. Sau khi ai nấy đều gật đầu xác nhận, cậu từ tốn lật mở trang của cuốn sách:

      - Đây là chương “Truyện kể về Lão Tử” trong cuốn Sử ký. Xin thứ lỗi bần tăng mắt kém, các vị vui lòng cho biết, trang nào trong chương sách này kể chuyện Lão Tử giáo hóa người Hồ?

      vị đạo sĩ đứng phía sau Trương chân nhân nhanh nhảu lên tiếng:

      - Ngươi đọc ghi chép về hành tung sau cùng của Lão Tử trong Sử ký chưa?

      Bát Tư Ba lật đến trang sách đó, cất giọng sang sảng:

      - Đạo trưởng muốn đến câu cuối cùng này: “Lão Tử ra đâu” phải ?

      Vị đạo sĩ đó gật đầu.

      Bát Tư Ba mỉm cười, khẽ cúi đầu thưa rằng:

      - “Ra đâu” đồng nghĩa với việc “Lão Tử rời khỏi đất Hán, về hướng tây để giáo hóa người Hồ” ư? Xin thứ lỗi cho bần tăng kiến thức nông cạn, nhưng thứ logic này bần tăng chưa từng nghe bao giờ.

      Trương chân nhân bị đòn đau, như gà mắc tóc, mặt mày khó coi. Bát Tư Ba chờ cho đối phương kịp phản ứng, thừa cơ xông tới:

      - Nếu như Sử ký có những ghi chép chi tiết, chính xác, vậy xin hỏi các vị đạo trưởng, cuốn sách để đời của Lão Tử là cuốn nào?

      Trương chân nhân lúc này mới bình tĩnh trở lại, đáp:

      - Tất nhiên là cuốn Đạo đức kinh.

      - Ngoài cuốn này ra, Lão Tử còn viết cuốn nào khác nữa ?

      - .
      <div>

      <hr align="left" size="1" width="33%" />


      [1] ngọn núi thuộc Ngũ Đài Sơn. Ngũ Đài Sơn là quần thể gồm năm ngọn núi, chia thành bắc, nam, đông, tây và trung, hay còn có tên gọi tương ứng là Diệp Đấu Phong, Cẩm Tú Phong, Vọng Hải Phong, Quải Nguyệt Phong và Thúy Nham Phong. (DG)

       

      [2] Các hình tượng: Sư tử, Voi chúa, Tuấn mã, Khổng tước, Đại bàng vốn là vật cưỡi của các vị Bồ Tát. Bản dịch thơ của Nguyễn Vĩnh Chi. (DG) 



      Bát Tư Ba lại lấy ra cuốn sách khác, cung kính trình lên:

      - May sao bần tăng cũng có cuốn Đạo đức kinh ở đây, xin mời trưởng lão kiểm chứng.

      Các đạo sĩ chuyền tay nhau đọc lượt, rồi tất cả đều gật đầu xác nhận, nhưng ai biết Bát Tư Ba định làm gì. Cậu mỉm cười:

      - Xin hỏi các vị, trong cuốn Đạo đức kinh này, có câu nào Lão Tử thuật lại việc ngài đến Thiên Trúc giáo hóa người Hồ ?

      Bị giáng tiếp đòn nữa, các đạo sĩ mặt mày đều tái xám. Những kiểu câu hỏi chỉ cho phép trả lời đúng hoặc này khiến các vị thể xảo biện, đành phải hậm hực trả lời:

      - có.

      Đôi mắt thông thái của Bát Tư Ba lướt quanh lượt quan khách, nụ cười hồn hậu vẫn nở môi, cậu ấy dõng dạc tiếp:

      - Lão Tử sống vào thời Xuân Thu, Tư Mã Thiên sống vào đầu thời Hán, cách ngài vài trăm năm. Trong cuốn Sử ký mà đạo trưởng dùng làm căn cứ hề có ghi chép nào về việc Lão Tử giáo hóa người Hồ. Cuốn Đạo đức kinh do chính Lão Tử viết cũng có. Vậy xin hỏi, cuốn Kinh Lão Tử giáo hóa người Hồ tay đạo trưởng từ đâu mà có, và nó ra đời vào triều đại nào?

      Trương chân nhân tái mặt. Các đạo sĩ đứng sau ông ta vẫn chưa chịu nhận thua, ra sức vớt vát:

      - Đó là… đó là do người đời sau…

      Bát Tư Ba nghiêm nghị ngắt lời đạo sĩ:

      - Vậy tức là, đạo trưởng thừa nhận cuốn Kinh Lão Tử giáo hóa người Hồ này là do người đời sau sáng tạo ra?

      Cậu ấy ngừng lại lát, người hơi ngả về phía trước, giọng nghiêm nghị, ánh mắt sắc lạnh:

      - Bởi vậy, những điều trong cuốn sách này là nhảm nhí, vô căn cứ. Người viết ra cuốn sách cố tình bịa đặt, dựng chuyện, hòng bôi nhọ thanh danh của Phật giáo, hạ thấp Phật pháp!

      Trương chân nhân run rẩy, đứng vững, ông ta chao đảo rồi ngã ngửa về phía sau. Các đệ tử của ông ta vội đỡ lấy sư phụ nhưng Trương chân nhân ngất xỉu. Chỉ trong chốc lát, phía Đạo giáo, người khóc người gào, rối như canh hẹ. Hốt Tất Liệt khoát tay ra hiệu cho mọi người trật tự, sau đó gật đầu với viên quan Thượng thư Diêu Khu làm nhiệm vụ ghi chép ở bên cạnh. Diêu Khu lĩnh ý, dõng dạc tuyên bố:

      - Đạo giáo thua cuộc!

      Lời tuyên bố là kết quả cuối cùng, cuộc tranh biện kết thúc. Phía Phật giáo hò reo vang dội. Tôi hưng phấn đến độ suýt nữa hình. Phật giáo Tạng truyền đặc biệt coi trọng logic học Nhân minh, các cao tăng của Phật giáo Tạng truyền đều là những nhà hùng biện xuất chúng, huống hồ Bát Tư Ba lại người xuất sắc nhất trong những người xuất sắc. Nếu như cậu ấy đưa ra những luận chứng sắc sảo cũng khó trước phần thắng thuộc về bên nào.

      Bát Tư Ba vẫn rất mực điềm đạm, khiêm nhường. Cậu ấy chắp tay vái lạy Bồ Tát Văn Thù, lầm rầm đọc kệ, ngữ điệu rất mực thành kính:

      - trời dưới đất gì bằng,

      Mười phương thế giới cũng sánh;

      Toàn thể thế gian con thấy hết,

      Tất cả ai bằng Phật được.

      Hốt Tất Liệt ra lệnh cho các đạo sĩ tuân thủ hình phạt như giao ước, mười bảy vị đạo sĩ tham gia tranh biện phải xuống tóc làm sư. Hốt Tất Liệt buộc họ lưu lại trong các ngôi chùa ở Ngũ Đài Sơn để tu hành.

      Tôi mình sau lễ đài, ngẩn ngơ ngắm nhìn vẻ an nhiên, tự tại của cậu ấy. tự tin ấy, gương mặt thánh khiết ấy, đôi mắt trong suốt ấy khiến trái tim tôi ngày chìm sâu vào bể trầm luân. Tôi ước mình mau chóng có được hình hài của con người. Khát khao thầm kín ấy cứ lớn dần và đè nặng lên trái tim bé của tôi.

      Kể từ hôm đó, ban đêm tôi ngủ rất ít, dành hết thời gian cho việc tu luyện. Những lúc mệt mỏi, hình ảnh thiếu nữ với gương mặt mơ hồ và nụ cười ngọt ngào cứ thấp thoáng trong đầu, giúp tôi hồi sức rất nhanh.

      Khi ấy, khát vọng duy nhất của tôi, suy nghĩ duy nhất lấp đầy tâm trí tôi là: tôi phải hóa thành người trước khi cậu ấy thọ giới Cụ túc.

      - Tuy danh tiếng của Bát Tư Ba lừng lẫy khắp đất Tạng nhưng nhiều người trong giới Phật giáo Trung Nguyên biết đến cậu. Sau cuộc biện luận này, tiếng tăm của vị Lạt Ma mới hai mươi tuổi vang xa khắp chốn. Tuy chỉ là trong số mười bảy người của phía Phật giáo tham gia biện luận nhưng phần biện luận của Bát Tư Ba lại giữ vai trò then chốt trong việc quyết định thắng thua. Kể từ đó, giới Phật giáo Trung Nguyên thể nể trọng Bát Tư Ba.

      Sau khi lắng nghe tôi mô tả lại cách chi tiết và sinh động cuộc biện luận đầy kịch tính, chàng trai trẻ đưa ra nhận xét sắc bén:

      - Phật giáo vốn là tôn giáo ngoại lai, tôn giáo này bắt đầu du nhập vào Trung Quốc từ giữa thời Đông Hán. Thời gian đầu khi mới đến Trung Nguyên, Phật giáo và tôn giáo bản địa thể tránh khỏi xung đột.

      Tôi đồng tình:

      - Đúng vậy. Sau khi cuốn sách ra đời, cuộc tranh chấp giữa Phật giáo và Đạo giáo lại càng khốc liệt, thậm chí nhiều đời hoàng đế can dự vào cuộc tranh chấp này. can thiệp bằng vũ trang của chính quyền thường khiến cho cục diện giữa Phật giáo và Đạo giáo diễn ra như sau: bên được sùng bái, bên bị đồ sát. Lịch sử ghi lại những cuộc thảm sát tôn giáo tàn khốc,
      đẫm máu.

      Lúc này cũng là giai đoạn mà lịch sử Trung Quốc xảy ra những biến động lớn. Người Khiết Đan, người Nữ Chân, người Đảng Hạng, người Mông Cổ luân phiên thống trị miền Bắc Trung Quốc. Xã hội rối ren, mâu thuẫn dân tộc và biết bao áp lực khác đè nặng lên vai những con người khốn khổ. làm gì để thay đổi được số phận bi thảm, họ chỉ còn cách tìm đến với tôn giáo như nơi nương tựa về tinh thần. Nhưng của cải có hạn, số lượng tín đồ cũng có hạn, cuộc tranh chấp giữa Phật giáo và Đạo giáo tưởng chừng lắng xuống vào thời nhà Tống lại được dịp bùng lên dữ dội.

      Tôi ngồi bó gối đệm trải:

      - Khi đó, quý tộc Mông Cổ là những người có thế lực chính trị mạnh nhất. Tín ngưỡng truyền thống của người Mông Cổ là Saman giáo nguyên thủy, nhưng kể từ thời Thành Cát Tư Hãn, hoàng thất Mông Cổ thực chính sách cởi mở, tiếp nhận tất cả các tôn giáo ngoại lai, thu nạp các nhân sĩ của tất cả các giáo phái làm người giúp việc cho mình. Bởi vậy, cả Phật giáo và Đạo giáo đều ra sức giành giật ưu ái của người Mông Cổ, ra sức hạ bệ, phỉ báng những tôn giáo khác, quyết
      nhân nhượng.

      Chàng trai trẻ diễn vẻ mặt già dặn, rành rẽ đời, kết luận:

      - Đúng vậy. Thế nên cuộc tranh biện này là khó tránh khỏi.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :