1. QUY ĐỊNH BOX TRUYỆN SƯU TẦM :

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]
    ----•Nội dung cần:
    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)
    - Nguồn
    - Tác giả
    - Tên editor +beta
    - Thể loại
    - Số chương
    Đặc biệt chọn canh giữa cho đoạn giới thiệu
    ---- Quy định :
    1. Chỉ đăng những truyện đã có ebook và đã được public trên các trang web khác
    2 . Chỉ nên post truyện đã hoàn đã có eBook.
    3. Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn
    4 . Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Hiệp sĩ Sante Hermine - Alexandre Dumas (122 chương)

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây (Sưu Tầm)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 63: Người giám hộ


      Chiếc xe ngựa đưa thuyền trưởng Surcouf, thủy thủ René và hai chị em trở lại khách sạn "Khách sạn cho người nước ngoài". Hai tiếng sau, người phục vụ khách sạn đến hỏi René xem có đồng ý tiếp hai chị em tiểu thư Sainte-Hermine hay lên phòng gặp họ.

      René cho rằng mình lên phòng hai có lẽ thích hợp hơn là để họ xuống. Người phục vụ lên thông báo ngài René đến.
      Hai chị em đón tiếp với vẻ bối rối .
      - Tôi nghĩ với tư cách là chị , tôi thích hợp hơn.
      - Cho phép tôi bày tỏ ngạc nhiên về bắt đầu trịnh trọng nay được chăng.
      - Lẽ ra ngài phải đau khổ hơn là trịnh trọng, với tình cảnh của hai đứa con côi cút cách nhà ba ngàn dặm, dong duỗi với thi thể của cha mình và còn phải nghìn đến nghìn hai trăm dặm nữa chắc ngài cũng đồng ý rằng chẳng có gì để vui vẻ cả.
      - Đúng là các là những đứa con mồ côi - René - các còn phải hơn ngàn dặm nữa, điều này lại đúng, nhưng các còn có người em trung thành và đáng kính hứa quan tâm chăm sóc cho các và nhất định giữ lời. Tôi nghĩ như thế các cần lo lắng gì cả và chỉ cần để tôi lo mọi an toàn cho hai chị em.
      - Cho đến lúc này, đó là điều ngài vẫn làm - Hélène - nhưng chúng tôi thể lạm dụng lòng tốt mà ngài dành cho chúng tôi từ trước đến giờ nữa.
      - Tôi thiết tưởng có niềm may mắn được chăm lo đến các đến tận Rangoon, tức là cho đến khi các về nhà mình, tôi làm tất cả vì mục đích ấy nhưng nếu việc bãi miễn chức giám hộ do ngài Surcouf chỉ định làm các vui lòng tôi sẵn sàng xin từ chức vụ vinh quang này. Tôi rất sung sướng được lựa chọn nhưng tôi rất thất vọng nếu phải làm nó cách miễn cưỡng.
      - Ôi thưa ngài René… - Jane thốt lên.
      - Tất nhiên là chúng tôi rất vui - Chị của Jane ngắt lời em - khi được trở về trong chăm lo của người đàn ông tốt bụng, cao thượng và dũng cảm, những chúng tôi có quyền đòi hỏi ngài vì quyền lợi của mình. Tất cả những gì chúng tôi mong muốn là ngài tìm cho chúng tôi thuyền trưởng có thể đưa chúng tôi đến Miến Điện, ông ấy để chúng tôi ở điểm nào đó và chúng tôi có thể nhờ tàu đến sông Pégou.
      - Nếu quả thích như vậy hơn lời tôi đề nghị tôi có quyền nài nỉ và ngay lúc này, tôi rất lấy làm tiếc vì phải từ bỏ dự định mà tôi ấp ủ từ ngày gặp hai . Mong hai cứ suy nghĩ, tôi chờ mệnh lệnh và làm theo mệnh lệnh của hai .
      René đứng dậy đội mũ và chuẩn bị ra. Nhưng bằng động tác theo bản năng và suy nghĩ, Jane lao ra chặn giữa và cánh cửa.
      - Ôi thưa ông - - Chúa tha tội cho chúng tôi nếu ngài nghĩ chúng tôi bạc bẽo nhận thành ý của ngài. Nhưng chị tôi và tôi rất ngại vì để người lạ như ngài đây phải vất vả.
      - người lạ! - René nhắc lại - còn độc ác hơn cả chị mình, thưa , ấy dám từ này bao giờ.
      Jane chữa lại:
      - Lạy Chúa! Quả , người trẻ tuổi như tôi, lại quen được nuông chiều nên quá vụng về trong việc bày tỏ ý nghĩ của mình. Có lẽ chủ tôi mắng tôi mất nếu như vì câu của tôi mà ngài ra .
      - Thôi Jane - Hélène - Ngài đây biết mà.
      - đâu, chị Hélène - Jane ngắt lời - Em nghe giọng ông ấy lạc khi chúng ta muốn nhờ người khác giúp.
      - Jane! Jane! - Hélène lặp lại.
      - Cứ để cho ông đây nghĩ gì ông ấy muốn - Jane kêu lên - miễn là ông ấy đừng cho chúng ta là những kẻ vô ơn! - Rồi quay sang phía René tiếp - Thưa ngài, chúng tôi nhiều lần tranh luận với nhau. là chị tôi sợ ngài vắng mặt hai tháng làm ảnh hưởng đến vị trí của ngài bên ông Surcouf, chị ấy sợ lợi ích của ngài được đảm bảo, chị ấy muốn thà chúng tôi mất hết của cải hơn là thấy ngài mất hết thăng tiến ngài đáng được nhận.
      - Trước hết hãy để tôi giải đáp nỗi lo sợ của tiểu thư Hélène. Chính ngài Surcouf giao cho tôi giám hộ các và tôi cũng thực lòng muốn được là người trai chăm sóc cho hai . Nhờ động viên, giúp đỡ của ông ấy, tôi mua con tàu để đưa các đến Rangoon, con tàu mang quốc tịch nước trung lập nên gây nguy hiểm cho các như tàu Standard. Sáng nay, các cũng thấy ngài Surcouf mặc cả giá sửa chữa con tàu đó. có tàu nào, dù có lớn đến đâu, khiến các thoải mái như tàu Tay đua New York.
      - Nhưng… - Hélène ngập ngừng - chúng tôi thể để ngài thanh toán khoản tiền tám nghìn đến mười nghìn phăng trong khi chúng tôi mới là người đáng phải trả tiền.
      - Các nhầm rồi; phải các đến Ấn Độ mà là tôi đến đó cơ mà. Thăm thú đảo Pháp hay đảo Réunion chưa phải là thăm Ấn Độ. Tôi là người đam mê săn bắn, tôi tự hứa với mình săn báo, hổ hay voi. Dù hai chị em các đến đó hay tôi cũng vẫn đến đó mình. Theo những gì người ta với tôi, hai bên bờ sông Pégou là nơi có nhiều hổ báo nhất. Vả lại tôi thấy mình phải có trọng trách đưa hai đến nơi đó như thế tôi mới hoàn thành nghĩa vụ cuối cùng của mình. Chẳng lẽ hai người lại muốn để tôi hoàn thành hay sao?
      Trong khi René , Jane chắp tay vào nhau, nước mắt lưng tròng. Hélène thể cưỡng lại thêm nữa chìa tay ra, Jane ôm lấy bàn tay chị chìa cho René mà hôn tới tấp.
      - Jane! Kìa Jane! - Hélène thào.
      Jane cụp mắt xuống, ngồi trở lại ghế.
      - Cứ từ chối mãi lời đề nghị chân thành ấy e xúc phạm đến tình bạn của chúng ta do vậy chúng tôi chấp chân và xin hứa trọn đời chúng tôi nhờ đến che chở của người trai này.
      Hélène đứng dậy và khẽ nghiêng mình trước René, điều này cũng muốn chuyến viếng thăm của cũng khá lâu. René chào rồi ra.
      Kể từ đó, René chỉ còn mối bận tâm duy nhất là làm sao cho con tàu Tay đua New York ở tình trạng chạy tốt. Để thế chỗ cho hai khẩu đại bác cũ của nó, ngài Surcouf tặng năm khẩu đại bác bằng đồng từ tàu Standard.

      Mười lăm ngày là đủ để chỉnh trang con tàu , hai thủy thủ đoàn của tàu StandardRevenant, dưới cho phép của thuyền trưởng Surcouf sang đầu quân cho những thủy thủ tàu Tay đua New York còn thiếu. Song may, René thể để người Pháp làm thủy thủ tàu Mỹ, do đó đành tuyển mười người Mỹ làm thủy thủ và lấy của thuyền trưởng Surcouf năm người thạo tiếng . Hơn thế nữa, ngài Surcouf còn cử hoa tiêu hàng đầu của mình là Kernoch, người từng ra vào cửa sông Hằng nên biết luồng lạch chuyến ấy. Ngoài ra các thủy thủ còn muốn chứng tỏ lòng biết ơn của họ, trước tiên vì lòng độ lượng của trả tiền cho họ trước lúc họ xuất phát, thứ nữa là lòng can đảm của khi giết con cá mập. Họ tìm được khẩu súng trường nòng có rãnh sản xuất từ . Họ biết René muốn săn, hổ báo nhưng chỉ có cây súng cạc bin viên nên họ mua khẩu súng nọ và đích thân đến tặng trước hôm lên đường. Họ cho khắc lên nòng súng dòng chữ: "Quà tặng của các thủy thủ của ngài Surcouf cho người bạn dũng cảm René".

      Với thủy thủ trẻ, có gì dễ chịu hơn món quà như thế. nhiều lần bị trách là cẩn thận trang bị vũ khí đầy đủ nhưng khi rời đảo Pháp, khẩu súng bổ sung chỗ vũ khí còn thiếu và thoả mãn lòng tự kiêu của .

      Đến ngày hẹn, Raimbaut trao cho René con tàu được trang trí theo gu thầm mỹ hoàn hảo. Gỗ đảo Pháp đẹp đến nỗi cần phải tô vẽ nhiều. Hai phòng của hai rất lộng lẫy quan tài của cha hai được đưa từ tàu Standard sang tàu Tay đua New York và đặt trong nơi quan tài bốn phía phủ vải đen. Đến lúc đó, René mới lên phòng Hélène và Jane để thông báo chỉ chờ lệnh của hai để xuất phát. Về phần mình, các cũng sẵn sàng lên đường. Họ muốn làm lễ long trọng cho người chết, sau đó họ lên tàu Tay đua New York để ăn trưa.
      Sau bữa trưa, họ giong buồm ra khơi.

      Mười giờ sáng ngày hôm sau, hai thiếu nữ được ngài Surcouf dẫn vào nhà thờ. Vì mọi người đều biết buổi lễ đặc biệt dành cho cảnh thuyền trưởng chiến hạm quân đội Pháp nên các quan chức đảo Pháp, tất cả các thuyền trưởng sĩ quan, thủy thủ tàu tạm trú hay ghé qua cảng Louis đều tham dự buổi lễ mang tính quân hơn là dân này.

      tiếng sau, hai do ngài Surcouf và René hộ tống bộ xuống cảng. Thay mặt hai hành khách, René mời ngài Surcouf, Bleats và Kernoch cùng ăn trưa. Tất cả các tàu neo tại đó đều treo cờ như ngày lễ. Tàu Tay đua New York, nhất, sang trọng nhất treo lên cột buồm duy nhất, hai trục buồm và đỉnh của nó tất cả các cờ đuôi én có tàu.

      Bữa trưa diễn ra rất buồn dù ai cũng gắng tỏ ra vui vẻ theo lệnh của Decaen, đảo trưởng, dàn quân nhạc đến chơi bên cảng tất cả những bản nhạc quốc gia.
      Cuối cùng, giờ xuất phát cũng đến, người ta nâng cốc chúc mừng René. phát đạn đại bác vang lên báo hiệu xuất phát.

      Thế là tàu Tay đua New York chuyển động dưới sức kéo của hai xà lan từ tàu StandardRevenant. Các thủy thủ muốn giúp bạn mình đến phút cuối. Mọi người ra cảng đứa tiễn chạy theo mãi cho đến khi hết đường. Khi tàu của René thu cáp về, các thủy thủ hai xà lan chào và chúc lần cuối, họ hô to:
      - Chúc chuyến của thuyền trưởng René và hai tiểu thư Sainle Hemine thượng lộ bình an!
      Con tàu vào vịnh Tom be rồi khuất sau mũi Canonmes.
      Đường rẽ nước của nó cứng nhoà dần.

    2. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 64: Những tên cướp biển Mã Lai


      Sau sáu ngày đầu thuận buồm xuôi gió, tàu của René gặp tàu nào, họ rẽ qua hướng khác. Điều khiến hai khó chịu nhất là cái nóng như đổ lửa trong tàu. Nhưng René đặt hai bồn tắm trong phòng nên nhờ tiên liệu ấy, hai phải quá khổ cực vào những giờ nóng nhất trong ngày.

      Đêm xuống, họ lên boong, gió mát và những giờ dễ chịu đến thay thế cho những giờ nắng như thiêu như đốt. Người ta kê chiếc bàn lên boong. Do có cách nên họ luôn giữ được hoa quả và thực phẩm tươi.

      Vậy là những cảnh tượng tuyệt vời của chiều hoàng hôn và đêm tối diễn ra. Cảnh mặt trời ngủ Ấn Độ Dương đẹp, khi khối cầu lửa dần dần lặn vào đại dương, nhìn như có lớp bụi hay lớp cát vàng toé ra nền trời xanh lơ.

      Biển, đến lượt mình cũng thu hút chú ý bằng cách tặng cho con người những vẻ đẹp nhất của tạo hoá.

      Quãng thời gian tàu lênh đênh giữa đại dương cũng buồn tẻ như người ta tưởng. Thói quen nhìn qua nước thấy những kỳ quan cuốn hút những ánh mắt chưa từng được thấy bao giờ. Họ ngắm nhìn vô số những sinh vật khác nhau, với hình dạng lớn . Số lượng nhiều vô kể và các chủng loại đa dạng khiến các du khách như được mở. rộng tầm mắt. Rồi khi họ thủng thẳng dạo trong làn gió mát rượi.

      Vào tám giờ tối, ánh trăng lên cao và sáng tỏ ngời ngợi trong nền trời trong lành và thanh thản. Những đám mây bỗng ùa đến từ những luồng gió thổi từ cuối chân trời lại, đột ngột leo lên đỉnh trung cao ngất lập tức bầu trời giống như cái đen và sâu thẳm khôn cùng, mặt trăng bị những đám mây đáng sợ che lấp và nó gắng sức chống lại chúng. Thỉnh thoảng, phần của tấm màn tối sầm ấy rách toạc để lọt vài ánh sáng yếu ướt xuống trần gian. Những lớp mây khác màu đồng bạc lại bị ánh sáng cày xới. Thỉnh thoảng có vài giọt nước to như đồng năm phăng rơi xuống tàu, tiếng sấm rền rĩ xa xa, bầu trời bị che phủ hoàn toàn, bóng tối trở nên mịt mùng, gió thổi mạnh kinh khủng, con tàu chòng chành nhanh như chưa bao giờ như thế.

      Đột nhiên người ta nhận ra phía trước con tàu có tấm khăn bạc toả rộng mặt biển. Khi lại gần người ta nhận ra đó là đàn cá, chủ yếu là những con sứa, bị sóng xô mạnh, những con khác vốn bơi ở các tầng nông sâu khác nhau và cũng có hình dạng khác nhau thậm chí là đối lập nhau. Người ta thấy những con cá bơi mặt nước cuộn xoáy lại như những cột xi lanh lửa, những con khác bơi sâu hơn giống như những con rắn dài đến sáu bộ. Mỗi động tác quẫy mình chúng làm nước bắn lên lấp loá. Chúng có những màu sắc khác nhau như đỏ, hồng, da cam, xanh lục, xanh lơ, khiến tập hợp ấy giống như màu đảo biển tuyệt đẹp.

      Nhận thấy lợi ích của bầy cá ấy, René cho bắt rất nhiều. thả chúng vào thùng đựng đầy nước biển, có loài toả sáng đến mức có thể đọc và viết được trong ánh sáng ấy.

      Mỗi tối khi ngồi lên khoang thượng hay bên cửa sổ phòng của hai , René ngắm những khối màu vàng và bạc ấy chuyển động dưới đáy biển hàng giờ liền. Ánh sáng của chúng càng mạnh khi biển động hay trong màn đêm đen quánh. Người ta nhận ra những cơ thể động đậy với kích thước to kỳ lạ, có con có đường kính dưới mười lăm, hai mươi bộ.

      Nhờ ánh sáng của đám cá này toả ra, người ta có thể nhìn thấy những loại cá khác, đặc biệt là những con cá tráp và cá ngừ bụng sọc. Bị tước khỏi luồng sáng là chúng bơi tụm lại thành khối giữa biển.

      Con tàu Slúp phải là con tàu rẽ sóng lớn tạo thành hai lớp sóng hai bên mạn mà nó chỉ như cái cày cày mặt đất bằng phẳng có dung nham và từ mỗi cánh của lưỡi cày bắn lên những con cá lửa.
      Sau mười ngày tàu, họ đến miền thượng Maldive, khoảng sáu giờ sáng người ta nghe thủy thủ canh gác kêu to: "Có chiếc thuyền!"

      Nghe tiếng kêu ấy, Kernoch chạy lên boong và thấy René đứng ở đó tay cầm ống ngắm.
      - Nó đâu? - Kernoch hỏi người thủy thủ
      - Phía sau.
      - Có ván thăng bằng hay có?
      - Có ván thăng bằng.
      - Tất cả sẵn sàng chứ? - Kernoch quay sang chủ tàu hỏi.
      - Sẵn sàng, thưa chỉ huy.
      - Đại bác nạp đạn chưa?
      - Rồi, ba quả, ba khẩu.
      - Các thứ khác?
      - Chỉ chờ lệnh của ngài.
      - phần ba đạn thường, hai mươi tư livre đạn, cho mang súng lên boong.
      - Kernoch - René hỏi - con ruồi quỷ quái nào trêu tức ngài thế
      - Ngài có thể cho tôi mượn ống ngắm , ngài René?
      - Rất sẵn lòng - René và chìa ra - đó là cái sản xuất từ , rất tuyệt đấy!
      Kernoch ngắm con thuyền.
      - Đúng thế! Nó phải có bảy, tám người đó.
      - Đồ chơi ấy làm ngài lo lắng, ngài Kernoch?
      - hẳn thế, những khi tôi thấy con cá ép phải tôi sợ con cá ép mà tôi sợ con cá mập.
      - Thế con cá ép này làm hoa tiêu cho con cá mập nào?
      - thuyền Mã Lai nào đấy bực mình khi chiếm tàu xinh xắn như Tay đua New York rồi bắt trả vài nghìn roupi.
      - Nhưng kìa - René - Chúa tha tội, tôi nghĩ hình như con thuyền độc mộc kia quay mũi về phía chúng ta rồi kia.
      - Ngài đúng.
      - Nó đến làm gì?
      Để nhận xét chúng ta, đếm xem chúng ta có bao nhiêu đại bác, có bao nhiêu người, cuối cùng để xem chúng ta có là miếng mồi dễ nuốt hay .
      - Quỷ tha ma bắt! Nhưng ngài biết trong năm phút nữa con thuyền kia rời khỏi tầm ngắm hay sao?
      - Đúng thế, tôi cho rằng nếu ngài muốn lời chào với nó đừng để lỡ thời gian mà tìm súng của ngài .
      René gọi thủy thủ người Paris. này là người rất đặc biệt nên tàu, mọi người chỉ gọi ta là chàng Paris.
      Giống như mọi cậu bé của thành Paris, François cũng giỏi mọi ngón, cái gì cũng biết ít nhiều và sợ gì cả. ta nhảy điệu gi guc đến nỗi làm người Mỹ cười lộn ruột, ta biết bắn súng đọ gươm.
      - François - René - mang khẩu cạc bin, khẩu súng trường hai viên và súng ngắn hai viên trong phòng tôi lại đây, mang thuốc súng và đạn cho tất cả các cỡ súng nữa.
      - Chúng ta sắp bắt chuyện với bọn da màu, thưa chỉ huy? - François hỏi.
      - Tôi e là vậy - René đáp - cậu biết mọi thứ tiếng, thế cậu có biết tiếng Mã Lai ?
      - Tiếng Mã Lai à, .
      Rồi ta chạy xuống cửa khoang trước và huýt sáo bài Hãy thức dậy chào đế chế.

      François là người sùng bái chính thể của Bonaparte và điều sỉ nhục lớn của ta là liên kết với quân . Năm phút sau ta mang đầy đủ các vật dụng cầu.
      Vì chiếc thuyền độc mộc vẫn lại gần với tốc độ nhanh nên René nạp đạn luôn cả mấy loại vũ khí. đeo hai khẩu súng ngắn vào thắt lưng, tay cầm khẩu cạc bin và đưa khẩu súng trường cho François chiếc thuyền vẫn tiến đến. Nó chỉ cách đuôi tàu hai trăm bộ, René với chiếc loa từ tay Kernoch:
      - Thuyền kia! hét to bằng tiếng - hãy đầu hàng tàu Tay đua New York.
      Để trả lời, người đàn ông thuyền trèo lên thành làm động tác lỗ mãng, René giương khẩu cạc bin bắn luôn hầu như ngắm. Kẻ nọ nhảy dựng lên rồi ngã xuống biển. Đoàn người thuyền hét lên giận dữ và đe doạ giết .
      - Ngài Kernoch này - René - Ngài có biết Romulus ?
      - . Ông ta là người Saint-Malo à? - Kernoch hỏi.
      - đâu, ngài Kernoch đáng mến, người nào muốn trở thành vĩ nhân và giống như mọi vĩ nhân, kẻ đó đừng nương tay. hôm trong lúc tức giận, ông ta giết em mình. Việc giết em mình là trọng tội mà thể bị trừng phạt. hôm khi duyệt binh, cơn giông tố nổi lên và ông ta biến mất trong cơn bão! Hãy nhắm lấy nàng kia, ngắm nó như con mồi đừng để nó biến mất như Romulus.
      - Tay súng đại bác, các sẵn sàng chưa? Kernoch hỏi.
      - Rồi! - Họ đáp - Khi nào con thuyền kia đến nổ súng!
      René kêu lên:
      - François, chạy báo cho hai khỏi sợ, cứ chúng ta đùa chút, cho bắn thử đại bác nhé.
      François chạy biến , phút sau chạy trở lại.
      - Các ấy tốt lắm, với ngài, họ chẳng sợ gì cả.
      Khẩu đại bác hai mươi tư ly dựng lên dõi theo hướng chiếc thuyền rồi khai hoả ở khoảng cách gần hai trăm bộ. lát sau, người ta chỉ còn thấy những mảnh gỗ nổi lềnh bềnh, những cái xác hấp hối chìm dần, nhưng cá mập kéo họ xuống.
      Đúng lúc đó, thủy thủ gác lại thông báo.
      - Có thuyền Mã Lai!
      - Nó đâu? - Kernoch hỏi.
      - Phía trước chúng ta.
      Quả nhiên, giống như con rắn, người ta thấy chiếc thuyền rất lớn dài sáu mươi bộ, rộng bốn, năm bộ. đó có khoảng ba mươi tay chèo và năm mươi chiến thủ chưa kể đến những người còn núp dưới đáy vừa ra khỏi eo hẹp, chiếc thuyền Mã Lai hướng mũi về chiếc tàu Slúp.
      - Các sẵn sàng chưa? - Kernoch hỏi.
      - Chúng tôi sẵn sàng chờ lệnh chỉ huy.
      - phần ba lượng đạn nữa, cỡ hai tư ly.
      Vì gió nổi lên giúp việc bắn thuận lợi hơn nên Kernoch :
      - Hãy chuẩn bị sẵn sàng rẽ khi tôi ra lệnh.
      - Vẫn theo đường cũ à? - Người lái tàu hỏi.
      - Đúng thế nhưng giảm tốc độ, chúng ta phải tỏ ra chạy trốn trước những kẻ thù khốn kiếp này.
      Lệnh được thi hành ngay. Tàu của René giảm phần ba tốc độ
      - Ngài đảm bảo làm đội trưởng thuyền đó chứ? - Kernoch hỏi to.
      - Nó quay như con quay, ông cứ yên tâm.
      Họ bắt đầu nhìn người thuyền Mã Lai. Tên chỉ huy đứng trước mũi cong và giơ súng lên với những cử chỉ đe doạ.
      - Ngài có muốn vài lời , ngài René - Kernoch hỏi - Gã này có điệu bộ mà tôi thấy ai đáng ghét hơn.
      Cứ để nó tiến lên thêm chút nữa, Kernoch thân mến, để chúng ta khỏi mất uy, với những kẻ này, cần phải mỗi tên phát.
      - François, cho mang giáo lên đây, cho chúng cập vào mạn.
      François chạy xuống rồi lại chạy lên cùng hai thủy thủ nữa ôm các ngọn giáo trong tay. Người ta cắm chúng bên mạn trái tàu tức là bên quân cướp biển áp sát.
      - Cử hai người lên xả buồm mang theo súng loe lòng, ngài Kernoch ạ - René .
      Mệnh lệnh được thực thi ngay lập tức.
      - Ngài Kernoch, hãy nhìn tên kia nhé.
      René và bắn phát súng các bin. Gã đàn ông nọ đứng có lẽ gã là tên đầu sỏ, lập tức giang tay, buông súng rồi ngã nhào ra đằng sau. trúng phát đạn giữa ngực.
      - Hoan hô ngài René. Về phần mình, tôi cũng dành cho chúng ngạc nhiên mà chúng thể ngờ đến.
      René trao súng cho François để này nạp đạn. Kernoch thầm vài câu vào những người can đảm nhất tàu rồi to với tất cả:
      - Chuẩn bị đổi hướng!
      Rồi ông ta rời bàn điều khiển gặp đội trưởng pháo binh.
      - Hãy nghe và hãy hiểu ý tôi, Valter, chúng ta đổi hướng tàu.
      - Vâng, thưa chỉ huy.
      - Hãy tận dụng chỉ giây thôi và khai hoả.
      - Vâng, tôi hiểu.
      Tên thứ ba nhảy lên mũi thuyền và phát súng thứ ba kết liễu gửi xác xuống đáy biển sâu. Đúng lúc đó tàu của René xoay hướng.
      Đột nhiên, lần nạp đạn pháo thứ hai vang lên và người ta thấy đám người thuyền nằm rạp xuống như tấm thảm.
      - Hoan hô - René reo lên - phát như thế nữa mọi chuyện xong, Kernoch ạ.
      Chiếc thuyền Ma Lai hỗn loạn . Hơn ba mươi người đổ xuống đáy thuyền. Chúng vội vã ném những người chết xuống biển và lập lại trật tự để chuẩn bị tiếp tục chiến đấu.
      lát sau, cơn mưa đạn và mũi tên bắn vào tay của René nhưng gây tổn thất lớn. Hai mươi tay chèo bắt đầu vào ghế và chiếc thuyền Mã Lai tiếp tục tiến lên.
      Trong khi đó, Kernoch chuẩn bị cỗ máy của mình. ngạc nhiên ông dành cho quân kẻ cướp Mã Lai sẵn sàng. Đó là bốn quả pháo 24 ly cuộn trong tấm lưới treo ở đầu xà buồm bên mạn trái.
      Chiếc thuyền cướp biển chỉ cách tàu Slúp gần trăm bộ và đến rất gần.
      Ba khẩu đại bác cỡ 16 được nạp đạn nổ đồng loạt tạo thành ba lỗ hổng chỗ các tay chèo và chỗ những ai còn sống sót.
      Kernoch nghĩ đến lúc kết thúc mọi việc liền hô to với người chỉ huy đội pháo:
      - Để cho nó đến.
      Khoảng cách giữa thuyền Mã Lai và tàu Slúp xoá rất nhanh trong làn lửa kinh khủng. Rồi tiếng còi vang lên, những quả đạn lướt xuống thuyền Mã Lai khiến chúng vỡ tan. Bốn, năm mươi người sống sốt đều rơi xuống biển bám vào tất cả những gì có thể để leo lên tàu của René.
      cuộc chiến , kinh hoàng, mặt đối mặt bắt đầu.
      Những ngọn giáo tảo ra khắp tàu và bao nó bằng vành máu. Đột nhiên, giữa tiếng hỗn độn, René nghe thấy tiếng hét của phụ nữ. Hai Hélène và Jane vừa sợ tái xanh mặt vừa lao lên boong. Hai tên Mã Lai phá cửa sổ nhảy vào trong phòng tay lăm lăm con gao găm. Jane lao vào vòng tay của René và hét lên:
      - Cứu tôi René! Cứu tôi!
      chưa dứt lời, hai tên cướp biển lăn xuống, tên boong tên kia ngay cầu thang.
      René trao Jane vào vòng tay chị Hélène rồi bắn hai phát đạn bằng súng lục vào hai cái đầu xuất phía thành tàu, vớ lấy ngọn giáo trao hai cho François bảo vệ rồi lao vào trận chiến.

    3. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 65: Đến đích


      Trận đấu bước vào hồi kết. Hàng trăm tên cướp biển tấn công tàu Slúp chỉ còn chưa đấy chục tên sống sót và phần lớn đều bị thương, chúng kết thúc bằng việc giết lẫn nhau và biển hoàn tất nốt công việc của nó.
      - Giương tất cả buồm lên, - Kernoch hô to - hướng mũi tàu về phía bắc.
      Cánh buồm ngoan ngoãn hứng gió rồi lao theo hướng định. Vài người còn sống lềnh bềnh mặt biển, bám vào những mảnh vụn của thuyền Mã Lai. Vài kẻ khác đánh lẫn nhau mà còn sức để bơi đến thanh gỗ dài, những kẻ khác nữa biến mất do cá mập kéo xuống đáy biển sâu. Đoàn người của René chỉ còn cách bờ họ phải đến khoảng hơn hai trăm dặm nữa.

      Kernoch ngày vẻ vang. Nhờ sáng tạo của ông ta mà chiếc thuyền Mã Lai bị hạ, toàn bộ quân cướp tàu bị rớt xuống biển. Ai mà biết được nếu hơn sau mươi tên đó có thể lên tàu chiếc tàu Slúp của René ra sao.

      René đến cạnh hai ngồi chiếc cầu thang dẫn lên khoang thượng. Tóc bay phất phơ trong gió, chiếc áo sơ mi rách bươm bởi những đường dao, tay cầm cây giáo đẫm máu, nhìn đẹp như tráng sĩ trong trường ca Homère. Vừa nhìn thấy , Jane sung sướng reo lên, tiếng kêu ấy pha lẫn cả lòng ngưỡng mộ nữa. giang tay về phía :
      - Lần thứ hai, lại là người cứu chúng tôi!
      René cầm tay và đưa lên môi. Hélène ngước mắt nhìn bày tỏ lòng biết ơn vì bảo vệ em mình.
      - Lòng biết ơn của tôi - Hélène - với , tuy vồn vã bằng tình cảm của Jane nhưng phải thế mà lớn lao, xin hiểu cho. Chúa trở thành người tốt trong nỗi đau. Người dành cho chúng tôi. Người lấy người cha của chúng tôi nhưng lại cho chúng tôi người , người bảo vệ, người bạn, tôi biết sao đây để bày tỏ lòng biết ơn vô hạn của chúng tôi. Chúng tôi ra sao khi ?
      - người khác thay thế cho tôi - René - Chúa thể gửi người giúp đỡ các . có tôi, thiên thần xuống mặt đất để bảo vệ các .
      Trong khi đó, François thu lượm tất cả vũ khí của René mang đến cho .
      - Cho tất cả những thứ đó vào phòng của tôi François - René - may là lúc phải dùng đến những vũ khí giết người này cũng qua.
      - Thưa ngài, - Chàng trai Paris - ngài đừng coi thường chúng thế. Hai tên khốn kia, - François chỉ vào hai tên Mã Lai nhảy vào phòng tấn công hai chị em Hélène - chúng cũng phải những tên vừa đâu.
      - Nhanh lên các bạn - René với các thủy thủ lau boong - Hãy làm nhanh tay lên và đừng để sót giọt máu nào boong này. Thuyền trưởng Kernoch cho phép tôi thưởng các bạn ba chai arack uống vì sức khoẻ các quý đây và trả gấp đôi thù lao hôm nay. Thôi các quý , chúng ta hãy về phòng , để mấy người thợ sửa sang lại . Có lẽ các nên nán lại bên mạn hoặc vào phòng tôi cho đến khi các vị có thể về phòng.
      - Vậy chúng ta lên khoang thượng - Hélène .
      Cả ba cùng lên khoang thượng ngồi nghỉ, mắt hướng ra biển.
      Kiệt tác của Chúa luôn an ủi những việc làm của con người. Cả ba đều bất giác nhìn lại phía chiến trường khuất dần.
      - Khi nghĩ lại - René và vỗ tay lên trán - ai mà ngờ được chỗ ấy cách đây lâu lại có những con người xâu xé nhau bằng dao găm lưỡi lê, và với tên cuối cùng suýt nữa tôi mất mạng.
      Hélène thở dài lại ngồi cùng Jane và René chiếc ghế.
      - có bà con nào ở Pháp? - René hỏi - Vậy tôi có thể chuyển tin tức của các cho ai khi tôi trở về đó và nhờ ai bảo vệ các ?
      - Chuyện về gia đình tôi là câu chuyện dài và rất buồn. Cái chết đến đột ngột. Bác tôi qua đời sau khi chồng bà mất. Tiếp đến là ba đứa con trai, người đầu bị xử bắn, người thứ hai bị xử trảm trong hoàn cảnh cực kỳ đáng sợ. Còn người con thứ ba biến mất cách đầy bí hiểm khiến cha tôi mất rất nhiều công sức để tìm nhưng vẫn thấy.
      - Thế các chưa từng gặp chàng trai ấy à? - René hỏi.
      - Có chứ. Tôi còn hình dung ra ấy nữa kia, khi chúng tôi còn . ấy từng làm việc cho cha tôi hồi ông ấy làm thuyền trưởng. Đó là cậu bé rất đáng khi mặc bộ đồ thủy thủy tí hon con dao đeo bên cạnh và chiếc mũ hải quân đầu. Hồi ấy ấy chỉ mười hai mười ba còn tôi lên sáu hay bảy tuổi. Em tôi hơn nên nhớ. Cha tôi thậm chí muốn gắn bỏ hai gia đình lại hơn nữa vì chúng tôi bị mất liên lạc khá lâu. Tôi còn nhớ hồi bé, chúng tôi chỉ gọi nhau là quý, em quý mà còn gọi là chồng quý của em, vợ quý của nữa cơ. Đó là những ký ức trẻ con xa xưa mà đáng lẽ phải quên khi mà nhớ lại chẳng được gì. Nhưng khi được tin bất hạnh đến với ấy, chúng tôi tìm đủ mọi cách nhưng ấy vẫn bặt vô tín và cha tôi coi ấy như đứa con tội nghiệp bị mất tích. Rồi đến thảm hoạ khi tướng Cadoudal, Pichegru và công tước Enghien chết, cha tôi chán cảnh nước Pháp quyết định chỉ chăm lo đến mảnh đất xa xôi tận cùng trái đất. Tại London, chúng tôi có quen ông James Asplay, ông ấy cũng sống ở Ấn Độ từ bảy, tám năm và đóng quân ở Calcutta. Ông ấy trở thành hàng xồm của chúng tôi. Ông ấy nghiên cứu đạo Hindu và biết có thể thu lợi được gì. Ông ấy là tay săn giỏi. Ông ấy mơ được có xứ sở cho mình với chu vi khoảng 60 dặm. Tôi chỉ như Hamlet, ít tham vọng, xứ của tôi dù chỉ bằng cái bánh tôi cũng hạnh phúc rồi miễn là em tôi cũng được sung sướng.
      Hélène nghiêng đầu về phía em và choàng tay ôm lấy Jane rất dịu dàng.

      René lắng nghe lời kể ấy rất chăm chú, thỉnh thoảng từ lồng ngực lại nén tiếng thở dài như thể chính cũng có vài kỷ niệm gắn với những kỷ niệm của các .

      Rồi đứng dậy vài vòng ngang dọc khoang thượng rồi lại ngồi xuống cạnh hai lẩm bẩm hát đoạn bài hát của Chateaubriand rất mốt vào thời đó:

      Tôi có kỷ niệm dịu dàng rất đỗi
      Từ chốn ấu thơ sáng đẹp ngời ngời
      Ôi những ngày vàng son chị hỡi
      đất Pháp
      Ôi đất nước tôi, là tình của tôi
      Mãi muôn đời

      Mỗi người lại chìm vào im lặng theo dòng suy tư của mình và có Chúa mới biết im lặng ấy kéo dài bao lâu nếu François đến báo bữa trưa sẵn sàng. Vì trong lúc giao chiến, phòng ăn bị tổn thất khá nhiều nên lần này họ ăn trong phòng của René.

      Chưa bao giờ hai tiểu thư Sainte-Hermine đặt chân vào càn phòng này. Họ ngạc nhiên khi thấy dáng vẻ nghệ thuật của nó.
      Như nhà hoạ sĩ tài hoa, René phải vẽ tất cả những cảnh đẹp, những hình ảnh đáng nhớ mà thích thú. Giữa những bức hoạ ấy là sưu tập những chiến lợi phẩm quý giá nhất. Đối diện với các chiến lợi phẩm là số nhạc cụ. Hai chị em vốn là những nhạc sĩ, tò mò lại gần. Trong số các nhạc cụ ấy có cây đàn ghi ta mà Jane rất thích chơi. Hélène cũng rất giỏi dương cầm nhưng từ khi cha qua đời ngay cả ý định lại gần cây đàn cũng dám dù trong phòng hai chị em cũng có cây đàn.

      mối liên hệ mới lại giúp họ thêm gần gũi với nhau hơn, đó là nhạc. Trong phòng René có đàn dương cầm nhưng có cách chơi rất khác bao giờ dạo những khúc vui tươi ồn ã của các tác giả bậc thầy đương đại mà chỉ chơi vài đoạn êm dịu, du dương buồn bã hợp với tâm trạng của như cơn sốt nóng của Gretry, hay Suy nghĩ cuối cùng của Weber. Thông thường ây đàn chỉ là vật vọng lại những kỷ niệm xa ngái lạ lẫm với tất cả mọi người trừ chính vì thế mà bàn tay hoà quyện nhịp nhàng với điệu đến mức phải chỉ để cất lên những thanh mà nó còn như thứ ngôn ngữ nữa.
      Buổi tối, các thường nghe thấy tiếng nhạc xuất phát từ phòng của René, thứ nhạc run rẩy hài hoà như tiếng sột soạt của gió trong các sợi dây căng hay tụ hội của những thanh trong đêm tối mà các du khách cổ đại dành cho những lời thánh ca biển. Chưa bao giờ các lại được thưởng thức những tiếng thở than của sóng biển với nỗi buồn bất tận vang lên từ tay người đàn ông và những phím dương cầm lạnh lùng.
      Nhưng sau bữa trưa, để phải lên boong dưới những tia nắng hừng hực của mặt trời xích đạo, họ ở lại trong phòng René.
      Thế là chỉ cho hai cây dương cầm và các nhạc cụ treo tường. Song thấy mắt hai thiếu nữ ngấn lệ, nghĩ đến thi thể của cha họ, đến cuộc hành trình cùng họ vào xứ sở lạ lẫm đầy nguy hiểm. Thế là cây đàn, những ngón tay của chàng trai đánh thức dậy tâm trạng man mác mà Vienne Weber mới sáng tác. Bản nhạc này như bài thơ buồn của André Chéner và Miuevoye vừa mới xuất và bắt đầu nổi tiếng những miền đất mới bị các cuộc cách mạng các cuộc chiến tranh xô đẩy, gây ra bao nhiêu điều phải rơi lệ. Dù muốn nhưng vẫn bị tình cảm cuốn khúc nhạc toả ra những ngón tay và rút gọn trong những hợp đơn giản khiến nó chỉ càng thêm thống thiết.
      Khúc nhạc buồn của Weber kết thúc, theo bản năng, những ngón tay của René vẫn trải rộng phím đàn và những hồi ức của tác giả như bày ra trước mặt . Đó là trong những lúc bất ngờ thể cắt nghĩa nổi, tâm hồn của chàng trai trẻ bùng phát hoàn toàn. Những ai khả năng đọc trong nhạc như trong cuốn sách thấy qua áng mây mờ, thung lũng đẹp, đồng bằng trù phú sinh ra, thế giới tịch nơi những dòng suối thay những thầm lại rền rĩ rền rĩ, những bông hoa thay vì toả hương lại khóc thút tha. Thứ nhạc này mới và lạ đến độ các nhận ra những giọt nước mắt vẫn lặng lẽ chảy má họ. Khi các ngón tay của René dừng lại Jane đứng dậy đến quỳ trước Hélène :
      - Chị ơi khúc nhạc êm dịu và thành kính như lời cầu nguyện.
      Hélène chỉ đáp lại bằng tiếng thở dài và ôm chặt em vào lòng. ràng từ vài ngày qua, hai thiếu nữ sống trong cuộc sống mới và những ấn tượng hoàn toàn khác mà chính các cũng nhận ra.
      buổi sáng, thủ gác thông báo: "Đất liền!" Theo tính toán của René, nơi này hẳn là đất Miến Điện. tính lại lần nữa và khẳng định niềm tin ấy.
      Kernoch nhìn tính toán mà hiểu gì cả. ta tự hỏi làm sao người chưa từng đến đây như René lại có thể thực công việc mà chính ta bao giờ có thể hiểu nổi.
      Họ hướng mũi tàu về cửa sông Pégou. Bờ biển thấp đến mức chúng bị lẫn vào nhưng con sóng biển.
      Khi nghe tiếng kêu "Đất liền", hai chị em chạy vội lên boong. Các gặp René đó tay cầm ống nhòm. đưa nó cho hai xem nhưng tầm nhìn của họ chưa quen với chân biển nên ban đầu thấy gì cả. Tuy thế, khi tiến lại gần bờ hơn họ cũng thấy ra những đỉnh núi, như những hòn đảo.
      Con tàu treo chiếc cờ mới lên cột buồm lớn, bắn mười hai phát đại bác và nhận được tiếng đại bác từ cảng, đáp lại. Sau đó Kernoch báo hiệu mình cần hoa tiêu. Lát sau người ta thấy chiếc tàu ra từ sông Rangoon mang theo người mà Kernoch cầu. ta lên tàu và khi được hỏi tiếng gì ta đáp mình phải là người Pégou hay Malacca mà là người Junchseylon. Để tránh bị làm phu cho vua Xiêm, ta trốn ở Rangoon và làm nghề hoa tiêu. ta được chút tiếng và Réne có thể trực tiếp xen vào. René hỏi liệu sông Pégou có thể cho tàu của chạy vào được hay khi nó có độ mớm nước từ chín đến mười bộ.
      Người hoa tiêu tên là Baca đáp họ có thể ngược con sông khoảng hai mươi dặm, tức là đến tận vùng đất thuộc về Đức ông người Pháp. Vùng này có tên gọi là Pangoon House, chỉ có vài ngôi nhà lụp xụp. nghi ngờ gì nữa, đó là đất của tử tước Sainte-Hermine.
      Dù con tàu mang quốc tịch Mỹ nhưng vẫn bị kiểm tra rất gắt gao. Nó hầu như giống với những con tàu buôn hay qua lại nơi này và phải mất ba lần xem xét, con tàu mới được phép vào trong sông.
      Trong ngày, họ cũng đến được đất Rangoon, qua sông Rangoon, họ sang nhánh Irrawaddy để vào sông Pégou.
      Họ dừng lại ở Siriam, thành phố đầu tiên họ gặp ven sông để mua thực phẩm tươi. Ở đây, người ta có thể thấy gà, chim bồ câu, hải sản rau và cá. Nếu tiếp tục có gió nam, con tàu có thể ngược lên tận sông Pégou trong hai ngày, còn nếu gió đổi hướng ngược lại họ phải nhờ tàu kéo lên sông Pégou. Điều này mất gấp đôi thời gian bằng buồm.
      người nào có ý định dừng lại để thăm thú thành Rangoon nghèo nàn dù trước đây nó từng là kinh thành, từng có trăm ngàn dân. Ngày nay nó chỉ còn bảy nghìn, kỳ quan sót lại chỉ còn đền Gautama theo tiếng địa phương người ta gọi là Schuredagon có nghĩa là Điện vàng.
      Sông Pégou rộng gần dặm, nhưng rừng già ngày càng bồi ra khiến khiến nó rộng hơn sông Seine đoạn từ điện Louvre đến Viện chính. Người ta cảm giác rất tất cả phần nhìn thấy của cánh rừng rậm, cao khoảng mười đến mười hai bộ - tức là đạt đến độ cao của khoang thượng, đều chứa đủ loại dã thú. Từ xà buồm, người ta có thể thấy đầu kia của cánh rừng và hai bên tả ngạn và hữu ngạn đều có cánh đồng đầu trải dài đến ven sa mạc Sittang, đầu nữa đến tận vùng khác của các thành trì trù phú
      René hiểu rất việc con sông bị che phủ như vậy phải có nguy hiểm. quyết định đích thân mình gác boong và mang theo súng trường và khẩu cạc bin hai viên. Đêm xuống, hai thiếu nữ lên ngồi cùng khoang thượng tò mò muốn biết trong chốn tịch mịch ấy tiếng kèn liệu săn có hiệu ứng gì. René cho mang chiếc tù và của mình đến nịnh thoảng, họ lại nghe thấy những tiếng động dữ dội trong rừng rậm, chắc chắn có cuộc hỗn chiến long trời lở đất của những cư dân trong rừng. Nhưng cư dân ấy là ai? Có thể là những con hổ, những con cá sấu, hay những con trăn khổng lồ quấn chặt con bò để rồi nuốt chửng.
      Có cái gì đó vừa kinh hãi vừa trịnh trọng trong im lặng bị quấy rầy ấy. Từ giờ khắc này sang giờ khắc khác, do những tiếng rú gào như thể sinh ra phải dành cho tai người nghe nên rất nhiều lần hai thiếu nữ giang tay ngăn René đưa chiếc tù và lên miệng. Đột nhiên tiếng kèn hiệu vàng lên, rền rĩ, rung động và khiêu khích người ta nghe nó như thứ gì đó vượt qua ngọn rừng già, lan toả, yếu dần rồi biến mất trong những miền hoang vắng mà ngay Chúa lẫn con người còn chưa đạt tên. Sau những thanh lạ lẫm, tất cả đều câm bặt quanh họ. Người ta tưởng như dám thú hoang dã im lặng để nhận định tiếng động lạ và mới ấy.
      Gió thuận chiều và họ giọng buồn cần thuyền kéo. Đột nhiên, thủy thủ gác kêu to:" Có thuyền phía trước"
      Ở chốn này, cái gì cũng đều nguy hiểm. René trấn an hai , xách súng, tiến lên lan can khoang thượng để tận mắt xem chuyện gì. Hai đứng dậy sẵn sàng trở về phòng mình khi René ra hiệu. Đêm hôm ấy trời tối, trăng tròn chiếu sáng hình thù giống chiếc thuyền phía trước.
      Vật đó có vẻ thẳng. Càng lại gần hình dạng của nó càng và René nhận ra đó là thân cây trôi. Nhận thấy có gì đáng sợ từ cái vật ấy, gọi hai lại gần ban công khoang thượng. Khi thân cây cách con tàu khoảng hai chục bước René nhận ra có hai luồng sáng như hai hòn than chiếu đến.
      chưa thấy báo gấm bao giờ nhưng dễ nhận ra con vật như thế đến gần. Chắc là nó nấp cây nào đó các cây bị cơn gió mạnh làm bật rễ đẩy nó xuống sông. Ban đầu sợ quá nó đành bám vào đó, khi bị nước đẩy , nó biết làm sao để lên bờ.
      - Hélène, muốn có tấm thảm bằng lông thú ? - René vừa vừa chỉ vào con vật.
      - Con thú cũng bắt đầu nhận ra các hành khách, nó dựng đứng lông, nhe nanh gầm gừ đe doạ dữ dằn.
      René đưa súng lên vai nhưng Hélène ngăn lại.
      - Đừng giết nó, tội nghiệp con vật.
      Phụ nữ bao giờ cũng có những cử chỉ độ lượng.
      - Vấn đề là - René thầm - đó là kẻ sát nhân.
      Cái cây và con tàu va vào nhau, người ta nghe tiếng cành cây chạm vào mạn tàu đột nhiên tiếng người lái tàu hét lên khiếp đảm.
      - Nằm xuống! - René ra lệnh vừa dõng dạc vừa thúc bách.
      Khẩu súng vai được hạ ngay xuống tay trái và viên đạn lao rồi viên thứ hai cũng phát nổ cách đó chỉ giây.
      Hai chị em ôm chặt lấy nhau vì họ đoán được chuyện gì vừa xảy ra. Con báo bị đói trong những ngày buộc phải ở thân cây lùi lại, lấy đà và nhảy lên thành tàu. Nghe thấy tiếng động, người lái tàu quay lại và thấy con vật bám thành tàu và chỉ cú nhảy là tới chỗ ông ta. Vậy là ông ta hét lên hoảng hốt thu hút chú ý của René. ban hai phát đạn vào con vật.
      Chỉ cú chảy, René cầm tiếp khẩu súng thứ hai, chạy đến giữa vị trí con báo và người lấy tàu những nó chết, viên đạn găm giữa ngực nó.

    4. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 66: Thành Pégou


      Nghe thấy tiếng súng, toàn đội tàu chạy lên boong. Họ tưởng lại bị người Mã Lai tấn công. Kernoch nghỉ là người chạy lên boong đầu tiên. ta nhìn thấy người lái tàu và con báo nằm cạnh nhau xa và cả hai đều bất động như chết.

      Họ sợ cứu người lái tàu vì khi đánh lộn ông ta có thể bị vài vết cào nhưng may là ông ta bình an vô , con báo bị chết ngay sau phát đạn thứ hai.
      Đầu bếp tàu lột da con báo rất cẩn thận. Da của nó ban đầu định dành cho Hélène nhưng Jane nài nỉ nên Hélène nhường lại cho em.
      Con tàu vẫn tiếp tục . Vì gió khá thuận nên dù chậm, nó vẫn ngược lên dòng sông. Hai về phòng mình mà vẫn chưa hết run. Các bắt đầu thấy ít hứng thú với mảnh đất tuyệt đẹp mình sắp định cư. René ở lại bên họ đến tận ba giờ sáng. Các luôn tưởng tượng sau mỗi ô cửa sổ là những khuôn mặt khủng khiếp của con thú hoang khát máu nào đó.
      Đêm qua trong những nỗi sợ nối tiếp. Ngay khi trời sáng, hai lên boong hy vọng gặp chàng trai bảo vệ họ. Vừa thấy họ, chàng René gọi:
      - Lại đây! Tôi định gọi các dậy để xem hai ngôi chùa trong cảnh bình minh đẹp như thế nào. Chùa gần hơn là Dagoung. Các nhận ra nó qua mũi tên vàng và mái của nó. Đêm qua, chúng ta đến rất gần nó.
      Hai nhìn thấy hai công trình đầy cuốn hút ấy nhất là ngôi chùa. Dagoung rất cao khắp các khu nông thôn lân cận đều nhìn thấy. Nền của nó vốn được xây dựng những gò: Cầu thang duy nhất đẫnlên thềm cũng phải đến trăm bậc bằng đá.
      Như René , các kim tự tháp mạ vàng này đẹp tuyệt vời hơn nhiều khi mặt trời dìm nó trong những chùm nắng. Xung quanh đều là miền đồng bằng rồi đến những cánh rừng nơi suốt đêm phát ra những tiếng rú kinh hồn bạt vía. Rừng rậm bao lấy dòng sông cũng có vẻ an toàn nào cả. Suốt đêm, người ta nghe thấy tiếng cá sấu giống như tiếng trẻ con bị bóp cổ. Cánh rừng này thỉnh thoảng bị xen vào các cánh đồng rộng bát ngát do tầng lớp dân cư đặc biệt cấy trồng. Những người đó được gọi là carainers. Họ có phong tục rất đơn sơ, thứ tiếng khác với tiếng Miến Điện. Họ cày bừa, cấy trồng và có cuộc sống thuần nông. Họ sống ở các thành thị mà ở quê trong những mái nhà sàn. Họ bao giờ đánh lẫn nhau và cũng tham gia vào các cuộc chinh phạt của triều đình.
      Con sông mà đoàn người của chúng ta qua có rất nhiều cá, đến nỗi các thủy thủ chỉ cần thả vài mảnh lưới là thu được đủ cả ăn cho cả đoàn. Vài người muốn ăn thịt báo. Con báo này chỉ tuổi rưỡi hoặc hai tuổi là cùng, người đầu bếp làm vài món thịt sườn nhưng những hàm răng khoẻ nhất cũng xé nổi thịt ra khỏi xương nó Ngày hôm sau nữa trôi qua có đụng độ nào ngoài cuộc quyết đấu giữa con cá sấu châu Á và con cá sấu châu Mỹ. phát đạn đại bác đủ để kết thúc cuộc chiến ấy và cho hai đấu sĩ tan thành từng mảnh. Hôm ấy, họ đến thành Pégou.
      Pégou còn mang vết tích của các cuộc khởi nghĩa và nơi này từng là kịch trường. Những thành quách của nó phần lớn bị đổ nát, chúng chỉ còn cao khoảng ba mươi bộ tính từ dưới mặt nước sông nơi mà khi triều cường có thể dâng lên cao chục bộ.
      Các con tàu có độ mớn nước từ mười đến mười hai bộ buộc phải dừng lại ở đây vì khi thủy triều hạ thêm dặm nữa bị mắc cạn. Con tàu lại buộc ở trạm kiểm soát đặt dưới giám sát của Chékey, tức quan trực thuộc Bộ binh.
      Du khách được vào nơi như cung điện mà người ta gọi là phủ ngoại quốc vì nó dành cho những người nước ngoài hiếm hoi đặt chân đến Pégou.
      Nhưng khi René nhìn kỹ các phòng mình muốn ở tàu hơn, rằng như thế chuẩn bị tốt cho việc đến mảnh đất của tử tước Sainte-Hermine mà theo cách gọi của dân bản địa là Đất Trầu đó loại cây này có rất nhiều. Người ta trồng nó và đó là khoản thu nhập chủ yếu. Việc con tàu Slúp với mười sáu khẩu pháo đại bác của nước Mỹ hùng mạnh xuất , bắt đầu chiếm được trân trọng Ấn Độ Dương, trở thành điều tò mò cho dân Pégou. Chính vì thế khi con tàu vừa đến, người đầu tiên đến thăm con tàu là người thông ngôn của hoàng đế. Ông ta chịu trách nhiệm mang hoa quả vật phẩm của Shabunder(1) của Pégou đồng thời thông báo ngài Nak-kan và ngài Serédogée hôm sau đến thăm họ.
      René vốn lường trước các cuộc viếng thăm này nên mua sẵn vải vóc và vũ khí đảo Pháp. gởi tặng khẩu súng trường hai viên cho ngài Shabunder. Thấy ông ta thích thú với món quà, nhân cơ hội ấy, xin nhập cảnh cho con tàu Slúp và nhờ ông ta, với chức danh như cảnh sát trưởng hải quân ở , để mắt giùm.
      Trong suốt thời gian viên cảnh sát trưởng hải quân đến thăm, ông này mang theo hai tên hầu cắp theo tráp bạc, ông ta chỉ ăn trầu và mời ăn.
      René nhai thứ lá thơm thơm ấy như người theo đạo Phật nhưng khi khách vừa để giữ cho bộ răng trắng của mình vội xúc miệng bằng nước trắng thêm vài giọt rượu Arack.
      Hôm sau, như được ông Shabunder báo, đón hai người nak-kan và Serédogée đến thăm. Nak-kan tương đương với chức hộ vệ có nghĩa là tai của vua còn Serédogée tương đương với chức thư lại.
      Cả hai người này đều có tên hầu cắp tráp theo. Họ nhai trầu liên tục và nhổ nước trong lúc nhai nhưng câu chuyện với họ khá thú vị René được cung cấp nhiều tin tức quan trọng để đến mảnh đất của hai tiểu thư xinh đẹp. được biết rằng gì bằng trồng trầu vì người ta có thể thu được ít nhất là năm mươi nghìn phăng, gần bằng trồng lúa hay mía. Mảnh đất ấy rộng năm mươi dặm , tức là gần bằng thành Pégou. Chỉ có điều, để đến được đó phải qua những khu rừng đầy hổ báo, ngoài ra nghe còn có những băng cướp người Xiêm và người Miến Điện nấp trong những khu rừng ấy và chúng còn hung bạo hơn đám dã thú.
      Hai vị khách đều ăn mặc gần giống nhau, người áo tím và người kia áo xanh. Cả hai đều mặc loại áo dài như váy ngủ có thêu các đường chỉ vàng ở các chỗ khoét và hai đầu ống tay.
      René gởi cho vị thượng thư tấm thảm Ba Tư thêu vàng và cho hộ vệ hoàng thượng cặp súng lục sản xuất ở Versailles.
      Trong suốt cuộc chuyện ấy, cả hai vị khách đều ngồi xổm, viên thư lại biết tiếng , làm thông ngôn cho người còn lại.
      Trầu ở vùng này là loại cây leo như cây thường xuân. Lá của chúng gần giống như lá chanh nhưng to và dài hơn, đầu thót lại. Quả trầu gần giống như quả nho dại nhưng người ta thích lá hơn. Dân ở đây trồng trầu như trồng nho, người ta bắc giàn cho chúng leo. Thỉnh thoảng họ nhai cùng với miếng cau. Cây trầu sinh trưởng khắp Đông Ấn và nhất là vùng ven biển.
      Người Ân nhai trầu suốt ngày thậm chí cả ban đêm, nhưng nếu nhai lá rất đắng nên người ta nhai cùng cau và chút vôi quệt vào trong phiến lá. Những ai giàu có hơn nhai cùng nước long não Bornéo, vỏ quạch hương nhu.
      Khi nhai đủ các vị ta thấy vị và mùi dễ chịu vô cùng khiến người Ấn trở nên nghiện. Tất cả những ai khá giả đều coi đó là món khoái khẩu của họ. Cũng có người còn nhai cau với quế và cây đinh hương những vị bằng cau với lá trầu thêm chút vôi.
      Người Ấn nhổ nước tiết ra đầu tiên, đó là thứ nước đỏ nhờn nhợt họ có hơi thở dịu và dễ chịu lan khắp phòng. Nhưng lại làm răng của họ đen lại, bị hỏng rồi rụng. Có chăng người Ấn Độ chỉ còn mỗi cái răng khi mới ở tuổi hai mươi lăm, nguyên do là nhai quá nhiều trầu.
      Thỉnh thoảng, khi từ biệt nhau, người ta trao cho nhau vài miếng trầu bọc trong mảnh vải lụa và về nếu chưa được người thân thiết mời trầu. Người ta cũng dám chuyện với người có địa vị sang trọng trong xã hội mà có cái miệng phảng phất hơi trầu. Với người ngang hàng khi chuyện việc nhai trầu cũng coi là phép thiếu lịch .
      Lại hai kẻ nhai trầu nọ vừa chưa được lâu tiếng đồn về con tàu Slúp của người Mỹ giàu có tặng súng ngắn, thảm và súng trường hai viên lan xa và người ta nghe thấy tiếng nhạc vọng đến.
      René gọi ngay hai đến để hai thưởng thức nhạc cho đỡ buồn. Hai lên khoang thượng, họ thấy ba chiếc thuyền chở các nhạc công, mỗi thuyền có bó gồm hai sáo, hai chũm chọe và cái có dạng như cái trống. Tiếng sáo nghe giống như tiếng kêu ô-boa. Thứ nhạc đó dù bác học nhưng rất thú vị. René cầu họ chơi vài ba khúc để ghi lại những giai điệu chính: Mỗi tấu được thưởng mười hai talks (mỗi talks tương đương với ba phăng rưỡi)
      Ngay từ ngày đầu, René luôn lo lắng làm cách nào đến được mảnh đất của tử tước Sainte-Hermine. Nhưng cách thức duy nhất đến đó là ngựa hoặc voi. Ngoài ra viên cảnh sát trưởng hải quân khẳng định còn cần ít nhất hơn chục người đàn ông tháp tùng. Trong vùng sắp có lễ hội nên người đàn ông nào muốn rời Pégou trước khi dâng lễ xong. Buổi lễ ấy kết thúc, ngài Shabunder thuê ngựa hoặc voi cho René kèm theo bộ đồ nghề săn hổ. có thể giữ tháng, hai tháng hoặc ba tháng tuỳ thích. Giá thuê ngựa và người đánh ngựa là hai mươi talks, giá voi và quản tượng là ba mươi talks.
      Vì René hứa chỉ thuê ngựa hoặc voi qua ngài Shabunder nên ông này tặng cho khung cửa sổ trong ngôi nhà lối chính vào chùa. René chấp nhận, lúc cùng hai đến đó, rất ngạc nhiên khi thấy ngài võ quan có ý trải thảm và kê ghế ở đó.
      Dòng người tham dự vào buổi lễ ấy rất đông. Từ lúc mặt trời mọc đến mười giờ sáng, phải có ba mươi nghìn người trèo lên, môi người mang khay đồ lễ tuỳ lòng thành và điều kiện của họ. Vài người còn ôm ngang lưng cái cây rủ xuống dưới sức nặng của những món quà dành cho sư sãi. Đó là cây trầu, mứt, bánh trái, có người lại vác những con cá sấu và các con thú lớn bằng giấy những cái khay đựng đủ loại đồ lễ. Cuối cùng là những con voi giấy, hoàn tất cho đoàn cúng tiến lên chùa.
      Tất cả mọi người đều mặc bộ quần áo hội đẹp nhất, phần lớn dệt từ lụa trong cùng giống với các xưởng dệt ở phương Tây và thường có chất lượng tốt hơn. Phụ nữ Miến Điện cũng được tự do như phụ nữ Châu Âu, họ phải bịt mặt. buồn là đàn ông lại ít khi dành cho họ đặc quyền như thế. Đàn ông coi họ như kẻ dưới và đặt họ ở khoảng cách giữa con vật và con người.
      Người Miến Điện bán vợ mình cho người nước ngoài. Trong những trường hợp như thế, vì chăng người vợ chỉ phục tùng lệnh của chồng nên họ thấy bị hổ thẹn. Họ có hai lý do để thanh minh cho thái độ của mình, thứ nhất là do luật phục tùng và thứ hai họ phải hy sinh để giúp đỡ gia đình.
      Ở Rangoon và ở Pégou cũng có các kỹ nữ. Có thể là do lười lao động hay hư hỏng hay sa đoạ mà các trẻ bán thân vào cái nghề nhơ nhớp ấy, ngay ở các thành phố văn minh cũng vậy.
      Luật nợ tiền ở người Miến Điện cũng khác ở Rome thời đạo luật Mười Hai Bàn, đó là: tất cả các chủ nô trở thành ông chủ của con nợ hay gia đình con nợ, khi con nợ trả nổi tiền, chủ nợ bán con nợ như nô lệ và khi vợ hay con của họ xinh đẹp và các chủ thanh lâu trả giá cao các chủ nợ bán những kẻ bất hạnh ấy. Người ta có thể gọi đó là vỡ nợ. Ngày trước còn đồn đại có tầng lớp kỹ nữ quý phái có xuất thân khác, người ta gọi các ả đó là hạng sang.
      Nếu phụ nữ cầu mong sinh con trai nhưng lại đẻ ra con , chị ta mang nó đến gửi ở chỗ hạng sang và các nàng này trả khoản tiền người mẹ cầu. Người ta sử dụng dưới chức danh hạng sang cho những người nước ngoài qua đây với dân bản địa, các đó được gọi là valasi (nô lệ của sang), người nước ngoài lại gọi là bayadère với những vũ công và kỹ nữ.

      Chú thích:
      (1) Chức dùng cho các khu ở Malaixia, sĩ quan chịu trách nhiệm theo dõi thương nhân, tuần tra cảng và thu thập các giấy thông quan

    5. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 67: Cuộc hành trình


      Buổi lễ hội kết thúc, René nhắc ngài Shabunder lời ông ta hứa. Ngay hôm sau ngày René cần ba con voi.

      Ngay lập tức, ba con vật cùng người quản tượng đến chỗ con tàu Slúp. René rất tin tưởng vào đoàn thủy thủ -Mỹ nên để họ lại trông tàu. Đồng thời cũng để lại Kernoch và sáu người Bretaglle vì tin tưởng vào lòng tự tôn dân tộc và lòng thủy chung của họ trong việc bảo vệ tàu nếu có xung đột xảy ra.

      René chỉ mang theo chàng người Paris, tức là người phục vụ trung thành François. Chỉ cần hai con voi có là có thể chở được bốn người đủ chỗ cho hai . Ngoài ra, để yên tâm, thuê mười hộ vệ mà ngài Shabunder tuyển hộ.

      Mỗi người và mỗi con ngựa mất năm talks mỗi ngày trong suốt chặng đường. Hai con ngựa do và François dắt, hoặc cưỡi khi nào họ muốn voi. Trưởng đoàn dự định chuyến kéo dài ba ngày.

      Hai con ngựa được chất đầy thực phẩm vì họ lo là gặp được làng nào đường . Ngoài ra họ hy vọng kiếm thêm các con thú săn được đường.

      Buổi tối, đoàn người dựng lều ngoài bìa rừng, và rời xa nguồn nước. Họ lấy nước dự trữ vì sợ dọc đường tìm được nước sạch.

      Đêm đầu tiên qua có gì đặc biệt, như , vì họ chưa vào rừng và họ còn nhìn thấy thành Pégou, chiếc ghế có tán che có thể đặt lên lưng voi hoặc tháo xuống đất. Họ hạ nó xuống dùng làm giường tránh muỗi cho hai .

      Họ đốt đống lửa to để xua đuổi các loài bò sát và ác thú. René cho rằng bằng voi, họ dễ dàng qua những đoạn đường khó và con vật thông minh này, với bản năng tự nhiên biết cảnh báo khi có kẻ thù sắp lại gần. Tuy thế, vẫn hoàn toàn tin tưởng và tự mình gác. Nửa đêm, gần sáng giao cho François.
      René vẫn chưa thấy dấu hiệu nguy hiểm của lũ voi. Tuy nhiên, ngay từ đầu bắt đầu làm thân với chúng bằng cách mang cành cây tươi và mấy quả táo mà chúng ưa thích. Để chúng ghen tị lẫn nhau, mang cho chúng hai khẩu phần bằng nhau. Ban đầu chúng nhìn hơi nghi ngại, hiểu kẻ lạ mặt này quan tâm đặc biệt đến chúng vì mục đích gì. Nhưng dẫu sao chúng cũng từ chối món quà ấy. Sau đó, René dẫn hai lại gần, mang cho chúng ba đoạn mía tươi và ngọt. Chúng khoái chí lấy vòi quấn từ tay hai rồi đưa lên miệng. Như vậy trước lúc lên đường, René làm bạn với hai con voi và cho chúng trở thành bạn của hai .

      Đêm qua bình yên trừ vài con báo uống nước và vài con cá sấu châu Mỹ ra khỏi rừng tìm mồi được con voi gác báo trước.

      Chính bản thân hai con voi cũng thấy cả hai cùng thức đêm là vô ích nên chúng chia nhau canh gác như René và François vậy. Quả nhiên, đến nửa đêm, con voi đầu khụy gối ngủ nhường chỗ cho con voi thứ hai mới thức dậy gác tiếp.

      Trời vừa sáng, con voi hú lên đách thức mọi người trở dậy. Hai hiểu có René canh gác họ thể gặp bất trắc gì nên yên tâm làm giấc ngon lành như ngủ trong phòng. Các dậy ngay và tận hưởng khí trong lành của buổi ban mai.

      René lại gần chỗ hai mang theo ôm cành cây mà ngày hôm trước lũ voi rất thích. Hélène và Jane vẫn có chút e sợ khi lại gần hai con thú khổng lồ ấy. Nhưng với ánh mắt dịu dàng của chúng, các cũng hiểu là có chuyện gì. Các cầm những cành cây từ tay René đưa cho chúng. Chúng quấn lấy kèm theo những tiếng cục cực khoái chí. Ăn hết cả ôm cành cây lũ voi nhìn sang trái lại nhìn sang phải như còn thiếu cái gì đó. Chúng chưa được ăn mía, loại thức ăn thể thiếu của chúng René chạy lấy và chuyển qua tay Hélène và Jane. Lũ voi ngốn ngấu đám mía với ưng ý như hôm trước.

      Đoàn người chỉ ăn , họ chia quãng đường làm hai chặng, chặng thứ nhất đến mười giờ trưa rồi nghỉ bên hồ để tránh ánh nắng gay gắt trong ngày, chặng thứ hai đến bảy giờ tối, nghỉ đêm tại nơi quang đãng.

      Hai thiếu nữ lại leo lên lưng voi, chúng tỏ ra vui thích được cái vinh dự đưa họ . René và François, cậu ta phía sau vài bước, song song với con voi chở hai . Người dẫn đường đầu mười người nữa ngựa tiếp theo, con voi ai cưỡi ngoài người quản tượng của nó kế đó. Cánh rừng này u ám và đầy vẻ đe doạ đến nỗi René khỏi lo ngại cho hai người bạn của mình. gọi người dẫn đường được chút ít tiếng lại gần.
      - Đoạn rừng này có sợ bị cướp tấn công ? - René hỏi.
      - - Người dẫn đường đáp - bọn cướp ở cánh rừng khác.
      - Thế ở đây có gì đáng sợ ?
      - Các loại ác thú
      - Là những loại nào?
      - Hổ, báo và những con trăn khổng lồ.
      - Được rồi, chúng ta tiếp, - René rồi quay lại François - cậu lấy cho tôi hai miếng bánh mì ngon lại đây!

      François mang lại chiếc bánh mì cắt làm hai. Lũ voi vừa nhìn thấy bánh mì, chúng nghĩ người ta mang đến cho mình nên con voi cho ai lùi lại gần René khiến cho này trở thành giữa hai con vật to lớn.

      Hai hốt hoảng cúi ra khỏi kiệu, chỉ thêm bước nữa, René và con ngựa của bị nghiến nát giữa hai con vật khổng lồ rồi. René trấn an hai con voi bằng nụ cười rồi đưa bánh mì cho chúng. Hai cái vòi của chúng thay vì doạ nạt hình như lại tỏ ra âu yếm chàng trai. René để lũ voi tận hưởng món bánh thích của chúng. Đó là viên gạch nữa dựng lên lâu đài tình bạn giữa mình và hai con quái vật bốn chân.
      - Vừa nãy người dẫn đường gì với ngài đấy? - Hélène hỏi.
      - Nếu người khác, tôi bảo ta rừng này đây con mồi và chúng ta phải lo về đồ ăn. Nhưng người đồng hành can đảm nên tôi có thể . ta bảo chúng ta khi ngủ chỉ nên nhắm mắt thôi còn mắt kia phải mở to để mà canh gác. Nhưng các cứ yên tâm ngủ, tôi là người gác cho các .

      Từ lúc đoàn người vào rừng, họ thấy hình như mình vào nhà thờ, giọng của họ trở nên hơn mức bình thường. giữa ban ngày mà cứ như sáu giờ tối, vòm cây dày đến nỗi họ nghe thấy tiếng chim nào. Khi màn đêm kéo đến, bản hợp xướng của các loài vật mới thức giấc. Đêm tối mới là ban ngày của chúng. Đêm tối là lúc chúng săn mồi, đương còn ban ngày là khi chúng ngủ.

      Họ thấy sợ cái sức mạnh thiên nhiên ấy, khi mà cơn giông cũng khiến tất cả bụi mù như sa mạc cát, khi cái cây to lớn cũng đủ làm rừng, khi trong những vùng tối sâu thẳm nhất của cánh rừng này, nơi người ta tưởng có ban ngày hay tia nắng mặt trời nào xuyên vào lại phô ra những bông hoa sặc sỡ và toả mùi ngây ngất trong khi những cây khác ngạt thở trước bóng tối và chỉ toả hương sác trước ánh mặt trời. Chúng bám lên những cành cây đầu tiên, trượt sang các cành cây khác leo đến đỉnh ngọn rồi nở hoa như những viên đá rubi hay sa phia nằm trong ngọc bích. Người ta nhìn nó ngay khi gặp, chúng lan rộng nhưng khi người ta tìm thân của chúng, người ta chi thấy thân mảnh khảnh như dây điều. Trong những cánh rừng này tất cả đều bí hiểm nhưng bí hiểm ấy còn cho người ta những suy nghĩ đen tối nhất thậm chí đến cả cái chết.

      Quả , cái chết rình rập khắp nơi. Trong bụi rậm kia, con hổ chờ bạn. cành cây này, con báo rình bạn. Rồi cái thân cây mềm mại uốn lượn giống như cái cây bị chặt cách mặt đất từ sáu đến tám bộ kia nữa lại là cái đầu con rắn mà phần thân của nó trải dài như con suối có thể quấn lấy bạn ở khoảng cách mười lăm bộ. Cái hồ nước rộng phẳng lặng như tấm gương kia hội tụ đủ loại thứ nguy hiểm như cá sấu châu Mỹ, châu Á, khi nó há miệng, nó có thể nuốt cả con ngựa và ky sĩ lúc. Đó là Ấn Độ, nơi phần sinh sôi nhất và cũng chết chóc nhất vũ trụ.

      René có những suy nghĩ như thế khi dưới cái vòm cây câm lặng và tối tăm ấy, thỉnh thoảng mặt trời phải khó nhọc lắm mới xuyên qua được tán lá. Đột nhiên, như thể tấm màn được vén lên, người ta chuyển từ vùng hoàng hôn chạng vạng tối sang chỗ ánh sáng chói loà. Đó là cái hồ. Để đến chỗ đó, người ta chỉ phải qua đồng cỏ đẹp như mơ, mảnh thiên đường rơi xuống mặt đất, những khối hoa loả hương ngát đến người ta sắp chết ngạt. Mảnh đất đó bị những con chim cày xới bằng những tiếng kêu lạ tai, người bộ lông màu ngọc bích, màu đá ruổi và saphia. Phía chân trời là hồ nước trải rộng như tấm thảm màu xanh lơ. Ai cũng hít thở sâu, lồng ngực giãn ra.

      Họ qua đồng cỏ, vài tiếng rên rỉ thoát ra chứng tỏ họ vừa giẫm chết vài con bò sát. Người dẫn đường luôn thận trọng, dùng cái gậy để giết con rắn khoang vàng đen dài gần bộ. Con này cắn có thể chết người, trong tiếng Miến Điện, người ta gọi nó là rắn "ca rô". Người dẫn đường giải thích rằng vết cắn đặc biệt của con vật đó là tuỳ vào thời điểm bị cắn, người ta chết vào cái buổi tối, hoàng hôn, sáng hay bình minh.

      Cuối cùng, đoàn người cũng đến được chỗ hồ nước. Đó là nơi dừng chân đầu tiên của họ trong ngày.

      Lúc qua đồng cỏ, René bắn được vài con chim giống như gà lôi và con giống như con linh dương gazelle, con thỏ. François với bản tính của người Paris học được cách chế biến nên xử lý khá hợp lý chỗ con mồi ấy.

      Cũng cần thêm là René vẫn chăm sóc cẩn thận lũ voi như thường lệ. Khi thấy chúng hướng vòi về thứ cây hoa màu đỏ lớn những với tới. René hỏi François xem bằng tài trí của cậu bé Paris, ta có trèo lên cây ấy được . François khẳng định là được nên René trao cho cậu ta con dao quắm cầu cậu ta chặt nhiều cành nhất có thể. Những con voi nhìn hành động ấy cách thích thú ra mặt, chúng vuốt ve tay René như thể muốn hôn lên đó.

      René để hai xuống kiệu. Các vừa xuống đất, lũ voi vội tiến lại đống cành cây và bắt đầu bữa trưa kèm theo những tiếng kêu nho sung sướng và những ánh mắt bao lấy René và hai người bạn của đầy vẻ biết ơn.

      Mọi người ăn bữa trưa và ngủ tuỳ ý thích. Họ quên hết mọi nỗi sợ và hầu như tin rằng trong ngày đẹp trời đến thế trong khung cảnh diễm lệ đến vậy lại có thể bị nguy hiểm rình rập.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :