1. QUY ĐỊNH BOX TRUYỆN SƯU TẦM :

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]
    ----•Nội dung cần:
    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)
    - Nguồn
    - Tác giả
    - Tên editor +beta
    - Thể loại
    - Số chương
    Đặc biệt chọn canh giữa cho đoạn giới thiệu
    ---- Quy định :
    1. Chỉ đăng những truyện đã có ebook và đã được public trên các trang web khác
    2 . Chỉ nên post truyện đã hoàn đã có eBook.
    3. Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn
    4 . Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Hiệp sĩ Sante Hermine - Alexandre Dumas (122 chương)

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây (Sưu Tầm)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 98: Trạm ngựa ở Rome

      Ngày 2 tháng Mười hai, Napoléon thắng trận Austerlitz.

      Ngày 27, ông tuyên bố triều đại Naples chấm dứt cai trị.

      Ngày 15 tháng Hai, Joseph Napoléon vào thành bị bỏ trống lần thứ hai bởi thế lực nhà Bourbon.

      Cuối cùng, ngày 30 tháng Ba, ông này được phong là vua Hai đảo Sicile.

      Sau việc lập vua Naples mới hay đúng hơn là vua Naples tương lai, quân đội Pháp chiếm các Nhà nước La Mã, điều này làm đức Giáo hoàng vô cùng giận dữ, ngài cho mời hồng y giáo chủ Fesch đến để phàn nàn về cái mà ngài gọi là xâm phạm lãnh thổ đó.

      Giáo chủ Fesch chuyển lời lại cho Napoléon. Napoléon trả lời rằng:

      "Thưa Đức Giáo hoàng, ngài là vua thành Rome, đúng vậy, nhưng Rome thuộc vào Đế chế pháp; ngài là linh mục, nhưng tôi là hoàng đế, hoàng đế như các hoàng đế Đức, xa hơn nữa như Charlemagne, với ngài tôi là Charlemagne hơn là tước hiệu, tước hiệu sức mạnh, tước hiệu ân thiện: do đó ngài tuân theo hệ thống liên hiệp của đế chế, bằng cách mở lãnh thổ của mình cho những người bạn của tôi và khép nó lại trước kẻ thù của tôi".
      Trước câu trả lời "rất Napoléon" này, đôi mắt thường ngày vốn dịu dàng của đức Giáo hoàng chí tôn quắc lên. Kết quả là ngài đáp lại giáo chủ Fesch rằng mình thừa nhận chủ quyền nào vượt mình và rằng nếu Napoléon muốn thiết lập lại chuyên chế của vua Henri Đệ tứ nước Đức ông cũng lập lại kháng cự như vua Grégoire VII.

      Napoléon đáp lại bằng vẻ coi thường ra mặt vì ông vốn ít sợ thứ vũ khí tinh thần trong thế kỷ XIX, ông đưa lý do hợp pháp nào nếu họ sử dụng vũ khí ấy, ông trực tiếp đụng vào vấn đề tôn giáo, nhưng ông đánh vào thế lực tại, ông để cho Vatican, giám mục được tôn trọng ở Rome và người đứng đầu các giám mục trong Giáo giới giải quyết.

      Việc tranh cãi ấy tiến cũng chẳng lùi, dùng dằng suốt tháng 12 năm 1805, tháng mà Napoléon, để chứng tỏ ý định đến cùng, cho tướng Lemarois chiếm các tỉnh Urbin, Ancône, Macerata tạo thành vùng ven biển Adriatique.

      Thế là giáo hoàng Pie VI, trong khi từ bỏ dự định rút phép thông công vừa đưa ra thoả thuận hoà giải trong điều kiện sau:
      - Giáo hoàng Rome có quyền độc lập với nhà nước của mình tuy nhiên được nước Pháp bổ nhiệm và bảo đảm phải liên minh với Pháp bất cứ khi nào nó có chiến tranh đẩy lùi kẻ thù khỏi lãnh thổ các nhà nước La Mã;
      - Quân đội Pháp chiếm Ancône, Ostie, Civitavechia nhưng được bảo lưu chi phí từ chính phủ Pháp;
      - Giáo hoàng cam kết đào sâu và đưa vào sử dụng cảng bị xâm bùn Ancône.
      - Giáo hoàng thừa nhận vua Joseph, lật đổ tham tán của vua Ferdinand, những tên sát hại người Pháp, các giáo chủ Naples chối bỏ lời thề và từ bỏ quyền làm lễ thụ phong vương miện ở Naples.
      - Ông cũng thực cam kết Italie đến tất cả các tỉnh trong nước.
      - Ông bổ nhiệm vô thời hạn các linh mục Pháp và Ý, và đòi hỏi các linh mục Ý phải đến Rome.
      - Cuối cùng, để trấn an Napoléon và cho thấy ảnh hưởng của Pháp đến mọi phần lãnh thổ của mình, giáo hoàng phần ba tổng số hồng y giáo chủ là giáo chủ Pháp.
      Hai trong số những điểm dàn xếp đây làm toà thánh La Mã đặc biệt kinh tởm là: Thứ nhất khép cửa lãnh thổ trước kẻ thù của Pháp và thứ hai là tăng số lượng các hồng y giáo chủ Pháp.

      Thế là Napoléon liền trả hộ chiếu cho hồng y giáo chủ Bayane và ra lệnh tấn công vào phần còn lại của các nước thuộc giáo hoàng. Hai nghìn năm trăm quân tập trung ở Foligno, hai nghìn năm trăm quân khác, dưới chỉ huy của tướng Lemarois, tập hợp ở Pérouse. Ông ra lệnh cho tướng Miollis chỉ huy cả hai cánh quân này, khi ngang qua nhận tiếp ba nghìn quân mà Joseph nhận lệnh cho xuất phát từ Tenacine và tám nghìn lính này chiếm thủ đô của thế giới Cơ đốc.

      Dù tự nguyện hay phải dùng sức mạnh, tướng Miollis phải vào lâu đài Saint-Ange(1), phải chiếm đội quân của giáo hoàng, để giáo hoàng ở Vatican với đội quân danh dự, phải đáp lại mọi động thái của họ và chiếm Rome vì lợi ích hoàn toàn quân hòng tách các Nhà nước La Mã khỏi kẻ thù của nước Pháp, ông ta chỉ chiếm lực lượng cảnh sát và sử dụng lực lượng này khi săn đuổi bọn kẻ cướp và để đưa các hồng y Naples về Naples.

      Tướng Miollis là cựu quân nhân Cộng hoà, tính tình cương quyết, có học thức, lòng trung vết mờ, vừa bảo vệ danh dự cho người đứng đầu giáo giới vừa giữ Rome trong tình trạng tốt, làm cho dân ở đây quen với người đứng đẩu chính phủ nằm trong tay tướng quân Pháp ở lâu đài Saint-Ange chứ phải ở trong tay giáo chủ già tại Vatican.

      Hồi đó, giáo hoàng vẫn có thói quen biến nơi đây thành chốn lưu vong cho những tên cướp chạy khỏi các Nhà nước Napoli, bọn cướp này phải là thứ thảm hoạ ồ ạt mà rải rác khắp nơi, ở Abruzze, Basilicate, Calabre người ta thấy dân đạo tặc sinh ra nối nghiệp nhau theo kiểu cha truyền con nối, cướp giật cũng như nhà nước, chúng làm cướp như người ta là thợ mộc, cắt quần áo hay bán bánh mỳ vậy. Chỉ có điều, chỉ bốn tháng trong năm, chúng mới rời nhà làm các quý ông các đại lộ. Mùa đông, chúng ở yên trong nhà và đừng bao giờ có ai có ý định đến quấy rầy chúng. Xuân đến, chúng lại hành , ai về vị trí kẻ đó.

      Trong số các vị trí này, những nơi lý tưởng nhất là những chỗ gần biên giới La Mã. Bị chính quyền Naples truy quét, bọn cướp hay qua biên giới và tìm được chốn dung thân bất khả xâm phạm trong các Nhà nước La Mã. Đôi khi, trong những hoàn cảnh đặc biệt, chính phủ Naples còn truy đuổi bọn cướp của họ chứ chính phủ Rome bao giờ.

      Do đó, tại trụ sở Gaète, số sĩ quan được cử từ Rome đến chỗ tướng Reynier bị sát hại giữa Terracine và Fondi nhưng cái chết của ta chẳng gây ra động tĩnh nào trong khi ngược lại đây là nơi giới tăng lữ nháo nhào cứu Fra Diavolo(2), sau khi bị tướng Hugo đuổi như con hoẵng, vừa mới để bị tóm.

      Trong hoàn cảnh ấy, có thanh niên khoảng hai mươi sáu đến hai mươi tám tuổi, vóc dáng trung bình, mặc quân trang loè loẹt thuộc đội quân nào xuất ở trạm ngựa. ta hỏi ngựa và cỗ xe.
      - này đeo khẩu cạc bin kiểu nòng chéo, cặp súng ngắn dắt ở thắt lưng cho thấy con người này bất biết hiểm nguy là gì khi con đường từ Rome đến Naples.
      Chủ trạm ngựa trả lời mình có cỗ xe nhưng thể cho thuê vì người ta hẹn mua và trả tiền đặc cọc. Về ngựa, có thể chọn tuỳ thích.
      - Nếu cỗ xe quá đắt và phù hợp, tôi có thể thoả thuận giá - ta .
      - Vậy ông đến mà xem.
      Người lữ khách theo chủ trạm. Cỗ xe ấy là loại xe độc mã mui, những vì trời nóng việc thiếu hụt này thay vì là điều khó chịu lại thành phù hợp.

      Chàng trai trẻ mình chỉ mang theo chiếc rương và hộp đồ.

      Giá cả nhanh chóng được thoả thuận. Hành khách trả giá chóng vánh chỉ cốt cho được việc chứ tính đến chuyện trả rẻ. Số tiền là 800 phăng. Trong lúc lắp ngựa vào xe và cho chuyển hòm lên, sĩ quan kỵ binh đứng trước cửa hiệu, lạnh lùng nhìn công việc thắng ngựa rồi hỏi chủ trạm đúng như điều người khách ban nãy hỏi:
      - Mày có ngựa và xe cho tao thuê ?
      - Tôi chỉ còn ngựa thôi - Chủ trạm kiên cường đáp.
      - Thế mày làm quái gì với những cỗ xe rồi?
      - Tôi vừa bán chiếc cuối cùng cho ngài đóng ngựa kia.
      - Luật quy định mày lúc nào cũng phải có cỗ xe sẵn sàng cho hành khách đấy.
      - Luật ư! - Chủ trạm - ông gọi luật là cái gì? Lâu lắm rồi chúng tôi chẳng biết đến nó ở đây - Rồi ta búng móng tay như người chẳng lấy làm tiếc khi thiếu vắng cái phương cách bảo vị đạo đức xã hội ấy.
      chàng sĩ quan thốt ra câu cho cho thấy ta rất bất bình.

      Hành khách ban nãy liếc nhìn người này, thấy chàng trai trẻ đẹp cỡ hai tám ba mươi tuổi, trán khắc kỷ, mắt xanh nhạt biểu lộ tính cách hay nổi cáu và bướng bỉnh và khi thấy ta vừa giậm chân xuống đất vừa với mình:
      - Dù sét nổ ngang tai mình cũng phải ở Naples vào 5 giờ tối mai, mà mình lại muốn quãng đường sáu mươi dặm yên ngựa.
      - Thưa ngài - với vẻ lịch thiệp mà người trong giới dễ nhận ra nhau - Tôi cũng thế, tôi cũng đến Naples.
      - Phải rồi, nhưng ông, ông bằng xe - Viên sĩ quan bằng vẻ bông lơn kệch cợm.
      - Chính vì vậy mà tôi có thể mời ngài chỗ cạnh tôi.
      - Xin lỗi ngài - Viên sĩ quan chào lịch và đổi giọng - Nhưng tôi chưa có được cái vinh hạnh quen biết ngài.
      - Nhưng tôi biết ngài. Ngài mặc quân phục đại uý trong đoàn kỵ binh thứ ba của tướng Lasalle, tức là trong những trung đoàn dũng nhất trong quân đội.
      - Thế phải là lý do để tôi biến mình thành kẻ khiếm nhã khi chấp nhận lời mời của ngài.
      - Tôi hiểu, thưa ngài, và tôi giúp ngài thoải mái hơn: chúng ta chia đôi chi phí ngựa.
      - Thế còn phải thoả thuận cái xe nữa - Viên đại uý kỵ binh .
      - phải tôi muốn làm tổn thương lòng tự trọng của ngài, tôi chỉ muốn có người bạn đồng hành thôi. Khi đến Naples, chúng ta chẳng cần cái đồ này nữa, chúng ta bán hoặc đem ra làm củi nếu bán được. Nếu bán, vì tôi trả 800 phăng, tôi lấy lại 400 còn lại ngài lo nốt.
      - Tôi chấp nhận lời đề nghị với điều kiện tôi trả bốn trăm phăng ngay lập tức, chiếc xe là của hai chúng ta và chúng ta cùng chia khoản lỗ.
      - Tôi muốn làm ngài thoải mái lắm, thưa ngài, do đó tôi chấp nhận lời đề nghị của ngài theo mọi phạm vi của nó, song tôi thấy như thế là quá khách sáo giữa người đồng hương với nhau.
      Viên sĩ quan tiến về phía chủ trạm ngựa.
      - Tao mua nửa chiếc xe của mày, chung với ông kia, đây là 400 phăng phần của tao.
      Chủ trạm vẫn đứng khoanh tay.
      - Ông kia trả tôi rồi - ta - Thế tiền phải đến tay ông ấy chứ đến tay tôi.
      - Mày thể điều đó với tao lịch hơn à, thằng vô lại?
      - Tôi việc tôi, còn ông chấp nhận đến đâu là việc của ông.

      Viên sĩ quan làm động tác đưa tay lên cán thanh gươm nhưng cuối cùng vẫn để nguyên nó trong vỏ và quay sang người hành khách đầu tiên:
      - Thưa ngài, - ta bằng giọng lịch ra mặt so với cách vừa thô bạo với chủ trạm ngựa ban nãy - Ngài có chấp nhận bốn trăm phăng tôi nợ ngài ?
      Người thứ nhất khẽ nghiêng mình, mở chiếc valy da có khoá kéo mà đặt cùng chỗ với khẩu cạc bin của mình.
      Viên sĩ quan thả những đồng vàng trong tay vào đó.
      - Bây giờ tuỳ ngài muốn lúc nào cũng được.
      - Ngài có muốn đặt valy vào cùng với cái rương của tôi ?
      - Cảm ơn, tôi để phía sau tôi. Tôi muốn bảo đảm nó trong cái cỗ xe xương xẩu này. Vả lại nó chỉ có cặp súng ngắn, tôi lấy làm khó chịu khi nó ở trong tầm tay mình. Lên ngựa, đánh xe đâu, lên ngựa nào!
      - Các ông này cần đoàn hộ tống à? - Chủ trạm ngựa hỏi.
      - À mày coi chúng tao như các nữ tu về nhà tu kín à?
      - Tuỳ các ông thôi, các ông được tự do mà.
      - Đó là thứ khác biệt giữa chúng tao và mày đấy, quân giáo hoàng quỷ tha ạ! - Rồi với người đánh ngựa: Avanti! Avanti!
      Người đánh ngựa cho ngựa phi nước đại.
      - theo đường Appienne, đừng qua cửa Saint-Jean-De-Latran - Người đến trạm ngựa đầu tiên kêu to.

      Chú thích:
      (1) Lâu đài Saint-Ange tại Rome. Lăng mộ Hadrien. hoàn thành năm 139.
      (2) Tên là Michele Pezza trong cuốn "hồi ký" của mình tướng Hugo có nhiều về người này.

    2. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 99: Đường Appia


      Gần mười giờ trưa, hai chàng trai trẻ mới bỏ lại tháp Sextius ở phía bên phải, xuất trong cỗ xe mui tràn lăn những tấm lát đường Appia mà hai nghìn năm qua chưa đủ sức tách chúng xa nhau.

      Đường Appia, theo ngài Haussmann, nó như Rome của César, Champs-Élyseés, rừng Boulogne và gò Chaumont ở Paris.

      Vào ngày đẹp trời thời cổ đại người ta gọi nó là Appia vĩ đại, bà hoàng của các con đường, như đường thiên đàng vậy. Đó là nơi gặp gỡ của sống và cái chết, của tất cả những gì giàu có, cao quý, lịch lãm bậc nhất thành Rome.

      Nó có tán lá của đủ loại cây, nhất là những cây bách tuyệt đẹp phủ lên những lăng tẩm nguy nga. Ngoài ra còn có những con đường khác như đường Flaminienne và đường Latine cũng có lăng tẩm như đường Appia. Với người La Mã, cái dân tộc có gu về cái chết gần như phổ biến giống ở , nơi dưới thời cai trị của Tibère, Caligula và đặc biệt thời Néron việc chết như bệnh dịch lây lan với người La Mã, mối bận tâm xem việc đặt thi thể an nghỉ ngàn thu ở chỗ nào là cực kỳ quan trọng.

      Vì lẽ đó hiếm khi người còn sống phó mặc việc lo hậu chỗ chôn cất cho thế hệ kế cận. Đó là thú vui khi tự mình chăm lo phần hậu táng của chính bản thân. Vì thế, phần lớn các ngôi mộ ngày nay chúng ta gặp đều mang hoặc hai chữ viết tắt V. F. có nghĩa là Virus fecit; hoặc ba chữ V. S. P. có nghĩa Virus si bi posuit hay V. E. C. có nghĩa Virus faciendum curavit(1).

      Quả điều vô cùng quan trọng với người La Mã là được chôn xuống đất. Theo tục lệ tôn giáo lan truyền từ thời Gicéron, khi mà mọi loại mê tín tuy bắt đầu bị loại bỏ, rằng linh hồn của bất cứ ai chết nếu có mồ mả phải lang thang hàng trăm năm bên bờ sông Styx. Chính vì vậy mà ai đó gặp thi thể dọc đường mà chôn chất tử tế bị coi phạm tội nặng thể dung thứ trừ phi dùng con lợn cái tế cho Cérès.

      Tuy nhiên, được chôn cất chưa phải là tất cả mà còn phải được chôn cách êm ái nữa kia. Thần Chết của người tà đạo có vẻ gì đáng ghê sợ như kiểu bộ xương lủng lẳng gắn với các sọ trắng hếu, hốc mắt trống rỗng và hàm răng nhe ra chết khiếp ta vẫn thấy.

      , thần Chết của họ là người đàn bà đẹp, là con xanh xao nhợt nhạt của thần Giấc ngủ và thần Bóng đêm với mái tóc loà xoà, bàn tay trắng và lạnh giá, cái ôm đóng băng, có cái gì giống như người bạn xa lạ, khi người ta gọi bước ra khỏi bóng tối với bước chậm chạp và lặng lẽ, khẽ cúi xuống người chết và chỉ cần nụ hôn tang tóc đủ khép đôi môi và đôi mắt của kẻ đó. Thế là cái xác trở nên câm lặng, vô cảm cho đến khi giàn lửa bao trùm và cuốn lấy cái xác, chia phần linh hồn ra khỏi vật chất, vật chất trở thành tro tàn còn linh hồn trở thành thần thánh. Tuy nhiên, vị thần mới này, cũng vô hình với người sống như những con ma đối với chúng ta, lấy lại thói quen, sở thích và đam mê của nó, trở lại việc sở hữu các giác quan, thứ nó từng và ghét thứ nó từng ghét.

      Chính vì thế mà trong mộ của binh sĩ người ta hay chôn theo cái khiên, cái lao và thanh kiếm, trong mộ của phụ nữ là kim khâu kim cương, dây chuyền vàng và vòng ngọc của họ, trong mộ của trẻ em là đồ chơi, bánh mì, hoa quả, cốc Albat, vài giọt sữa vắt từ vú mẹ khi người mẹ chưa bị kiệt sữa.

      Nếu cái ngôi nhà mà người ta sống trong quãng đời ngắn ngủi của mình còn quan trọng mức nào với La Mã bạn hãy nghĩ xem ngôi nhà họ ở vĩnh viễn phải được chăm chút ra sao vì các vong hồn ở mãi trong nấm mồ của họ. Do đó, họ trang trí tuỳ sở thích, số là những người vui thú điền viên nghiệp dư với sở thích đơn giản, ưa chè chén, số ít khác lại sắp đặt chỗ mai táng của mình trong vườn, trong rừng để thiên thu vui cùng các thần sông núi, rừng già, được đưa nôi trong tiếng lá xào xạc trong gió, thư giãn theo tiếng suối rót rách qua những viên sỏi hay vui cùng bầy chim líu lo cành cây.

      Những người này thường là các nhà triết gia hay những nhà thông thái còn những người khác vốn là số đông, đa số, ưa vận động, ưa giao tế họ sẵn sàng trả giá bằng vàng để mua những mảnh đất bên đường cái quan nơi lắm kẻ qua lại để tứ xứ mang đến châu Âu tin tức về châu Á, châu Phi dọc theo đường Latine, Flaminienne và nhất là đường Appia. Đường nào cũng đến Naples nhưng chúng có hai hàng điện thờ, lăng tẩm. Kết quả là những vong hồn may mắn được chôn dọc theo đường Appia chỉ được thấy những khách quan quen và lạ qua lại, chỉ được nghe người ta đến tin tức sốt dẻo ở mãi châu Á, châu Phi mà còn với các khách quan bằng những hàng chữ văn bia lăng tẩm của họ.
      Tuỳ theo tính cách từng người, họ viết khi còn sống mà chúng ta quan sát được, người khiêm nhường :

      "Tôi từng sống, tại tôi sống nữa
      Đó là tất cả cuộc sống của tôi, tất cả cái chết của tôi".

      Người giàu có viết:

      "Nơi đây an nghỉ
      STABIRIUS
      Lẽ ra ông có thể có vị trí
      trong đội quân thành Rome
      nhưng ông ấy muốn
      Sùng đạo, can trường, chung thủy
      Tay trắng mà để lại 30 triệu
      bao giờ muốn nghe những tên học giả
      Hãy bảo trọng và bắt chước ông ấy!

      Và như để thu hút chú ý nhiều hơn của khách qua đường, Stabinus, nhà giàu còn cho khắc hình mặt trời lên văn bia của mình.
      Người văn chương lại :

      Du khách!
      Dù hành trình của bạn có vội vã đến đâu
      tảng đá này vẫn muốn bạn nhìn nó
      và đọc những gì được ghi:
      Nơi đây an nghỉ nắm xương tàn của nhà thơ
      MARCUS PACUVIUS
      Đó là điều tôi muốn với bạn
      Vĩnh biệt.

      Người kín đáo viết:

      Danh tính, quê quán, xuất thân của tôi
      Tôi từng thế nào vẫn là như thế
      Tôi ra
      Câm lặng vĩnh hằng, tôi chỉ còn chút
      Tro tàn, xương trắng, gì hết.
      Đến từ hư vô, tôi quay lại nơi tôi đến
      Số phận tôi chờ bạn.
      Vĩnh biệt

      Người mãn nguyện lại viết:
      Từng sống đời, tôi trải qua hết
      Phần tôi xong, phần bạn cũng sớm đến hồi kết
      Vĩnh biệt.
      Hãy vỗ tay vào.

      Cuối cùng, người vô danh, chắc là cha em bé viết lên mộ con, tội nghiệp mới lên bảy tuổi:
      Đất ơi! Đừng đè lên em!
      Em vẫn chưa từng đè lên đất.

      Vậy những kẻ chết còn cố bám đuổi sống bằng ngôn từ mộ với ai? Ai là người họ vẫy gọi từ nấm mồ của họ? Họ tiếp tục vào suy nghĩ của thế giới nào nữa? Kẻ nào là người vui vẻ vô tư qua nhanh mà chẳng nghe họ, chẳng nhìn họ?

      Vào khoảng bốn giờ chiều, khi cái nóng gay gắt trong ngày dịu lại, khi mặt trời bớt dữ dằn và bớt loá mắt biển Tyrrhénienne, khi bóng những cây thông, cây sồi xanh và cây cọ ngả dài từ Tây sang Đông, khi cây trúc đảo Sicile rũ mình khỏi bụi ngày trước làn gió đầu tiên và từ dãy núi xanh lơ nơi có đền thờ Jupiter Latial xuống, khi hoa trà Ấn Độ nở cánh trắng như ngà tròn trặn như ống kèn, và như cái cúp toả hương sẵn sàng đón giọt sương chiều, khi loài hoa nélumbo từ biển Caspa tránh ngọn lửa nóng nhô lên khỏi mặt nước để tận hưởng cái dịu mát ban đêm cũng là lúc cổng lớn của đường Appia bật mở xuất những gì người ta có thể gọi là những người đẹp, những hiệp sĩ thành Rome, những thị dân bước ra khỏi nhà mồ của họ để hít thở, để sẵn sàng diễn binh, ngồi lên ghế bành, ghế tựa, lên bậc cho các kỵ sĩ lên ngựa hay nằm các ghế băng hình vòng tròn dùng cho khách qua đường ngả lưng ở nhà của những người quá cố hòng tạo thuận tiện cho những người sống.

      Chưa bao giờ thành Paris, ở giữa hai hàng rào đại lộ Champs-Élysée, chưa bao giờ thành Florence có Cascine, Vienne có frater, Naples bị dồn giữa phố Telède hay Chiaina từng thấy số lượng diễn viên phong phú, tụ họp số khán giả tương tự như ở đây.

      Chú thích:
      (1) " thực khi còn sống"; "Sinh thời (ông ấy) tự soạn cho mình"; "Cho xây từ khi còn sống".

    3. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 100: Chuyện xảy ra đường Appia năm mươi năm trước công nguyên


      Trước hết tốp đầu tiên ra là các kỵ sĩ cưỡi giống ngựa xứ Numide, tổ tiên loài ngựa các quý ông ngày nay hay cưỡi. Những con ngựa đua ấy yên cương, bàn đạp chỉ có tấm vải phủ mông màu vàng hay tấm chăn phủ bằng da hổ. Vài chú dừng lại xem đoàn người diễu qua, số khác tiếp rảo bước về phía trước những người chạy mặc áo lửng, giày , áo choàng cuộn buộc quanh vai trái và cánh áo có thắt lưng bằng da thắt gọn gàng hay thả lỏng tuỳ theo họ muốn nhanh hay chậm. Cuối cùng có toán người như thể tranh cãi ngã giá cho cuộc đua nhảy vào đường Appia, thả vào trước đám ngựa lũ chó ngao cổ đeo vòng bạc. Bất hạnh thay cho kẻ nào rơi vào cái cuộn vòi rồng ấy? Thương thay cho kẻ nào để cơn lốc xoáy giữa tiếng ngựa hí, tiếng chó sủa và bụi quấn lấy! Kẻ nào bị lôi ra do chó cắn, do ngựa giẫm phải y như rằng kẻ đó máu me, bầm dập, thương tích đầy mình. Trong lúc tay đua ra đòn quay lại nhưng giảm tốc độ, ta phá lên cười và hướng ngựa về đích.

      Phía sau lũ ngựa Numide là các chiến xa hạng có tốc độ chạy ngang với các con ngựa miền hoang mạc mà chủng này được đưa vào Rome cùng thời với Jugurtha: đó là những con Cisil, đội quân biết bay, bao gồm ba con chạy chĩa ra hình rẻ quạt trong đó con bên phải và bên trái vừa phi và chồm lên vừa lắc tít cái lục lạc bằng bạc của chúng, trong khi con ở giữa chạy theo đường thẳng tắp mà người ta vẫn gọi là như tên bắn.

      Sau đó là những xe Carrucae, loại xe bốn bánh cao mà xe Corricolo đại chỉ là biến thể hay đúng ra là hậu duệ của nô, hiếm khi các quý ông tự lái mà hầu như cho tên nô lệ mặc bộ đồ lòe loẹt đánh xe.

      Phía sau những Cisil và Carrucae, nhiều cỗ xe bốn bánh tiến lên, đó là những chiếc xe có đệm tựa lững màu đỏ tía và thảm sang trọng phủ bên ngoài; những xe có mui và cửa đóng chắc vì đôi khi nó còn chở những bí mật chốn khuê phòng trong những khu phố thành Rome hay các cuộc công cán vi hành. Hai hình ảnh tương phản lẫn nhau ra, là hình ảnh mệnh phụ mặc váy dài, ngồi thẳng đơ như pho tượng cỗ xe Carpentium, loại xe có hình thù kỳ dị mà chỉ các quý bà quyền thế mới có quyền ngồi, là hình ảnh các ả mặc thứ quần áo mỏng như dệt bằng sương mù, uể oải nằm kiệu tám phụ khiêng, bên phải là ả Hy Lạp phóng túng, kẻ mồi lời hẹn hò tay cầm chiếc quạt lông công phe phẩy cho bà chủ, bên trái là tên nô lệ vác bậc kệ chân có bọc vải nhung đính với đài dài và hẹp cũng bằng nhung để cho kẻ bán phấn buôn hương cao giá có thể xuống nền nơi ả quyết định ngồi nghỉ sao cho bàn chân trần và đeo đầy đá quý khỏi phải chạm vào đất.

      khi "diễu binh" qua Champ de Mars, khi ra khỏi cổng Capène, hay khi ra khỏi đường Appia, rất nhiều người tiếp tục con đường của họ bằng ngựa hay xe, song cũng có rất nhiều quan khách dừng chân xuống đất, để hành lý cho bầu đoàn nô lệ trông coi rồi dạo ở khoảng giữa các lăng tẩm và nhà mộ hay ngồi lên ghế đẩu cho thuê với giá nửa Sesterce giờ. Ôi chao! Đến đây ta mới thấy cơ man là thanh lịch ! Đó mới là nơi "mốt" ngự trì cách áp đảo! Nào là người ta tên hiểu kiểu cách để râu, để tóc, hình thù váy dài váy ngắn ra sao. Dẫu cái vấn đề lớn được César quyết song trước hoài nghi của thế hệ mới họ vẫn xem nên mặc áo dài hay ngắn, bó sát hay buông rộng. César mặc áo choàng dài và buông rộng nhưng từ thời César đến nay người ta tiến những bước dài lắm rồi! Thế là họ luận với nhau hết sức nghiêm túc về trọng lượng nhẫn đeo tay vào mùa đông ra sao cấu tạo các thành phần son môi thế nào, về dầu thoa da cho mềm mại về viên ngậm chiết xuất từ cây mía hay cây nhũ hương với rượu vang lâu năm để miệng phả ra cái mùi dễ chịu! Các quý bà vểnh tai nghe tay lại tung qua tung lại từ trái sang phải những hợp đựng long diên vừa thơm vừa mát, họ tán thưởng bằng đầu, bằng mắt thậm chí bằng tay trước những học thuyết uyên thâm nhất và ngẫu nhiên nhất; môi họ nghếch lên bởi nụ cười để hé hàm răng như ngọc như ngà, tấm mạng hất ra sau để nhìn ngầm, lộ ra tương phản chan chát giữa cặp mắt nhung huyền và cặp lông mày như mun với mái tóc vàng rực, vàng như vàng khuôn hay hơi xám tuỳ cách nhuộm làm biến màu nguyên gốc hoặc bằng xà phòng hỗn hợp từ than cây sồi rừng trộn với mỡ dê mua từ mãi bên Đức hoặc dùng hỗn hợp cặn giấm với dầu nhũ hương hoặc đơn giản hơn rất nhiều mua ở cửa hàng những bộ tóc giả đẹp tuyệt của các nghèo xơ xác xứ Gaule bán cho các tay kéo với giá 50 Sesterce để các tay phó cạo này bán lại với tài ra giá xuất chúng.

      Thế mà cái cảnh tượng này được ngưỡng mộ cách vô cùng thèm muốn bởi những kẻ bình dân mình trần, những tên Hy Lạp đói khát đến mức chực bay lên trời để ăn tối và bởi những kẻ triết gia choàng áo măng tô nhàu nát và cái hầu bao rỗng tuếch vẫn tuôn ra những bài diễn văn chống lại thói xa hoa và chống lại kẻ giàu.

      Tất cả, vừa kẻ đứng người ngồi, kẻ nằm người tới lui, núng nính gác chân khi vào người khác khi tự đè lên chân mình vừa giơ tay lên cho cổ tay kéo tụt trễ cuống lộ ra cánh tay đeo đầy đá quý, hỉ, nộ, ái, ố, lầm bầm những bài hát của Cadix hay Alexandrie mà quên bẵng những người chết lắng nghe họ, tuôn ra nhưng câu đùa nhảm nhí bằng ngôn từ của Virgile, ném vào nhau những trò chơi chữ từ tiếng Démesthène, vừa tiếng Hy Lạp, vì tiếng Hy Lạp là ngôn ngữ tình . lầu xanh biết với tình lang của mình bằng tiếng Thais hay Aspasie rằng "Cuộc sống của em và tình của em" ả đó chỉ là con bé dành cho đám lính dép lê và mang khiên bằng da. Thế mà, để mang lại thú vui, những lâu đài thành quách, những cuộc biểu diễn và bánh mì cho đám người vô công rồi nghề này, cho đám thanh niên có cái đấu tếch, đám đàn bà lẳng lơ, đám con trai phung phí sức trong những nhà thổ và hầu bao trong các tửu lâu, cho đám dân ăn ngồi rồi và lười biếng vì hết, dân ấy là dân Italie những nó khà khịa như dân , kiêu hãnh như dân Tây Ban Nha, gây gổ như dân Gaulois, đám dân dành cuộc sống của mình để diễu dưới những hàng hiên, thả tấm thân vào bồn tắm hay nện hai tay vào nhau trong các đấu trường chính vì đám thanh niên ấy, đàn bà, công tử bột và vì cái dân ấy mà Virgile, con thiên nga dịu dàng thành Man-tô-ca, nhà thơ cơ đốc từng ca ngợi hạnh phúc miền thôn dã, nguyền rủa tham vọng cộng hoà, lên án cuộc nội chiến tàn khốc vô lương tâm và chuẩn bị phần đẹp nhất, phần thơ vĩ đại nhất lẽ ra phải sáng tác từ thời Homère đem đốt vì thấy nỏ xứng với chỉ hậu thế mà còn với kẻ đương thời!

      Chính vì chúng, vì trở về với chúng mà Horace phải trốn sang với Philippe, để chạy nhanh hơn ông ta ném cái khiên ra; để được chúng ngắm nhìn, tôn danh mà ông ta dấn thân vào Champs de Mars, bên bờ sông Tibre mải miết theo cái gọi là chiến trận; chính vì chúng mà ông bị sống lưu vong từ năm năm ở chỗ người Thraces biết gì đến vui thú dẫu rằng trước kia ông tưởng là người tình của con hoàng đế. Vì bọn chúng mà Ovide viết những vần thơ "Buồn", "Ponti ques" và "Métamorphoses", chính vì trở lại với bọn chúng mà ông cầu xin hoàng đế Auguste và cầu khẩn hoàng đế Tlbère để mình trở lại Rome. Vì chúng, vì để giữ lại tình của chúng, thừ tình thay đổi như thời tiết tháng tư mà Mécène, hậu duệ của những vị vua nước Etrurie, bạn của hoàng đế Auguste, cho ra những vần thơ của mình, những bức bích hoạ, những tiết mục hài kịch, những nét mặt khóc cười trong thể loại kịch điệu bộ Pylade, những thế nhảy đập chân của kiểu nhảy Bathylle! Vì chúng mà Balbus mở nhà hát, Philippe dựng viện bảo tàng, Pollion xây các điện đài nhà thờ.

      Vì chúng, Agrippa cho bán vé xổ số trị giá hàng hai mươi nghìn Sesterces, bán các loại vải thêu chỉ vàng chỉ bạc, những đồ gỗ khảm xà cừ và ngà voi. Vì chúng mà ông ta xây những nhà tắm có thể ở lại từ lúc mặt trời mọc đến khi mặt trời ngủ, những phòng tắm vừa cạo râu, xực nước hoa, xoa bóp, giải khát, được thưởng thức những đồ ăn siêu hạng. Vì chúng, ông cho đào ba mươi dặm kênh rạch, xây sáu mươi bảy dặm cầu máng dẫn vào Rome mỗi ngày hơn hai triệu mét khối nước phân phát cho các suối giả, trăm ba mươi lâu đài nước, trăm bảy mươi đài phun. Cuối cùng vì chúng, để thay thế từ Rome xây gạch sang lát đá cẩm thạch, để xây các nghị trường, các nhà thờ lớn kiểu basilique, những nhà hát mà hoàng đế Auguste, vị hoàng đế thông thái, cho nung chảy cái đá vàng của mình, chỉ giữ từ những gì Ptolémées để lại bình mua rin, di sản của cha mình Octavius truyền lại từ thời César. Vì chúng mà ông cho làm lại con đường từ Flaminia đến tận Rimini, cho gọi những tên hề và các triết gia từ Hy Lạp sang, những vũ công từ Cadix, những đấu sĩ từ Gaule và Đức, cho mang những con trăn, hà mã, hươu cao cổ, hổ, voi, sư tử từ châu Phi về. Và cuối cùng cũng vì chúng mà trước khi chết ông hỏi: "Các ngươi có hài lòng về ta hỡi dân La Mã? Ta có hoàn thành vai trò hoàng đế ? Có ai?… Thế vỗ tay …?

      Đó là những gì xảy ra đường Appia, ở Rome với người La Mã vào thời hoàng đế Auguste. Nhưng vào thời điểm hai vị lữ khách của chúng ta tại đó, tức là gần hai nghìn năm trải qua, cái nơi thích thú nhất của những kẻ chết từ cổng Capène đến Albano, chỉ còn là những hoang tích lụi tàn mà trong đó chỉ có con mắt của nhà khảo cổ mới có thể dõi theo được cái huyền bí của quá khứ mà thôi.

    4. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 101: Cuộc luận bàn cổ học giữa đại uý hải quân và đại uý kỵ binh


      Hai chàng trai trẻ im lặng hồi lâu, trong hai người trẻ hơn, đó là người mua cỗ xe trước, chăm chú nhìn những dòng chữ kỳ vĩ của lịch sở cổ đại, người kia nhiều tuổi hơn lơ đãng ngắm nhìn và chắc hẳn với ta, đống hoang tàn lịch sử ấy chẳng gợi lại ngày tháng cũng như thanh nào trong khi người bạn đồng hành của ta như đọc trước cuốn sách mở sẵn.

      - Thế mà có người - chàng sĩ quan kỵ binh cách lơ đãng và gần như là cao ngạo - Thế mà có người nghĩ rằng có những kẻ biết tên và chuyện về những tảng đá này đấy.
      - Đúng thế có những người như vậy - Người đồng hành mỉm cười .
      Tôi hình dung hôm qua tôi ăn tối tại nhà ngài đại sứ của chúng ta, ngài Alquier, để trình lá thư của đại công tước Berry.
      Lúc ấy có nhà bác học, kiến trúc sư cũng đến, ông ta có bà vợ quả vô cùng xinh đẹp.
      - Ông Visconti đúng ?
      - Ngài biết ông ta?
      - với miêu tả của ngài, ai mà chẳng nhận ra ông ấy chứ?
      - Ngài sống ở Rome à?
      - Tôi mới chỉ đến đó hôm qua là lần đầu tiên và sáng nay lại chia tay nó cùng ngài, nhưng điều đó ngăn tôi hiểu Rome như nơi tôi sinh ra.
      - như vậy là ngài rất để tâm nghiên cứu Thành phố vĩnh hằng, như cách người ta vẫn gọi?
      - Tôi quan tâm như thể khoả lấp niềm đam mê, tôi vô cùng những chuỗi ngày xa xưa, con người thời ấy là những gã khổng lồ và Virgile quả đúng khi câu thơ tuyệt vời có rằng hôm, khi lưỡi cày xới qua mộ phần của họ, ta phải kinh ngạc về kích cỡ bộ xương của họ.
      - À đúng! Quả có vậy, tôi nhớ rồi - chàng kỵ binh vừa ngáp vừa nhớ lại kiến thức hồi học trong trường: mirabitur ossa sepulcris(1) - nhưng ta cười tiếp - Nhưng biết có chúng to hơn xương của chúng ta nhỉ?
      - Chúng ta qua đúng nơi có bằng chứng ấy đấy.
      - Chúng ta qua đâu vậy?
      - Chúng ta qua trước đấu trường Maxence, rướn người lên và ngài thấy thứ dạng như nấm mồ.
      - Thế nó phải lăng mộ à?
      - Phải, nhưng vào thế kỷ XV nó bị lộ ra: đó là mộ của người bị mất đầu, có đầu mà ông ta còn cao gần sáu bộ. Cha ông ấy là con cháu người Goths, mẹ người Alains; ban đầu ông ta làm mục đồng núi, sau đầu quân dưới trương Septime Sévère, tiếp đến chỉ huy đội trăm quân dưới Caracalla, làm tộc trưởng dưới quyền Hélingabale và cùng làm hoàng đế sau Alexandre. Ông ta đeo nhẫn bằng chiếc vòng cổ tay của vợ, chỉ dùng tay cũng kéo được xe bò chở nặng, bóp đá nát vụn thành bụi, vật 30 đô vật xuống đất cần nghỉ, chạy nhanh như ngựa phi nước đại, chạy quanh đấu trường ba vòng chỉ mất mười lăm phút và mỗi vòng, mồ hôi chảy đầy chiếc cốc.

      Cuối cùng, ông ấy ăn 40 livre thịt mỗi ngày và uống cạn vò rượu chỉ hơi. Ông ấy tên là Maximin: ông bị giết ở Aquilée do chính bàn tay quân của mình, chúng mang đầu ông dâng cho Sénat, người này đem thiêu nó trước chứng kiến của dân chúng ở Champ de Mars. Sáu mươi năm sau, hoàng đế khác được coi là hậu duệ của ông cho tìm thi thể ông ở Aquilée; Sau đó, vì người này cho xây đấu trường kia nên đặt ông vào nhà mộ. Do cung tên là vũ khí sở trường của người chết nên vị hoàng đế cho đặt cạnh thi hài ông sáu mũi tên bằng cây sậy Euplưate và cây cung bằng gỗ cây tần bì Đức; Cây cung dài 8 bộ, mũi tên tài nam bộ; như tôi vừa đấy, người khổng lồ này có tên là Maximin mà ông ấy từng là hoàng đế Rome. Người dựng lăng này và cho tạc ngựa xe xung quanh lăng là Maxence, ông ấy bị chết đuối trong khi bảo vệ Rome chống lại Constantin.
      - Đúng thế, - Viên sĩ quan kỵ binh - Tôi còn nhớ như in bức hoạ của Le Brun tái cảnh Maxence cố ngoi khỏi nước. Cái tháp trôn đó có mọc cây lựu như trong vườn treo Sémiramis đấy, có phải là mộ của ông ta ?
      - , đó là lăng mộ của phụ nữ duyên dáng mà ngài có thể đọc tên bia đá cẩm thạch. Vào thế kỷ XIII lăng này dùng làm pháo đài cho cháu của giáo hoàng Boniface VIII, giờ nó là lăng của Caccilia Metella, vợ Crassus, con Metellus.
      - À! - Viên sĩ quan kỵ binh nhận ra - đó là vợ của gã hà tiện đến nỗi khi theo tên triết gia Hy Lạp mà ông ta mua, lúc về sợ nắng đội cho cái mũ rơm cũ mèm chứ gì.
      Điều ấy ngăn ông ta cho César vay 30 triệu khi đám chủ nợ ngăn cho César đến Tây Ban Nha nơi mà khi trở về sau khi trả hết nợ, César còn có 40 triệu nữa. Ba mươi triệu trả nợ thay cho hoàng đế César và lăng mộ dựng cho vợ là hai dấu vết duy nhất trong đời Crassus.
      - Thế bà ta có đáng được xây lăng mộ như vậy ? - Viên sĩ quan hỏi.
      - Có chứ, đó là phụ nữ cao quý, thông tuệ, nghệ sĩ và thi sĩ Tập trung ở nhà bà có Catilia, César, Pompeé, Cicéron, Lucullus, Terentius Vanon, tất cả những gì thông thái, lịch thiệp giàu sang của thành Rome, ngài có hình dung ra quần tụ như vậy ?
      Chắc chắn phải vui hơn nhà ông đại sứ Alpquier của chúng ta rồi. Những hình như lăng tẩm của bà ta bị đào hay sao ấy.
      - Đúng thế, theo lệnh của giáo hoàng Paul Đệ tam, người ta tìm thấy bình thi hài của bà ta cho mang vào góc sảnh điện Famèse nơi chắc bây giờ bà vẫn ở đó.

      Trong khi ấy, cỗ xe vẫn tiếp tục con đường của mình. Họ vừa qua lăng mộ của Caccilia Metella và lại gần đống hoang tàn đổ nát vì được bảo quản.

      Viên sĩ quan kỵ binh ban đầu tỏ ra thờ ơ trước những lời giải thích của người bạn đồng hành, nhưng càng nghe ta càng chăm chú từng lời:
      - Thú điều tôi hiểu nổi - ta - Đó là lịch sử viết thường tẻ ngắt bao nhiêu chuyện kể lại hấp dẫn bấy nhiêu. Tôi ấy à, tôi luôn tránh xa những đống đổ nát như tránh tổ rắn vậy, tôi sẵn sàng bỏ khi những bia đá kia muốn kể chuyện của chúng cho tôi nghe.
      - Ngược lại, câu chuyện về chúng rất hấp dẫn đấy.
      - Thôi nào, tôi đâu tò mò như vị hoàng đế trong chuyện Nghìn lẻ đêm nghe nàng Shéhérazade xinh đẹp kể mỗi tối chuyện.
      - Đó là dinh của hai em Quintilien muốn ám sát hoàng đế Commode.
      - À! à! Đó có phải là cháu nội của Frajan ?
      - Và là con trai của Marc Aurèle. Nhưng những hoàng đế về sau cha truyền mà con nối. Khi 12 tuổi, thấy bồn tắm nước nóng quá, cho tên nô lệ chuẩn bị nước ấy vào lò thiêu và dù nước tắm nguội vẫn chỉ muốn tắm khi tên nô lệ chín thui. Tính khí ngông cuồng của tên hoàng đế trẻ này càng ngày càng hung bạo, kết quả là có bao người nguyền rủa trong đó có hai em chủ nhân toà đổ nát mà chúng ta qua đây. Chỉ cần hành thích Commonde là xong, nhưng để hành thích người có sức vóc như vậy đâu có dễ. Tên hoàng đế lẽ ra được gọi là Commode con trai của Marc Aurèle mà phải gọi là Hercule, con trai thần Jupiter(2) mới đúng. rất thích xem võ sĩ đấu khéo léo hơn bất cứ đấu sĩ nào quần nhau trong đấu trường, học bắn cung từ người Parthe và phóng lao từ người Maure. hôm, trong đấu trường, ở phía đối diện hoàng đế có con báo cắp người chực xé xác ông ta. Commode, người lúc nào cũng mang theo cung tên, bắn mũi chính xác vào con báo mà chạm vào người kia. hôm khác, khi thấy lòng cuồng nhiệt của dân chúng bắt đầu nguội , cho loan báo khắp thành Rome rằng mình hạ 100 con sư tử với 100 mũi lao. Thế là đấu trường đầy ắp khán giả, ngài cũng đoán được đấy. Người ta mang vào lô của hoàng đế trăm mũi lao bằng sắt mạ vàng rồi lùa vào đấu trường 100 con sư tử. phóng 100 mũi lao và giết chết trăm con sư tử .
      - Ồ! Ồ! Chàng sĩ quan kỵ binh thốt lên.
      - phải tôi dựng chuyện đâu - Người đồng hành của ta - Chính Hérodien(3) viết lại, ông ấy nhìn tận mắt mà.
      - Thế lại là chuyện khác - chàng sĩ quan kỵ binh vừa vừa ngả cái mũ côn-bắc - Tôi còn gì để .
      - Ngoài ra - Người kể chuyện tiếp tục - hoàng đế cao sáu bộ và như tôi đấy, rất khỏe. quật cây gậy đủ gẫy chân con ngựa, đấm phát cũng hạ con bò chết tươi. lần thấy tráng sĩ có thân hình vạm vỡ vô cùng, gọi lại, rút gươm ra và chỉ nhát chém đứt người đó làm hai. Ngài thấy đấy mạo hiểm và khó khăn khi tạo phản chống lại kẻ như vậy.
      Tuy thế hai em Quintilien vẫn quyết định hành chỉ có điều họ rất thận trọng: họ đem chôn tất cả số vàng bạc đá quý tiền mặt và chuẩn bị ngựa sẵn sàng bỏ trốn nếu thành. Sau đó họ rình dưới mái vòm, lối hẹp dẫn từ cung điện đến đài vòng.
      Ban đầu vận may có vẻ mỉm cười với những tên mưu phản: Commode xuất hầu như có ai kèm. em Quintilien xông vào và những kẻ đồng mưu vây quanh .
      - Nhận lấy này - trong hai em vừa đâm dao gắn vừa - Nhận lấy này César, đây là thứ ta mang cho mi phần của Sénat.
      Thế là cuộc chiến nảy lửa diễn ra dưới vòm tối om trong lối hẹp đó. Commode chỉ bị thương : những đòn tấn công chẳng làm nao núng, ngược lại mỗi lần ra đòn lại người ngã xuống. Cuối cùng cũng tóm được người đâm đầu tiên dùng cánh tay thép siết cổ ông ta. Trong lúc gần chết, người cả hét lên với em:
      - Chạy Quadratus, thất bại rồi!
      Quintilien tháo chạy, nhảy lên lưng ngựa lao .
      Quân lính nhanh chóng bủa vây: đó là cuộc đua giữa mạng sống của kẻ bị truy đuổi với khoản tiền thưởng hậu hĩnh cho kẻ nào bắt được.

      Tuy bị quân lính đuổi kịp song may thay con người này lường trước mọi việc chuẩn bị mẹo, mẹo này hết sức kỳ lạ nhưng ta phải tin vì nó được Dion Cassius kể lại. Kẻ chạy trốn chuẩn bị chai tiết thỏ rừng, đây là con vật duy nhất có máu đông, bị hỏng như máu các loài vật khác. Ông ta giả vờ bị ngã ngựa y như vụ tai nạn. Quân lính thấy ông ta nằm sõng soài ra đất; máu trào ra như suối. Thế là chúng chắc kẻ này chết, lột quần áo, quẳng cái xác tại chỗ rồi về bẩm báo lại với Commode rằng kẻ thù của chết và chết ra sao. Trong khi ấy Quintilien nhỏm dậy, về nhà mặc quần áo, mang theo tất cả vàng bạc châu báu rồi bỏ trốn.
      - Thế Commode về sau chết thế nào? - Viên sĩ quan kỵ binh hỏi - Tôi thấy quan tâm đến gã đồ tể giết cả trăm con sư tử ngày ấy quá.
      - Commode bị đầu độc chết bởi Marçia, nhân tình được sủng ái nhất của rồi bị Narcisse, lực sĩ tâm đắc nhất của treo cổ Peltinax chiếm ngôi hoàng đế rồi sáu tháng sau để tuột mất ngai vàng cùng mạng sống của mình. Thế là Ordius Julianus mua Rome. Nhưng Rome vẫn chưa quen với việc bị đem ra bán ấy.
      - Giờ nó quen rồi đấy thôi - Viên sĩ quan bẻ lại.
      - Đúng thế, nhưng lần ấy nó nổi dậy. Quả là kẻ mua nó quên trả tiền. Septime Sérère nhân cuộc bạo động cho giết Didius Julianus rồi trèo lên ngai vàng. Mọi người thở phào.
      Vì trước khi đến Velletri có trạm ngựa nào mà từ Rome đến Velletri phải mất năm dặn nên người đánh ngựa xin phép cho ngựa nghỉ lát.

      Hai hành khách vui lòng chấp thuận vì họ đến trong những nơi thú vị nhất của miền thôn dã thành Rome.

      Chú thích:
      (1) Thơ của Virgine "Georgique" tập 1, trang 497.
      (2) Trong thần thoại Hy Lạp gọi là thần Dớt (Zeus).
      (3) Trong cuốn "Lịch sử đế chế sau cái chết của Marc Aurèle" - tập 1

    5. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 102: Nhờ đâu độc giả đoán được tên trong hai hành khách biết được tên người kia?


      Họ đứng tại vị trí từng quyết định vận mệnh của thành Rome. Đó là chiến trường giữa người Horace và người Curiaces.

      Trước thông tin này, chàng sĩ quan kỵ binh trẻ tuổi làm động tác cúi chào bằng cách dùng tay ngả cái mũ côn-bắc ra.

      Cả hai cùng đứng dậy trong xe.

      Con đường Albano chia làm hai, trước mắt họ là dải đồi hùng vĩ trong đó có ngọn Socacte, từ thời Horace còn phủ đầy tuyết giờ đây phủ màu xanh ngút ngát, nằm ở tận cùng phía bên trái đỉnh cao nhất của dải đồi là nơi có đền thờ Jupiterlatial.

      Phía trước, trắng xoá đến tận đỉnh quả đồi là Albano, đứa con đỡ đầu của thành phố Albe La Longue, thành phố dành tên của mình cho đứa con tiếm quyền nổi lên đống đổ nát của trang viên Pompée và nơi đó, với tám trăm nóc nhà cùng ba nghìn dân cũng chưa vừa cho tên giết người như giết ruồi Domitien từng làm, còn phải thêm vào trang viên kẻ giết người là Pompée nữa. Bên phải, tháp dần về phía biển Tyrrhène là dải đồi trải rộng theo hình vòng cung nơi từng là chiến trường lần lượt xâm chiếm lẫn nhau của các tộc người Falisquèque, Volsque, Sabine và Hemlque. Phía sau là Rome, thung lũng Egérie nơi Numa từng đến nghe lời phán truyền, chuỗi các lăng tẩm họ vừa qua giống như nối họ với thành Rome bằng đường cày đổ nát. Cuối cùng, sau Rome là biển kỳ vĩ, đó đây đó những hòn đảo trăng trắng nổi lên giống những đám mây đường lên chốn vĩnh hằng thả neo nền trời.

      Đấu trường gần đó có lịch sử hai nghìn năm trăm năm. Nó như cái cội trụ của lịch sử nhân loại trong hai mươi thế kỷ hoặc dưới thời cộng hoà hoặc dưới thời Giáo hoàng.

      Sau khi ngựa lại sức, cỗ xe tiếp tục cuộc hành trình của nó.

      Ngược lên mạn lăng mộ của ba em nhà Horaces có con đường mòn nằm tách hẳn bên phải con đường lớn và nó được nhìn giữa đám cỏ màu hung hung và vàng nhạt phủ khắp miền nông thôn ngoại thành Rome giống như lớp da sư tử.
      - Con đường mòn này nhìn mờ dần rồi hút vào các lớp đồi núi uốn lượn. Nó còn tồn tại vì đây là quãng đường tắt dành cho người bộ từ Rome đến Vellatri.
      - Ngài có nhìn thấy con đường mòn kia ? - chàng trai sau hồi im lặng để người đồng hành của ta sốt ruột ra mặt - Rất có thể hai đấu sĩ Milon theo con đường mòn ấy rời khỏi bìa rừng với hơn chục lâu la hợp thành đám người lùng bắt Clodius. Clodius bị đường phóng lao làm cho bị thương lẩn trốn trong đống đổ nát này, nơi trước kia từng là trang trại. Các đấu sĩ đuổi theo, bắt được ta trốn trong cái lò nướng, kết liễu và kéo lê ta đường cái quan.
      - Vậy ngài hãy giải thích xem do đâu mà Clodius, gần bị lụi bại do nợ nần lại có ảnh hưởng lớn như vậy đến dân chúng thành Rome?
      - Rất đơn giản: trước tiên vì ta đẹp mã đến nỗi các công dân đặt cho ta biệt danh Pulcher. Ngài cũng biết ảnh hưởng của cái đẹp đến những dân tộc cổ đại rồi đấy. trận thất bại khi đấu với đấu sĩ Spartacus ở lối ra Capoue hề hấn gì đến tiếng tăm của ta, nổi tiếng ấy có giúp đỡ của bốn chị em trong đó là vợ của quan chấp chính Metellus Celer, người là vợ của diễn giả Hortensius người thứ ba là vợ ông chủ nhà băng Lucullus và người thứ tư là Lesbia, từng là người tình của nhà thơ Catulle. Tuy nhiên tin đồn lại cho rằng ta là nhân tình của bốn chị em này. Dẫu sao, nhờ bốn chị em , Clodius có bốn sức mạnh lớn nhất đời: nhờ vợ Metellus Celer, ta có quyền chấp chính, nhờ vợ của Hortensius, ta có trong những tiếng uy tín nhất thành Rome, nhờ vợ của Lucullus, ta nhập trong những két vàng bạc của chủ nhà băng giàu nhất thế giới; cuối cùng nhà Lesbia, người tình của Catulle, ta có nổi tiếng nhờ qua lại với thi sĩ vĩ đại.
      Hơn thế nữa ta còn được phú hộ Crassus nâng đỡ, được César cưng chiều mà ta chia sẻ những rối ren với ông ta bằng cách cố lén lút với vợ của ông. Lại còn ân sủng lớn của Pompée dành cho nữa chứ. ta cũng có quan hệ với Cicéron người Lesbia và muốn trở thành người tình của nàng, điều này chẳng có hại gì cho Clodius cả. Tình là nguyên nhân dẫn đến cái chết của Clodius. Như tôi ta là người của Mussia con Pompeé vợ César. Để được thoả thích gặp bà ta, ta cải trang thành phụ nữ, như ngài cũng biết đấy việc đàn ông xuất chốn thâm cung như vậy là hoàn toàn bị cấm. nữ tỳ nhận ra và tố cáo : Mussia đưa ta trốn bằng hành lang bí mật nhưng tiếng đồn về xuất của ta lan rất nhanh là vụ tai tiếng khủng khiếp xảy ra.
      ta bị toà án buộc tội có hành vi nghịch đạo và buộc phải ra toà cấp cao. Nhưng Crassus bảo ta cần phải bận tâm, ông ta lo chuyện đó. Quả nhiên với tiền và ủng hộ của các quý bà quý tộc xinh đẹp; chuyện trở nên ầm ĩ hơn bao giờ lại thành Sénèque từng : "Tội của Clodius nặng bằng ân xá".
      Tuy vậy Clodius cũng phải chịu hình phạt biệt xứ: ta định trước ngày lễ Nữ thần Nhân từ cách Rome 100 dặm.
      ra ta thể 35 dặm trong năm tiếng. may, Terentia, vợ của Cicéron là người có máu hoạn thư, vô cùng căm tức khi biết chồng dan díu với Lesbia, tối hôm ấy bắt gặp chồng mình chuyện với Clodius. Chị ta lập luận Cicéron đến nỗi ông này chối vào đâu được:
      - Hoặc ông là tình nhân của chị Clodius, nếu thế tôi biết phải làm sao, ông mới tố cáo ta; hoặc ông phải là tình nhân của ả, nếu thế chẳng có lý do gì mà tố cáo .
      Cicéron vốn là chàng râu quặp, vô cùng sợ vợ nên tố cáo Clodius. Clodius bao giờ tha thứ cho ông ta. Từ đó, lòng căm giận lấp đấy Rome bằng những bạo động và nổi dậy trong suốt năm và chỉ chấm dứt khi Milon giúp cho Cicéron việc là ám sát Clodius.
      Dân chúng còn trung thành với thần tượng của họ đến tận lúc ta chết, đó là điều hiếm thấy, vì xác còn được nghị sĩ mang về Rome xe của mình, Fulvia, vợ của ông ta ném lửa vào viện nguyên lão còn dân chúng ném than củi và đốt khu phố ở Rome.
      - Bạn đồng hành thân mến - chàng sĩ quan thốt lên - Ngài cũng là thư viện sống và tôi ca ngợi cả đời khi cùng đường với thầy Varron nữa! Ngài thấy đấy, tôi cũng hiểu đôi chút về lịch sử La Mã đấy - chàng sĩ quan tiếp vừa hoan hỉ khi tự mình cũng vừa dẫn ra nhân vật vừa vỗ tay…
      - Ta tiếp tục . Cái lăng mộ kia là gì? Tôi tò mò muốn lần thấy ngài mắc lỗi đấy.
      Rồi ta chỉ công trình ra phía bên trái
      - Ngài chọn nhầm chỗ rồi - Chàng hướng dẫn tham quan tiếp vì tôi biết về lăng này. Đó là mộ của Ascagne, con trai Éneé người do bất cẩn thả váy mẹ trong cuộc cướp phá thành Troy đến nỗi lạc mẹ và chỉ thấy cha mình, người từng mang theo Anchise và những vị thần giữ nhà: từ nơi đó dựng lên thành Rome. kỳ lạ thay hầu như cùng lúc đó, qua cổng khác cũng có người ra đó là Télégones, con trai Ulysse, người lập lên Tusailum có lăng mộ cách đây gần hai dặm. Hai con người này, người Hy Lạp, người châu Á tức là hai người con trai của hai chủng tộc thù địch, hai quốc gia đối đầu lại đến khẳng định mình ở châu Âu. Hai quốc gia trở thành đối thủ của nhau, hai cư dân trở thành thù địch. Những cuộc đọ gươm của cha họ bắt đầu trước thành Troye sau này con cháu họ lại tái diễn trước thành Rome. Hai thủ lĩnh của thành Albe và Tusculum là hai nhà Julia sinh ra César và nhà Porcia sinh ra Caton về sau. Ngài cũng biết cuộc chiến kinh hoàng giữa hai thế lực ấy rồi đấy. Gần nghìn năm sau, cuộc đọ gươm thành Troye kết thúc ở Utique. César, hậu duệ của kẻ bại trận trả thù Hector lên Caton, hậu duệ của những kẻ thắng trận. Lăng của Ascayne là lăng đầu tiên đường từ Naples trở lại và là cái cuối cùng từ phía Rome trở . Chuỗi lăng mộ còn nhiều nhưng chúng hầu như còn dấu vết vì lưỡi hái của thời gian cào bằng chúng rồi.

      Chàng trai nhiều tuổi hơn, tức là người biết ít hơn, trầm ngâm suy nghĩ lát. ràng ta phải nghĩ mông lung trong đầu lắm.
      - Chắc ngài là từng giáo sư lịch sử phải ? - ta hỏi.
      - Ồ lòng là - Người kia trả lời.
      - Thế làm thế nào mà ngài biết tất cả những chuyện ấy?
      - Tôi cũng chẳng : khi đọc cuốn sách này, lúc xem cuốn sách khác. Những thứ như thế tự có, chúng phải được đắp bồi. Khi con người ta có niềm đam mê lịch sử, người ta có tư tưởng quay về cái kỳ mỹ, các kiện và con người vào đầu bạn, trì óc bạn cho chúng những hình thù và bạn thấy những con người và kiện ấy dưới ngày khác.
      - Lạy Chúa! Giá mà tôi có bộ óc như của ngài, tôi chỉ dành nó để đọc cả đời.
      - Tôi mong ngài như vậy đâu - Chàng trai bác học vừa vừa cười - Nghiên cứu trong điều kiện như của tôi … Tôi bị kết án tử hình nhưng lại nằm trong nhà ngục suốt ba năm chực chờ bị bắn hay đem chặt đầu. Tôi cũng phải thư giãn chứ.
      - Thế hẳn ngài phải có quãng đời thăng trầm lắm - Chàng sĩ quan vừa chăm chú nhìn người bạn đồng hành vừa tìm cách đọc những dấu ấn quá khứ những đường nét khắc khổ khuôn mặt.
      - Quả tôi được ngủ mãi chiếc giường trải toàn hoa hồng.
      - Chắc chắn ngài xuất thân từ gia đình quý tộc phải ?
      - Tôi còn hơn cả quý tộc thưa ngài, tôi là quý ông.
      - Vì lý tưởng chính trị mà ngài bị kết án tử hình à?
      - Lý tưởng chính trị, phải.
      - Ngài có phiền khi tôi hỏi như vậy ?
      - hề. Với những gì tôi thể trả lời… hay muốn trả lời, tôi , có vậy thôi.
      - Ngài bao nhiêu tuổi.
      - Hai mươi bảy.
      - Kỳ lạ , nhìn ngài vừa trẻ hơn lại vừa già dặn hơn tuổi đấy Ngài ra tù bao lâu rồi?
      - Ba năm.
      - Ngài làm gì khi ra khỏi đó?
      - Tôi tham chiến.
      - biển hay cạn?
      - Đánh nhau với người biển, với thú hoang cạn.
      - Thế có nghĩa là…?
      - Là biển, tôi là cướp biển, cạn tôi là thợ săn.
      - biển ngài đánh gì?
      - Quân .
      - Thế bộ, ngài săn gì?
      - Hổ, báo, trăn.
      - Ngài đến Ấn Độ hay châu Phi?
      - Tôi đến Ấn Độ.
      - Nơi nào ở Ấn Độ?
      - chỗ gần như cùng trời cuối đất, ở Miến Điện.
      - Ngài có tham dự vài trận lớn nào biển ?
      - Tôi từng ở trận Trafalgar.
      - tàu nào.
      - Redoutable.
      - Ngài có thấy Nelson ?
      - Có thậm chí rất gần nữa kia.
      - Làm sao ngài thoát khỏi người ?
      - Tôi thoát khỏi họ. Tôi bị bắt và bị đưa sang làm tù binh.
      - Ngài được trao đổi à?
      - Tôi tự trốn.
      - Khỏi các trại tù à?
      - Ở Ai xơ len.
      - Bây giờ, ngài đâu?
      - Tôi biết.
      - Ngài tên là gì?
      - Tôi chẳng có tên. Khi nào chúng ta chia tay, ngài cho tôi cái tên, tôi coi đó như cái tên người con nuôi nhận từ cha đỡ đầu.

      Người sĩ quan nhìn kẻ đồng hành với mình bằng vẻ ngỡ ngàng. ta cảm thấy trong mảnh đời vô tư và phiêu bạt của con người này hẳn phải có bí nào đó. ta bằng lòng với những câu trả lời ấy, muốn biết thêm điều người kia muốn giấu.
      - Thế ngài hỏi tôi là ai sao?
      - Tôi thích tò mò, nhưng nếu ngài vui lòng cho tôi hay tôi xin tỏ lòng biết ơn.
      - Ồ! Tôi ấy à, cuộc đời của tôi bình thường ngang với cuộc đời lý thú và có lẽ cũng nên thơ của ngài vậy. Tôi tên là Charles Antoine Manhès. Tôi sinh ngày 4 tháng Mười năm 1777 trong làng ở Aurillac, tỉnh Cantal. Cha tôi là đốc thuế của nhà vua gần toà dân chính. Ngài thấy là tôi thuộc vào giới quý tộc Pháp như ngài. A nhân tiện xin hỏi ngài mang Tước hiệu gì?
      - Bá tước.
      - Tôi được học trong trường làng, chính vì vậy ngài có thể hiểu việc học hành của tôi chểnh mảng thế nào. Các quan chức trong tỉnh nhận thấy tôi có khả năng quân nên gửi tôi đến trường Mars. Tôi đặc biệt thiên về pháo binh và tiến bộ nhiều đến nỗi mới 16 tuổi tôi được bổ nhiệm làm sĩ quan huấn luyện.
      Nhưng rồi trường Mars giải tán, người ta cho tôi tham dự kỳ thi nhờ nó tôi được bổ về tiểu đoàn 3 ở Cantal và tiểu đoàn này thuộc trung đoàn số 26. Tôi tham chiến năm 1795. Tôi chiến dịch bốn năm trong đội quân sông Rhin và Moselle. Năm thứ VI, VIII và IX tôi vào đội quân đánh Italie, bị thương nặng ở Novi, tôi mất sáu tuần mới hồi phục vết thương và đuổi kịp đơn vị sông Gêne… Ngài bao giờ ăn thịt bò điên chưa?
      - Rồi, vài bận.
      - Còn tôi ấy à, ngày nào tôi cũng ăn, tôi còn có thể cho ngài hay nó thế nào nữa kia. Tôi được thăng chức trung uý qua tiến cử của các đồng đội, sau đó được phong hiệp sĩ Bắc đẩu bội tinh ngày 6 tháng 6 năm ngoái. Sau chiến dịch Austerlitz tôi được thăng cấp đại uý. giờ tôi là đại uý và sĩ quan cận vệ của đại công tước Berg(1), tôi báo tin của ngài về việc vào thành Berlin của Hoàng đế cho trai Joseph của Hoàng đế và báo cho ông mọi chi tiết về chiến dịch Jéna mà tôi có tham gia. Khi trở về, tôi được hứa là được thăng cấp chỉ huy đại đội kỵ binh. Hai mươi chín tuổi được như vậy cũng tệ lắm. Đó là toàn bộ chuyện của tôi. Ngài thấy nó ngắn ngủi và ít hấp dẫn nhưng điều hấp dẫn nhất là chúng ta đến Velletri còn tôi đói cồn cào đây chúng ta hãy xuống ăn tối cái .
      Hành khách vô danh thấy đề nghị này dễ ợt nên nhảy khỏi xe theo viên chỉ huy đại đội kỵ binh tương lai Charles Antoine Manhès vào khách sạn có tên Nơi sinh Auguste.
      Điều này có nghĩ là, trừ kiểm chứng của các nhà khảo cổ, cái khách sạn này được xây nền đổ nát của các nhà khảo cổ, sinh ra vị hoàng đế La Mã đầu tiên.

      Chú thích:
      (1) Tức tướng Murat. em rể của hoàng đế Napoléon Bonaparte

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :