1. QUY ĐỊNH BOX TRUYỆN SƯU TẦM :

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]
    ----•Nội dung cần:
    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)
    - Nguồn
    - Tác giả
    - Tên editor +beta
    - Thể loại
    - Số chương
    Đặc biệt chọn canh giữa cho đoạn giới thiệu
    ---- Quy định :
    1. Chỉ đăng những truyện đã có ebook và đã được public trên các trang web khác
    2 . Chỉ nên post truyện đã hoàn đã có eBook.
    3. Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn
    4 . Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Hiệp sĩ Sante Hermine - Alexandre Dumas (122 chương)

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây (Sưu Tầm)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 48: Sau ba năm tù


      Chưa đến tiếng kể từ lúc diễn ra cuộc gặp giữa ngài Bộ trưởng cảnh sát với hoàng đế tên mõ toà gác cửa của ngài Fouché thông báo:
      - Phạm nhân đến.
      Fouché quay đầu lại phía cửa mở và thấy đúng là Sainte-Hermine giữa hai cảnh sát. Ngài Bộ trưởng ra hiệu cho Sainte-Hermine lại gần.
      Từ hôm bị bắt, từ lúc hy vọng Fouché cho xử bắn cần kết án, ngài Bộ trưởng này hề quay lại. Tám ngày, mười lăm ngày, thậm chí tháng trôi , mỗi lần tiếng chìa khoá xoay lách cách bên cánh cửa phòng giam mình, Sainte-Hermine đều lao về đó hy vọng người ta mang hành hình. Rồi lập tức hiểu rằng, mình lại phải tiếp tục nhẫn nhục sống. nỗi sợ từng xâm chiếm lấy , đó là người ta giữ để làm chứng cho những vụ xử án tiếp theo sao. trải qua hai tháng lo sợ như vậy, rồi nó cũng tan như chính hy vọng của tan thành mây khói. Với , đó là thời điểm mà thời gian như ngừng trôi, quấy đảo bằng hai thứ tình cảm khác nhau, nối tiếp nhau trong tâm hồn. Buồn quá, cầu sách, người ta đáp ứng cho . lại cầu bút chì, giấy vẽ, dụng cụ toán học, người ta cũng đáp ứng đầy đủ. lại đòi mực, giấy viết, bút lông ngỗng tất cả đều được manh đến.
      Rồi những đêm đông đằng đẵng đến, khi mà bốn giờ chiều trong khám tối đen như mực Hector cầu ngọn đèn.
      Dù hơi khó nhưng cuối cùng người ta cũng cho . lại xin phép được dạo hai tiếng ngày trong vườn. Cứ như thế cuộc sống của qua ba năm trong tù.
      Trong thời điểm rực rỡ, có những độ tuổi mà bất hạnh chỉ càng tôn thêm cho người ta về đẹp hình thể và phẩm hạnh đạo đức.
      Hector hơn hai mươi lăm tuổi và có hoàn cảnh đặc biệt. Trong chuỗi ngày dài bị giam cầm, khuôn mặt mất dần vẻ thơ ngây nét tươi hồng đôi má nhường chỗ cho nước da bánh mật, vài vết nâu xám, đôi mắt to ra do phải gắng nhìn trong bóng tối râu mọc nhiều và nét đàn ông lộ khuôn mặt. đó còn ra ba sắc thái khác nhau khó phân biệt khi chúng hoà tan vào nhau, đó là trầm tư, mơ mộng và đượm buồn.

      Với nhu cầu tiêu tán năng lượng thể chất, tự giải toả bằng những bài tập thể dục, xin các quả tạ tập nâng. còn leo dây bằng tay trần. Tóm lại, tất cả những bài tập đại giúp thanh niên đại ngày nay hoàn thiện giáo dục thể chất phải tự nghĩ ra, phải để hoàn thiện giáo dục thể chất mà để giải trí.
      Như vậy, sau ba năm tù, Sainte-Hermine nghiên cứu rất sâu sắc tất cả những gì người ta có thể học được mình: địa lý, toán học, lịch sử. Thời trẻ đam mê du lịch, học tiếng Đức, tiếng , tiếng Tây Ban Nha và giỏi như tiếng mẹ đẻ. được đâu, dựa vào cho phép gởi sách vở, du lịch các bản đồ Ấn Độ nơi vừa trải qua cuộc tranh chấp nảy lửa với những người : Haider - Ali và con trai của mình ngài Tippoo, ngài pháp quan Suffren, Bussy và Dupleix đặc biệt thu hút chú ý của và trở thành đối tượng nghiên cứu.

      quen với cuộc sống như vậy cho nên mệnh lệnh đến gặp ngài Bộ trưởng cảnh sát là kiện lớn với , và cũng phải , khi nhận lệnh khỏi có nỗi sợ mơ hồ thoáng ra trong lòng .
      Hector nhận ra ngay Fouché. Ông này thay đổi gì mấy có chăng cũng chỉ là bộ quần áo thêu thùa cộng với cách gọi Đức ông mà thôi. Nhưng với Sainte-Hermine khác, Fouché phải nhìn hai lần mới nhận ra .
      Vừa đứng trước ông Bộ trưởng, mọi kỷ niệm cũ lại ùa về đánh thức Sainte-Hermine.
      - A, ngài đây rồi - để phá vỡ im lặng - Đó là cách ngài giữ lời với tôi đấy!
      - Chắc trách tôi nhiều lắm vì tôi buộc phải sống đúng ? - Fouché .
      Sainte-Hermine cười buồn.
      - Liệu đó có phải là cuộc sống khi ở trong phòng mười hai bộ vuông với khung cửa song sắt và hai ổ khoá chăng?
      - Dẫu sao người ta vẫn thoải mái trong phòng mười hai bộ vuông hơn là trong cái quan tài dài sáu bộ, rộng hai bộ.
      - Dù cỗ quan tài có chật chội đến đâu người ta vẫn thoải mái hơn trong cái chết.
      - Thế hôm nay có cố chết như lần trước ?
      Sainte-Hermine nhún vai.
      - . Ngày trước tôi ghét cuộc sống, giờ đây, với tôi nó khác vả lại nếu ông muốn chẳng phải đến lượt tôi đó sao?
      - Sao lại đến lượt ? - Fouché hỏi.
      - các ông xong việc với công tước Enghien, tướng Pichegru, Moreau và Cadoudal và ba năm, bây giờ đến lượt tôi phải.
      - bạn thân mến của tôi - Fouché đáp - Khi Tar quin muốn Sextus biết mệnh lệnh của mình, ông ta đâu phải lật hết gạch trong vườn nhà mình lên mà chỉ cần những cái đầu quan trọng thôi.
      - Tôi phải trả lời cho ngài sao đây thưa ngài? - Hector đỏ mặt - Chẳng lẽ cất đầu của tôi chẳng đáng xu để đốn chăng?
      - Tôi có ý làm bị tổn thương nhưng ngay bản thân cũng tự nhận ra rằng chẳng thuộc hàng vương tôn dòng dõi như công tước Enghien, chẳng phải kẻ thắng trận lẫy lừng như tướng Pichegru, phải đại vĩ nhân thao lược như Moreau hay tay chân nổi tiếng như Georges.
      - Ngài đúng - Hector cúi đầu - tôi chẳng là gì so với những cái tên ngài vừa kể.
      - Tuy nhiên, - Fouché tiếp - Ngoại trừ dòng máu hoàng tộc có thể trở thành người như tất cả bọn họ.
      - Tôi ư?
      - Tất nhiên. có bị đối xử trong nhà giam như người sau khi ra tù phải tìm cái chết ? Người ta có làm trí óc bị điêu đứng, dày xéo tâm hồn hay trà đạp tim ? có muốn điều gì mà lại được đáp ứng ? Điều đó chứng tỏ cho thấy mối thiện cảm chúng tôi dành cho sao? Ba năm qua của hoàn toàn phải là trừng phạt mà là hoàn thiện việc học hành cho .
      - Nhưng tôi cũng phải chịu hình phạt gì chứ? - Sainte-Hermine sốt ruột kêu lên.
      - Bị phạt vào quân đội với tư cách là lính bình thường.
      - Thế chẳng có tước hiệu gì.
      - Thế khi cướp có quân hàm gì ?
      - Sao cơ?
      - Tôi hỏi lúc làm đồng đảng Jéhu có được phong cấp bậc gì .
      Hector cúi đầu.
      - Ông đúng, tôi chỉ là lính quèn.
      - Này, hãy tự hào về điều đó, Marceau, Hoche, Klébet cũng bắt đầu nghiệp của mình chỉ là binh lính thường thế mà họ trở thành các đại tướng. Jourdan, Masséna, Lannes, Berthier, Augereau, Brune, Murat, Bessières, Moncey, Mortier, Soult Davout, Bemadotte ngày nay là thống soái trước đây cũng chỉ là lính quèn. Hãy bắt đầu như họ và cũng kết thúc như họ.
      - Thế là tôi bị buộc phải phục vụ cho nhà nước ác cảm với gia đình tôi và chấp nhận họ.
      - phải thừa nhận rằng lúc tấn công xe thuế trong rừng Vemon, có thời gian để có thiện cảm hay ác cảm. chỉ tuân lệnh theo truyền thống của gia đình chứ theo lý lẽ sai bảo. Từ khi ở tù, từ khi để mắt đến chuyện qua và khả năng tương lai đến cũng nhận ra rằng thế giới cũ sụp đổ và mọc những đống đổ nát là thế giới mới. Tất cả những gì liên quan, thân hay dính dáng đến thế giới cũ chết cách tàn khốc, dữ dằn và định mệnh. Từ ngai vàng đến hàng lính áp chót, từ những quan niệm hàng đầu đến xã trưởng trong làng, đều thấy họ thay đổi, cha , hai trai của đều lui vào quá khứ còn thuộc về thế giới tương lai, tôi chắc trong đầu cũng có lý lẽ như tôi vậy.
      - Tôi phải thừa nhận với ngài rằng có rất nhiều điều ngài vừa , ngay cả đức vua Louis XVI và hoàng hậu Marie-Antoinette cũng là đại diện cho thế hệ cũ còn ngài Bonaparte và hoàng hậu Joséphine thuộc thế hệ thứ hai, đại diện cho thời đại mới.
      - Quả nhiên tôi nhầm và tôi rất vui về điều đó, người thông minh như tôi dự đoán.
      - Liệu tôi có thể xoá vết tích quá khứ và bắt đầu bằng cái tên khác ?
      - Được chứ, chỉ có thể mang tên khác mà còn có quyền lựa chọn đội quân nào mà bị kết án phải phục vụ.
      - Xin cảm ơn ông.
      - còn muốn gì ?
      - , con đường tôi , tôi là hạt bụi cho gió cuốn.
      - Tại sao lại để cuốn theo chiều gió khi mà người ta có thể chống lại nó? có muốn lời khuyên của tôi , về việc chọn quân đội ấy?
      - Xin ông cứ .
      - Chúng ta sắp có cuộc chiến nảy lửa với quân , cuộc chiến biển, nếu chọn, hãy chọn làm thuỷ thủ.
      - Tôi cũng nghĩ đến điều đó - Hector đáp.
      Trong gia đình có các bậc tiền bối như vậy: năm trong số các ông của mang tên như từng chỉ huy hạm đội năm 1734 và giữ cấp bậc danh giá. Chú ruột của cũng từng là thiếu tá hải quân, điều này hơn ai hết vì đến năm 14 tuổi còn phục vụ dưới quyền ông ấy như hoa tiêu . Hiểu biết về hàng hải của gần như hoàn tất nửa khi trèo lên cầu tàu.
      - Ngài biết về quá khứ gia đình tôi từ hơn thế kỷ nay vậy ngài có thể cho tôi biết giờ chú của tôi ra sao ? Vì ba năm trong tù tôi như bị tách biệt hẳn khỏi thế giới.
      - Chú của người phục vụ trung thành cho nhà vua xin từ chức sau cái chết của công tước Enghien, ông cùng hai em họ của sang sống ở nước .
      - Bao giờ tôi bắt đầu công việc?
      - mất bao nhiêu lâu để về nhà xếp sắp công việc của mình?
      - Mọi việc của tôi nhanh chóng ổn thoả thôi vì tôi đoán chắc tài sản của mình bị xung công rồi.
      - Tài sản của vẫn còn nguyên nếu quản gia nhà lấy trộm. thấy ba năm tiền tô tức trong ngăn kéo, ba trăm nghìn phăng, khoản lớn ở nông thôn cho thuỷ thủ đấy.
      - Thưa ngài, sau những gì ngài , tôi mang ơn ngài rất nhiều. Tuy thế, tôi vẫn chưa nghĩ đến việc cảm ơn ngài. Xin hãy đặt địa vị của ngài vào hoàn cảnh đặc biệt bối rối của tôi đây và đừng cho tôi là kẻ bạc bẽo.
      - Tôi nghĩ là kẻ bạc bẽo khi nghe lời khuyên quý báu mà tôi để đến cuối cùng vì nó cực kỳ quan trọng.
      - Xin ngài cứ .
      - đừng tòng quân vào hải quân Đế chế.
      - Thế ngài muốn tôi đầu quân vào đâu?
      - Hãy xin vào tàu chặn đánh biển. Luật pháp vừa trưng dụng tất cả các tàu chặn biển thành tài sản quốc gia, nếu phục vụ như thuỷ thủ bình thường, phải theo kỷ luật của chiến hạm. tàu, khoảng cách cấp bậc cũng ràng lắm, có thể nhanh chóng làm thân với thuyền trưởng, tham gia chiến đấu cùng ông ta và nhanh chóng có được cấp bậc.
      Khi trở thành bộ phận hải quân thường trực trong hệ thống hải quân Quốc gia, thâm niên của được tính từ ngày đầu phục vụ cho bác của mình.
      - Thưa ngài Fouché - Hector ngạc nhiên trước ưu ái lớn từ con người có bề ngoài mấy thân thiện này - Tôi phải làm gì cho xứng với quan tâm đặc biệt của ngài như vậy?
      - Thú tôi cũng chẳng hiểu, bản thân tôi cũng nhận ra mình nữa - Ngài Bộ trưởng cảnh sát đáp - Chỉ có điều tôi hay quan tâm đến những người thực thông minh, biết bộc lộ điều đó trong những hoàn cảnh khó khăn. Tôi biết chuyện gì xảy ra với nhưng thấy ngày nào đó, cảm ơn tôi với cương vị cao hơn hôm nay.
      - Thưa ngài - Sainte-Hermine cúi mình - Ngay từ hôm nay, tôi sẵn sàng phục vụ ngài, ngay cả khi phải dùng mạng sống của tôi.
      - Hôm nào tòng quân, đừng quên gửi cho tôi tên con tàu và số hiệu của trong thuỷ thủ đoàn, cả bí danh của nữa đấy, phục vụ dưới cái tên khác, đúng ?
      - Vâng, thưa ngài, cái tên Sainte-Hermine chết rồi.
      - Với tất cả mọi người chứ?
      - Với tất cả nhất là với người phải mang nó.
      - Cho tận đến khi ta phục sinh với tước hiệu Tư lệnh hay Tướng quân, đúng ?
      - Nhưng trước khi đến lúc đó, tôi hy vọng con người mà ngài kỳ vọng ấy được sung sướng và quên tôi .
      - Tuy nhiên nếu con ông ấy hỏi tôi, với cương vị là Bộ trưởng cảnh sát, tôi phải biết tất cả mọi chuyện, chết như thế nào tôi biết ăn sao đây?
      - Ngài hãy đáp rằng tôi chết bằng tất cả niềm tôn kính mà tôi mang nợ ông ấy và bằng tất cả tình của tôi.
      - được tự do - Fouché và mở cửa kèm theo hai tiếng vỗ tay.
      Đám cảnh binh lui gót còn bá tước Sainte-Hermine cúi chào ra.

    2. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 49: Thành Saint-Malo


      Nằm giữa trong số những vịnh hằng hà vô số vịnh tô điểm dải bờ biển nước Pháp, từ Calais đến Brest, giữa vùng Normandie và Bretagne, giữa núi La Hague và mũi Tréguier, đối diện với những hòn đảo lâu đời như Jercey, Guemesey và Aungny, nổi lên đảo đá, giống như cái tổ chim biển, là thành phố Saint-Malo bé.

      Ngày xưa, từ thời nguyên thuỷ khi mà Bretagne còn gọi là Armonque, nơi đây bị chia cắt bằng những cánh rừng và thảo nguyên trong đó có các đảo bao quanh Saint-Malo và những hòn đảo kể cũng có thể thuộc vào số đó. Nhưng trận địa chấn năm 709 trước công nguyên nhấn chìm phần mũi này, kéo dài đến tận thượng miền mũi La Hague và Tréguier biến Saint-Malo thành hòn đảo.

      Những lần xâm chiếm của đám cướp biển Normand khiến vua Charlemagne phải lệ linh sàng của mình. Chúng buộc dân cư quanh đó phải di trú đến đảo Saint-Malo. Từ năm 1143 đến năm 1152, giáo chủ Jean de Châtillon biến nơi này thành trụ sở giám mục sau khi truất quyền các linh mục từ Mannoutier.

      Kể từ thời kỳ đó, cuộc sống mới được hình thành: con của biển hoang này phát triển nhanh chóng dưới bàn tay của các thuỷ thủ tài ba và dưới lãnh đạo của đức giám mục cùng tập đoàn tu sĩ. Tổ chức này ưu tiên nguyên tắc cộng đồng và quyền dân tộc, phát triển dân cư bằng cách biến nơi đây thành miền đất tị nạn. Nó tạo thành vùng Cộng hoà độc lập giữa miền Bretagne.

      Quyền bất khả xâm phạm mảnh đất tị nạn cứu được mạng sống của bá tước Richemont trẻ tuổi khỏi nhà Lancastre, sau này trở thành vua dưới cái tên Henri VII. Ngoài ra còn có Edouard Đệ tứ vua đầu tiên của nhà York cũng đến cư trú trong nhà thờ Saint-Malo năm 1475.
      điều lạ lùng là ban đêm, khi thuỷ triều hạ, các con thuyền được toán khoảng hai mươi tư con chó nhập từ nước canh giữ.
      Tập quán này được hình thành từ năm 1145 theo nhất trí của tập đoàn giáo sĩ và cả cộng đồng. Đội quân này phục vụ liên tục đến năm 1770 vào thời điểm này, có sĩ quan trẻ coi thường đội quân bốn chân vẫn nghênh ngang khi có lệnh giới nghiêm nên bị lũ chó xâu xé. Từ đó, hội đồng quyết định đầu độc chúng.

      Về tường thành, người đảo Saint-Malo chỉ tin vào bảo vệ của chính mình. Đây là câu chuyện dài đầy vinh quang được truyền tụng khắp các con tàu lướt sóng trước mũi tàu để vượt qua các chiến hạm , Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha.
      quốc gia nào lại có những cuộc chiến oanh liệt như cái dân tộc bé mà người ta hết tường bao quanh thành chỉ trong vòng tiếng đồng hồ này.
      Ngay từ năm 1234, người dân đảo Saint-Malo cày những lớp sóng bạc đại dương. Chính Matthiew Paris phải gọi họ là những đội quân tinh lẹ biển.
      Saint Louis tiếp tục mở mang chiến công của những tay đua táo bạo này. Ông tập hợp họ, chiến đấu với tàu chiến do đô đốc Dubourg chỉ huy. Viên Đô đốc quốc bị đánh bại phải kéo quân về cầu cảng quân của mình.

      Ngày tháng Tư năm 1270, Saint Louis lại tiếp tục cuộc thập tự chinh cuối cùng đội chiến thuyền Saint-Malo trung thành với lời kêu gọi đến nơi đúng hẹn ở Aigues-Mortes.
      Chiến hạm Saint-Malo được vinh hiển cho đến trận Écluse chịu thua trước liên quân và người Flamand. Người Malo thoả thuận với kẻ thù, nhưng khi công tước Jean de Montfort bị đuổi khỏi chính quyền và sống lưu vong tại đảo Saint-Malo chịu cai trị dưới tay vua Charles Đệ ngũ. Thế là công tước Lancastre muốn chiếm toàn bộ Saint-Malo. Ông ta hy vọng có thể dựa vào lực lượng pháo binh của mình nhưng người dân Malo tập kích ban đêm hạ thủ những binh lính dưới hầm. Froissart cho rằng cuộc tấn công này khiến cho Lancastre và toàn bộ quân đội của ông ta phải hổ thẹn.
      Công tước Jean, sau khi lấy lại đất phong của mình cũng muốn chinh phạt Saint-Malo. Nhưng người dân Malo đâu dễ để bị chiếm. Giống như đồng ý để vua Charles Đệ ngũ cai quản, họ tiếp tục đứng về phía vua Charles VI và bắt đầu dưới trị vì mới này bằng việc đưa thuyền tiến sang bờ biển nước .
      Ngày 25 tháng Mười năm 1415, giờ định mệnh trận Azincourt điểm. Nước Pháp thất bại. Công tước nước chiếm lại Saint-Malo, dân chúng nơi đây đón nhận điều đó bằng việc treo cờ đốm lông chồn và mặc váy trắng.
      Nước thắng trận mở rộng việc cai trị toàn lãnh thổ Pháp. Cờ hiệu bay phấp phới đỉnh nhà thờ Notre-Dame và tất cả các pháo đài miền Normand. Chỉ duy nhất đỉnh đồi Saint-Michel, lá cờ ba bông huệ còn chống lại thất bại của chúng ta. con tàu cập bến đến nơi hùng ấy, giáo chủ Guillame de Montfort dội vũ khí lên đội hải quân . Dù ít hơn về số lượng và tầm cỡ, những con tàu cột buồm đảo Saint-Malo vẫn đánh giáp mặt với tàu chiến . Cuộc chiến đấu ấy vô cùng ác liệt và vô vọng. Cuối cùng chiến hạm bị thua, hạm đội bị tiêu diệt. Trước lời reo hò chiến thắng của người Malo, nước Pháp thua cuộc phải ngẩng đầu ngạc nhiên và thở phào.
      Người ta cứ tưởng tất cả phần lãnh thổ ấy của mình bị tuyệt diệt, còn Saint-Michel được cứu trợ nhân lực và thực phẩm kịp thời.
      Ngày 6 tháng Tám năm 1425, vua Charles VII tuyên bố tàu thuyền Saint-Malo được miễn mọi áp đặt cữ trong vòng ba năm.
      Quyền độc lập này lại được nhân lên gấp đôi nhờ vua François Đệ nhất của Bretagne.

      Năm 1466, với ý định khôi phục lại dân số ở Paris bị giảm trong cuộc chiến tranh công ích, vua Louis XI lấy mô hình tự do và miễn phạt của thành phố Saint-Malo để áp dụng cho Paris.
      Vào năm 1492, cùng thời điểm Christophe Colomb tìm ra châu Mỹ, người dân Saint-Malo cùng với người Dieppois và Biscaiens tìm ra đảo Đất Mới và vài vùng biển hạ lưu Canada.
      Năm 1505, công chúa Anne, con của vua François Đệ nhị là vị hôn thê của ông hoàng xứ Gall (từng treo cổ chú mình là Gloucester) là người liên tiếp kết hôn với hai ông vua nước Pháp là Charles VIII và Louis XII đến Saint-Malo. Bà cho tiếp tục xây lâu đài dang dở mặc cho hội đồng linh mục phản đối. Để chứng tỏ ít khi phải chịu chống đối như vậy, bà ta cho khắc lên tháp pháo đài hướng vào thành lời thách thức "Bất kỳ ai phàn nàn! Việc là vậy! Đó là ý thích của ta!"

      Cùng năm mà người dân Saint-Malo có được toà thị sảnh tức là có quyền tự trị của mình Jacques Cartier, tức Christophe Colomb của Canada ra đời. Đó là người đầu tiên mang về cho Saint-Malo loài cá quý hiếm tạo thành nền thương mại làm giàu cho phần ba châu Âu.
      Kể từ đó, người dân Malo thám hiểm khắp nơi, họ theo chân Charles Quint đến châu Phi khi ông sắp lập ngai vàng Moulay Hassan, tức vua Tunis và trang bị vũ khí đến Đại Ấn sau người Bồ Đào Nha.

      người Saint-Malo khác là phó giám mục Ébard dám mang gửi trả lại vua Henri VIII bản án ly khai mà Paul Đệ tam chống lại ông.
      Cuộc chiến - Pháp năm 1512 lại nổ ra rất ác liệt. Người Saint-Malo lại cầm vũ khí chống lại quân đổ bộ đảo Cézembre, làm tiêu hao số và buộc số khác phải lên tàu quay về.
      Đến đời vua François Đệ nhất, trong cuộc chiến với Tây Ban Nha, ai là người ông kêu gọi giúp cho đô đốc Arinebaut? Chính là người Saint-Malo.

      Cuộc thảm sát Saint-Barthélemy diễn ra nhưng người Saint-Malo từ chối tham gia nên giáo đồ Calvin nào bị sát hại ở Saint-Malo. Nhưng năm sau, khi xảy ra vụ Bell-Isle họ lại cầm vũ khí, chuẩn bị lực lượng đuổi Montgomery với cái giá sáu mươi mạng người trong số họ.

      Người Saint-Malo trở thành liên minh cũng nồng nhiệt như cách họ làm những việc khác. Chẳng hạn khi họ được tin vua Henri Đệ tam bị sát hại và vua nước Pháp tại là Henri Đệ tứ, cả thành phố tiếp nhận cả hai kiện bằng im lặng ủ ê. Chỉ riêng ngài Fontaine, người đứng đầu là bày tỏ mong muốn được đặt dưới quyền ông vua thừa kế. Ngay lập tức, người Malo cầm khí giới thề rằng thành phố và nhân dân chỉ chịu quản lý khi "Chúa ban cho nước Pháp ông vua theo đạo Cơ đốc" mà thôi.
      Nhưng khi đến vua Henri Đệ tứ sớm bị truất ngôi. có tiền, đức vua thể đến Bretagne đành chịu khuất phục công tước Mercoeur. Được tin, dân Saint-Malo lại giúp cho vua số đại bác, thuốc súng, tiền bạc như ngài cầu. Họ góp 12 nghìn êcu vào khoản đó.
      Thế mà cũng chính họ giết chết người đứng đầu toà lâu đài ông Fontaine, vì ông này phản bội lại lợi ích của họ, phản bội lại những gì họ dự đoán, ông ta rằng nếu vua Henri Đệ tứ muốn vào thành, ông ta tiếp ngài ở lâu đài. Nhưng như chúng tôi , chỉ khi vua Henri Đệ tứ bị truất ngôi, dân Malo lại trở thành người ủng hộ tin cẩn nhất của ngài, sẵn sàng bắt đầu cuộc chiến chống lại quân đồng minh.
      Cũng chính vua Henri Đệ tứ viết về họ rằng họ là "Những người trung gian thân cận, thẳng thắn và đứng đắn nhất mà người ta có thể mong đợi" và ngài cũng can thiệp với nữ hoàng Elisabeth chống lại bọn cướp biển .
      Khi bắt đầu thế kỷ XVII, Saint-Malo trở thành miền biển phồn thịnh và lớn mạnh. Năm 1601, hai trong số tàu của họ là Le Croissant và Le Corbin đáp đến mũi Hảo Vọng. Năm 1603, ba tàu khác khởi hành " thông thương và phát ra miền đất Canada và các xứ lân cận". Năm 1607, bá tước Choisy, cháu của công tước Montmorency được giao nhiệm vụ thám hiểm hàng hải với đội gồm năm tàu lớn là L archange, Le Choisy L affection, L espnt và L ange. Ông nhắm Saint-Malo và coi những người ở đây là các thuỷ thủ giỏi nhất.

      Sau khi vua Henri Đệ tứ bị sát hại, vua Louis XIII lên ngôi lập tức khẳng định bảo đảm cho người dân Saint-Malo được hưởng mọi đặc quyền như họ được hưởng từ cha mình. Ngài còn bảo vệ tàu của người Saint-Malo trong kỳ đánh bắt đến tận đảo Đất Mới.
      Ngay cả giáo chủ Richelieu cũng coi trọng Malo trung thành khi ông quyết định đặt trụ sở tại La Rochelle. Lúc ông cần đội thuỷ quân tương xứng với hạm đội của Buckingham ông chỉ có ba mươi tư tàu đánh cá voi. Thế là đảo Malo mang đến cho ông thêm hai mươi hai tàu nữa. Với số dân khoảng tám nghìn người, thành phố bé, cảng khiêm tốn thế mà cảng Saint-Malo lại được chọn làm trụ sở của Bộ tư lệnh hải quân. Khi Richelieu qua đời, Mazarin lên thay ông ta. Năm 1649, chính quyền chọn tàu Saint-Malo để chuyển đến Canada lượng lớn nhà chứa đến miền thuộc địa mới. Đến nơi, nào cũng tìm được chồng. Sau mười lăm ngày, nào còn độc thân. Họ mang của hồi môn cho chồng là những con bò, lợn, gà, thịt muối, súng hay mười đồng êcu.
      Giá trị của người Saint-Malo là hiển nhiên đến nỗi các đô đốc có thông lệ chọn thuỷ thủ đoàn cho mình là người Saint-Malo. Ngay cả vua Louis XVL cũng đưa điều đó vào luật.

      Lực lượng hàng hải của Saint-Malo bao gồm trăm năm mươi thuyền buồm, sáu mươi chiếc dưới trăm tấn, chín mươi chiếc từ trăm đến bốn trăm tấn. Vào thời điểm đó, các tên tuổi lớn lần lượt xuất . Từ năm 1672 đến 1700 phải kể đến Duffresse des Saudrais, Le Fer de La Bellière, Goin de Beauchesne (người đầu tiên đến mũi Horn), Alain Porée Legoux… Rất nhiều trong số các ngôi sao này tắt hoặc mờ , chỉ duy nhất còn vì sao như thần Zeus đó là Duguay-Trouin.
      Năm 1704, trong giai đoạn chiến tranh liên miên quá tàn khốc với nước Pháp, Saint-Malo chiếm 81 lần trong đó mua bán lại kiếm được 2.422.652 livre. Nó mở rộng thông thương đến Moka, chinh phục Rio-Janeiro, chiếm đảo Maurice, khiến đảo này mang tên đảo Pháp, mở mang thành trì, xây dựng tường thành Khi Duguay-Trouin qua đời, Mahé de la Bourdonais tiếp tục quản lý các đảo Pháp.

      Trong thời kỳ chiến tranh dưới trị vì của vua Louis XV, cuộc chiến kết thúc bằng hiệp ước đáng hổ thẹn năm 1763, Saint-Malo chịu tổn thất nặng nề về thương mại. Mặc dù những hy vọng dưới triều vua Louis XVI dành cho nó, tăng trưởng luôn xuống. Trong cơn bão cách mạng từ 1794 đến 795 tăng trưởng trở về số : Cuối năm 1793 nó chỉ còn đôi ba thuyền chở hàng và có thuyền chặn địch nào.
      Cuối tháng Sáu năm 1793, ra của thái thú Le Carpentier mới khiến Saint-Malo thở phào. Người ta lại có năm tàu chặn , từ 1796 đến 1797, con số này tăng lên 30. Nhưng nhiều trong số đó chỉ được trang bị súng loe nòng và súng hoả mai. Năm sau, người Saint-Malo trang bị được 28 tàu chặn mới. Con số này duy trì đến tận hoà ước năm 1801 với nước .
      Nhưng như chúng ta thấy, hoà bình đó chẳng kéo dài được bao lâu. Ngay từ năm 1803, hiềm khích bắt đầu gay gắt.
      Những hùng trong giai đoạn này phải kể đến Le Même, nhà Lejolif, nhà Tréhouart và Surcouf.
      Cái tên cuối cùng ấy lại đưa chúng ta về với câu chuyện trong cuốn sách này.

    3. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 50: Quán trọ của chị Leroux


      Ngày 8 tháng Bảy năm 1804, khoảng mười giờ trưa, mặc những đám mây nặng nề u ám kéo xuống rất thấp, gần như sát mái nhà như thể chúng vừa chui từ biển lên chứ phải đáp từ trời cao xuống, chàng trai trẻ khoảng 25 hay 26 tuổi ra khỏi làng Saint-Servan với vẻ mặt dửng dưng trước thời tiết ấy rất . ta vừa tới đường Châteauneuf.

      Suốt chặng đường ấy ta chỉ dừng lại để ăn trưa qua loa rồi lại qua những mỏm đá hoa cương tiếp tục con đường Boisouze, con đường ngày này biến mất nhường chỗ cho đường cái lớn.

      Mưa bắt đầu xối xuống chảy thành dòng chiếc mũ da và chiếc áo thuỷ thủ cũng làm chàng này rảo bước nhanh hơn. ta với dáng vẻ nhàng với chiếc túi lưng. Biển hú gào đằng sau và cả phía trước nhưng để ý đến biển; tiếng sấm lồng lộn đầu nhưng cũng làm e ngại. Khi đến công trường xây dựng, quang cảnh mở ra trước mặt , dù rất đáng sợ, cũng thu hút chú ý của .

      chàng ấy đến cuối con đường Sillon giao với trại Rocabey. Sillon chỉ là con đê chắn sóng hẹp được dựng lên chặn giữa eo Manche và vịnh nội địa, nó nối Saint-Malo với Saint-Servan.

      Con đê chắn sóng này cao khoảng ba mươi bộ và rộng gần tám bộ. Mỗi lần những con sóng dồn đến đều va vào nó rất mạnh, những đợt sóng chùm lên nó như mái vòm để ụp vào bãi biển đằng sau với tiếng động ghê sợ trong vịnh. Mỗi khi gió và biển quay cuồng eo biển Manche rất đỗi nổi loạn này hiếm có người nào dám mạo hiểm con đường hẹp đó. Người ta kể chỉ người mà cả ngựa cả xe ngựa từng bị hất vào vịnh. Cho nên tốt nhất, mọi người chờ đến khi trời đẹp mới qua Sillon Thế nhưng chàng này vẫn đều bước chân con đường ấy. Hai lần trước khi kịp qua, biển như con quái vật hai đầu há cái miệng rộng như muốn ngốn ngấu ta, đập những đợt sóng khổng lồ như muốn nuốt chàng nhưng chàng đó vẫn vội vàng hơn và khi đến lâu đài ta mới nép vào tường bao, bức tường dù ngăn được mưa nhưng cũng chắn bớt sóng và gió.
      Chỉ khi nước ngập đến đầu gối, kẻ lữ hành của chúng ta mới đến chân cầu cất để vào thành phố. Đến nơi, ta dừng lại để xác định hướng rồi đột ngột rẽ trái và nhanh chóng đến quảng trường nơi ngày nay là quán cà phê Franklin. Đến đây, chàng này như thể nhận ra liền rẽ vào phố nối quảng trường Beune với phố Traversière sau đó bị lạc trước các phố chằng chịt, phố rộng nhất chỉ hơn hai mét. Nhìn thấy thuỷ thủ trú mưa cạnh cánh cổng, vào hỏi:
      - Này bạn, có thể chỉ cho tôi quán trọ của chị Leroux ở đâu ?
      - Quán Chiến thắng chứ gì? - Người thuỷ thủ hỏi.
      - Quán Chiến thắng - Kẻ lữ hành đáp.
      - có biết in tiền bạn? - Người thuỷ thủ hỏi.
      - Chỉ nghe tên thôi.
      - Quỷ tha ma bắt? - Người thuỷ thủ .
      - Có điều gì chắc sao?
      - Ồ có chứ, chỗ đấy dễ lắm nhưng để đến đó phải có cái túi đầy!
      - Cứ chỉ chỗ cho tôi, nếu muốn ăn tối với tôi, chúng ta cùng uống chai vang hảo hạng ở đó và ăn món đùi cừu nuôi ở đồng cỏ mặn.
      - Sẵn sàng thôi - Người thuỷ thủ - Chẳng tội gì phải từ chối người bạn. Tôi gọi ta là ai nhỉ?
      - René - kẻ lữ hành đáp.
      - Hay lắm. Mấy giờ?
      - Bảy đến tám giờ tối nếu muốn. Nhưng tôi thấy vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi.
      - Câu hỏi gì?
      - Tôi hỏi đường đến quá trọ của chị Leroux.
      - Cách đây hai chục bước thôi - Người thuỷ thủ - phố Traversière thấy biển hiệu, nhưng đừng quên để được chào đón ở quán. Chiến thắng, trước tiên phải dốc túi vàng lên quầy và : "mang đồ ăn và đồ uống cho tôi, có tiền trả đàng hoàng".
      - Cảm ơn lời khuyên bổ ích - Kẻ lữ hành đáp rồi tiếp tục lên đường.

      Lần này nhờ có chỉ dẫn, chàng của chúng ta hai chục bước thấy ngôi nhà rất lớn cửa có sẵn biển hiệu có hình con thuyền ba cột buồm và dòng chữ "THUYỀN CHIẾN THẮNG".
      Kẻ lữ hành lưỡng lự lát mới bước vào, chưa bao giờ có tiếng ồn ào lại làm e dè đến thế. Đó là hoà quyện của những tiếng la ó, tiếng chửi rủa, mắng nhiếc, bông đùa. Những thanh mà chỉ trực tiếp thấy người ta mới có cảm nghĩ được.
      Chiếc thuyền chặn thuyền buôn của địch vơ vét được hai thuyền có tên là Niquet, đối thủ của Surcouf, vừa về cách đó vài ngày và mới chia chác cho các thành viên hôm qua. Chưa ai kịp tiêu hết những tất cả số họ thực công việc đó với lòng nhiệt tình giống như cả thành Paris xuất trước những ai sắp kiệt sức. Trận mưa gớm ghiếc mới đây càng khiến họ tụ tập đông đủ trong quán. Tất cả các xe ngựa treo ruy băng dạo, đàn ca, sáo nhị hay những bữa tiệc phù phiếm bị dang dở đều tập trung vào hết tám khách sạn lớn trong thành phố Saint-Malo. Những ai chưa tìm được chỗ trú mưa sang trọng nép tạm ngoài hiên các mái nhà phố hay trong các quán hạng xoàng nơi thuỷ thủ hay lui tới.
      chàng lữ hành sai lầm khi lưỡng lự vào quán vì chẳng có ai để ý đến . Ai cũng mãi bận rộn với việc riêng của mình chẳng hơi đâu mà nghĩ đến việc của người khác. Kẻ uống người hút, kẻ chơi thò lò, người chơi bài lá. Hai bàn bi a lôi kéo chỉ hai mươi lăm hay ba mươi người chơi mà còn năm sáu chục khán giả trèo lên ghế, lên bàn, lên quầy để xem. Giữa cái cảnh xô bồ, nơi tiếng bạc loảng xoảng mặt bàn đá cẩm thạch ngự trị ấy, người nào cũng mải với suy nghĩ của mình. Những giữa đám ồn ào như vậy, người ta khó lòng theo đuổi suy nghĩ của mình được đến cùng, nhất là trong tình trạng nửa tỉnh nửa say, họ bô bô những gì mình nghĩ cho những người xung quanh dù họ chẳng bận tâm và ngay cả người cũng cố gắng bắt người khác nghe làm gì.
      chàng thuỷ thủ của chúng ta len lỏi trong đám sương mù mờ mờ ảo ảo trong các phòng rộng nhà chị Leroux, trong đó có cả lớp khói phả ra từ những lồng ngực quá chén và làn hơi bốc lên từ những bộ quần áo đẫm nước mưa. hỏi nhưng ai trả lời , tìm chị Leroux mà có ai chỉ cho .
      Cuối cùng cũng nhận ra và tiến lại phía chị ta. Về phần mình, bà chủ quán cũng thấy khuôn mặt mới để lộ nụ cười say ngất ngưởng nên cố gắng len lại phía .

      Chị Leroux là phụ nữ thấp béo khoảng ba mươi tuổi. Chị có nụ cười khêu gợi, ngôn từ khá lả lơi và cử chỉ quyến rũ. Nhưng trong trường hợp cần thiết, chị hoàn toàn biết cách cởi bỏ vẻ bề ngoài ấy mà khước từ những ham muốn của khách hàng với chị.
      Khi ấy, chị vòng hai cánh tay tròn lẳn, bàn tay chống nạnh vào hai bên hông, chị mở to đôi mắt cất giọng vang như sấm và hai bàn tay vỗ vào nhau nhanh như tia chớp. Tuy thế khỏi cần phải , chị tiến đến chỗ vị khách mới bằng vẻ mặt của những ngày đẹp trời.
      - Thưa bà, - Chàng lữ khách cất giọng dịu dàng và có cử chỉ lịch lãm như đứng trước quý bà ở Saint-Germain - Cách đây ba ngày, bà có nhận được hai chiếc rương và két bằng gỗ có địa chỉ của công dân René, thuỷ thủ kèm theo lá thư đặt trước phòng ?
      - Có có chứ - Chị Leroux đáp - Phòng sẵn sàng nếu ngài muốn theo tôi, tôi rất vui sướng được tự mình đưa ngài .
      René gật đầu đồng ý rồi theo chị Leroux lên cầu thang đến phòng số 11. Đến đây, nhận ra hai chiếc rương và cái thùng gỗ quen thuộc chờ mình. Đối diện lối giao nhau, bà chủ thông lịnh chuẩn bị sẵn cái bàn, giấy và mực. người có hai chiếc rương và thùng gỗ loại tốt thế kia hẳn phải viết lách gì đó chứ.
      - Công dân ăn dưới nhà hay cho dọn trong phòng này? - Chị Leroux hỏi.
      René nhớ lại lời khuyên của người thuỷ thủ nọ liền thọc tay vào túi lôi ra nắm đồng louis đặt lên bàn.
      - Tôi muốn được dọn ăn này, và chuẩn bị chu đáo - .
      - Ngài được như vậy, như vậy - Chị Leroux ngoác miệng nở nụ cười kiều nhất có thể.
      - Tốt hơn, nhân đây hãy đốt cho tôi đống lửa lớn vì tôi lạnh đến tận xương đây. Bữa ăn tối dọn lúc năm giờ, hai bộ đồ ăn, chàng đến hỏi người có tên là René, đó là tôi, bà hãy chỉ phòng tôi cho ta. Nhất là phải chuẩn bị rượu vang ngon đấy!
      Năm phút sau, ngọn lửa ấm áp cháy bùng phòng số 11.
      Vừa được ở mình, René trút bộ quần áo sũng nước, lấy trong túi bộ quần áo giống hệt như cũ rồi làm vệ sinh cẩn thận, nhưng chỉ trong khuôn khổ trang điểm của chàng thuỷ thủ mà thôi.
      lúc sau, cơn giông tan rất nhanh như cơn bão mùa hè. Nền gạch khô nhanh, bầu trời lại lấp ló những mảng xanh lơ.
      Ngoài mấy giọt nước còn lã chã rơi từ các mái nhà xuống, nàng thiên nhiên lại tươi cười sẵn sàng ve vuốt đám con của mình như bà mẹ vừa nổi cơn tức giận. Đây đó, người ta lại nghe những tiếng thét lanh lảnh rất khó xác định nguồn gốc. Lúc là tiếng rền rĩ đau đớn khi lại là tiếng cười ré lên sung sướng tột độ.

      René mở cửa sổ và nhìn thấy khung cảnh mà thể tưởng tượng. thuỷ thủ mới kiếm được hai nghìn đồng bạc cho lần chặn tàu vừa rồi đến đây để tiêu xài. Những biết làm gì với chỗ còn lại, ta tìm cách cho các đồng bạc vào chảo đun nóng đỏ lên rồi ném vào đám người hiếu kỳ đứng ngoài cửa.
      Họ đổ xô lại nhặt, nhưng những người đầu tiên chạm vào đều giãy nảy, kêu lên đau đớn. vài người chờ đồng bạc nguội mới đến nhặt cho vào túi nên cười ré lên sung sướng.
      Trong đám người hiếu kỳ ấy, René nhận ra người thuỷ thủ ban sáng. Cũng chỉ tiếng nữa là đến bữa tối. Ban đầu, tưởng mình còn thời gian để đến thăm Surcouf ngay trong ngày nhưng sợ được bình tĩnh nên lui chuyến thăm ấy lại đến sáng hôm sau. Vả lại, hà cớ gì phải cáu giận khi được thuỷ thủ thuộc tầng lớp dưới cho thông tin về con người dị kỳ sắp đến gặp? Thế là ra hiệu cho người bạn kia đến gặp mình. Vì người khách còn phải len qua đám đông chật ních dưới nhà nên René kịp rung chuông cho mang xì gà, thuốc lá và bình rượu lên.
      Các đồ vật ấy vừa được đặt lên bàn người thuỷ thủ nọ cũng bước vào. René tiến đến, chìa nắm tay ra bắt rồi chỉ cho ta chiếc ghế cạnh bàn.
      Con người này bắt đầu biết nhìn căn phòng mà ta thấy khá sang trọng cho thuỷ thủ quèn: chai rượu, xì gà và thuốc ngon đủ khẳng định cho ta biết vẫn còn bữa tối nữa chờ.
      - Chà chà? - Người thuỷ thủ - Có vẻ ở quê cũng tệ lắm nhỉ. Hai bộ đồ thuỷ thủ, sang đấy! Tôi ấy à, trong suốt mười năm chạy thuyền, mỗi lần quần áo ướt tôi đều để nó tự khô lưng, tôi chưa bao giờ đủ giàu có để mua hai bộ liền.
      - À điều khiến nhầm lẫn đó là nơi tôi ra khỏi nhà tôi và vùng quê tôi làm việc là vùng quê đầu tiên của tôi. Chỉ có điều tôi có thành ý muốn học hỏi: tôi sợ nguy hiểm, tôi sẵn sàng hoặc hy sinh hoặc tiếp. Người ta với tôi có hai, ba tàu trang bị vũ khí chuẩn bị cuộc đua là Leth, Saint-Aaron và Revenant. Leth có Niquet chỉ huy, Saint-Aaron có Angenard còn Revenant có Surcouf, chọn tàu nào?
      - Lạy Chúa! Mánh hay đấy! chọn rồi.
      - À biển tiếp vậy.
      - Tôi ghi tên từ hôm qua.
      - Cái nào trong số ba thuyền ?
      - Revenant.
      - Đó là cái chạy hay nhất chứ?
      - Sao mà biết được vì nó còn chưa hạ thuỷ. Với Surcouf, hoặc là thuyền phải chạy hoặc nó phải lý do. Xà lan Surcouf cũng cho chạy được nữa là.
      - có vẻ tin tưởng Surcouf nhỉ?
      - À hẳn rồi. Đây phải là lần đầu tôi biển cùng ông ta. Chúng tôi từng cho quân vố chiếc Confiance, chúng tôi còn cho tay John Bull vào đó nữa chứ!
      - bạn có thể kể cho tôi vài vòng hay ho đó ?
      - Nhiều lắm, phải chọn xem cái nào.
      - Tôi nghe đây.
      - Chờ tôi nhớ lại ! - Chàng thuỷ thủ nọ .
      Rồi ta hành động cho xứng với chú ý cần thiết bằng cách rót tý rượu vào ly, uống cạn hơi, ho hai lần rồi mới bắt đầu kể:

      Lần ấy, chúng tôi theo đòng ở gần đảo Ceylan. Mùa làm ăn mở đầu mấy suôn sẻ. Mới đến nhổ neo ở Saint-Anne, chiếc thuyền độc mộc bị lật úp và ba người trèo xuống đó bị cá mập nuốt chửng. Ở khu vực ấy, chỉ cần ở lâu dưới nước là thành mồi cho chúng ngay lập tức.

      Chúng tôi ở phía đông đảo Ceylan. Khi tiến đến vịnh Belgale vận may liên tiếp mỉm cười với chúng tôi: Chưa đầy tháng, chúng tôi chặn được sáu tàu tuyệt vời, chất đầy hàng quan trọng. Với tàu buồm như Confiance, với thuyền trưởng như Surcouf, chúng tôi được phép lại vọng thành công chỉ dừng lại ở đó.

      Thỉnh thoảng chúng tôi cũng gặp những tàu tuần tra lớn của và chúng tôi phải bỏ chạy, điều này cũng ảnh hưởng đến lòng tự ái dân tộc của chúng tôi chút ít. Nhưng buồm căng mạnh và tàu chạy nhanh quá. Ngay cả khi rút chạy chúng tôi vẫn có cảm giác kiêu hãnh khi thoát được bọn cách dễ dàng. Chúng tôi như vậy gần tuần mà gặp đối tượng nào nữa, vào buổi sáng đẹp trời, người đứng gác kêu to: "Có tàu!"
      - Đâu? - Surcouf nghe thấy từ khoang của mình liền nhảy lên boong. - Nó có to ?
      - Khá to, đến độ Confiance thể nuốt ngay nó trong miếng đầu tiên.
      - Chẳng sao! Nó hướng nào?
      - thể xác định được vì nó đứng im.
      Lập tức tất cả ống nhòm và mọi con mắt đều đổ dồn về phía mục tiêu. Quả nhiên người ta nhìn thấy hình kim tự tháp lên trắng mờ qua lớp sương mù dày đặc. Sương ở đây rơi từ đêm và cho đến sáng hôm sau vẫn còn ôm ấp các con tàu.
      Chiếc tàu kia có thể là tàu tuần tra. Nếu nó là tàu chiến, sao, chúng tôi được nghỉ ngơi, còn nếu là tàu buôn, chúng tôi tiếp cận nó.
      Chúng tôi chỉ cách nó gần hai dặm. Dù khó xác định tiềm lực của con tàu với dáng vẻ bề ngoài nhưng dù sao chúng tôi cũng bắt đầu nhận định…
      Đúng lúc đó nhà trọ báo chuẩn bị xong bàn ăn và bữa tối đợi hai thực khách. Hai người đồng hành mới rất vui khi được hàn huyên với nhau, nghe nhau kể chuyện. Lời thông báo có hiệu quả thần kỳ và cả hai đứng dậy, lát sau lại tiếp tục câu chuyện.

    4. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 51: Những người giả mạo


      Gã chủ quán trọ Leroux bị mê hoặc trước nắm tiền vàng lấp lánh giữa những ngón tay của ông khách, vì muốn quấy rầy ta, nên chị ta cho chuẩn bị bữa tối ở phòng bên cạnh. Bàn ăn chất đầy sò huyết, ba loại ly có hình dạng khác nhau được đặt cạnh bò đồ ăn bằng bạc lộng lẫy, kèm theo hai chai rượu vang Chabli. Tất cả đều toát lên vẻ tiện nghi bậc nhất. chàng thủy thủ lâu năm dừng lại trước cửa vừa ngắm nhìn vừa nở nụ cười mãn nguyện trước khung cảnh bày ra trước mắt.
      - Ái chà - ta - Nếu lên thuyền với hy vọng boong ngày nào cũng thế này nhầm to rồi bạn trẻ ạ. Dù ở với Surcouf cũng sang lắm nhưng thông thường ở đó người ta chỉ ăn hạt đậu khô nhiều hơn món gà rô ti.
      - Có sao đâu, khi có hạt đậu, ta ăn hạt đậu nhưng trong khi chờ đến lúc đó, vì ở đây có sò huyết, ta cứ ăn sò huyết thôi. Mà còn điều này nữa, biết tên tôi mà tôi lại chưa biết gọi là gì. Điều này làm tôi khó xưng hô trong lúc chuyện. tên là gì thế?
      - Saint-Jean. tàu người tạ gọi tôi là Grand-Hune vì tôi là người lo đài cột buồm. Đó cũng là vị trí chiến đấu của tôi.
      - Hay lắm, Saint-Jean. ly Chabli chứ?
      - Cái này làm chệch đường đâu, tôi đảm bảo đấy.
      Saint-Jean chìa ly ra rồi uống cạn.
      - Quỷ tha ma bắt - ta sau khi uống xong - Tôi coi loại này chỉ như rượu táo thôi. Rót cho tôi ly nữa, bạn để tôi tạ lỗi với ly thứ nhất vì khách sáo với nó.
      René từ chối, muốn Saint-Jean càng nhiều càng tốt còn mình ngược lại. Chuyện này kể ra cũng khó.

      Sau rượu vang Chabli là đến vang Bordeaux, vang Bourgogne và cuối cùng là Champagne. Về phần mình, Saint-Jean tỏ ra thoải mái và tự nhiên, điều đó chứng tỏ ta là người bộc trực. Khi đến món tráng miệng, René ;
      - Tôi nghĩ đến lúc kể nốt câu chuyện của chúng ta. Làm thế nào mà Surcouf…
      - Hồi nãy, trước khi vào bàn ăn, chúng ta dừng ở chỗ hai tàu cách nhau chỉ hai dặm. Tôi đứng ở vị trí của mình cột buồm, nhìn qua ống nhòm, tôi đoán viên thuyền trưởng của tàu chúng tôi tiếp cận có dàn pháo ngầm, cánh buồm làm theo kiểu . Vấn đề chỉ là xem thực lực của nó thế nào. Trong lúc tôi và thuyền trưởng bàn bạc vị trí của Confiance thay đổi do gió ban đầu thổi nhưng chỉ lát nó đẩy thuyền đến bốn hải lý giờ. Để xác định cụ thể đối thủ là ai, chúng tôi hạ cánh buồm xuống. Lần này con tàu kia cũng làm theo y như chúng tôi. Giá nó to hơn tàu của tôi có lẽ có thể coi nó là cái bóng của chúng tôi vậy. Tuy nhiên, vì khoảng cách nên hai tàu thể đánh giá nhau được. Sau khi chạy được lát ở vận tốc cũ, Confiance dừng ba phần tư mạn trái: chiếc tàu bí hiểm kia cũng lặp lại y hệt hành động ấy. Chúng tôi lại ở vị trí nghiêng, điều khiến chúng tôi hoàn toàn đoán chắc được gì vì có rất nhiều bao và thùng chắn bệ pháo từ đầu này đến đầu kia.
      - bạn có biết - Saint-Jean tiếp - có bà tiên mà người ta quên mời tới dự lễ rửa tội cho Surcouf, đó là bà tiên Kiên Nhẫn. Vả lại, cả đội ai cũng bực tức như thuyền trưởng. Chiếc tàu lạ kia gặp bất hạnh nếu nó cùng cỡ như chúng tôi và để chúng tôi áp sát.
      Càng đến gần, Confiance càng tận dụng được lợi thế chế tạo tuyệt hảo của nó. Tuy nhiên, vì hành động này vô cùng nguy hiểm cho việc mở đầu cuộc chiến nên cuối cùng chúng tôi vẫn chạy sao cho có thể thoát hiểm trong trường hợp cực kỳ cần thiết.
      Surcouf đến ngồi cạnh tôi và :
      - Nhờ trời chỉ lát nữa chúng ta biết liệu con tàu buồm này chơi ngay hay gian. Tối là con sói biển đây, đừng hòng ai dễ dàng qua mặt tôi. Tôi biết mọi mánh khoé gian xảo của lũ cướp tàu buôn. Tôi lại chẳng thấy chúng với cái mẽ bề ngoài ấy à, cả những thuyền trưởng trong nghề cố doạ kẻ nào săn đuổi chúng bằng cách giả vờ cũng muốn tham chiến!
      Surcouf mải mê với những suy nghĩ ấy đến mức hề lưỡng lự cho Confiance chạy vượt lẳn lên. Chuyện này chẳng đáng cười tí nào vì nếu nhầm, chúng tôi có nguy cơ ăn đạn và gặp nguy to.
      Surcouf hạ cột buồm cho vải buồm trượt xuống boong sau đó tiến nhanh về phía thuyền phó.
      - Mẹ kiếp - ông ta và giậm chân xuống sàn - Tôi vừa mắc sai lầm lớn, lẽ ra tôi phải chờ xem cho sức mạnh và bước của bọn .
      Rồi Surcouf vỗ bồm bộp vào đầu, ném mẩu xì gà ra xa, lát sau ông ta mới bình tĩnh trở lại.
      - Đây là bài học, tôi tận dụng nó.
      Sau đó ông ta với ống nhòm theo dõi con tàu nọ đến năm phút rồi các ống đồng lại và gọi đoàn thủy thủ.
      - Tất cả lên boong nhận lệnh!
      - Chúng tôi vội vã quây quanh ông ta.
      - Nhờ Chúa? Đến giờ mọi nghi ngờ của tôi sáng tỏ. Các là những người đàn ông chứ phải con nít nên việc gì phải nhận dấu phát của tôi? Hãy nhìn cái tàu kia, nó đúng là thuyền chiến ba cột buồm.
      - thuyền chiến, quỷ tha ma bắt!
      - Các có biết thuyền chiến đó là gì ? Đó là thuyền Sibylle, cái tên thần thánh? Chúng ta phải cố hết sức mới thoát được khỏi ả điệu đà này. Dẫu sao tôi cũng kẻ ngốc tôi chỉ cho Confiance áp sát, tôi tò mò muốn biết nó bắt kịp chúng ta như thế nào? Chà chà! - Ông ta tiếp tay nắm chặt lại còn hàm răng nghiến vào nhau ken két - Giá mà tôi có thể chia đôi cơ thể của mình, lạy Chúa! Dù điều này chẳng mang lại cho tôi điều gì, tôi vẫn ngông nghênh vài câu chuyện cười trong vài phút với bọn , nhưng còn mọi người trong đoàn, tôi thể mạo hiểm, như thế hy sinh Confiance hy vọng lợi lộc gì; tốt nhất là phải lừa bọn . Thấy , mẹo này có hay ?
      Surcouf ngồi lùi lại đuôi tàu, ngả đầu mình vào hai bàn tay, ông ta suy nghĩ mông lung hồi. Năm phút sau, ông ta tìm ra điều mình cần. Lúc này chúng tôi chỉ cách nửa tầm đạn đại bác.
      - Mang quân phục ra đây! - ông ra lệnh.
      Trong mấy lần cướp gần đây, chúng tôi kiếm được mười hai thùng quân phục người vận chuyển sang Ấn Độ. Linh cảm số đồ này có thể được dùng đến lúc nào đó nên Surcouf cho giữ lại.

      Vừa nghe Surcouf mang quân phục ra, mọi người hiểu và nụ cười lần lượt thay thế nỗi lo âu tất cả các khuôn mặt. Người ta lôi thùng quần áo ra, năm phút sau tàu toàn là người .
      Mỗi người mạnh ai nấy mặc, chàng người vốn là thông ngôn cho chúng tôi mặc bộ đồ thuyền trưởng, Surcouf chỉ mặc bộ đồ thủy thủ bình thường đứng cạnh ta sẵn sàng thầm những câu phải dịch.
      trung uý của chúng tôi, người rất can đảm tên là Bléas, đội chiếc mũ sĩ quan đứng cạnh Surcouf.
      - Tôi xin chờ lệnh thuyền trưởng - ta - Tôi hy vọng ngài đồng ý cho tôi vượt cấp tí.
      - Nhìn cậu đẹp trai lắm - Surcouf vừa vừa cười - Chỉ có điều giờ phải lúc đùa. Hãy chú ý, Bléas. Vì nhiệm vụ tôi giao cho cậu cực kỳ quan trọng. Có hai lý do để cậu làm việc này, thứ nhất cậu là cháu của chủ tàu Confiance, thứ hai cậu tiếng thông thạo vả lại tôi hoàn toàn tin tưởng vào gan dạ, trí thông minh và bình tĩnh của cậu.
      - Thưa thuyền trưởng, tôi chỉ có thể nhắc lại điều tôi vừa , tôi xin chờ lệnh ngài.
      - Cảm ơn Bléas. Cậu lên chiếc xuồng và bơi lại gần thuyền Sibylle.
      Chỉ mười phút ngài thấy tôi lên boong của nó.
      - Ồ chúng ta lên đó - Surcouf - đơn giản thế đâu Trong năm phút tôi muốn thấy xuồng của cậu bị thủng đầy nước.
      - Tôi cũng muốn thấy nó đầy nước, tôi muốn tôi cùng nó, tôi muốn thấy mình bị cá mập đớp trong lúc tôi bơi. Nhưng trước hết tôi muốn biết làm sao tất cả những điều ấy có thể cứu được Confiance.
      - Cậu tin là tôi muốn làm hại cậu chứ, Bléas?
      - Ồ hoàn toàn tin thưa thuyền trưởng.
      - Nếu thế đừng cầu tôi giải thích.
      - Với tôi thế xong nhưng còn những người cùng tôi sao?
      - Cậu cứ yên tâm, họ đóng vai tốt hơn khi biết trước gì cả. ai bị nguy hiểm, cả cậu và họ: Đừng sợ bị bắt làm tù binh, tôi chuộc cậu về bằng cả năm chục tên người . Khi thành công, tôi thưởng lớn cho cậu và người của cậu.
      - Ồ về điều đó thưa thuyền trưởng…
      - Thôi nào, vàng mang lại may mắn, cậu hiểu chưa?
      - Hoàn toàn hiểu.
      - Đừng nhảy xuống nước.
      - Nhưng nếu chúng tôi chết đuối à? - Bléas sững sờ kêu lên.
      - đâu, nhưng ngay khi nước ngập đến mắt cá, hãy quay về phía tàu Sibylle mà kêu cứu bằng tiếng , thoả thuận thế nhé?
      - Vâng, thoả thuận như vậy, thưa thuyền trưởng.
      - Nào, bắt tay nào rồi chúng tôi chuyển ca nô đến.
      Sau đó ông quay sang người giữ xuồng.
      - Kernoch, cậu tin tôi đúng ?
      - Dù sét đánh ngang tai! Tôi tin ngài chứ, tôi biết điều đó mà.
      - Tốt lắm, đừng ngại gì cả, hãy uống ly rượu vang này vì sức khoẻ của tôi rồi cầm lấy mũi dao xoắn này, khi được nửa đường hãy đâm hai, ba nhát vào đáy xuồng để nó ngập nước vào.
      Sau đó Surcouf ghé vào tai Kernoch còn tay luồn vào túi ta thầm vài câu và thả cuộn giấy vào trong túi.
      - cần đâu - Kernoch - Chẳng để làm gì thuyền trưởng ạ!
      - Thế cậu ôm hôn tôi à?
      - Sao lại thế, rất vui là đằng khác. - Người thủy thủ ấy đáp.
      Rồi ta tống vào miệng mình miếng thuốc nhai to như quả trứng gà, ghé vào hai má Surcouf hôn chùn chụt, kiểu hôn mà người dân quen gọi là nụ hôn vú nuôi.
      lát sau, chiếc xuồng do Bléas chỉ huy được đưa xuống nước. Vì đến gần, Confiance hạ tất cả buồm trừ các cánh buồm ngang đài sau đó hãm mạn trái lại giả như bị hỏng. Về phần mình tàu Sibylle cũng làm tương tự áp sát lại. Chúng tôi phát ra những ổ nòng súng được nguỵ trang rất khéo.
      Vừa thấy chúng tôi sáp lại, viên thuyền trưởng tàu hỏi chúng tôi từ đâu đến và tại sao lại sáp lại gần với nhiều buồm như vậy.
      Người thông ngôn dịch lại lời thào của Surcouf đáp rằng chúng tôi vừa nhận ra Sibylle vì cải trang của nó rằng chúng tôi vội vã lại gần như vậy là có tin tốt lành báo cho thuyền trưởng.
      - Tin gì thế - Thuyền trưởng tàu cho người hỏi lại.
      - Tin này có thể giúp ngài thăng thêm cấp bậc cao hơn - Viên thông ngôn lạnh lùng đáp.

      Khi câu này, Surcouf chứng tỏ ông hiểu tâm lý con người. Người nào được báo tin vui hiếm khi nghi ngờ tính xác thực của người thông báo nó. Người ta có thể nhìn thấy vẻ nghi ngờ biến mất nét mặt của thuyền trưởng tàu . Tuy thế vẫn lắc đầu.
      - Lạ , nhìn thuyền của các sao giống thuyền cướp biển của Pháp thế.
      - Quả là có chiếc như vậy - Viên thông ngôn lại - chiếc nổi tiếng nữa là khác - Chúng tôi gặp nó ven Gascogne. Nhưng vì các tàu chặn Bordeaux là những kẻ chạy nhanh nhất thế giới nên chúng tôi đành đuổi theo, nhờ Chúa, hy vọng chúng tôi đuổi được và bắt sống Surcouf.

      Trong lúc cuộc chuyện giữa người thông ngôn và thuyền trưởng tàu diễn ra những người xuồng bắt đầu kêu cứu rất tuyệt vọng mà quả thực nó ngập chìm trong nước.
      Lập tức chúng tôi hô hoán, xin chiếc tàu chiến kia gửi người cứu thủy thủ của chúng tôi vì thuyền cứu hộ của chúng tôi bị hỏng nên thể xuống nước được. Theo luật hàng hải cao nhất, nhiệm vụ đầu tiên của thủy thủ là phải cứu chữa người may gặp nguy hiểm dù là bạn hay thù. Thế là những chiếc ca nô lớn được tàu Sibylle thả xuống để cứu Bléas và thủy thủ của ta.
      - Hãy chỉ cứu thủy thủ của chúng tôi thôi - Viên thông ngôn hét lên - Về chúng tôi, chúng tôi lên bộ rồi quay lại đón họ và cả ca nô.
      Để thực lời đó, Confiance hạ cột buồm mũi, giương cánh buồm vẹt và vượt thẳng lên trước chiếc thuyền chiến.
      Surcouf quả là thiên tài. Khi có gì hại được thuyền của mình nữa ông để cơn vui sướng bộc lộc hả hê.
      - Hãy nhìn đám người kia, chúng ta sai lầm làm sao khi mến họ! Họ giúp người của chúng ta lên boong đấy? Kernoch bị chấn động thần kinh còn Bléas thề danh dự là cậu ấy ngất . Đám cá mập mới đáng làm sao. Tôi nhớ đến chúng. Chúng đóng vai cũng hay lắm. Những người bạn của chúng ta được cứu và chúng ta cũng vậy. Bây giờ hãy chú ý đến hướng tàu! Giương tất cả buồm lên! Ngắm hướng cho kỹ! Căng dây lên. Còn cậu hãy mang cho tôi điếu xì gà châm sẵn đến đây.

      Gió ngoài khơi nổi lên rất mạnh. Chưa bao giờ Confiance lại chạy nhanh như lúc này. Khi thấy nó băng băng, chúng tôi chắc nó cũng nhận thức được mối nguy vừa rồi.
      Tự hào khi được lên con tàu như thế, tất cả chúng tôi nhìn nước cuồn cuộn dọc hai bên mạn với lòng ngưỡng mộ lắm.
      Chẳng mấy chốc, Sibylle nhận ra mánh khoé của chúng tôi khi nó thấy chúng tôi lướt . Nó cất ca nô lên rồi hướng theo chúng tôi nhưng chúng tôi ra ngoài tầm đạn pháo của nó.
      Cuộc rượt đuổi diễn ra ngay lập tức và kéo dài đến tận tối. Màn đêm buông xuống, chúng tôi đánh lạc hướng và thoát khỏi nó.
      Trong suốt câu chuyện ấy, René ngừng rót rượu cho người bạn của mình, khi rượu rhum, tafia khi lại cognac cho đến khi những câu cuối cùng thốt ra cũng là lúc cái đầu của người thủy thủ kể chuyện gục hẳn xuống bàn, những tiếng ngáy vang lên chứng tỏ ta cho những chuyện có thực của ngày trước vào vương quốc giấc ngủ đỏng mất rồi.

    5. meobong271

      meobong271 Active Member

      Bài viết:
      490
      Được thích:
      32
      Chương 52: Thuyền trưởng Surcouf


      René tìm hiểu và được biết từ tám giờ đến mười giờ sáng là thời điểm Surcouf tuyển người. Chính vì vậy, bảy rưỡi, mặc lại bộ đồ của ngày hôm trước, bộ đồ trải qua chặng đường dài khô lại trong đêm. nghĩ xuất trước Surcouf với bộ ấy còn hơn bộ đồ thủy thủ mới lấy từ tiệm cắt may. Tám giờ sáng, đến phố Porcon de la Barbinais, tiếp sang phố Bouchène. Cuối phố Dinan là bức tường thành, đối diện với cổng thành cùng tên là nhà Surcouf, ngôi nhà lớn nằm giữa sân và vườn sau.

      có hơn chục thủy thủ đến sớm hơn René chờ trong phòng. Họ lần lượt vào, để chen lấn, thủy thủ ngồi trước cửa phát số thứ tự cho họ. René cũng phải chờ đến lượt mình. Đó là số 6. Trong lúc chờ đợi, giải khuây bằng cách ngắm nhìn tường nhà treo đầy các loại vũ khí từ khắp các nước.
      tấm da báo đen Java tô điểm thêm cho bộ sưu tập, những mũi tên tẩm những chất độc, những lưỡi gươm chết người, nếu nó đâm chỉ để đường rất nét. tấm da sư tử Atlas bày dưới bộ sưu tập Tunis, những con dao kiểu Algerie, những khẩu súng lục khảm bạc, những con dao quắm như bánh sừng bò
      tấm da bò rừng lót cho bộ sưu tập cung tên, dao lột da và giũa. Cuối cùng là tấm da hổ Belgale đệm dưới bố sưu tập gươm lưỡi mạ vàng tay cầm dát ngọc, những con dao găm mạ có cán bằng ngà voi hay mã não đính nhẫn và vàng bạc. Quả nhiên bốn phần thế giới được đại diện bằng những vũ khí treo bốn bức tường trong phòng chờ ấy. Trong lúc René xem xét những thứ ấy có thêm chực người khác vào lấy số và chờ đợi.

      Thỉnh thoảng có tiếng súng vang lên gần đó. Thực ra, Surcouf ngồi ghế cạnh cửa sổ, trước mặt là khẩu súng lục vài sĩ quan khác đùa bằng cách bắn vào bia trong vườn rộng. Những tấm biển đặt cách xa bị trúng đạn để lại dấu vết lỗ chỗ. phòng nữa dùng làm phòng chứa vũ khí. Ba bốn người tập đấu kiếm hoặc gươm.
      Dù René chỉ mặc bộ đồ thủy thủ bình thường nhưng ngay cái nhìn đầu tiên Surcouf để ý đến và nhận ra mình gặp người mức bề ngoài của bộ đồ. Ông nhìn René từ đầu đến chân và dừng lại ở ánh mắt quyết đoán của chàng trai trẻ. Ông ta ngắm nhìn vóc dáng tuyệt vời, bộ râu đẹp được cắt tỉa tinh tế và nhìn xuống đôi bàn tay để hoàn chỉnh nốt nhận xét của mình, nhưng đôi bàn tay đeo găng cẩn thận, đôi găng ấy cũ những còn súng sính trong lớp gôm. Qua đó, người ta nhận ra cơn người này dù thuộc hàng xa hoa cũng có khát vọng sống xa hoa.

      Do đó, đáp lại cái chào kiểu nhà binh của René, Surcouf ngả mũ ra, điều mà ông quen làm trước các thủy thủ bình thường. Về phần mình, René bao quát toàn bộ Surcouf trong cái nhìn duy nhất. nhận ra trong con người thủy thủ quang vinh người đàn ông trạc ba mốt tuổi, mái tóc vàng cắt ngắn, râu cắt tròn, cái cổ khoẻ nối với đôi vai tráng kiện, dù cái cổ hơi bé nhưng có thể thừa đựng sức mạnh của Héc-quyn.
      - muốn gì ở tôi? - Surcouf hỏi kèm theo cái hất đầu .
      - Tôi biết ngài sắp biển trở lại, tòi muốn được tuyển để cùng ngài.
      - Tôi đoán phải như thủy thủ chứ? - Surcouf hỏi.
      - Chỉ như thủy thủ bình thường thôi - René nghiêng người đáp lại.
      Surcouf nhìn lại đầy ngạc nhiên.
      - Cho phép tôi thẳng - Surcouf tiếp - có dáng làm thủy thủ mà giống cậu bé đánh giầy hơn.
      - Thưa ngài, có lẽ vậy nhưng dù nghề khó nhọc nhường nào cũng khó khi người ta có ý chí quyết tâm học nó.
      - Nhưng cần phải có sức nữa.
      - Bù cho sức mạnh, người ta có thể làm nhiều việc khác. Hình như tôi thấy người canh cánh buồm ngang hay thả dây buồm xuống cũng cần nhiều sức lắm.
      - Trong nghề của chúng tôi có những việc nặng đòi hỏi phải có sức mạnh. Giả sử phải nạp đạn, có tin mình nâng được quả đạn cỡ bốn mươi tám lên đến miệng nòng đại bác ?
      Rồi ông ta lấy chân đẩy quả đạn cỡ bốn muơi tám đến cạnh René.
      - Tôi nghĩ chuyện ấy dễ ợt! - René đáp.
      - Hãy thử xem nào!
      René cúi xuống, nhấc nó chỉ bằng tay như thể nhấc hòn bóng bi rồi ném qua đầu Surcouf ra vườn. Nó chỉ dừng lại sau khi lăn chừng hai mươi bước. Surcouf đứng lên nhìn theo nó rồi lại ngồi xuống.
      - Thế là tôi yên tâm rồi. tàu Revenant, cả tôi nữa mới có năm hay sáu người có khả năng làm được như . Cho phép tôi xem tay được ?
      René mỉm cười tháo găng ra chìa đôi tay thon mềm cho Surcouf xem. Ông ta ngắm nghía mãi rồi kêu lên gọi các sĩ quan ở cửa sổ bên cạnh.
      - Lạy Chúa! Các lại đây mà xem chuyện lạ này.
      Các sĩ quan lại gần.
      - Đây là bàn tay con . - Surcouf tiếp - Thế mà nó vừa ném quả đạn cỡ bốn mươi tám qua đầu tôi và xa như các thấy đấy.
      Bàn tay của René chỉ như bàn tay phụ nữ trong đôi tay vạm vỡ của Surcouf nhưng với chàng khổng lồ Kernoch chúng chỉ giống như tay trẻ con.
      - Thôi nào thuyền trưởng, ngài giễu chúng tôi đấy à? Đây mà gọi là tay sao? - Kernoch .
      Và kèm theo hành động coi thường hất mạnh cánh tay ấy ra xa. Surcouf vội ngăn Kernoch lại nhưng chính René lại cản Surcouf.
      - Thưa thuyền trưởng, ngài cho phép chứ?
      - Làm bạn, làm - Surcouf hồ hởi và chờ điều bất ngờ giống như mọi cái đầu bề .
      Thế là René lấy đà nhảy những qua cửa sổ lao ra vườn mà còn vượt qua cả thanh ngang. Cách quả tạ René ném vài bước có quả nữa giống như vậy, chắc là để cho ngài Surcouf tập luyện mà người ta chưa đem vào. René đặt quả lên lòng bàn tay, quả kia lên phần giữa khuỷu tay và bàn tay, cánh tay của gần như duỗi thẳng rồi mang cả hai vào đến cửa sổ, chia ra mỗi tay quả, nhảy chụm chân qua cửa sổ, luồn mình dưới thanh chắn ngang rồi vào phòng khách đưa trái cho Kernoch.
      - ly rượu táo cho cả đoàn và cho người ném xa nhất - René .
      vừa thực các động tác nhàng và uyển chuyển đến nỗi những người chứng kiến ở đó phải sờ vào hai viên đạn để chắc chắn xem chúng có phải làm bằng gang hay .
      - Này Kernoch, bạn của tôi, đây là lời đề nghị mà thể từ chối đâu.
      - Tôi cũng có từ chối đâu - Kernoch - Miễn là ông chủ Saint-Jacques bỏ tôi…
      - Vì danh dự của ngài - René theo kiểu người Bretagne.
      Kernoch cúi người tự nhặt quả đạn lên, tập trung toàn bộ sức mạnh vào chân và cánh tay phải, cả hai thứ căng ra như cây cung, chỉ động tác quả đạn bay qua cửa sổ rơi cách đó mười bước và lăn thêm ba bốn bước nữa dừng lại.
      - Đó là tất cả những gì con người có thể làm được - Kernoch - Chỉ có quỷ mới làm được hơn.
      - Tôi phải là quỷ thưa ngài Kernoch - René - Nhưng tôi cho rằng chính ngài đãi cả đội.
      Rồi chỉ cần đung đưa cánh tay, với lần đung đưa thứ ba ném xa hơn quả của Kernoch ba bốn bước và nó lăn thêm hơn chục bước nữa. Surcouf kêu to vui sướng còn Kernoch gầm lên vì tức giận. Tất cả những người khác im bặt vì sững sờ. ràng vừa ném xong René tái mét và buộc phải tựa vào thành lò sưởi.
      Surcouf lo lắng nhìn , chồm về phía cái tủ , lấy bi đông rượu đưa cho René.
      - Cảm ơn - René - Tôi bao giờ uống rượu.
      Rồi lại phía bình nước đặt khay có cái ly và đường. rót ít nước vào ly rồi uống cạn. Lát sau, nụ cười xuất môi còn đôi má hồng trở lại.
      - muốn phục thù , Kernoch? - trung uý hải quân ở cạnh đó hỏi.
      - lòng là - Kernoch đáp.
      - Vậy tôi có thể làm gì cho thoải mái ? - René hỏi.
      - Có! Kernoch đáp - Hãy làm dấu thánh giá .
      René mỉm cười và làm dấu thánh giá kèm theo lời cầu nguyện: "Con tin vào Chúa trời, đức cha toàn năng, người tạo ra trời và đất".
      - Thưa các ngài - Surcouf - Làm ơn hãy để tôi chuyện riêng với chàng trai trẻ này.
      Tất cả lui ra, Kernoch vẫn còn càu nhàu còn những người khác bụm miệng cười.

      Khi còn lại mình với Surcouf, René lại trở lên điềm tĩnh và giản dị như trước. người khác có lẽ vài lời tâng bốc chiến thắng vừa rồi nhưng chỉ im lặng chờ Surcouf lên tiếng.
      - bạn - Surcouf tươi cười - tôi biết còn biết làm gì khác ngoài việc vừa làm trước mặt tôi, nhưng người biết nhảy cao bốn bộ và ném được quả đạn bằng gang cỡ bốn tám luôn là người có ích trong con tàu của tôi. Điều kiện của là gì?
      - chỗ ngủ, đồ ăn tàu và quyền được hy sinh vì nước Pháp, đó là tất cả những gì tôi muốn, thưa ngài.
      - bạn thân mến - Surcouf - tôi có thói quen trả công cho những gì người ta phục vụ.
      - Nhưng thủy thủ chưa biển bao giờ, thủy thủ biết mình có ích gì ngược lại chính ngài lại là người mất công dạy nghề cho ta.
      - phần ba thủy thủ đoàn là người của tôi. Cậu thích hợp được hưởng điều kiện tốt nhất nhưng ở mức thủy thủ kém nhất, cậu đồng ý chứ?
      - , thưa thuyền trưởng, vì người của ngài thấy tôi chẳng biết làm gì cả, cái gì cũng phải học, họ tố cáo tôi lấy cắp tiền của ngài chứ phải kiếm được. Nếu ngài muốn, sau sáu tháng chúng ta bàn lại chuyện này, hôm nay cứ để nó đấy .
      - Có chuyện này, bạn thân mến, chỉ biết nhảy như Milon de Crotone mà còn có đôi tay khoẻ như Remus. Chẳng hay là thợ săn à?
      - Săn bắn là trong những sở thích của thời trẻ của tôi - René đáp.
      - Này thợ săn, bắn được súng ngắn chứ?
      - Như tất cả mọi người.
      - Các loại vũ khí khác?
      - Đủ để khiến tôi mất mạng.
      - Được lắm! Chúng tôi có tàu những tay súng rất giỏi và phòng vũ khí mà ai trong đoàn cũng thích tập gươm hoặc đao hàng giờ. làm như những người khác và sau ba tháng, có sức mạnh như họ.
      - Tôi hy vọng như vậy. - René đáp.
      - Như vậy chúng ta chỉ còn vấn đề tiền lương nữa thôi.
      - Chúng ta thoả thuận nó phải trong sáu tháng nữa mà ngay bữa tối nay vì tôi hy vọng vui lòng dùng bữa với tôi chứ?
      - Ồ về chuyện này, thưa thuyền trưởng, tôi xin cảm ơn ngài dành vinh hạnh ấy cho tôi.
      - Trong lúc chờ đợi, có muốn xem các tay súng của chúng tôi ?
      Kernoch và Bléas thi với nhau, họ là hai người ngang tài ngang sức nên mỗi khi tranh lài cao thấp họ khó mà bỏ dễ dàng.
      Surcouf dẫn René đến cánh cửa khác. Cửa sổ này hướng ra tấm biển bằng gang đặt cách đó khoảng hai mươi lăm bước.
      đường kẻ dọc màu trắng ngăn đôi tấm biển dùng làm điểm ngắm. Hai thủy thủ tiếp tục cuộc thi tài để ý đến hai người mới đến. Mỗi phát súng bắn ra, hai bên lại rộ lên những tiếng vỗ tay. Chưa phải tài cao bậc nhất nhưng hai người này quả có sức mạnh đáng nể.
      René cũng vỗ tay như những người khác. Kernoch bắn phát trúng đường kẻ.
      - Hoan hô! - René lên tiếng.

      Kernoch hằm hằm nhìn gì, lẳng lặng lấy khẩu súng thứ hai từ tay Bléas đưa cho René.
      - Ngài muốn tôi làm gì với nó? - René hỏi.
      - Vừa nãy chứng tỏ cho chúng tôi thấy sức mạnh của mình - Kernoch - Tôi hy vọng từ chối chứng tỏ khéo léo của mình chứ.
      - Rất sẵn lòng thưa ngài. Ngài để cho tôi cơ may ít quá khi bắn trúng đường kẻ, nhưng chắc có lẽ ngài cũng nhận ra viên đạn của mình hơi lệch phải.
      - Thế sao? - Kernoch hỏi.
      - Thế tôi chỉnh cho nó trúng giữa!
      Rồi nhanh như cắt, đến nỗi người ta tưởng chàng này chưa kịp ngắm siết cò. Viên đạn lao đúng vào đường kẻ và người ta ngỡ phải dùng com pa mới đo vết đạn hằn tấm bia.
      Các thủy thủ sững sờ nhìn nhau còn Surcouf phá lên cười:
      - Thế nào Kernoch, cậu sao về lần này nhỉ?
      - Tôi rằng đó chỉ là lần ăn may, nếu phải bắt đầu lại…
      - Được rồi, René - Chúng ta bắt đầu lại trò trẻ con ấy nữa mà tôi đề nghị ngài trò khác.
      liếc mắt nhìn ra xung quanh và nhận ra cái bàn có những chiếc bánh đóng dấu đỏ. lấy năm chiếc, nhảy vào vườn dính nó lên tấm bia sao cho chúng thành phần năm hình vuông rồi nhảy qua cửa sổ nhàng như trước với lấy súng bắn nát lần lượt năm mẩu bánh để lại vết nào bia. Sau đó quay lại đưa súng cho Kernoch:
      - Đến lượt ngài.
      Kernoch lắc đầu.
      - Cảm ơn, tôi là người Bretagne và là con chiên ngoan đạo, trò này là trò của quỷ, tôi dây vào.
      - Cậu có lý đấy Kernoch- Surcouf cất lời - Và để cho quỷ chơi xấu chúng ta, chúng ta mang ta lên tàu Revenant.
      Rồi ông mở cửa phòng bên cạnh nơi ông có vị thầy dạy sử dụng các loại vũ khí biển. Surcouf vốn tinh thông các bài luyện cơ thể nên ông muốn mọi thủy thủ cũng như ông nên ông cho mời người thầy dạy kiếm và đại kiếm:
      Tất cả nhảy vào tấn công. Surcouf và René ngắm nhìn lát sau đó Surcouf hỏi René cú đâm mà ông thấy khó tránh.
      - Nếu là tôi - Chàng trai - Tôi chống lại bằng cú bật góc tư rồi bồi nhát đâm thẳng.
      - Thưa ngài - ông thày dạy kiếm vuốt râu - Đó là cách khiến cậu thành ẻo lả như vậy.
      - Có thể thưa thầy - René đáp - Chính vì vậy mà tôi rất chậm trong các cú đỡ và ra đòn.
      - này đến để xin học à? - ông thầy vừa cười vừa hỏi Surcouf.
      - Cẩn thận đấy ông Bras-d Acier thân mến - Surcouf - khéo ta đến để dạy ngài cũng nên. ta từng hai lần như vậy trước khi đến đây rồi đấy. Tôi nghĩ nếu học sinh của ngài chịu cho ta mượn kiếm tập của ta, chẳng mấy chốc ngài là bài học thứ ba.
      - Chasse-Boeuf- ông thầy - Hãy đưa kiếm tập của cho ngài đây, ta cố thực lời khuyên vừa rồi với ngài.
      - Ngài thấy được điều đó đâu ngài Chasse-Boeuf - René - hành động vô lễ khi chạm vào người thầy. Tôi chỉ đỡ thôi.
      Và vừa nhận thanh kiếm tập từ tay người học trò, René bằng vẻ duyên dáng tuyệt vời thực động tác chào và vào vị trí thủ thế. Vậy là bắt đầu trận đấu lạ lùng đối với thầy Bras-d Acier.

      Mọi đợt tấn công của ông ta đều bị René cản được thậm chí ông ta sử dụng những cú tấn công phức tạp nhất vẫn đều vô ích, mọi lưỡi của ông ta đều bị gạt sang hai bên.
      Nhận thấy ông thầy Bras-d Acier chịu nhượng bộ, các thủ kiếm lại chào rất quý tộc như lúc ban đầu rồi dược.
      Surcouf dẫn ra cổng hẹn nhớ đến đúng giờ bữa tối tức là lúc năm giờ.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :