1. QUY ĐỊNH BOX TRUYỆN SƯU TẦM :

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]
    ----•Nội dung cần:
    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)
    - Nguồn
    - Tác giả
    - Tên editor +beta
    - Thể loại
    - Số chương
    Đặc biệt chọn canh giữa cho đoạn giới thiệu
    ---- Quy định :
    1. Chỉ đăng những truyện đã có ebook và đã được public trên các trang web khác
    2 . Chỉ nên post truyện đã hoàn đã có eBook.
    3. Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn
    4 . Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Hiệp sĩ Sante Hermine - Alexandre Dumas (122 chương)

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây (Sưu Tầm)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 58: Viên thuyền trưởng Mỹ làm thế nào để có 45 nghìn phăng thay vì 5 nghìn phăng như ông ta cầu


      Cơn mê man của thuyền trưởng Mỹ kéo dài lâu. Chưa bao giờ thuyền trưởng Surcouf có ý định tha thứ bản án tử hình cả. Nhận ra trong con người này cũng có phẩm chất cao thượng mà những quân nhân rất coi trọng, ông muốn để lại ấn tượng mạnh mẽ trong tâm trí người da đen và ông ta hiển nhiên đạt được mục đích. Lập tức ông quyết định chỉ cứu mạng sống của kẻ đó mà còn muốn để ông ta khuynh gia bại sản hoàn toàn. Chính vì lẽ đó, thuyền trưởng Surcouf ra lệnh cập bến mũi gần Rio-Janeno góc tám mươi hay chín mươi dặm về hướng Tây Nam.

      Rio-Janeiro vốn là chợ nô lệ tiếng tăm nhất nền Nam Mỹ. Chắc chắn thuyền trưởng Harding phải biết vài thương lái buôn người da đen ở đó. Surcouf vừa cho hạ neo xuống vịnh cho mời ông ta đến.
      - Thưa ông, trong lúc gần mất mạng, ông chỉ xin ân huệ là chuyển cho người vợ goá năm nghìn phăng trong tủ của ông, hôm nay tôi muốn làm nhiều hơn thế nữa cho ông. Ông cảng nơi có thể bán được giá hai tư nô lệ còn lại của mình.
      - Tôi cho phép ông bán họ và giữ tiền lại.
      Harding ngạc nhiên nhìn ông.
      - Ông cứ bình tĩnh - Thuyền trưởng Surcouf tiếp - Đổi lại tôi còn cầu ông chuyện. người của tôi, cậu thư ký đúng ra là người bạn, tôi hiểu vì sao cậu ấy lại muốn mua lại chiếc tàu của ông.
      - Ngài có thể giao nó cho cậu ấy - Harding trả lời - vì nó thuộc về ngài giống như mọi thứ tôi từng có.
      - Đúng thế, nhưng René là chàng trai rất có lòng tự trọng, ta muốn nhận từ tôi cũng như từ ông bất cứ cái gì. Cậu ấy muốn mua lại con tàu của ông. Ông phải chú ý đến những gì ông vừa lúc nãy, đó là con tàu này thuộc về ông nữa. Tuy nhiên, ông nên đưa giá hợp lý cho người, lẽ ra được lấy nó, nhưng lại muốn mua nó.
      - Thưa ngài - Harding đáp - ý của ngài là mệnh lệnh với tôi: Ngài cứ định giá và tôi bán cho ấy nửa giá ngài đưa ra.
      - Tàu của ông đáng hai tám đến ba mươi nghìn phăng, René trả ông mười lăm nghìn phăng ông phải chuyển tất cả giấy tờ chứng nhận quốc tịch con tàu của ông ở Mỹ và giấy thông hành dưới màu cờ Mỹ cho ấy.
      - Nhưng việc nhận ra chủ tàu là người Pháp đâu có phải là chuyện khó khăn, thưa ông.
      - Nhưng ai nhận ra điều đó? - René hỏi, vẫn là thông ngôn cho Surcouf.
      - khó có thể tiếng thông thạo để người ta nhận ra nhất là khi người Pháp tiếng nước ngoài. Tôi chỉ gặp người này - ông Harding chỉ vào René - là có thể làm được điều đó mà thôi.
      - Thưa ngài, - bấy giờ René mới - chính tôi là người muốn mua con tàu. Ngài cũng thấy là còn gì cản trở mong muốn của tôi nữa nên ngài hãy cho viên thẩm vấn chuẩn bị khế ước bán tàu, sau đó ngài cho mang tiền và đồ đạc của mình lên bờ.
      Đây là ngân phiếu trị giá mười lăm nghìn phăng rút được từ nhà ông David và con trai trong thành phố mới. Hãy mang hoá đơn về cho tôi.
      - Nhưng ngài đưa nó cho tôi khi ký giấy bán cũng được mà - ông Harding .
      - Ngài cần thời gian để yên tâm rằng hợp đồng được trả khi xuất trình giấy rút tiền. Ngài Surcouf và tôi muốn khởi hành ngay tối nay, chậm nhất là sáng mai.
      - Vậy tên người chủ sở hữu tàu là gì? - Harding hỏi.
      - Ngài muốn ghi là gì cũng được - René cười đáp - Fielding du Kentucky nếu điều đó làm ngài thoải mái.
      Harding đứng dậy hỏi René rỗi lúc mấy giờ.
      - Ngài cứ giờ nào ngài cho là tôi thích hợp có mặt tại chỗ chưởng khế của ngài, tôi đến đó.
      Surcouf thông báo họ rời vịnh vào sớm hôm sau do đó cuộc hẹn ấn định vào lúc bốn giờ chiều. Vào lúc năm giờ, con tàu Tay đua New York được bán cho chủ sở hữu mang cái tên John Fielding du Kentucky. Sáu giờ chiều thuyền trưởng Harding lấy đủ mười lăm nghìn phăng và đến bảy giờ chiều, hai trăm thủy thủ và binh lính hải quân thích ở lại Rio-Janeiro được trao cho lãnh để cùng lời hứa đổi lấy số tù binh Pháp tương tự.
      Ngày hôm sau, ngay từ sớm ba con tàu mang quốc kỳ riêng lại cởi sóng thắng tiến về mũi Hảo Vọng.

      Nhưng thuyền trưởng Surcouf quyết định, để hai người bảo vệ, các chuyển từ tàu Revenant sang tàu Standard hai đều vui vẻ lên đó. Trong tình trạng bị bỏ rơi, các chưa biết làm sao đến được Rangoon nơi các ngôi nhà bên dòng sông Pégou. ai trong hai biết về Ấn Độ nhưng chị Hélène từng gặp ở London sĩ quan quân đội đóng ở Calcutta. Trước lúc họ khởi hành sang Ấn Độ, họ thoả thuận đám cưới giữa Hélène de Sainte-Hermine và ngài James Asplay diễn ra tại đó. Jane và cha mình tiếp tục sống trong nhà của họ cho đến khi Jane kết hôn. Đến đó, tuỳ tình hình các chàng rể trẻ muốn sống cùng cha vợ hay , hoặc ông sống ở nhà mỗi sáu tháng hoặc họ vẫn giữ lại ngôi nhà Rangoon.

      Toàn bộ kế hoạch của gia đình tan vỡ sau cái chết của tử tước Sainte-Hermine. Họ đành phải chấp nhận kế hoạch khác.

      Cả hai vô cùng đau khổ trước biến cố bất ngờ vừa xảy đến nên họ thể quyết định phải thực dự định nào. Chính vì lẽ đó họ thấy hạnh phúc khi gặp được chàng trai trẻ mang đến cho họ thứ tình cảm em đúng lúc họ thiếu tình cảm của người cha.

      Nhờ thời tiết thuận lợi, nên tàu của thuyền trưởng Surcouf từ Rio -Janeiro đến Mũi Hảo Vọng, chặng đường vượt đại dương từ châu lục này sang châu lục khác có lẽ chỉ như chuyến dạo. Dần dần, tình cảm thân thiết hình thành giữa ba con người trẻ tuổi trong mãn nguyện của Hélène. thấy René duyên dáng, hy vọng sau khi hội ngộ cùng vị hôn phu của mình, Jane nhanh chóng tìm được ý trung nhân của .

      Cả hai chị em đều giỏi nhạc nhưng từ lúc cha họ qua đời, ai dám động đến phần dương cầm. Các thường nghe những khúc hát của các thủy thủ cất lên lan toả tàu và dường như nhờ cánh gió để đưa đến cái đích nào đó.

      đêm, phải là đêm như Chateaubriand tả về bóng tối mịt mùng mà chỉ là đêm thiếu vắng ánh sáng, giọng hát tươi rói cất lên từ khoang đuôi hát bài hát miền Bretagne rất bi ai. Ngay khi thanh đầu tiên cất lên, Hélène đặt tay mình lên cánh tay René ra hiệu cho im lặng đó là câu chuyện về thiếu nữ, dưới thời kỳ kinh hoàng, cứu đức ông trong làng bằng cách dẫn ta lên tàu , nhưng chưa kịp "hãy trốn …” quân lính đuổi kịp. bị trúng phát đạn rồi chết ngay tay người khi bản tình ca buồn bã ấy kết thúc, hai nước mắt lưng tròng xin René hỏi xem người nào vừa hát. Nhưng chàng trai đáp cần. cho là biết lời, và phần nhạc chỉ cần cây dương cầm, tờ giấy có dòng kẻ và cây bút là có thể chép lại Thế là họ vào phòng Hélène. René ôm đầu trong hai bàn tay nhớ lại những kỷ niệm của mình giây lát và bắt đầu viết. Rất nhanh, ghi lại bài hát từ đầu đến cuối rồi đặt nó lên bục đàn dương cầm và bắt đầu cất giọng biểu cảm hơn người thủy thủ nọ và ca từ còn có hiệu quả hay hơn nữa.

      Trong phần điệp khúc đoạn đầu tiên, René rất tâm trạng thể câu:
      Tôi nàng!
      Tôi nàng!
      Dẫu sao tôi vẫn nàng
      khiến người ta có cảm giác như về câu chuyện của chính mình và vẻ đượm buồn quen thuộc lại xuất như thế chính người tình của rất hay bao giờ gặp lại nữa.

      Giọng đau đớn vang lên làm rung động con tim hai thiếu nữ, đánh thức những sợi dây tình cảm dịu dàng nhất, sâu sắc nhất nối họ với cảm xúc của .

      Đồng hồ tàu chỉ hai giờ đêm, René mới trở về phòng.

    2. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 59: Đảo Pháp

      Năm giờ sáng hôm đó, thủy thủ đứng gác thông báo: "Đất liền!" Người ta nhìn thấy đỉnh núi Table.

      Suốt ngày hôm đó, gió thuận khiến các con tàu chạy với vận tốc mười hai mười ba dặm giờ. Người ta vượt qua mũi Hải Vọng. Đến mũi Anguilles đuôi tàu bị cơn gió mạnh đẩy nhanh đến về phía đông và ngay hôm đó, họ nhận ra đỉnh núi tuyết.

      Đảo Maurice, thời đó vẫn mang tên là đảo Pháp là nơi duy nhất các tàu Pháp có thể lưu trú Ấn Độ Dương.
      Vào năm 1505, Emmanuel, vua Bồ Đào Nha quyết định lập phó vương quản lý vùng bở biển Ấn Độ. Vị trí này về sau giao cho François d Almeida, người này bị sát hại năm năm sau gần mũi Hảo Vọng do bàn tay của những người Hottentots lúc ông muốn qua châu Âu.
      Ngay những năm đầu cai trị của Almeida, khi Pedro Mascarenhas phát ra đảo Pháp và đảo Bourbon (Đảo Réunion), người ta nhớ ra rằng người Bồ Đào Nha hề đặt cơ sở nào các đảo này. Trong suốt thời kỳ họ làm chủ, tức là trong suốt thế kỷ XVI nguồn lợi duy nhất thiên nhiên ban tặng cho đảo thu hút các khách lạ đến thăm là vài bầy dê, khỉ và lợn mà những người này thả đảo. Đến năm 1598, hòn đảo bị bỏ hoang rơi vào tay người Hà Lan.
      Nước Bồ Đào Nha chuyển sang thời trị vì của vua Philippe Đệ nhị, những người Bồ Đào Nha sống lưu vong ồ ạt di cư sang Ấn Độ. Bị coi như bị tước mất tổ quốc mẹ hiền, số trở thành người tự do, số khác làm nghề cướp biển và có liên hệ hay phục vụ gì cho triều đình.
      Hồi năm 1595, Comélius Houtman từng đặt nền móng cho phát triển nơi đây. Dần dần, người Hà Lan tiến hành chinh phục các khu đảo Ấn Độ Dương trong đó có đảo Cerné và Mascaret.

      Đô đốc Van Nock là người đầu tiên đến đảo Cerné năm 1598, khi đó nơi này vẫn chưa có dân cư sinh sống. Chuyến tàu buồm cũng rời Texel ngày 1 tháng Năm năm 1600 dưới chỉ huy của đô đốc hải quân Jacques-Comélius và kỳ hạn đó mang tên ông. Đô đốc còn được gọi là Maurice và sau này ông đặt tên đó cho đảo Cerné. Người Hà Lan chỉ biết tên đảo chứ chưa đến. Sau đó, họ hạ hai xà lan vào bờ để xem xét. chiếc vào rất sâu và phát được cảng lớn có độ sâu tuyệt vời, nó có thể chứa năm mươi kỳ hạm. Buổi tối, các thủy thủ trở lại tàu độ đốc mang về rất nhiều chìm lớn và vô số chim . Ngoài ra họ còn phát dòng sông chứa nước ngọt chảy từ đỉnh núi xuống.
      Tuy thế, đô đốc còn biết đảo này có người sinh sống hay chưa, mặt khác, ông cũng có thời gian thám thính bởi lẽ tàu có rất nhiều bệnh nhân. Ông đành cho tàu cập vào vị trí thuận lợi để tránh bị tấn công bất ngờ.

      Trong nhiều ngày liên tiếp, ông cho các xà lan vào thăm dò các phần khác nhau đảo và xem đó có ai sống hay , những các tốp người về đều kể lại chỉ gặp những con thú tứ chi chạy trốn trước họ, những con chim vốn biết quá ít nguy hiểm nên đứng in chẳng sợ bị bắt. Tuy nhiên, có mảnh ván cầu, cột buồm phụ đó minh chứng cho vài thảm hoạ thiên nhiên ập xuống khu vực quanh đảo Cerné.
      Điều khiến hòn đảo này trở thành trong nhũng nơi kỳ thú đẹp đẽ nhất mà người ta có thể thấy là diện các đỉnh núi quanh tất cả các bờ biển. Núi nào cũng dày đặc các loại cây xanh chằng chịt, có cây tuyết phủ quanh năm các cành. Mặt đất sỏi đá cũng phủ lớp rừng rậm đến độ tạo được đường . Người ta nhận ra ở đó có nhiều loại cây đen giống như các cây gỗ mun đẹp nhất, nhiều loại cây có màu đỏ sặc sỡ, nhiều loại có màu vàng sậm như màu xi, những cây cọ nhiều vô kể xoè bóng mát gọi mời, lõi của nó ăn ngon như củ cải và có thể ăn cùng với nước sốt mà người ta ăn với loại rau đó. Chất gỗ mọc đảo cũng rất tốt nên các thủy thủ có thể dựng lều thuận tiện cộng với khí trong lành khiến các bệnh nhân mau khoẻ trở lại. Mặt khác, biển ở đây có rất nhiều cá. Chỉ mẻ lưới người ta có thể thu về hàng ngàn con. hôm, người ta bắt được con cá đuối lớn đến mức có thể làm thức ăn cho cả thủy thủ đoàn.
      Những con rùa ở đây to đến độ, vào ngày giông, người ta tìm được sáu người đàn ông nấp dưới cái mai.

      Chỉ huy tàu ra lệnh đóng tấm ván lên cái cây, đó ông cho khắc tên quân đội Hà Lan, Zélande và Amsterdam, kèm dòng chữ bằng tiếng Bồ Đào Nha Christianos Refomlados. Sau đó, ông còn cho dựng hàng rào, cho trồng các loại rau khác nhau để thử đất cũng để lại đó số gia cầm để các tàu dừng chân hòn đảo xinh đẹp này về sau có được những thực phẩm phong phú ngài nguồn thực phẩm bản địa.

      Ngày 12 tháng Tám năm 1601, Hermansen cho người lên đảo Maurice để lấy nước và thực phẩm thiếu tàu.
      Có lẽ vào năm 1606, người Hà Lan đến thăm đảo Pháp nhưng trước năm 1644, họ chưa xây dựng gì ở đây. khó xác định ai là người đặt cơ sở đầu tiên đảo, có lẽ đó là những cướp biển hoành hành Ấn Độ Dương vào thế kỷ thứ XVI.

      Tất cả những gì chúng ta biết, đó là vào năm 1648, Van der Master trở thành đảo trưởng đảo Maurice. Tiếp đó là Leguat và ngài Lameocius trở thành chúa đảo khi ông Leguat đến đảo Rodngues. Cuối cùng vào năm 1690, Rodolphe Déodoti từ Genève chiếm vị trí này nhân chuyến trở về từ đảo Rodngues
      Từ năm 1693 đến năm 1696, vài người Pháp mệt mỏi với khí Madagascar dẫn vợ là người da vàng và da đen đến Mascarenhas. Flacourt chiếm hòn đảo này nhân danh đức vua và treo cờ Pháp lên đúng vị trí lá cờ Bồ Đào Nha từng bay trước đó. Flacourt đặt tên cho đảo là đảo Bourbon mà nó còn giữ đến ngày nay. Ông ta để chốn đất mới này vài cặp vợ chồng và tiếp tục chỉ huy họ dưới cái tên Payen. Những cư dân mới tìm thấy ở đây mảnh đất màu mỡ và họ cấy trồng rất hăng say.
      Ban đầu họ sống bằng cá, gạo, rùa, các loại rau nhưng về sau biết nuôi các loại gia súc gia cầm nên cuộc sống của họ bình yên và địu ngọt như mảnh thiên đàng rớt xuống trái đất.
      Có bốn gã cướp biển người là Avery, England, Condon và Patisson, sau khi kiếm được vô số tài sản biển đó, bờ biển A Rập và Ba Tư, họ lập tại đây phần đoàn thủy thủ của mình.
      Vua Pháp kết tội họ và trong số những kẻ thám hiểm đó còn sống đến năm 1763 trong khi triều đình Bourbon hãnh diện về lần đặt tên mới cho đảo Bourbon thúc đẩy nó phát triển Maurice trong tay người Hà Lan lại dậm chân tại chỗ.

      Ngày 15 tháng Giêng năm 1715, thuyền trưởng tàu Dufresne nhân lúc người Hà Lan sẵn sàng bỏ đảo Maurice, cho khoảng ba mươi người Pháp lên đây và đặt lại tên cho đảo này là đảo Pháp. Trước vẻ thịnh vượng của hai hòn đảo, tiện lợi của cảng biển, đất đai phì nhiêu, khí trong lành nảy ra trong ông ý tưởng biến nơi này thành thuộc địa . Ngài Bauvillier, vào năm 1721 có hiệp sĩ Gamier de Fougeray, tức thuyền trưởng tàu Triton đến đó, người này lãnh đạo nó từ ngày 23 tháng Chín nhân danh Vua nước Pháp và cho chôn cột buồm cao bốn mươi dặm đó treo lá cờ trắng cùng dòng chữ la tinh.

      Ngày 28 tháng Tám năm 1726 ông Dumas sống đảo Bourbon được bổ nhiệm quản lý cả hai đảo. Sau này, việc quản lý lại bị chia cắt và ông Maupin được giao quản lý đảo Pháp.

      Nhưng người thành lập và thực thi luật đảo lại là ngài Mahé de La Bourdonnais. Vừa đến miền đất mới, ông nhận ra toà án bên đảo Pháp phụ thuộc vào đảo Bourbon, ông bèn gửi chứng thư tuyên bố quyền tương đương đảo Pháp với đảo lân cận về tất cả những gì liên quan đến luật tội phạm.

      Dẫu vậy trong suốt mời năm cầm quyền của ngài Bourdonnais, cái quyền bình đẳng ấy chẳng được sử dụng đến bởi lẽ đảo Pháp chẳng hề có vụ án nào. Thảm hoạ duy nhất làm Maurice tổn thất là việc ra của người lai da đen vàng. Ngài Bourdonnais cho thành lập đội quản hạt bao gồm những người da đen thực thi những gì áp đặt đối với những người da đen bướng bỉnh. Ông cho trồng mía đảo Pháp và thành lập tại đây những xưởng bông và công việc sản xuất này có đầu tiêu thụ là Surate, Moka, Ba Tư và châu Âu.

      Những cơ sở sản xuất đường do ngài Bourdonnais thành lập khoảng năm 1735, sau mười lăm năm tạo ra khoản sáu nghìn phăng mỗi năm. Ông cho nhập cây sắn từ Braxin và Santiago về nhưng người dân nơi đây tỏ ra có ác cảm với loại sản phẩm mới này. Thế là ông buộc phải ra đạo luật buộc mỗi người dân, mỗi nô lệ đều phải trồng sắn trong ba trăm bộ vuông. Ngài Bourdonnais bắt đầu tất cả ở đảo Pháp, chính ông là người xây dựng những con đường giao thông, cho chở đá trải đến tận cảng, cho xây dựng nhà cửa ven cảng, chính ông cho xây các xưởng chế tạo vũ khí, các ụ pháo, lâu đài, cối xay, nhà ga, văn phòng, cửa hàng và chiếc cầu máng dài ba trăm toa dẫn nước ngọt đến cảng đến những bệnh viện bên bờ biển. Trước khi có ông, dân chúng đảo Pháp hoàn toàn biết gì về đóng tàu đến nỗi có vài kẻ giàu có đến đảo bằng tàu đánh cá, đều bị buộc để lại cảng. Ông khuyến khích người dân giúp mình tạo ra ngành hàng hải trong đó, đảo cung cấp gỗ. Người ta cho chặt lượng gỗ lớn trong rừng, đẽo gọt thành hình cần thiết, ngay tại chỗ. Trong vòng hai năm, người ta lượng gỗ đáng kể chuẩn bị bắt đầu công việc.
      Vào năm 1737, ngài Bourdonnais cho người thực việc đóng tàu ông cho làm những ca nô và xà lan lớn để vận chuyển vật liệu. Cuối cùng, ông dựng được tàu đánh cá lớn rất tuyệt vời. Năm sau, ông cho đóng hai con tàu khác và thực trong xưởng con tàu 500 tấn.
      Những việc ông làm thuận lợi đến nỗi những kẻ ghen ghét để ông yên. Thế là ông trở về Paris với dự định tự bào chữa.

      việc trở nên dễ dàng, ông xua tan bóng mây đen đè lên tiếng tăm của mình. Vì chuẩn bị tinh thần cắt đứt với người và Hà Lan trong tương lai, ông lập kế hoạch trang bị vũ khí cho lượng tàu nhất định để tấn công việc buôn bán của hai kẻ thù hùng mạnh này. Tuy nhiên, dù được chuẩn y nhưng kế hoạch đó được thực và ông phải trở về Paris năm 1741 với nhiệm vụ đặc biệt để chỉ huy chiến hạm Mars, chiến hạm của nhà vua.
      Hoà bình lập lại năm 1742, ngài Bourdonnais tiếp tục trở về đảo Pháp lần nữa, những lời tố cáo buộc ông quay về Paris.

      Lần này ông gặp ngài Poivre ở Pondichery. Con người này mang về Pháp hạt tiêu, quế và nhiều loại cây gỗ có vân. Chính ngài Poivre này vào năm 1766 được công tước Choiseul bổ nhiệm quản lý cả hai đảo đảo Pháp và đảo Bourbon. Ông cho trồng tại đây cây rima hay còn gọi là cây bánh mỳ đảo Société ông còn thành công trong việc đưa vào trồng tại hai đảo các loại cây quế hạt tiêu và cây đinh hương. Ngày nay, đảo Bourbon còn thu hoạch bốn trăm nghìn đinh hương được châu Á thừa nhận có chất lượng hơn ở Moluques.

      Sau những chuỗi thành công của các quản hạt người đặt tảng đá xây dựng nền móng chốn thuộc địa mỹ lệ này, đến lượt tướng Decaen tiếp nhận hòn đảo từ tay ngài Magallon-Lamorìière trong thời kỳ đảo mức hưng thịnh nhất.

      Chỉ có điều song song với việc nhận hòn đảo ấy, cuộc chiến với nước lại bùng nổ. Từ khi cuộc chiến bắt đầu, như chúng tôi , đảo Réunion và đảo Pháp là nơi cư trú duy nhất cho các tàu Pháp trong Ấn Độ Dương. Đó cũng là nơi các thuyền trưởng Surcouf, nhà Hermitte, Dutertre đến bán chiếm lợi phẩm hay sửa chữa tàu thuyền. Do đó, hiếm khi người ta thấy vài tàu ngang qua đây chờ tàu cướp biển để lấy lại tài sản của họ.
      Thuyền trưởng Surcouf ngạc nhiên chạy lên boong tàu Revenant khi nghe tiếng hô "Đất liền" ông leo hẳn lên thanh buồm vẹt và thấy mặt biển thông từ cảng Savanne đến mũi Quatre-Cocos.
      Chỉ có điều ông biết liệu có tàu nào nấp trong đất liền lao ra từ bờ vịnh Tortue và vịnh Tamarin hay .

      Thuyền trưởng Surcouf từng đặt chân đến Địa đàng Ấn Độ này, theo cách của pháp quan Suffren, nhận ra đảo Pháp ngay qua làn hơi nước bao phủ quanh năm hòn đảo xanh tươi, rặng núi Créoles ( Créole là tên của những người sanh trưởng ở tại các quần đảo Maurice hay đảo Réunion) và chúng con kênh từ cảng lớn kéo đến dãy núi Bambous.

      Khi người ta đến đảo Pháp chỉ để neo đậu, lấy lương thực, nước ngọt đôi khi người ta lưỡng lự biết chọn cảng Lớn hay cảng Louis. Còn nếu người ta đến đây với mục đích như Surcouf tức là sửa chữa tàu hay bán chiến lợi phẩm cần phải băn khoăn. Lối vào cảng lớn rất dễ dàng do có luồng gió mạch uốn cong các cây đảo, từ đông sang tây giống như gió mùa Mistral (Ở các đảo này thường hay bị bảo Mistral tàn phá hằng năm) bẻ cây cối của chúng ta ở miền nam. Loại gió này ngự trị suốt chín tháng trong năm và các tàu thuyền vào cảng dễ còn khi ra nếu có gió thể ra được.

      Thuyền trưởng Surcouf sau khi nhận thấy biển thông thoáng, ông định hướng mũi Pointe-Du-Diable, quay đầu lên đông bắc để tránh bãi ngầm, bỏ lại sau lưng những đồng cỏ xa van, bên trái là dãy núi Blanches, mỏm núi Faience và toàn bộ tảng Flacq.

      Các con tàu đều buông neo tại Pavillon để nhận chào đón và kiểm tra y tế theo tín hiệu. Việc cho phép vào cảng được chuẩn bị theo thủ tục tự do, thông thường có nhiều thuyền mang hoa quả và đủ loại sản phẩm tươi. Sau các thủ tục, Surcouf được chào đón, cho phép tiếp để buông neo ở Chien-Au-Plomb, nhưng trước khi đến đó, tên của ông được những người chèo thuyền truyền từ thuyền này sang thuyền khác, nó đánh thức trong họ những hồi ức đẹp nhất về tổ quốc, thế là những tiếng hò reo vui sướng và những tràng pháo tay rộ lên chào đón tàu Standard, RevenantTay đua New York.

    3. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 60: Những ngày đảo


      Việc neo đậu trở nên rất dễ dàng đảo Pháp. Phía cuối cảng sâu dặm, người ta có thể cho tàu vào, dễ như bước dòng nước , bãi đậu Chien-Australia-Plomb bên bờ, được chục bước, người ta gặp quảng trường Gouvemement. Qua những cánh cửa cung điện, bỏ lại phía bên phải toà nhà Quản lý cùng những hàng cây tuyệt đẹp, duy nhất có đảo là ta tiến về phía phố Champs de Mars, con phố chính, trước khi đến nhà thờ, đối diện với nhà hát, người ta gặp khách sạn dành cho người nước ngoài.

      Đoàn người đứng trước cửa khách sạn bao gồm thuyền trưởng Surcouf khoác tay tiểu thư Hélène de Sainte-Hermine, René tiếp sau khoác tay Jane và cuối cùng là Bléas và vài sĩ quan: Phân hạng nhất trong khách sạn được chọn cho hai , sau đó hai đến tiệm may để cắt trang phục. Cảm giác mất mát trong hai luôn hữu. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh tại diện của chàng René đáng mến, câu chuyện rất bổ ích và lý thú của khiến vết thương lòng của các khỏi được nhưng cũng bớt phần đau đớn.

      Khi René hỏi họ định làm gì các trả lời họ đâu trong tang phục. Chừng nào còn ở tàu, việc để tang đối với họ hẳn là tối cần thiết nhưng trong thành phố, họ thấy xấu hổ khi ra ngoài trong bộ quần áo thể diễn tả được tiếc thương và đau buồn của họ. Tuy thế, các vẫn tuyên bố cuộc chơi đầu tiên của họ là Pamplemousses.

      Có lẽ khi nghe đến cái tên Pamplemousses, người ta cũng đoán được đó là chuyến hành hương đến những túp lều của Paul và Virginie. Cuốn tiểu thuyết của Bemardin de Saint - Pierre, mối diễm tình thi vị giống như trong Daphnis và Chloé dịch sang tiếng Hy Lạp, dù vào thời đó nó được xuất bản từ mười lăm năm song vẫn còn in đậm trong tâm trí hai trẻ.

      Đó là tác phẩm để lại dấu ấn trong toàn xã hội. Người mê cuồng, kẻ ghét thậm tệ. Đó là trong những vấn đề tình cảm khiến người ta sẵn sàng tranh cãi cũng giống như vấn đề về quyền lợi. Như ta biết, sau ấn tượng của tác phẩm Paul và Virginie để lại trong phòng tiếp của phu nhân Necker, Bemardin de Saint-Pierre nghi ngờ chính tài năng của mình đến độ ông cho in cuốn sách của ông. Ngài Buffon thấy tẻ ngắt, ngài Necker ngáp dài còn ngài Thomas thiu thiu ngủ khi đọc nó.

      Vậy là ông quyết định cho in cuốn Paul và Virginie nữa. Hai đứa con tinh thần của mình bị bỏ rơi là điều rất đau khổ với ông nhưng vào ngày ông quyết định đốt cuốn bản thảo viết tay mà diện của nó chỉ gợi lên nỗi thất vọng cay đắng nhấn chìm ông cách tàn bạo nhất.
      lưỡng lự khi đưa bản thảo bị kết án bởi những bộ óc siêu phàm thời kỳ ấy Joseph Vernet, hoạ sĩ chuyên vẽ biển đến thăm ông, thấy ông có vẻ ủ ê mới hỏi căn nguyên nỗi buồn là gì.
      Bemardin kể lại chuyện cho bạn nghe và trước lời nài nỉ của bạn, ông quyết định đọc lần cuối cho bạn nghe.
      Vernet chăm chú lắng nghe biểu lộ đồng tình hay phản đối. Ông giữ im lặng đáng lo ngại ấy đến phút cuối. Về phần mình, càng đọc, Bemardin càng thấy trái tim xốn xang, giọng run lên. Sau lời cuối cùng, ông ngước mắt lên nhìn vị phán quan chờ đợi.
      - Thế nào? Bemardin hỏi.
      - Thế đấy bạn của tôi - Vernet ôm ông vào lòng - Đơn giản là bạn tạo nên kiệt tác!
      Vernet đánh giá tác phẩm phải bằng các kỹ thuật viết lách, bằng tầm suy nghĩ mà cảm nhận bằng trái tim. Ông đoán đúng và đồng ý với phần kết thúc.

      Từ đó có hai tiểu thuyết khác, với phong cách loè loẹt hơn, và bằng trường phái ồn ào hơn muốn lấn lướt thành công lớn lao của Paul và Virginie đó là tài năng khác nhưng đó là thứ tài năng khác với tác phẩm của Bemardin, đó là RenéAtala.

      RenéAtala cũng tạo được chỗ đứng nhưng chỗ đứng của Paul và Virginie hề bị đánh đổ.

      Thế đó! Chính mảnh đất diễn ra câu chuyện đơn giản ấy lại là nơi các tiểu thư Sainte-Hermine muốn thăm đầu tiên. Chị thợ may hứa đồ tang xong vào ngày mai nên ngày kia có lẽ hai chị em mới hoàn thành chuyến hành hương thiêng liêng ấy được.

      chàng René dùng mọi cách mời hai thiếu nữ tham gia vào chuyến dã ngoại ở nông thôn, nó khác gì những chuyến dạo thanh lãm nhất ở rừng Fontainebleau hay ở Marly.

      René mua cho mình con ngựa, thuê cho Bléas và Surcouf hai con đẹp nhất, sau đó, nhờ ông chủ khách sạn thuê hai mươi nô lệ da đen, tám người chèo thuyền, mười hai người mang thực phẩm họ phải ăn tối bên bờ sông Latanlers và ngay từ hôm trước, René cho chuẩn bị bàn, đồ vải và ghế.
      chiếc thuyền đánh cá rất đẹp dùng để chuyên chở tất cả vật dụng chở những ai thích câu hơn săn. Về phần René, vì chưa biết mình tham gia hoạt động nào nên chỉ mang cây súng vắt chéo qua vai và chờ xem hai thiếu nữ làm gì mình làm theo.

      Ngày dạo đến, hôm ấy trời đẹp như mọi ngày, sáu giờ sáng để bị nắng, mọi người tập trung tại phòng dưới của khách sạn Khách sạn cho người nước ngoài.
      Kiệu và phu khuân vác chờ sẵn họ dưới phố, cạnh đó còn có ba con ngựa, bốn người da đen đội những chiến giỏ lớn đựng đầy thực phẩm, tám người khác sẵn sàng thay phiên họ. René để cho ngài Surcouf và Bléas chọn ngựa. Vốn là những ky sĩ tầm thường giống như phần lớn các thủy thủ, họ chỉ chú ý chọn con nào thuần mà thôi. Bléas vốn cũng khá về đua ngựa muốn trả thù René về vẻ vượt trội của mọi phương diện nhưng con ngựa của René, khi để ông chủ trèo lên yên, nó đâu dễ để ai qua mặt.

      Những chuyến dạo như vậy, vốn thường thấy đảo Pháp, nhưng lần này nó có vẻ rất đặc biệt vì thời đó, đường rất khó nên phụ nữ luôn ngồi kiệu và đàn ông ngựa. Về những người da đen, họ hầu như ở trần, với những ngày đại lễ, họ mặc thứ dạng áo dài xanh lơ giống như chiếc quần tắm trùm xuống tận đầu gối. Tám người khiêng kiệu bằng những đòn vai, tay cầm chiếc gậy lớn để giữ thăng bằng. Bốn người vừa mang thực phẩm bước theo sau vừa ngâm nga nhịp bài hát của người da trắng có giai điệu buồn buồn hơn là vui.

      Hai bên đường, khung cảnh rất đẹp. Bên phải là dãy núi Polt chạy theo hướng đông bắc và giảm dần độ cao, ban đầu là đỉnh Pouce mà ai dám leo lên, rồi đến đỉnh Pretres với quang cảnh đẹp như cao nguyên gồ ghề treo lơ lửng trong trung Vẻ xanh ngút ngàn nhìn mát mắt lắm. Suốt dọc đường , người ta gặp những người da màu. Qua sông Lataniers là đến miền đất đỏ. Đâu đâu cũng có những bụi tre rậm rịt, những dải rừng đen kịt và những cây lý thơm.

      Mộ của Paul và Virginie do tu sĩ già trông coi, ông biến nó thành thiên đường của hoa và cây xanh.
      Chỗ nào đường cũng có những đàn vẹt màu sác sặc sỡ, những con khỉ đu từ cành này sang cành khác, những con thỏ rừng nhiều vô kể đảo mà muốn bắt người ta chỉ cần lấy cây gậy kều xuống là được, những con chim ngói bay lượn và những mảnh sò bé tí xíu.
      Cuối cùng, mọi người cũng đến được mảnh đất có bàn tay người cấy trồng ngày xưa, nơi còn có hai túp lều tí lụp xụp.
      Giữa cánh đồng lúa mì, ngô, khoai lang mà người ta trồng trước đây giờ chỉ thấy thảm hoa rộng lớn, thỉnh thoảng có những gò nhô lên đội những mảng hoa màu sắc rực rỡ giống như những hương án và những điện thờ.

      Chỉ lối mở lên hướng bắc cho thấy bên trái là đỉnh núi Découverte, từ đó người ta báo hiệu cho các tàu cập vào đảo. Nhà thờ Pamplemousse có gác chuông thấp thoáng giữa những răng tre mọc so le cách tuyệt đẹp ở giữa cánh đồng lớn. Xa xa là cánh rừng trải rộng đến đầu kia của đảo. Trước mặt bờ biển, người ta cũng nhận ra vịnh Hầm Mộ, chếch chút về bên phải là mũi Bất Hạnh. Từ chỗ đó ra giữa biển thỉnh thoảng có vài đảo có người sống. Mũi Ngắm nhô lên như thành trì nằm giữa quần đảo . Nơi đầu tiên khiến mọi người vội vã thăm là tảng đá nằm mộ Paul và Virginie. Mỗi người thầm cầu nguyện điều trước bức điêu khắc ấy, riêng hai cứ lưu luyến mãi quyết định rời được. Những người đàn ông ít sùng bái những ký ức thi vị hơn lại chú ý đến lượm những con mồi đảo và chuẩn bị săn. vài người khuân vác làm nhiệm vụ dẫn đường cho họ và cũng thoả thuận sau giờ tất cả tập trung về gần sông Lataniers để ăn trưa.
      Riêng René ở lại để chăm sóc hai thiếu nữ. Jane mang cuốn sách của Bemardin de Saint -Pierre và chính nấm mộ nhân vật René đọc ba bốn chương trong quyển sách đó.

      Mặt trời bắt đầu toả sức nóng buộc hai thiếu nữ và kỵ sĩ của họ rời vịnh, có bóng cây nào giúp họ thấy mát cả.
      Do quá bận tâm về mục đích của chuyến nên khi đến các du khách của chúng ta ít chú ý đến việc ngắm nhìn cảnh trí. người từng chu du đó đây ở Arménie, đột nhiên nhận ra thiên đường đánh mất cũng ngạc nhiên cách ngọt ngào như việc lần đầu lang thang trong chốn tuyệt diệu của Pamplemousse. Tất cả đều gợi lên niềm hứng khởi cho ba con người trẻ tuổi. Lần đầu tiên họ được thấy những cánh đồng mía với những thân cây nhiều đốt cao đến chức mười bộ, những chiếc lá dài hẹp khua trong gió.

      Gần những cánh đồng mía là những cánh đồng cà phê mà hạt của chúng, theo phu nhân Sévigné, như những tác phẩm của Racine, thứ từng làm nên từ trăm bảy mươi hai năm cái vị thèm muốn cho châu Âu, như từ hai trăm năm trước Racine làm nên cái vị trí tuệ cho tất cả các tài tử thi ca vậy. Điều khiến ba người ngưỡng mộ nhất có lẽ là món quà thiên nhiên ban tặng treo lơ lửng các cây ăn quả. Quả , họ chỉ cần với tay là hái được những trái hạnh, lê và roi. Từ xa, họ thấy toán người bên bờ sông Lataniers, đó là những người bày đồ ăn. Chưa bao giờ đồ uống lại ngon như ba ly nước múc từ dòng sông Lataniers.

      Các thợ săn vẫn chưa trở lại, nhưng mười phút sau, mấy tiếng súng vang lên gần đó báo hiệu họ trở về. Dù vẫn chưa đến mười giờ sáng nhưng trong khí mát mẻ và trong lành ấy, các du khách của chúng ta ai nấy đều đói.
      Bàn ăn được bày ra vô cùng hấp dẫn. Các thủy thủ tàu lặn xuống biển và bắt được rất nhiều loại có mai trong đó có loại sò huyết bày biện rất bắt mắt. Những cành cây trìu quả cũng được xếp bên cạnh bàn ăn.

      Ông chủ khách sạn dành cho người nước ngoài chịu trách nhiệm chuẩn bị bữa ăn tối hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thiêng liêng của mình. Ông ta cho mang đến nửa con cừu, phần tư con nai con… những con tôm hùm tươi rói.
      Nhưng chai rượu vang hảo hạng nhất đảo tươi mát như lấy từ hố sâu nhất trong dòng sông Lataniers vậy.
      Những tay thợ săn trở về mang theo con hơn non, đôi ba con thỏ rừng và gà lôi cùng những con chim cực ngon. Đám đầu bếp để dành chỗ thực phẩm tươi đó cho bữa tối vì tất cả du khách thấy ở đây thoải mái quá nên đồng thanh bảo nhau Chúng ta hãy ở lại đây cả ngày thôi! "

      Lời đề nghị ấy vấp phải phản đối nào, họ quyết định nghỉ ngơi dưới bóng mát của cây cối và bên dòng sông đến hai giờ sau đó lên ngựa thăm bờ biển nơi Saint-Geran từng lẩn trốn. Như vậy, chuyến hành hương của họ trọn vẹn. Họ thăm nơi ra đời, nơi lẩn trốn và nơi yên nghỉ. Chưa bao giờ René và những người bạn đồng hành lại được nếm các loại trái cây vừa nhiều vừa đa dạng mà ở châu Âu chưa từng có như vậy. tò mò cộng với ngon miệng níu họ ở lại bên bàn ăn đến tận hai giờ chiều.

      Vì họ để những người da đen cùng ăn thoả thê nên những người này hy vọng trong rộng rãi ấy được thưởng hậu vào buổi tối nên ai nấy đều có mặt đúng giờ để tiếp tục công việc của mình.

      Tất cả lên đường để lại đằng sau mô đất và những cây đu đủ. Khi qua khu rừng rậm , ở số chỗ, những người da đen phải lấy rìu để dọn lối .
      Những người đội hàng bước rất chuyển theo nhịp, con đường xấu như vậy mà kiệu hai hề lắc lư. Gần ba giờ chiều, họ đến vùng đối diện với đảo Long Diên Hương, hay đúng hơn là đối diện với lối mà Saint-Geran vào nấu đảo.

      Mặc dù có gì chứng tỏ có vụ thảm hoạ như Bemardin de Saint-Pierre dùng để cởi nút cao trào tác phẩm nhưng xúc động vẫn trào lên trong các du khách y như lúc họ ở gần ngôi mộ.
      Ai cũng nhìn chăm chú, tim đập rộn ràng như muốn hỏi các sĩ quan hải quân bằng cách nào thực được nhiệm vụ đột nhiên con tàu biến mất ở vị trí đó người ta nghe tiếng động lớn mặt biển bỗng rung động rất kỳ lạ.
      Chỉ lát sau, mọi chuyện được giải thích. Có hai con vật khổng lồ đánh nhau giữa muôn trùng sóng. Đó là con cá voi vừa chiến đấu với kẻ thù chết người của nó là con cá kiếm. Có thể hai đấu sĩ khổng lồ này đợi đúng thời điểm đoàn người đến để xung trận.

      Cuộc đấu kéo dài, ngoan cường và ác liệt từ cả hai phía. Con thủy quất to lớn như lao bổng người lên tạo thành khối giống như quả chuông đâm xuống. Nó phụt từ hai lỗ mũi hai cột nước rất cao nhưng dần dần nó phun nước yếu hơn và vắt lên với quầng máu loang. Hai cột nước biến thành màu hồng chứng tỏ chiến thắng sắp đến với con hơn. Với lợi thế gọn , con cá kiếm liên tiếp tấn công xung quanh con cá voi, chọc cái lưỡi kiếm vào hai bên sườn và để đối thủ nghỉ ngơi tí nào. Cuối cùng, bằng nỗ lực dốc toàn sức, con cá voi lao lên và thả mình rơi mạnh vào địch thủ, có lẽ nó làm con cá kiếm chết bẹp vì thấy con này đâu nữa. Về phần con cá voi, sau vài cơn co giật nó dần cứng đờ và thở hắt ra kèm theo tiếng kêu giống như tiếng kêu của người.

    4. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 61: Trở về


      người tên là Leconte de Lisle mà nghe Viện Hàn Lâm cũng biết ông sống ở đảo Bourbon, đảo Pháp hay ở Ấn Độ, vẽ trong những vần thơ chuyến dài của thiếu phụ trong kiệu dưới nhan đề "La Manchi" như sau:

      Nàng như thế trong buổi sáng rất dịu,
      Từ miền sơn cước đến buổi đại lễ.
      Trong dáng điệu ngây thơ và tươi xuân hồng của nàng.
      Có bước chân đánh nhịp của những người Hindu.

      Cho dù độc giả tin những câu hát cùng bước chân đánh nhịp của phu kiệu này có liên quan đến những vần thơ của ngài Leconte de Lisle vẫn gì chán bằng những khúc hát dân dã ấy, gì kém êm ái hơn khí họ tận hưởng.

      Trong khung cảnh như ở thời nguyên thủy khi con người tập trung chỉ vào vài từ và thấy trong những từ ấy có vần điệu là họ nhắc nhắc lại mãi. Nó thoả mãn nhu cầu của trì não và nhu cầu của cơ quan cảm thụ nhạc. Chính vì lẽ đó, các phu kiệu của Hélène và Jane thay vì sáng tác những câu ca ngợi vẻ đẹp của các trẻ nước ngoài, thay vì khen mắt và mái tóc đen của Hélène, tóc vàng, mắt xanh của Jane lại chỉ hát khúc hát và kết thúc bằng lời than vãn giống như tiếng rên rỉ thốt ra từ kẻ làm bánh mỳ phải bóp nát chiếc bánh của mình. Khi đoạn đường sắp lên dốc họ hát:

      Người tình đến
      Khi lên dốc… ha!!!

      Còn nếu sắp xuống dốc, họ chỉ cần thay đổi lời điệp khúc:

      Người tình đến
      Khi xuống dốc… ha!!!

      Thỉnh thoảng, bốn phu kiệu khác lại thay thế cho những người mệt những người này lại hát bài hát đơn điệu và não ruột ấy cho đến khi họ đến nơi.

      Đôi khi có vài thi sĩ thất tình phải chia xa người dấu của minh gắng vượt qua ngưỡng thông thường của bài hát. ta thêm vài bốn câu đầu bốn câu thơ khác nữa. thi sĩ khác vẫn ở tình trạng thất tình như vậy lại nghĩ ra đoạn thơ thứ ba rồi thứ tư.

      Cứ như thế khúc rền rĩ của kẻ đầu tiên trở thành sản phẩm chung mà mọi người đều có thể thêm vào như thường ca của Homère. Thế là bài thơ ấy thay đổi trước đoạn, khi vui khi buồn, nó trở thành bài hát để nhảy và nhất nhất đều quay về điệu Bamboula, vũ điệu can can của người da đen.

      Thông thường khi chủ ăn đám nô lệ đến nhảy quanh bàn, thường bàn ăn có những thiếu nữ tuổi từ mười hai đến mười lăm, lứa tuổi này ở xứ thuộc địa tương đương với tuổi mười tám, đôi mươi ở châu Âu. Những thích thú các điệu nhảy ấy: chúng ra trước mắt như trước trái tim các nhưng khẩy động gì trong trí tưởng tượng của các cả.
      Đó cũng là điều xảy ra cho đoàn người của chúng ta khi họ trở lại bờ sông Lataniers để ăn tối, dàn nhạc, vòng tròn vây quanh bàn ăn, mỗi người da đen trở thành cây đàn với cành dây leo rậm rạp, gần giống như cây nho, chúng cháy càng mạnh khi còn tươi, chiếu sáng quầng rộng ba mươi bộ đủ chỗ cho việc hát hò và nhảy múa. Sau đó, phụ nữ da đen tiến vào giữa khoảng trống rỗng và bắt đầu hát rất ngây thơ, thậm chí quá ngây thơ bài hát:

      Nhảy điệu Callada
      Zizim boum boum
      Nhảy điệu Bamboula
      Luôn luôn như thế a!

      Tất cả đàn ông, phụ nữ da đen đều đồng thanh vừa hát vừa nhảy theo lời người đồng hành của họ vùa hát đơn ca khi chị ta ra hiệu, mọi người im lặng, chị ta lại hát mình tiếp đến đoạn điệp khúc tất cả lại đồng thanh:

      Nhảy điệu Callada
      Zizim boum boum
      Nhảy điệu Bamboula
      Luôn luôn như thế a!

      Rồi họ vào khoảng ông hoà lẫn vào nhau trong điệu nhảy.
      Đám đông trở nên nhốn nháo đến nỗi người ta phải giơ tay ra hiệu dừng lại thế là ai về vị trí người nấy, còn Bambou, người phục vụ của Surcouf tiếp tục hát bằng giọng của người đảo Martinique của ta:

      Zizim, trala la la la
      Zizim, trala la la
      Zizim, trala la la
      Bạn ơi, hãy đến nhảy điệu Bamboula
      Chúng cần làm việc
      Chẳng cần cuốc đất
      Chẳng cần đóng cọc
      Vì chồng bạn đâu nhìn được xa thế?

      Dù các đoạn lời do Bambou hát có người đặc ngữ Martinique dân da đen ở đảo Pháp cũng cần hiểu. Họ chỉ càng thêm hưng phấn, nhảy và hát nhiệt tình gấp đôi. Vài lần, René hiểu những lời đó và các cơ chỉ của họ, hỏi hai xem họ có muốn nghỉ hay , nhưng các thấy cảnh vui vẻ và lạ mắt nên muốn ở lại. Tuy nhiên, màn đêm buông nên René ra liệu cho người dắt ngựa và khiêng kiệu lại. Phụ nữ lên kiệu còn đàn ông lên ngựa trở về.

      Thế là cảnh tượng ai ngờ đến xảy ra kết thúc cho ngày tuyệt vời. Có hai, ba trăm người da đen cả đàn ông lẫn đàn bà, sau khi được thưởng con mồi do các tay thợ săn mang về để tỏ lòng biết ơn, họ đồng ý dẫn đường cho đoàn người. Họ chất những đoạn cây cháy quanh đoàn người trở về cảng Louis.

      còn gì tráng lệ hơn cái cảnh rừng rực chuyển động ấy, nó càng tiến lên càng chiếu rọi những mảng khung cảnh đẹp nhất đời. Những khung cảnh ấy thay đổi liên tục. Lúc là vùng đồng bằng điểm các lùm cây, khi lại là dãy núi che khuất tằm mắt, khi núi và rừng đột ngột giãn ra những chỗ cho mặt biển trải rộng vô tận, tĩnh lặng như tấm gương soi hắt lên ánh trăng bạc. Trước mặt những người cầm đuốc, đủ loại con mồi xuất như lươn, heo rừng, thỏ rừng,… thế là những tiếng hò reo vui sướng vang lên, những ánh đuốc tán ra quây lấy con vật nhưng con vật gấp gáp chạy luồn khiến các ánh đuốc nối nhau chạy theo như dòng suối lửa nhấp nhô. Khi con vật chạy mất hút các đốm lửa tập hợp lại trở về vị trí dân đầu đoàn người.

      Điều đáng tò mò nhất có lẽ là khi họ ngang qua khu cấm trại Malabar. Đảo Pháp là nơi hẹn gặp của tất cả các chủng người Ấn Độ nên thể thiếu người Malabar. Những cư dân sống lưu vong bên bờ biển Ấn Độ nằm vùng biển Oman tụ tập lại thành khu độc lập, sinh ra và chết ở đây chỉ có họ mà thôi, vài ngôi nhà của họ còn sáng ánh đèn nhưng tất cả các cửa lớn và cửa sổ đều mở toang, những khuôn mặt tựa màu ô liu rất đẹp của những người phụ nữ thấp thoáng ra bên ô cửa sổ. Tất cả họ đều mặc áo dài bằng lụa hay vải phin lanh, tay đeo vòng vàng hay bạc, ngón chân đeo nhẫn họ có dáng vẻ gợi đến những người phụ nữ La Mã và Hy Lạp với đường nét hài hoà khuôn mặt và chiếc áo dài trắng.

      Từ trại Malabar, người ta vào phố Paris từ phố Paris có thể thông sang phố Gouvemement nơi ông chủ khách sạn kính cẩn chào đón các vị khách của mình từ ngoài cửa.

      Hai thiếu nữ rất cần nghỉ, dù nhìn dáng điệu của kiệu rất nhàng nhưng với ai quen vẫn bị mệt. Hélène và Jane vội cáo từ René và cảm ơn về ngày tuyệt vời dành cho họ khi lên phòng, nét mặt của Hélène lại đượm buồn như cũ và quay sang Jane, với giọng buồn hơn là trách.
      - Jane này, chị nghĩ đến lúc cầu nguyện cho cha rồi.
      Nước mắt lại lăn xuống gò má Jane, lao vào vòng tay của chị rồi quỳ xuống cạnh giường, làm dấu thánh giá và thầm.
      - Ôi cha ơi, hãy tha thứ cho con!
      - Tại sao lại làm như vậy?
      Chắc chắn vì có tình cảm mới lạ vừa nảy sinh trong tim khiến tạm nghĩ đến cha mình.

    5. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 62: Con tàu "Tay đua New York"


      Hôm sau, khi trời vừa sáng René vào phòng thuyền trưởng Surcouf, khi ông này tuy thức những còn nằm giường.
      - Này bạn René thân mến của tôi - ông khi nhận ra - mời chúng tôi bữa ăn thảm cỏ và đó bữa tiệc. Tôi nhận lời mời tham dự bữa tiệc đó nhưng chúng tôi, tôi và Bléas quyết định cùng chia sẻ khoản chi phí với về chuyện dạo đó.
      - Thưa chỉ huy đáng mến - René đáp - Vừa hay tôi đến để xin ngài chuyện đây.
      - René thân mến, trừ khi chuyện này ngoài khả năng của tôi nếu tôi đồng ý trước cho cậu.
      - Vì lý do đặc biệt, tôi xin ngài cho phép tôi thám hiểm bờ biển Pégou. Ngài còn ở lại đảo Pháp nhiều tháng nên cho phép tôi nghỉ phép sáu tuần sau đó, tôi bắt kịp ngài dù ngài ở bất cứ nơi đâu.
      - Tôi hiểu rồi - Surcouf và cười - Tôi cho làm người bảo trợ cho hai xinh đẹp mà chúng ta chẳng may sát hại cha của họ, cậu muốn hoàn thành nhiệm vụ bảo trợ ấy đến cùng chứ gì.
      - Những điều ngài phải đúng, chỉ có điều, tôi đọc được ý nghĩ của ngài xa quá. Thưa ngài, thứ tình cảm tôi dành cho họ hoàn toàn phải là tình dẫn tôi thực chuyến này. Thưa chỉ huy, tôi quyết định việc ấy khi tôi mua con tàu kia. Tôi cũng biết chuyện gì xảy ra với tôi. Tôi muốn đến gần bờ biển Ấn Độ đến thế mà làm chuyện săn hổ hay voi thứ khiến con người ta có cảm giác tối cao trong đợi vì phải đối diện với cái chết: Tương tự như thế tôi đưa hai kẻ mồ côi về nhà của họ, tôi quan tâm đến họ mà ai hiểu lý do. Ngài đến tình thưa chỉ huy đáng mến, tuy tôi chưa đầy hai mươi sáu tuổi nhưng con tim tôi chết như thể tôi tám mươi tư tuổi rồi. Tôi bị kết tội phải giết chết thời gian, thuyền trưởng Surcouf ạ. Cho nên tôi muốn ít ra cũng phải giết thời gian cho những chuyện ra hồn. Con tim tôi chết trong tình , tôi muốn nó sống trong cảm xúc khác. Hãy để tôi tìm cảm giác ấy và hãy giúp tôi tìm thấy nó khi cho tôi nghỉ phép khoảng sáu tuần đến hai tháng.
      - Nhưng bằng gì? Bằng cái vỏ dừa của à?
      - Phải đó - René đáp - Ngài cũng thấy tôi mua tàu với tư cách là người Mỹ, tôi có giấy tờ đăng ký xuất xứ cho tàu, tôi tiếng giỏi đến nỗi người và người Mỹ nào nghĩ tôi ở London hay New York, người Mỹ giữ hoà bình với cả thế giới. Tôi dưới lá cờ Mỹ, người ta để tôi qua, hoặc nếu bị giữ lại, tôi chứng minh được lại tiếp. Ngài nghĩ sao?
      - Nhưng định đưa hai hành khách xinh đẹp của lên con tàu từng chở nô lệ da đen chứ?
      - Thưa chỉ huy, trong mười lăm ngày nữa, ngài nhận ra Tay đua New York bên ngoài thay đổi gì, nó chỉ thêm lớp sơn tốt. Nhưng bên trong, nhờ chất gỗ và loại vải tuyệt hảo mà tôi gặp hôm qua , nội thất tuyệt vời nếu ngài chấp thuận cho tôi nghỉ.
      - Lời đề nghị của được chấp nhận ngay từ đầu đó thôi - Surcouf đáp.
      - Nếu vậy, bây giờ chỉ xin ngài chỉ cho tôi ai là người tân trang tàu giỏi nhất mà ngài biết ở cảng Louis nữa thôi.
      - Việc của cũng là việc của tôi bạn trẻ ạ - Surcouf - nếu khoản chi phí cao hơn tưởng có thể sở dụng khoản tín dụng vô hạn của tôi.
      - Xin cảm ơn ý định tốt của ngài. Thưa chỉ huy, nếu ngài chỉ địa chỉ cho tôi, tôi dùng tiền của tôi cho tài khoản của ngài đầy tràn.
      - Ái chà, chắc là triệu phú - Surcouf thốt lên thể cưỡng lại được tò mò.
      - Hơn thế chút - René thủng thẳng đáp - còn bây giờ, nếu ngài khi nào ngài rảnh rỗi - René thêm và đứng dậy - Ngài muốn xem khoản tiền của tôi
      - Tôi muốn chứ, khẳng định với đấy, để xem nó nhiều đến chừng nào.
      - Vậy lúc nào ngài được?
      - Ngay bây giờ nếu muốn - Surcouf và nhảy xuống giường.
      Mười phút sau, hai người xuống phố lớn theo đường Chien & Plomb và vào nhà đóng tàu đầu tiên cảng Louis. Thuyền trường Surcouf thuộc cảng Louis cũng gần như ở Saint-Malo.
      - Ngài Surcouf thân mến đây mà! - Người đóng tàu reo lên.
      - Đúng thế ông Raimbaut ạ, tôi nghĩ tôi còn mang đến cho ông tin hữu dụng nữa kia.
      rồi ngài Surcouf chỉ cho người đóng tàu chiếc tàu của René đung đưa đối diện với Trou- Fanfaron.
      - Ông nhìn kìa, đó là chiếc tàu của người bạn của tôi. ta muốn tân trang lại nó, bên ngoài sơn lại cho mới còn bên trong sửa lại đẹp, tôi nghĩ đến ông và đưa cậu ấy đến cho ông.
      Người đóng tàu cảm ơn thuyền trưởng Surcouf, ra đưa tay che mắt ngắm con tàu.
      - Phải đến xem tận nơi mới - ông ta .
      - Chuyện ấy gì đơn giản hơn - René trả lời, rồi vẫy thủy thủ boong.
      - Này, mang ca nô lại đây Chiếc ca nô được thả xuống, hai thủy thủ tụt xuống theo và bơi đến chân Surcouf. Chỉ lát sau ba người lên chiếc ca nô ấy đến chỗ con tàu. Như thể ở tàu của mình, ngài Surcouf leo lên đầu tiên, sau ông là René và cuối cùng là ông Raimbaut, người đóng tàu.

      Ông Raimbaut xem xét cẩn thận, đo các chiều và hỏi René muốn thay đổi phần nào. muốn thay đổi gì chỉ muốn sửa sang cho đẹp hơn, chia phòng của mình thành hai phòng hơn ở phía trước, gần cửa boong nơi lên xuống tiếp đến là phòng ăn cuối cùng là phòng ngủ rộng có hai giường có thể dùng rèm che ở giữa hai giường ấy.
      - Ông Raimbaut này - René - phải ốp hai phòng này bằng gỗ tếch hai phòng phía trước bằng gỗ xà cừ cũng được. Tôi muốn phòng ăn bằng gỗ mun chỉ vàng, tất cả trang trí bằng đồng mạ vàng để ngày nào cũng được lau chùi. Ông cứ nghĩ rồi thoả thuận giá cả với ngài Surcouf. Tôi muốn tàu này sẵn sàng ra khơi trong vòng mười lăm ngày nữa, trả trước hôm nay nửa, khi nào bàn giao tôi trả nốt.
      - Tôi hy vọng như thế là đủ, bố Raimbaut nhỉ - Surcouf .
      - Thế là quá đủ ông Raimbaut đáp - chỉ có điều việc này phải mất tháng.
      - Chuyện đó liên quan đến tôi - René - tôi muốn tàu của mình trong mười lăm ngày nữa. Về giá cả, ông cứ tính toán , chúng ta lên boong nào.
      Họ vừa lên boong con tàu thấy chiếc xe ngựa dừng lại đối diện chỗ tàu Standard, hai thiếu nữ ra khỏi xe gọi ca nô đưa họ lên tàu của Surcouf.
      - Chà chà, hai bà nào mà lại đến thăm chúng ta sớm thế nhỉ? - Surcouf hỏi.
      - Ngài nhận ra họ sao? - René hỏi ông.
      - .
      - Đó là hai tiểu thư Sainte-Hermine đến cầu nguyện cạnh quan tài của cha họ. Chúng ta đừng quấy rầy họ trong nghĩa vụ thiêng liêng ấy khi nào họ lên boong, chúng ta đến chào.
      Họ chờ vài phút vì cầu cảng sát con tàu của René nên họ nhảy khẽ là sang được con đê chắn sóng. Họ ra hiệu cho người vừa đưa hai lên tàu lại gần đón họ và lên cầu thang mạn trái.
      - Đúng lúc mọi người lên đến boong thủy thủ bơi thét lên:
      - Cứu tôi với em ơi? con cá mập!
      Mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía đó. Người thủy thủ bơi lại tàu phía sau ta người ta thấy luồng nước rẽ ra và cái lưng của con cá mập. Những tiếng hô "Cố lên, cứ chờ đấy? Chúng tôi đến đây!" vang lên nhưng bằng cớ chỉ quả quyết, René hét to:
      - ai được động đậy, để tôi!
      Lúc đó, hai tiểu thư Sainte-Hermine nghe tiếng hò hét vội trèo lên boong. Các thấy René đưa tay lên ngực để kiểm tra con dao găm còn ở đó rồi ném áo khoác và áo gối lê xuống, nhảy lên bờ thành tàu và nhảy xuống biển kêu to:
      - Can đảm lên bạn, cứ bơi mạnh vào!
      Jane thét lên rồi tái mét người. Hélène dìu lên khoang thượng nơi có Surcouf giúp tay. Các vừa kịp đến nơi để thấy René nhô lên mặt nước, răng cắn con dao găm. lặn xuống lần thứ hai rồi lại nhô lên ở khoảng cách giữa người thủy thủ và con cá mập, chỉ cách con quái vật ba mét. Cuối cùng, lại lặn xuống lần thứ ba lao về hướng con vật. Đột nhiên, con cá quẫy mạnh, cái đuôi đập mạnh xuống nước như thể nó bị đau khủng khiếp, quanh nó, máu đỏ loang ra. Tiếng kêu vui sướng rộ lên trong khắp thủy thủ đoàn. René xuất cách con cá mập mét nhưng lần này ngoi lên chỉ để lấy hơi rồi vừa lặn xuống con cá mập lại quẫy mạnh đuôi lần nữa, quận mình trong cơn đau đớn co giật rồi phơi cái bụng trắng hếu dài đến mét.

      Trong khi đó, các thủy thủ chờ lệnh hay ý kiến của thuyền trưởng thả ca nô xuống biển chèo mạnh tay về phía René tra con dao vào vỏ để mặc con cá mập trong cơn đau đớn của nó và bơi về phía tàu. đường bơi, gặp ca nô, hai thủy thủ chìa tay kéo lên rồi ôm chầm lấy huơ huơ mũ của họ mà reo lên "René muôn năm!"

      Lập tức tiếng reo ấy lan toả khắp nơi, những thủy thủ của tàu Standard và cả hai trẻ vẫy vẫy khăn tay.
      Còn về chàng thủy thủ bất cẩn cứ xuống tắm mặc lời khuyên của các bạn cũng lên được tàu nhờ bám vào sợi dây người ta ném xuống. René lên tàu Standard trong tiếng hô reo chiến thắng.

      Cho đến trước thời điểm đó vẫn còn ít người tỏ ra ghen tị với chàng giàu có đẹp trai, có học thức mà nội trội vượt lên ở mọi mặt và ở mọi nơi. Thế nhưng khi họ thấy sẵn sàng mạo hiểm mạng sống của mình cho kẻ đáng thương như họ lòng nhiệt thành còn giới hạn nữa và ghen tuông nhường chỗ cho lòng thán phục và biết ơn.

      Về phần mình, René nhanh chóng chia tay việc tán tụng vội leo lên khoang thượng nơi thấy Hélène nước mắt ngấn mi cho Jane ngửi muối vì suýt ngất còn Surcouf vỗ tay hoan nghênh .
      Thấy lại gần, Jane cầm tay , đưa lên môi và reo lên áp mặt vào ngực chị .
      - Ái chà! - Surcouf với - Chắc phải có con quỷ trong người cậu nếu cậu chán sống rồi nên lúc nào cũng làm những chuyện như vậy!
      - Thưa ngài chỉ huy đáng mến - René trả lời ông - Tôi được nghe kể rằng những người da đen ở Gondar khi bị cá mập tấn công lặn sâu xuống phía dưới nó dùng dao găm rạch bụng nó ra. Tôi muốn xem chuyện đó có thôi mà.
      Khi đó ông Raimbaut sau khi tính toán xong xuôi, ông này là tay buôn bán có hạng nhưng được chứng kiến cảnh vừa rồi trèo lên khoang thượng đưa mảnh giấy cho René.
      Tổng số khoản tiền là tám ngàn năm trăm phăng. Ông René đưa giấy cho ngài Surcouf trong lúc hai , đặc biệt là Jane ngạc nhiên hiểu chuyện gì ngài Surcouf sau khi nghiên cứu mảnh giấy trao lại cho René.
      - Bớt năm trăm phăng hợp lý hơn. Nhưng con tàu sẵn sàng trong mười lăm ngày nữa chứ? - René hỏi.
      - Tôi đảm bảo như vậy - ông Raimbaut đáp.
      - Vậy cho tôi mượn cây bút chì của ngài.
      Ông Raimbaut đưa bút cho , René viết thêm vào sau hoá đơn.

      "Trước mắt ông Surcouf trả cho ngài Raimbaut khoản tiền bốn ngàn phăng, mười lăm ngày sau tính từ ngày này, nếu con tàu hoàn thiện, bốn ngàn năm trăm phăng còn lại được trả nốt".

      Ngài Surcouf giang tay ngăn nhưng René để ý viết tiếp:

      "Năm trăm phăng trao cho em thợ như khoản tiền thưởng
      René
      Thủy thủ tàu Standard "

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :