1. QUY ĐỊNH BOX TRUYỆN SƯU TẦM :

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]
    ----•Nội dung cần:
    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)
    - Nguồn
    - Tác giả
    - Tên editor +beta
    - Thể loại
    - Số chương
    Đặc biệt chọn canh giữa cho đoạn giới thiệu
    ---- Quy định :
    1. Chỉ đăng những truyện đã có ebook và đã được public trên các trang web khác
    2 . Chỉ nên post truyện đã hoàn đã có eBook.
    3. Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn
    4 . Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Hiệp sĩ Sante Hermine - Alexandre Dumas (122 chương)

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây (Sưu Tầm)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 33: Rình hụt


      Hoàn cảnh đặc biệt giúp cảnh sát tìm ra dấu vết của ông Troche. Hai, ba năm trước, cuộc đụng độ giữa quân Bảo hoàng và dân buôn lậu xảy ra nhân chuyến cập tàu có nổ súng và trong số gói hàng cháy dở còn sốt lại bãi chiến trường, người ta đọc được dòng chữ; Gửi công dân Troche, thợ đồng hồ ở…
      Lúc ấy ai cũng biết ở Dieppe có công dân Troche, do đó ai nghi ngờ công dân Troche có dính líu, và chính lá thư ấy khiến ông ta trở thành đối tượng quan tâm của chính phủ.
      Khoảng sáu ngày trước, người ta bắt công dân Troche và dẫn ông ta từ Dieppe về Paris. Đó là người miền Normand khoảng bốn mươi lăm đến năm mươi tuổi, người này được cho gặp Querelle nhưng hôm ấy thấy Querelle muốn nhận mình nên ông ta cũng nhận Querelle. Mặc dù chối tội, người ta vẫn cho ông Troche vào nhà giam.
      Nhưng vẫn còn Troche con, chàng trai cao lớn khoảng mười chín, đôi mươi. Nhìn bề ngoài rất ngây thơ nhưng ta còn giỏi buôn lậu hơn chữa đồng hồ. Bị bắt đến Paris, ta được đưa đến chỗ Savary, cận vệ của ngài Tổng tài. Sau khi nghe cha mình thú nhận tất cả. Nicolas Troche tin ngay và cũng nhận tội.
      Lời khai của này làm hại ta nhiều. ta được tin những người buôn lậu muốn cập bến, ta ra hiệu cho họ. Nếu biển lặng, ta giúp họ, nếu biển động ta chờ "lặng sóng" rồi giúp họ đến khi họ lên đỉnh vách đá ấy. Sau đó, ta chỉ gặp người để lấy tiền là ba phăng cho mỗi lượt người được giúp lên đỉnh vách đá. Đó lâ công việc từ thời xa xưa của nhà Troche, con trai cả trong nhà mới được thừa kế hưởng lợi nhuận ấy và nhà Troche kiếm cả ngàn phăng mà bao giờ nghĩ họ là ai khác ngoài dân buôn lậu.
      Qua cánh cửa hé mở, tướng Bonaparte nghe thấy toàn bộ cuộc hỏi cung. Nó hoàn toàn giống như ông ta dự đoán. Savary hỏi liệu sắp có chuyến cập bến nào hay . Cậu con trai Troche trả lời rằng trong lúc Savary dành hân hạnh cho ta chiếc tàu từ neo đậu trước vách đá Biville chỉ chờ lặng sóng là cập vào bờ.
      Savary có kế hoạch do ngài Tổng tài vạch cho. Nếu Nicolas khai điều mà ta vừa làm. Savary cùng ta để chặn chuyến tàu mới đó.
      Chàng trai Troche bị theo dõi suốt cả ngày hôm đó.
      Dù viên tuỳ tùng của ngài Tổng tài rất nhanh nhẹn nhưng phải bảy giờ tối ta mới khởi hành chiếc xe ca khổ to, trong đó có tá hiến binh ưu tú.
      Ban đầu, người ta định chuyển Nicolas Troche vào trại giam để ta gặp lại người cha Jéromé Troche của mình, nhưng chàng vốn thích khí thoải mái hơn là nhà tù rằng nếu bờ có tín hiệu quen thuộc, tàu ghé đậu.

      Troche là thợ săn thực thụ, ta chỉ cần săn mà bất cần là săn cho ai. Hơn nữa, ta bị kích động với ý nghĩ rằng con đường mình biết đâu dẫn ta đến đoạn đầu đài sao, tốt nhất là nên nhiệt tình giăng bẫy cho kẻ sắp đến cũng giống như từng giúp những người trước vậy. Savary đến Dieppe sau khi rời Paris hai mươi tư tiếng. được uỷ quyền của Bộ chiến tranh có thể tuỳ ý hành động trước mọi tình huống.
      Troche ngay lập tức ra hiệu bên bờ biển. Biển vẫn rất xấu và chiếc tàu hai cột buồm còn ở đó.
      Thời tiết xấu khiến cho tàu nào vào bờ được. Savary đưa Troche ra bờ biển ngay từ sớm. Chiếc tàu nọ vẫn ở đó chừng nào lặng gió, nó có thể tiến lại gần chân vách đá. Nhưng Savary muốn dừng chân ở Dieppe. cải trang thành thương nhân cùng tá người của mình đến Biville. Họ là những người được lựa chọn từ những nhân viên giỏi giang .
      Savary gửi ngựa và theo hướng dẫn của Troche, vào ngôi nhà mà những người con tàu nước thường lui đến.
      Ngôi nhà này hoàn toàn cách biệt và nằm ngoài tầm kiểm soát của các nhà chức trách, nằm ở tận cùng ngôi làng quay ra biển, nó giúp cho những ai đến đây náu có lợi là ra vào mà bị ai phát lủện.
      Savary để người của mình ở ngoài vườn rồi bước qua hàng rào tiến về phía ngôi nhà . Qua cánh cửa chắn gió hé mở, thấy chiếc bàn chất đầy rượu vang, bánh mì cắt sẵn và những lát bơ.
      Savary quay lại phía hàng rào, gọi Troche lại và chỉ cho ta chuẩn bị ăn uống ấy.
      - Đó là bữa ăn mà chúng tôi chuẩn bị sẵn cho những ai đến bờ. Điều này chứng tỏ tàu cập bến vào đêm nay, ngày mai hoặc mấy hôm nữa. Nếu thuỷ triều hạ, họ có mặt ở đây trong vòng mười lăm phút hoặc trước ngày mai - Troche đáp.
      Savary chờ cách vô ích, ngày hôm đó và cả những ngày sau vẫn thấy tàu cập vào bờ. Tuy nhiên, chuyến tàu ấy được chờ đợi cách nóng lòng nhất. Tin đồn cho rằng vị hoàng tử nọ chuyến tàu ấy.
      Ngay từ sớm, Savary ra vách đá mặt đất phủ đầy tuyết trắng đường , ngỡ mình có kết quả trong giây lát.
      Nhưng gió thổi từ bờ biển thổi vào dữ dội, xoáy theo những bông tuyết trắng đến nỗi người ta chỉ nhìn ra xa được vài bộ. Tuy thế, người ta vẫn chờ đợi.
      Có tiếng vang lên từ đoạn đường gồ ghề ven vách đá, Troche đặt tay lên cánh tay Savary và :
      - Đó là người của chúng tôi, tôi nghe thấy giọng của Pageot de Pauly.
      Pageot de Pauly là chàng thanh niên trạc tuổi Troche thay ta làm người dẫn đường trong lúc Troche vắng mặt.
      Savary sai người chặn đoạn đường gồ ghề còn mình cùng với Troche và hai người nữa tiến về phía có tiếng .
      Bốn người bất thình lình ra đỉnh vách đá, tiếng kêu "Đứng lại!" vang lên khiến những kẻ đêm phải khiếp sợ
      Nhưng Pageot nhận ra Troche và reo to:
      - Đừng sợ, có Troche ở đó!
      Hai toán người tiến lại gần nhau, những người cùng Pageot chỉ là dân trong làng đến chờ tàu vào bờ.
      Lần này, con tàu thử nhưng nó thể vì sóng quá lớn, tàu có tiếng vọng đến:
      - Hẹn ngày mai!
      Gió mang câu ấy đến chỗ mấy người dân này. Đây là lần thứ ba con tàu định vào bờ mà được. Ban ngày, nó thả neo ngoài khơi, đậu tại đó suốt cả ngày, buổi tối, nó sáp vào đất liền và định cập bến.
      Savary rình suốt đêm nhưng chỉ có gì xảy ra mà sớm ngày hôm sau, người ta thấy nó giong buồm rời xa bờ tiến về phía nước .
      Savary ở thêm ngày xem nó có quay lại . Trong thời gian ấy, xem sợi dây cáp dùng để leo lên vách đá. Dù là người dễ để con tim nao núng, vẫn phải thừa nhận thà tham gia vào mười trận chiến còn hơn là phải leo lên vách đá dựng đứng có mấy chỗ bám với bão tố quay cuồng xung quanh, bóng tối đầu và biển dưới chân như vậy.
      Ngày nào, cũng gửi tin tức về cho Bonaparte. Đến ngày thứ hai mươi tám, nhận điện phải trở về Paris. Savary tuân lệnh về Paris vì số điểm nhưng bóng tối còn trùm lên số điểm khác.
      Bonaparte nhận được tin chắc chắn rằng con tàu xuất suốt hơn chục ngày do Savary báo hề có ông hoàng nổi tiếng, người mà nếu Georges tuyên bố hành động.
      - Nếu hành động mình, Georges chỉ là kẻ phiến loạn tầm thường. Nếu kết hợp với công tước Berry hay bá tước Altois tức là ông ta trở thành đồng minh của hoàng tử.
      hôm, Bonaparte cho gọi Carnot và Fouché đến bên mình. Chúng ta hãy xem ông tự gì về cuộc gặp mặt ấy trong tập bản thảo viết tay do con tàu Le Heron mang về từ đảo Sainte-Helène nơi mà Bonaparte bị lưu đày:
      "Tuy nhiên, tôi càng lên, phái Jacobin, người tha thứ cho tôi về việc xử em của họ, càng trở nên nguy hiểm. Trong tình hình ấy, tôi cho gọi Carnot và Fouché đến.
      - Thưa các ông - Tôi với họ - sau những cơn phong ba bão táp liên miên, tôi những mong nó chứng tỏ cho các vị tin rằng lợi ích của nước Pháp vẫn chưa hoà hợp với các chính phủ khác trong suốt thời kỳ Cách mạng, chưa ai bằng lòng về vị trí địa lý của nước Pháp, về dân cư và số lượng thuộc địa của nó. bình yên mà nhà nước mang lại nay vẫn còn như núi lửa, phải luôn lường trước ngày nó hoạt động với lớp dung nham sôi sục. Cũng giống như bao nhiêu người cao cả khác, tôi thiết nghĩ chỉ có cách để cứu nước Pháp và bảo đảm cho lợi ích mãi mãi về sau với tự do mà nó dành được đó là đặt nó dưới chế độ quân chủ lập hiến trong đó ngai vàng được thừa kế.
      Carnot và Fouché hề ngạc nhiên trước đề nghị của tôi; họ chờ đợi điều này. Carnot thẳng là ông ta thấy tôi nhòm nhó ngai vàng.
      - Khi điều đó được thực - Tôi trả lời ông ta - ông thấy có gì phải tiếc khi mà kết quả mang lại vinh quang và bình yên cho nước Pháp?
      - Tôi tiếc khi chỉ trong ngày ngài phá huỷ toàn bộ tác phẩm của toàn dân tộc và điều này có thể làm chính ngài hối hận.
      - Tôi thấy mình còn gì để với Carnot nên kết thúc buổi chuyện tại đó nhưng với Fouché khác. Sau vài ngày, tôi lại cho gọi ông ta.
      Carnot toạc bí mật của tôi mà thực tế, nó cũng còn là bí mật nữa, cầu ông ta im lặng, tôi cớ gì mà bực mình về khiếm nhã của ông ta. Mà dẫu nó cũng phải để mọi người biết kế hoạch của tôi xem phản ứng của họ ra sao.
      Các sắc lệnh đều do tôi ban ra, kể từ khi tôi đứng đầu mọi việc Họ có chuẩn bị cho người Pháp thấy ngày tôi cầm cây vương trượng hay họ có tin sắc lệnh ấy có thể mang cho dân chúng bình yên và hạnh phúc. Đó là điều tôi biết như có điều luôn đúng là mọi việc êm đẹp khi có bàn tay của quỷ, đó là Fouché. Nếu ông ta truyền tin thiện chí, ông ta có ít lỗi, nếu ông ta gây cho tôi bối rối, đó là con quái vật.
      Vừa có tin tôi chuẩn bị lên ngôi, Fouché, nhờ các tay chân của mình bề ngoài phải do ông ta chủ mưu, loan tin đến tất cả các chủ chốt của phái Jacobin rằng tôi muốn lập lại ngai vàng chỉ trong mục đích duy nhất là muốn quyền thừa kế vương miện được hợp pháp. Người ta còn thêm thắt rằng bằng hiệp ước bí mật, tôi áp đặt việc tái thiết vương triều cho tất cả các cường quốc nước ngoài.
      bịa đặt quỷ quyệt, nó đặt lên lưng tôi tất cả mọi lá thư trong đó lời kêu gọi của nhà Bourbon có thể làm phương hại đến cả sinh mệnh của tôi.
      Nhưng hồi đó tôi chưa hiểu Fouché nên thể nghi ngờ ông ta trong vụ việc đen tối ấy. Những gì tôi đều thà đến nỗi tôi còn giao cho ông ta thăm dò các ý kiến. Ông ta chẳng cần đâu vì tất cả ý kiến đều là sản phẩm của ông ta.
      - Phái Jacobin - ông ta - dốc giọt máu cuối cùng trước khi để ngài ngồi lên ngai vàng. phải họ nghi ngại chế độ quân chủ, tôi còn nghe biết đâu họ cũng thấy đây là cách tốt nhất để kết thúc mọi việc, những tất cả là do chúng muốn đẩy nhà Bourbon vì chúng cho rằng chế độ nào cũng đáng sợ.
      Đoạn diễn văn này tuý cỏ dự báo trở ngại nhưng hề khiến tôi nản lòng, tôi hề nghĩ đến nhà Bourbon. Tôi tỏ thái độ ấy với Fouché và hỏi ông ta làm thế nào để chỉnh lại những tin đồn nhảm và thuyết phục phái Jacobin rằng tôi chỉ làm việc vì mục đích của mình.
      Ông ta xin tôi hai ngày để đưa ra câu trả lời.
      Hai ngày sau, như Bonaparte , Fouché đến. Ông ta :
      - Chiếc tàu mà Savary báo với chúng ta biến mất sau ngày thứ mười . Chiếc tàu ấy chỉ chứa những tay chân phụ tá, cho họ lên bờ biển Bretagne rồi trở lại bằng con đường khác. Ngài còn lạ gì các ông hoàng nhà Bourbon, bá tước Artois và công tước Berry họ lại chịu lộ diện chiến đấu với ngài ở Paris ư. Họ bao giờ ra mặt (mặc dù trước đây lời kêu gọi khắp nơi) chiến đấu với quân Cộng hoà ở Vendée. Bá tước Artois còn mải dành tình của mình cho các quý và quý bà nước xinh đẹp Còn về công tước Barry, ngài cũng biết ông ta đấy, bao giờ ông ta chứng tỏ lòng can đảm cá nhân trong các cuộc đọ gươm hay đấu súng điều mà các hoàng tử khác bỏ qua cơ hội. Tuy nhiên bên bờ sông Rhin, cạnh nước Pháp khoảng bảy tám dặm có người đàn ông rất dũng cảm, người hai mươi lần chứng tỏ lòng can đảm ấy khi chiến đấu với quân Cộng hoà. Đó là con trai của hoàng thân Condé, công tước Enghien.
      Bonaparte rùng mình.
      - Cẩn thận đấy ông Fouché - Bonaparte - Mặc dù tôi thẳng thắn nôi dự định trong tương lai của mình đối với ông nhưng dần dần tôi thấy ông sợ đấy. Ông sợ ngày tôi hoà hảo với nhà Bourbon và ngày đó, hỡi con người hay diệt trừ các chế độ, ông ở trong tình thế bấp bênh. Còn nếu người nhà Bourbon chống lại tôi, nếu điều đó ra ràng trước mắt tôi, cũng triều đình hay ý kiến xã hội nào ngăn tôi được. Tôi muốn đến cùng vận mệnh của mình, dù nó thế nào, tôi cùng vận mệnh ấy được viết lên cuốn sách định mệnh.
      Tất cả chướng ngại con đường của tôi, tôi lật đổ hết, nhưng tôi cần phải có quyền lực và lý trí.
      - Thưa ngài - Fouché - phải vô tình hay vì mục đích cá nhân mà tôi với ngài về công tước Enghien vì dạo trước sau khi mang thông điệp của Cadoudal tới ngài, Sol de Grisolles, thay vì đến London gặp lại tướng quân của ta, sang Đức. Tôi dễ dàng biết ta làm gì bên bờ kia sông Rhin. Tôi sai nhân viên mà ta hân hạnh được gặp ngài hôm nọ theo dõi Sol. Đó là người rất khéo léo, ngài cũng thấy đấy. ta theo Sol đến Strasbourg, cũng vượt sông với này, làm quen với Sol dọc đường và cùng đến Ettenheim. Điều đầu tiên cận vệ của Cadoudal làm là đến thăm đức ông Enghien. Ông này còn mời ta ở lại ăn tối và giữ ta đến tận mười giờ tối.
      - Này này - Bonaparte đột ngột vì ông thấy Fouché muốn đưa ông đâu - Nhân viên của ông ăn tối cùng họ đúng ? Nhưng làm sao ta biết họ gì và vạch kế hoạch gì?
      - Họ gì đâu có khó đoán. Những kế hoạch họ làm cũng dễ hình dung ra. Nhưng, để võ đoán chúng ta hãy dừng ở tính xác thực. Thưa ngài, người của tôi vốn làm chủ thời gian nên thể bỏ lỡ vài tiếng mà làm gì. Quả vậy! ta dùng nó để dò la tin tức, qua đó, ta biết công tước Enghien thỉnh thoảng lại rời Ettenheim bảy tám ngày, ngoài ra ta còn biết có lần ông ấy qua đêm thậm chí hai đêm ở Strasbourg.
      - Chuyện ấy có gì lạ - Bonaparte - Tôi cũng được báo ông ta đến đó làm gì.
      - Ông ta đến đó làm gì vậy? - Fouché hỏi.
      - Ông ta gặp tình nhân của mình - quận chúa Charlotte de Rohan.
      - Bây giờ - Fouché - vấn đề là xem việc gặp phu nhân Charlotte de Rohan, người phải là tình nhân của công tước Enghien mà là vợ ông ta vì ông này bí mật cưới bà ấy (lẽ ra bà có thể sống cùng chồng ở Ettenheim) có phải là cái cớ để ông ấy đến Strasbourg gặp các đồng loã của mình khi mà Strasbourg chỉ cách Paris hai mươi tiếng.
      Bonaparte nhíu mày.
      - Chính vì thế mà người ta khẳng định với tôi ông ta đến đó để xem kịch. Tôi nhún vai mà rằng điều ấy đúng. Dù ông ta đến xem kịch hay - Fouché - tôi cũng mong ngài Tổng tài nên rời mắt khỏi ông hoàng Enghien.
      - Tôi còn làm nhiều hơn thế - Bonaparte - Ngày mai, tôi cử người tin cẩn sang bên kia sông Rhin. ta trực tiếp báo cáo cho tôi, ngay khi ta trở về, chúng ta lại đề cập đến vấn đề này.
      rồi ông quay lưng lại Fouché, điều đó có nghĩa là ông muốn ở lại mình.
      Fouché ra.
      giờ sau, ngài Tổng tài cho gọi thanh tra sở mật vụ đến văn phòng của mình và hỏi có phải trong cơ quan của ta có người thông minh lanh lợi có thể sang Đức để thực nhiệm vụ bí mật, kiểm tra lại các tin tức của nhân viên của Fouché.
      Người này trả lời rằng ông ta có người mà ngài Tổng tài cần tên và hỏi xem liệu ngài Tổng tài muốn tự mình giao nhiệm vụ hay chỉ cần ông ta báo lại cho nhân viên ấy.
      Bonaparte đáp với nhiệm vụ quan trọng như vậy, các cầu cần phải ràng. Do đó, tự tay ông thảo các cầu ngay trong buổi tối và giao cho viên thanh tra chuyển đến sĩ quan nọ.
      Các cầu đó là:
      "Tìm hiểu xem có phải công tước Enghien thường vắng mặt cách bí hiểm khỏi Ettenheim.
      Tìm hiểu những kẻ lưu vong hay lui tới và thường được long trọng đón tiếp.
      Tìm hiểu xem ông ta có quan hệ chính trị với người qua kênh của nước Đức hay ?"
      Tám giờ sáng hôm sau, viên sĩ quan Strasbourg.

    2. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 34: Lời khai của kẻ treo cổ


      Trong lúc ngài Tổng tài soạn các cầu cho viên sĩ quan của sở mật vụ cảnh thương tâm xảy ra tại nhà lao Temple nơi mới có thêm vài tù nhân được chuyển đến.

      Họ là gia nhân của Georges có tên là Picot và hai đồng loã bị bắt cùng ta tại nhà người buôn rượu vang phố Bac cùng ngày mà Thợ Nề thấy Georges ra khỏi đây. Người ta tên thấy tấm bản đồ trong phòng của Picot đánh dấu địa chỉ phố Saintonge, người ta đến đó và bắt được Roger cùng Demonvine, chỉ thiếu chút nữa Coster de Saint-Victor cũng bị tóm.
      Ngay đêm vào Temple, Demonville tự treo cổ. Người ta phát ra ta vì mới có lệnh cai ngục phải xem xét tù nhân hai lần trong đêm. Thông thường, sau khi tống giam tù nhân vào buổi tối, sớm hôm sau quản ngục mới quay lại.
      phạm nhân khác tên là Bouvet de Lozier bị bắt tại nhà bà Saint-Léger nào đó phố Saint-Sauveur ngày 12 tháng Hai. Bị dẫn đến nhà lao Temple, người ta bí mật giam vào cạnh phòng sưởi công cộng. Ban đầu bị đối đãi khá tệ bạc và bị hỏi cung gay gắt.
      Đó là người đàn ông trạc ba mươi sáu tuổi, là quan triều đình giữ chức thượng tướng trong quân đội của Georges, là trong số sĩ quan tin cẩn nhất, ông ta lúc nào cũng có mặt trong đanh sách của Savary.

      Người này là trong số sĩ quan năng nổ nhất và thuê nhà của bà Saint-Léger. còn thuê nhà số 6 phố Grande-Rue ở Chaillot nơi Georges tới gặp với cái tên Larive.
      Khi thấy ngay buổi hỏi cung đầu tiên, khai quá nhiều và sợ còn khai nữa ở buổi hỏi tiếp theo nên quyết định tự sát giống như Demonville vừa làm.
      Quả nhiên, vào khoảng nửa đêm ngày 14 tháng Hai, lấy sợi dây cà vạt bằng lụa đen mắc vào goòng cửa cao nhất để treo cổ.
      Nhưng đúng lúc còn biết gì nữa Savard, người gác ngục kiểm tra. Ông này thấy cửa nặng trịch mở được vội xô mạnh vào, ông nghe thấy tiếng rên khẽ, quay lại thấy tù nhân treo lủng lẳng sợi dây cà vạt. Ông la lên thất thanh, người gác thứ hai tưởng có đụng độ vội chạy vào tay cầm con dao găm.
      - Cắt Elie, cắt - Savard kêu lên và chỉ vào cái cà vạt.
      Elie để lỡ giây phút nào, cắt ngay khiến Bouvet lăn ra đất bất động. Họ ngỡ chết nhưng người quản lý nhà tù ông Fauconnier muốn chắc chắn nên sai người đưa sang phòng lục và cho gọi bác sĩ ở Temple, đó là ông Souppé.
      Ông bác sĩ thấy phạm nhân còn thở nên tiến hành chích máu, máu chảy ra lát Bouvet de Lozier cũng mở mắt. Sau đó chờ cho tỉnh hẳn, người ta đưa đến chỗ công dân Desmarets, chỉ huy cảnh sát tối cao.
      Ở đó gặp ông Réal và những chịu khai tất cả mà còn tự tay viết văn bản. Bảy giờ sáng ngày hôm sau, đúng lúc sĩ quan mật vụ khởi hành sang Đức ông Réal vào gặp ngài Tổng tài. Bonaparte được Constant cắt tóc.
      - Chào ông Hội đồng, chắc có tin gì mới nên tôi mới được gặp ông sớm như vậy?
      - Vâng, thưa tướng quân. Tôi có tin tức tối quan trọng báo chò ngài, nhưng tôi muốn thưa riêng với ngài.
      - Ông đừng ngại Constant. Constant phải là người ngoài.
      - Như ngài muốn, thưa tướng quân, chắc ngài cũng biết Pichegru ở Paris chứ?
      - Tôi biết -Bonaparte trả lời -Fouché cho tôi nghe.
      - Vâng. Nhưng ông ta chưa , chắc Fouché chưa biết, là Pichegru và Moreau gặp nhau để cùng làm phản.
      - Đừng gì nữa. - Bonaparte .
      Rồi ông đưa ngón tay lên miệng ra hiệu cho Réal im lặng. Ông ra lệnh cho Constant làm nhanh tay rồi dẫn uỷ viên Hội đồng nhà nước vào phòng làm việc của mình.
      - Ông đúng - Bonaparte - nếu những gì ông thông báo với tôi là tin này quả vô cùng quan trọng.
      xong, ngài Tổng tài lại làm dấu lên ngực, cử chỉ mà chúng ta thấy đôi lần.
      Réal kể lại chuyện xảy ra tại nhà lao Temple.
      - Ngài tự viết bản lời khai?
      - Nó đây - Réal đáp.
      Trong cơn vội vã, Bonaparte như giật nó khỏi tay Réal. Thông tin Moreau tham gia vào mưu sát hại ông quả là tin động trời. Moreau và Pichegru là hai người duy nhất có thể đặt thế đối trọng với ông trong chiến thuật quân . Bị buộc tội chính xác hoặc bị vu oan là kẻ phản bội nước Pháp, Pichegru bị điệu đến Sinnamary sau ngày 18 Fructidor. Mặc dù được cứu thoát nhờ phép màu từ bàn tay của Chúa, con người này cũng còn đáng sợ đối với Bonaparte nữa.

      Nhưng Moreau ngược lại, rất nổi tiếng trong trận Hohenlinden bị Bonaparte bạc đãi trong chiến thắng vinh quang và lẫy lừng ấy. Moreau sống cuộc sống thanh đạm ở Paris nhưng lại có lực lượng ủng hộ rất lớn. Với các cuộc nổi dậy 18 Fructidor và 13 Vendémaire, Bonaparte nhằm vào phái Jacobin, tức là đảng Cộng hoà cựu hữu. Nhưng tất cả đảng Cộng hoà ôn hoà thấy ngài Tổng tài ngày càng thâu tóm quyền hành và bước dần đến nền đế chế nên toàn bộ đảng này tập hợp lại quanh Moreau, dù về mặt vật chất, nhưng ít ra là về mặt tinh thần.
      Ngoài ra còn có ba bốn tướng khác còn trung thành với các nguyên tắc 89 và thậm chí các nguyên tắc 93 cộng với bất mãn ra mặt trong quân đội do Augereau và Bemadotte cảm đầu hay bất mãn dấu mặt như Malet, Oudet và phe Philadelphes, Moreau trở thành đối thủ tầm cỡ đáng quan ngại. Thế là ngay lập tức, Moreau, nhà Cộng hoà chê trách vào đâu được như Fabius lại chờ thời, cúi đầu tham gia vào mưu của triều đình quân chủ với hai bên là Pichegru cựu quân Condé và Georges, quân Bảo hoàng. Bonaparte chỉ còn nước mỉm cười, ngước mắt lên trời mà rằng:
      - ràng tôi bị sao chiếu mệnh!
      Sau đó ông quay sang Réal.
      - Lời khai này do tự tay viết à?
      - Vâng, thưa tướng quân.
      - Và ký chứ.
      - Ký ràng.
      - Xem nào.
      Và ông đọc rất nhanh:
      "Đó là con người vừa bước ra khỏi nắp ván từ nấm mồ của mình và vẫn còn mang hình bóng của cái chết, ông ta đòi báo thù những kẻ bạc bẽo ném ông ta và dáng phái của ông ta vào lỗ huyệt ấy. Được cử về Pháp để khôi phục triều đình Bourbon, ông ta buộc phải hoặc chiến đấu cho Moreau hoặc từ bỏ mục đích duy nhất trong chuyên của mình”.
      Bonaparte dừng lại hỏi:
      - Sao lại thế này, sao lại chiến đấu cho Moreau?
      - Xin ngài đọc tiếp . - Réal đáp.
      " ông hoàng của nhà Bourbon phải sang Pháp để tham gia với tư cách đứng đầu phe quân chủ. Moreau hứa tập hợp vì lợi ích của nhà Bourbon nhưng khi các đại diện đến Pháp, Moreau lại thay đổi. Ông ấy đề nghị họ chiến đấu cho ông ấy và đưa ông ấy vào chiếc ghế độc tài. việc là thế còn ngài đánh giá chúng thế nào là tuỳ.
      tướng quân từng phục vụ dưới trướng Moreau là Laiolais được cử sang London gặp hoàng tử để trình bày những điểm chính trong kế hoạch đề nghị đưa ra. Ông hoàng chuẩn bị khởi hành về Pháp nhưng trong cuộc hội đàm giữ Moreau, Pichegru và Georges ở Paris, Moreau tỏ thái độ và tuyên bố chỉ có thể hành động vì ghế độc tài chứ cho ông vua nào hết. Thế là có chia rẽ và phe quân chủ thất bại hoàn toàn.
      Tôi gặp Lajolais ngày 25 tháng giêng tại Paris khi ta đến đón Georges và Pichegru trong chiếc xe có tôi ở trong ấy đại lộ Madeleine để dẫn họ đến gặp Moreau. Cuộc bàn bạc diễn ra ở Champs - Elysées. Moreau tuyên bố thể lập lại ngôi vua, đề nghị đưa ông ấy đứng đầu chính phủ với chức danh độc tài và chỉ để quân quân chủ là liên minh hoặc là quân của ông ta.
      Ông hoàng chỉ phải đến Pháp sau khi biết kết quả cuộc họp giữa ba tướng quân đó, và sau cuộc họp toàn thể thoả thuận hành động giữa họ.
      Georges bác bỏ mọi ý định ám sát hay đặt thuốc nổ. Ngay từ London, ông ấy tuyên bố chính thức như vậy, ông ấy chỉ muốn cuộc tấn công giáp lá cà dù quân của ông có phải bỏ mạng. Mục đích cuộc tấn công ấy là để lấy mạng ngài Tổng tài và chiếm luôn cả chính phủ.
      Tôi lời khẳng định của người mà hơn tiếng trước muốn tự sát, người thấy phía trước mình là câi chết của chính phủ đối lập dành cho, có sức mạnh như thế nào đối với các vị, nhưng tôi thể nén được những cơn tuyệt vọng, thể trả đũa con người dẫn tôi đến bước đường ấy vả lại, các vị có thể thấy việc đúng với tất cả những gì tôi khai trong bản án lớn mà phần nào tôi cũng có hệ luỵ.
      ROUVET DE LOZIER"

      Bonaparte trở nên câm lặng giây lát sau khi đọc xong lời khai.
      ràng, bằng tập trung suy nghĩ cao độ, ông tấn ra cách giải quyết vấn đề. Sau đó, ông tự với mình:
      - Người duy nhất có thể khiến ta lo lắng, người duy nhất có cơ hội chống lại ta lại thất bại cách vụng về đến vậy! thể thế được!
      - Ngài có muốn tôi cho bắt Moreau ngay tại trận ? - Réal hỏi.
      Ngài Tổng tài lắc đầu.
      - Moreau là người vô cùng quan trọng, ông ta đối đầu với tôi quá trực tiếp tôi lại càng tránh để mình lộ liễu, tránh bị phỏng đoán.
      - Nhưng nếu Moreau kết hợp với Pichegru mưu làm phản? - Réal bác bẻ lại.
      - Phải với ông rằng, tôi chỉ biết việc Pichegru xuất ở Paris qua Fouché và qua tên treo cổ của ông. Thế mà tất cả báo giới nước đều về như thể còn ở London. Tôi biết các báo này chống lại tôi và chống lại chính phủ Pháp.
      - Trong mọi trường hợp - Réal - Tôi cho đóng chặt các trạm kiểm soát và theo dõi gắt gao tất cả những ai muốn nhập cảnh.
      - Nhất là những người muốn - Bonaparte .
      - Có phải ngày kia ngài có cuộc duyệt binh lớn thưa ngài Tổng tài?
      - Đúng vậy.
      - Ngài hãy huỷ nó .
      - Sao phải thế!
      - Vì chúng ta vẫn còn khoảng sáu chục kẻ mưu phản muốn đào tẩu khỏi Paris khi thấy mọi phương cách rời thủ đô đều chặn lại chứng có những phản ứng liều mạng.
      - Chuyện đó liên quan gì đến tôi? Chẳng phải nghĩa vụ của các ông là bảo vệ tôi hay sao?
      - Thưa tướng quân, - Réal đáp - chúng tôi chỉ bảo đảm an ninh cho ngài với điều kiện ngài huỷ buổi duyệt binh.
      - Thưa ngài uỷ viên Hội đồng, tôi xin nhắc lại với ông - Bonaparte là bắt đầu mất kiên nhẫn - rằng chúng ta mỗi người việc, nhiệm vụ của ông là bảo vệ tôi để chúng ám sát tôi trong lúc tôi duyệt binh, nhiệm vụ của tôi là duyệt binh trong nguy cơ bị ám sát.
      - Thưa tướng quân, như thế bất cẩn.
      - Ông Réal, ông như uỷ viên Hội đồng Nhà nước, thứ thận trọng nhất ở Pháp, đó chính là lòng dũng cảm đấy.
      Rồi ông quay lưng lại với Savary:
      - Truyền mã lệnh báo Fouché đến gặp tôi ngay.
      Từ Tuileries đến phố Bac, nơi Fouché sống, xa. Vì vậy, chỉ mười phút sau, xe của ngài Bộ trưởng cảnh sát đậu trước cửa điện Tuileries. Fouché thấy ông sải những bước dài và khá kích động.
      - Nhanh lên, ông Fouché. Ông có biết Bouvet de Lozier vừa định thắt cổ trong nhà tù ?
      Fouché lạnh lùng đáp:
      - Tôi còn biết người ta kịp cứu ta rồi dẫn đến chỗ ông Desmarets, ở đó ta được gặp Réal chính ta còn viết lời khai khi bị thẩm vấn.
      - Trong đó Pichegru ở Paris.
      - Tôi báo với ngài trước điều đó rồi còn gì.
      - Đúng vậy, nhưng ông đến hợp tác làm phản cùng Moreau.
      - Tôi chưa điều này, ít ra là chưa chắc chắn, tôi vẫn còn vài nghi ngờ, tôi cũng nghi ngờ của mình cho ngài đó thôi.
      - Bây giờ ông chắc chắn rồi chứ? - Bonaparte hỏi.
      - Ngài là người đáng sợ. - Fouché - Việc gì cũng phải trước với ngài để rồi chẳng còn gì để nữa. Ngài muốn biết tôi ở đâu trong điều kiện đưa mọi việc kết thúc như tôi mong đợi ?
      - Tôi chẳng có điều kiện nào cho ông cả nhưng tôi muốn biết ông có gì rồi?
      - Là thế này, chúng ta mỗi người việc. Réal có Bouvet de Lozier treo cổ tự tử hôm qua tôi cũng có Lajolais biết đâu ngày mai cũng tự tử. Tôi cho bắt Lajolais và thẩm vấn , ngài có muốn biết cuộc hỏi cung ? Tôi doạ ta là cho gặp ngài nên để phải gặp ngài, ta khai cơ bản như sau:
      "Qua người bạn trung gian, cha David, mà tôi được biết Pichegru và Moreau vốn trước kia xích mích bây giờ liên kết với nhau. Mùa hè năm ngoài, tôi có gặp Moreau nhiều lần, ông ấy tỏ ý muốn được gặp mặt Pichegru - để có kết quả ấy, tôi sang London gặp Pichegru để bày tỏ ý của Moreau.
      Pichegru cho biết ông ta cũng có mong muốn tương tự và chỉ chờ cơ hội để rời quốc.
      Khoảng mười làm ngày sau cơ hội đến. Chúng tôi tận dụng thời cơ đó. Pichegru đến trú tạm tại phố Arcade. Buổi gặp gỡ được ấn định ở đại lộ Madeleine, đầu phố Basse-du-Rempart. Moreau xe đến phố Anjòu-Saint-Hororé.
      Ông ấy xuống đại lộ Madeleine còn tôi ở lại chiếc xe tiếp tục lăn bánh. Hai vị tướng ấy gặp nhau tại vị trí định. Họ dạo với nhau khoảng mười lăm phút. Tôi được trong lần gặp đầu tiên họ gì. Hai lần gặp nhau khác diễn ra ngay tại nhà Moreau. Lần này, tôi đón Pichegru phố Chaillot vì ông ấy mới đổi chỗ ở. Ông ấy ra về với thái độ bất bình với Moreau. Vì tôi hỏi có chuyện gì khiến ông vui nên ông đáp: " có biết Moreau, con người vô tư, khắc khổ lại đề nghị chúng tôi điều gì ? Ông ta cầu chúng tôi dựng ông ấy thành nhà chuyên chế. Ông ấy lại thèm chế độ độc tài cơ đấy! Có lẽ gã này có tham vọng và ông ta cũng thế, cũng muốn cai trị. Được thôi tôi chúc ông ta thành công vang dội, nhưng theo tôi, ông ta thể lãnh đạo nước Pháp nổi ba tháng"
      - Ông đồng ý bắt Moreau chứ? - Bonaparte hỏi.
      - Tôi thấy có bất tiện nào - Fouché đáp bằng thái độ như chúng ta thường thấy ở con người này. - có cơ hội ba tháng ấy đâu và phải bắt luôn Pichegru chỗ để hai tên ấy được bêu đầu đồng thời và dán áp phích cạnh nhau các bức tường Paris.
      - Ông có biết giờ Pichegru ở đâu ?
      - Tôi có biết chỗ trọ, tại nhà cận vệ cũ có tên là Leblanc, tôi tốn kém tiền nhưng bù lại, tôi biết tất cả những gì mình muốn.
      - Vậy ông chịu trách nhiệm bắt Pichegru.
      - Tuyệt lắm, ngài có thể giao cho ngài Réal bắt Moreau, như thế vừa dễ dàng lại vừa cho thấy dấu hiệu tin tưởng cho ngài Hội đồng chỉ cần ông ấy cho tôi Moreau bị đưa đến Temple mấy giờ, nửa giờ sau Pichegru ở đó.
      - Bây giờ - Bonaparte tiếp - ông cũng biết tôi có buổi duyệt binh vào chủ nhật. Réal khuyên tôi nên huỷ bỏ.
      - Ngược lại, ngài cứ cho duyệt binh, nó có hiệu quả tốt.
      - Lạ đấy - Bonaparte và nhìn Fouché - Tôi nghĩ ông là người dũng cảm đâu. Thế mà lúc nào ông cũng đưa ra lời khuyên táo bạo nhất.
      Fouché đáp lại bằng vẻ vô sỉ quen thuộc:
      - Vì khi đưa ra những lời khuyên ấy tôi có phải là người thực .
      Mệnh lệnh bắt giam hai tướng Pichegru và Moreau được ký ngay lúc đó, chiếc bàn ấy, bằng chiếc bút lông ngỗng ấy.
      Savary mang lệnh bắt Moreau đến cho Réal còn Fouché cầm lệnh bắt Pichegru.
      Moncy, trong những người bạn tốt nhất của Moreau làm tổng chỉ huy quân hiến binh, là người cầm lệnh bắt Moreau. Tờ lệnh ấy, khi gửi đến ngài chánh án, nó còn kèm theo mệnh lệnh nữa của Bonaparte:
      "Ngài Régnier, Trước khi dẫn tướng Moreau đến Temple, nếu muốn chuyện với tôi, hãy đưa lên xe và dẫn đến chỗ tôi. Tất cả có thể tự kết thúc giữa hai chúng tôi”.
      Thế nhưng kèm tờ lệnh của Fouché Bonaparte dặn gì cả dù Pichegru với Bonaparte còn là chỗ quen biết cũ; ông ta từng là giám học ở trường Brienne.
      Bonaparte thích những kỷ niệm thời học; ông luôn bị xử nhục vì xuất thân thuộc tầng lớp tiểu quý tộc, và ông luôn ở tình trạng thiếu thốn tiền bạc.

    3. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 35: Bắt giam


      Hôm sau là ngày ấn định cuộc vây bắt Moreau và Pichegru. Bonaparte khỏi lo ngại về ảnh hưởng của việc bắt Moreau địa bàn Paris. Cũng có thể bất công ông dành cho Moreau khiến ông nghĩ như vậy. Do đó, Bonaparte mong nếu có thể, tốt nhất là Moreau bị bắt đất Grosbois của ông ta.

      mười giờ sáng mà vẫn chưa có tin tức gì trong khi Bonaparte lại nóng lòng muốn biết thể. Do đó, ông gọi Constant, ra lệnh cho này vòng quanh khu thương mại Saint-Honoré xem xét tình hình. Trong lúc lượn lờ quanh nhà của Moreau nằm phố Anjou, này có thể biết chuyện gì xảy ra nếu nó xảy ra.

      Constant tuân lệnh ngay, nhưng ở khu Saint-Honoré, phố Anjou, này chỉ thấy vài nhân viên mà mọi người qua đường ai biết, riêng Constant nhận ra họ vì thỉnh thoảng họ tuần quanh điện Tuileries, hỏi người mà thấy quen nhất. Người ta có lẽ Moreau ở quê vì thấy ông này trong nhà Paris.

      Constant chực quay về người lính nọ nhận ra cận vệ của ngài Tổng tài nên chạy đuổi theo và thông báo Moreau vừa bị bắt cầu Charenton và được dẫn đến Temple. Ông ta hề kháng cự, ra khỏi xe của mình để lên xe độc mã của sở Hiến binh. Khi về đến Temple, ngài chánh án Régnier hỏi ông có muốn gặp Bonaparte ông này đáp rằng mình có gì mà phải đến gặp ngài Tổng tài.

      Trong mối hằn thù của Bonaparte với Moreau có bất công còn trong mối thù của Moreau với Bonaparte lại pha chút mọn chỉ có điều lòng căm thù của Moreau xuất phát từ bản thân ông ta mà từ hai người đàn bà: vợ và mẹ vợ của ông. Phu nhân Bonaparte tác hợp cho đám cưới của Moreau với tiểu thư Hulot, bạn của bà, cũng là dân da trắng đảo Martinique. Đó là thiếu nữ dịu dàng, đáng và được trời phú cho những phẩm chất tốt đẹp để trở thành người vợ thảo, người mẹ hiền cực kỳ chồng và hãnh diện trước cái họ vinh quang của chồng mà mình mang. may, tiểu thư lại có bà mẹ bảo thủ, ham hố và tham lam. Phu nhân Hulot rất tham vọng, lúc nào cũng muốn con rể phải như Bonaparte, bà muốn con mình phải có vị thế như Joséphine. Tình mẫu tử của bà biến thành những câu than vãn liên miên của người vợ đè lên đầu chồng. Moreau còn được thanh thản nữa. Ông trở nên khó tính, chua chát, ngôi nhà của ông biến thành điểm đối đầu tất cả những ai bất mãn đều tụ tập đến đó, nhất cử nhất động của ngài Tổng tài đều biến thành chủ đề châm biếm đàm tiếu cay độc. Từ người mơ mộng, Moreau trở nên rầu rĩ, từ người vô tư biến thành kẻ thù hận, từ hài lòng biến thành kẻ phản loạn.

      Về phần Bonaparte, ông hy vọng sau khi bị bắt Moreau nghĩ lại thoát khỏi ảnh hưởng của vợ và mẹ vợ để quay về với ông.
      - Thế nào - Bonaparte hỏi Régnier sau khi thấy ông này về sau cuộc vây bắt - ông dẫn về cho tôi chứ?
      - , thưa tướng quân, có lý do gì để muốn gặp ngài.

      Bonaparte dọi cái nhìn xuyên thấu viên chánh án rồi nhún vai.

      - Làm việc với kẻ ngốc có kết quả thế đấy.

      Chỉ có điều kẻ ngốc là ai? Viên Chánh án cho rằng Bonaparte muốn ám chỉ Moreau. Và chúng tôi, chúng tôi lại nghĩ Bonaparte muốn ám chỉ Régnier.

      Pichegru cũng bị bắt nhưng mọi việc với ông ta thuận buồm xuôi gió như xảy ra với Moreau.

      Chúng ta nhớ lại rằng Fouché ông ta biết chỗ ở của Pichegru. Quả thực, nhờ tài lanh lợi của Thợ Nề, từ khi đặt chân đến Paris, rời mắt khỏi ta. Từ phố Arcade, theo đến phố Chaillot, buộc phải rời phố Chaillót, Coster de Saint-Victor giấu tại nhà bạn cũ, nàng Aurélie de Saint-Amour xinh đẹp, nơi có vẻ an toàn nhất. Nhưng chỗ này thích hợp với tính khắc khổ của Pichegru nên chấp nhận lời mời của cận vệ cũ. Có người đó là cựu sĩ quan tuỳ tùng (chúng tôi hy vọng đó là cận vệ) và rời phố Colonnes nơi nàng xinh đẹp sống để đến phố Chabanais. ở lại đó hai ngày. Và đó là quãng thời gian duy nhất Fouché để mất dấu của .

      Pichegru ở lại mười lăm ngày tại trú ngụ mới mà phải băn khoăn gì. Nhưng ra từ mười hai ngày trước, Fouché lại tìm ra và theo dõi sát sao.

      Trước hôm Moreau bị bắt, người có tên là Leblanc nài nỉ để được gặp tướng Murat.

      Murat là em rể của Bonaparte, người giúp ông nhiều trong cuộc đảo chính ngày 18 Brumaire, và như các bạn còn nhớ, Murat được bổ nhiệm làm thị trưởng Paris thay chỗ Junot.

      Lúc đầu vì quá nhiều việc, Murat từ chối cuộc gặp nhưng khi nghe đến tên Pichegru, mọi cánh cửa đều mở ra đón tiếp .

      - Thưa ngài thị trưởng - Người đàn ông trạc năm mươi tuổi - Tôi đến để tặng ngài món quà là giao Pichegru cho ngài.

      - Giao cho tôi hay là bán cho tôi?

      Người đàn ông cúi đầu nín lặng lát rồi lẩm bẩm:

      - Bán cho ngài.

      - Bao nhiêu?

      - trăm nghìn phăng.

      - Đồ dịch hạch, đắt quá!

      - Thưa tướng quân, - Người đàn ông ấy ngẩng đầu lên - khi người ta làm điều ô nhục như thế cũng phải được giá hời chứ!

      - Liệu tối nay tôi có địa chỉ của và có thể bắt khi nào tôi muốn chứ?

      - Khi tiền trao, ngài là ông chủ, muốn làm gì cũng được, thậm chí có thể bán linh hồn tôi cho quỷ dữ nếu điều đó làm ngài vui lòng.

      - Chúng tôi đưa tiền ngay - Murat - Pichegru ở đâu?

      - Ở nhà tôi số 5 phố Chabanais.

      - Hãy tả bên trong căn phòng.

      - Đó là phòng thứ tư, phòng ngủ và phòng làm việc, hai cửa sổ mở ra ngoài phố, cửa lớn dẫn sang bếp. Tôi đưa cho các ngài chìa khoá cánh cửa thông sang bếp. Tôi đánh thêm chìa, sau đó người hầu của tôi dẫn quân của các ngài. Tôi chỉ cảnh báo các ngài rằng lúc nào Pichegru cũng ngủ cùng hai khẩu súng ngắn và con dao găm dưới gối.

      Murat đọc lại lời khai báo, đặt nó trước mặt kẻ phản bội.

      - Bây giờ hãy ký .

      cầm bút và ký "Leblanc".

      - Tôi có thể bắt trả giá nếu giở mánh khoé để lấy trăm nghìn phăng đấy - Murat nhắc nhở - biết luật chống kẻ lừa đảo thế nào rồi. Làm sao phải đợi Pichegru ở nhà mười lăm ngày, mới tố cáo?

      - Tôi biết ông ấy bị truy nã, ông ấy đến gặp tôi như người lưu vong muốn tá túc ít bữa. Chỉ mới hôm qua tôi mới biết ông ấy về Paris vì mục đích khác. Tôi nghĩ phải giúp chính phủ bắt ông ấy, vả lại… - Lần thứ hai kẻ phản bội cụp mặt xuống - Tôi với ngài là tôi cần tiền.

      - Bây giờ có nó - Murat và đẩy xấp tiền ra trước mặt . - Cầu mong số tiền này mang đến cho hạnh phúc nhưng ta nghi ngờ điều đó.

      Leblanc vừa khỏi nửa tiếng người ta thông báo có Fouché đến. Murat vốn là chỗ thân tín của Bonaparte và ông biết Fouché mới là Bộ trưởng bộ Cảnh sát.

      - Thưa tướng quân - Fouché với ông - Ngài vừa ném trăm nghìn phăng xuống sông vô ích rồi.

      - Sao lại thế? - Murat hỏi.

      - ngài chẳng vừa đưa cho Leblanc khoản tiền ấy vì tố cáo chỗ ở của Pichegru là gì.

      - Thực tình tôi cũng thấy quá đắt vì bí mật đó.

      - Đúng là quá đắt vì tôi biết chỗ ấy và còn có lệnh bắt ngay nữa.

      - Nhưng ngài có biết bên trong căn phòng để bị mắc sai lầm chưa?

      Fouché nhún vai.

      - Phòng thứ tư, hai cánh cửa sổ quay ra phố, cửa lớn thông vào bếp, cửa khác thông ra ngoài thềm, hai khẩu súng lục và con dao găm dưới gối. Pichegru ở Temple bất cứ khi nào ngài muốn.

      - Chắc là ngày mai. Ngày mai người ta cũng bắt Moreau.

      - Được rồi - Fouché - Bốn giờ sáng ngày mai, bị bắt. Chỉ có điều, tôi chịu trách nhiệm việc này với ngài Tổng tài nên tôi muốn mình hoàn tất nó.

      - Được thôi! - Murat đáp.

      Từ ba giờ đến bốn giờ sáng hôm sau, được cung cấp thông tin đầy đủ cảnh sát trưởng Comninges, hai thanh tra và bốn hiến binh đến số 5 phố Chabanais. Người ta chọn những người gan dạ và mạnh mẽ nhất vì người ta biết Pichegru có sức khoẻ phi thường dễ để bị bắt mà chống trả quyết liệt.

      Người ta đánh thức gác cổng nhàng và cho biết mục đích đến toà nhà, họ muốn chuyện với chị nấu bếp nhà ông Leblanc. Chị này, được báo trước từ hôm qua mặc quần áo sẵn sàng xuống mở cửa bếp bằng chiếc chìa khoá giả do ông chủ mới đánh dẫn sáu cảnh sát và viên cảnh sát trưởng vào phòng Pichegru.

      Pichegru ngủ.

      Sáu cảnh sát xông vào giường. Vừa bật thức dậy, Pichegru quật đổ hai người và lục tìm súng với dao nhưng chúng bị lấy mất từ trước.

      Bốn cảnh sát còn lại tiếp tục đồng loạt tấn công, Pichegru đá lại ba người nhưng người thứ tư dùng gươm chém vào chân khiến đổ vật xuống. cảnh sát gí giầy lên mặt song ngay lập tức này hét lên vì Pichegru dùng răng cắn xuyên ủng vào phần chân. Người khác dùng con quay xiết chặt bằng sợi dây chắc chắn.

      - Tôi đầu hàng! Thả tôi ra - Pichegru kêu lên.

      Người ta lấy chăn trùm lên rồi tống lên xe. Đến trạm gác Sergent, cảnh sát trưởng và hai cảnh sát lên xe với và nhận ra thở nữa. Họ nới dây trói ra vừa kịp, suýt nữa chết mất.

      Trong lúc đó, cảnh sát mang những giấy tờ thu được ở nhà Pichegru đến cho ngài Tổng tài. Còn về , người ta dẫn đến phòng làm việc của ngài Réal.

      Ngài Réal cố gắng thẩm vấn . Marco Saint-Hilaire giữ lại biên bản hỏi cung đầu tiên ấy. Nó thể tình trạng của Pichegru khi đó.

      - Ông tên gì? - Ngài Hội đồng hỏi.

      - Nếu ông biết tên tôi - Pichegru - Tôi cũng phải là người nó cho ông.

      - Ông có biết Georges Cadoudal ?

      - .

      - Ông từ đâu đến?

      - Từ nước .

      - Ông rời bến ở đâu?

      - Ở nơi tôi có thể.

      - Ông đến Paris bằng gì?

      - Bằng xe.

      - Với ai.

      - Với tôi - ông biết Moreau chứ?

      - Có, đó là người tố cáo tôi lên chính quyền Đốc chính.

      - Các ông gặp nhau ở Paris phải ?

      - Nếu chúng tôi gặp nhau đó cuộc đọ gươm.

      - Còn tôi, ông biết tôi chứ?

      - Tất nhiên.

      - Tôi thường nghe về ông và tôi đánh giá công bằng tài năng quân của ông.

      - Đó là lời nịnh hót - Pichegru .

      - Chúng tôi cho băng bó vết thương của ông.

      - Ích gì chứ, hãy mau mau bắn chết tôi .

      - Ông có bí danh ?

      - Người ta đặt cho tôi từ lâu rồi, tôi nhớ nữa.

      - Chẳng phải thỉnh thoảng người ta vẫn gọi ông là Charles hay sao?

      - Đó là cái tên ông đặt cho tôi. Thế đủ rồi, tôi trả lời những câu hỏi lỗ mãng của ông đâu.

      Và quả , Pichegru gì nữa. Người ta mang đến văn phòng của ngài Réal quần áo tư trang lấy từ nhà . mõ toà chịu trách nhiệm chăm sóc cho .

      Khi Pichegru đến Temple, khoác áo dài màu nâu, chiếc cà vạt bằng lụa đen, đôi ủng ống vểnh, chiếc quần chẽn bó lấy lớp vải băng chân và đùi, chiếc khăn mùi xoa rớm máu quấn quanh tay.

      Sau khi hỏi cung xong, ông Réal chạy vội đến Tuileries như tôi , người ta mang giấy tờ của Pichegru đến chỗ Bonaparte. Ông Réal gặp ngài Tổng tài mải đọc, phải giấy tờ cá nhân mà là bản ghi chép chi tiết những việc chỉnh đốn đảo thuộc địa Guyane. Hồi còn ở Sinnamary, Pichegru ghi chép lại những đặc điểm khí hậu còn khi ở , soạn thảo lại cuốn hồi ký đó xúc tích. Theo Pichegru, phải đổ vào đó từ mười hai đến mười bốn triệu mới thu được kết quả mỹ mãn.

      Bản báo cáo ấy khiến ngài Bonaparte thực bị chấn động. Ông mơ hồ nghe Réal thuật lại cuộc hỏi cung cũng như việc bắt Pichegru khi đọc xong, ông chìa bản báo cáo vừa đọc cho Réal và :

      - Ông đọc nó .

      - Đây là cái gì?

      - Đó là công việc của kẻ vô tội bị vạ lây từ những kẻ phạm tội khác. Đôi khi với những người ở xa nước Pháp, thay vì lập kế hoạch chống lại tổ quốc, họ tìm cách khiến nó thêm vinh quang và phồn thịnh.

      Réal lượt qua tập tài liệu mà Bonaparte vừa đưa.

      - Đây là bản báo cáo về đảo Guyane và những cách thức có thêm thuộc địa.

      - Ông có biết nó của ai ?

      - Tôi thấy đề tên - Réal đáp.

      - Là của Pichegru đấy. Hãy tỏ ra tử tế với ông ta, hãy chuyện với ông ta cho xứng tầm. Thử lấy lòng tin của ông ta rồi đến Cayene và Sinnamary, có thể tôi cử ông ta đến lãnh đạo kèm theo tài khoản từ mười đến mười hai triệu để thực kế hoạch của ông ta.

      Sau đó Bonaparte trở về phòng mình để cho ông Réal sững sờ với kết luận xanh rờn đó thay vì đưa ra phán quyết tử hình.

      Trong số hai kẻ thù của mình, dù Pichegru có thể có tội nặng hơn nhưng Bonaparte vẫn ghét ông ta ít hơn bởi lẽ Pichegru còn danh tiếng nữa còn Moreau ngược lại, uy tín của ông ta còn mạnh lắm. Mong muốn của ông, để đánh vào suy nghĩ của dân chúng, ông định ân xá cho Moreau và thưởng cho Pichegru, với hai động tác cao thượng đó, ông có thể cho chặt đầu kẻ còn lại trong hội mà sợ bị điều tiếng gì.

    4. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 36: Georges Cadoudal


      Thế là chỉ còn mình Georges Cadoudal.

      Liệu có phải người ta giữ nhân vật này đến cuối cùng để hai kẻ khác là Moreau và Pichegru tự hại lẫn nhau hay vì khéo léo hơn, mãnh liệt hơn, được thông tin nhiều hơn và giàu có hơn nên Georges có những cách mà hai người kia có. Dù thế nào, khi Moreau và Pichegru bị bắt còn lý do gì để trì hoãn thêm việc bắt Georges. Cũng chính vì lẽ đó, Fouché bắt đầu tập trung toàn lực để truy lùng người này. tay kiến trúc sư khéo léo chuẩn bị trước. Trong tá các ngôi nhà những chỗ nấp mà người ta tài nào phát ra trừ khi có sơ đồ. Rất nhiều lần, Fouché tưởng tự mình lần ra dấu vết của Georges những rồi ông ta lại thấy người đó trượt khỏi tầm tay.

      Lúc nào cũng mang vũ khí bên mình, trang bị đến tận răng, khi ngủ mặc sẵn quần áo, túi vàng dắt lưng, Georges có thể, biến mất ngay trước cửa lớn từ ngôi nhà đầu tiên. Vừa thuyết phục, vừa dùng vàng cộng với những lời đe doạ ông ta dễ dàng tìm được chỗ nấp. Đôi ba lần ông ta biến mất cách thần kỳ. trong những lần trốn thoát kỳ diệu ấy như sau:

      đêm cuối tháng Hai, bị xua khỏi nơi trú , lại bị toán cảnh sát đuổi theo, cộng với tiếng chó sủa dồn dập, Georges lao vào đại lộ khu Saint-Denis. Vừa thấy tấm biển sáng có ghi "Guilbart, nhà phẫu thuật răng" ông ta rung chuông tới tấp, ông ta lọt vào trong khi cổng vừa mở và muốn gặp ông Guilbalt.
      được nửa cầu thang ông ta gặp chị phụ nữ xuống. Nhìn thấy người đàn ông chùm áo măng tô cố lên, chị ta suýt hô hoán lên là có trộm.
      Georges vội rút khăn tay ra áp lên má.
      - Ngài bác sĩ còn tiếp khách chứ thưa bà? - Georges hỏi và khẽ rên.
      - , thưa ông - Người phụ nữ đáp.
      - Thế ông ấy ở đâu?
      - Ông ấy ngủ rồi! nửa đêm, đến giờ ngủ rồi. Chết tiệt !
      - Nếu là nhà y đức, ông ấy dậy vì tôi.
      - Y đức cũng phải ngủ như người khác chứ.
      - Vâng, nhưng họ dậy khi được đánh thức lương tâm.
      - Ông bị đau răng sao?
      - Phải là tôi đau phát điên lên.
      - Ông định nhổ nhiều răng ?
      - Nếu cần nhổ cả hàm cũng được.
      - À nếu thế lải khác, chỉ có điều ngài bác sĩ nhổ dưới đồng louis chiếc răng đâu.
      - Nếu cần, hai louis cũng được.
      Người phụ nữ quay lên cầu thang đưa Georges vào phòng, châm hai cây nến rồi vào phòng ngủ của ông bác sĩ. Lát sau, chị ta ra và :
      - Mời ngài theo tôi.
      lát sau, ông bác sĩ bước vào.
      - Ôi bác sĩ thân mến? - Georges kêu lên - Tôi chờ bác sĩ sốt ruột quá
      - Tôi đây, tôi đây. - ông bác sĩ - Hãy nằm xuống cái ghế này…
      - Được rồi, bây giờ hãy chỉ cho tôi cái răng đau của ông.
      - Đồ quỷ làm tôi đau chứ gì!
      - Đúng thế.
      - Ông xem .
      rồi Georges há miệng ra để lộ hàm răng chắc với ba mươi hai hạt ngọc đều tám táp.
      - Ối trời? Ông bác sĩ thốt lên - Ít khi tôi thấy hàm răng nào như thế nhưng cái răng đau ở đâu?
      - Đó là cái chạm dây thần kinh bác sĩ ạ, ông tìm xem cái nào.
      - Phía nào?
      - Bên phải.
      - Ông đùa đấy à, tôi nhìn mãi mà có thấy răng nào bị lỏng đâu.
      - Vậy ông tưởng tôi xin ông nhổ cái răng của tôi cho vui sao? Trò đùa hay !
      - Nhưng rốt cục tôi phải nhổ cái nào đây?
      - Cái này - Georges và chỉ vào chiếc răng hàm đầu tiên - ông hãy nhổ cái này.
      - Ông chắc chứ?
      - Rất chắc, hãy nhanh tay lên.
      - Tuy vậy, tôi khẳng định với ông là…
      - Nhưng chắc tôi được phép cho nhổ cái răng phiền phức của mình chứ.
      Georges nhíu mày định đứng dậy cố ý để lộ ra hai báng súng và cán dao ở thắt lưng.
      Ông bác sĩ hiểu có lý do gì để cự lại con người vũ khí đầy mình như vậy nên lấy kìm kẹp chiếc răng lại rồi nhổ ra.
      Georges kêu tí nào. Ông ta cầm chiếc cốc, rót nước vào, vài giọt thuốc mê rồi lịch :
      - Thưa ngài, khó có đôi tay nào vừa nhàng lại rắn rỏi hơn đôi tay của ngài này. Vậy cũng xin tôi thích cách nhổ răng của người hơn là cách của người Pháp.
      Ông ta xúc miệng và nhổ vào ống nhổ.
      - Ngài có được kinh nghiệm ấy từ đâu vậy, thưa ngài?
      - Từ cách người dùng kẹp nhổ răng và nhàng từ thấp đến cao khiến chiếc răng đứng theo chiều của nó, trong khi người Pháp các vị lại dùng lực vặn mạnh buộc chân răng phải xoay nửa vòng nên rất đau.
      - Nhưng tôi có thấy ngài tỏ ra đau chút nào đâu.
      - Đó là vì tôi có sức mạnh phi thường.
      - Ngài là người Pháp?
      - tôi là người Bretagne.
      xong, ông đặt hai đồng louis lên bục lò sưởi. Georges vẫn chưa nghe thấy ám hiệu an toàn nên còn muốn nấn ná ở lại.
      Bên cạnh đó, ông Guilbalt cũng ngại vị khách đầy vũ khí này, ông ta còn thấy có duyên dáng trong những vũ khí ấy nữa.
      Cuối cùng có tiếng huýt sáo vang lên. Đó là tín hiệu mà có lẽ Georges đợi. Ông ta vội đứng dậy, bắt tay ông bác sĩ rồi nhanh chóng xuống cầu thang.
      - Ông bác sĩ còn lại mình hiểu chuyện gì vừa xảy ra chỉ ngờ ngợ mình vừa dính dáng đến kẻ khùng hay tên kẻ trộm. Chỉ ngày hôm sau, nhân viên cảnh sát đến nhà ông này để thông báo có Georges mới mất tích đêm qua quanh khu nhà của ông, ông ta mới nhận ra.
      Nhưng trước chi tiết mô tả "Có ba mươi hai răng" ông bác sĩ phản đối:
      - Nhầm rồi! Ông ta còn ba mươi hai răng nữa.
      - Từ khi nào? - Viên cảnh sát hỏi.
      - Từ tối hôm qua. Tôi nhổ chiếc của ông ta.
      Hai ngày sau việc ấy, việc như chúng tôi , trở thành chuyện thần kỳ trong ngành cảnh sát, hai kẻ tòng phạm quan trọng khác cũng bị bắt. Chuyện mà các bạn sắp đọc sau đây phải là truyền thuyết của cảnh sát cũng phải giai thoại của các lục .

      Chuyện bắt hai tòng phạm ấy là thế này.
      chuyến tàu hơi nước đầu tiên tôi từ Gênes đến Marseille, tôi gặp hầu tước Rivière. Cách chuyện hấp dẫn của ông ta khiến tôi bị cuốn hút. Nhưng đúng đến lúc ông ta kể đến đoạn mình bị bắt ra sao tôi lại chóng mặt vì say sóng. Có điều đặc biệt là giọng vang của ông ta như thấu vào từng cơn khó chịu của tôi, ăn vào tâm trí của tôi và chỉ chấm dứt khi ông ta nhận thấy, tôi cố gắng lắng nghe ông ta để che giấu nỗi khổ sở của mình. Kết quả là những gì ông ta kể cho tôi dường như còn sống mãi trong tôi sau bốn mươi năm và những cơn nôn nao ấy như mới xảy ra hôm qua.
      Rivière và Jules de Polignac là chỗ thâm giao, chỉ có cái chết mới chia lìa họ được. Họ cùng nhau mưu làm phản, cùng nhau đến Paris và dự tính chết cùng nhau.
      Sau khi Moreau và Pichegru bị bắt, đến lượt họ bị săn đuổi. biết phải trốn ở đâu, họ đến nhà bá tước Alexandre de Laborde xin trú nhờ. Đó là thanh niên trạc tuổi họ vốn là quý tộc nhà băng có liên hệ với chính quyền của ngài Tổng tài.
      Ông Laborde có lâu đài nằm phố Artois, quận Chaussée-d Antin.
      Vừa đến đại lộ Italiens, hầu tước Rivière dừng lại trước cột thềm Hanovre và đọc lệnh của cảnh sát kết tội tử hình những ai chứa chấp tội phạm. Ông này quay ra với người bạn Jules de Polignac chờ mình dưới đại lộ.
      - Bạn của tôi, chúng ta sắp làm việc xấu, khi xin bá tước Laborde cho ở tức là chúng ta buộc ấy và cả gia đình vào tội đồng loã. Chúng ta có tiền, chúng ta thuê được chỗ chắc chắn như ở nhà ấy.
      Jules de Polignac cũng là người bộc trực, nhận thấy lý lẽ của bạn mình có lý nên chia tay bạn, tìm chỗ của người ấy.
      Ngay tối hôm đó, hầu tước Rivière gặp cận vệ cũ có tên là Labruyère, người mà ông ta từng từ chối đến ở vì sợ liên luỵ đến họ lần này, người phục vụ nài nỉ nhiều quá cho nên ông ta đành ưng thuận.
      Hầu tước Rivière ở lai đó mười tám ngày xảy ra huyện gì và có lẽ cũng bị phát nếu bất cẩn của người bạn Jules của ông ta. hôm, Jules chạy đến chỗ ở của ông Rivière thông báo người em trai Amland của ông ta vừa bị bắt. Quá bàng hoàng nên giấu giếm gì, ông ta kể hết bất hạnh của mình cho ông Rivière nghe. Hầu tước Rivière liền đề nghị từ khi đó ông này nên náu cùng mình.
      - ai thấy vào đây chứ? - Hầu tước Rivière hỏi.
      - ai kể cả người gác cổng.
      - Thế thoát rồi.
      Họ ở cạnh nhau được sáu ngày buổi tối, dù bạn hết sức can ngăn, Jules vẫn ra ngoài như ông ta là để đến cuộc hẹn rất quan trọng.
      Bị cảnh sát theo dõi và phát ông ta trở về ngôi nhà đó qua đêm tại đây nên cả hầu tước Rivière cũng bị bắt chung.
      Người bắt họ chính là cảnh sát trưởng Commiges từng bắt tướng Pichegru sáu ngày trước. Việc đầu tiên của ta là với chàng Labruyère đáng thương rằng luật pháp cấm công dân cho người lạ đến ở. Nhưng Labruyère vặn lại rằng ông Rivière phải là người lạ với ta, và còn bạn của ông ấy chắc thấy dao kề cổ nên mới vào đó lánh tạm.
      Cuối cùng, cả ba vẫn bị bắt và bị hỏi cung tại dinh của ngài Hội đồng Réal.
      - Thưa ngài Hội đồng - Hầu tước là người bắt đầu - Tôi xin báo trước là bạn tôi và tôi trả lời bất cứ câu hỏi nào của ông trừ khi ông hứa đảm bảo làm hại gì đến người chứa chấp chúng tôi. ta biết gì về động cơ việc chúng tôi có mặt ở Paris.
      Ông Réal hứa hẹn. Hầu tước Rivière ôm người hầu của mình và :
      - Vĩnh biệt bạn của ta, ta xin cho được bình yên.
      Thứ sáu ngày 9 tháng Ba, vào khoảng sáu giờ tối, nhân viên tuần tra tên là Caniolle nhận lệnh tuần tại cuối đường Montagne Sainte-Geneviève để rình chiếc xe cho thuê mang số 53 xem nó có qua .
      - Đó là chiếc xe đón Georges. Ông này vừa đổi chỗ đến ở tại căn nhà mà bạn ông thuê tám nghìn phăng tháng.
      Chiếc xe qua rất nhanh nhưng Caniolle vẫn đuổi theo. Dọc đường có nhiều cảnh sát, Caniolle được lệnh báo cho họ thế là họ bám theo chiếc xe. Nó chầm chậm đến quảng trường Sainte-Etienne-de-mont, rẽ vào phố Sainte-Geneviève rồi dừng lại đối diện lối vào cửa hàng bán hoa quả. Cổng vào để hé mở, chiếc mui xe hạ xuống, người đánh xe vào trong cửa hàng và châm đèn măng xông. Đúng lúc người này châm chiếc đèn cuối cùng Georges và hai người bạn, Le Ridant và Burban cùng người thứ tư nhanh nhẹn ra. Georges là người đầu tiên lên xe. Ba người bạn của ông ta định lên theo Caniolle xông vào giữa và xô họ.
      - Chuyện gì thế này? - Burban vừa cằn nhằn vừa đến lượt mình đẩy Caniolle ra - đường còn chỗ hay sao mà phải sán lại cửa xe thế?
      - Tôi thấy hình như tôi đường tôi chẳng hại ai cả - Viên cảnh sát cũng dùng cái giọng ấy để lại.
      Nhưng Georges thấy lo ngại trước việc xảy ra liền kéo Le Ridant lên xe với mình rồi chờ những người khác, ông ta cho ngựa lao . Người ta muốn bắt Georges phố vì sợ khi chống cự có máu chảy đường. Do đó, mệnh lệnh là các nhân viên chỉ đuổi theo chiếc xe. Trong lúc ngỡ ngàng, Caniolle để họ chạy khá xa, mới vội đuổi theo.
      - Theo tôi! - Caniolle kêu to.
      Có hai cảnh sát theo. người tên là Buffet.

      Chiếc xe tiếp tục dẫn trước họ trong phố Saint-Syacinthe dù con phố này hơi dốc. Nó qua đại quảng trường Saint-Michel và vẫn giữ nguyên khoảng cách. Chiếc xe tiếp tục qua các phố Fosses-Monsieur-le-Prince và phố Uberté khi Georges hạ mui xe. Ông ta thấy có người hổn hển đuổi theo liền với Le Ridant cầm cương.
      - Fouette, chúng ta bị bám theo, chúng ta bị bắt mất, hãy thấp người xuống! Thấp xuống!
      Chiếc xe lao như cơn lốc. Ra đến ngã tư Odéon Caniolle bắt kịp. ta gắng hết sức tung người bám vào giây cương trước cổ ngựa và hét lên:
      - Dừng lại! Nhân danh pháp luật hãy dừng lại!
      Tiếng ồn ào trong cuộc truy đuổi phố khiến mọi người đổ xô ra cửa. Con ngựa bị nắm cương cổ được thêm vài bước dừng lại khi Caniolle vẫn trông người phía trước.
      Buffet nhảy lên bậc xe, thò đầu vào xem ai ở trong xe nhưng ngay lập tức hai phát súng vang lên khiến Buffet ngã nhào ra sau với viên đạn giữa trán còn Caniolle thấy tay mình khuỵu xuống ta vừa bị gãy cánh tay.
      Georges và Le Ridant nhảy ra hai bên. Le Ridant vừa chạy được mười bước bị bắt, ta hề kháng cự nhưng Georges ngược lại, ông ta rút dao gâm lao vào hai nhân viên khác Mũi dao sắp chạm vào người thanh niên làm mũ tên là Thomas lao vào ông ta, ôm chặt cánh tay. Hai người xem gần đấy, người là Lamotte bán vé số ở phố Théatre-Frangais, người khác là Vignal cũng xông vào tước được con dao.
      Georges bị trói chặt, tống lên xe độc mã đưa về sở cảnh sát quận nơi cảnh sát trưởng Dubois hỏi cung có diện của Desmarets. Nhìn thấy Georges bị bắt, hai viên cảnh sát khỏi ngạc nhiên. Desmarets thổ lộ ấn tượng của mình khi gặp lại ông này như sau: "Từ lần đầu lên tôi gặp Georges đến giờ, ấn tượng của tôi với ông ta luôn là ông già miền núi có chút gì là kẻ sát nhân giống bọn ám sát các nhân vật thế lực. Tôi thấy khuôn mặt đầy đặn, đôi mắt sáng, nước da sáng sủa, cái nhìn vừa nghiêm túc lại rất dịu dàng như giọng của ông ta vậy. Dù thân hình bệ vệ nhưng mọi cử động của ông ta đều linh hoạt. cất đầu tròn tóc thành lọn ngắn, có vẻ gì giống thủ lĩnh phản loạn mà trước kia ông từng chỉ huy miền đất Bretagne.
      - Ôi ông là kẻ bất nhân! - Bá tước Dubois kêu lên khi thấy Georges - ông có biết mình vừa làm gì ? Ông vừa giết chết người cha trong gia đình và làm bị thương ông bố khác.
      Georges bật cười, :
      - Đó là lỗi của ông chứ!
      - Sao lại là lỗi của tôi?
      - Tất nhiên rồi, vì lẽ ra ông chỉ nên cho những người độc thân bắt tôi thôi.

    5. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 37: Công tước Enghien


      Chúng ta đến lợi lộc của Fouché, khi công tước Enghien chết, vị công tước này bấy lâu vẫn khiến Bonaparte ăn ngon ngủ yên với mối hiểm hoạ từ nhà Bourbon cũng như với các ngai vàng khác ở châu Âu.

      Trong những lời khai của mình, Georges, Moreau và Pichegru có mơ hồ đến điều mà Fouché từng dự đoán, đó là có hoàng thân triều đình Bourbon đến Paris để cầm đầu mưu phản nghịch.

      Chắc các bạn còn nhớ, vì sợ trong mối tị hiềm giữa Fouché với mình, ngài Bonaparte bí mật cử người xác minh tin tức của viên Bộ trưởng cảnh sát tạm quyền, Bộ trưởng bộ nhưng thực chất lại là Bộ trưởng thực . Ông Régnier, Chánh án toà tối cao, ông Réal, Uỷ viên Hội đồng nhà nước, cho cùng họ vẫn là những người thụ động và hay biết gì.
      Và viên cảnh sát ấy , khi ta được quyền lực vô hình ra lệnh việc đó là may hay rủi đều phụ thuộc vào ý chí trong con người và thúc đẩy ta đến đích đặc trưng của các kiện lớn của thời đại, có ngoại lệ, đó là có ảnh hưởng của những cá nhân làm nên kiện ấy. Những nhân vật nổi tiếng mạnh mẽ nhất và khôn khéo nhất bị thế lực nào chế ngự hay dắt lối. Họ bị chính các kiện cuốn . Họ có sức mạnh khi thuận theo xu thế và bị thất bại nếu chống lại xu thế ấy. Bằng chứng chính là ngôi sao chiếu mệnh của Bonaparte bừng sáng khi ông đại diện cho lợi ích của dân chúng và bị lu mờ trong tán sao chổi năm 1811. Khi liên minh với những César của người La Mã, ông muốn thống nhất tiêu chí của cách mạng với tiêu chí của nền quân chủ lỗi thời, đó là chuyện bất khả thi. Có triết lý để thấy ở đây đó là sức mạnh nằm trong chính xã hội và trong hành động của nó chứ phải do tin các phương thức lãnh đạo trong đẳng cấp hay thiên tài: Người ta rất có thể nghe theo phương thức ấy vì lợi ích của họ chứ phải vì công lao của người thực phương thức đó.
      Tạo hoá muốn rằng con người ấy, chính là chàng cảnh sát, chỉ là kẻ lặp lại trong mọi hoàn cảnh kia, phải có ý liền giống ông chủ. Rời Paris với lòng tin chắc công tước Enghien là ông hoàng được Georges chờ đợi nên chàng cảnh sát cứ tưởng mình là thứ ánh sáng chiếu rọi mưu động trời nên từ lúc đó chỉ nhất nhất nhìn nhận mọi việc theo quan điểm của mình.
      Trước tiên, ta bảo vệ cuộc sống của công tước Enghien quả đúng bí hiểm, ông ta thỉnh thoảng hay đâu đó bảy, tám ngày mà săn bắn chỉ là cái cớ còn mưu phản loạn mới là .
      Còn về những lần vắng mặt ấy ngay chính cha của ông ta từ cũng viết cho con trai:
      "Từ sáu tháng qua, người ta khẳng định với chúng ta là đứa con quý của cha về Paris, người khác lại các vị chỉ cần đến Strasbourg. Cho nên, phí công khi con phải mạo hiểm mạng sống và tự do của mình. Những đường lối của con sắm sâu trong trái tim của con như trong tim của chúng ta vậy, nên ta rất yên tâm về mặt đó".
      Ông hoàng con cũng hồi lại như sau:
      "Thưa cha quý, có lẽ cha hiểu con quá ít nên mới con đặt chân về mảnh đất của phe Cộng hoà, nơi chiến tuyến phải ông trời cho con sinh vào đó. Con là người quá tự cao để có thể cúi đầu. Ông Tổng tài có thể đạt được mục đích tiêu diệt con nhưng ông ta làm con hạ mình được đâu”.
      Tuy nhiên, còn chuyện khác nghiêm trọng hơn tất cả những điều , trong những điều khủng khiếp của định mệnh. Đó là việc chàng mưu sát nọ phát những cái tên thường xuyên lui đến chỗ hoàng thân, những người có vẻ thân thiết nhất đô là hai bộ trưởng nước : Ngài Francis Drake ở Munich và ngài Spencer Smith ở Stuttgart. Hai người này dù ở rất xa nhưng vẫn thường xuyên tới lui Ettenheim, thêm vào đó còn có đại tá Schmidt, cảnh sát trưởng bên nước , và tướng Thumery. Theo lời người Đức cách phát Thumenez với Dumouriez chỉ khác hai nét chữ. Trong lúc vội, tên của tướng Dumouriez thường được viết theo tiếng Pháp thay cho tên Thumery. Nếu như thế, tình hình có vẻ rất nghiêm trọng vì lực lượng phản nghịch có ở Pháp dồn nước Pháp vào giữa các thế lực: Moreau ở Paris, tướng Georges ở trung tâm và Pichegru ở phía tây, Dumouries ở phía đông. Như vậy, nước Pháp chỉ còn nước xâu xé nhau trong cuộc nội chiến với vành đai siết chặt ấy mà thôi.
      Còn chi tiết khác cũng cần ở đây. Đó là vào thời ấy, tôi biết bây giờ có giống như thế nữa hay , cảnh sát khi làm nhiệm vụ bao giờ cũng phải gởi hai bản báo cáo cho thanh tra. Lần này hai bản báo cáo được gởi từ nơi, bản đến tướng Moncey, bản kia đến chỗ ngài Réal. Vì ngài Réal còn bận làm việc với Bonaparte nên tướng Moncey nhận được bản báo cáo ấy trước ông lập tức mang nó đến chỗ ngài Bonaparte. Bản báo cáo này có tác động mạnh đến ngài Bonaparte, ông như thấy tay Bourbon lăm le vũ khí ở Strasbourg chỉ chực xông vào đất Pháp để tiến hành vụ ám sát mới. Bất cứ tham mưu sống lưu vong quanh ông hoàng này cũng có thể sẵn sàng rút gươm ra bảo vệ lợi ích của ngai vàng, Bộ trưởng , cảnh sát và cuối cùng là Dumouriez kẻ Ăng lê hơn bất cứ người nào. Ông ra lệnh cho tướng Moncey ra về nhưng giữ lại bản báo cáo. Ông tướng này phải báo cho ông Fouché, cho hai Tổng tài khác và cho ông Réal đúng bảy giờ phải đến điện Tuileries.
      Hôm ấy, lúc bảy giờ ngài Tổng tài thứ nhất có hẹn với Chateaubriand. Ông liền sai thư ký là Méneval viết lá thư gửi đến tác giả cuốn Thần đồng đạo Cơ đốc để lui lại buổi hẹn ấy đến chín giờ.
      Số phận của hai thiên tài vĩ đại này kể ra cũng lạ lùng. Họ cùng sinh năm 1769 nên cùng đến tuổi ba mươi hai. Họ sinh ra cách nhau ba trăm dặm nhưng lại gặp nhau, quen nhau, chia tay rồi lại hội ngộ, trưởng thành giống nhau. người lớn lên trong bóng của bức tường trường quân bị ảm đạm, chịu các kỷ luật quân đội hà khắc tạo nên các tướng rinh và chính sách. Người kia lại lang thang bên những bãi biển, đồng hành cùng sóng và gió, có quyển sách nào ngoài cuốn sách thiên nhiên, có ông thầy nào ngoài Đức Chúa. Sách và Chúa, hai vị thầy vĩ đại làm nên những người mơ mộng và các nhà thơ.
      người luôn theo đuổi mục đích, dù cái đích đó rất cao, người kia chỉ có những dục vọng, dục vọng bao giờ thành thực, người muốn làm chủ gian, người kia lại muốn chinh phục hư vô.
      Năm 1791, khi Bonaparte về nhà vài tháng để nghe ngóng tình hình cũng là năm Chateaubriand lên tàu từ Saint-Malo để thở khám phá con đường đến châu Mỹ theo hướng Tây Bắc.
      Chúng ta hãy cùng theo chân nhà thơ Chateaubriand rời Saint-Malo ngày 6 tháng Năm vào khoảng sáu giờ sáu. Ông đến đảo Acores sau đó đến Chactas. Những ngọn gió đưa ông đến thềm của miền đất mới. Ông qua eo biển, thả neo ở đảo Saint-Piene, ở lại đó mười lăm ngày, bị lạc giữa sương mù quanh năm bao phủ hòn đảo, lang thang trong những đám mây và các cơn gió mạnh, nghe những tiếng gầm gào của đại dương vô hình, lạc lõng bãi thạch thảo mềm mại và chết chóc, chỉ có con thuyền độc mộc lướt những mỏm đá dẫn đường.
      Sau mười lăm ngày buông neo, kẻ lữ thứ rời Saint-Piene mệt lả bên vịnh Maryland. Ở đây yên tĩnh choán lấy ông. Đó những buổi đêm mỹ lệ, bình minh rạng rỡ và những buổi hoàng hôn diệu kỳ. Ngồi cây cầu, ông dõi theo khối cầu mặt trời sẵn sàng lao mình xuống các lớp sóng trập trùng ra trước, ông qua các cột buồm giữa gian vô tận của đại dương. Cuối cùng, vào ngày người ta nhìn thấy đầu ngọn sóng có những vệt xanh như ngọn cây bất động. Đó là châu Mỹ!
      chủ đề rất rộng để chàng trai hai mươi hai tuổi suy ngẫm. Đây là thế giới của những loài hoang dã, của những thiên sử chưa từng biết đến mà Colomb phát ra, Vespuce đặt tên nhưng chưa có ai viết lên lịch sử cho nó.
      đến giờ phút hạnh phúc thăm nước Mỹ! nước Mỹ qua đại dương vừa gửi cho nước Pháp cuộc Cách mạng do chính nó tạo ra, tự do mà nó có được chính là nhờ những thanh gươm Pháp.
      Tham dự vào công cuộc xây dựng thành phố phồn thịnh nơi mà trăm năm trước Guillaume Penn mua đất của vài người điêng lang thang đây đó điều kỳ thú. cảnh tượng tuyệt vời mở ra khi thấy đất nước sinh ra bãi chiến trường giống như vài chàng Cadmus gieo trồng con người những luống cây đạn pháo.
      Chateaubriand dừng lại ở Philadelphie phải để thăm thú thành phố mà để thăm Washington. Washington chìa cho ông xem chiếc chìa khoá của nhà ngục Bastille mà vài người Paris thắng trận gởi cho ông. Lúc ấy, Chateaubriand chưa có gì để cho ông ta xem, nếu trở lại, ông có thể khoe tập "Thần đồng cơ đốc giáo" rồi.
      Nhà thơ giữ lại kỷ niệm chuyến viếng thăm ấy suốt cả cuộc đời trong khi ngay tối hôm đón ông xong, Washington có lẽ quên ông luôn. Washington trong hào quang của mình, lãnh đạo dân tộc do chính ông vừa là tướng quân vừa là người sáng lập. Còn Chateaubriand vẫn còn chìm trong bóng đêm thời trai trẻ, tiếng tăm trong tương lai của ông chưa hề ghé thăm quá khứ mà toả cho quá khứ vài tia lấp lánh. Washington chết mà hề ngờ rằng con người này về sau về ông và về Napoléon như sau:
      "Những ai như tôi từng được thấy người chinh phục châu Âu và người lập ra Hiến pháp nước Mỹ, bây giờ quay lại nhìn toàn cảnh thế giới chỉ thấy vài tên hề cười cười khóc khóc chẳng đáng nhìn chút nào?"
      Washington là tất cả những gì Chateaubriand thấy tò mò khi qua khắp các thành phố đất Mỹ. Ông muốn gặp con người bởi lẽ đâu đâu họ cũng na ná như nhau, đều là các du khách vượt Đại Tây Dương tìm đến tận thế giới. Chủ yếu ông tìm những cánh rừng nguyên sinh, đến bên bờ hồ lớn như những đại dương, xông vào giữa thảo nguyên bao la vô tận, nhtlng sa mạc, tìm giọng vọng lên từ cõi lòng đơn độc.
      Chúng ta hãy cùng nghe kẻ lãng du bộc bạch cảm xúc thực của bản thân. Phải rằng vào thời đó dù được nghe kể và được viết thành những vần thơ, nhưng xứ sở này vẫn còn lạ lẫm lắm. Gabriel Ferry dù theo dấu vết ấy cũng làm được các tác phẩm "Những người tận vàng" hay "Bờ biển những người điêng". Gustave Aimard cũng thấy hết được các truyền thuyết tạo nên cuộc sống từ thẳm sâu những cánh rừng nguyên sinh của mình , tất cả đều trinh nguyên trong rừng và thảo nguyên như chính bản thân chúng vậy. Và chính con người này lật bức màn đầu tiên lên khỏi chúng, ông thấy duyên dáng và thanh thiết như thuở ban sơ của ngày sáng thế.
      "Sau khi qua Mohawk, tôi đặt chân vào những cánh rừng những chưa bị chặt phá bao giờ mà còn chưa được ai ghé thăm, tôi như chao đảo trong men say, tôi từ cây này đến cây khác từ phải sang trái và tự nhủ với mình rằng; ở đây, chẳng phải lựa chọn đường nào, còn thành phố, còn những ngôi nhà chật hẹp, chẳng còn tổng thống, chẳng còn nền Cộng hoà, chẳng còn vua chúa… và để thở xem mình có tự lập được quyền tự do của mình , tôi tha hồ làm hàng nghìn động tác mình thích khiến cho chàng người Hà Lan làm hướng dẫn viên phát sợ, chắc ta tưởng tôi bị điên”.
      Ngay lập tức, kẻ lãng du lời từ biệt với nền văn minh, có chỗ trú nào ngoài rừng xanh, giường là mặt đất, lấy yên ngựa làm gối, lấy áo choàng làm chăn và bầu trời chính là màn che êm ái. Còn về lũ ngựa, chúng tự do lại với chiếc chuông cổ và bằng bản năng giao tiếp kỳ diệu, chúng bao giờ để quá xa đống lửa do ông chủ đốt lên để xua đuổi con trùng và rắn rết.
      chuyến du hành theo kiểu Steme bắt đầu như thế, chỉ có điều thay vì cày xới nền văn minh, kẻ lữ thứ lại cày xới nỗi lòng đơn. Thỉnh thoảng, làng da đỏ lại đột ngột ra trong tầm mắt, hoặc bộ tộc du mục xuất . Thế là con người văn minh ra hiệu cho con người hoang sơ những cơ chỉ thân thiện mà khắp nơi ai cũng hiểu được các vị chủ nhà bắt đầu cất giọng hát về người lạ.
      "Đây là người xa lạ, người được phái từ Chúa trời"
      Sau khúc hát đó, em bé dắt tay ông và đưa vào lều :
      - Đây là người mới?
      Và tộc trưởng đáp:
      - Hãy dẫn người đó vào lều của ta, cậu bé!
      Người du khách vào dưới che trở của đứa bé rồi giống như người Hy Lạp, ngồi xuống lớp than nguội. Người ta đưa chiếc ống điếu dài, ông hút ba hơi và phụ nữ hát lời hát an ủi rằng:
      "Người xa lạ thấy mẹ và vợ, mặt trời lại thức và ngủ vì ta, như trước đây”.
      Sau đó người ta rốt nước vào chiếc cốc, đó là chiếc cốc thánh, khách uống nửa sau đó đưa lại cho chủ nhà uống hết.
      Giữa khung cảnh của cuộc sống hoang sơ này, người ta muốn màn đêm, yên tĩnh, đón tiếp hay nỗi buồn man mác? Khách lãng đu vẽ lại, chúng ta cùng nhìn xem:
      "Những suy nghĩ trong đầu tôi nóng lên, tôi đứng dậy ra ngồi xuống cái rễ cây rượu ra tận bờ suối. Đó là trong những đêm châu Mỹ mà cây cọ vẽ của con ngưòỉ bao giờ diễn tả được. Tôi còn nhớ lại những ấn tượng ấy với cả niềm thú vị thích thú”.
      "Ánh trăng treo lơ lửng đỉnh bầu trời, đó đây, qua khoảng bao la tinh khiết, hàng ngàn những vì tinh tú nhấp nháy. Ngay sau đó vầng trăng ngả mình xuống đám mây giống như tuyệt ôm ấp quanh năm các đỉnh núi cao vậy. Dần dần, những đám mây tản ra, vấn vít, tạo thành vùng trong suốt và mềm mại như lụa sa tanh trắng hoặc biến thành những cuộc tròn, những hình thù của vô vàn các con vật lang thang đồng bằng xanh lơ của nền trời. Có lúc, chúng lại biến thành những lớp sóng đều đặn xô biển. luồng gió lại đến xé toang tôm mòn ấy. Thế là chúng vỡ oà thành vô số cuộn bông lấp lánh trắng mịn nhìn mềm mại như ta sờ được vào cái êm ái của chúng. Khung cảnh dưới mặt đất cũng hấp dẫn kém. Thứ ánh sáng bàng bạc tuyệt diệu của chị Hằng tràn lặng lẽ tràn lên khắp ngọn cây, xuyên xuống các khe trông, luồn lách vào lớp bóng tối dày đặc nhất. Con suối chảy dưới chân tôi, uốn lượn dưới lớp rễ của các cây sồi, cây dương liễu và cây thân ngọt chạy ra mãi xa xa, nhuốm những tia lập loá và bừng lên như dải ruy băng bằng vải nhiễu dát những hạt kim cương lóng lánh rồi bị dải đen cắt ngang. Dải đen ấy là con sông, phía bên kia con sông, thảm cỏ thiên nhiên rộng lớn, ánh trăng lặng lẽ nằm ngủ những ngọn cỏ. Những cây bulô đứng tản mạn các thảo nguyên khi điệu đà lả lướt theo ngọn gió lẩn mình vào mặt đất khi lại điểm xuyết những tảng đá phấn lững lững, tự tạo ra bóng tối cho mình, chúng giống như những hòn đảo tối om lang thang đại dương ánh sáng bất động. Tất cả đều yên tĩnh tuyệt đối, lặng yên và thư thái chỉ trừ vài tiếng lá rơi, tiếng gió vi vu, tiếng rên rỉ rất hi hữu của loài chim hù. Tuy thế, xa xa đâu đó, người ta vẫn nghe thấy tiếng ầm trang trọng của thác nước Niagara. Trong vẻ tịnh mịch ban đêm, nó vẫn lao từ miền hoang vắng này đến vầng quạnh khác và thở hắt qua những cánh rừng xa tít”.
      "Vẻ hùng vĩ và vẻ tịch liệu của bức tranh này sao có thể diễn tả hết bằng lời. Những đêm đẹp nhất châu Âu tài nào sánh nổi. Giữa những cánh đồng cấy trồng của chúng ta, làm sao sức tưởng tượng được thảnh thơi bay bổng đâu đâu, nó cứng vểp phải sống của con người. Còn ở nơi đây, giữa xứ sở hoang vằng này, tâm hồn thoả sức tràn ra, mất hút vào đại dương rừng già bất tử. Tâm hồn thích được lang thang dưới ánh sáng của các vì sao, đến bên bờ những hồ nước kẻng lồ, lượn lờ miệng vực trong tiếng thác rú gào, rồi buông mình xuống những cơn sóng rào, hay có thể là nhập vào, tan ra với tất cả thiên nhiên hoang dã và tuyệt vời này”.
      "Cuối cùng, kẻ lữ khách cũng đến được thác Niagara mà tiếng ồn của nó biến mất trong hàng ngàn thanh buổi bình minh khi thiên nhiên thức giấc nhưng trong đêm thanh thi lại rạo rực hừng hực nghe như rất gần, nghe như muốn lôi kéo người ta đến với nó”.
      hôm, ông gặp nó, vẻ tráng lệ này, Chateaubriand tìm từ nơi rất xa, đoạn đường hai lần ông suýt mất mạng, chúng ta kể lại nguy hiểm ấy nhưng khi Chateaubriand kể, chúng ta hãy nghe ông :
      "Đến nơi, tôi tiến lại gần thác, yên cương ngựa được quấn vào cánh tay. Trong lúc tôi cúi xuống nhìn thác con rằn chuông động đậy ở bụi cây gần dấy, con ngựa sợ hãi chạy lên phía trước lôi tôi theo nó. Cánh tay bị vướng, tôi thể, dừng được cứ phải theo nó đến gần bờ vực. Đột nhiên con ngựa cũng cảm nhận được mối hiểm hoạ mới, nó vội phi ngược lên cách bờ thác chục bộ”.
      Như thế chưa phải hết thoát khỏi nguy hiểm chết người ấy, lãng tử lại tiếp tục mối nguy hiểm khác. Lần này là hiểm hoạ có báo trước nhưng có số người vẫn cảm thấy trong thâm tâm họ có thể nhớ lòng khoan dung của Chúa, chúng ta hãy nghe nhà du ngoại kể lại:
      "Ngày trước có dây leo xuống thác nhưng nó bị đứt. Mặc những lời khuyên can của người dẫn đường, tôi vẫn trèo xuống phía dưới thác bằng các vách đá dựng đứng cao hai trăm bộ. Tôi lao vào cuộc mạo hiểm. Mặc tiếng gào rú của thác nước mặt lỗ xoáy rơi người hun hút phía dưới tôi cứng đâu leo xuống được hơn bốn chục bước đá ở đây trở nên trơn và dốc đứng hơn, có chỗ bám cũng như chỗ cho tôi đặt chân. Tôi bị treo lơ lửng trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan và các ngón tay tôi bắt đầu rã rời trước sức nặng của cơ thể. Tôi thấy cái chết là khó tránh khỏi. Ít người có được hai phút trong đời giống như tôi trải qua, lủng lẳng miệng vực Niagara. Hai bàn tay tôi oải ra và tôi rơi xuống may là tôi rơi ngay xuống mỏm đá chìa ra, tôi tan thành trăm mảnh nhưng tôi cảm thấy đau mấy. Tôi chỉ cách mép tảng đá chừng nửa tấc, may mà bị lộn xuống khi nước lạnh bắn vào người, tôi mới nhận ra mình may như tượng. cơn đau bên tay trái ùa đến. Tôi làm gẫy nó, người dẫn đường của tôi nhìn thấy tôi ra hiệu liền chạy tìm được vài người cứu. Họ khó khăn lắm mới kéo tôi lên bằng dây cây bu-Lô và cáng tôi về nhà họ”.
      Chuyện này xảy ra đúng lúc mà chàng trung uý trẻ tuổi có tên là Napoléon Bonaparte suýt chết đuối khi tắm sông Saône.
      Lữ khách lại tiếp tục con đường của mình qua những sông hồ lớn. Hồ đầu tiên ông ta tới là Ené. Từ bờ, ông bàng hoàng thấy cảnh người điếng mạo hiểm những con thuyền gỗ trước mặt nước cuồn cuộn của cơn bão kinh hoàng. Việc trước nhất là họ treo đồ của mình vào đuôi thuyền rồi đưa nó qua những cơn xoáy tuyết, giữa các lớp sóng dâng tràn. Các lớp sóng ấy lao vào mạn thuyền như thể muốn nuốt sống nó. Đám chó săn bám chặt chân xuống sàn kêu lên ư ứ trong khi chủ nhân của chúng rất bình tĩnh, lặng lẽ điều khiển con thuyền chèo theo con sóng. Các thuyền theo hàng dọc, ở cuối mỗi thuyền có người can đảm nhất chỉ huy, động viên vừa khích lệ bằng từ "Oha" với mỗi lần chèo.
      chiếc thuyền cuối cùng, người thủ lĩnh vẫn đứng và lái bằng cây sào dài. Qua làn sương mù, tuyệt và sóng, người ta chỉ nhận ra họ bởi những túm lông trang trí đầu những cái cổ gân lên trong mỗi đợt hú và những cây đuốc tay hai tộc trưởng. Họ là người hoa tiêu và người dự đoán”.
      "Người ta bảo rằng vị thần trong các lớp nước rất sâu và khó lường ấy”.
      "Bây giờ, chúng ta cũng chuyển đến xem các mặt hồ và bờ của chúng.
      Trong khoảng hơn hai mươi dặm tôi thay toàn những cây súng xen nhau trải ra ngút ngát, mùa hè dưới đám lá của chúng chứa toàn rắn. Mỗi lần loài bò sát này chuyển động dưới ánh nắng mặt trời, người ta thấy cuộn lên những vòng vàng, đỏ tía, đen nhánh. Trong các vòng cuộn khiếp người ấy, người ta chỉ nhận ra những đôi mắt lấp lánh, những cái lưỡi thè ra cái nhọn, cái đỏ lòm, những cái đuôi ngó ngoáy trong trung như những mũi lao. Tiếng phì phì vang lên ngớt thanh ấy giống như tiếng xào xạc của đám lá rụng vang lên từ mặt hồ Cocyte đáng sợ này”.

      Trong năm, ông cứ lang thang như vậy, xuống các thác nước, qua hồ, vượt rừng và chỉ dừng lại giữa đống đổ nát Ohio để càng thêm nghi ngờ về vực thẳm đen tối trong quá khứ, theo các dòng sông, hoà giọng mình vào giọng của bình minh và chiều tà của thiên nhiên mà Chúa tạo ra, mơ màng những vần thơ trong tập "Natchez", quên châu Âu mà sống với tự do, liêu và thơ.
      Lang thang mãi từ rừng này sang rừng khác, từ hồ này đến hồ khác từ thảo nguyên này đến thảo nguyên khác mà biết mình sắp đến mảnh đất nước Mỹ phì nhiêu. buổi tối, ông đặt chân đến trang trại cạnh con nước. Ông xin vào trú nhờ.
      Đêm xuống, ngôi nhà sáng lên qua ánh đèn. Ông ngồi vào góc nhà và trong khi chủ nhà nấu súp, ông khoan khoái đọc tờ báo qua ánh lửa hắt ra từ ngọn đèn vừa liếc nhìn, bốn chữ "Flight of the King" (Đức vua chạy trốn) đập vào mắt ông. Đó là bài báo về cuộc chạy trốn của vua Louis XVI và bị bắt ở Vareune. Bài báo cũng kể đến cuộc sống lưu vong của giới quý tộc và số quý tộc hợp lại dưới ngọn cờ Bảo hoàng lời kêu gợi "Hãy cầm vũ khí!" như tiếng gọi định mệnh với ông.
      Chateaubriand trở lại Philadelphie, vượt biển, gặp cơn bão khiến ông lênh đênh mười tám ngày bên bờ biển nước Pháp.
      Tháng Bảy năm 1792, ông cập cảng Havre và kêu vang "Bệ hạ gọi thần, thần có mặt!"
      Đúng lúc Chateaubriand đặt chân lên tàu về cứu nhà vua viên thiếu tá pháo binh tựa lưng vào cây trước thềm nhìn vua Louis XVI đội chiếc mũ nồi đỏ xuất bên cửa sổ điện Tuileries. Bằng giọng miệt thị ràng, ông khẽ : Người này vô dụng rồi!
      "Bởi thế - Nhà thơ bộc bạch - có lẽ điều thay đổi những mục đích ban đầu của tôi và đưa tôi vào biến cố đầu tiên đánh dấu nghiệp của tôi.
      ràng nhà Bourbon chẳng cần đứa con út ít miền Bretagne vừa từ đáy sâu châu Mỹ trở về để phục vụ họ. Nếu tôi đọc bài báo khiến tôi thay đổi cuộc đời tôi có lẽ chẳng ai nhận ra vắng mặt của tôi vì có ai biết tôi tồn tại đâu, nhầm lẫn giữa tôi và nhận thức của mình cho tôi thấy tấm kịch cuộc đời. Tôi có thể làm gì mình muốn vì tôi là nhân chứng duy nhất của trận chiến nhưng trong số tất cả các nhân chứng, đó lại là người sợ phải đổ máu nhiều nhất”.
      Chateaubriand kể trong tập AtalaNatchez nhưthế.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :