1. QUY ĐỊNH BOX XUẤT BẢN :

       

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]

    ----•Nội dung cần:

    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)

    - Tác giả

    - Dịch giả

    - Đơn vị phát hành

    - Số trang ( nên có)

    - Giá bìa (nên có)

    - Ngày xuất bản (nên có)

    --- Quy định

    1 . Thành viên post có thể tự type hoặc copy từ nơi khác (để nguồn)

    2 . Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn

    3. Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ

    Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Hoa Sen Xanh - Chương Xuân Di (Full 2 Tập)

Thảo luận trong 'Sách XB Hoàn'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 5 : Ký ức tuổi thơ

      <img class="aligncenter" alt="" src="https://i.imgur.com/SdPiIOV.png" width="128" height="128" /> 


      “Học giả uyên bác có sức hút mãnh liệt với những người xung quanh;

      Hương hoa nồng nàn có sức hút mãnh liệt với bầy ong chăm chỉ.”

      (Cách ngôn Sakya)




      Bát Tư Ba đỏ mặt, từ từ quỳ xuống, luồn tay vào áo, nhấc tôi ra ngoài nhưng giao tôi cho ngài Ban Trí Đạt mà ôm chặt trong lòng. Kháp Na cũng sợ xanh mắt, cuống quýt giải thích:

      - Thưa… thưa bác, đó là… là… tại con ạ! Con nài nỉ đại ca mang Tiểu Lam theo…

      Bát Tư Ba bình tĩnh ngắt lời Kháp Na, cúi đầu thưa:

      - Tất cả là do Lâu Cát ham chơi, chịu nghe lời bác, con xin nhận trừng phạt.

      Ánh mắt sắc bén của ngài Ban Trí Đạt dồn cả vào tôi, ngài trầm ngâm lúc rồi chậm rãi :

      - con hồ ly ư…

      Tôi cảm thấy giọng của ngài mang ngữ khí trách móc nhưng rất sâu xa, khó đoán. tiểu như tôi làm sao đoán biết được tâm tư sâu xa của bậc trí giả kia chứ! Dường như ngài biết ý đồ của tôi, tôi sợ hãi, cảm giác như có bàn tay vô hình túm chặt lấy mình, vội vàng học theo Bát Tư Ba, chúi đầu xuống, dám nhìn vào mắt ngài nữa.

      - Thưa bác, Lam Kha Mai Đóa chỉ là con hồ ly, nó rất đáng , lại thông minh, biết nghe lời, hai em con rất thích nó… – Kháp Na rón rén giải thích, chốc chốc lại nghếch lên nhìn trộm ngài Ban Trí Đạt.

      Biểu cảm gương mặt vị trí giả hề thay đổi, ngài lặng lẽ xắn tay áo:

      - Các con thích cứ nuôi, nhưng lúc tu tập nhất định phải chuyên tâm, sau này được phép đưa nó đến nghe giảng pháp.

      Ngừng lát, ngài quay sang Bát Tư Ba:

      - Lâu Cát, ta phạt con quỳ trước tượng Bồ Tát Văn Thù sám hối hai canh giờ.

      Bát Tư Ba thưa vâng, Kháp Na đứng bên trai, đột nhiên quỳ mọp xuống, ngước gương mặt dễ thương lên, bật khóc thảm thiết:

      - Thưa bác, lỗi tại con mà…

      - Kháp Na, con đưa tiểu hồ ly về phòng trước .

      Giọng của ngài vẫn hiền hòa, điềm đạm nhưng như mệnh lệnh nghiêm khắc, được phép chống lại. Kháp Na nước mắt lưng tròng nhìn trai quỳ dưới đất. Bát Tư Ba mỉm cười động viên em rồi trao tôi cho chú nhóc.

      - Nhớ cho Lam Kha ăn uống nhé! – Lúc trao tôi cho Kháp Na, Bát Tư Ba kề sát vào tai em trai thào căn dặn.

      Kháp Na nín khóc, vừa bước vừa quay đầu lại nhìn, ngài Ban Trí Đạt cất giọng điềm tĩnh:

      - Trong vòng hai canh giờ, được phép đến thăm con.

      Màn đêm vừa buông xuống, trận gió lớn nổi lên, tuyết trắng ào ào trút xuống sau ngày trời u ám. Những bông tuyết va vào cửa sổ, ù ù, rào rào.

      Lò lửa bập bùng khiến căn phòng trở nên ấm cúng hơn. Kháp Na đứng ngồi yên, ôm tôi lại lại chán lại ngồi lên giường, thở vắn than dài. Tôi cảm thấy rất áy náy nên khi Kháp Na trò chuyện với tôi bằng giọng cằn nhằn, than thở, tôi cũng tỏ ra rất mực lo lắng, phiền muộn. Biểu cảm chân thành đó càng khiến chú nhóc cưng tôi hơn.

      Mãi tới khi tiếng mõ báo sang canh vang lên, Bát Tư Ba mới bước vào phòng. Cậu bỏ vạt áo thầy tu che đầu xuống, vai cậu phủ lớp tuyết mỏng, lúc này tôi mới biết, ngoài trời tuyết rơi mù mịt.

      - Sao còn chưa ngủ? – Cậu ấy giậm chân giũ tuyết bám áo, chìa tay về phía lò than sưởi ấm, cất giọng dịu dàng hỏi em trai.

      - Đệ xin lỗi… – Kháp Na nhảy phịch xuống đất, chân trần, lao vào lòng trai, giọng nghẹn ngào.

      - phải tại đệ đâu, tất cả là lỗi của ta. – Bát Tư Ba vỗ vào mái tóc dài, đen mượt, thả ngang vai của Kháp Na, ngẩng lên nhìn tôi. – Đệ cho Lam Kha ăn gì chưa?

      - Rồi ạ, đệ cho nó ăn bánh. – Kháp Na quên cả buồn phiền, hãnh diện khoe với trai.

      Tôi tủi thân, rên rỉ mách với Bát Tư Ba, miếng bánh bột mì nhúng sữa bò ấy tôi nuốt trôi, nó có mùi rất lạ, tôi ngửi nổi. Tôi chỉ uống làm phép chút sữa thôi và kiên quyết ăn miếng bánh nào. Thế mà cái tên quỷ kia cứ cố tình ấn đầu tôi xuống đĩa, nước mắt tôi ứa ra, nhưng cậu ấy vô tâm chẳng hề hay biết tôi bực mình thế nào.

      Bát Tư Ba giật mình, sau đó lắc đầu cười:

      - Đệ biết loài hồ ly thích ăn gì sao?

      Cậu ấy kịp thay chiếc áo thầy tu ướt, vội vã mở cửa, ra ngoài. Nửa canh giờ sau, cậu ấy quay lại với đĩa thịt nóng hổi tay. Vừa thoáng ngửi thấy mùi thơm, nước miếng tôi tong tong, tôi chờ được nữa, vội vàng vùng thoát khỏi vòng tay của Kháp Na, phi như bay về phía Bát Tư Ba.

      Trời ơi, thịt gà, lâu lắm rồi tôi mới lại được ăn món này! Kể từ khi bị lão thợ săn bắt nhốt đến nay, tôi chưa được nếm vị thịt gà lần nào. Đói ăn, thiếu chất, tôi gầy đến mức chỉ còn da bọc xương. Tôi nhai nuốt nhồm nhoàm, chỉ vài miếng hết sạch đĩa thức ăn, sau đó tôi liếm sạch mép đĩa, bỏ sót dù chỉ giọt mỡ. Bát Tư Ba ôm tôi lên, cánh tay thuôn dài, gầy guộc đưa bát sữa kề sát miệng tôi. Mùi thơm ngào ngạt của sữa bò phả vào mũi tôi khiến tôi thèm thuồng, nuốt nước bọt ừng ực.

      Trong thời gian tu luyện ở núi Côn Luân, tôi thường xuống núi, vào nhà dân bắt trộm gà, nhân tiện… uống trộm sữa bò. Nhưng lúc này tôi lại cảm thấy thoải mái với cái cách Bát Tư Ba chăm sóc tôi, vì cậu ấy làm như thể chăm đứa bé ăn uống vậy.

      Tôi muốn phản đối nhưng cưỡng nổi sức hấp dẫn của sữa bò. Thôi vậy, bà lão này thèm chấp với bọn trẻ con các người, ta phải uống cho đời cái . Tôi cứ thế tận hưởng bát sữa bò tay Bát Tư Ba, quên liếm sạch mép bát, sau đó dụi đầu vào áo của cậu ấy bày tỏ mãn nguyện.

      - Đại ca ơi, điệu bộ lúc uống sữa của Tiểu Lam trông buồn cười. – Kháp Na nãy giờ ngồi xổm bên cạnh xem tôi ăn uống, lúc này mới chớp chớp đôi mắt to tròn đen láy, cười tít mắt. – Huynh nhìn kìa, miệng nó dính đầy sữa.

      Chú nhóc xòe tay định lau miệng cho tôi nhưng tôi nhe nanh dọa dẫm, sau đó quay đầu , thèm để ý. Tên quỷ này hôm nay đày ải mình, nếu có Bát Tư Ba, chắc mình chết đói rồi.

      mảnh khăn nhàng đậu miệng tôi. Tôi giật mình ngước lên, dưới ánh đèn dầu, tôi bắt gặp đôi đồng tử trong suốt, tinh khôi, từ đó phát ra ánh màu kỳ ảo tựa như hổ phách, khóe môi treo nụ cười tươi tắn. Cậu ấy nhàng lau miệng cho tôi, giọng khàn khàn, trầm ấm vẳng bên tai:

      - No chưa? ngủ nhé!

      Cậu ấy đặt tấm thảm xuống dưới chân giường, Kháp Na vội kêu lên:

      - Đại ca ơi, cho Tiểu Lam ngủ giường cùng chúng ta . Trời lạnh thế này, mình nó nằm dưới đất chết cóng mất.

      - Ừ.

      Bát Tư Ba ôm tôi lên giường, hai em họ cởi áo khoác ngoài, tắt đèn, chui vào trong chăn ấm. Tôi nằm giữa, hơi thở của họ thổi qua mặt tôi. Ngoài kia gió rít ầm ầm, giữa đêm khuya tịch mịch, tiếng ào ào của những trận tuyết lớn nghe càng . Người tôi nóng ran, biết là do hơi ấm tỏa ra từ chiếc giường kiểu giường lò sưởi hay bởi tim tôi đập loạn vì cảm giác khác thường lúc này.

      Tôi cứ trằn trọc mãi, sao ngủ được. Chưa bao giờ ở gần con người đến thế nên tôi cảm thấy tự nhiên. Bản năng cảnh giác của loài hồ ly khiến tôi hình thành thói quen ngủ ngày thức đêm. Có lẽ tôi phải thay đổi thói quen này để thích nghi với tập tính của con người.

      Trong đêm đen, thị lực của tôi vẫn rất tốt, vì thế tôi có thể nhìn thấy cái đầu xíu của Kháp Na hướng về phía mình, mái tóc dài, đen như mun rủ xuống che khuất nửa khuôn mặt, hai má lúm đồng tiền đáng , cái miệng xinh xắn thi thoảng lại bật lên vài câu mơ. Bát Tư Ba nằm nghiêng, gương mặt an nhiên, tĩnh tại, hai tay đặt ngay ngắn hai bên hông. Tôi tủm tỉm cười, cậu bé già dặn, quy củ này, ngay cả tư thế nằm ngủ cũng chỉnh tề như vậy.

      Kháp Na trở mình, cánh tay đổ xuống, đè lên chiếc đuôi dài của tôi. Tôi gắng gượng chịu đau, ra sức đẩy cánh tay của cậu nhóc ra. Nhưng rồi tôi nhận ra, so với con người, sức lực của loài hồ ly chỉ như kiến càng lay cổ thụ, châu chấu đá xe mà thôi. Tôi định kêu lên vì chịu nổi bỗng thấy tiếng áo xống sột soạt. Đó là Bát Tư Ba. ngờ cậu ấy lại dễ thức giấc như vậy, tiếng kêu khe khẽ của tôi khi gắng sức đẩy cánh tay của Kháp Na khiến cậu ấy tỉnh giấc.

      Bát Tư Ba rón rén ngồi dậy, nhấc cánh tay vô ý của Kháp Na ra khỏi người tôi, sau đó đặt cánh tay thò ra bên ngoài của chú nhóc vào trong chăn, kéo cao chăn đắp cho em trai. Xong xuôi, cậu ấy mới nằm xuống, nghiêng người về phía tôi, kéo tôi nằm sát vào người cậu ấy, cánh tay vòng qua người tôi tạo thành hình vòng cung bao bọc, che chắn cho tôi.

      Mùi cơ thể quen thuộc của cậu ấy ùa đến, trái tim lại đập dồn dập vô cớ khiến tôi trằn trọc sao ngủ được, mãi đến khi những tia nắng đầu tiên của ngày mới lấp ló sau những đám mây xa tít nơi đường chân trời. Tôi thầm nghĩ, giá như khứu giác của loài hồ ly quá nhạy bén tốt biết bao.

      Trời sắp sáng, tôi mới mơ màng ngáp ngủ. Giấc ngủ chập chờn bị đánh thức bởi tiếng ho khan khe khẽ của ai đó. Vành tai cảnh giác của tôi dựng đứng, nghe ngóng, phải Kháp Na mà là Bát Tư Ba. Tôi nghe cậu ấy cố kìm giữ cơn ho, những lúc thể kìm nổi, cậu ấy kéo chăn lên bịt miệng. Tôi thò đầu ra ngoài, ngước nhìn. Vẫn đôi mắt thuần khiết, lấp lánh trước bình minh ngày mới, ngón tay cậu ấy đặt môi, khẽ “suỵt” tiếng, rồi mỉm cười hồn hậu vỗ vào đầu tôi.

      Sáng hôm sau, mặt mũi và cổ cậu ấy đỏ rần rần, cậu ấy ho khan dữ dội, chắc chắn cậu ấy bị cảm lạnh.

      Cậu ấy giữ ấm cho tôi bằng cơ thể mình, vì muốn tôi bị ngạt thở, cậu ấy quấn chặt quần áo, chắc chắn gió lạnh thấm vào người, nửa đêm lại phải tỉnh giấc nhiều lần để đắp lại chăn cho em trai, như thế bị cảm lạnh mới lạ.

      Cậu bé này, vì sao giống bất cứ người nào tôi gặp trước đây?

      Tôi vốn rất kỵ mùi thuốc nhưng quyết tâm phá lệ, những ngày Bát Tư Ba dưỡng bệnh, tôi rời cậu ấy nửa bước. Tôi lặng lẽ ở bên cậu ấy, cùng cậu ấy đọc sách. Mùi thuốc đắng chát lan tỏa khắp căn phòng, thi thoảng cậu ấy lại vuốt ve bộ lông của tôi, mỉm cười với tôi. Ngoài kia gió tuyết vần vũ, nhưng trong căn phòng này, hay ở bất cứ đâu có cậu ấy, nụ cười tỏa rạng từ gương mặt đôn hậu, dịu dàng, an nhiên của cậu ấy tựa như gió xuân hiền hòa, thanh khiết, xua tan cái giá lạnh thấu xương của mùa đông ảm đạm.

      Trải qua hơn hai trăm năm tu luyện đơn độc, từ lâu tôi quên mất cảm giác có người thân ở bên cạnh là như thế nào, nhưng cậu bé này khiến miền ký ức êm đềm đó trong tôi sống lại. Đột nhiên, tôi cảm thấy rất thích được ai đó vỗ vỗ vào đầu và trò chuyện cùng… như thế này.

      Mùa đông ở Lương Châu dằng dặc trôi, tôi theo hai em họ, luôn cố gắng tỏ ra rất mực dễ thương, rất mực đáng để đổi lấy cưng chiều ngày càng gia tăng của họ. Giờ đây, mỗi ngày trôi qua tôi đều cảm thấy mãn nguyện, còn những ngày mùa đông giá lạnh lo ăn từng bữa nữa. Tôi bắt đầu hiểu ra, vì sao loài chó và mèo lại bằng lòng trở thành thú cưng của con người. Còn tôi, tôi bằng lòng làm thú cưng là để được nghe ngài Ban Trí Đạt giảng pháp, thế mà kế hoạch ấy bị “phá sản” từ lâu. Tôi lại chẳng dám nghe trộm vì sợ rằng, vị trí giả nhạy bén đó dễ dàng phát ra mục đích của tôi, biết được tôi là tinh, chứ phải loài hồ ly bình thường.

      Năm mới theo lịch của người Tạng tới gần. Tôi chuẩn bị đón năm mới đầu tiên ở Lương Châu trong vai trò là thú cưng của Bát Tư Ba và Kháp Na.

      Vào thời kỳ hoàng kim của vương triều Tufan, các chiến binh Tufan dũng mãnh, thiện chiến tiêu diệt quân đội Tuyuhun ở Thanh Hải, chiếm được vùng đất trọng yếu Lương Châu nằm hành lang Hà Tây [1] , vốn thuộc quyền cai quản của nhà Đường. Khi đó, nhiều người Tufan di cư đến Lương Châu, bởi vậy người Tạng ở Lương Châu rất đông, khí Tết theo lịch Tạng ở đây diễn ra vô cùng náo nhiệt.

      vài ngày trước thềm năm mới, những người theo hầu ngài Ban Trí Đạt hết sức bận rộn. Họ trộn bơ và bột mì, chiên thành những quả bơ với đủ mọi hình dạng khác nhau. Họ còn xếp những chiếc bánh nướng làm từ lúa mạch trộn với dầu bơ vào những chiếc hộp gỗ có họa tiết phong phú, rồi cắm những bông hoa sặc sỡ được làm từ các hạt ngũ cốc và bơ lên . Ngày Hai mươi chín Tết, mọi người cùng nhau quét dọn sạch khuôn viên khu nhà trọ ở Lương Châu. Dù chỉ là nơi cư trú tạm thời nhưng họ xem nơi đây như nhà mình, trang trí, bày biện rất đẹp mắt.

      Đêm Hai mươi chín, mọi người tập trung lại, cùng nhau ăn món bánh canh. Chốc chốc lại có người kêu la om sòm vì cắn phải viên sỏi , hay lông cừu hoặc que củi lẫn trong bánh canh khiến mọi người bật cười ha hả. Người đen đủi nhất là Kháp Na, chú nhóc cắn phải miếng ớt, cay đến nỗi nước mắt ngắn nước mắt dài, chạy bổ khắp nơi tìm nước uống. Chứng kiến cảnh tượng thê thảm ấy, tôi kiên quyết động đến bát bánh canh trước mặt.

      Sau khi ăn xong, Kháp Na mang theo đĩa sứ, Bát Tư Ba ôm tôi, hai em dắt tay nhau, dung dăng dung dẻ ra đầu phố xem lễ đuổi ma. Lầu trống là nơi huyên náo, tấp nập nhất Lương Châu, tập trung rất đông bà con người Tạng. Người ta đốt đống lửa lớn ở khu vực trung tâm, thanh niên trai tráng cầm đĩa thức ăn, vừa hò reo vừa chạy vòng quanh, những người khác nô nức chạy đuổi theo, miệng hô vang: “Ô dô, ô dô!” Khi đám người phía sau đuổi đến nơi, các chàng trai ném đĩa thức ăn vào đống lửa, hô vang những lời chúc tốt đẹp.

      Kháp Na cười giòn tan, đòi trai đuổi theo mình. Hôm nay, chú nhóc được diện quần áo mới. Bộ áo khoác lông cừu nạm viền lụa bóng dày cộp quấn lấy người chú nhóc, trông cậu giống hệt quả bóng lăn. Tiếng cười lanh lảnh, trong veo như chuông bạc ngân vang. Niềm hân hoan vô tư lự ấy lan sang tôi. Nếu bị thương ở chân, chắc chắn tôi nô đùa tới bến với Kháp Na. Khi thấm mệt, chú nhóc mới dừng lại, thở hổn hển, tay giơ cao chiếc đĩa sứ, quẳng mạnh vào đống lửa, sau đó quay sang Bát Tư Ba hô lớn:

      - Zhaxidele [2] !

      Mái tóc dài của Kháp Na tung bay trong gió. Dưới ánh lửa, đôi mắt đen láy của chú nhóc giống hệt viên thủy tinh được mài bóng, trong veo, lấp lánh, nụ cười hồn nhiên, má lúm đồng tiền chúm chím, đáng . Bát Tư Ba ôm tôi tay, bước đến bên em trai, nắm lấy bàn tay cậu bé, ánh mắt ấm áp:

      - Zhaxidele!

      Kháp Na gõ ngón tay vào chiếc mũi nhọn của tôi, miệng cười tươi tắn:

      - Zhaxidele!

      Khi ấy, tôi rất muốn đáp lại: “Zhaxidele”, nhưng tôi kịp kiềm chế.


      <img class="aligncenter" alt="" src="https://i.imgur.com/SdPiIOV.png" width="90" height="90" />
      Lò than rực hồng, tôi chăm chú ngắm nhìn ngọn lửa bập bùng, bất giác lòng chùng xuống. Hình ảnh Kháp Na với nụ cười trong sáng và ánh mắt lấp lánh cứ trước mắt tôi.

      - Kỷ niệm xưa chợt ùa về, phải ?

      Chàng trai trẻ lại gần, chăm chú quan sát tôi.

      - Đúng vậy, người có tuổi thường hoài niệm. Dù hôm nay trò chuyện với cậu ngày ngày tôi vẫn hồi tưởng những kỷ niệm của quá khứ. – Tôi hít hơi sâu, ngẩng lên mỉm cười với chàng trai. – Năm Mùi, Hỏa, theo lịch Tạng, tức năm 1247 theo công lịch đến với những lời chúc tốt lành của hai em họ.

      Năm đó, Bát Tư Ba mười ba tuổi, Kháp Na chín tuổi.

      Năm đó là niên hiệu Thuần Hựu thứ bảy, đời vua Tống Lý Tông, nhà Nam Tống ở phương Nam xa xôi. Ba mươi hai năm sau, Lục Tú Phu cõng tiểu hoàng đế tám tuổi nhảy xuống biển, nhà Nam Tống sụp đổ hoàn toàn.

      Năm đó, trí giả Ban Trí Đạt của phái Sakya được toại nguyện, vì cuối cùng ngài cũng gặp được Vương gia Khoát Đoan…


      <div>

      <hr align="left" size="1" width="33%" />


      [1] Hành lang Hà Tây: hay còn gọi là hành lang Cam Túc, dài khoảng 900km, là con đường huyết mạch nối giữa Trung Quốc lục địa và vùng Tân Cương. Cung đường này nằm ở phía bờ tây sông Hoàng Hà nên có tên gọi là hành lang Hà Tây. (DG)

       

      [2] Tiếng Tạng, có nghĩa là chúc may mắn, vạn như ý.

    2. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 6 : Cuộc hội ngộ ở Lương Châu


      “Kẻ nông nổi treo tri thức cánh môi,

      Người học rộng nuôi hiểu biết trong tâm khảm;

      Cỏ nước trôi nổi mặt ao,

      Đá quý chìm sâu dưới lòng biển.”

      (Cách ngôn Sakya)




      Kháp Na vừa thở hổn hển vừa ra sức đẩy những quả cầu tuyết mỗi lúc lớn thêm, lăn qua lăn lại, kéo thành những vệt dài sân. Chú nhóc quay đầu lại, mặt đỏ phừng phừng, làn hơi trắng phả ra phì phò từ cái miệng xinh, cậu nhảy cẫng lên, hò hét:

      - Đại ca mau lại đây đắp người tuyết nào!

      Bát Tư Ba đáp lại nhưng ánh mắt rời cánh cổng khu nhà trọ, dáng vẻ bồn chồn, lo lắng, đứng ngồi yên. Hôm nay là ngày ngài Ban Trí Đạt đến gặp Vương gia Khoát Đoan. Mới tinh mơ, đoàn người hộ tống ngài rời khỏi nhà trọ, ba canh giờ trôi qua vẫn chưa thấy họ quay về.

      Chân tôi chưa lành hẳn nên chơi cùng Kháp Na được, đành ngoan ngoãn cuộn mình trong lòng Bát Tư Ba. Bỗng tôi phát ra điều gì đó, bèn nhổm dậy, dỏng tai nghe ngóng.

      - Lam Kha ơi, có phải bác ta về ? – Bát Tư Ba vỗ vào đầu tôi, sốt ruột hỏi.

      Tôi nghe thấy tiếng bước chân của khoảng hơn chục người nên gật đầu xác nhận với cậu ấy. Bát Tư Ba bật dậy, trao tôi cho Kháp Na rồi phi như bay ra cổng. Kháp Na gọi với theo: “Chờ em”, rồi ôm tôi lon ton chạy theo trai.

      Chúng tôi vừa ra đến cổng gặp lúc đoàn người trở về. Trí giả Ban Trí Đạt hiền từ nhìn hai em, mỉm cười :

      - Lâu Cát, Kháp Na, hãy theo ta vào phòng, ta có chuyện muốn với hai con.

      Ngài Ban Trí Đạt cho người hầu lui cả ra ngoài, Bát Tư Ba bước đến, rót chén trà bơ nóng mời bác, rồi thận trọng hỏi:

      - Bác ơi, buổi gặp mặt hôm nay diễn ra thế nào ạ?

      Ngài Ban Trí Đạt nhấp ngụm trà, mỉm cười hồn hậu nhìn hai em:

      - Ta được Vương gia Khoát Đoan đón tiếp rất trọng thị. Trong lúc thương thảo, ta đề đạt nhiều kiến nghị và phần lớn đều được ngài chấp thuận. Ta và Vương gia trao đổi và thống nhất rằng, toàn bộ vùng Wusi quy thuộc Mông Cổ, trở thành thuộc địa của Mông Cổ và hằng năm thực việc cống nạp. Thủ lĩnh của các địa phương chấp nhận quy thuận được giữ nguyên chức vị nhưng phải do người Mông Cổ ủy nhiệm, đồng thời phải trình báo các thông tin về hộ tịch, nhân khẩu, phải nộp thuế và tuân thủ pháp luật của Mông Cổ.

      Bát Tư Ba sững sờ, ngập ngừng hỏi:

      - Thưa bác, nếu buộc cả vùng Wusi quy thuận Mông Cổ như thế, liệu các quý tộc và các giáo phái Phật giáo trong vùng có phản đối ?

      Ngài Ban Trí Đạt gật đầu, thở dài.

      - Tất có người phản đối. Nhưng Wusi giờ đây còn là vương triều Tufan hùng mạnh thuở xưa nữa, nếu chúng ta tuyên chiến, chỉ e đấu đá, tranh giành trong nội bộ các giáo phái, phe phái ở Wusi gây ra hỗn loạn nghiêm trọng hơn cả tấn công của ngoại bang. Chỉ cánh quân của Vương gia Khoát Đoan mà chúng ta còn đối phó nổi, chi đến việc chống lại cả đội quân lớn? Đội quân Mông Cổ có lệ rằng, trước cuộc chiến, nếu dân địa phương chịu hàng sau khi chiếm cứ được vùng đó, họ tàn sát thương tiếc. Con xem các nước: Đại Hạ, Đại Kim, Khwarezm [1] , Nga, có quốc gia nào từng bị tàn sát? Chỉ có nước Uyghur ngoan ngoãn quy hàng mới thoát cảnh đầu rơi máu chảy, người dân bảo toàn được tính mạng và của cải… Wusi ly loạn suốt bốn trăm năm rồi, thể tiếp tục tình trạng này nữa. – Vị trí giả vươn thẳng tấm lưng còng, giọng tuy yếu ớt nhưng chứa đựng sức mạnh của kiên tâm. – Ta muốn hàng triệu người Tạng thoát khỏi cuộc chiến tranh tàn khốc, ta muốn Wusi chấm dứt tình trạng chia năm xẻ bảy, ta sẵn sàng chấp nhận chỉ trích từ phía các giáo phái khác…

      Cả hai em cùng ngước nhìn người bác với ánh mắt kính phục, đồng thanh gọi:

      - Bác ơi…

      Gương mặt hom hem, vầng trán nhăn nheo già cả nhưng đôi mắt của bậc trí giả vẫn rực sáng như quầng lửa đỏ. Ngài chậm rãi tiếp:

      - Vương gia Khoát Đoan quyết định ủy nhiệm người của phái Sakya giữ chức Darughachi [2] , ban cho lệnh bài vàng và lệnh bài bạc. Thủ lĩnh các địa phương ở Wusi đều phải tuân thủ mệnh lệnh của các sứ giả mang theo những lệnh bài này. Quan lại địa phương phải trình báo hộ tịch, được phép làm theo ý mình. Quan lại Mông Cổ tới Wusi để cùng người Sakya bàn bạc về vấn đề thuế má.

      Cách trò chuyện của ngài Ban Trí Đạt với hai em giống trò chuyện với những đứa trẻ mà như đàm đạo chính với người lớn. Có lẽ biết mình còn nhiều thời gian nên ngài muốn giao phó lại mọi việc cho hai em. Bát Tư Ba lắng nghe chăm chú, gật đầu tán đồng. Kháp Na vẫn ôm tôi tay, cặp mắt như hai hòn bi ve, đảo liên tục, hết nhìn người bác lại nhìn trai, lặng lẽ lắng nghe câu chuyện, như thể rất hiểu.

      Ngài Ban Trí Đạt đặt chén trà vào khay, ngẩng nhìn hai em Bát Tư Ba, ánh mắt dạt dào tình thương. Ngài kêu Kháp Na đến ngồi cạnh mình, dịu dàng vuốt ve mái tóc dài mềm mại của chú nhóc:

      - Trong cuộc gặp lần này còn chuyện nữa liên quan đến hai con.

      Hai em cùng ngẩng lên nhìn người bác. Ngài Ban Trí Đạt ngừng rất lâu rồi mới cất tiếng:

      - Dòng họ Khon của chúng ta ở Sakya cũng có thể xem là danh gia vọng tộc. Hơn trăm bảy mươi năm trước, cụ nội Konchog Gyalpo [3] của ta xây dựng tu viện Sakya, lập ra giáo phái Sakya nhưng người hề xuất gia.

      Hai em Bát Tư Ba hiểu vì sao người bác bỗng nhiên nhắc đến tổ tiên của họ nhưng vẫn chăm chú lắng nghe, dám cất tiếng hỏi.

      - Đến năm năm mươi tám tuổi, cụ nội ta vẫn có con trai. ngày nọ, người tình cờ gặp và nảy sinh tình cảm với múc nước bên sông. Về sau, ấy sinh cho người cậu con trai kháu khỉnh, đặt tên là Kunga Nyingpo, chính là ông nội ta. Cụ nội qua đời khi ông nội ta mới mười tuổi, ông nội phải kế tục việc cai quản giáo phái Sakya và kế thừa toàn bộ trang viên của gia tộc. Người cai quản giáo phái Sakya suốt bốn mươi tám năm, thu nhận vô số đệ tử, khiến giáo phái của chúng ta ngừng lớn mạnh. – Giọng của vị học giả trầm ấm, chốc chốc ngài lại trầm tư ngẫm ngợi như ôn lại kỷ niệm. -
      Ông nội của ta cũng xuất gia. Người cưới hai chị em xứ Chamo, sinh được bốn người con trai. Tiếc thay, người con cả qua đời ở Ấn Độ khi mới hai mươi hai tuổi. Người con trai thứ hai – Sonam Tsemo – ra đời khi ông nội ta bước sang tuổi năm mươi mốt. Sonam Tsemo là bác hai của ta, bác ấy là người kế nghiệp ông nội, miệt mài tu tập, cần mẫn viết sách, bác mất năm bốn mươi mốt tuổi. Sau khi bác hai qua đời, phái Sakya được giao cho người bác thứ ba của ta là Dragpa Gyaltsen… Các con còn nhớ mái vòm vĩ đại của tu viện Sakya mà các con được chiêm ngưỡng hồi ?

      Ngài Ban Trí Đạt ôm vai Kháp Na hỏi, chú nhóc ngoan ngoãn gật đầu. Vị trí giả mỉm cười đôn hậu, tiếp tục
      câu chuyện:

      - Công trình kiến trúc nguy nga đó do người bác thứ ba của ta xây dựng khi người tiếp quản giáo phái. Dưới lãnh đạo của ngài, phái Sakya ngừng mở rộng và lớn mạnh, tầm ảnh hưởng của chúng ta vượt ra khỏi phạm vi vùng Hậu Tạng. Ta là con trưởng nên từ được bác ấy bồi dưỡng để trở thành người kế nghiệp giáo phái theo truyền thống của gia tộc.

      Ngài Ban Trí Đạt ngừng lại, nhấp ngụm trà bơ.

      - Bác hai và bác ba của ta tuy là người kế nghiệp giáo phái nhưng chính thức xuất gia. Ông nội của ta và họ được tôn làm “ba vị thủy tổ” của giáo phái Sakya.

      - Bác ơi, con nhớ ra rồi. – Kháp Na hí hửng reo lên. – Tượng của họ được đặt trong đại điện, ngày nào chúng con cũng phải đến đó quỳ lạy.

      Người bác gật đầu.
      <div>

      <hr align="left" size="1" width="33%" />


      [1] Ngày nay là quốc gia Uzbekistan. (DG)

       

      [2] Chức quan lớn nhất cai quản địa phương, quân đội và quan nha ở Mông Cổ thời xưa và triều Nguyên.

       

      [3] Ngài Konchog Gyalpo xây dựng tu viện Sakya vào năm 1073.

      ++++++++++++
      - Cha ta, ông Palchen Opochey là con út, cha chào đời khi ông nội ta năm mươi chín tuổi. Trong số bốn người con của ông nội, chỉ có cha ta là người gánh trách nhiệm nối dõi tông đường. Ông có hai người con trai, là ta và cha của các con, Sangtsa. – Ngài ngước nhìn trung, ký ức như trôi về từ miền xa thẳm. – Năm hai mươi bảy tuổi ta chịu giới Tỷ khâu, là người đầu tiên xuất gia và trở thành Tỷ khâu của giáo phái Sakya. Còn cha của các con, là con út nên phải gánh vác trách nhiệm duy trì huyết thống của gia tộc, cưới vợ, sinh con, cai quản dòng tộc, vì vậy mới có các con.

      - Bác và ngài Khoát Đoan bàn bạc và quyết định chuyện gì đó có liên quan đến việc kế nghiệp của giáo phái Sakya, đúng ạ? – Bát Tư Ba nãy giờ vẫn trầm ngâm , đột nhiên ngước cặp mắt thuần khiết lên nhìn người bác và đặt câu hỏi.

      Vị trí giả ngạc nhiên nhìn cậu bé, rồi gật đầu:

      - Lâu Cát, con thông minh lắm, ta rất mừng.

      Giọng ngài Ban Trí Đạt bỗng trở nên trầm buồn:

      - Kể từ khi sáng lập cho đến nay, giáo phái Sakya đều do dòng họ Khon của chúng ta đời đời kế nghiệp, cai quản. Trước đây, thực lực của giáo phái còn non yếu, mà dòng họ ta lại hiếm con muộn cháu nên có thể tạm chấp nhận để người chính thức xuất gia kế tục nghiệp. Nhưng kể từ thời đại của ta trở , chúng ta buộc phải tuân thủ giáo luật của nhà Phật để phát triển giáo phái lớn mạnh vượt ra khỏi phạm vi vùng Sakya bé. Thế nên con trưởng xuất gia làm sư, cai quản giáo phái; con út cưới vợ, sinh con, nối dõi tông đường. Lâu Cát, con là con trưởng, được ta nuôi dưỡng từ , mười tuổi ta cho con thọ giới Sa di, mục đích là để ngày sau con kế tục nghiệp của ta.

      Hai em Bát Tư Ba đưa mắt nhìn nhau, Kháp Na có vẻ chưa hiểu câu chuyện, đôi mắt to đen láy nhấp nháy, cái đầu nghiêng nghiêng ra chiều nghĩ ngợi. Bát Tư Ba cắn môi, lấy hết can đảm, hỏi bác:

      - Kết quả cuộc thương thảo của bác và ngài Khoát Đoan liên quan đến con hay Kháp Na?

      - Kháp Na. – Ngài Ban Trí Đạt cúi xuống nhìn chú nhóc bên cạnh, mỉm cười. – Ta quyết định chuyện hôn nhân của Kháp Na. Mùa hạ năm nay con thành thân với Công chúa Mukaton, con Vương gia Khoát Đoan.

      - Sao?

      Kháp Na mải mê vuốt ve chiếc đuôi dài của tôi, giật mình khi nghe người bác thông báo, ngón tay do kiểm soát ấn quá mạnh vào đuôi của tôi. Chú nhóc sợ hãi nhìn ngài Ban Trí Đạt. Tôi bị chú nhóc làm cho đau điếng, kêu oai oái mấy tiếng chú nhóc mới nhận ra, vội vàng buông tay.

      - Bác ơi! – Bát Tư Ba kêu lên. – Kháp Na mới chín tuổi!

      - Ta biết. – Ngài Ban Trí Đạt, hai mắt nhắm hờ, thở dài não nề. – Vương gia muốn gả Công chúa cho con, nhưng vì con xuất gia, năm hai mươi tuổi con thọ giới Tỷ khâu, suốt đời thể kết hôn nên ta và Vương gia thống nhất để Kháp Na cưới Công chúa.

      - Bác ơi, con… con… con…

      Kháp Na nhảy xuống đất, chú nhóc dường như rất hoảng hốt, lo sợ.

      - Vương gia là người chủ động đề xuất hôn này. Hoàng thất Mông Cổ xưa nay đều muốn gắn kết các vùng thuộc địa bằng các cuộc hôn nhân. – Ngài Ban Trí Đạt kéo Kháp Na vào lòng. – Kháp Na à, kết hôn với Công chúa là mối duyên trời cho, cuộc hôn nhân này có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với phát triển của phái Sakya ngày sau.

      - Công chúa bằng tuổi con hả bác? – Kháp Na cất giọng rụt rè.

      - Công chúa Mukaton năm nay mười bảy tuổi, hơn con tám tuổi. – Nhận thấy nét mặt kinh ngạc của Kháp Na, ngài Ban Trí Đạt vội vàng an ủi. – Ta nghe , Công chúa là tài ba, cưỡi ngựa, bắn cung đều rất xuất sắc. Con hãy xem ấy như chị mình. Chỉ thời gian nữa thôi, con trưởng thành.

      - Bác ơi… – Kháp Na dẩu đôi môi chín mọng, tỏ ý bằng lòng.

      - Sở dĩ ta sắp xếp chuyện kết hôn của con gấp gáp như vậy cũng có nguyên nhân của nó. – Ngài Ban Trí Đạt ngẩng lên, gương mặt già nua, vằn vện những dấu vết của thời gian, vẻ lo âu trĩu nặng. – Phái Sakya từ xưa đến nay đều hiếm muộn đường con cháu. Ông nội ta chào đời khi cụ nội năm mươi chín tuổi, cha ta cũng vậy. Lâu Cát, con ra đời khi cha con năm mươi hai tuổi. Kháp Na còn tội nghiệp hơn, vừa chào đời còn cha. Phái Sakya được kế thừa bởi huyết thống của dòng họ Khon, nếu như dòng họ có người nối dõi, việc kế thừa giáo phái thể tiếp tục. Tuổi cao sinh con dẫn đến nguy cơ con trẻ phải kế nghiệp, mà như vậy, quyền hành buộc phải tạm trao cho đệ tử của giáo phái. Nếu may trao quyền hành vào tay kẻ có dã tâm gia tộc họ Khon chúng ta gặp nguy hiểm… Bởi vậy, ta quyết định cho con kết hôn sớm vì hy vọng con sớm sinh con đẻ cái để kế tục huyết thống của dòng họ. Trọng trách này chỉ có thể giao phó cho con mà thôi.

      Ngừng lát, ngài Ban Trí Đạt nâng chiếc cằm xíu của Kháp Na lên, cất giọng hiền từ:

      - Kháp Na, bây giờ con vẫn còn , nhưng vài năm nữa thôi, con hiểu nỗi khổ tâm của ta.

      Bát Tư Ba nãy giờ vẫn cúi đầu, cắn chặt môi, lúc này bỗng ngẩng lên, ánh mắt vương nỗi u buồn:

      - Nhưng thưa bác, cha con vẫn còn những người con trai khác ngoài hai em con kia mà. Em trai thứ hai Rinchen Gyaltsen, em trai thứ ba Yeshe Bernas đều có thể kế thừa gia nghiệp, vì sao nhất định phải bắt Kháp Na cưới vợ khi em con còn bé như vậy?

      - Lâu Cát! – Ngài Ban Trí Đạt nghiêm khắc ngắt lời Bát Tư Ba. Tôi chưa thấy ngài nặng lời với em họ như thế bao giờ. – Mẹ đẻ của các con, bà Machig Kunchid là vợ cả, lại xuất thân dòng dõi trâm thế phiệt, huyết thống cao quý, người vợ lẽ nào của cha các con có thể sánh bằng. Các con hãy ghi nhớ, phái Sakya nhất định phải do hai em con kế thừa!

      Kháp Na sợ hãi, mắt đỏ hoe, ngước nhìn người bác và trai với vẻ tội nghiệp, đáng thương.

      Dường như nhận ra mình khá nặng lời, ngài Ban Trí Đạt ôm Kháp Na, đặt chú nhóc ngồi lên đùi mình, dịu giọng:

      - Kháp Na à, sau khi thành thân, con sống trong phủ của Vương gia Khoát Đoan, từ nay phải mặc trang phục và học ngôn ngữ của người Mông Cổ.

      - Bác ơi, vậy còn con sao, huynh ấy có sống trong phủ Vương gia ?

      Ngài Ban Trí Đạt lặng lẽ lắc đầu.

      Kháp Na chăm chú quan sát biểu cảm nặng nề gương mặt người bác, quay sang nhìn trai từ nãy đến giờ vẫn cúi đầu im lặng, nước mắt vòng quanh, nhưng chú nhóc cố kìm nén để bật khóc trước mặt họ. Hôm đó, Kháp Na trở thành cậu bé hiểu chuyện.

      Đêm đó, Kháp Na ôm tôi ngủ, Bát Tư Ba ôm em trai. Chú nhóc áp sát cơ thể bé của mình vào lưng tôi, nước mắt lặng lẽ tuôn rơi, thấm vào da thịt tôi, từng giọt, từng giọt len vào tim tôi. Đứa bé mới chín tuổi phải đối diện với biến cố to lớn trong cuộc đời, phải rời xa những người thân gắn bó khăng khít từ thuở lọt lòng để đến sống ở nơi xa lạ, với vị hôn thê xa lạ. Nỗi hoang mang, sợ hãi khi ấy, có lẽ cả đời cậu chẳng thể quên.

      Bát Tư Ba lên tiếng, chỉ nhàng vỗ về cậu em bé bỏng. bao giờ tôi quên tuổi thơ của Kháp Na kết thúc chóng vánh năm cậu ấy mới chín tuổi.

      Vài ngày sau, những lá thư từ nhà trọ ở Lương Châu được gửi khắp các địa phương thuộc vùng Wusi. “Bức thư của ngài Ban Trí Đạt, phái Sakya gửi các bậc đại trí đại đức và tín đồ toàn cõi Wusi” thuyết phục các giáo phái và thủ lĩnh các địa phương ở Tây Tạng khi đó quy hàng người Mông Cổ ấy liệt kê chi tiết tên gọi các địa phương. Bức thư được lập thành ba bản, bản gửi Vương gia Khoát Đoan, bản gửi về Sakya, bản ngài Ban Trí Đạt lưu giữ.

      Cho đến thế kỷ 21, bức thư quý hiếm ấy vẫn được bảo tồn trong tu viện Sakya ở Tây Tạng







      Chàng trai trẻ vỗ vào đầu mình.

      - Trời ơi, mới có chín tuổi… – Cậu ta lắc đầu, thở dài. -
      Khoát Đoan bắt Kháp Na sống trong Vương phủ, mặc trang phục và tiếng Mông Cổ chẳng qua là muốn giữ cậu bé làm con tin. Cuộc hôn nhân của hai con người khác xa nhau về cả thói quen sinh hoạt, ngôn ngữ, tuổi tác sao có thể có được hạnh phúc kia chứ?

      Tôi cười buồn:

      - Thực ra ngài Ban Trí Đạt hiểu điều này, nhưng vì lợi ích chung, ngài thể từ chối lời đề nghị của Khoát Đoan.

      Chàng trai trẻ tỏ ra ngẫm ngợi:

      - Tuy nhiên, việc làm này của ngài Ban Trí Đạt có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với Trung Quốc. Tây Tạng quy thuận Mông Cổ tức là quy thuận triều Nguyên, mặc dù vào thời điểm này, triều Nguyên vẫn chưa xuất . Có thể xem đây là lần đầu tiên trong lịch sử, Tây Tạng trở thành địa phương, chịu quản lý của chính quyền trung ương.

      Tôi gật đầu:

      - Nếu phân tích và đánh giá theo cách nhìn của lịch sử đại cuộc hội kiến giữa Ban Trí Đạt và Khoát Đoan thúc đẩy việc thống nhất Trung Quốc, bởi vậy, các nhà sử học đặc biệt xem trọng và đánh giá cao cuộc gặp gỡ này. Tuy nhiên, Ban Trí Đạt chỉ là người đặt nền móng, Tây Tạng thực trở thành phần của Trung Quốc là nhờ công lao của Bát Tư Ba.

    3. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 7 : Chú rể trẻ con


      ai muốn gần gũi kẻ xấu, dù thông minh chừng nào nữa;

      ai dám ôm ấp rắn độc, dù bảo bối đầu nó quý giá chừng nào nữa.”

      #993366;'](Cách ngôn Sakya)


      - Tân lang tới!

      Người ta dựng rất nhiều lán trại màu trắng bãi cỏ rộng, người qua người lại nô nức, cười rộn ràng, tiếng nhạc phát ra từ cây đàn đầu ngựa [1] ngân nga, trầm bổng. Mùa hạ ở Lương Châu thoáng đãng, mát mẻ, trời xanh mây trắng, những bông hoa dại màu vàng, màu đỏ rực rỡ, đua nhau khoe sắc đồng cỏ, rung rinh trong gió. gian thoang thoảng mùi thơm của thịt bò, thịt dê nướng xen lẫn hương cỏ đồng nội ngai ngái, thanh thanh. đoàn người ngựa chầm chậm tiến vào giữa tiếng hoan hô dậy sóng. Những cỗ xe ngựa được chăng kết dây hoa rực rỡ, trong xe chất đầy những thùng đồ cao ngất, đó là sính lễ của nhà trai. Kháp Na cưỡi con ngựa ở giữa đoàn đón dâu. Hôm nay, chú nhóc mặc bộ áo dài quý phái của người Mông Cổ, thắt lưng bắt mắt, đội chiếc mũ đính tua rua màu đỏ, chóp tròn, ủng cao, sau lưng giắt cung tên cỡ . Chỉ mới chín tuổi nên mặc dù là nhân vật chính của buổi lễ, chú nhóc vẫn bị chìm nghỉm giữa đám đông thanh niên trai tráng to khỏe, vạm vỡ. Kháp Na mặt buồn thiu, may có Bát Tư Ba luôn ở bên, nở nụ cười hồn hậu động viên em trai.

      Tôi giấu mình trong chiếc áo khoác dài của Kháp Na, quan sát mọi thứ xung quanh bằng hiếu kỳ. Đoàn rước dâu đến trước chiếc lều của người Mông Cổ, Kháp Na cưỡi ngựa quanh lều vòng. Đám hầu cận của ngài Ban Trí Đạt xếp thành hàng, trao cho nhà con dê và những lễ vật khác. Sau khi nhà nhận lễ, Kháp Na xuống ngựa, tay chú nhóc là chiến khăn Ha đa [2] . Đoàn hầu cận dâng rượu cho người ngồi chính giữa là Vương gia Khoát Đoan, sau đó lần lượt mời rượu các vị khách quý.

      Đây là lần đầu tiên tôi gặp ngài Khoát Đoan, tính tò mò thôi thúc tôi thò đầu ra ngoài, quan sát người cháu của nhân vật lừng danh thiên hạ: Thành Cát Tư Hãn. Vương gia Khoát Đoan chừng ngoài bốn mươi, cao lớn, bụng phệ, gương mặt vuông vức, kiểu mặt điển hình của người Mông Cổ, để râu quai nón. Con trai cả Khởi Tất Thiếp Mộc Nhi của ngài ngồi phía sau, gương mặt khôi ngô, tuấn tú hơn hẳn người cha.

      đám phụ nữ tập trung ở phía cuối lán trại, người ngồi ở giữa, khoác áo dâu màu đỏ thắm, mái tóc lúc lắc những chuỗi ngọc ngà châu báu chính là Công chúa Mukaton. Trông rất giống cha mình: mắt , mũi tẹt, gương mặt tròn trịa, thân hình đẫy đà. Tập tục cưới xin của người Mông Cổ khác với người Hán, dâu cần trùm khăn che mặt, cũng cần mình ngồi trong phòng tân hôn chờ chú rể. Kháp Na vừa bước vào lều, Mukaton nhìn chú nhóc chằm chằm, ánh mắt lộ vẻ chán nản, tấm tức. Bà mối vội vã ghé vào tai Công chúa thầm đôi câu, chừng như để an ủi.

      Sau khi kính rượu hết lượt khách quý, Kháp Na quỳ xuống trước mặt Khoát Đoan, dập đầu lạy ba lạy, rụt rè gọi:

      - Nhạc phụ đại nhân!

      Khoát Đoan bật cười, người rung lên, vừa cất giọng áp đảo mọi thanh xung quanh:

      - Tốt lắm! Con rể, hãy đứng lên!

      Kháp Na tập tập lại rất nhiều lần những nghi lễ của người Mông Cổ nhưng giọng như sấm dội bên tai của bố vợ khiến cậu bé khiếp vía, đến nỗi lúc đứng lên giẫm cả vào vạt áo, lảo đảo rồi ngã bổ nhào về phía trước. cố xảy ra quá đột ngột nên ai kịp đỡ chú nhóc. Thế là Kháp Na tội nghiệp ngã sóng soài ra đất.

      Lúc sau mới có người chạy đến đỡ chú bé dậy, hỏi han rối rít xem chú bé có bị đau ở đâu , nhưng Kháp Na chẳng buồn đáp lại vì còn bận cuống quýt nhấc tôi ra khỏi chiếc áo khoác, kiểm tra tỉ mỉ:

      - Tiểu Lam, em có sao ?

      Tôi sao cả, vì trước lúc ngã, chú nhóc kịp giữ chặt tôi. Tôi kêu lên vài tiếng, nhắc nhở Kháp Na rằng người bị thương chính là chú nhóc đó.

      - Cậu chủ Kháp Na, khuỷu tay cậu bị thương rồi.

      Lúc này, chú nhóc mới để ý đến vệt máu sẫm đỏ nơi khuỷu tay, những giọt máu đỏ tươi xuống áo khoác, chú bé sợ hãi òa khóc. Người hầu vội vã băng bó vết thương, hết lời an ủi:

      - Cậu chủ ơi, hôm nay là ngày vui của cậu, nên khóc.

      Những người có mặt khi đó thấy chú nhóc quá chiều, bao bọc tiểu hồ ly tỏ ra khinh thường. Kháp Na mặc kệ, vẫn gào khóc thảm thiết, đưa tay áo lên quệt mũi, lau nước mắt, trang phục của chú rể nhàu nhĩ đến thảm hại, chiếc mũ đầu cũng lệch sang bên. Vương gia Khoát Đoan khó xử, Công chúa Mukaton lửa giận bốc ngùn ngụt, muốn bật dậy nhưng các bà mối ra sức kìm giữ. Chừng như chẳng thể muối mặt thêm nữa, ngài Ban Trí Đạt lẳng lặng ra hiệu cho Bát Tư Ba. Bát Tư Ba đón tôi từ tay Kháp Na, hết lời động viên em trai, cuối cùng Kháp Na cũng nín.

      Kháp Na hoàn tất những nghi lễ tiếp theo với đôi mắt đỏ hoe. Lúc khởi hành, Mukaton được người đức cao vọng trọng trong gia tộc bế lên xe hoa. Theo tục lệ, chú rể phải cưỡi ngựa ba vòng quanh xe hoa của dâu, nhưng Kháp Na quên sạch, thế là Mukaton lại được dịp ném ánh mắt khinh bỉ về phía chú nhóc.

      Thực chất của cuộc hôn nhân này là sau hôn lễ, Kháp Na phải ở rể nên người ta sắp xếp các nghi thức rước dâu theo tập tục của người Mông Cổ bãi cỏ rộng ở ngoại thành, sau đó dâu, chú rể vào sống trong khu nhà thuộc phủ đệ của Vương gia Khoát Đoan.

      Vừa bước vào Vương phủ thấy đống lửa lớn ở sân. Người ta chuẩn bị sẵn rượu sữa ngựa để dâu và chú rể tưới vào đống lửa rồi khấu đầu lễ bái. Người chủ lễ đứng bên cạnh tụng đọc văn tế:

      - Thánh chủ Thành Cát Tư Hãn phát ra đá lửa, phu nhân Ha Ngạch Luân [3] là người bảo vệ và gìn giữ ngọn lửa thiêng bằng việc cúng dâng khăn lụa Ha đa và rượu sữa ngựa. Xin mời dâu, chú rể quỳ lạy và cầu nguyện! Thần lửa chứng giám cho hai người. Xin mời dâu, chú rể quỳ lạy và khấn nguyện! Cúi xin Phật Tổ phù hộ hai vị sớm sinh quý tử!

      Nghe tới chuyện “sớm sinh quý tử”, những tràng cười chế giễu lại được dịp rộ lên. Mukaton ném nỗi bực tức về phía đám đông bằng ánh nhìn sắc nhọn, tiếng cười đùa lập tức im bặt.

      Tiệc cưới được tổ chức vào buổi tối, Vương phủ trở nên náo nhiệt lạ thường. Những con dê béo ngậy, vàng ruộm bếp nướng, mùi thơm ngào ngạt. Người Mông Cổ múa hát say sưa, nam nữ nắm tay nhau nhảy điệu Guozhuang [4] quanh đống lửa. Thanh niên trai tráng để mình trần thi đấu vật, bắn tên, tiếng hoan hô dậy trời. Kháp Na biết uống rượu, chú nhóc chỉ lẳng lặng quan sát khung cảnh lạ lẫm xung quanh bằng vẻ dè dặt, thận trọng. Hễ có ai đến chúc mừng, chú nhóc uống trà thay rượu và gật đầu như lật đật.

      - Người em, đệ uống được rượu uống trà thay vậy. Huynh đệ ta chúc mừng nhau nào! – Khởi Tất cầm bát rượu, hoan hỉ chạm cốc với Bát Tư Ba rồi hơi uống cạn, kêu người hầu rót tiếp. – Người em, thế là chúng ta thành người nhà, chúng ta là em rồi! Em ta được chiều chuộng từ , tính tình ngang ngạnh, nếu nó có chỗ nào phải, gia đình đệ bỏ quá nhé!

      Bát Tư Ba khách sáo đáp lễ, Khởi Tất choàng vai Bát Tư Ba, cười ha hả:

      - Ông bác của đệ quả là Bồ Tát Văn Thù tái thế, ngài chữa khỏi dị tật đeo đẳng chân cha ta suốt bao nhiêu năm đó! Các giáo sĩ Kitô, các thầy mo Saman [5] trong cung, ai có thể sánh với trí tuệ và thông thái của ngài. Vậy nên hôm qua, cha ta sắc phong đại sư Ban Trí Đạt làm “Tế thiên trưởng lão”. Sau này, mọi hoạt động cầu nguyện trong cung do đại sư chủ trì, giáo sĩ của các giáo phái khác đều phải nghe theo chỉ đạo của đại sư.

      Bát Tư Ba chắp tay, cúi đầu tạ ơn:

      - Vương gia Khoát Đoan hậu đãi bác cháu bần tăng, lại xây đền và giao cho bác bần tăng coi sóc. Bác cháu bần tăng vô cùng cảm kích.

      - Thế có là gì! Kêu gọi Wusi quy thuận Mông Cổ, tránh cho lê dân kiếp nạn binh đao, đầu rơi máu chảy, đại sư Ban Trí Đạt mới là người trí cao đức rộng. tháng nữa đền Hoán Hóa được xây cất xong, đến lúc đó, đại sư và đệ có thể dọn tới đó, Kháp Na ở lại phủ của cha ta. Hai vị có thể đến thăm cậu ấy bất cứ lúc nào.

      Nghe vậy, Kháp Na lại chực mếu, mắt đỏ hoe. Bát Tư Ba lặng lẽ nắm chặt tay em trai, mỉm cười an ủi chú nhóc.

      Màn đêm buông xuống, tiệc tàn người tan. Bát Tư Ba tiễn em trai đến cổng khu nhà tân hôn, chỉnh lại trang phục của Kháp Na.

      - Đệ phải ngủ cùng cái chị đó sao? Đệ muốn ngủ cùng huynh cơ. – Kháp Na mếu máo nắm chặt tay Bát Tư Ba chịu buông, vẻ mặt sợ hãi. – Chị ta dữ dằn lắm, đệ sợ…

      - Kháp Na, ta ngủ cùng đệ được. Bát Tư Ba buồn bã nhìn em trai, dịu dàng vuốt ve khuôn mặt bầu bĩnh của Kháp Na. – Công chúa là vợ của đệ, hãy sống hòa thuận với ấy. Ta hứa năng đến thăm đệ.

      Kháp Na ngước đôi mắt ngấn nước, nghẹn ngào:

      - Vậy… huynh để Tiểu Lam ở lại với đệ, được ?
      <div>

      <hr align="left" size="1" width="33%" />


      [1] Đàn đầu ngựa là loại nhạc cụ hai dây của dân tộc Mông Cổ, đầu cần đàn có chạm hình đầu ngựa nên gọi là đàn đầu ngựa. (DG)

       

      [2] Khăn dệt bằng tơ lụa của người Tạng và người Mông Cổ, dùng để tặng nhau khi gặp mặt, tỏ ý kính trọng và chúc mừng. (DG)

       

      [3] Mẹ của Thành Cát Tư Hãn. (DG)

       

      [4] Điệu múa dân gian của người Tạng, Trung Quốc. (DG)

       

      [5] Saman giáo là hoạt động tín ngưỡng dân gian được phát triển nền tảng tín ngưỡng nguyên thủy, xuất từ rất sớm, rất có thể là tôn giáo đầu tiên thế giới.

      +++++++++++
      Bát Tư Ba gật đầu, trao tôi cho Kháp Na:

      - Khuya rồi, đệ vào nhà .

      Kháp Na vuốt ve lưng tôi, gắng gượng nở nụ cười với trai. Dưới bầu trời đêm ngàn sao lấp lánh, nụ cười của chú nhóc trong trẻo, tinh khôi thấm vào từng tấc gan tấc ruột của tôi. Những năm tháng sau đó, khi Kháp Na ngày trưởng thành, tôi được thấy lại nụ cười vô tư lự thuở ấu thơ ấy nữa.

      - Xéo ra ngoài! – Chiếc cốc bay thẳng về phía Kháp Na cùng với tiếng gào thét, quát nạt. – Tên nhãi ranh như ngươi mà đòi ngủ cùng ta ư?

      Kháp Na né được chiếc cốc, sợ sệt thu mình sau cánh cửa, cất giọng rụt rè bằng thứ tiếng Mông Cổ lơ lớ:

      - Sao chị lại giận dữ như vậy?

      Mukaton gầm gừ bật dậy, thẳng tay bứt những chuỗi trân châu gắn tóc, vừa giựt vừa ném:

      - Sao ta lại giận dữ như vậy? Sao ta lại phải lấy tên nhóc kém cỏi, chỉ biết ôm khư khư con hồ ly đáng ghét? Trong lúc cử hành hôn lễ, ngươi gây ra bao trò lố, rồi đây, mỗi lần bước ra khỏi cửa, ta bị thiên hạ chỉ trỏ, chê cười.

      Bà mối muốn giữ Mukaton lại nhưng sức bà nhằm nhò gì so với Mukaton cao lớn, bà dễ dàng bị gạt sang bên:

      - Ta muốn trở thành vợ của chàng trai dũng mãnh, chứ phải thằng nhóc miệng còn hơi sữa
      như ngươi!

      Kháp Na nước mắt ngắn nước mắt dài, run rẩy, lập bập:

      - Nhưng… tôi lớn kia mà.

      - Chờ ngươi thành người lớn ta già mất rồi, già rồi! Ta có được mấy năm tuổi xuân chứ hả?

      Mukaton càng lúc càng nổi trận lôi đình, vung tay giậm chân, vò đầu bứt tóc, ngọc ngà châu báu, đồ trang sức trút xuống theo các động tác cuồng nộ của , vung vãi khắp nền nhà.

      Kháp Na bật khóc, nước mắt tuôn trào, gào lên nghẹn ngào:

      - Tôi có muốn đâu cơ chứ…

      - Ngươi còn dám à? Ai thèm lấy tên người Tạng vô danh tiểu tốt như ngươi! Ta cầu mong có người đến cướp dâu! Nhưng ai dám cướp cháu của Thành Cát Tư Hãn [1] ? – Khi nỗi phẫn uất lên đến cực độ, Mukaton bắt đầu chuyển từ gào thét sang gào khóc. – Ôm lấy con hồ ly chết tiệt đó và xéo ra khỏi phòng ta! Sau này, nếu được ta cho phép, ngươi được bước chân vào đây nửa bước!

      Kháp Na quay lưng chực bước nhưng Mukaton đột nhiên chân trần lao ra, lưng tựa vào cửa, nhìn chú nhóc bằng ánh mắt gườm gườm, nghi hoặc:

      - Đứng lại! Ngươi định đâu?

      Kháp Na khựng lại, lấy tay áo quệt nước mắt:

      - Tôi tìm tôi…

      - được ! – Mukaton trừng mắt đe nẹt. – Ngươi tưởng ta ngu lắm sao? Ngươi định tố tội ta chứ gì?

      Kháp Na khóc nấc lên, vẻ mặt khổ sở:

      - Nhưng chị bảo tôi ra ngoài kia mà.

      Mukaton nghĩ ngợi lát, lại mở cửa, hung hăng lôi xềnh xệch Kháp Na sang phòng bên cạnh:

      - Từ nay ngươi ngủ ở thư phòng, được bén mảng đến phòng của ta. Còn nữa, cấm khóc nghe chưa, ngươi mà khóc lóc, ta đánh đó!

      Qua kẽ hở của những ngón tay, Kháp Na trông thấy bộ mặt dữ tợn, hung hãn, vì quá sợ hãi, chú bé khóc nấc lên. Bỗng bên tai tôi vang lên tiếng “bốp” chát chúa, Kháp Na sững sờ, gương mặt non nớt của chú bé lập tức in dấu năm ngón tay. Tôi chồm lên, cắn vào cánh tay chực giơ lên của Mukaton. ta đau đớn, ra sức vùng vẫy. Tôi giữ được thăng bằng, bị hất rơi xuống đất, sau khi lăn vài vòng, tôi tiếp tục xông tới, nhưng Kháp Na ôm tôi lên, bao bọc tôi trong vòng tay của cậu bé. Mukaton chỉ mặt tôi, nghiến răng chì chiết:

      - Ngươi dám trái lời ta, ta giết chết con hồ ly xấu xa này!

      Kháp Na gắng gượng kìm những tiếng nấc nghẹn trong cổ, cúi đầu, thu mình vào góc, ôm chặt lấy tôi. Mukaton đảo mắt răn đe bà mối và các hầu run như cầy sấy:

      - Còn cả các ngươi nữa, kẻ nào dám tâu với cha và trai ta, ta đánh gãy chân, gãy tay kẻ đó!

      Đám người hầu run bắn, cúi đầu dám ho he.

      Nằm trong lòng Kháp Na, tôi ngước nhìn chú nhóc, gương mặt hồng hồng non nớt bầm tím bởi cái bạt tai quái ác, lòng quặn thắt. Tôi bực bội với chính mình, thú linh, thú hiếm mà làm gì, trường sinh bất lão, trường sinh bất tử mà làm gì, sống đời ngần ấy năm cũng chỉ học được vài thứ tiếng, ba trăm tuổi mà chẳng được cao nhân chỉ đường soi lối nên chẳng học được bất cứ thứ phép thuật gì, chẳng trị nổi đứa con nanh ác.

      Kháp Na ôm tôi vào lòng và trải qua đêm tân hôn trong thư phòng. Chú nhóc nằm co ro giường, nước mắt lưng tròng, khẽ gọi tên những người thân. Tôi nhàng liếm gò má sưng đỏ của chú nhóc, nước bọt của tôi có tác dụng chữa sưng tấy rất tốt. Chú nhóc dần hết đau, ôm gọn tôi trong vòng tay, chìm vào giấc ngủ.

      Tôi miệt mài liếm khô những vệt nước mắt cằm của chú nhóc, khẽ cất tiếng hát bài hát ru đầu tiên mà tôi học được từ con người, bài Nhịp võng đưa.

      Năm đó, người cháu nhất trong dòng họ của tôi cũng già cả và qua đời, cả gia tộc chỉ còn lại mình tôi. Tôi ngồi cạnh nó, liếm khô giọt nước mắt cuối cùng của nó. Nó chẳng còn đủ sức để cất lên thứ tiếng của loài hồ ly nữa, nhưng tôi có thể đọc thấy trong ánh mắt buồn thảm của nó điều này, rằng giọt nước mắt ấy, nó khóc cho tôi. Hẳn là nó thấy xót cho tôi vì những ngày tháng dằng dặc sau này tôi phải sống đời độc.

      Sau khi nó ra , tôi đơn đến phát điên. Lần đầu tiên tôi xuống núi, vào nhà dân để trộm gà mà trốn trong góc khuất, nghe họ trò chuyện. Tuy chưa hiểu tiếng người nhưng với tôi khi ấy, được nghe bất cứ tiếng nào cũng là điều tuyệt diệu. Và tôi nghe thấy người phụ nữ đu đưa cánh võng, khe khẽ cất lời ru con trẻ, khúc hát ru ấy chính là bài Nhịp võng đưa.

      Tôi ghé sát tai Kháp Na, khe khẽ ầu ơ, hệt như người mẹ hiền từ ru con bên cánh võng năm xưa.

      “Ầu ơ, ầu ơ, nhịp võng ru

      Ngủ ngoan con , tay mẹ đưa

      Mai sau khôn lớn con hãy nhớ

      Tình mẹ ngày đêm vẫn đợi chờ.”

      Chú nhóc khẽ xoay người, chiếc lưỡi hồng hồng liếm láp làn môi đỏ như son, khóe miệng uốn lên thành vành cong đáng .

      Hôm sau, lúc tỉnh dậy, việc đầu tiên chú nhóc làm là ôm tôi vào lòng, hoan hỉ kể:

      - Tiểu Lam à, đêm qua ta được gặp mẹ trong mơ đấy. Mẹ hát cho ta nghe, giọng hát ngọt ngào như tiên vậy. Mẹ còn thơm vào má ta nữa…

      Tôi liếm chiếc má bầu bĩnh của Kháp Na, khẽ kêu để chia sẻ niềm vui với chú nhóc.


      <img class="aligncenter" alt="" src="https://i.imgur.com/SdPiIOV.png" width="128" height="128" />
      Chàng trai trẻ lắc đầu:

      - Hôn lễ này chẳng khác nào vở bi hài kịch. Kháp Na kết hôn với người con ghê gớm đó, sau này chắc rất khốn khổ.

      - Khi ấy tôi cũng nghĩ rằng Mukaton là kẻ kiêu căng, ngạo mạn, hung hãn, tàn bạo, nhưng nhiều năm sau, tôi bắt đầu hiểu ấy. Thực ra, ấy cũng rất đáng thương, giống như Kháp Na, ấy chỉ là vật hy sinh trong cuộc hôn nhân vì mục đích chính trị này. – Tôi thở dài, tiếp thêm củi vào lò than. – Nhiều năm sau đó, Kháp Na vẫn tiếp tục ngủ trong thư phòng. Sống trong hoàn cảnh xa lạ, chú nhóc dần trưởng thành, chín chắn hơn, cũng đáng thương hơn. Tuy rất sợ Mukaton nhưng chú nhóc vẫn làm ra vẻ thuận hòa, vui vẻ, bao giờ than thở với bác và trai. Thời gian đầu, chú nhóc thích mặc chiếc áo dài thùng thình của người Mông Cổ, quen đồ ăn Mông Cổ, chật vật khi học tiếng Mông Cổ, nhưng dần dà, chú nhóc học cách thích nghi.

      Chàng trai trẻ quay đầu lại, nhìn tôi:

      - Tôi cứ băn khoăn mãi về điều này, vì sao đại sư Ban Trí Đạt quyết tâm đưa em Bát Tư Ba cùng chặng đường dài đầy gian nan ấy? Bát Tư Ba khi đó mới mười tuổi và Kháp Na mới sáu tuổi. Dắt díu theo hai chú nhóc trải nghìn dặm đường, vượt qua cao nguyên Thanh Tạng quanh năm tuyết phủ, dù là ở thời đại cũng cực kỳ gian khổ, chứ đừng vào thời đó, điều kiện đường sá và ăn ở vô cùng thiếu thốn.

      Tôi thở dài:

      - Thực ra, khi đó trong nội bộ phái Sakya, ít người lên tiếng phản đối việc đại sư Ban Trí Đạt đưa hai chú bé cùng, họ lo ngại đường gặp bất trắc. Nhưng đại sư Ban Trí Đạt làm vậy là có lý do. Nếu để hai em Bát Tư Ba ở lại Sakya, e rằng tính mạng của họ khó được bảo toàn.

      Chàng trai trẻ tròn mắt:

      - Sao… sao lại như vậy? Lẽ nào…

      ---------------------------

      [1] Trong tiếng Mông Cổ Thành Cát Tư Hãn có nghĩa là vua của cả thế giới. (DG)

    4. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 8 : tiếng người


      “Biển cả chẳng phiền khi đầy nước,

      Kho báu chẳng chật lúc nhiều vàng;

      Người phàm ai than thừa hạnh phúc,

      Học giả ai hiềm tri thức dày.”

      (Cách ngôn Sakya)
       

      Năm 1251, tức năm Hợi, Thiết, theo lịch Tạng, tức niên hiệu Thuần Hựu thứ mười nhà Nam Tống, tức niên hiệu Mông Kha Hãn thứ nhất, Mông Cổ.

      Ban Trí Đạt bảy mươi tuổi, Bát Tư Ba mười bảy tuổi, Kháp Na mười ba tuổi.

      Mùa đông, cây cỏ đìu hiu, hơi thở đóng băng, dãy Lục Bàn Sơn như mình rồng uốn lượn, giờ cũng hiền lành náu mình trong chiếc áo tuyết dày cộm, trắng muốt. Dưới chân núi lô nhô lán trại của người Mông Cổ, trong lán trại lớn nhất có rất nhiều người mặc áo giáp trụ. Ngồi ở vị trí cao nhất là người đàn ông trung niên tráng kiện, gương mặt tròn vành vạnh tựa trăng rằm. Bên cạnh ông là phụ nữ kiều diễm, đài các. Người đàn ông trung niên uy nghi, đạo mạo, giọng trầm hùng:

      - Tufan có những vĩ nhân tiêu biểu nào?

      Người ngồi ở vị trí gần nhất phía dưới là nhà sư trẻ tuổi mặc áo màu đỏ, dáng vẻ tự tin, cử chỉ khiêm nhường, nhã nhặn. Nhà sư khẽ cúi người khiêm cung, dõng dạc trả lời:

      - Thưa Đại vương Hốt Tất Liệt, tổ tiên của người Tufan có ba vị pháp vương đều là hóa thân của các vị Bồ Tát: Pháp vương Songtsan Gampo là hóa thân của Quan Thế Bồ Tát, Pháp vương Trisong Detsen là hóa thân của Văn Thù Bồ Tát, Pháp vương Tri Ralpacan là hóa thân của Kim Cương Thủ Bồ Tát.

      Động tác, cử chỉ của nhà sư khiêm tốn mà gò bó, lời đường hoàng, dõng dạc mà kiêu căng, ngạo mạn, lưng vươn thẳng như ngọn thông, dáng người cao lớn. Giọng còn dấu vết của tuổi dậy mà trầm ấm, êm mượt như nhung lụa, cứ thế tuôn chảy vào lòng người. Vầng trán nhẵn bóng ngày nào giờ lốm đốm mụn thanh xuân nhưng hề làm mất vẻ tuấn tú, khôi ngô. Vẻ bẽn lẽn thuở thiếu thời biến mất nhờ dày công bồi dưỡng của người bác, thay vào đó là dáng vẻ tự tin, cởi mở, điềm tĩnh. Con người ấy có sức hút kỳ lạ đối với những người xung quanh.

      Đôi đồng tử đen láy đảo quanh lượt các vị khách có mặt, rồi mới tiếp tục cất giọng ngợi ca:

      - Vị vua vĩ đại Songtsan Gampo là người góp ba công đức lớn lao đối với đất Tạng. là, hơn sáu trăm năm trước, ngài thống nhất toàn vùng Wusi. Hai là, ngài ra lệnh xây dựng hệ thống văn tự Tạng. Ba là, ngài cưới Công chúa Văn Thành của đất Hán và Công chúa Bhrikuti Devi của Nepal và ra sức phát triển đạo Phật… Cháu đời thứ năm của Vua Songtsan Gampo – Vua Trisong Detsen – là người mời vị cao tăng Thiên Trúc – đại sư Liên Hoa Sinh – tới Tufan truyền pháp và xây dựng ngôi đền đầu tiên ở Tufan – đền Samye. Vua Trisong Detsen lựa chọn bảy người trong số các con em quý tộc đến Samye để xuống tóc tu. Họ chính là những tu sĩ đầu tiên của Tufan, sử sách gọi họ là “bảy tu sĩ Samye”. Dòng họ Khon của bần tăng có địa vị đặc biệt cao quý vào thời kỳ vương triều Tufan. Cụ nội của bần tăng vốn là đại thần trong triều đình Songtsan Gampo, được Nhà vua rất mực nể trọng. Người con cả của cụ chính là trong “bảy tu sĩ Samye” thời đó.

      Tất cả những người có mặt trong lán trại khi ấy đều như bị mê hoặc bởi giọng trầm ấm, lay động, ai nấy đều chăm chú hướng mắt về phía thầy tu trẻ. Người phụ nữ xinh đẹp với đôi mắt như biết chốc chốc lại ghé tai Hốt Tất Liệt thầm to.

      - Cháu trai của Vua Trisong Detsen – Vua Tri Ralpaca – là người rất sùng đạo Phật, ngài đề cao việc tu tâm dưỡng tính. Ngài kết tình hòa hảo với đế quốc Đại Đường ở Trung Nguyên, giao ước bao giờ xâm phạm lẫn nhau. Bởi vì nhà Đường từng gả Công chúa Văn Thành và Công chúa Kim Thành cho Vua Tufan nên hai nước có mối giao tình đặc biệt. Và bởi vậy, tấm bia kỷ niệm ngày hai nước thiết lập quan hệ đồng minh thân thiết còn gọi là bia “Liên minh cậu cháu”, được đặt trước cổng đền Jokhang ở La-ta. – Bát Tư Ba say sưa thuyết giảng, đến nỗi cậu ấy dường như ở tư thế hơi đổ người về phía trước. – Bởi vậy, tuy vương triều Tufan sụp đổ nhưng công đức của ba vị vua là vô cùng to lớn. Họ được người đời sau tôn làm “Tam pháp vương”, tượng của họ được thờ cúng trong tất cả các ngôi đền ở Wusi.

      Hốt Tất Liệt vỗ tay cười lớn, vẻ tự tin, cởi mở toát ra từ ngài rất đặc biệt. Ngài gật đầu với người phụ nữ xinh đẹp, sau đó đặt tay lên bàn, tấm tắc khen:

      - Các vị tướng lĩnh, hãy xem, Bát Tư Ba mới mười bảy tuổi mà học rộng biết nhiều, tài hoa uyên bác như vậy đấy. Những kẻ làm võ tướng ít học các ngươi có thấy xấu hổ hả?

      Ai nấy vội vàng gật đầu thưa vâng, những tiếng tán thưởng râm ran khắp lều trại. Bát Tư Ba, mặt đỏ như gấc chín, cúi đầu, lí nhí cảm ơn.

      Hốt Tất Liệt nhìn quanh khắp lượt, xúc động :

      - Hẳn các vị đều biết, sau khi Quý Do Hãn qua đời, tháng Sáu vừa qua, trai Mông Kha của ta được chọn làm Khả hãn [1] . Đại hãn Mông Kha ủy thác cho ta thống lĩnh quân đội miền Nam Mông Cổ, đóng quân Lục Bàn Sơn này. Trước đó, ta nghe , trí giả Ban Trí Đạt của phái Sakya ở Tufan là người có trí tuệ phi thường, nay trú ở Lương Châu, nên cử sứ giả mời ngài. Chẳng ngờ, đại sư tuổi cao sức yếu, thể xa, vì vậy Khởi Tất đưa cháu trai của ngài Ban Trí Đạt là Bát Tư Ba đến đây.

      Hốt Tất Liệt đứng dậy, chầm chậm bước tới trước mặt Bát Tư Ba, ánh mắt ngưỡng mộ và thán phục giấu giếm của ngài hướng về nhà sư trẻ:

      - Lần đầu gặp Bát Tư Ba, ta rất tâm đắc. Vì vậy, ta phải “hối lộ” đứa cháu họ mọn trăm con tuấn mã, nó mới chịu để Bát Tư Ba ở lại. Hơn tháng qua, mỗi khi nghe Bát Tư Ba giảng pháp, ta đều bội phần khâm phục. Bởi vậy hôm nay, ta mới cho vời các ngươi đến đây, để cùng lắng nghe những lời khuôn vàng thước ngọc của bậc thánh giả, mong giúp đầu óc u tối của các ngươi được mở mang đôi chút.

      Đám tướng lĩnh lập tức phụ họa. Người phụ nữ xinh đẹp rúc rích cười, rồi nàng cất giọng , mềm mại như lụa:

      - Vương gia, nghe Bát Tư Ba rất giỏi trong việc chủ trì nghi lễ quán đỉnh Hevajra [2] . Chi bằng, nhân dịp này, hãy mời ngài giảng giải cho chúng ta nghe về nghi lễ này, chúng ta phải chịu lễ ra sao, kết thành thí chủ và phúc điền [3] thế nào để mọi người được mở rộng tầm nhìn.

      - Vương phi Khabi phải lắm.

      Tôi trốn trong khóc khuất, hé mắt nhìn trộm, lòng rối như tơ vò. Sau khi nghe cuộc đối thoại giữa Hốt Tất Liệt và Vương phi, tôi lại càng sốt ruột. Lần đầu sử dụng phép thuật chạy nhanh thần tốc, năm trăm dặm mà chỉ mất sáu canh giờ. Nhưng lúc tới nơi, tôi bị hoa mắt chóng mặt, đau đầu buồn nôn. Tôi cố kiềm chế cảm giác nôn nao, khó chịu đó để tìm Bát Tư Ba, mãi mới tìm thấy cậu ấy ở đây, trong bối cảnh long trọng này.

      Trong lán trại có rất nhiều người nên tôi dám thân, đành cắn răng chịu đựng cơn chóng mặt vô cùng khó chịu, chờ dịp Bát Tư Ba chỉ có mình ra gặp cậu ấy. Nhưng nếu đề nghị của Vương phi được chấp thuận, tôi phải chờ đợi nhiều canh giờ nữa. Cảm giác chóng mặt ngày càng dữ dội, nếu để mất kiểm soát, tôi lập tức bị hôn mê bất tỉnh.

      chần chừ thêm được nữa, tôi lấy hết can đảm, lao đến trước mặt Bát Tư Ba, dùng miệng kéo vạt áo cậu ấy.

      - Lam Kha, sao em lại đến đây? Em ở Lương Châu với Kháp Na kia mà?

      Bát Tư Ba phải ngừng buổi thuyết giảng vì xuất đột ngột của tôi. Cậu ấy kinh ngạc ôm tôi lên. Những tiếng xuýt xoa, trầm trồ lao xao xung quanh:

      - Ôi! con hồ ly tuyệt đẹp, toàn thân nó màu xanh kìa!

      Đầu nặng như búa bổ nhưng tôi vẫn cố gắng lắc lắc đầu để vớt vát chút tỉnh táo cuối cùng, nhân lúc mọi người ồn ào bàn tán, tôi ghé sát vào tai cậu ấy thào mấy câu tiếng Tạng, giọng như gió thoảng:

      - Bệnh tình của đại sư vô cùng nguy cấp, cậu phải về Lương Châu ngay!

      Gương mặt điển trai ngẩn ngơ vì kinh ngạc của cậu ấy cứ mờ dần, mờ dần trước mắt tôi. Tôi chịu nổi nữa, ngả đầu vào bờ vai gầy guộc của cậu ấy và thiếp .

      - Tỉnh rồi hả Lam Kha?

      Tôi ngẩng lên, bắt gặp cặp mắt long lanh đung đưa trước mắt, đôi đồng tử trong suốt tựa pha lê ấy in sâu vào mắt tôi, khiến trái tim tôi đập nhanh cách kỳ quặc.

      - Em thiếp suốt ba ngày ba đêm rồi đó. – Cậu ấy gõ vào mũi tôi. – Đói ? Ta sai người chuẩn bị sữa bò và thịt gà, em muốn ăn ngay hay để lát nữa?

      Vì sao vẫn còn cảm giác quay cuồng vậy nhỉ? Tôi đưa mắt nhìn xung quanh, ra mình xe ngựa. Tôi lắc đầu cười, cảm giác quay cuồng là do xe ngựa, vậy mà tôi cứ tưởng mình chưa hết chóng mặt.

      - Chúng ta đường về Lương Châu, xe ngựa chạy ngày đêm nghỉ, nhưng cũng phải hai ngày nữa mới đến nơi, vất vả lắm đó. Nếu em thấy mệt với ta nhé!

      Trong xe chỉ có mình cậu ấy, cậu ấy chuyện với tôi như với bao người khác. Tôi chống hai chân trước lên đùi cậu ấy, nhổm người dậy, cắn môi do dự lúc mới cất tiếng hỏi:

      - Cậu sợ ư?

      - Sợ ư? Vì em biết tiếng người? – Cậu ấy mỉm cười, vuốt ve sống lưng tôi. – Ta biết chuyện đó lâu rồi.

      Đến lượt tôi bị bất ngờ, suýt nữa ngã nhào:

      - Cậu… cậu… cậu biết từ khi nào?

      - Lần nào ta tu tập, em cũng lén đến xem. Lúc ta xếp bằng ngồi thiền tụng niệm, em cũng làm theo.

      Cậu ấy bóp đầu mũi tôi, tinh nghịch nháy mắt với tôi:

      - Thế là lần nọ, ta cố ý rằng, với câu kệ này, chúng ta phải nhắm mắt lại và tập trung suy tưởng, tụng niệm ba trăm lần mới hiệu quả. Em mắc mưu, tuy cố gắng phát ra tiếng lớn nhưng em lẩm nhẩm tụng theo. Lúc em nhắm mắt tụng niệm, ta rón rén lại gần, nhìn trộm em, khẩu hình của em khi ấy rất giống người thường nên ta biết chắc em có thể được tiếng người.

      Tôi há hốc miệng kinh ngạc. Khi ấy tôi thậm chí tin tưởng tuyệt đối rằng, phương pháp tu tập đó rất hiệu quả, vì sau khi tụng niệm, luồng khí lạ lưu thông toàn thân, khiến bước của tôi nhàng và nhanh như gió, ngay cả thương tật ở chân sau cũng hề gây ra trở ngại. ngờ, tôi tập trung đến mức cậu ấy ngồi bên cạnh quan sát mà tôi hay biết.

      Tôi trợn mắt lườm cậu ấy:

      - Sao cậu gì cả?

      - Người ta bảo loài hồ ly là chúa đa nghi, quả nhiên là vậy. Vì em chưa chịu tin tưởng ta và Kháp Na tuyệt đối nên ta đành kiên trì chờ đợi cho đến khi em chủ động lên tiếng. Chờ suốt bốn năm, cuối cùng cũng chờ được đến ngày này.

      Cậu ấy nhấc bổng tôi lên ngang mặt. Ngựa phi nước đại, đường sá gập ghềnh. Những đốm sáng hắt vào từ cửa xe, lướt qua gương mặt cậu ấy, nụ cười rạng rỡ, ánh mắt trìu mến, vẻ ân cần, chân thành mà ấm áp.

      - Lam Kha, cảm ơn em vượt đường xa đến báo tin cho ta.

      Tôi làm sao vậy nhỉ? Vì sao tim tôi lại đập nhanh vô cớ? Tôi lắc lư cái đầu, cố thoát khỏi cảm giác khó hiểu này, thở dài:

      - Quan ngự y bảo rằng, đại sư tuổi tác cao, sức khỏe giảm sút nên nhiều nhất cũng chỉ có thể gắng gượng thêm năm, sáu ngày nữa. Kháp Na lập tức cử người đón cậu, nhưng từ Lương Châu đến Lục Bàn Sơn, cả cả về cũng phải mất ít nhất chục ngày. Đại sư kiên trì chờ cậu trở về, còn Kháp Na buồn phiền lo lắng, cơm chẳng buồn ăn, nước chẳng buồn uống nên tôi quyết định lẻn ra ngoài và chạy đến đây bằng tốc độ nhanh nhất có thể. Mấy năm nay theo cậu học lỏm phương pháp tu tập, phép thuật của tôi tiến bộ rất nhiều, năm trăm dặm mà tôi chỉ chạy trong vòng sáu canh giờ. Bây giờ về gấp, có lẽ cậu vẫn kịp gặp mặt đại sư lần cuối.

      Cậu ấy ngỡ ngàng.

      - Em quả là loài linh thú, phép tu của nhà Phật được em vận dụng và phát huy hiệu quả kỳ diệu như vậy! – Cậu ấy trầm tư lát, lông mày khẽ nhíu lại. – Kháp Na có biết em tới tìm ta ? Em với đệ ấy rằng em biết tiếng người ư?

      Tôi lắc đầu, tủi hổ:

      - Tiểu Lam trong tâm tưởng của chú nhóc ấy quá hoàn mỹ, tôi muốn phá hỏng hình ảnh đó… – Tôi ngừng lại, thở dài ảo não rồi lặng lẽ quay đầu. – Tôi đưa tin cho cậu, cũng xem như báo đáp ơn cứu mạng của cậu, tôi theo cậu về đó nữa…

      - Em muốn ra ư? – Vòng tay cậu ấy siết tôi chặt hơn, giọng bất giác mất kiểm soát, vút cao. – Vì sao?

      - Vì tôi là tinh, loài người các cậu sợ tinh nhất còn gì!

      Nhớ lại năm xưa, từng nhiều lần bị người ta dùng bùa chú nguyền rủa, rải phân và máu chó để xua đuổi, tôi cũng bất giác cao giọng, cười mỉa mai:

      - Đám thầy mo, thầy tu các người xem việc xua tà đuổi ma là trách nhiệm của mình đấy thôi.

      - Lam Kha!

      Cái miệng của tôi bị chặn lại, lòng bàn tay của cậu ấy nồng nồng, ẩm ướt. Cậu ấy nhấc tôi lên, cọ đầu vào trán tôi, dịu dàng hỏi:

      - Trước đây, em chịu rất nhiều tổn thương, đúng ?

      Tôi như bị ném vào lò nướng, mọi tế bào sống cơ thể như bị thiêu đốt. Tôi dùng móng vuốt, chỉ vào vết sẹo trán, cất giọng chua chát:

      - Vết sẹo hình hoa sen này đẹp lắm phải ? Ai nhìn thấy cũng xuýt xoa, trầm trồ nhưng chẳng ai biết rằng, đó phải là vết bớt bẩm sinh… Hai trăm năm trước, khi người thân cuối cùng của tôi ra vì tuổi già, sức yếu, cả sơn động chỉ còn lại mình tôi, cảm giác đơn vì còn ai bầu bạn ấy hệt như có hàng vạn con kiến lửa cắn xé ruột gan tôi. Tôi quyết định xuống núi, lẻn vào nhà người dân, chỉ để được nghe họ trò chuyện. Hằng ngày nghe bà mẹ trẻ dạy con thơ bi bô tập , tôi bắt chước học theo. Lâu dần, tôi được tiếng người lúc nào hay.

      Ánh nắng dần nhạt nhòa, bóng chiều thăm thẳm, tâm trạng của tôi cũng trĩu xuống theo hoàng hôn cuối ngày.

      - Đứa bé tên gọi Zhaxi ấy, tôi lặng lẽ ở bên nó cho đến năm nó mười tuổi, tôi thuộc lòng mọi cử chỉ, hành động của nó, tôi xem nó như người thân của mình. Sau khi suy nghĩ rất kỹ càng, tôi lấy hết can đảm, bước đến bên nó khi nó lùa đàn cừu thảo nguyên và với nó câu tiếng Tạng: “Chào em!”

      Bát Tư Ba vuốt ve vành tai nhọn hoắt của tôi, khẽ hỏi:

      - Chú bé đó phản ứng ra sao?

      Tôi bật cười ha hả.

      - Khi đó tôi ngây thơ biết bao, tôi đâu biết, con hồ ly biết tiếng người khiến con người sợ hãi nhường nào. – Tiếng cười đứt đoạn, ký ức đè nặng tâm can, tôi như vẫn còn cảm nhận được ràng nỗi bàng hoàng và đau đớn tột độ khi ấy. – Nó nhặt hòn đá, ném về phía tôi, vì phòng bị, tôi bị ném trúng giữa trán, máu chảy như suối.

      Cậu ấy nhíu mày, gương mặt nhân từ, thương xót, bàn tay dịu dàng xoa lên trán tôi:

      - Nó để lại vết sẹo hình hoa sen này sao?

      Tôi gật đầu, hậm hực, nheo mắt nhìn ra khoảng trời mịt mù ngoài cửa sổ:

      - Sau đó, gia đình thằng bé vội vã chuyển nơi khác. Tôi còn ngốc tới mức, hiểu vì sao họ chuyển nhà… Sau lần đó, tôi phiêu bạt đến rất nhiều nơi, học được rất nhiều ngôn ngữ, nào là tiếng Mông Cổ, tiếng Hán, tiếng Tangut. Mỗi khi tôi có ý định kết bạn với con người, mỗi khi mở miệng cất lời, tôi đều nhận được những ánh mắt khiếp sợ. Ngay sau đó, các thầy mo, nhà sư, đạo sĩ đến làm phép, họ đốt những tờ giấy kỳ quái, nhảy những điệu nhảy kỳ quái. Cuối cùng tôi cũng hiểu, tất cả những điều đó là vì họ sợ tôi. Con người gọi những sinh linh biết phép thuật như tôi là ma…

      Tim tôi đau nhói, phải ngừng lại hồi lâu, tôi mới có thể tiếp tục câu chuyện, hai mắt đẫm nước:

      - Sau khi trải qua tất cả những điều này, tôi quyết định trở về núi Côn Luân, sống mình trong sơn động, nơi mà cha mẹ tôi từng sinh sống, và suốt trăm năm sau đó, tôi hề mở miệng với ai dù chỉ tiếng.

      Cậu ấy nhàng vuốt ve lớp lông mịn màng lưng tôi, hơi ấm từ lòng bàn tay cậu ấy thấm vào da thịt, cho tôi cảm giác tin cậy, ánh mắt long lanh, giọng của cậu ấy trầm ấm:

      - Lam Kha, em đừng . Dù người đời có đối xử tàn tệ với em thế nào, ta và Kháp Na tuyệt đối giống họ. Em cũng biết đó, thời gian đầu khi mới đến Lương Châu, cả bác và hai em ta đều rất khó thích nghi, sức khỏe ổn định, lại biết tiếng Mông Cổ nên ngoài bác ra, em ta còn người thân và bạn bè nào khác. Em đến với ta và Kháp Na giữa lúc chúng ta đơn nhất. Chỉ cần em bằng lòng, ta và Kháp Na là người thân của em. Chúng ta cho phép bất cứ ai làm em bị tổn thương.

      Vì sao sống mũi tôi lại cay sè thế này? Tôi hít hơi sâu, nghiêng đầu về hướng khác:

      - Sở dĩ tôi theo cậu ngần ấy năm là vì tôi muốn đạt được mục đích nghe giảng pháp.

      - Vậy em cứ nghe . – Cậu ấy nở nụ cười tươi tắn, khóe môi uốn thành đường cong tuyệt đẹp. – Nếu phép tu tập của ta mà hữu ích cho việc tu luyện của em còn gì bằng! Phật pháp sinh ra vốn là để thuyết giảng cho người có duyên với đạo Phật. Phật Tổ công bằng lắm, ngài độ hóa cho mọi sinh linh. Lam Kha, em là thú linh, kết tụ khí thiêng của cả trời và đất, em xứng đáng để tu tập hơn cả những người tu hành như ta đó.

      Tôi ngước nhìn cậu ấy, bắt gặp cặp mắt thuần khiết vô ngần, ánh mắt long lanh, rạng rỡ chiếu sáng cả những góc u tối, sâu trong tim tôi. Khoảnh khắc ấy, tôi như đắm chìm giữa vực nước trong veo, hun hút. Đáng ghét quá, có thế mà khóe mắt tôi cũng ướt nhòe.

      - Mà lẽ em đành lòng rời xa Kháp Na ư? Mấy năm qua sống trong Vương phủ, tuy đệ ấy nhưng ta biết cuộc sống của đệ ấy vui vẻ chút nào. Công chúa… – Cậu ấy thở dài, lắc đầu, hai hàng lông mày xô lại, vẻ mặt xót thương. – Mới mười ba tuổi mà đệ ấy phải đối diện và chịu đựng những khốn khổ mà chỉ những người trưởng thành mới phải chịu đựng. Ta thể ở bên bao bọc, che chở cho đệ ấy, nhưng may mà có em, em mang lại niềm vui cho đệ ấy nên ta cảm thấy yên tâm hơn rất nhiều.

      Nhắc đến Kháp Na, lòng tôi quặn thắt, nỗi xót thương dâng trào. Chú nhóc đáng thương ấy suốt bốn năm qua nếm đủ mùi cay đắng trong phủ Vương gia. Thái độ khinh miệt, lạnh nhạt của Mukaton chỉ là chuyện , hễ bực mình là ta quăng đồ, đáng ghét hơn là ta thường ra tay đánh đập Kháp Na. Thời gian đầu, mỗi lần bị chửi mắng, đánh đập, chú nhóc chỉ biết thu mình vào góc giường, ôm chặt lấy tôi, lặng lẽ khóc. Về sau, bất luận Mukaton có gì, làm gì, chú nhóc cũng hề đáp trả, dù chỉ tiếng. Hằng ngày, chú nhóc tránh phải chạm mặt Mukaton như tránh tà, mỗi lần nhìn thấy ta là khiếp sợ bỏ chạy như thỏ con đụng phải hổ dữ. Mukaton thường ra ngoài cưỡi ngựa, bắn cung hoặc thăm bạn bè, những lúc ta có nhà, Kháp Na mới thầm thở phào nhõm, tinh thần cũng thoải mái hơn nhiều.

      Mỗi ngày, Kháp Na phải học tiếng Mông Cổ canh giờ, luyện tập cưỡi ngựa, bắn cung, đấu vật canh giờ, sau đó đến đền Hoán Hóa theo học Phật pháp với bác và trai canh giờ nữa. Ngoài ra, với thân phận là con rể của Vương gia Khoát Đoan, chú nhóc còn phải tham dự các buổi tiệc trong Vương phủ hoặc thăm hỏi các quý tộc Mông Cổ trong dòng tộc. Chú bé loắt choắt ấy buộc phải những lời khách sáo, lễ nghi của người lớn, phải khoác mình đủ mọi thứ mặt nạ của người lớn, phải ép mình đóng vai người lớn. Tôi cảm thấy xót xa khi nhận thấy nụ cười gương mặt chú nhóc ngày càng vắng bóng, mỗi lúc chỉ có hai chúng tôi, tôi ra sức chọc cho chú nhóc cười, cùng chú nhóc chơi những trò chơi con trẻ mà chú nhóc thích. Chỉ những lúc như thế, tôi mới thấy được nụ cười hồn nhiên, tươi tắn nhất mà tôi hằng thích.

      Nhiều lần tôi muốn cất lời an ủi chú nhóc nhưng lại dám. Vết sẹo trán cứ mãi ám ảnh và luôn nhắc nhở tôi về những ký ức hãi hùng với vẻ mặt kinh hoàng của con người khi họ nghe tôi tiếng của họ. Trong lòng tôi, Kháp Na quá ư thuần khiết, đáng nên tôi sợ, nếu biết tôi là tinh, những kỷ niệm đẹp đẽ về chú bé tan biến trong tôi…

      - Nếu biết em được tiếng người, chắc chắn Kháp Na rất vui. – Dường như đọc được suy nghĩ của tôi, Bát Tư Ba mỉm cười, xoa đầu tôi. – Chắc chắn đệ ấy luôn hy vọng em có thể trò chuyện được với đệ ấy…

      Tôi nhớ lại lịch sử triều Nguyên, trầm ngâm:

      - Quý Do Hãn lên ngôi Đại hãn được năm đột tử, sau khoảng thời gian dài chọn lựa, vị trí Khả hãn được trao cho Mông Kha. Mông Kha là con trai của Đà Lôi (con trai út của Thành Cát Tư Hãn), ruột của Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt. Sau khi Mông Kha lên ngôi, chính quyền Mông Cổ được chuyển từ chi phái Oa Khoát Đài sang chi phái Đà Lôi.

      Chàng trai trẻ trầm tư lát mới cất lời:

      - Tôi nhớ, sách sử chép rằng, để đạt được mục tiêu thống trị, mỗi khi công phá thành công vùng đất, người Mông Cổ sẵn sàng tiếp nhận tất cả các tôn giáo tồn tại ở vùng đất đó. Bởi vậy, ngoài Saman giáo, hoàng thất Mông Cổ còn tin theo các tín ngưỡng Phật giáo, Kitô giáo, Đạo giáo.

      Chàng trai trẻ nhíu mày nhìn tôi, vẻ băn khoăn:

      - Hốt Tất Liệt gặp Bát Tư Ba lẽ nào chỉ vì muốn nghe giảng pháp?

      Tôi giật mình, chàng trai này thông minh quá! Tôi gật đầu tán thưởng:

      - Sau khi chính quyền Mông Cổ được chuyển từ chi phái Oa Khoát Đài sang chi phái Đà Lôi, vì là em cùng mẹ của đương kim Khả hãn nên Hốt Tất Liệt trở thành người có quyền cao chức trọng, được Mông Kha giao nhiệm vụ thống lĩnh quân đội miền Nam. Ông ấy đóng quân ở Lục Bàn Sơn là để chờ dịp chiếm lấy Đại Lý ở Vân Nam. Khi ấy, Tứ Xuyên vẫn thuộc quyền cai trị của nhà Nam Tống, nếu muốn đến được đất Đại Lý, Hốt Tất Liệt buộc phải vượt qua vùng đất của người Tạng ở Cam Túc và Thanh Hải. Hốt Tất Liệt triệu kiến Ban Trí Đạt là để tìm hiểu về văn hóa, lịch sử của người Tạng, đảm bảo cuộc hành quân đến đất Tạng được thuận lợi. ngờ, Ban Trí Đạt lại cử nhà sư trẻ Bát Tư Ba mới mười bảy tuổi thay mình. Đó là lần gặp gỡ đầu tiên của Bát Tư Ba với Hốt Tất Liệt. Khi ấy, Bát Tư Ba hề biết rằng, cuộc gặp gỡ này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với cuộc đời của cậu…
      <div>

      <hr align="left" size="1" width="33%" />


      [1] Mông Kha được chọn làm Khả Hãn năm 1251.

      [2] Hevajra là Phật giáo Kim Cương thừa. Quán đỉnh nghĩa là xối nước lên đầu, đây là nghi thức quan trọng của dòng truyền thừa, thường diễn ra trong các buổi lễ tiếp nhận đệ tử hoặc lễ kế vị của các bậc cao tăng. (DG)

      [3] Phúc điền là chữ dùng của đạo Phật. Giáo lý Phật giáo giảng rằng, phàm những người thờ Phật, kính tăng, hiếu thảo với cha mẹ, thương người khốn khổ đều được ban hưởng phúc đức, giống như người nông dân được thu hoạch hoa màu sau những tháng ngày trồng cấy vất vả. Bởi vậy, “phúc điền” là từ dùng để chỉ Phật, tăng, cha mẹ và những người khốn khổ trong xã hội.

    5. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 9: Gia tộc “hận thù”



      “Người đạo đức giấu mình nơi kín đáo,

      Tiếng thơm vẫn truyền khắp thế gian;

      Hoa quế nép sâu dưới đáy rương,

      Hương thơm vẫn lan khắp bốn phương.”

      (Cách ngôn Sakya)




      Chưa vào trong đền, chúng tôi nghe thấy có tiếng loảng xoảng hành lang, hình như vật gì đó bị ném vỡ. Giọng khàn khàn của ai đó trong giai đoạn vỡ tiếng cất lên, nộ khí đằng đằng:

      - Tiếp tục tìm kiếm! được bỏ sót bất cứ cánh rừng nào ở Lương Châu này! Nếu tìm thấy, các ngươi đừng hòng về đây gặp ta!

      Bát Tư Ba vội vã bước lên hành lang, la lớn:

      - Kháp Na, đệ làm gì thế?

      Cậu thiếu niên mười ba tuổi giật mình ngoảnh lại. Cậu ấy mặc áo choàng dài màu xanh của người Mông Cổ, nửa ống tay áo được xắn gọn và thít vào phần hông, chuỗi hạt to bè lúc lắc cổ, giống hệt những người Mông Cổ khác. Nét bầu bĩnh của gương mặt trẻ thơ còn nữa, thay vào đó là vẻ đẹp hút hồn của cậu bé mới lớn. So với Bát Tư Ba của bốn năm về trước, Kháp Na trông gầy hơn nhiều, dù cậu ấy chẳng mấy khi tươi cười nhưng má lúm đồng tiền vẫn mồn .

      Kháp Na tròn mắt, đôi đồng tử đen láy như dính chặt vào Bát Tư Ba, miệng lập bập:

      - Đại ca, huynh… Năm ngày trước đệ mới cử người đến báo tin cho huynh kia mà. Nếu cho xe ngựa chạy cả ngày lẫn đêm cũng phải mất sáu ngày, sao huynh có thể trở về đây nhanh như vậy?

      Bát Tư Ba đáp, sải bước đến bên Kháp Na, lập tức chuyển đề tài:

      - Đệ bực bội chuyện gì vậy? Bác ở đâu?

      - Bác nằm trong phòng. Quan ngự y bảo rằng bác thể gắng gượng thêm nữa… May mà huynh về sớm, vẫn còn kịp… – Kháp Na chưa dứt câu, Bát Tư Ba lao về phía phòng ngủ của đại sư Ban Trí Đạt. Kháp Na cũng bám theo sau, giọng lo lắng. – Đại ca ơi, Tiểu Lam mất tích rồi, đệ tìm khắp nơi mà thấy…

      - Tiểu Lam… Tiểu Lam… – Tiếng bước chân chậm dần. Kháp Na cúi đầu, sụt sịt, giọng run rẩy. – Đệ thể sống thiếu Tiểu Lam…

      Bát Tư Ba dừng lại, khẽ thở dài, đưa tay vuốt ve mái tóc mềm mượt của em trai, hệt như ngày trước:

      - Đệ vẫn luôn giàu tình cảm như thế…

      đoạn, cậu ấy nhấc tôi ra khỏi ngực áo, với tôi:

      - Em tự mình giải thích với đệ ấy !

      - Tiểu Lam!

      Kháp Na mừng rỡ la lên, đón lấy tôi, siết chặt. Cậu ấy khiến tôi suýt ngộp thở. Cậu ấy cọ má vào sống lưng tôi, phụng phịu trách :

      - Em đâu suốt sáu ngày liền, em có biết là ta lo lắng lắm ? Sao em lại cùng đại ca thế?

      Bát Tư Ba rảo bước về phía căn phòng của ngài Ban Trí Đạt nhưng quên quay lại nháy mắt với tôi. Tôi lấy hết can đảm, ghé sát tai Kháp Na, thào:

      - Này cậu nhóc, hãy tìm căn phòng trống, tôi kể đầu đuôi câu chuyện cho cậu nghe.

      Đôi mắt đẹp của Kháp Na trợn tròn, miệng há hốc thành hình chữ O, lúm đồng tiền . Tôi gãi đầu, lè lưỡi, cười trừ với cậu ấy.

      Khi chỉ có hai chúng tôi, tôi đem chuyện kể với Bát Tư Ba thuật lại cho Kháp Na nghe. Phản ứng của Kháp Na đúng như dự đoán của trai cậu ấy, hề sợ hãi mà ngược lại, vô cùng mừng rỡ. Cậu ấy cứ trách tôi mãi vì chịu sớm.

      Niềm hân hoan rạng ngời gương mặt Kháp Na, cậu ấy bóp cái mũi nhọn hoắt của tôi, hỏi:

      - Tiểu Lam à, những hôm buồn bã, đêm ngủ ta thường mơ thấy mẹ ta về hát ru, bài hát ru đó là em hát
      phải ?

      Giọng của Kháp Na khản đặc, phần vì cậu ấy ở vào giai đoạn dậy , phần vì quá lao lực. Cậu ấy thức mấy đêm liền bên giường bệnh của người bác, vậy mà lúc này, vẻ mệt mỏi dường như tan biến hết, đôi mắt sáng long lanh nhìn tôi chớp. Tôi gật đầu thừa nhận:

      - Đêm nào cậu đạp tung chăn, tôi cũng đắp lại cho cậu.

      Kháp Na dẩu môi phụng phịu:

      - Em là, sao lại giấu chúng tôi chuyện đó? Bốn năm qua, ta và đại ca đối xử với em thế nào, chẳng lẽ em cảm nhận được ư?

      Tôi thở dài:

      - Kháp Na ơi, tôi chỉ là loài động vật…

      - Tiểu Lam, ta chưa bao giờ coi em là thú cưng, em nghe này… – Kháp Na ngắt lời tôi, vẻ mặt nghiêm túc, với tôi bằng ngữ điệu nghiêm trang tôi chưa từng thấy. – Cha mẹ ta đều qua đời, tuy rằng ta còn có mấy chị em cùng cha khác mẹ nữa, nhưng vì từ sống cùng nhau nên ta thậm chí biết trông họ thế nào. Trước đây, ta luôn cho rằng bác và trai là những người thân thiết nhất của ta, nhưng giờ đây, ta có thêm em nữa. Em nghe này, ta và đại ca chính là người thân của em!

      Sống mũi tôi cay sè, tim thắt lại, mắt ướt mèm. Người thân! bao lâu rồi tôi được nghe hai tiếng thân thương ấy? Tôi khóc ư? Tôi cứ ngỡ mình còn biết rơi lệ nữa.

      Bỗng tiếng “rầm” xé toang bầu khí yên ắng, hình như là tiếng cánh cửa bị xô mạnh. Tiếp đó là tiếng la lớn của đám người hầu:

      - Ngài Bát Tư Ba…

      Kháp Na và tôi đưa mắt nhìn nhau kinh ngạc, rồi vội vã đẩy cửa lao ra ngoài sân. Bóng chiếc áo tăng ni màu đỏ sẫm lao như bay ra ngoài cổng, Kháp Na đuổi theo, gọi lớn:

      - Đại ca!

      Bát Tư Ba buồn ngoảnh lại, tiếp tục lao như bay, thoáng chốc khuất dạng.

      Kháp Na níu người hầu lại để hỏi:

      - Đại ca ta sao vậy?

      Người hầu cũng tỏ ra ngạc nhiên kém:

      - Chúng tôi cũng . Đại sư chỉ cho phép mình ngài Bát Tư Ba vào phòng, chúng tôi đứng chờ bên ngoài. Họ trò chuyện lúc ngài Bát Tư Ba đẩy cửa lao ra.

      Kháp Na chạy ra ngoài cổng, ngó nghiêng xung quanh nhưng thấy bóng dáng Bát Tư Ba đâu. Tôi rời khỏi vòng tay Kháp Na, lần theo dấu vết của Bát Tư Ba rồi kêu lên ra hiệu. Kháp Na định chạy theo tôi người hầu chạy đến, giữ cậu ấy lại:

      - Cậu Kháp Na ơi, nguy mất, đại sư lại bất tỉnh rồi.

      Kháp Na cuống quýt căn dặn:

      - Tiểu Lam, em tìm đại ca !

      Sau đó, cậu ấy vội vã theo người hầu về phòng ngài Ban Trí Đạt. Tôi tiếp tục lần theo mùi hương của Bát Tư Ba để tìm cậu ấy.

      Bóng chiều nhuộm chiếc áo tăng ni của cậu ấy thành màu đỏ u uẩn, gió ào ạt thổi tà áo phần phật bay. Cậu ấy đứng đỉnh núi, dõi mắt về phía xa xăm, hệt như bức tượng đồng tạc giữa hoàng hôn.

      Tôi khẽ gọi:

      - Lâu Cát…

      Cậu ấy quay đầu lại, gương mặt đẫm lệ. Tôi hốt hoảng, rốt cuộc xảy ra chuyện gì? Chuyện gì khiến người điềm tĩnh, vững vàng như cậu ấy trở nên sầu thảm nhường vậy?

      Cậu ấy chìa cánh tay về phía tôi, cất giọng nghẹn ngào:

      - Lam Kha, lại đây với ta.

      Tôi nhảy vào lòng cậu ấy, ngước lên hỏi:

      - xảy ra chuyện gì vậy? Kháp Na rất lo cho cậu.

      Cậu ấy vẫn chưa hết kích động, khóe môi run run, lúc lâu sau mới cất giọng mệt mỏi:

      - Bác cho ta hay vì sao năm xưa người buộc phải đưa ta và Kháp Na rời khỏi Sakya.

      Cậu ấy ôm tôi, tìm phiến đá bên sườn núi rồi ngồi xuống, ánh mắt vẫn trôi về phía những dãy núi xa tít tắp, mờ ảo trong ráng chiều ảm đạm, khá lâu sau cậu ấy mới bình tĩnh lại và bắt đầu trải lòng:

      - Mẹ ta vốn thuộc dòng dõi trâm thế phiệt, là người phụ nữ đoan trang, hiền thục, bà được gả cho cha ta năm mười sáu tuổi, khi ấy cha ta ba mươi lăm tuổi. Tuy tuổi tác tương xứng nhưng cha mẹ tâm đầu ý hợp, chung sống rất hạnh phúc. Tiếc thay, nỗi day dứt chẳng thể nguôi ngoai trong lòng cha ta khi mà mười năm trôi qua người chưa có lấy mụn con. Người là con út trong gia đình, bởi vậy trách nhiệm lớn nhất của người là sinh con nối dõi tông đường và kế nghiệp tổ tông. Cha ta chịu áp lực nặng nề từ phía họ tộc nhưng người kiên quyết nạp thiếp vì muốn mẹ ta buồn.

      Ánh mắt trĩu buồn, cậu ấy thở dài ảo não, hơi thở phả vào gian những sợi bàng bạc:

      - Năm cha ta năm mươi tuổi, mẹ kiên quyết ép cha cưới lúc bốn người thiếp trẻ. Những người thiếp kia tưởng rằng khi ngoài ba mươi tuổi mẹ ta chẳng thể sinh nở được nữa, họ tìm mọi cách để sinh được con trai, giành quyền thừa kế gia sản. Nhưng kỳ tích xuất , mẹ sinh hạ ta và ta lại là con trưởng. Năm ta được sinh ra, các em trai, em cùng cha khác mẹ của ta cũng lần lượt chào đời, họ chỉ kém ta vài tháng tuổi.

      Khi đó, tuy có vài năm kinh nghiệm chung sống với loài người nhưng tôi vẫn chẳng thể hiểu hết mối quan hệ ruột thịt phức tạp của họ. Bởi vậy, tôi chỉ biết chăm chú ngước nhìn và lắng nghe câu chuyện của cậu ấy. Bạn đời của loài hồ ly rất cố định, hồ ly đực và hồ ly cái chung sống với nhau trọn đời. Tuy sinh ra với thể chất khác thường, chưa từng cảm nhận được rung động của con tim nhưng tôi sao lý giải và cảm thông nổi việc cha cậu ấy mẹ cậu ấy sâu sắc là thế, vậy mà vẫn có thể sinh con với những người phụ nữ khác.

      - Khi ta vừa chào đời, cha ta lập tức tuyên bố pháp thống dòng họ Khon do ta cai quản. Quyết định này làm dấy lên ghen tuông, đố kỵ của các bà vợ lẽ. Để bảo vệ ta, cha đưa bốn người thiếp cùng con cái của họ đến sống ở bốn trang viên khác nhau của gia đình. Bởi vậy, năm, nhiều nhất, ta và các chị em cũng chỉ được gặp nhau lần. Xa mặt cách lòng, tuy là chị em cùng cha khác mẹ nhưng tình cảm ruột thịt giữa chúng ta rất nhạt nhòa. Năm ta lên bốn, mẹ ta lại bất ngờ sinh hạ Kháp Na. Kháp Na là con út nên cha ta tuyên bố toàn bộ sản nghiệp của gia đình do Kháp Na thừa kế, Kháp Na cũng chịu trách nhiệm nối dõi tông đường, bởi vì cha quyết định cưới thêm người thiếp nào nữa. – Bát Tư Ba cười buồn, thần sắc u ám. – Như vậy có nghĩa là, các em trai thứ hai và thứ ba của ta những được kế thừa pháp thống dòng tộc mà ngay cả gia sản cũng được hưởng.

      Linh tính mách bảo với tôi rằng có điều gì ổn.

      - Kháp Na chào đời chưa được mười ngày cha ta qua đời. Trước kia, ta cứ đinh ninh rằng cha ta mất vì bệnh tật và tuổi già, nhưng khi nãy bác với ta rằng, cha ta bị hạ độc.

      Nỗi kích động khiến toàn thân cậu ấy run lên, từng nắm đấm lạnh lùng nện xuống khối đá bên cạnh.

      - Hôm đó, dì hai cho người đưa bánh đến chúc mừng mẹ ta, vì đói bụng, cha ta ăn miếng, và rồi ngay tối hôm đó, người

      Tôi hoảng hốt, “á” lên tiếng rồi cuống cuồng giữ chặt nắm tay của cậu ấy. Bàn tay va vào đá rách toạc, máu chảy ròng ròng, tôi liếm láp vết thương, giúp cậu ấy cầm máu, lòng quặn thắt. Lâu Cát siết chặt tôi vào lòng, dường như cậu ấy hề thấy đau, giọng lạc :

      - Dì hai mưu đồ hãm hại mẹ ta, ngờ người trúng độc lại là cha ta. Chứng cứ ràng, dòng họ định tội, dì hai bị bỏ vào bao tải thả trôi sông, từ đó sống chết ra sao. Em trai thứ hai Rinchen Gyaltsen của ta được giao cho dì ba nuôi dưỡng.

      Bóng chiều dần khuất sau dãy núi phủ tuyết trắng xóa, tia nắng cuối cùng hắt lên gian dáng núi sẫm tối. Nền trời ảm đạm, gió lạnh ào ạt xâm chiếm, giá rét mùa đông thấu buốt tim gan. Tôi sợ khí lạnh từ phiến đá ngấm vào cơ thể khiến cậu ấy ốm nên khẽ gọi tiếng: “Lâu Cát” nhắc nhở cậu ấy về thôi.

      Nhưng Bát Tư Ba hề bận tâm vì cậu ấy vẫn đắm chìm trong những hồi ức bi thương:

      - Năm ta lên tám, tai nạn khủng khiếp xảy ra, mẹ ta và Kháp Na bị ngã từ lầu cao xuống. Khi mọi người phát ra mẹ ta hôn mê bất tỉnh bậc cầu thang. Kháp Na khi ấy mới bốn tuổi, may mắn và kỳ diệu thay, đệ ấy hề bị thương, nhưng đệ ấy nhìn kẻ nào đẩy ngã mình. Mẹ ta bị thương ở đầu, mê man suốt mấy tháng trời, miệng ngừng gọi tên ta và Kháp Na. Trước lúc lâm chung, mẹ đột nhiên trở nên tỉnh táo lạ thường, mẹ giơ tay chỉ thẳng vào dì năm đứng bên giường chăm sóc mẹ, mắt mẹ ngập tràn nỗi phẫn uất. Nhưng mẹ đủ sức để thốt lên dù chỉ lời…

      Cậu ấy thể tiếp được nữa, gục đầu lưng tôi. Những giọt nước mắt ấm nóng thấm vào da thịt tôi, cậu ấy khóc.

      - Mẹ ta qua đời khi chưa đầy bốn mươi tuổi.

      Tôi nhàng liếm khô những giọt nước mắt long lanh của cậu ấy, khẽ hỏi:

      - Là dì năm ư?

      Quả thực là tôi sao hiểu nổi, lẽ nào vì lợi ích của bản thân, họ sẵn sàng nhẫn tâm như vậy?

      Cậu ấy gật đầu, vẻ mặt đau đớn, nghẹn ngào thốt nên lời, lúc lâu sau tâm trạng mới ổn định trở lại, cậu ấy cất giọng run run:

      - Dì năm từ bị cha mẹ bán cho nhà ông bà ngoại ta làm nô lệ. Mẹ ta thương dì ấy nên cho làm người hầu thân thiết, sau này còn mai mối để dì ấy trở thành thê thiếp của cha ta, để rồi sau đó sinh hạ em trai thứ ba của ta, Yeshe Bernas. Ta vốn nghi ngờ chính dì năm gây ra chuyện này, nhưng khi đó ở trường chỉ có mẹ ta và Kháp Na, có chứng cứ, ta thể buộc người đàn bà ấy phải chịu tội.

      Tôi thở dài ảo não.

      - Sau khi mẹ qua đời, ta và Kháp Na trở thành trẻ mồ côi, có ai nương tựa, bởi vậy bác ta mới đưa hai em đến tu viện. Buổi tối, hai em ta ngủ cùng bác. Ban ngày, lúc chúng ta chơi đùa, luôn có đệ tử thân tín của bác theo sát canh chừng. Chúng ta ăn bất cứ món gì, bác và các đệ tử cũng phải đích thân kiểm tra trước. Dù hết sức cẩn trọng nhưng bác vẫn yên tâm. Năm ấy bác ta sáu mươi tuổi, người lo lắng rằng nếu người qua đời, hai em ta gặp nguy hiểm. Thế nên, khi nhận lời mời đến Lương Châu, người quyết định bằng mọi giá phải đưa hai em ta cùng, rời khỏi Sakya, rời xa những người đàn bà độc ác và thế lực của các gia tộc đằng sau họ, như thế mới có thể đảm bảo an toàn cho chúng ta.

      Sakya đầy rẫy những mối nguy hiểm rình rập hai đứa trẻ mồ côi nên đưa họ xa là cách tốt nhất để bảo vệ họ. Thế là năm ấy, Bát Tư Ba mười tuổi dắt díu Kháp Na sáu tuổi cùng người bác đầu bạc bước vào cuộc hành trình gian nan dằng dặc, từ đó rời xa quê hương hai mươi năm.

      - Hồi , ta hiểu tường tận những chuyện này, khi nghe bác ta kể lại ta mới biết vì sao ta và Kháp Na sớm mồ côi cha mẹ, phải rời bỏ quê hương.

      Tôi nghe trong giọng của cậu ấy chất chứa nỗi đơn, ánh mắt lạnh băng, bàn tay nắm chặt tiếp tục nện xuống nền đá thương tiếc, máu đỏ tiếp tục trào ra.

      - Lam Kha, ta giận lắm, giận cha mẹ sớm bỏ em ta mà , chỉ để lại trong ta những ký ức mơ hồ về họ. Ta hận những người đàn bà đầy dã tâm, tìm mọi cách trừ khử em ta. Ta hận bản thân mình đủ sức để bảo vệ em trai.

      Những giọt máu đỏ tươi xuống trảng cỏ khô héo, nhanh chóng kết lại thành những vệt màu ảm đạm. Tôi hốt hoảng kêu lên:

      - Lâu Cát, tay của cậu…

      Cậu ấy cười buồn, ngắt lời tôi:

      - Hận! Đúng, ta hận! ngờ, sau bao năm tu tập thiền định, lồng ngực ta vẫn có thể ắp đầy nỗi căm hận như thế này.

      Mặc cho dòng máu tiếp tục đổ, cậu ấy bật dậy, ánh mắt hút sâu vào khoảng u tối mênh mang, vô tận, khuôn ngực phập phồng:

      - Em có biết dòng họ Khon nhà ta có nghĩa là gì ? Trong tiếng Tạng, Khon có nghĩa là “thù hận”. Dòng họ của ta được sinh ra bởi thù hận.

      Hơn ba trăm năm trước, trong buổi gặp gỡ đầu tiên, ngài Yapang Kye say đắm dung nhan mỹ miều và cốt cách đoan trang hiền thục của nàng Yadruk Silima, vợ Rakshas. Yapang Kye tuyên chiến với Rakshas để giành lấy Yadruk Silima. Sau trận chiến quyết liệt, Yapang Kye giết chết Rakshas, sau đó cưới Simila làm vợ. Simila sinh được người con trai, Yapang Kye đặt tên đứa bé là Khon Bar Kye, có nghĩa là “sinh ra trong thù hận”, ám chỉ mối hận thù truyền kiếp với dòng họ Rakshas. Khon Bar Kye chính là vị thủy tổ của dòng họ Khon. Từ đó, hai chữ “thù hận” trở thành biểu trưng của họ Khon.

      Nghe đến đây, tôi thở dài, nhảy lên vai cậu ấy, ghé sát tai thầm:

      - Lâu Cát, tôi hiểu cảm giác của cậu, vì tôi cũng từng hận bản thân mình yếu đuối, kém cỏi.

      Tôi nheo mắt dõi nhìn khoảng xa tắp, nơi dãy núi điệp trùng mải miết chạy dài, chạm đường chân trời trong hoàng hôn tím tái, những hồi ức đau buồn dội về như thác lũ khiến tim tôi nhói buốt.

      Ba trăm năm trước, cha tôi bị sa vào bẫy của thợ săn, mẹ tôi vắt kiệt sức cũng sao giúp cha tôi thoát ra được. Mẹ đưa chị em chúng tôi về hang động, dặn dò được ra ngoài. Những ngày sau đó, mẹ thường xuyên tha thức ăn đến cho cha, mẹ còn chạy ra tận hồ nước, trữ nước trong miệng, mang về mớm cho cha. Ba ngày sau, gã thợ săn đến tháo bẫy, mẹ theo gã về tận nhà và tận mắt chứng kiến gã lột da, róc thịt cha, cắt thành từng miếng , bỏ vào lò nướng. Trốn trong góc tối mà mẹ như hóa điên, người dùng miệng bứt liên hồi những sợi lông chân trước của mình, máu chảy lênh láng. Sau này, vết thương chân của mẹ mãi mãi
      lành lại.

      Sau khi mẹ qua đời, tôi gặp gã thợ săn ấy, gã quàng cổ bộ lông mềm mịn, bóng mượt của cha tôi. Nửa phần mặt của cha vẫn còn đó, mắt người khép chặt, những sợi lông mi rủ xuống như nước mắt. Tôi nghiến răng kèn kẹt, ước gì có thể nhảy bổ tới, sống chết với gã đó phen cho hả căm hờn. Khoảnh khắc ấy, nỗi hận thù trào dâng trong tôi chắc chắn thua Lâu Cát.

      - Lâu Cát, loài hồ ly chúng tôi là những con vật bé, yếu ớt, chúng tôi phải chống lại vô số động vật to khỏe, hung tợn hơn mình trong rừng và cả loài người luôn thèm muốn bộ lông của chúng tôi. Nhưng dù căm hận bao nhiêu nữa, tôi cũng chẳng thể làm được gì ngoài việc lẩn trốn. Bởi vậy, tôi nỗ lực sống sót và tu luyện phép thuật để bảo vệ bản thân và trả thù cho cha. – Tôi ngừng lại, hồi tưởng chuyện quá khứ, lúc sau mới tiếp tục. – Nực cười thay, khi tôi học được chút ít phép thuật gã thợ săn đó chết được mấy trăm năm rồi.

      Tôi thở dài ảo não, đứng vai Bát Tư Ba, ngước nhìn bầu trời về đêm mịn như nhung:

      - Bởi vậy, Lâu Cát à, thời gian chính là liều thuốc hữu hiệu giúp người ta hóa giải hận thù. gì có thể địch nổi thời gian.

      Trải qua ba trăm năm, chứng kiến biết bao cuộc sinh tử, từ lâu tôi biết cần phải rộng lượng, sống đơn giản và xem mọi .

      Cậu ấy , chỉ dõi nhìn trung. Gió đêm ào ạt thổi vạt áo thầy tu của cậu ấy tung bay phần phật. Cả con người cậu ấy như quyện trong bóng đêm mịt mù vô định.

      r

      Chàng trai trẻ đăm chiêu giây lát rồi quay sang hỏi tôi:

      - Vì sao phái Sakya áp dụng chế độ “Phật sống chuyển thế” mà kiên trì phương thức trao quyền kế thừa cho các thế hệ của chỉ dòng họ?

      - Vào thời gian đó, chế độ “Phật sống chuyển thế” mới xuất ở đất Tạng. Khi ấy, các giáo phái lớn vẫn áp dụng phương thức kế tục: sư phụ truyền lại cho đệ tử. Nhược điểm của phương thức này là khi số lượng đệ tử của giáo phái tăng lên, nảy sinh cuộc tranh giành giữa các hệ phái. Giáo phái Kagyu chính là ví dụ điển hình. Giáo phái này bị phân tán thành rất nhiều chi phái , bởi vậy sức mạnh của giáo phải cũng mỏng dần.

      Tôi chợt nhớ đến vị Phật sống đầu tiên của giáo phái Karma Kagyu, ngài Karmapa, người sau này có mối quan hệ nhất định với Bát Tư Ba, trong lòng bỗng chộn rộn niềm vui nho , tôi mỉm cười:

      - Từ buổi đầu được sáng lập, giáo phái Sakya gắn kết với dòng họ Khon thành thể thống nhất, thể tách rời, và quy luật sau được định hình từ lâu: lãnh tụ của giáo phái nhất định phải được lựa chọn từ các thành viên của dòng họ Khon, thế nên cần thiết phải lựa chọn “Phật sống chuyển thế” để kế tục.

      - Vì vậy, đối với dòng họ Khon càng ngày càng neo người, việc bảo đảm dòng họ luôn có đủ người kế tục nghiệp lãnh đạo giáo phái trở thành trách nhiệm nặng nề của toàn gia tộc.

      Chàng trai trẻ nhắm mắt lại, như để hồi sức, rồi lại thở dài:

      - Thế nhưng chế độ kế tục này cũng gây ra những tranh chấp quyền lợi khốc liệt kém. Cha mẹ của Bát Tư Ba là những nạn nhân của chế độ này.

      - Bánh xe số phận cuốn người ta theo, cho ai quyền lựa chọn, Kháp Na sau này cũng vậy…

      Nhớ đến Kháp Na, lòng tôi quặn thắt, tưởng như thở nổi. Tôi mệt mỏi đổ người bên lò sưởi, nhắm nghiền mắt lại, chờ đợi cơn đau dần nguôi ngoai.

      - dòng họ được sinh ra từ thù hận, điều này quả là rất đặc biệt. – Chàng trai trẻ hay biết về những xúc cảm bất thường xâm chiếm tim tôi, cứ mải mê than thở. – Nhưng là quá nặng nề khi đặt toàn bộ tương lai của dòng họ lên vai hai đứa trẻ mới chục tuổi đầu…


    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :