1. QUY ĐỊNH BOX TRUYỆN SƯU TẦM :

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]
    ----•Nội dung cần:
    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)
    - Nguồn
    - Tác giả
    - Tên editor +beta
    - Thể loại
    - Số chương
    Đặc biệt chọn canh giữa cho đoạn giới thiệu
    ---- Quy định :
    1. Chỉ đăng những truyện đã có ebook và đã được public trên các trang web khác
    2 . Chỉ nên post truyện đã hoàn đã có eBook.
    3. Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn
    4 . Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Hiệp sĩ Sante Hermine - Alexandre Dumas (122 chương)

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây (Sưu Tầm)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 38: Chateaubriand


      Nước Pháp thay đổi rất nhiều kể từ khi kẻ lữ khách rời xa nó, có rất nhiều kiện mới và nhất là rất nhiều nhân vật mới. Họ là Bamave, Danton, Robespiene còn cả Marat nữa nhưng kẻ này phải là người mà là con thú hung tợn. Mirabeau cũng qua đời.

      Bất cứ ai, nhà quý tộc của chúng ta cũng đều tiếp tục, ông lần lượt gặp những con người tuy thuộc về các đảng khác nhau nhưng cuối cùng đều thuộc về cùng cỗ máy chém.
      Ông đến thăm phái Jacobin, câu lạc bộ quý tộc, câu lạc bộ các nhà văn, nhà nghệ thuật những con người đúng kiểu đều phần lớn ở đó, thậm chí cả các đại quý ông như La Fayette, hai em Lameth, Laharpe, Chamfort, Andrieux, Sedaine, Chémer đến đọc thơ tại đó đó là nhưng vần thơ đương thời. Nhưng rốt cuộc, họ cũng chẳng thể cắt nghĩa được mình ở thời nào. David tiến hành cuộc cách mạng trong hội hoạ, Talma lại làm cách mạng hí kịch: Có người suốt ngày giam mình trong phòng làm việc cách thức của ông vô cùng hào hiệp nhưng tính khí lại hơi u uất, đó là tác giả của Những mối quan hệ nguy hiểm, hiệp sĩ Laclos.
      - Tại sao Crébilon con lại chết? Ông ta là tổng thống hoặc chí ít cũng phải là phó tổng thống. con người thuộc về bục diễn thuyết với giọng nhàng, thân hình gầy guộc, nét mặt buồn bã, mặc đồ đơn giản mất tóc muối tiêu. Đó là Rosbespiene, vào ngày bất cẩn trượt vào vết máu của Danton.
      Chateaubriand còn thăm câu lạc bộ chính trị Cordeliers được thành lập vào thời cách mạng Pháp năm 1790 tại Paris. Ông ngạc nhiên trước kiểu nhà thờ trở thành câu lạc bộ chính trị ấy!
      Saint-Louis (cũng thuộc phe Cordeliers) xây dựng nhà thờ sau cuộc đảo chính. Có đại đức ông ngài Coucy mắc tội toà án Vincenns bắt ông ta nộp phạt và khoản tiền này dùng để xây trường học và nhà thờ cho phái ấy.
      Khi Đức vua Jean bị tống giam ở Poitiers, tầng lớp quý tộc mất đầu bị đánh bại và bị cầm tù cùng nhà vua. con người nhân danh cả dân tộc chiếm quyền từ tay triều đình và đặt tổng hành dinh trong lòng Cordeliers. Đó là Etienne Marcel, thái thú Paris.
      "Nếu các đức ông gây chiến - Etienne Marcel - những con người của lẽ phải tấn công lại họ. Dẫu sao các nhà tu phe Cordeliers cũng là những nhà tiền nhiệm xứng đáng với nhau người cách mạng sau tiếp quản nhà thờ của họ. Từ lâu, trước Babey, họ "Tư hữu là tội trước toàn dân". Trước Proudhon, họ "Tư hữu là ăn cắp". Họ ủng hộ châm ngôn của mình bởi lẽ họ thà đốt cháy bộ quần áo rách hơn là để nó cứ mãi như vậy thay đổi gì.
      Nếu như phái Jacobin là quý tộc những người Cordelies là nhân dân, nhân đần Paris năng nổ, bạo lực, quậy phá, nhân dân được đại diện bởi các nhà văn thích của họ, bởi Marat với xưởng in trong hầm giáo đường, bởi Desmoulins, Fréron, Fabre-d Eglantine, Anacharsis? Goots, bởi các nhà diễn giả Danton và Legendre, hai tay đồ tể mà trong hai biến các nhà ngục Paris thành lò mổ.
      Cordeliers là tổ ong và đám ong mật bu đầy xung quanh: Marat ngay đối diện Desmoulins, Fréron phố Vieille Commédie, Danton ở cách đó năm chục bước, Cloots phố Jacob, Legendre phố Boachenes, Saint-Germain.

      Chateaubriand nhìn và nghe tất cả những con người này. Họ làm ông thấy sợ ông quyết định thăm các nhà quý tộc ở nước ngoài những may lại có hai từ cản trở quyết định ấy: thiếu tiền. Phu nhân Chateaubriand có của hồi môn chỉ là những tín phiếu mà tín phiếu lại mất giá trước cả tiền mặt. Cuối cùng ông cũng tìm được công chứng viên còn tiền. Ông này cho nhà thơ vay mười hai nghìn phăng, quý ngài Chateaubriand cho tiền vào ví rồi nhét vào túi. Mười hai nghìn này là cuộc sống của ông và trai ông.

      Nhưng hành tại nhân, thành tại thiên, kẻ chuẩn bị di trú lại gặp người bạn và khoe mình có mười hai nghìn phăng.
      Người bạn này lại là tay bài bạc, thế là ngài Chateaubriand bị rủ vào sòng bạc ở Palais Royal rồi để thua mười nghìn năm trăm phăng trong số mười hai nghìn ấy.
      may ông còn nghĩ lại. Ông cho nghìn rưởi còn lại vào ví vội vã rời khỏi toà nhà nguyền rủa, trèo lên chiếc xe đến hẻm Ferou, trở về nhà tìm ví nhưng thấy đâu. Nó rơi ra xe, ông vội vã chạy xuống phố chiếc xe khuất.
      Ông chạy đuổi theo đám trẻ nhìn thấy xe đón thêm khách may có cảnh sát giết người đánh xe nên cho ông địa chỉ nhà ông này.
      Ngài Chateaubriand chờ ở cửa nhà ông ta đến hai giờ sáng người đánh xe mới về. Người ta tìm trong xe nhưng chiếc ví còn. Từ lúc ngài Chateaubriand xuống xe, ông đánh xe đón thêm ba lính và tu sĩ. Ông ta biết ba người lính ở đâu nhưng biết chỗ tu sĩ.
      Ba giờ sáng, người ta thể đánh thức con người đáng kính ấy Ngài Chateaubriand đành trở về nhà mệt rã rời.
      Ngày hôm sau, vị tu sĩ đánh thức ông dậy và trả chiếc ví cùng nghìn năm trăm phăng. Ngày hôm sau nữa, ngài Chateaubriand Bruxelles với trai cả và lính hầu. chàng hầu này ăn mặc như họ và cư xử với họ như bạn bè.
      Tên lính hầu khốn kiếp ấy có ba tật, thứ nhất là quá tôn kính chủ nhân, thứ hai lại quá thô tục và thứ ba là lúc nào cũng tưởng tượng chính vì hay tưởng tượng mà lúc nào cũng sợ bị bắt và lúc nào cũng chỉ muốn nhảy ra khỏi xe. Đêm đầu tiên, hai em phải khó nhọc mới giữ nổi . Nhưng đêm thứ hai họ mở tung cửa cho tên hầu khốn kiếp nhảy ra, tiếp tục giấc mơ. Khi thức, chạy mạch ra cánh đồng. Hai em Chateaubriand tưởng thoát được nhưng năm sau, do tố cáo của mà người cả của Chateaubriand phải mất mạng.

      Cuối cùng, hai em cũng đến được Bruxelles. Bruxelles là nơi gặp mặt của các nhà vua chúa. Từ Bruxelles đến Paris chỉ mất năm ngày. Người ta vô cùng ngạc nhiên khi thấy hai em họ đến đây thay vì đợi ở Paris. Bởi lẽ cần rời Paris vì người ta cũng sắp tiến về đó: Chính vì thế mà chẳng còn chỗ cho người mới đế, thậm chí với Navane nơi trước kia ông từng làm trung uý.
      Các chiến hữu Bretagne, nhưng người Franche ít kênh kiệu hơn ngài Navane. Họ dành cho ông chỗ trong hàng ngũ của họ. Chúng ta cũng có thể thấy, ngài Chateaubriand phải dành cho con đường binh nghiệp từng được thăng cấp thiếu tá, được xe tứ mã vào cung bây giờ ông lại bộ đến Thionville như lính quèn.

      Rời Bruxelles, ngài Chateaubriand gặp ngài Montrond. Hai con người này vốn cũng chung cảnh ngộ với nhau.
      - Ngài từ đâu đến? - Chàng lính thành thị hỏi.
      - Từ Niagara, thưa ngài.
      - Ngài đến đâu?
      - Đến nơi người ta đánh nhau.
      Cả hai chào nhau rồi ai đường người ấy, tiếp được hai dặm, ngài Chateaubriand gặp người cưỡi ngựa.
      - đâu? - Kỵ sĩ hỏi.
      - Tôi đánh nhau. - Kẻ bộ đáp.
      - Người ta gọi là gì?
      - Ngài Chateaubriand. Còn ngài?
      - Ngài Frédenc-Guillaume.
      Người đàn ông cưỡi ngựa chính là vua nước Phổ, ông ra xa và :
      - Tôi nhận ra ngay ai là quý tộc nước Pháp mà.
      Ngài Chateaubriand đến Thionville như thể ông tìm hành lang Tây Bắc, thấy hành lang, ông thể đến Thionville, chỉ có điều ngay cuộc đụng độ đầu tiên, ông bị gãy tay, lần thứ hai bị thương ở chân do thanh xà bốc cháy.
      Cùng lúc Chateaubriand bị thương ở chân, chỉ huy tiểu đoàn trẻ tuổi có tên là Napoléon Bonaparte cũng bị lưỡi lê đâm vào đùi trong trận Toulon.
      viên đạn cũng có thể sát hại nhà quý tộc của chúng ta nhưng nó lại vấp phải tập bản thảo viết tay Atala nên bị chặn bớt.
      Hoạ vô đơn chí, ngoài các xúi quẩy ông còn bị tai hoạ nghiêm trọng hơn là bị lạc đường.
      Đến Namur, chàng trai lưu vong qua đường trong cơn sốt run lẩy bẩy, phụ nữ nghèo quàng cho chàng chiếc chăn thủng lỗ chỗ. Đó là chiếc chăn duy nhất chị ta có. Nhà thờ Saint-Martin bị đại pháo phá hỏng cũng chỉ góp cho Chateaubriand nửa chiếc áo măng tô.
      Ra khỏi thành phố Namur, ngài Chateaubriand rơi vào cái hố. toán tháp tùng hoàng tử Ligne ngang qua. Người ta thấy cái thi thể còn run rẩy nên thương tình đặt lên xe đưa về Bruxelles.
      Người Bỉ rất giỏi phân tích quá khứ nhưng lại được trời phú cho khả năng bói tương lai. Họ dự đoán được ngày việc đọc lại tác phẩm của chàng trai trẻ này cũng khiến khối kẻ giàu có. Người Bỉ đóng sập cửa trước kẻ thương tật khốn cùng ấy. Kiệt sức, ông ngủ ngay ngưỡng cửa nhà trọ và chờ đợi. Đoàn người của hoàng tử Ligne qua ông chỉ hy vọng vào vận may mà thôi. Hy vọng khi chết cũng tốt chứ sao. Và trời triệt đường sống của ai, người gởi trai của ông đến.
      Hai em nhận ra nhau ngay và ôm chặt lấy nhau, ngài Chateaubriand giàu có. Ông có nghìn hai trăm phăng trong người. Ông cho em sáu trăm. Ông muốn mang em theo nhưng may, nhà thơ của chúng ta quá yếu theo nổi.
      Ông đến nhà thờ cao ở nhờ cho lại sức còn trai của ông lên đường về Pháp nơi cỗ máy chém đợi ông.
      Sau thời gian dài chữa trị, Chateaubriand Jersey. Từ Jersey, ông định sang . Mệt mỏi với cuộc sống di cư, ông muốn tham gia vào cuộc nổi dậy của miền Vendée ông thuê chiếc tàu , khoảng hai chục người cùng cho đỡ tốn kém, gặp sóng lớn, họ phải chui xuống khoang chịu cảnh ngột ngạt đến nghẹn thở. Tàu chao đảo khiến họ lắc lư, người nọ đè vào người kia. Đến Guemesey, khi được thả, ta thấy ông ngất , gần như tắt thở.

      Họ cho ông xuống, đặt dựa vào bức tường quay về phía mặt trời cho òng trút hơi thở cuối cùng. Vợ thuỷ thủ ngang qua, gọi chồng đến cứu. Nhờ ba bốn người, ông được đặt chiếc giường êm ái. Ngày hôm sau, ông lên tàu đánh cá Ostende.
      Đến Jersey, ông ngất ngây sung sướng.
      Phải đến mùa xuân năm 1793, bệnh nhân mới thấy mình khoẻ trở lại để tiếp tục con đường của mình. Ông sang nước với hy vọng gia nhập vào đội cờ trắng nào đó. Nhưng đến nơi, thay vì tiếp tục đánh trận, ngực của ông lại có vấn đề các bác sĩ ra lệnh cho ông phải nghỉ ngơi tuyệt đối và tuyên bố rằng nếu cẩn thận giữ gìn ông cũng sống qua hai hay ba năm. Chuẩn đoán này giống với chuẩn đoán về tác giả của tập La Pucelle. Có lẽ Đức Chúa lại lần nữa để các bác sĩ nhầm với tác giả của tập Thần đồng đạo Cơ đốc.
      Bác sĩ cấm Chateaubriand cầm súng ông cầm bút. Ông viết tác phẩm Essais và bắt đầu phác thảo tập Thần đồng đạo Cơ đốc. Sau đó, vì hai kiệt tác này quá đối lập về tư tưởng, dù ông phải chết đói, song vào những khoảng thời gian rỗi rãi, ông vẫn dịch sách lấy tiền, cuộc chiến đấu ấy kéo dài trong nhưng năm 1794 và 1795.
      Thời điểm ấy cũng có người nằm chờ. Đó là chỉ huy trẻ chiếm được Toulon, ngài chủ tịch uỷ ban chiến tranh truất quyền chỉ huy đội pháo binh của ông ta về Paris, ông cũng từ chối chỉ huy đội quân ở Vendée. Và trong lúc Chateaubriand dịch sách, chàng trai cũng cầm bút ghi lại cách thức giúp Thổ Nhĩ Kỳ có thêm sức mạnh chống lại xâm lăng của các nền quân chủ châu Âu.
      Đầu tháng chín, chàng chỉ huy trẻ tuổi đến đường cùng, quyết định trẫm mình xuống dòng sông Seme. Khi đến cây cầu chàng đó gặp người bạn.
      - đâu vậy? - Người bạn hỏi.
      - Tôi trẫm mình.
      - Tại sao?
      - Vì tôi còn xu nào?
      - Tôi có hai mươi nghìn phăng. Chúng ta hãy chia đôi nhé.
      Và người bạn đưa cho chàng sĩ quan trẻ tuổi mười ngàn khiến ta tự tử nữa. Ngày 4 tháng Mười, chàng sĩ quan đến nhà hát kịch Feydo và được biết quân đội Lepeller đẩy lùi quân của Phe quốc ước do tướng Menou chỉ huy, người ta tìm tướng khác để sửa chữa thất bại đó.
      Năm giờ sáng hôm sau, tướng Alexandre Dumas nhận lệnh từ chinh quyền Quốc ước chỉ huy lực lượng vũ trang đó. Nhưng tướng Alexandre Dumas có mặt tại Paris nên Marat thay thế ông, nhận lệnh đến thay cựu chỉ huy tiểu đoàn của Bonaparte.
      Ngày tháng Mười cũng là cuộ cnổi dậy 13 Vendémiaire.
      Napoléon Bonaparte ra khỏi bóng tối bằng chiến thắng lẫy lừng còn Chateaubriand sắp thoát khỏi bóng đen của ông bằng kiệt tác. Hẳn là ngày diễn ra cuộc nổi dậy 13 Vendémiaire thu hút chú ý của nhà văn tới ông tướng. Đến lượt xuất tập Thần đồng đạo Cơ đốc cũng khiến ông tưởng Bonaparte để mắt đến nhà thơ.
      Bonaparte bắt đầu có dự cảm chống lại ngài Chateaubriand. hôm thư ký Boumerine ngạc nhiên trước việc cái tên nổi tiếng và xứng đáng như vậy lại có trong danh sách đề bạt.
      - phải là người đầu tiên với tôi điều này, Boumerine ạ - Bonaparte trả lời - Nhưng tôi giải thích khiến họ cãi vào đâu được. Con người này có những tư tưởng độc lập và tự do bao giờ đồng điệu với tư tưởng của tôi. Tôi thà coi ông ta là kẻ thù ra mặt hơn là người bạn bị ép buộc, vả lại, tôi còn xem xét, ban đầu, tôi cố dành cho ông ta vị trí tạm thời nếu ông ta thích hợp, tôi cất nhắc.
      Với những lời lẽ ấy, ràng tướng quân Bonaparte chưa hề nghĩ đến giá trị đích thực của Chateaubriand. Nhưng ngay sau đó, việc xuất bản tập Atala khiến tên tuổi của ông nổi đình nổi đám và ngay lập tức khiến ngài Tổng tài thứ nhất phát ghen vì mọi chú ý dồn về ông.
      Tập Thần đồng đạo Cơ đốc ra đời ngay sau tập Atala mà ngài Bonaparte tìm được chỗ dựa lớn. Cuốn sách tạo nhiều cảm giác mạnh đồng thời giá trị cao cả của nó khiến các nhà tư tưởng thêm quan tâm đến các triết lý tôn giáo.
      hôm, phu nhân Baciocchi đến gặp mình và cầm tập sách tay.
      - đọc cái này , Napoléon. Em chắc hài lòng.
      Tướng quân Bonaparte lơ đễnh liếc nhìn nó. Đó là tập Atala.
      - Lại tiểu thuyết toàn chữ "A" đây. Tôi có nhiều thời gian để đọc những thứ ngớ ngẩn này.
      Tuy nhiên, ông vẫn cầm cuốn sách từ tay em đặt lên bàn.
      Thế là phu nhân Baciocchi cầu ông gạch tên Chateaubriand ra khỏi danh sách những kẻ đảo vong.
      - ra Atala của ngài Chateaubriand đó sao!
      - Vâng, thưa .
      - Được rồi, tôi đọc nổ để giết thời gian nếu có - Rồi ông quay sang phía thư ký của mình - Báo cho Fouché gạch tên Chateaubriand ra khỏi danh sách những người đảo vong nhé.
      Tôi là ngài Bonaparte ít văn vẻ và ít quan tâm đến văn chương. Người ta có thể thấy điều đó vì ông biết chính Chateaubriand là tác giả tập Atala.
      Ngài Tổng tài thứ nhất đọc cuốn Atala và hài lòng. Ít lâu sau, ngài Chateaubriand lại xuất bản tập Thần đồng đạo Cơ đốc, khi ấy Bonaparte lại lấy lại toàn bộ ác cảm chống lại nhà thơ.
      Lần ngài Bonaparte gặp Chateaubriand đầu tiên là lễ ký hôn ước giữa tiểu thư Sourdis với Hector de Sainte-Hermine. Tối hôm ấy ngài Bonaparte định chuyện với ông những buổi tối chấm dứt quá chóng vánh nên ông trở về Tuileries ngay mà chẳng hề nghĩ đến Chateaubriand nữa.
      Lần thứ hai là buổi dạ hội tráng lệ nhà ngài Talleyrand đón chào hoàng tử Parne trong chặng đường ông hoàng này lấy lại ngai vàng xứ Etruine, chúng ta hãy để tự ngài Chateaubriand cho hay cuộc tiếp xúc đó và cảm giác của ông.
      "Tôi ở ngoài hành lang ngài Napoléon bước vào. Ngài vỗ vào tôi nhàng. Tôi từng nhìn thấy ông ấy lần nhưng chưa chuyện lần nào. Nụ cười của ông dịu dàng và đẹp, mắt ông đặc biệt nhất là dưới vầng trán và đôi lông mày ấy hề có chút giả tạo, đóng kịch trong cái nhìn của ông. Tác phẩm Thần đồng đạo Cơ đốc nổi như cồn vào thời đó cũng có tác động đến ngài Bonaparte. Sức tưởng tượng bay bổng làm nền chính trị lạnh lùng như sống động hơn. Tất cả những con người vĩ đại luôn giấu chứa trong mình hai phần đó là khả năng cảm hứng và khả năng hành động. nửa để phôi thai kế hoạch còn nửa kia dùng để hoàn tất kế hoạch ấy”.
      Ngài Bonaparte nhìn thấy và nhận ra tôi, còn tôi chưa biết chuyện gì cả. Khi ông ấy về phía tôi, mọi người biết ông tìm ai nên dẹp lối sang hai bên cách chậm chạp, ai cũng muốn ngài dừng lại với mình, ông có vẻ hơi sốt ruột về lề mề ấy. Tôi lẩn vào sau mấy người bạn đột nhiên ông cất giọng gọi tôi:
      - Ngài Chateaubriand!
      Vậy là tôi trở ra, đám đông lui hết phía sau nhưng họ cũng nhanh chóng quây lấy chúng tôi. Ngài Bonaparte tiếp tôi cách bình thường khen ngợi, hỏi han tào lao, vòng vo với tôi về các trận chiến ở Ai Cập và A Rập như thể tôi là chỗ thân thiết và nhừ thể ông tiếp câu chuyện còn dang dở giữa chúng tôi vậy.
      - Lúc nào tôi cũng bị sốc - ông ấy kể - Khi thấy những đoàn người quỳ gối xuống giữa sa mạc, quay đầu về phương Đông và đưa cát lên trán. Tôi hiểu có gì trong hành động lạ lùng ấy khiến cho họ phải quay về phía Đông? Bonaparte dừng lại rồi chuyển sang ý khác cần câu chuyện tiếp theo.
      - Đạo Cơ đốc! Những kẻ tưởng chẳng phải muốn lấy đó lập ra hệ chiêm tinh đó ư? Nếu làm được, họ nghĩ có thuyết phục tôi cho rằng đạo Cơ đốc là bé ? Nếu đạo Cơ đốc là minh hoạ cho di chuyển của các hành tinh, hình ảnh các vì sao các bộ óc tầm cỡ cũng mất công vô ích, dù muốn nhưng xem ra họ còn phải mất nhiều tâm huyết cho bêu riêu ấy.
      Ngài Bonaparte rời ngay tức khác. Giống như Job, trong màn đêm của mình, suy nghĩ vụt qua trước mắt tôi, tôi sởn gai ốc rợn người, ông vừa ở đó mà tôi nhận ra khuôn mặt ông nữa, giọng của ông cũng như cơn gió thoảng qua.
      Những ngây tháng tiếp theo của tôi là những hình ảnh nối tiếp nhau, địa ngục và bầu trời luân chuyển, hữu trước mỗi bước chân hay ngay trong đầu mà tôi kịp nhận ra bóng tối và ánh sáng của chúng nữa. Tôi chỉ lần gặp đường ranh giới của hai thế giới, con người của thế kỷ trước và con người của thế kỷ mới, Washington và Napoléon. Tôi chỉ gặp họ trong chốc lát nhưng cả hai đều khiến tôi thấy lạc lõng, người thứ nhất bằng lời Chúa nhân từ và người thứ hai bằng tội ác.
      Tôi nhận ra trong lúc khuất dần trong đám đông, ngài Bonaparte còn xoáy vào tôi cái nhìn sâu hơn hết thảy những ánh mắt khác nhìn vào tôi. Tôi nhìn theo ông ấy và như Dante với tôi: Chi è quel grande, che non per che curi. L incendio? (Kẻ sợ lửa ấy là ai?)
      Cái nhìn xoáy vào Chateaubriand của Napoléon Bonaparte cũng có gì lạ vì vào thời điểm ấy chỉ có hai người ấy có tên tuổi đạt đến độ cao tột đỉnh: Chateaubriand với tư cách là thi sĩ, Bonaparte là nhà chính khách.
      Người ta bước qua biết cơ man nào là những đống đổ nát song cái bị huỷ hoại nhất, giẫm đạp nhiều nhất, bị nghiền nát thành tro bụi trong số những thứ bị phá huỷ lại là tôn giáo.
      Các phong trào cách mạng, trước cho ta cắt dây chuông, hất đổ các điện thờ, đập phá tượng xiết cổ những tu sĩ. Những kẻ vô lại mạo danh thần thánh mọc lên nhan nhản, những tên dị giáo lan nhanh như đất cỏ khô dưới chân. Người ta biến nhà thờ Saint-Sulpice thành đền Chiến Thắng và nhà thờ Notre Dam thành đền Lý Trí. Ngoài ra, có điện thờ nào ngoài máy chém, chẳng có bục thờ nào ngoài roi sắt. Ngay cả những nhà tư tưởng lớn cũng phải lắc đầu, chẳng còn tâm hồn lớn nào còn manh nha hy vọng.
      Chính vì thế, người ta khao khát phần đầu của tác phẩm Thần đồng đạo Cơ đốc như thể khát khao làn gió trong lành đầu tiên thổi đến miền bệnh dịch, như thể hương nồng sống xộc đến vùng chướng khí chết chóc.
      ra, đó phải là thứ an ủi. Trong thời điểm mà dân tộc gào thét trước cánh cửa nhà tù đẫm máu, nhảy múa quảng trường cách mạng, quanh cỗ máy chém hoạt động liên tục và hét lên: " còn tôn giáo nữa, còn chúa nữa!" liệu đó có phải là điều an ủi được khi có người đàn ông lạc giữa đêm thanh khiết giữa những cánh rừng nguyên sinh châu Mỹ, ngủ tấm thảm rêu, gối đầu lên thân cây cổ thụ vòng tay lên ngực, mắt hướng về mặt trăng nơi chiếu thứ ánh sáng làm cho mặt đất tiếp xúc với bầu trời, mà thầm những câu sau:
      "Chúa vẫn còn đó! Cỏ cây trong thung lũng và những cây thông hương Liban ban phúc cho người, côn trùng ngợi ca người, khi mặt trời thức dậy, voi hổ cúi chào người, chim chóc hát trong lá, gió thào trong cánh rừng sấm sét rền vang trước diện của người.
      Chỉ có con người mới : còn Chúa nữa!
      Vậy là chằng còn ai khi gặp bất hạnh của mình ngước mắt nhìn trời ư? Chắc hẳn ánh mắt của họ chưa bao giờ được lang thang trong những miền còn bị che phủ ấy. Với tôi, tôi thấyn nhiều, tôi thấy mặt trời treo lơ lửng trước cửa buồng ngủ tấm thảm đỏ tía loang sắc vàng, thấy ánh trăng ở chân trời đối diện nhô lên như cái đến bạc nền trời xanh lơ phương Đông.
      Hai tinh tú ấy hoà vào bầu trời trắng chói loà và đỏ như son, và vì thế biển nhuốm màu bằng những cuộn sóng kim cương phía đông và sóng hồng phía tây. Những con sóng yên ả, mềm mại xô vào chân tôi tĩnh lặng đầu tiên của bóng đêm và tiếng xì xào cuối cùng của ban ngày như rượt đuổi nhau sườn đồi, bên bờ sông lớn và trong các thung lũng.
      Ôi Chúa, người mà con quen, biết tên tuổi, người vô hình kiên trúc sư của vũ trụ này, người cho con bản năng để cảm nhận, người từ chối lý lẽ để hiểu tất cả.
      Liệu người có phải là nhân vật tưởng tượng? Tâm hồn của con có tan ra cùng phần tro tàn thi thể của con? Nấm mồ chôn con là vực thẳm lối thoát hay là cánh cửa mở ra thế giới khác? Liệu có phải thiên nhiên bằng lòng thương ác độc đặt vào tim con nguồn hy vọng về cuộc sống tốt đẹp hơn bên cành những kẻ khốn khổ?
      Xin Người thứ tha cho con về yếu đuối của con. , con hề nghi ngờ tồn tại của Người và dù người có ban cho con số phận bất tử hay còn phải sống rồi thác, con vẫn tôn thờ mệnh lệnh im lặng của Người".
      Người ta có thể hiểu dòng văn ấy có ảnh hưởng như thế nào, sau những lời nguyền rủa của Diderot, sau bản diễn văn của La Revellière-Lépeux và những trang viết sùi bọt mép và máu me của Marat.
      Chính Bonaparte, người từng cúi nhìn vực thẳm cách mạng, nơi ông chưa dám quay , dừng lại trước trang viết của thiên thần cứu rỗi ấy, nó như vẽ ra trong đêm hư vô hồn mang vệt sáng, và nếu ông cho chuyện đức giáo hoàng Fesch đến Rome, ông lại cho vời đại thi hào đến bên người, con đại bàng thay thế con chim bồ câu và giống như chim bồ câu, con đại bàng này lãnh trách nhiệm tìm cành ô liu cho Đức Thánh Cha.
      Nhưng bổ nhiệm Chateaubriand làm thư ký đại sứ quán chưa đủ còn phải chờ xem ông ta có chấp nhận hay .

    2. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 39: Đại sứ thành Rome


      Ngài Bonaparte rất tán dương buổi gặp Chateaubriand.
      Về phần mình, nhà thơ kể lại trong tập Hồi ký rằng những câu hỏi của Bonaparte nối tiếp nhau nhanh đến mức ông kịp trả lời.
      Đó là những lần gặp mà ngài Bonaparte thích thú, những cuộc gặp mà chỉ có mình ông chủ trì cần biết Chateaubriand có đồng ý hay . Trong nháy mắt, ông xác định ngay địa điểm ở đâu và người này có thể có lợi cho ông ra sao. Ông cho rằng cái đầu luôn "biết cần phải học".
      vĩ đại thay nhà phát con người như Bonaparte. Nhưng ông muốn tài năng của những con người do ông tìm ra chỉ thuộc về mình ông mà thôi. con ruồi bay cho phép của ông kẻ khác đó là con ruồi phản nghịch.
      Nhưng Chateaubriand luôn chỉ tâm niệm trở thành ai đó và trở thành người vĩ đại chứ nghĩ đến việc trở thành cái gì đó nên ông từ chối thẳng thừng.
      Đức giám mục Émery có nghe đến việc từ chối này. Cha Émery là giám mục bề toà thành Saint-Sulpice vốn có tư tưởng thân Bonaparte. Ông đến khuyên Chateaubriand chấp nhận chức bí thư đại sứ quán mà Bonaparte mời vì lợi ích của tôn giáo.
      Ban đầu, cha Émery cũng thất bại, nhưng do thuyết phục nhiều, cuối cùng Chateaubriand cũng chấp nhận.

      Mọi chuẩn bị của ông hoàn tất, Chateaubriand chuẩn bị lên đường làm thư ký đại sứ quán tại Rome. Theo thông lệ, những đại sứ thường bắt đầu con đường nghiệp của mình, từ những thành phố lâu đời nhưng Chateaubriand lại bắt đầu nghiệp của ông từ những rừng già châu Mỹ, lịch trường cho các nền văn minh tương lai.
      có gì mỹ lệ hơn chuyến được kể lại bằng giọng văn về đạo Cơ đốc mà chỉ tác giả mới có. văn phong vừa tráng lệ lẫn lạ lùng tạo thành trường phái mà sau này Arlincourt là học trò và sáng tác nhiều tác phẩm. Song điều làm lên sức mạnh lớn lao của Chateaubriand mà những người bắt chước ông có được đó chính là hoà quyện giữa các đơn giản và cái vĩ đại.

      Lần qua đồng bằng Lombardie, ông tạo nên nguyên mẫu về phong cách mà đâu có được ấy. Đó là bức tranh về những người lính Pháp ở nước ngoài. Người nước ngoài vừa vừa ghét chúng ta khi những người lính này qua.
      "Quân đội Pháp được dựng lên ở Lombardie như doanh trại quân . Đây đó có vài người lính canh lại, những con người này đội chiếc mũ quân cảnh, lưng đeo gươm có hình như lược hai bên ngoài áo khoác khiến họ có vẻ là những thợ gặt bận rộn và vui vẻ. Họ ném đá, đẩy đại bác, lái xe thồ, nâng các thùng hàng. Những con ngựa nhảy choi choi, lồng lên trong bầy hoặc thủng thằng như những con chó dụi người vào chủ của chúng. Những người Italie bán hoa quả sạp hàng của mình ở chỗ giữa đám lính. Những người lính mang đến tẩu, quẹt lựa làm quà tặng cho họ và với người thương của họ giống như những người Barbare từng : là Fotlad, con trai ông Eupe, dân tộc France, nghiêng mình bên sắc đẹp của em, trân trọng trao cho em ngôi nhà ở phố Pins.
      Quân nhân của chúng ta là những kẻ thù đặc biệt: ban đầu người ta thấy chúng ta hơi cao ngạo rồi hơi vui tính rồi quá vui nhộn. Những người lính năng nổ, thông minh, trí tuệ dần dần trở thành chỗ thân quen nơi dân cư họ sống. Họ múc nước từ giếng lên, săn, lùa cừu vào chuồng, bế các em bé hay ru chúng ngủ trong nôi. Tính khí hoà nhã và các công việc thường ngày giúp họ thêm gần gũi, người ta quen dần việc nhìn nhận họ như thành viên trong gia đình. Trống hành quân vang lên ư? Họ lại rời các mái tranh để các thiếu nữ chủ nhà khóc thút thít bên cánh cửa và họ nghiên các mái nhà ấy cho đến khi họ bước vào Viện Quân Nhân danh dự đến Milan, thành phố đông dân cư thức giấc, nước Italie vừa ra khỏi cơn mê và nhớ lại về lãnh tụ thiên tài của mình như giấc mơ thần thánh. Nước Áo từng đến, nó khoác lên người Italie tâm áo chì, buộc họ trở vào quan tài, thành Rome rơi vào đổ nát còn Venice chìm dưới biển. Venice tô điểm bầu trời bằng nụ cười hắt hiu cuối cùng của nó. Nó ngủ giấc êm ái dưới các lớp sóng như vì tinh tú bao giờ thức dậy".

      Tối ngày 27 tháng Sáu, Chateaubriand đến Rome. Đó là hai hôm trước ngày lễ thánh Saint-Pierre, trong tứ đại lễ của thành Bất tử.
      Ngày 28, ông thăm thú khắp cả ngày như mọi du khách khác ném cái nhìn đầu tiên vào Colisée, điện Panthéon, cột Trajane, lâu đài Saint-Ange. Buổi tối, ông Artaut, người tiền nhiệm của ông, đưa người mới đến tới ngôi nhà gần quảng trường Saint-Pierre. Họ nhìn thấy đống lửa lớn trước vòm Michel-Ange ở giữa những vòng vây điệu vai, những quầng pháo hoa từ nóc Adnen, lụi tắt ở Saint-Onuphre hay lăng mộ Tasse. im lặng, quên lãng và bóng đêm bị lùi lại.

      Ngày hôm sau, ông tham dự buổi lễ thánh Saint-Pierre có Đức Giáo hoàng Pie VII đọc kinh cầu nguyện. Hai ngày sau, ông đến trình diện, giáo hoàng Pie VII mời ông ngồi cạnh. Đây là vinh hạnh hiếm hoi vì các giáo hoàng thường để khách đứng, chắc chắn cuốn Thần đồng đạo Cơ đốc được mở chiếc bàn nào đó của giáo hoàng.
      Giáo chủ Fesch thuê lâu đài Lancelotti cạnh lâu đài Tibre làm trụ sở. Người ta dành cho chàng trai thư ký đại sứ tầng cao nhất trong lâu dài. Vừa vào đến nơi, số lượng ít bọ chét nhảy lên quần, lên chân biến nó thành toàn màu đen kìn kịt. Ông cho giặt chiếc quần ngay tại phòng ngoại giao và bắt đầu công việc tối quan trọng của mình.

      Ngược với tôi, người luôn tự tin với chữ viết của mình, nét chữ của Chateaubriand trở thành thứ cản trở tài năng của ông. Giáo chủ Fesch nhún vai khi nhìn chữ ký ấy và giống như chưa từng đọc Atala cũng như Thần đồng đạo Cơ đốc, ông ta tự hỏi tại sao người tài năng lại phải có chữ ký rộng hết trang như thế.
      Hầu như chẳng có việc gì cho cái vị trí thư ký cao quý ấy làm ông đành ngắm nhìn từ cao các mái nhà xung quanh mái nhà bên cạnh có những người phụ nữ giặt quần áo ra hiệu cho ông, nữ ca sĩ tương lai cất giọng hát những hợp vĩnh hằng ấy cứ đeo đẳng ông mãi, khi nhớ đến cái chết, sung sướng thay khi có vài đám tang qua khiến ông khuây khoả. Thế là từ cao, ông thấy dưới phố cao hun hút có đám tang người mẹ trẻ, người ta khiêng chị ta và cả đứa bé mới chào đời đầu đội vành hoa nằm cạnh mẹ.

      Trong những ngày đầu mới đến, Chateaubriand mắc lỗi lớn Cựu hoàng đế Sardaigne bị Bonaparte truất ngôi ở Rome. Chateaubriand đến thăm và bày tỏ lòng tôn kính của mình, những trái tim lớn thường vẫn hay hướng về những thứ đổ nát rất tự nhiên. Nhưng cuộc viếng thăm đó biến thành cơn bão ngoại giao nổ ra trong toà Đại sứ. Tất cả các nhà ngoại giao đều tránh ông và họ vừa kéo cúc áo cổ vừa thào.
      - thua rồi!
      " kẻ ngu ngốc trong ngoại giao đoàn nào lại cho là hơn tôi - Chateaubriand - Người ta rất hy vọng tôi đổ dù tôi chẳng làm gì cả và cũng tính toán gì. Mà thế cũng có sao, khi có ai đổ chẳng phải điều ấy rất vui đó ư? Tôi vốn đơn giản, tôi nghĩ mình phạm tội gì cả. Với tôi, những ông vua, những người mà người ta tưởng tôi đặc biệt quan tâm, chỉ đơn thuần là những người bất hạnh. Thế mà khắp từ Rome đến Paris, người ta viết những câu châm chọc đáng sợ, may là tôi làm việc với Bonaparte, người đáng dìm chết tôi lại cứu tôi”.

      Chateaubriand buồn đến chết được. Cái vị trí mà người ta cứ tưởng giết chết tài năng và trí tuệ của ông lại khiến bút của ông trở nên sắc sảo qua những lá thư văn học. Cuối cùng, nhiệm vụ quan trọng do ông đảm nhiệm cũng được trao lại cho Borghèse. Chateaubriand quyết định rời bỏ công việc nhàm chán và vô vị ấy. Khi trở về, ông được phu nhân Beaumont đón tiếp. Đó là con bá tước Montmorin, đại sứ nước Pháp tại Madrid, tướng Bretagne từng làm trưởng sứ dưới triều vua Louis XVI. Dưới đây là bức chân dung người bạn của ông qua ngòi bút của mình:
      "Phu nhân Beaumont, có khuôn mặt xấu hơn là đẹp, rất giống với bức hoạ của phu nhôn Lebrun. Khuôn mặt bà gầy gò và tái xanh, đôi mắt hạnh đào như tia sáng dịu lại qua lớp nước pha lê. Tính cách của bà hơi cứng nhắc và nóng nẩy cho thấy sức mạnh tình cảm và nỗi đau nội tâm của bà. tâm hồn cao thượng, trí tuệ vĩ đại, bà sinh ra trong thế giới mà trí tuệ của bà đành rút lui trong lựa chọn và bất hạnh. Nhưng khi giọng thân tình vọng lên kêu gọi từ phía bên ngoài trí tuệ đơn độc ấy bà đến và vài lời từ chốn cao xanh".

      Các bác sĩ khuyên phu nhân Beaumont nên nghỉ ở miền nam. có mặt của Chateaubriand ở Rome khiến bà quyết định đến đó. Ngay những ngày đầu, họ cảm nhận điều tuyệt vời.
      Ngài Chateaubriand lấy xe ngựa đưa bà thăm thành Rome mỹ lệ nhưng phải mất cả cuộc đời mới thấy hết, và đam mê nó được. hôm, thi sĩ đưa bà đến Colisé. Đó là ngày tháng Mười chỉ có thể thấy được ở Rome.

      Người phụ nữ ngồi lên tảng đá đối diện với trong số điện thờ đặt xung quanh công trình. Bà ngước mắt chầm chậm nhìn theo những hàng hiên từng chứng kiến nhiều người và vật chết và ngay bản thân chúng cũng chết từ lâu rồi. Đống hoang tàn được trang trí bằng những cây ngấy, cây cỏ bồ câu đẫm sương thu và ánh sáng. Người phụ nữ thở dài xuống từng bậc thang đến sân. Bà dừng trước cây thập tự và :
      - Chúng ta thôi, tôi thấy lạnh!

      Ngài Chateaubriand đưa bà về nhà, bà ngủ và bao giờ dậy nữa. Dưới đây, tác giả cuốn Thần đồng đạo Cơ đốc kể lại cái chết của người phụ nữ ấy:
      "Nàng bảo tôi mở cửa sổ ra và nàng thấy khó thở. tia nắng mặt trời chiếu đến giường hình như làm nàng rất vui. Nàng nhắc tôi dự định nghỉ ở nông thôn mà chúng tôi thỉnh thoảng bàn bạc rồi nàng khóc.
      Từ hai đến ba giờ chiều, phu nhân Beaumont đòi chuyển sang giường của ba phục vụ người Tây Ban Nha tận tuỵ là Saint-Germain, nhưng các bác sĩ đồng ý vì sợ nàng tắt thở trong lúc di chuyển thế là nàng với tôi nàng thấy gần đến lúc hấp hối. Đột nhiên, nàng hất chăn ra, nắm lấy tay tôi siết chặt, đôi mắt mơ màng. Nàng ra hiệu với ai đó ở cuối chân giường rồi đặt tay tôi lên ngực và :
      - Đó! Đó!
      Tôi rụng rời, hỏi nàng có nhận ra tôi : nụ cười thoáng môi giữa lúc mê man, nàng khẽ gật đầu vì nàng còn được nữa. Các cơn co giật kéo dài vài phút. Chúng tôi lôi bác sĩ và bà hầu ôm nàng vào lòng, tay tôi đặt lên trái tim nàng, nó rung rung nhanh như chiếc đồng hồ tháo tung cuộn dây cót.
      Đột nhiên, tôi thấy nó dừng lại. Đầu nàng ngục gối, vài lọn tóc xoà ra trán, đôi mắt khép lại, bóng đêm vĩnh hằng buông xuống. Bác sĩ đưa gương và ngọn nến lại gần miệng nàng. Gương bị hơi thở làm xỉn mờ, và ngọn nến vẫn cháy nguyên. Tất cả kết thúc.
      bia mộ bằng tiếng Hy Lạp có ghi: Ta nàng mãi mãi, nhưng nàng ở nhà thần Chết, nàng uống nước của nữ thần Léthé, nó khiến nàng quên tất cả những tình có".

      Ít lâu sau, ngài Chateaubriand nhận được tin rằng ngài Tổng tài thứ nhất bổ nhiệm cho ông làm đại sứ ở Valais. Bonaparte hiểu rằng tác giả của Thần đồng đạo Cơ đốc cũng thể tài năng trong chính trường cũng như văn đàn.
      Chateaubriand trở về Paris, biết ơn ngài Bonaparte về đánh giá cao tài năng của mình. Ông viết đề tặng tác phẩm Thần đồng đạo Cơ đốc cho ngài. Chúng ta thấy lời đề tặng đó khá hiếm thấy như sau:
      "Kính gửi ngài Đệ Nhất Tổng tài, tướng quân Bonaparte,
      Thưa tướng quân, Ngài rất muốn đặt ấn phẩm Thần đồng đạo Cơ đốc dưới bảo trợ của ngài. Đó là minh chứng cho ân huệ ngài dành cho nghiệp tôn nghiêm được vinh quang nhờ sức mạnh của ngài. Chúng ta thể nhận ra định mệnh của ngài trong tay Thượng đế, Người phái người để hoàn tất mong muốn phi thường của mình. Cả dân tộc ngắm nhìn ngài, nước Pháp thêm mở mang nhờ những chiến thắng mà Người đặt vào tay ngài từ khi ngài dựa vào giáo lý mà xây dựng đất nước.
      Hãy tiếp tục giang tay đến ba mươi triệu con chiên dang cầu nguyện cho ngài dưới chân điện thờ mà ngài trả về cho họ. Từ tận đáy lòng tôi vô cùng kính trọng tướng quân.
      Kẻ phục vụ thấp kém và rất tuân lệnh của ngài.
      CHATEAUBRIAND"

      Đó là buổi ngài Tổng tài đón tiếp tác giả cuốn Thần đồng đạo Cơ đốc Buổi gặp gỡ này bị lui lại hai tiếng đồng hồ vì ông còn mải làm về công tước Enghien. Trong lần gặp mặt ấy, ngài Bonaparte bổ nhiệm cho Chateaubriand làm bộ trưởng ở Valais.

    3. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 40: Hội đồng biểu quyết


      Trước khi mở ra lời giới thiệu rất dài về tác giả tập Thần đồng đạo Cơ đốc này, tôi nhắc đến việc ngài Bonaparte ra lệnh để ông yên mình. Đó là lệnh đưa ra khi cơn giận của ông có thể lên đến đỉnh điểm. Trái với những người khác khi ông mình im lặng, khi các suy ngẫm dịu xuống chỉ còn sức tưởng tượng còn sôi sục, cơn bão tố hình thành trong ông và khi nó bùng phát, sấm sét phải giáng vào ai đó.

      Ông ăn tối mình, khi ngài Réal đến cùng với bản báo cáo rộng như bản ông nhận được ban sáng nhưng phản ứng của ông rất khác, khi thấy ngài Tổng tài dài người bàn trước tấm bản đồ rộng. Ông nghiên cứu đoạn đường từ Rhin đến Ettenheim, đo khoảng cách, tính thời gian lại.
      Thấy ông Réal vào, ngài đệ nhất Tổng tài chủ ngón tay xuống bàn và :
      - Ông Réal, ông chịu trách nhiệm về bộ Cảnh sát của tôi, ngày nào ông cũng đến gặp tôi mà lại quên với tôi công tước Enghien cách biên giới của chứng ta có bốn dặm và tổ chức cuộc mưu quân ?
      - Tôi đến chính là để báo cho ngài mọi chuyện đây - ông Réal bình tĩnh đáp - Công tước Enghien cách biên giới của ngài bốn dặm mà ở Ettenheim, ông ta rời khỏi đó, tức là còn cách mười hai dặm.
      - Mười hai dặm là gì? - Bonaparte hỏi - Chẳng phải Georges còn cách sáu mươi dặm, Pichegru cách tám mươi dặm đó ư? Còn Moreau, ở đâu? Có cách bốn dặm ? ở ngay phố Anjou-Saint-Hororé, cách điện Tuileries có bốn trăm bước thôi, chỉ cần phẩy tay ra hiệu cho đồng đảng ở sát tại Paris … giả dụ thành công tên Bourbon ở thủ đô lên kế vị tôi rồi. Thế đấy, thế là tôi thành con chó mà người ta có thể tóm ngoài đường trong khi bọn ám sát tôi thành những thánh nhân!
      Ngài Talleyrand cùng với ngài đệ tam Tổng tài cùng bước vào.
      Bonaparte tiến thẳng đến ngài Bộ trưởng ngoại giao.
      - Bộ của ngài làm cái quái gì mà để quân kẻ thù của tôi tập hợp ở Ettenheim thế?
      - Tôi biết gì về chuyện này - ông Talleyrand bình tĩnh như mọi khi đáp -và Massias cũng báo cáo gì về vấn đề này.
      Cách trả lời và cách bao biện ấy càng khiến ngài Bonaparte tức điên:
      - may là những tin tức trong tay tôi cũng đủ rồi, tôi biết cách trừng trị mưu của chúng, đầu của kẻ phạm tội là lẽ công bằng.
      xong ông sải những bước dài trong phòng khách theo thói quen của mình.
      Đệ nhị Tổng tài, ông Cambacères phải cố gắng mới theo kịp òng nhưng khi nghe đến câu "Đầu của kẻ phạm tội là lẽ công bằng" ông này dừng lại.
      - Tôi nghĩ giả dụ có nhân vật như vậy tình hình cũng nghiêm trọng đến vậy chứ.
      - Ngài gì thế thưa ngài? - Bonaparte nhìn ông này từ đầu đến chân - Ngài biết tôi muốn đụng vào kẻ định ám sát tôi à. Tôi xử lý việc này theo ý của tôi và nghe lời khuyên nào hết, nhất là từ ngài. Tôi thấy dường như chính ngài dính dáng đến máu nhà Burbon từ khi ngài bỏ phiếu tử hình vua Louis XVI. Nếu tôi có được trong tay luật pháp cho phép chống lại hung thủ, tôi dùng luật tự nhiên, dùng quyền tự vệ hợp lẽ của mình.
      và người của có mục đích nào khác là muốn cái mạng của tôi. Tôi bị tấn công từ mọi phía, khi có dao găm, khi lửa, bọn chúng còn tạo ra súng gió, thuốc nổ, chúng dồn tồi bằng các cuộc phản loạn. Thế nào ngày lại ngày, xa hay gần bọn chúng sẵn sàng ra tay giết người! Thế mà lực lượng nào, toà án nào mặt đất này mang công lý đến cho tôi, tôi cũng được như người bình thường khác là lấy chiến tranh đáp trả chiến tranh hay sao! Ai có thể dửng dưng kết tội tôi đây? Máu phải trả bằng máu đó là phản ứng tự nhiên thể tránh được kẻ nào gieo gió ắt phải gặt bão!
      Khi ta chịu khuất phục vì sợ có nội chiến và gây xôn xao chính trị chỉ có nước làm mồi làm nạn nhân mà thôi! Phải thế nào mới tưởng tượng được gia đình lưu vong có đặc quyền liên tục tấn công, động đến tồn tại của tôi mà tôi lại có quyền làm ngược lại. Nó chỉ biết biết hạ người khác rồi dùng luật pháp khoác lên mình để bảo vệ mình hay sao, cơ hội phải được chia đều chứ.
      Về mặt cá nhân tôi, tôi chưa làm gì động đến ai nhà Bourbon. Cả dân tộc lớn đặt tôi lên lãnh đạo nó, hầu như toàn bộ châu Âu nhượng bộ trước lựa chọn này, và sau cùng, máu của tôi đâu phải là bùn, đến lúc tôi đặt nó ngang với máu của bọn chúng rồi. Chuyện gì xảy ra nếu tôi thúc đẩy việc trả thù của mình? Tôi có thể làm điều đó! Tôi có hơn lần cơ hội nắm lấy số mạng của chúng, hơn chục lần có người đề nghị tôi lấy đầu chúng và lần nào tôi cũng từ chối thẳng thừng, phải tôi thấy bất công trong vị thế mà chúng hại tôi mà tôi thấy mình còn rất mạnh. Tôi cứ tưởng nguy hiểm gì và coi việc chấp nhận giết chúng như hèn hạ. Châm ngôn của tôi trong chính trường cũng như trong chiến tranh đó là tất cả những cái xấu xa chỉ tha thứ được chừng nào nó tuyệt đối cần thiết ngoài ra chúng là tội ác.

      Fouché vẫn chưa gì, ngài Bonaparte quay sang phía ông ta và cảm thấy có chỗ dựa. Để đáp lại câu hỏi im lặng của ngài Đệ nhất Tổng tài, Fouché quay sang hỏi ông Réal:
      - Thưa ngài Hội đồng, chẳng phải mọi chuyện sáng tỏ hơn khi ngài đưa ra lời khai của Le Ridant, người bị bắt cùng thời gian với Georges hay sao? Chắc là ngài uỷ viên Hội đồng nhà nước của chúng ta còn chưa đọc nó vì ngài Dubois mới chuyển cho ngài lúc hai giờ, và từ hai giờ đến lúc này vì quá bận nên ngài có thời gian đọc nó đúng ?
      Ông Réal đỏ mặt đến tận mang tai. Quả ông ta có nhận được văn bản mà người ta rất quan trọng nhưng ông ta lại đọc, cũng cho vào tập hồ sơ của Georges. Trong lòng tự nhủ liếc mắt đến đầu tiên ngay khi ông có thời gian rỗi. Nhưng ông ta có khoảng thời gian rỗi đó, cho nên ông chỉ biết là biên bản hỏi cung chứ nội dung là gì.
      được lời nào, ông mở cặp và lục tìm nó trong số các giấy tờ khác. Fouché cúi đầu xuống chỉ vào tờ giấy và :
      - Nó đây này.
      Ngài Bonaparte hơi lấy làm lạ về con người này. Ông ta biết trong cặp của uỷ viên Hội đồng có gì.
      Bản cung khai này rất quan trọng. Le Ridant thú nhận có cuộc mưu làm phản, tuyên bố có hoàng thân cầm đầu, người này từng đến Paris và có thể sắp quay trở lại. còn thêm từng thấy ở chỗ Georges Cadoudal thanh niên khoảng ba mươi hai tuổi, rất cao quý, lịch lãm được tất cả đều kính trọng kể cả Pichegru.

      Bonaparte ngắt lời ông Réal đọc.
      - Thôi đủ rồi? - Ông - Thế là đủ rồi! ràng người thanh niên đó, cái kẻ được tôn kính ấy, ai khác ngoài hoàng tử đến từ London. Kẻ được chờ bên vách đá Biville suốt tháng, đó chỉ có thể là công tước Enghien. vừa mất bốn mươi tám tiếng rời Ettenheim đến Paris và trở về từ Paris đến Ettenheim bằng ấy thời gian, sau hồi bàn bạc với đồng phạm của . Kế hoạch vạch bàn cãi vào đâu được.
      Napoléon tiếp:
      - Bá tước Altois phải đến Normande với Pichegru, còng tước Enghien tới Alsace cùng Dumounez. Nhà Bourbon muốn trở lại Pháp phải mượn đến hai tướng Cộng hoà giỏi nhất này làm tiền trạm.
      Mọi người đều hiểu sau khi nghe ngài Tổng tài bày tỏ ý của mình lên quyết như vậy ai dám phản đối dù là trực tiếp hay gián tiếp dự định của ông nữa.
      Lebrun đưa ra vài nhận xét mơ hồ, ông ta sợ hành động tấn công như thế từ phía Bonaparte gây ra tác động tới châu Âu.
      Tổng tài thứ hai, ông Cambacères mặc dù thường ngày cũng mạnh mồm nhưng giờ đây im bặt chỉ gợi đến lòng khoan hồng, nhưng Bonaparte chỉ đáp:
      - Tôi biết động cơ nào khiến ngài khuyên tôi như vậy. Đó là lòng tận tuỵ của ngài với tôi, tòi xin cảm ơn về điều đó nhưng tôi thể để mình bị giết mà tự vệ. Tôi cho tất cả đám người này phải run lên và dạy cho chúng biết giữ yên ổn là gì.
      Lúc này, tình cảm bao trùm toàn bộ con người Bonaparte phải là sợ hãi hay lòng hận thù mà là ý muốn cho toàn nước Pháp biết rằng dòng máu nhà Bourbon vốn là thứ thiêng liêng với đồng bọn của chúng nhưng chẳng có nghĩa lý gì với ông cũng như với nhưng con người của chế độ Cộng hoà.
      - Nhưng rốt cuộc, ngài dùng giải pháp gì? - Cambacèrer hỏi.
      - Rất đơn giản để bắt sống công tước Enghien và chấm dứt chuyện này.
      Mọi người biểu quyết chỉ riêng Cambacèrer còn dám bảo vệ phản đối của mình đến cùng. Vậy là quyết định được thông qua trong hội đồng và ngài Bonaparte phải chịu trách nhiệm mình về chuyện này. Ông cho gọi hai đại tá Ordener và Caulaincourt vào.
      Đại tá Ordener đến bên bờ sông Rhin mang theo ba trăm lính long kỵ binh, nhiều binh sĩ, quân hiến binh và vài lính bắc cầu.
      Vì những người này mang lương thực chỉ trong bốn ngày nên họ được mang khoảng ba mươi nghìn phăng nữa để khi cần mua lương thực trong dân. Họ qua sông Rheinau, tiến thẳng đến Ettenheim, bao vây khu phố và bắt công tước Enghien cùng tất cả những người sống lưu vong quanh ông ta đặc biệt là Dumoanel. Trong khi đó, cánh quân khác bao gồm ít quân pháo binh đó, Kerhl ở Offenburg chờ đợi cho đến khi công tước được mang về lãnh thổ Pháp. Ngay khi mọi việc hoàn tất, đại tá Caulaincourt đến chỗ công tước Badi để trình lời giải thích về hành động họ vừa làm.

      Lúc ngài Bonaparte chủ trì phiên họp Hội đồng là tám giờ vì ông sợ mình hối hận mà thay đổi quyết định nên cho hai đại tá ngay trong đêm. Chỉ còn lại mình, cảm giác chiến thắng lộ khuôn mặt Bonaparte. kiện này khi thành công có lẽ là điều ân hận suốt đời nhưng vào lúc vừa quyết định xong, ông chỉ có cảm giác mãn nguyện, dòng máu của ông cũng ngang với của các vua chúa và ngay cả ông vua ngai cũng có quyền buộc nó phải đổ.
      Ồng liếc nhìn đồng hồ, tám giờ mười lăm. Ông Méneval, thư ký mới thay thế cho Boumerine cũng tham dự vào cuộc họp kỳ lạ ấy, vẫn ngồi tại chỗ để chờ xem ngài Tổng tài có ra lệnh gì .
      Bonaparte đến bàn, chỉ tay vào bàn đó rồi :
      - Ông viết !
      "Ngài Đệ nhất Tổng tài gửi đến Bộ trưởng Chiến tranh
      Paris ngày 19 Ventose năm XII (10/3/1804)
      Công dân tướng quân, mong ngài ra lệnh cho tướng Ordeler, người mà tôi mới trao cho ngài, lệnh cho ta đến Strasbourg đêm nay ta mang bí danh khác và gặp sư trưởng.
      Nhiệm vụ của ta liên quan đến Ettenheim, bao vây thành phố và bắt công tước Enghien, Dumounez, đại tá và tất cả những người khác có liên quan. Sư đoàn trưởng, hạ sĩ quân cảnh cũng như cảnh sát trưởng cung cấp tất cả các thông tin cần thiết cho ta.
      Ngài lệnh cho tướng Ordener lấy ba trăm quân long kỵ binh ở đội 26 phải đến Rhemau vào tám giờ tối.
      Sư trưởng cử mười lính bắc cầu đến Rheinau cũng vào tám giờ tối. Quân pháo binh hạng có thể xe hoặc ngựa độc lập. Phải chuẩn bị từ bốn hoặc năm chiếc tàu lớn đủ để đưa ba trăm người và ngựa qua sông chỉ trong chuyến.
      Quân số chỉ có bánh mỳ trong vòng bốn ngày và mang đủ đạn dược. Sư trưởng gặp ở đó đại uý hay sĩ quan, trung uý cảnh sát và ba bốn quân hiến binh. Ngay khi tướng Ordener vượt qua sông Rhin, ta tiến về Ettenheim, đến nhà công tước và nhà Dumouriez. Công việc này hoàn tất, ta trở lại Strasbourg.
      Khi qua Lunéville, tướng Ordener lệnh cho sĩ quan xe đến Strasbonrg trước để chờ lệnh. Đến Strasbourg, tướng Ordenerr bí mật sai hai mật vụ báo tin. Cùng ngày giờ ấy, ngài lệnh cho hai trăm long kỵ bmh đội 26 dưới chỉ huy của tướng Caulamcourt đến bao vây Offemburg và bắt bà nam tước Reich, nếu bà ta bị bắt ở Strasbourg vì có thể người sống ở Strasbourg có thể báo tin trước cho bà ta.
      Từ Offemburg, tướng Caulamcourt chỉ huy quân tiến lại gần Ettenheim, khi ta biết tướng Ordener đến đó. Họ chuẩn bị trợ thủ cho nhau đồng thời, sư trưởng cũng cho ba trăm quân đến Kerlh cùng bốn pháo hạng để chiếm trạm ngựa ở Wilstardt để còn chỗ trung gian giữa hai đường nữa.
      Hai tướng Caulamconrt và Ordener phải lưu ý được để quân lính làm ảnh hưởng đến dân chúng, ngài cấp cho họ khoảng mười hai nghìn phăng. Nếu họ thể hoàn thành nhiệm vụ mà muốn lưu lại ba bốn ngày để hoàn tất công việc họ được phép. Còn nếu lâu hơn lãnh thổ nước ngoài, họ gặp bất hạnh lớn.
      Ngài ra lệnh cho chỉ huy Neufbrissac để trăm người qua tả ngạn con sông cùng hai đại bác. Trạm ngựa được giải phóng ngay khi hai cánh quân trở về. Tướng Caulaincourt chỉ đem theo khoảng ba chục quân hiến binh bên mình, còn lại tướng Ordener, sư đoàn trưởng tuỳ tình hình di chuyển.
      Nếu xảy ra trường hợp ở Euenheim có công tước Enghien, Mourieg và những người khác phải gửi mật báo đặc biệt về khi ấy ngài ra lệnh bắt chủ trạm ngựa ở Kerlh và những người khác để có thể có tin tức về chuyện đó.
      BONAPARTE".

      Lúc ông ký tài liệu quý hoá ấy có người vào báo công dân Chateaubriand đến.

      Như tôi , ông Chateaubriand cùng tuổi với ngài Bonapalte tức là vào thời điểm ấy, họ cùng ba mươi lăm tuổi. Cả hai đều có vóc dáng nhắn. Tất cả những ai từng có hân hạnh quen biết Chateaubriand đều đồng ý với tôi là họ chưa từng thấy ai cao ngạo như ông trừ kiêu căng của ngài Bonaparte.
      Vẻ kiêu căng của tác giả Thần đồng đạo Cơ đốc là thứ còn sống sót sau tất thảy, khi tài sản tiêu tan, mất nghiệp chính trị hay khi có thành công trong văn chương. Vào lúc vinh quang này, vẻ kiêu căng ấy còn lớn hơn nữa.
      Về phần mình, ngài Bonaparte chỉ cần bước nữa là bước đến bậc cao tột đỉnh mà con người có thể đạt đến cho nên kiêu ngạo của ông chấp nhận bị đem ra so sánh với bất cứ ai, trong quá khứ cũng như ở tại.
      - Chào ngài Chateaubriand - Bonaparte và tiến về phía ông - Ngài thấy đấy tôi vẫn chưa hề quên ngài.
      - Xin cảm ơn công dân Tổng tài. Cuối cùng ngài hiểu là có những người chỉ có giá trị ở vị trí của họ.
      - Tôi nhớ lại lời của César: "Thà là người đứng đầu ở quê còn hơn làm người thứ hai ở Rome". là lẽ ra ngài phải giải khuây ở nhà ông chú quý hoá của tôi, giữa những phiền nhiễu vụn vặt của giáo chủ, giữa thói khoác lác của các quý ông giám mục Châlons và những lời dối trá ngớt của giám mục Maroc trong tương lai.
      - Cha Guillon - Chateaubriand .
      - Ngài cũng biết chuyện của ông ta đó - Bonaparte tiếp - Lợi dụng có tên giống nhau, ông ta cho rằng sau khi thoát được cách kỳ diệu khỏi vụ thảm sát Cannes, ông ta rửa tội cho phu nhân Lamballe ở Force. Chẳng câu nào trong chuyện này là cả… thế ngài làm gì ở đó để giải khuây?
      - Tôi sống ở mức có thể nhất giữa những kẻ chết. Tôi làm tất cả những gì người nước ngoài đến Rome muốn làm, đó là mơ mộng. Chính bản thân Rome cũng là giấc mơ rồi, phải thấy ánh trạng từ cao Trinité-du-Mot, những công trình xa xa như những nét phác thảo của hoạ sĩ hay như những bờ biển chìm hơi sương nhìn từ mạn tàu. Vầng trăng, cái khối cầu mà người ta ngỡ ở thế giới chết ấy lại toả thứ ánh sáng tái nhợt lên thành Rome hoang tàn. Nó chiếu đến các khu phố dân cư, những quảng trường công viên tịnh có bóng người, những tu viện và hành lang của nó cũng vắng lặng như hành lang ở Colisée. Tôi tự hỏi chuyện gì xảy ra nơi đây cách đây mười tám thế kỷ cũng vào giờ này. Những ai ở đây xuyên qua bóng tốt những toà tháp này. chỉ nước Ý cổ đại chết mà nước Ý thời trung cổ cũng còn. Trong khi tất cả dấu vết của hai nước ấy còn in trong thành phố vĩnh hằng. Nếu thành phố Rome đại trưng ra nhà thờ Saint-Pietre và những kiệt tác của nó thành Rome xa xưa chống lại bằng đền thờ Panthéon và những mảnh vụn của nó. Nếu thành phố dẫn nhưng nhà tài phiệt của mình xuống từ Capitol thành phố xưa đưa các giáo chủ từ Vatican đến. Dòng sòng Tibre chia hai vinh quang ngơi nghỉ trong cùng lớp bụi ấy. Rome vô thần ngày càng chìm sâu vào nấm mồ của nó và Rome Cơ đốc cũng lún xuống hầm mộ của mình.
      Bonaparte thả mình mơ màng trong cách miêu tả thú vị thành Rome, tai ông lắng nghe nhà thơ nhưng mắt ông lại nhìn xa xăm. Mãi sau, ông :
      - Thưa ngài nếu như tôi đến Rome, nhất là với cương vị của tham tán đại sứ Pháp, tôi thấy trong Rome thứ khác với Rome của César, của Dioclétien và của Grégorie VII, tôi thấy ở đấy chỉ di sản sau ngàn năm mà còn thấy bà mẹ của thế giới La Mã tức là từ đại đế chế chưa từng đâu có; nhất là tôi thấy bà hoàng Địa Trung Hải với bình lưu tuyệt vời, độc nhất thiên hạ, được các nền văn minh cày xới cộng với thống nhất các dân tộc châu Âu. tấm gương lần lượt phản chiếu Marseille, Venice, Corinthe, Athenes, Constantinople, Smyrne, Alexandrie, Cyrène, Calthage và Cadix; quanh nó, ba phần của thế giới cũ là châu Âu, châu Phi và châu Á chỉ cách có vài ngày đường.
      Nhờ nó, người nào làm chủ Rome và Italie có thể đến khắp nơi, theo dòng Rhône, trái tim nước Pháp, theo dòng Eridan, trái tim nước Ý, qua eo Gibraltar đến Senégal, đến mũi Hảo Vọng đến hai miền châu Mỹ, qua eo Dardanelles đến biển Marmara, đến Bosphore, Pont-Euxin tức là Tartare, qua biển Đỏ đến Ấn Độ, Thibet, đến châu Phi, Thái Bình Dương tức là đến miền cực kỳ rộng lớn, qua sông Nil đến Ai Cập, đến Thèbes, Memphis, Eléphantine, Ethiopie, đến sa mạc tức là đến miền mới lạ. Để chuẩn bị cho nghiệp lớn lao sau này của mình, có thể còn vượt cả César và Charlemagne, thế giới vô thần lớn mạnh quanh biển này. Cộng đồng Cơ đốc giáo cũng ôm nó trong tay được ít lâu. Những Alexandre, Anmbal, César đều được sinh ra bên bờ của nổ. Và biết đâu, ngày người ta lại Bonaparte được sinh ra từ trong lòng nó! Thành Milan cũng mang câu vọng "Charlemagne", Tunis cũng hoà theo "thánh Louis". Quân A Rập xâm lăng cũng túa ra bên bờ của nó; các cuộc thập tự chinh lần lượt trèo lên, suốt ba nghìn năm qua, nền văn minh soi sáng nó, từ mười tám thế kỷ qua, Calvaire ngự trị nó!
      Mà nếu số phận đưa ngài quay trở lại Rome, tôi cũng bạo gan mà với ngài rằng: "Ngài Chateaubriand, khá thi sĩ, khá mơ mộng và khá thông thái nhìn Rome bằng quan điểm của mình đến lúc con người thực tế, thay vì chìm mình trong những giấc mơ chính thành phố hãy lao mình vào chân trời sâu rộng hơn. Chẳng còn gì để làm với thành phố hai lần là thủ đô của nhân loại; phải để cánh đồng ấy tự cày lấy thôi". Nếu ngày tôi là chủ Tây Ban Nha cũng như đứng đầu Italie, tôi cho lấp eo biển Gibraltar đến nước , tôi phải xây chân tường thành trong lòng đại dương. Như vậy, thưa ngài Chateaubriand, Địa Trung Hải còn là biển nữa mà cái hồ của nước Pháp.
      Nếu con người thiên tài như ngài báo giờ quay trở lại Rome nữa, điều này có thể lắm, và nếu tôi còn cầm quyền tôi cử ngài đến đó phải với tư cách chân thư ký quèn mà là đại sứ . Tôi với ngài: "Đừng lưu luyến cái thư viện nữa, hãy để nó cho Paris Ovide, Tacite hay Slléton, ngài hãy chỉ mang tấm bản đồ thôi, bản đồ Địa Trung Hải, và đừng bao giờ để rời mắt khỏi nó dù là giây lát. Dù ở đâu thế giới, hứa với ngài ngày nào tôi cũng giữ nó”.

      Xin từ biệt ngài Chateaubriand.

      Chateaubriand cúi đầu ra, ông vừa có cảm giác bàn tay mạnh mẽ đặt lên trán mình làm vỡ vụn ý chí và khiến thói tự cao phải oằn xuống.

    4. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 41: Chặng đường đau khổ


      Lúc ngài Bonaparte và Chateaubriand chia tay sau khi cân đo cao thấp giống như hai vận động viên điền kinh gặp mặt để thách đấu hơn là người đến nhận lệnh từ chỉ huy, tướng Ordener lên xe Strasbourg, vừa đến nơi, đến gặp sư trưởng đóng quân ở đây. Sư trưởng nhận lệnh đáp ứng mọi cầu cần hỏi lý do. Ông ta giao cho viên tướng tạm quyền bấy giờ gọi là tướng Frion, ba trăm long kỵ binh của đội số 26, những lính làm cầu kèm theo mọi thứ mà tướng Ordener cần thiết.
      Tướng Ordener đến Schelestadt, cử đội trưởng quân hiến binh cải trang đến Ettenheim dò la xem hoàng thân và tướng Dumounez có ở đó hay . Người này về báo cả hai đều ở Ettenheim.
      Ngày sau đó, tướng quân Ordener đến Rheinau. Nhờ phà và năm tàu lớn hợp lại, họ qua sông Rhin chỉ trong chuyến.

      Khoảng năm giờ sáng, lâu đài của hoàng thân bị bao vây hoàn toàn. Nghe thấy tiếng ngựa và tiếng mở cửa, hoàng thân nhảy xuống giường vớ lấy khẩu súng trường hai viên, mở cửa sổ và nhìn thấy công dân Charlot, đại đội trưởng, đội hiến binh quốc gia số 38 hét với những người mà ta nhìn thấy cửa sổ lâu đài:
      - Nhân danh nhà nước Cộng hoà, hãy mở cửa ra.
      Ông hoàng định nổ súng (và nếu thế chắc chắn công dân Charlot cũng nhả đạn) đại tá Grunstein ngủ trong phòng cạnh đó vội vã chạy ra cửa sổ đặt tay lên khẩu súng và :
      - Tâu đức ông, ngài cũng đồng loã trong vụ này ư?
      - hề mảy may, Grunstein thân mến ạ.
      - Nếu vậy - Grunstein - mọi kháng cự đều vô ích, chúng ta bị bao vây, đức ông cũng thấy đấy, tôi còn thấy nhiều lưỡi lê ách lên. Đối với kẻ khiêu khích, đó là tên cầm đầu, nếu ngài giết chúng ngài thua và chúng tôi cũng vậy.
      - Đúng thế! - Hoàng thân ném súng xuống và - Cứ để chúng vào nhưng phá cửa mà vào. Tôi quen bọn Cộng hoà nên mở cửa cho chúng được.
      Trong lúc quân lính phá cửa, hoàng thân vội vã mặc quần áo.
      Nhiều tiếng kêu "Đốt lửa lên!" vang lên nhưng nhanh chóng câm bặt. người chạy đến nhà thờ để rung chuông bị bắt ngay và kẻ báo tin cho tướng Dumounez, bị tóm kịp kháng cự (chứng ta biết rằng đó phải là Dumounez mà là Thumery).

      Ông hoàng bị dẫn ra khỏi phòng trong lúc người ta lục lọi tất cả giấy tờ của ông. Ông ta được đưa đến cái cối xay gần điện Tulleries. Phần còn lại, người ta cần phải phá cửa. Hôm trước đội trưởng hiến binh Pferdsdorff được cử đến để chỉ dẫn tất cả những nơi ông hoàng ở. Pferdsdorff cùng vài hiến binh và hơn chục long kỵ binh trung đoàn hai hai vào nhà bằng cách nhảy qua tường bao quanh sân.

      Khi tập hợp các tù nhân, người ta tên thấy Dumounez trong số họ. Khi được hỏi, ông hoàng Dumounez chưa bao giờ ở Ettenheim và ông thậm chí chưa từng gặp người này. Những người bị bắt là: Hoàng thân, hầu tước Thumer, nam tước Grunstein, trung uý Schmidt.
      Cha Weinbom, cựu sáng tập toà giám mục Strasbourg, cha Michel, thư ký toàn giám mục Strasbourg, Jacques thư ký tin cẩn của công tước Englủen, Simon Fenand, cận vệ và hai người hầu có tên là Pierre Poulain và Joseph Canone.
      Ban đầu công tước tỏ ra sợ khi bị dẫn độ về Paris.
      - Ông ta bắt được tôi rồi - Công tước - ông Đệ nhất Tổng tài cho giam giữ tôi. Ta thấy bực khi bắn vào ông, chỉ huy ạ. Nếu thế người của ông bắn ta và thế là bây giờ mọi chuyện chấm dứt.
      chiếc xe bò chở rơm sẵn sàng. Người ta tống tù nhân lên xe và dẫn giữa hai hàng súng đến tận sông Rhin. Sau đó họ qua sông Rhin, đến Plobsheim dừng lại ăn trưa. Sau bữa trưa, công tước lên xe cùng chỉ huy Charlot và đội trưởng hiến binh. hiến binh khác lên cạnh đại tá Grunstein.

      Họ đến Strasbourg khoảng năm giờ chiều. Mọi người đến lâu đài bản doanh của đại tá Charlot. Nửa giờ sau, công tước bị đưa lên xe ngựa ba bánh để đưa vào thành còn những người khác xe bò hoặc cưỡi ngựa của nông dân. Đại tá Charlot cho tập trung tất cả ở phòng khách. Đệm ngủ trải luôn ở đó, bên ngoài cửa có toán lính và bên trong có hai toán khác liên tục túc trực suốt đêm.
      Hoàng thân ngủ ngon giấc. Ông thể yên tâm trước cái cách diễn ra mọi việc. Những lời cảnh báo trước đây như sống dậy trong tâm trí của ông và ông tự trách mình cảnh giác.

      Thứ sáu ngày 16 tháng Ba, công tước được thông báo đổi chỗ ở. Tướng quân Leval, chỉ huy trưởng tại Strasbourg và trưởng Friron đến thăm ông. Cuộc viếng thăm lạnh lùng và tẻ ngắt. Công tước được đưa đến phòng cạnh thềm, bên phải ngôi nhà, nối với phòng của quý ông Thumery, Schmidt và Jacques, nhưng ông cũng như người của mình thể qua lại gặp nhau.
      Dẫu sao, người ta cũng để ông được phép dạo trong khu vườn phía sau am. tốp lính hơn mười người cùng sĩ quan canh gác cạnh đó, bá tước Grunstein bị chia cách với ông bằng cách được sắp xếp ở phòng đầu sân bên kia. Công tước rất buồn trước chia cắt này. Ông bắt đầu viết cho nữ công tước vợ mình, trao cho tướng Leval và nhờ ông này chuyển giúp nhưng nhận được lời hồi nào, điều này càng khiến ông đau buồn gấp bội. Tất cả mọi giao tiếp đều bị cấm.

      Bốn giờ chiều, người ta đến xem xét giấy tờ của ông. Người ta đọc qua loa, phân chia thành từng tập rồi gửi về Paris.
      Mười giờ đêm, công tước lên giường ngủ, dù rất mệt mỏi, nhưng ông sao chợp mắt được. Ông Machine, phụ trách khu này đến thăm ông giường, an ủi vài câu gượng ép.

      Thứ bảy, ngày 17, công tước Enghien nhận được hồi nào cho lá thư ông viết tới nữ công tước Rohan. Ông ở trong tình trạng gần như tuyệt vọng. Người ta đến cho ông ký vào biên bản. Buổi tối, họ thông báo ông được phép dạo trong vườn với sĩ quan canh gác và các bạn tù của mình. Sau đó, ông ăn tối và ngủ ngon hơn.

      Chủ nhật ngày 18, lúc giờ rưỡi sáng, người ta đến đưa công tước ông chỉ kịp mắc quần áo và ôm hôn các bạn của mình.
      Ông mình giữa hai sĩ quan hiến binh và hai hiến binh. Đến quảng trường Eglise, trung uý Petermann và hiến binh trèo lên xe, ngồi cạnh ông trong khi Blitersdorff và liến binh khác trèo lên ghế đánh xe.
      Chiếc xe dẫn công tước đến quận 20 vào lúc mười giờ hôm sau, đó cũng là trạm gác. Họ ở lại đó năm tiếng trong khi đó chắc chắn những chi tiết của thảm cảnh hãi hùng diễn ra sắp kết thúc. Lúc bốn giờ chiều, chiếc xe về phía lâu đài Vincennes và đến nơi vào quãng nửa đêm. đến lúc các nhà Tổng tài của nhà nước Cộng hoà ra lệnh bắt như sau:

      "Paris ngày 29 Ventôse năm thứ XII
      của nền Cộng hoà Duy nhất và Bậc khả chia cắt
      Chính phủ Cộng hoà lệnh bắt:
      Công tước Enghien, về tội cầm vũ khí chống lại nhà nước Cộng hoà, cấu kết với quân tham gia vào vụ phản loạn làm nguy hại đến an ninh nội bộ và an ninh ngoài nước. Công tước bị đưa ra xét xử tại Uỷ ban Quân bao gồm bảy thành viên do chỉ huy trưởng Paris chỉ định và tập hợp tại Vincennes.
      Chánh án, ngài Bộ trưởng Chiến tranh, chỉ huy trưởng Paris chịu trách nhiệm về có mặt của bị cáo.
      BONAPARTE
      HUGUES MARET
      CHỈ HUY TRƯỞNG PARIS
      MURAT"

      Chiều theo luật quân , sư đoàn trưởng phải thành lập uỷ ban xét xử và ra lệnh xét xử. Murat vừa là chỉ huy trưởng Paris vừa là sư trưởng. Lệnh bắt của các vị Tổng tài có chữ ký của Murat là vì ông buộc phải ký vào đó. Biết mình lỡ tay, ông thấy vô cùng đau xót. Ông là người dũng khí, xốc nổi nhưng cũng tốt bụng. Ông có được thông báo hội đồng Tổng tài ra quyết định bắt công tước Enghien, trong lúc sốt ruột thấy vợ luôn bị những mưu lật đổ mới mọc lên đe doạ, ông vỗ tay tán đồng quyết định ấy. Nhưng khi công tước Enghien bị bắt, ông lại chịu trách nhiệm giải quyết hậu quả đáng sợ trong cuộc bắt bớ này ông chột dạ.
      - Chà! - Ông thất vọng ném cái mũ ra xa - Ngài Đệ nhất Tổng tài lại muốn dìm bộ quân phục của mình trong máu đây!
      Sau đó ông chạy ra cửa sổ hét to:
      - Đóng ngựa vào xe!
      Xe vừa chuẩn bị xong, ông lao lên và ra lệnh: "Đến Saint-Clou!"
      Ông muốn nhượng bộ ngay lập tức mệnh lệnh mà theo ông là vết nhơ cho Bonaparte và cho bản thân ông. Murat đến gặp vợ, giải thích về nỗi lòng của mình, về lo lắng và đau xót trước việc. Nhưng Bonaparte giấu trong chiếc mặt nạ bằng đồng chính những cảm xúc như thế của ông. Ông tỏ ra mạnh mẽ, thể lay chuyển, coi đó là yếu đuối hèn kém và :
      - Được rồi, nếu chú sợ, tôi chỉ định ai là người ký lệnh xét xử ngay trong ngày.
      Chắc hẳn chúng ta còn nhớ chuyện ngài Tổng tài Bonaparte ra lệnh cho Savary đến rình bên vách đá Biville hồi họ đợi chuyến tàu của các ông hoàng cập bến. Savary là trong chúng con người hiếm thấy, khi ta hiến dâng là hiến dâng toàn bộ cả thể xác lẫn tâm hồn hề kêu ca. ta quý Bonaparte, có quan điểm chính trị nào cả, ta chỉ đơn thuần tôn thờ ngài Đệ nhất Tổng tài.
      Ngài Tổng tài cho thảo lệnh, tự tay ký rồi sai Savary mang chúng đến cho Murat chủ trì việc xét xử. Mệnh lệnh đó rất đầy đủ và ràng. Do vậy Murat bị ngài Tổng tài thúc đẩy mạnh quá trong lòng vừa rủa thầm vừa vò đầu bứt tai, ông tự tay viết mệnh lệnh sau:

      "Chinh quyền Paris
      Ngày 29 Ventôse, Nhà nước Cộng hoà năm thứ XII
      Tổng chỉ huy trưởng Paris
      Căn cứ thi hành lệnh của chính phủ, uỷ ban quân bảy thành viên do Tổng chỉ huy trưởng Paris bổ nhiệm và bổ nhiệm những người sau:
      Tướng quân Hulin, chỉ huy đội Hồng vệ binh bảo vệ các Tổng tài chủ toạ.
      Đại tá Guiton, chỉ huy Trung đoàn thiết giáp số 1.
      Đại tá Bazancourt, chỉ huy Trung đoàn bộ binh số 4
      Đại tá Ravier, chỉ huy Trung đoàn bộ binh số 18
      Đại tá Banois, chỉ huy Trung đoàn bộ binh số 96
      Đại tá Rabbe, chỉ huy Trung đoàn bảo vệ thủ đô số 2
      Công dân Autancourt, tham mưu đội Hiến binh ưu tú giữ nhiệm vụ báo cáo viên uỷ ban này được thành lập ngay tại lâu đài Vincennes để xét xử nghi phạm như chính phủ quy định, mọi văn bản được trao lại cho chủ toạ.
      J. MURAT"

      Tù nhân vừa bước vào Vincennes.
      Quản lý lâu đài này có tên là Harel. Ông ta được thăng chức điều hành sau vụ Ceracchi và Aréna. trùng hợp khi vợ ông ta lại là chị em cùng vú nuôi với công tước Enghien.
      Ông Harel nhận được mệnh lệnh nào. Người ta hỏi ông có chỗ nào cho tù nhân , ông đáp là , chỉ có phòng của chính ông và phòng họp. Lập tức ông Harel được lệnh chuẩn bị chỗ để tù nhân có thể ngủ trong khi chờ phán quyết. Lệnh này kèm theo việc đào trước cái hố trong sân.
      Harel đáp điều này rất khó vì sân lát gạch. Người ta tìm chỗ để đào và họ tìm thấy cái hố có sẵn ở lâu đài.
      Bảy giờ tối, công tước bước vào lâu đài. Ông lả vì đói và lạnh, có vẻ buồn nhưng hơi lo lắng. Vì phòng của ông chưa được sưởi ấm nên ông chủ toà lâu đài cho công tước ở phòng của mình. Sau đó, người ta cho tìm đồ ăn trong làng.
      Hoàng thân ngồi vào bàn và mời chủ toà lâu đài cùng ăn. Ông Harel từ chối và muốn phục vụ hoàng thân. Thế là ông hoàng đưa ra hàng lố câu hỏi về phòng thủ của toà lâu đài Vincennes và về các kiện xảy ra. Rồi đột nhiên ông hoàng quay lại hoàn cảnh của mình:
      - Này, ông chủ thân mến, ông có biết người ta định làm gì tôi ?
      Ông Harel biết và thể gì về chủ đề này. Nhưng vợ ông nấp sau tấm bình phong che rèm nghe mọi việc xảy ra. Khi có lệnh đào hố, bà hình dung ra ngay tương lai thế nào nên khóc nấc lên. Tôi bà là chị em cùng vú nuôi với công tước Enghien.
      Công tước vội vàng ngủ do chuyến quá mệt mỏi. Nhưng chưa kịp chợp mắt, trung uý Noirot, trung uý Jacquin, đại uý Autancourt và hiến binh Nerva, Tharsis vào phòng của ông.
      Với tham dự của công dân Molin, đại uý trung đoàn 18, là lục do báo cáo viên chỉ định, tất cả tham dự buổi thẩm vấn:
      - Họ, tên, tuổi, phẩm vị của ông là gì? - đại uý Autancourt hỏi.
      - Tôi tên là Louis-Antoine-Henri de Bourbon, công tước Enghien, sinh ngày 2 tháng 8 năm 1772 tại Chantilly - Hoàng thân đáp.
      - Ông rời Pháp từ bao giờ?
      - Tôi thể chính xác nhưng tôi nghĩ đó là ngày 16 tháng 7 năm 1789, tôi cùng Hoàng thân Condé là ông của tôi, cha tôi là công tước Bourbon, bá tước Artois và các con ông ấy.
      - Ông sống ở đâu sau khi rời Pháp?
      - Khi rời Pháp, tôi luôn cùng cha mẹ từ Monge đến Bruxelles. Ở đó, chúng tôi ở nhờ chỗ vua Sardaigne khoảng mười sáu tháng. Tôi ở Worn và vùng lân cận đó, bên bờ sông Rhin.
      Khi quân đội Condé được thành lập, tôi tham gia chiến đấu. Tôi lập chiến dịch năm 1792 ở Brabant cùng quân của công tước Bourbon và quân đội của công tước Albert.
      - Ông sống ở đâu sau khi hoà bình lập lại giữa Cộng hoà Pháp và đế chế Áo?
      - Chúng tôi chấm dứt chiến dịch cuối cùng ở gần Gratz. Đến khi đó quân đội được bán cho nước và hội giải ngũ. Tôi ở lại Gratz và khu gần đó khoảng tám, chín tháng vừa để chờ tin của ông nội tôi ở bên để đòi khoản trợ cấp cho tôi. Trong khoảng thời gian ấy, tôi được giáo chủ Rohan cho phép đến xứ của ông. Tôi ở lại đó hai năm. Khi Giáo chủ qua đời, tôi chính thức cầu nghị viện Ba de cho tôi tiếp tục chiến đấu tại đó và ông đồng ý.
      - Ông chưa bao giờ sang và chính quyền này cũng gửi tiền cho ông chứ?
      - Tôi chưa bao giờ sang nhưng tôi vẫn nhận được khoản và chỉ dựa vào đó để sống.
      - Ông có liên lạc với giới quý tộc Pháp sống lưu vong ở London và gặp họ từ bao giờ
      Tất nhiên, tôi vẫn liên lạc với ông và cha tôi nhưng từ lâu rồi gặp họ, từ 1794 hay 95 gì đó.
      - Ông giữ chức vụ gì trong quân đội Condé?
      - Chỉ huy quân Tiên phong, trước năm 1796, tôi tự nguyện phục vụ tại tổng hành dinh của ông tôi.
      - Ông biết tướng Pichegru chứ?
      - Tôi cho là mình chưa bao giờ gặp ông ta, tôi hề có quan hệ gì với người này. Tôi biết ông ta muốn gặp tôi những tôi tảng lờ biết ông ấy.
      - Ông biết tướng Dumouriez chứ? Ông có quan hệ với ông này ?
      - , tôi chưa bao giờ thấy ông ta.
      - Từ ngày hoà bình lập lại, ông chưa bao giờ liên lạc với nội bộ phe Cộng hoà chứ?
      - Tôi có viết cho vài người bạn nhưng chỉ là thư thường ảnh hưởng gì đến chính phủ.

      Đại uý Autancourt chấm dứt cuộc hỏi cung, cho công tước Jacquin, trung uý Noirot hai viên hiến binh và chính Autancourt ký vào biên bản. Nhưng khi ký, công tước viết mấy dòng sau:

      "Trước khi ký vào biên bản, tôi tha thiết cầu được đặc cách gặp ngài Đệ nhất Tổng tài. Tên tuổi, địa vị cách nghĩ của tôi cũng như tình hình tệ hại của tôi cho tôi hy vọng ông từ chối lời đề nghị này.
      "LOUIS-A-H-DE BOURBON

      Lúc đó Bonaparte lui về La Malmaison nơi ông cấm ai đến quấy rầy mình. Đó là địa điểm náu khi ông tuyệt đối muốn được ở mình để suy nghĩ.
      Phu nhân Bonaparte, hoàng hậu trẻ Hortense và toàn thể phụ nữ trong nhà đều tuyệt vọng. Nhiều lần Joséphine mạnh dạn vào phòng và trực tiếp đặt vấn đề. Nhưng ngài Bonaparte đáp lại bằng giọng dứt khoát.
      - im , để tôi yên. Các người là đàn bà đừng tham gia vào chính trị.
      Về phần mình, tối ngày 20 tháng Ba, ông thư giãn chút ít, bình tĩnh sải bước rộng, hai tay chắp sau lưng và đầu chúi về phía trước như mọi khi. Cuối cùng, ông ngồi xuống chiếc bàn và thấy có bộ bài liền to.
      - Xem nào, ai trong số các phu nhân cho tôi chơi bài với?
      Phu nhân Rémusat đứng dậy ngồi đối diện với ông nhưng chỉ vài phút, ông ném bộ bài xuống, xin lỗi và ra.
      Để hoàn toàn thoát khỏi vụ việc này, chúng ta cũng thấy ông rất tuyệt vọng, Bonaparte trút toàn bộ nhiệm vụ cho Murat.
      Cuộc thẩm vấn kết thúc, hoàng thân mệt đến nỗi ngủ ngay lập tức Nhưng chỉ được tiếng người ta lại vào phòng của ông, đánh thức ông dậy, bắt ông mặc quần áo rồi đưa xuống phòng hội đồng.

      Chủ toạ hội đồng xét xử, tướng Hulin, có nghiệp may mắn hiếm thấy. Ông là người Thuỵ Sĩ, sinh tại Genève năm 1758. Giống như phần lớn người Genève khác, ông ta làm nghề sửa đồng hồ. Hầu tước Congflans thấy ông cao ráo và đẹp trai cho ông săn cùng. Khi tiếng súng đầu tiên từ nhà ngục Bastille vang lên là lúc ông ta chạy trong bộ trang phục tuyệt đẹp và thế là được phong làm tướng quân. Ông hề cải chính nhầm lẫn đó, đứng đầu đoàn người dũng nhất xông vào sân nhà tù của triều đình. Sau đó, ông mang quân hàm đại tá mà ai phản đối cả. Chỉ mới vài tuần trước ông mới được phong hàm tướng quân. Lòng can đảm mà ông chứng tỏ cũng đáng nể lắm. Số là, trận đấu với Launay vừa kết thúc, ông chiến đấu rất kiên cường, chỉ dừng lại khi kiệt sức nằm vật xuống đất, tuy vậy vẫn ngăn được ông hạ sĩ quan nữa và cho nát như tương.
      Có thể vì nhớ lại lòng nhân ái ấy mà ông được bổ nhiệm làm chủ toạ uỷ ban xét xử công tước Enghien. Hoàng thân được xét hỏi lần thứ hai về đủ mọi chuyện. Nhưng trong hội đồng chiến tranh chỉ có việc phải làm là nếu hoàng thân nhận tội cho thi hành bản án. Và bản án đó như sau:
      ...
      "1) Uỷ ban tuyên bố người có tên Louis-Antoine-Henri de Bourbon, tức công tước Enghien, thừa nhận là thủ phạm cầm vũ khí chống lại nước cộng hoà Pháp.
      2) Thừa nhận là thủ phạm phục vụ cho chính phủ , kẻ thù của dân tộc Pháp.
      3) Thừa nhận là thủ phạm tiếp nhận lính từ chính phủ , giúp họ mưu mô đất Pháp và cùng họ làm phản gây mất an ninh trong và ngoài nước.
      4) Thừa nhận là thủ phạm đứng đầu tổ chức lưu vong và những người khác do nước hậu thuẫn đóng bên biên giới nước Pháp và ở các xứ Fribóurg và Baden.
      5) Thừa nhận là thủ phạm liên lạc với người Strasbourg định gây tình hình có lợi cho nước .
      6) Thừa nhận là thủ phạm đồng loã trong cuộc mưu phản do người giật dây nhằm vào tính mạng của ngài Đệ nhất Tổng tài và nếu mưu này thành công về Pháp nắm quyền"

      Đọc xong phần khép tội , chủ toạ đọc nốt phần cuối liên quan đến áp dụng hình phạt. Phần này cũng được rành mạch như phần và uỷ ban thống nhất tuyên án tử hình cho người có tên Louis-Antoine-Henri de Bourbon tức công tước Enghien vì tội làm gián điệp, cấu kết với kẻ thù nước cộng hoà, mưu làm mất an ninh quốc gia.

      điều kỳ lạ khiến chính các thành viên của uỷ ban nhận ra đó là ai được báo trước mục đích họ được triệu tập làm gì. trong số thành viên uỷ ban còn phải đứng hàng tiếng trong hành lang mà làm sao cho người ta nhận ra mình. người khác, vừa nhận lệnh vội đến thẳng Vincennes cứ tưởng mình bị bắt nên hỏi mãi phải làm gì để vào nhà giam.
      Về lời cầu mà công tước xin gặp ngài Bonaparte, thành viên uỷ ban đề nghị nên chuyển nó đến chính phủ. Cả uỷ ban đều đồng ý nhưng có tướng quân đứng sau ghế của ngài chủ toạ, người này hình như đại diện cho ngài Tổng tài, tuyên bố lời đề nghị này chưa đúng lúc, uỷ ban nên chuyển sang việc khác và dành việc làm thoả mãn phạm nhân sau.
      Khi bản án xong, tướng Hulin với cây bút định viết cho ngài Bonaparte mong muốn của công tước Enghien người ban nãy bảo cầu chưa phải lúc hỏi:
      - Ngài làm gì thế?
      - Tôi viết cho ngài Tổng tài - Hulin đáp - Tôi chuyển mong muốn của hội đồng xét xử và của phạm nhân đến ông ấy.
      - Công việc của ngài thế là xong rồi - Người đàn ông ấy và cất bút - Bây giờ chuyện này liên quan đến tôi nữa.
      Sau khi tham dự buổi xét xử, Savary ra gặp đội hiến binh ưu tú và đứng ngoài bãi đất gần lâu đài. Viên sĩ quan chỉ huy toán quân nước mắt vòng quanh đến trình bày người ta xin ta cái cọc để thi hành bản án của uỷ ban quân .
      - Đưa nó cho họ. - Savary .
      - Nhưng tôi biết đặt nó ở đâu bây giờ?
      - Ở chỗ nào mà thể làm ai bị thương ấy.
      Cái chàng đáng thương tìm khắp nơi. Sau khi xem xét mãi, ta quyết định chọn chỗ cái hố là chắc ăn nhất vì thể làm ai bị thương được.
      Cuộc họp hội đồng xong, công tước lại lên phòng mình ngủ. ngủ ngon người ta lại đến gọi ông dậy để đọc bản án và thi hành nó. Vì bản án phải được đọc ở chỗ hành quyết nên người ta bắt ông ra khỏi giường và mặc quần áo. Ông hoàng nghĩ người ta dẫn mình bắn đến nỗi khi xuống cầu thang dẫn đến hố của pháo đài ông hỏi:
      - Chúng ta đâu thế này?
      Cảm thấy hai cánh tay bị lạnh, ông xiết tay người quản lý lâu đài xách đèn hỏi :
      - Người ta cho giam tôi vào xà lim à?
      Chỉ lát sau ông được giải thích hết nên chẳng ai cần trả lời. Dưới ánh sáng của ngọn đèn từ tay Harel, người ta đọc bản án của ông. Công tước thản nhiên nghe đọc. Sau đó ông rút lá thư từ trong túi, chắc ông phòng sẵn cho tình huống này.
      Lá thư có kèm lọn tóc và chiếc nhẫn vàng. Ông trao nó cho trung uý Noriot, người ông cảm thấy gần gũi và thân thiện nhất từ khi về Vincennes. Viên chỉ huy chịu trách nhiệm xử bắn hỏi ông:
      - Ngài có muốn quỳ ?
      - Sao phải làm thế? - ông hoàng hỏi.
      - Để đón nhận cái chết.
      - người Bourbon chỉ quỳ gối trước Chúa mà thôi!
      Đám lính lùi lại vài bước. Đúng lúc ấy con chó vốn theo chân công tước từ Ettenheim chạy ra khỏi phòng đến dụi vào chân ông và sủa lên vui vẻ. Hoàng thân cúi xuống để vuốt ve nó, khi thấy đám lính chuẩn bị vũ khí, ông :
      - Hãy chăm sóc cho con Fidèle đáng thương của tôi, đó là tất cả những gì tôi cầu các vị - Rồi đứng thẳng dậy, ông - Tôi thuộc về các , hãy làm !
      Bốn khẩu lệnh lần lượt: " Chuẩn bị vũ khí!", " Lên đạn!", " Ngắm!", "Bắn!", tiếng nổ chát chúa vang lên và hoàng thân đổ vật xuống. Ông nằm sấp và còn nguyên quần áo trong cái hố đào từ trước. Chỉ lát sau, thi thể bị lấp đầy đất. Đám lính lấy chân dậm đất để cố gắng xoá dấu vết họ để lại cỏ.
      Mới đọc xong bản án, tất cả các thành viên của uỷ ban quân muốn rời khỏi Vincennes. Ai cũng gọi xe nhưng họ bối rối trước cổng lâu đài vì chẳng có chiếc xe nào của những người vừa tham gia vào cái chết của ông hoàng bất hạnh trước khi tiếng súng vang báo hiệu mọi việc kết thúc cả.
      Mãi sau cửa mới mở và người nào người nấy vội lên xe, ra lệnh cho người đánh xe rời khỏi cái lâu đài đáng nguyền rủa này càng nhanh càng tốt. Có thể rằng tất cả những con người hùng này có thể chiến trường, đối diện với cái chết họ lùi bước nhưng bây giờ hấp tấp chạy chốn trước thây ma.
      Savary có lẽ là người bị ấn tượng hơn những người khác cũng lên đường về Paris. Đến trạm gác, gặp ngài Réal đến Vincennes trong bộ quần áo hội đồng. chặn ông lại hỏi:
      - Ngài đâu đấy?
      - Đến Vincennes - ông Réal đáp.
      - Ngài đến đó làm gì? - Savary hỏi.
      - đến thẩm vấn công tước Enghien theo lệnh của ngài Đệ nhất Tổng tài chứ là gì nữa.
      Công tước Enghien chết cách đây mười lăm phút rồi - Savary .
      Ông Réal kêu lên ngạc nhiên gần như khiếp hãi và tái mét người.
      - Ôi tại sao lại vội vàng làm hại ông hoàng bất hạnh ấy thế?
      "Câu trả lời cho câu hỏi đó, tôi bắt đầu nghi ngờ cái chết của công tước Enghien là tác phẩm của ngài Đệ nhất Tổng tài" - Savary như vậy trong tập Hồi ức của mình.
      Ông Réal quay trở lại Paris còn Savary thẳng đến Malmaison để báo cáo cho ngài Đệ nhất Tổng tài biết mình thấy gì. Lúc đó là mười giờ. Ngài Tổng tài cũng ngạc nhiên như ngài Réal khi nghe thông báo về cái chết này. Làm sao họ lại thẳng thừng với phạm nhân khi ông hoàng muốn gặp ông?
      - Theo những gì tôi biết về tính cách của ông ta, tất cả có thể dàn xếp được giữa chúng tôi - Ngài Bonaparte rồi lại bước những bước dài - Trong chuyện này có điều gì đó khiến ta hiểu! Việc uỷ ban đồng ý thỉnh cầu của công tước Enghien có gì phức tạp. Mà mong muốn ấy có ngay từ lúc đầu vụ xét xử! Việc tiến hành bản án chỉ diễn ra sau khi ngài Réal thẩm vấn điểm quan trọng cần làm sáng tỏ cơ mà.
      Ông nhắc lại:
      - Ở đây có cái gì đó xảy ra với tôi? Vụ này chẳng đến đâu và chỉ nhằm mục đích khiến tôi trở nên bỉ ổi!
      Cũng khoảng mười giờ, đô đốc Truguet hoàn toàn chưa biết kiện định mệnh này xảy ra, đến La Malmaison để báo cáo với ngài Đệ nhất Tổng tài công việc do ông chịu trách nhiệm tổ chức tàu thuyền ở Brest. thể vào phòng làm việc của ngài Tổng tài vì ông tiếp Savary, viên đô đốc hải quân đành chờ ở phòng khách. Ông ngạc nhiên khi thấy phu nhân Bonaparte nước mắt lã chã và ở tình trạng rất tuyệt vọng. Bà vừa được tin vụ hành quyết hoàng thân, bà thể dấu được nỗi sợ hãi cho tương lai sau thảm hoạ kinh khủng này.
      Chính bản thân đô đốc khi được tin bất ngờ này cũng phải rùng mình và nỗi lo lắng càng tăng lên khi ngài Tổng tài cho gọi ông. Đến phòng làm việc của ngài Bonaparte, ông cố gắng trình bày:
      - Thưa công dân Tổng tài, tôi đến báo cáo công việc ngài giao cho tôi về hạm đội Brest.
      - Cảm ơn - Bonaparte và tiếp tục lại lại, sau đó ông đột ngột dừng lại - Này Truguet, lại bớt được tên Bourbon.
      - Ái chà! - Truguet - Có phải Louis XVIII may chết rồi ?
      - . Thế tốt! - Bonaparte giận dữ - Tôi cho bắt công tước Enghien ở Enenheim; tôi cho giải về Paris và sáu giờ sáng nay bị bắn ở Vincennes.
      - Nhưng mục đích của hành động nghiêm khắc này là gì vậy?
      - Thực tình, đến lúc phải chấm dứt bọn sát nhân nhắm vào tôi Bây giờ, người ta tôi muốn sắm vai Monck nữa - Bonaparte đáp.

      Hai ngày sau thảm hoạ đó, Boumerine lo ngại trước tình trạng của phu nhân Bonaparte liền gởi thư hỏi xem bà có thể tiếp ta . Lá thư khẩn được chấp nhận, Boumerine chạy vội đến La Malmaison và được đưa ngay vào phòng nơi chỉ có Joséphine, phu nhân Louis Bonaparte và Rémusat. Cả ba đều rất buồn.
      - Boumerine đây rồi - Phu nhân Bonaparte kêu lên khi nhìn thấy chàng này - Ôi là bất hạnh khủng khiếp! Giá ngài biết ông ta từ trước đến giờ! Ông ấy lánh mặt, sợ tiếp xúc với tất cả mọi người, thế mà ai lại đổ cho ông ta có hành động như thế chứ?
      Boumerine biết mọi chi tiết về cuộc hành án qua Harel nên kể lại.
      - là ác độc! - Joséphine kêu lên. Ít ra người ta cũng bảo đó là lỗi của tôi vì tôi cố gắng ngăn cản dự định thảm thiết này. Ông ấy cho tôi biết nhưng tôi đoán được. Ôi giá ngài biết ông từ chối lời thỉnh cầu của tôi thế nào? Tôi đến quỳ gối trước ông ấy thế mà ông ấy giận dữ "Hãy mà lo chuyện của . Đây phải là chuyện của đàn bà, hãy để tôi yên?" Rồi ông ấy đẩy mạnh tôi như lần ông ấy về Ai Cập. Rồi dư luận Paris thế nào? Tôi chắc là đâu đâu cũng có lời nguyền rủa bởi vì ở đây ngay cả những kẻ nịnh bợ cũng có vẻ e dè trước có mặt của ông ấy. Ngài cũng biết khì hài lòng về mình ông ấy cũng tỏ ra như vậy với tất cả mọi người rồi đấy; ai dám với ông ấy nửa lời. Còn đây là tóc và chiếc nhẫn vàng ông hoàng tội nghiệp xin tới gửi cho người dấu của ông ta. Viên đại tá mà ông ấy tin tưởng đưa cho Savary và Savary trao lại cho tôi. Savary cũng nước mắt lưng tròng khi kể với tôi về giây phút cuối cùng của công tước đến nỗi chính cậu ta cũng phải xấu hổ. "Ôi, kể ra sao thưa phu nhân - ta vừa vừa gạt nước mắt - nhưng người ta thể nhìn con người như thế ra thấy xót xa”.

      Ngài Chateaubriand chưa đến đại sứ quán Valais, lúc ngang qua vườn Tuileries tình cờ nghe được nam nữ rao tin chính thức. Những người qua đường vội dừng lại, sững sờ trước những lời sau:
      "Bản án của uỷ ban quân đặc biệt triệu tập tại Vincennes tuyên án tử hình cho người có tên là Louis-Antoine-Henri de Bourbon tức công tước Enghien, sinh ngày 2 tháng 8 năm 1772 ở Chantilly".

      Lời rao ấy giáng xuống ông như tiếng sét nổ ngang tai, trong giây lát, ông cũng sững sờ như những người khác. Sau đó, ông trở về nhà ngồi vào bàn viết đơn xin từ chức rồi ngay ngày hôm đó gửi cho Bonaparte.
      Ngài Bonaparte nhận ngay ra nét chữ của Chateaubriand, ông xoay xoay lá thư trong tay mấy lần rồi mới bóc niêm phong và đọc. Đọc xong ông giận giữ ném nó xuống bàn:
      - Càng tốt! - Chúng tôi bao giờ có thể hoà hợp được, ông ta chỉ là quá khứ, tôi mới là tương lai!
      Phu nhân Bonaparte quả nhầm khi lo ngại ảnh hưởng của cái chết của công tước Enghien. Qua những người rao tin, Paris hồi lại bằng những lời bàn tán xôn xao, chỗ nào đến từ "xét xử" công tước Enghien mà đâu đâu cũng "ám hại" công tước Enghien. ai tin công tước là thủ phạm và cuộc hành hương kéo đến xem hố chôn ông ta.
      Nhưng người ta cho lấp cỏ lên đó khiến ai có thể nhận ra chỗ nào là chỗ chàng trai trẻ bị chôn nếu con chó chỉ cho họ vì lúc nào nó cũng nằm lên chỗ ấy. Đám người nhìn trân trân vào cái hố cho đến khi trước mắt khiến hình ảnh ấy nhào , thế là họ thầm gọi:
      - Fidèle! Fidèle! Fidèle!
      Con chó đáng thương đáp lại những tiếng gọi trìu mến ấy bằng những tiếng rên dài và buồn bã.

      buổi sáng, người ta tìm mãi mà thấy con Fidèle đâu, chỗ của nó vẫn còn hiển với những ai nhìn thấy bằng tấm lòng, còn Fidèle lo ngại cảnh sát biến mất.

    5. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 42: Tự sát


      Chúng ta trở lại với Pichegru, ban đầu ông ta chối bỏ tất cả mọi việc nhưng cận vệ của Moreau nhận ra ông ta là người bí mật đến nhà ông chủ của Pichegru chối cãi nữa và chịu chung số phận như Georges.

      Khi đến nhà ngục Temple, người ta dành cho Pichegru phòng tầng trệt. Đầu giường của ông quay ra cửa sổ nên chiếc bàn bên cạnh giường được ánh sáng từ cửa sổ chiếu vào rất , nhờ đó ông có thể đọc giường. Bên ngoài cửa sổ có nhóm canh gác có thể quan sát nhất cử nhất động của ông ta trong phòng.

      Giữa Georges và Pichegru chỉ có phòng chờ nho ngăn cách. Có cảnh sát bị nhốt vào phòng này, chìa khoá do người gác cổng giữ. ta chỉ có thể báo động bằng cách gọi ngoài cửa sổ, khi đó lính gác ngoài hành lang chạy báo tin cho người gác cổng.
      Như vậy Pichegru hầu như có hai cảnh sát kè kè rời mắt nửa giây, thêm nữa phòng của ông ta chỉ cách có bức vách với phòng của ngài Bouvet de Lozier, chúng ta chắc còn nhớ ông này từng có tự tử bằng dây cà vạt. Cách đó ba bốn bước về phía tiền sảnh phía bên phải là phòng của Georges mở cửa suốt ngày đêm. Có hai cảnh sát hiến binh và cảnh sát hình theo dõi ông ta.
      Sau buổi gặp ngài Réal, Pichegru giống như Georges trước đây từng bị hai hiến binh ở trong phòng, cầu điều hai lính gác phiền toái này . Lời đề nghị được chuyển đến ngài Bonaparte. Ông nhún vai :
      - Việc gì phải làm ta mệt mỏi cách vô ích? Đám lính ấy ở trong phòng phải để ngăn ta chạy trốn mà để ngăn tự tử. Và khi ai đó muốn chết thế nào cũng đạt được mục đích.
      Người ta để cho Pichegru lọ mực và cây bút lông ngỗng cho ông ta làm việc. Đó là những dự định liên quan đến việc chỉnh đốn kinh tế đảo Guyane, thứ làm ông rất thích. ràng với khả năng hoạch định chiến lược gấp đôi ngày thường, là con người giỏi tính toán số liệu cộng với những ký niệm săn mảnh đất biển này ông bắt tay vào việc ngay với niềm hân hoan thích thú.
      Việc Bonaparte ám chỉ Pichegru có ý định tự vẫn phải là vô căn cứ. Hầu tước Rivière kể có đôi lần lang thang cùng Pichegru ở Paris vì sợ về nhà dễ bị bắt, viên tướng đột ngột dừng lại, gí họng súng vào đầu mình và :
      - Kỳ thực, cần phải trốn đâu nữa, chúng ta dừng lại ở đây thôi!
      Ông Rivière xông vào gỡ khẩu súng ra. Pichegru ít ra là lúc đó nghĩ lại và bỏ ý định tự tử. Sau đó ông dẫn Rivière đến nhà phụ nữ đồng ý cho họ nhờ phố Noyers. Đến đó, Pichegru đặt con dao găm lên bàn và :
      - Còn tối như hôm nay nữa thôi rồi tất cả chấm hết.
      Charles Nodiers, trong những hồi ức về thời kỳ cách mạng kể chuyện khá kỳ lạ, nó giống như điềm báo cho người mười năm sau phải vào Temple: "Giống như tất cả bộ tham mưu, Pichegru thắt cà vạt bằng lụa đen khít quanh cổ. như mốt thời đó đeo cà vạt kiểu Saint-Just, chàng này chỉ quấn nút. Theo lệnh của Saint-Just, mọi người đều để nguyên trang phục khi ngủ, Pichegru và hai thư ký của mình ngủ cùng phòng, mỗi người có tấm nệm trải xuống sàn nhà. Pichegru rất ít ngủ, chỉ ba bốn tiếng gần sáng mà thôi".
      đêm, Nodiers chìm trong giấc ngủ nặng nề, ông ta gặp cơn ác mộng trong đó các thổ dân da đỏ xiết cổ mình ông ta cảm thấy có bàn tay luồn xuống cổ nới nút cà vạt ra. Ông bật thức giấc, mở mắt và nhận ra tướng quân quỳ gối cạnh mình.
      - Là tướng quân ư?
      - Ngài cần tôi sao?
      - - Pichegru đáp - Ngược lại, chính ông mới cần tôi.
      - Ông bị đau và kêu la, tôi nhìn qua cũng biết ngay lí do. Khi đeo cà vạt chặt, cần phải cho chúng nghỉ ngơi khi ta ngủ nếu chỉ cần quên là gây ra nghẽn máu và chết tức . Đó là cách tự tử đấy.
      Trong những lần ngài Réal đến thăm và hỏi han về cách thuộc địa hoá đảo Guyane, ông hỏi xem liệu Pichegru có cần gì .
      - Có sách, mang cho tôi sách - Pichegru cầu.
      - Sách lịch sử ư? - ông Réal hỏi.
      - ! Sách lịch sở ư, tôi đội đầu quá nhiều rối, hãy gửi cho tôi sách của Sénèque: Tôi giống như con bạc.
      - Tướng quân - Ngài Réal vừa vừa cười - con bạc chỉ đọc Sénèque khi nó thất bại hoàn toàn. Ngài đâu đến mức như vậy!
      Đồng thời, Pichegru cũng muốn được gửi bức chân đung người ta vẽ ông mà ông gắn bó nhất. Sách của Sénèque được gửi đến và ngài Desmaret lấy bức hoạ nhưng thấy nó bị thay đổi nên lại thôi gửi nữa.
      Khi đấy chỉ có mỗi sách, Pichegru hỏi bức hoạ đâu, người ta đưa ra lý do từ chối: nó quá xấu.
      - Thế đấy! - Pichegru với người gác cổng - Tôi nghĩ ngài Réal chế giễu tôi khi ông ấy về Cayenne với tôi.
      Và ông ta sốt ruột chờ ngài Réal đến thăm lần thứ hai.
      Nhưng vào thời điểm ấy, vụ việc của Công tước Enghien xảy ra khiến cho ngài Réal bận tối tăm mặt mũi, có thời gian đến thăm Pichegru lần nữa. Chính thế mà người này quyết định tự tử. Ban đầu ông ta kêu lạnh nhưng vì trong phòng có lò sưởi nên người ta cho đốt lửa. Muốn vậy, người ta phải mang đến những thanh củi khô cho dễ cháy.
      Ngày hôm sau nữa, khi vào phòng ban sáng, người ta thấy ông nằm giường thanh thản, bất động. Họ lay gọi.
      Ông chết!
      giờ sau khi nhận được tin dữ, tức là khoảng tám giờ sáng, Savary gác ở Tuileries nhận được tờ giấy của hiến binh ưu tú, hôm ấy chỉ huy trạm gác ở Temple. ta báo vài phút trước, tướng Pichegru được phát chết giường và mọi người chờ ai đó đến xem xét việc. Ngay lập tức Savary chuyển tờ giấy đến cho ngài Tổng tài thứ nhất. Ông cho gọi ta đến, tưởng Savary biết nhiều hơn. Thấy này biết gì, ông bảo:
      Nhanh lên, đến đó xem có tin tức gì . cái chết cho kẻ chinh phục Hà Lan mới hay hớm làm sao!
      Savary để lỡ phút nào vội chạy đến Temple, đúng lúc ngài Réal cũng vừa tới nơi theo chức danh chánh án đến xem xét tình hình. Chưa ai vào phòng ngoài người gác phát tai nạn trước tiên. Ngài Réal và Savary được đưa lại gần chiếc giường của nạn nhân và nhận ra ông ta rất dù khuôn mặt trở nên đỏ bầm do hậu quả của chứng ứ máu.
      Ông tướng ấy nằm nghiêng bên phải, quanh cổ, chiếc cà vạt bị xoắn như sợi dây cáp. Hình như ông ta quấn nó ở mức chặt nhất có thể, sau đó lấy đoạn củi dài mười lăm centimet luồn vào rồi vặn cho đến khi sợi dây siết mạnh cho đến lúc còn tỉnh táo nữa, đổ vật xuống gối, do sức nặng của cái cổ đè xuống, đoạn củi níu chặt để đây nới ra. Trong trường hợp này, việc ứ máu chưa thể xảy ra nên tay òng ta còn luồn lên cổ và chạm vào cái tay quay.
      Bên cạnh đó là chiếc bàn , bàn, quyển sách mở sẵn như ai đó vừa đọc dở dang. Đó là cuốn sách Sénèque mà ngài Réal gửi cho ông ta. Nó vừa mở đúng trang mà Sénèque : "Kẻ nào muốn làm phản trước hết phải đừng sợ chết”.
      Rất có thể, đây là đoạn cuối cùng Pichegru đọc. Ông ta tưởng, nhất là sau tin đồn về cái chết của công tước Enghien, trước sau viễn cảnh ông cũng hơn gì ngoài bản án của ngài Tổng tài hoặc phải chết.
      Người ta cho thẩm vấn tất cả những ai có thể biết các chi tiết về cái chết bất ngờ và kỳ lạ ấy bởi lẽ, suy nghĩ đấu tiên nảy ra trong đầu Savary là ngài Bonaparte bị đổ lỗi đầu tiên về cái chết ấy.
      Trước tiên, thẩm vấn viên hiến binh gác trong phòng chờ ngăn giữa Georges và Pichegru. Suốt đêm, người này nghe thấy gì ngoài lúc giờ sáng có tiếng tướng Pichegru ho nhưng ông ta nén lại ngay chắc vì sợ làm mọi người xung quanh thức giấc. Tiếp đó, Savary thẩm vấn viên hiến binh gác ngoài cửa sổ, người thấy tất cả mọi việc trong phòng nhưng này cũng khẳng định thấy gì cả. Thế là ngài Réal đâm ra tuyệt vọng.
      có gì chứng tỏ hơn là vụ tự tử nhưng dù gì người ta vẫn cho là ông ta bị siết cổ.
      Quả nhiên, người ta như vậy, nhưng thất lại đúng. Kể ra cũng chẳng có lý do gì để Pichegru phải nghĩ quẩn vì ngài Tổng tài giao ông ta dự án mà ông ta dành cả đời theo đuổi cơ mà, dự án sử dụng đến tiếng tăm của chính ông.
      Ngài Bonaparte chỉ đặc ân cho Pichegru, người thầy cũ của mình ở Brienne mà còn giao cho ông nhiệm vụ vinh dự ở Cayenne, nhiệm vụ xoá bớt tiếng xấu của ông dù bản án của Moreau có như thế nào.
      Vả lại sau sức ép dư luận về vụ hành quyết công tước Enghien, dại gì ông lại phải nhân lên lời bàn tán xì xào của công chúng chống lại ông bằng cách ám hại Pichegru trong đêm.

      Tiếc thay, - Ngài Bonaparte với Réal khi thấy ông này quay lại - Chúng ta cứ ngỡ giải quyết vấn đề Guyane theo cách của ông ấy chỉ với 6 triệu người da đen và 6 triệu đồng !

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :