1. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Hỏa Ngục - Dan Brown (end)

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 32
      Type: Candy Lai
      Il Corridoio Vasariano – Hành lang Vasari – được Giorgio Vasari thiết kế năm 1564 theo lệnh của người đứng đầu gia tộc Medici, Đại Công tước Cosimo I, để tạo thành lối an toàn từ tư dinh của ngài tại Cung điện Pitti tới trụ sở hành chính nằm ở Cung điện Vecchio bên kia song Arno.

      Tương tự như đường hầm Passetoo nổi tiếng của Tòa thánh Vatican, Hành lang Vasari là lối bí mật hoàn hảo. Nó kéo dài gần kí-lô-mét từ góc phía đông của vườn Boboli tới trung tâm của cung điện cũ, chạy ngang qua cầu Ponte Vecchio và uốn lượn qua Bảo tàng Uffizi.

      Ngày nay, Hành lang Vasari vẫn là nơi trú an toàn, mặc dù phải cho các quý tộc nhà Medici mà là cho các tác phẩm nghệ thuật. Với dãy tường bảo vệ dường như vô tận, hành lang chính là chỗ cất giữ vô vàn bức tranh hiếm hoi đổ về từ Bảo tàng Uffizi nổi tiếng thế giới, nơi hành lang chạy ngang qua.

      Langdon vào đó vài năm trước trong chuyến du lịch riêng. Chiều hôm ấy, dừng lại để chiêm ngưỡng kho tranh đẹp lạ thường trong hành lang, bao gồm cả bộ sưu tập chân dung tự họa đồ sộ nhất thế giới. cũng dừng lại vài lần để ngó qua những ô cửa quan sát của hành lang, nơi khách bộ hành có thể phán đoán được lộ trình của mình dọc theo lối nằm ở cao này.

      Tuy nhiên, sáng hôm nay, Langdon và Sienna di chuyển qua hành lang bằng cách chạy, mong chóng thoát khỏi những kẻ truy đuổi họ ở đầu bên kia càng xa càng tốt. Langdon tự hỏi mất bao lâu để người ta phát ra chàng bảo vệ bị trói.Đường hầm trải dài hun hút trước mắt, Langdon cảm thấy mỗi bước lại dẫn họ tới gần thứ họ tìm kiếm.

      Cerca trova… cặp mắt chết chóc… và câu trả lời xem kẻ nào truy đuổi mình.

      Tiếng động cơ của chiếc trực thăng người lái lúc này nghe xa tít phía sau họ.Càng sâu vào đường hầm, Langdon càng nhớ ra lối này quả kỳ công kiến trúc đầy tham vọng.Nằm cao hơn thành phố gần hết chiều dài của nó. Hành lang Vasari giống như con rắn lớn, uốn mình qua những tòa nhà, suốt từ Cung điện Pitti, vượt qua song Arno, chạy vào trung tâm thành cổ Florence. Lối hẹp, quét vôi trắng dường như trải dài vô tận, thỉnh thoảng mới hơi rẽ sang trái hoặc phải để tránh vật cản, nhưng luôn luôn tiến về phía đông… qua sông Arno.

      Bất ngờ có những tiếng vang phía trước họ, ngay trong hành lang, và Sienna đứng phắt lại. Langdon cũng đứng lại, bình thản đặt bàn tay lên vai , ra hiệu về phía ô cửa quan sát gần đó.

      Khách du lịch ngay bên dưới.

      Langdon và Sienna tiến lại phía ô cửa và nhận ra, lúc này họ ở phía Porte Vecchio – cây cầu đá thời Trung cổ có chức năng như lối cho khách bộ hành tiến vào thành cổ. Bên dưới họ, những vị khách du lịch đầu tiên trong ngày thích thú tận hưởng phiên chợ hợp ngay cầu, mở ra kể từ những năm 1400. Ngày hôm nay, những người bán hàng chủ yếu là thợ kim hoàn và người làm đồ trang sức, nhưng phải lúc nào cũng như vậy. Ban đầu, cây cầu là nơi hợp chợ bán thịt ngoài trời rất lớn của Florence, nhưng năm 1593 những người bán thịt bị xua đuổi vì mùi thịt ôi lọt vào Hành lang Vasari khiến khứu giác tinh tế của Đại Công tước vô cùng khó chịu.

      Đâu đó cây cầu phía dưới, Langdon nhớ lại, chính là nơi trong những tội ác khét tiếng nhất của Florence từng xảy ra. Năm 1216, quý tộc trẻ tên Buondelmonte vì tình đích thực mà từ chối cuộc hôn nhân do gia đình sắp đặt, và vì quyết định đó, chàng bị giết cách tàn bạo ngay cây cầu này.

      Cái chết của chàng, từ lâu vẫn được coi là “vụ án mạng đẫm máu nhất Florence”, vì nó tạo ra mối bất hòa giữa hai phe chính trị quyền thế - gia tộc Guelph và gia tộc Ghibelline. Ngay sau đó, họ phát động chiến tranh huynh đệ tương tàn suốt nhiều thế kỷ.Vì mối cừu thù chính trị này mà Dante phải rời khỏi Florence. Nhà thi hào đau đớn đưa kiện đó vào Thần khúc: Ôi Buondelmonte, theo lời khuyên của kẻ khác, chàng thoái thác lời hứa hôn nhân của mình, và dẫn tới tội ác như vậy!

      Ngày nay, có thể tìm thấy ba tấm bảng riêng biệt gần vị trí vụ án mạng – mỗi tấm trích dòng khác nhau từ khổ XVI trong Thiên đường của Dante. trong số đó nằm ở đầu cầu Ponte Vecchio và đầy tính chất điểm báo thế này:

      NHƯNG TRONG THỜI KỲ THÁI BÌNH

      CUỐI CÙNG, ĐỊNH MỆNH MANG TỚI CHO VỊ THẦN

      GIÁM HỘ BẰNG ĐÁ BỊ THƯƠNG 18 CÂY CẦU

      CỦA THÀNH PHỐ FLORENCE… NẠN NHÂN.



      Langdon rời mắt khỏi cây cầu, nhìn xuống nước sông xám xịt.Ở phía đông, ngọn tháp lẻ loi của Cung điện Vecchio nổi bật hẳn lên.

      Mặc dù Langdon và Sienna mới chỉ qua được nửa sông Arno, nhưng thấy rằng họ vượt qua giới hạn quay lại từ lâu.

      ***
       

      Cách gần mười mét phía dưới, nền đá cuội của cầu Ponte Vecchio, Vayentha sốt ruột quan sát đám đông qua lại mà thể ngờ được rằng cơ hội lập công chuộc tội duy nhất của ả, chỉ vài phút trước, qua ngay đầu.

                        

      18 Theo truyền thuyết, người La Mã thành lập thành phố Florence vào thế kỷ I trước Công nguyên.Họ xây hẳn đền thờ lớn thờ thần Chiến tranh (Mars) như là vị thần bảo vệ thành phố, cùng với bức tượng thần cưỡi ngựa.Sau này, khi người Thiên Chúa giáo đến Florence, nhà thờ được xây dựng và ngoại giáo bị bài trừ.Người dân Florence di chuyển tượng thần Chiến tranh lên cái bệ nằm bên sông Arno.Khi người Goth chiếm Florence, họ xô đổ bức tượng xuống sông.Đến thế kỷ VIII sau Công nguyên, khi Charlemagne xây lại thành phố, bức tượng được khôi phục và mặc dù hư hại, nó vẫn được đặt cây cột gần đầu phía bắc cầu Ponte Vecchio.Bức tượng “bị thương”nhưng với người dân Florence, nó vẫn là biểu tượng cho bảo hộ của thần thánh.Bức tượng tồn tại qua cả thời kỳ của Dante và bị nhấn chìm trở lại xuống sông Arno trong trận lụt vào năm 1333.
      Chương 33
      Type: Candy Lai
      Sâu trong khoang con tàu The Mendacium buông neo, điều phối viên Knowlton ngồi mình trong buồng của mình, cố tập trung vào công việc nhưng được. Đầy lo lắng, ta xem lại đoạn video và suốt giờ qua vẫn phân tích đoạn độc thoại dài chín phút nửa thiên tài nửa điên cuồng.

      Knowlton tua lại từ đầu, tìm kiếm bất kỳ manh mối nào ta có thể bỏ sót. ta bỏ qua tấm biển chìm dưới nước… bỏ qua cái túi treo lơ lửng đựng đầy thứ chất lỏng màu nâu vàng đùng đục… và tìm tới khoảnh khắc cái bóng có mũi chim xuất cái bóng dị dạng in lên vách hang nước… được thắp quầng sáng đỏ yếu ớt.

      Knowlton lắng nghe giọng bị bóp méo, cố giải mã thử ngôn ngữ phức tạp. Đoạn độc thoại trôi qua khoảng nửa, cái bóng tường đột nhiên phình to hơn và thanh giọng tăng hẳn.

      “Địa ngục của Dante phải hư cấu… nó là lời tiên tri!

      Nổi thống khổ cùng cực.Những bất hạnh giày vò.Đây là viễn cảnh của ngày mai.

      Nhân loại, nếu được kìm hãm, giống như đại dịch, thứ ung thư… Dân số tăng lên qua mỗi thế hệ kế tiếp nhau cho tới khi những tiện nghi trần tục từng nuôi dưỡng đức hạnh và tình huynh đệ của chúng ta mai thành hư … khơi gợi những con quái vật ngay trong chúng ta… tranh đấu sống mái để nuôi sống con cháu chúng ta.

      Đây chính là địa ngục chín tầng của Dante.

      Đây là những gì chờ đợi.

      Khi tương lai lao thẳng vào chúng ta, được tiếp sức bằng phép toán học kinh khủng của Malthus, chính là lúc chúng ta chao đảo bên tầng địa ngục thứ nhất… chuẩn bị rơi xuống nhanh hơn chúng ta hình dung.”

      Knowlton cho dừng đoạn video.Toán học của Malthus ư? Tìm kiếm nhanh Internet cung cấp cho ta thông tin về nhà toán học kiêm nhân khẩu học nổi bật người ở thế kỷ XIX có tên Thomas Robert Malthus, người dự đoán sụp đổ tất yếu toàn cầu do tình trạng quá tải dân số.

      Knowlton lo sợ khi thấy tiểu sử của Malthus còn có cả đoạn trích bi quan từ cuốn sách Luận về nguyên tắc dân số của ông:

      “Sức mạnh của dân số vượt xa sức mạnh tạo ra sinh kế cho con người trái đất, đến mức tình trạng chết yểu viếng thăm loài người dưới hình thức nào đó. Những thói xấu của loài người chính là tác nhân tích cực cho việc giảm dân số.Nhiều nhan nhản, chúng là điềm báo trước cho hủy diệt, và thường tự chúng hoàn tất công việc kinh khủng ấy.Nhưng nếu chúng thất bại trong cuộc chiến tiêu diệt này, mùa đau ốm, các căn bệnh, trận dịch, và dịch hạch tràn tới mạnh mẽ và quét lúc hàng nghìn hàng vạn người. Nếu thành công vẫn chưa trọn vẹn, nạn đói thể tránh khỏi lén theo sau, và bằng đòn khủng khiếp đưa dân số về tương ứng với lượng lương thực của thế giới.”

      Tim đập thình thịch, Knowlton nhìn lại hình ảnh tạm dừng của bóng đen có mũi hình mỏ chim.

      Nhân loại, nếu được kìm hãm, giống như thứ ung thư.

      Nếu được kìm hãm.Knowlton thích cách đó lắm.

      Ngón tay đầy do dự, ta cho đoạn video chạy tiếp.

      Giọng bị bóp méo tiếp tục vang lên.

      làm gì tức là đón chào địa ngục của Dante… chật chội và đói khát, đắm đuối trong Tội lỗi.

      Và ta mạnh dạn hành động.

      số kẻ co rúm lại vì sợ hãi, nhưng cứu rỗi nào cũng có giá của nó.

      có ngày thế giới hiểu hy sinh cao cả của ta.

      Vì ta là Cứu rỗi.

      Ta là Vong linh.

      Ta là cánh cửa vào kỷ nguyên Hậu loài người.”
      Chương 34
      Type: Candy Lai


      Cung điện Vecchio giống hệt quân cờ khổng lồ. Với phần mặt tiền hình tứ giác vững chải và những bức tường có lỗ châu mai vuông vức, tòa cung điện hình quân xe đồ sộ này tọa lạc ở vị trí rất phù hợp, trấn giữ góc đông nam của Quảng trường Signoria.

      Tòa tháp duy nhất rất lạ thường của cung điện, vươn lên ở trung tâm pháo đìa vuông vức này, như mặt cắt rất đặc trưng in đường chân trời và trở thành biểu tượng độc nhất vô nhị của Florence.

      Là trung tâm quyền lực của chính quyền Ý, tòa cung điện khiến cho những vị khách tới đây có ấn tượng đặc biệt về vô số tượng nam giới. Tượng thần biển Neptune vạm vỡ của Ammannati đứng khỏa thân lưng bốn con hải mã – biểu tượng cho địa vị thống trị của Florence biển. bản sao tượng David của Michelangelo – nhân vật nam giới khỏa thân được chiêm ngưỡng nhiều nhất thế giới – đứng kiêu hãnh ngay lối vào cung điện.Cùng nhập hội với David HerculesCacus – hai nhân vật nam khỏa thân khổng lồ khác – phối hợp cùng những dâm thần của Neptune, chào đón các vị khách tới cung điện bằng cách phô ra hơn tá dương vật.

      Thông thường, những lần tới tham quan Cung điện Vecchio của Langdon đều bắt đầu từ Quảng trường Signoria – trong những quảng trường ưa thích nhất ở châu Âu, mặc dù nó có quá nhiều tượng nam giới khỏa thân. thể coi là tới thăm quảng trường nếu chưa nhâm nhi tách cà phê espresso tại quán Caffè Rivoire, rồi chiêm ngưỡng những chú sư tử nhà Medici tại Loggia dei Lanzi – khu trưng bày điêu khắc ngoài trời của quảng trường.

      Nhưng hôm nay, Langdon và người bạn đồng hành dự định tiến vào Cung điện Vecchio qua Hành lang Vasari, giống như các công tước nhà Medici vẫn thường làm lúc sinh thời – qua Bảo tàng Uffizi nổi tiếng và bám theo hành lang uốn lượn phía những cây cầu, đường sá và qua những tòa nhà, tiến thẳng vào trung tâm của cung điện cũ. Cho đến lúc này, họ chưa hề nghe thấy tiếng bước chân bám theo phía sau, nhưng Langdon vẫn rất sốt ruột mong thoát ra khỏi hành lang.

      Giờ chúng mình đến nơi rồi, Langdon nhận ra như vậy, mắt hướng về cánh cửa gỗ nặng nề trước mặt.Lối vào cung điện cũ.

      Cánh cửa đó, mặc dù có kết cấu khóa chắc chắn, vẫn được gia cố thêm then ngang, hình thành lối thoát khẩn cấp đồng thời ngăn bất kỳ kẻ nào ở phía bên kia xâm nhập vào Hành lang Vasari mà có thẻ từ.

      Tiếng ổ khóa nảy lên.

      Ô cửa gỗ hé ra vài phân, Langdon ghé mắt nhìn ra bên ngoài. hốc phòng .Vắng vẻ. Im ắng.

      Chúng ta vào trong.

      Đứng bên trong hốc phòng đâu đó trong Cung điện Vecchio, Langdon đợi lát và cố gắng trấn tĩnh lại. Trước mặt họ là hành lang dài chạy vuông góc với hốc phòng. Bên trái họ, cách quãng, có những tiếng vọng lên hành lang, bình tĩnh và vui vẻ. Cung điện Vecchio, giống như Điện Capitol ở Hoa Kỳ, vừa là điểm du lịch vừa là trụ sở làm việc của chính phủ. Vào giờ này, những giọng họ nghe thấy chắc chắn là của các viên chức hối hả ra vào văn phòng, sẵn sàng cho ngày làm việc mới

      Langdon và Sienna nhích dần trong hành lang và ngó qua góc tường. Đúng như dự đoán, phía cuối hành lang là tiền sảnh có hơn chục viên chức chính quyền đứng nhâm nhi cà phê espresso buổi sáng và chuyện phiếm với đồng nghiệp trước giờ làm việc.

      “Bích họa Vasari”, Sienna thào, “ nó ở trong Sảnh Năm trăm phải ?”

      Langdon gật đầu và chỉ qua tiền sảnh đông đúc về phía khuôn cửa trổ thẳng vào hành lang . “Rất tiếc, lại phải qua tiền sảnh đó.”

      chắc chứ?”

      Langdon gật đầu.“Chúng ta có cách nào vượt qua đó mà bị ai phát .”

      “Họ đều là nhân viên chính phủ.Họ quan tâm đến chúng ta đâu.Cứ việc tới như thể là người ở đây.”

      Sienna tiến lại, nhàng vuốt thẳng chiếc áo vét hiệu Brioni của Langdon và chỉnh lại cổ áo. “Trông bảnh rồi đấy, Robert.” e thẹn mỉm cười nhìn , chỉnh lại áo len của mình, và bước ra.

      Langdon vội vã bám theo , cả hai đường hoàng sải bước về phía tiền sảnh. Khi họ bước vào, Sienna bắt đầu với rất nhanh bằng tiếng Ý – chuyện gì đó liên quan đến bảo hộ nông trại – say sưa khoa chân múa tay trong lúc . Họ tiến thẳng tới bức tường ngoài cùng, giữ khoảng cách với những người khác.Langdon vô cùng ngạc nhiên vì đúng là hề có nhân viên nào để ý đến họ.

      Khi qua tiền sảnh, họ nhanh chóng tiếp cận hành lang. Langdon nhớ lại chương trình biểu diễn kịch Shakespeare. nữ láu cá. đúng là diễn viên”, thào.

      “Tôi buộc phải làm thế”, đáp lời, giọng có phần xa cách kỳ lạ.

      Lại lần nữa, Langdon cảm thấy có điều gì đó trong quá khứ của người phụ nữ trẻ này còn đau đớn hơn cả những gì biết, và càng lúc càng hối hận vì lôi vào tình huống rắc rối nguy hiểm cùng mình. tự nhủ rằng lúc này chưa có gì xong xuôi cả, ngoại trừ nhìn nhận cho thấu đáo.

      Cứ tiếp tục bơi qua đường hầm… và cầu mong nhìn thấy ánh sáng.

      Khi tới gần khuôn cửa, Langdon thở phào nhận thấy trí nhớ của mình vẫn rất tốt. tấm biển có mũi tên chỉ qua góc tường vào hành lang cùng lời ghi: II. SALONE DEI CINQUECENTO. Sảnh Năm trăm, Langdon nghĩ, tự hỏi biết những câu trả lời nào đợi họ bên trong. Chỉ có thể nắm bắt được chân lý qua cặp mắt chết chóc. Điều này có nghĩa là gì nhỉ?

      “Có thể phòng vẫn khóa”, Langdon lưu ý khi họ đến gần góc tường. Mặc dù Sảnh Năm trăm là điểm du lịch quen thuộc nhưng sáng nay lại chưa mở cửa.

      có nghe thấy tiếng đó ?”, Sienna hỏi, và dừng phắt lại.

      Langdon nghe thấy.Có tiếng ầm ĩ rất to tiến lại gần ngay chỗ góc tường. Xin hãy với tôi rằng đó phải là chiếc máy bay người lái trong nhà. Rất thận trọng, Langdon ngó qua góc ô cửa. Cách đó ba mươi thước là cánh cửa gỗ đơn giản kỳ lạ mở vào Sảnh Năm trăm. Rất tiếc, chính giữa cửa lại là nhân viên bảo vệ to béo đẩy cổ máy đánh bóng sàn chạy điện theo vòng tròn.

      Nhân viên gác cửa.

      Langdon chú ý đến ba biểu tượng tấm biển nhựa bên ngoài cửa. Ngay cả những nhà biểu tượng học ít kinh nghiệm nhất cũng nhận ra các biểu tượng quen thuộc này: máy quay có dấu X, cốc uống nước có dấu X, và hai hình người, nam và nữ.

      Langdon hành động ngay, sải bước nhanh về phía nhân viên bảo vệ, hơi chậm bước khi lại gần người đó hơn. Sienna rảo bước sát theo sau .

      Nhân viên bảo vệ ngước lên, có vẻ hơi giật mình.“Xin lỗi!” Ông ta giơ tay chặn Langdon và Sienna lại.

      Langdon mỉm cười khổ sở, đúng hơn là nhăn nhó với ông ta và ra hiệu về phía mấy biểu tượng gần cửa.“Nhà vệ sinh”, , giọng cuốn quýt. Đó phải là câu hỏi.

      Ông bảo vệ lưỡng lự chút, vẻ sẵn sàng từ chối cầu của họ, nhưng cuối cùng nhìn thấy dáng lấy gì làm thoải mái của Langdon, ông ta gật đầu vẻ thông cảm và vẫy tay cho họ qua.

      Khi tới cửa, Langdon nháy mắt nhanh với Sienna.“Lòng trắc ngôn ngữ phổ thông.”

    2. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 35
      có thời, Sảnh Năm trăm là gian phòng rộng nhất thế giới. Nó được xây dựng năm 1494 để làm nơi hội họp cho toàn thể Consiglio Maggiore – Đại hội đồng gồm đúng năm trăm ủy viên của nền Cộng hòa – vì thế thành tên của sảnh. Vài năm sau, theo lệnh của Cosimo I, phòng được cải tạo và mở rộng đáng kể. Consimo I, nhân vật quyền thế nhất nước Ý, chọn Giorgio Vasari làm giám công kiêm kiến trúc sư của dự án.
      Để hoàn thành công trình đặc biệt này, Vasari cho nâng phần mái cũ và cho ánh sáng tự nhiên tràn vào qua các cửa sổ con rất cao ở cả bốn mặt gian phòng, tạo thành gian trang nhã trưng bày những bức tranh, tác phẩm điêu khắc và kiến trúc đẹp nhất của Florence.
      Sàn của gian phòng này luôn thu hút ánh mắt của Langdon trước tiên, vì nó như tuyên bố rằng đây phải là gian bình thường. Phần sàn bằng đá son cùng hệ thống đường kẻ ô màu đen tạo cho gian rộng nghìn trăm mười lăm mét vuông này vẻ vững chãi, sâu và cân bằng.
      Langdon từ từ nhướng mắt nhìn về đầu kia của gian phòng, nơi sáu bức điêu khắc – Những kỳ công của Hercules – xếp hàng dọc theo tường như toán binh sĩ. Langdon cố ý bỏ qua tác phẩm Hercules và Diomedes vẫn thường xuyên bị chê bai, mô tả những thân hình trần truồng mắc cứng trong trận đấu vật trông rất quyết liệt, với động tác “bóp dương vật” đầy tính sáng tạo vẫn luôn khiến Langdon phát hãi.
      Dễ bắt mắt hơn là tác phẩm Thần Chiến thắng đẹp mê hồn của Michelangelo đứng ở bên phải, choáng hết hốc chính giữa của bức tường phía nam. Cao gần ba mét, tác phẩm điêu khắc này dự định dành cho phần mộ của vị giáo hoàng gây nhiều tranh cãi Julius II – được mệnh danh là Đức Thánh Cha Đáng sợ - nhiệm vụ Langdon luôn thấy rất châm biếm, nếu xét đến quan điểm về tình dục đồng giới của Vatican. Bức tượng mô tả Tommaso dei Cavalieri, chàng thanh niên mà Michelangelo say đắm và cũng là người ông viết tặng hơn ba trăm bài thơ.
      “Tôi thể tin là mình lại chưa bao giờ đến đây!”, Sienna thào bên cạnh , giọng đột nhiên nhàng và đầy thành kính. “Nơi này… đẹp quá!”
      Langdon gật đầu, nhớ lại lần đầu tới thăm khu vực này, nhân buổi hòa nhạc cổ điển đặc biệt của nghệ sĩ piano lừng danh thế giới Mariele Keymel. Mặc dù đại sảnh này là nơi hội họp chính trị và thiết triều của ngài Đại Công tước, nhưng giờ đây nó được dành cho các nhạc sĩ, nhà diễn thuyết và những buổi dạ tiệc - tử sử gia nghệ thuật Maurizio Seracini đến dạ tiệc khai trương chỉ có hai màu đen-trắng của Bảo hành Gucci. Nhiều lúc Langdon tự hỏi Cosimo I cảm thấy thế nào về chuyện phải chia đại sảnh riêng vốn rất chân phương của mình với các vị CEO và người mẫu thời trang.
      Langdon hướng ánh mắt sang những bích họa đồ sộ tô điểm cho các bức tường. Lịch sử kỳ lạ của chúng còn bao gồm kỹ thuật vẽ thực nghiệm bất thành của Leonardo da Vinci, với kết quả là “kiệt tác tan chảy.” Cũng từng có “cuộc thi tài” nghệ thuật do Piero Soderini và Machiavelli dẫn dắt, sử dụng hai người khổng lồ của thời Phục Hưng – Michelangelo và Leonardo – đấu với nhau, bằng cách ra lệnh cho họ sáng tạo ra những bích họa ở các bức tường đối diện nhau trong cùng căn phòng.
      Tuy nhiên, hôm nay, Langdon quan tâm đến trong những điểm kỳ quặc mang tích lịch sử khác của căn phòng này.
      Cerca trova.
      “Cái nào là của Vasari?”, Sienna hỏi, đưa mắt nhìn các bích họa.
      “Gần như tất cả”, Langdon đáp, biết việc để cải tạo căn phòng, Vasari cùng các phụ tá phải vẽ lại gần như mọi thứ bên trong, từ những bức bích họa nguyên gốc tới ba mươi chín ô trang trí phần trần “treo” nổi tiếng của gian phòng.
      “Những bích họa kia”, Langdon , chỉ bức bích họa ở bên phải họ, “mới là bức chúng ta muốn xem – Trận Marciano của Vasari”.
      Bức tranh mô tả cảnh đối đầu quân quả là đồ sộ - dài trăm sáu mươi lăm mét và cao hơn ba tầng nhà. Nó được khắc họa bằng các gam màu nâu đỏ và xanh lục – đại cảnh dữ dội với lính, ngựa, giáo mác cùng những lá cờ va đụng nhau sườn đồi ở vùng quê.
      “Vasari, Vasari”, Sienna thào. “Và thông điệp bí mật của ông ấy được giấu đâu đó trong bức tranh ấy ư?”
      Langdon gật đầu trong lúc nheo mắt nhìn lên đỉnh bức bích họa khổng lồ, cố gắng định vị lá cờ trận màu lục đặc biệt, Vasari vẽ lên đó thông điệp bí của ông – CERCA TROVA. “Gần như thể nhìn thấy từ dưới này mà dùng ống nhòm”, Langdon , chỉ tay lên bức tranh, “nhưng ở khoang giữa cùng, ngay phía dưới hai ngôi nhà nông trại sườn đồi, có lá cờ màu xanh lục hơi nghiêng xíu và…”.
      “Tôi nhìn thấy rồi!”, Sienna , tay chỉ lên góc bên phải, rất đúng vị trí.
      Langdon ao ước có được cặp mắt tinh tường hơn.
      Hai người bước lại gần bức bích họa cao nhất, Langdon ngước nhìn vẻ tráng lệ của nó. Cuối cùng, họ ở đây. Vấn đề duy nhất lúc này là Langdon biết chắc tại sao họ lại đến đây. đứng im lặng rất lâu, đăm đăm nhìn những chi tiết trong kiệt tác của Vasari.
      Nếu ta thất bại… khi đó tất cả chết.
      cánh cửa hé mở phía sau họ, và ông bảo vệ cùng cái máy lau sàn ngó vào, vẻ ngập ngừng. Sienna vẫy tay chào đầy thân thiện. Ông bảo vệ nhìn họ lát rồi khép cửa lại.
      “Chúng ta có nhiều thời gian đâu, Robert”, Sienna giục. “ cần nghĩ xem. Bức tranh có gợi cho điều gì ? Bất kỳ ký ức gì ?”
      Langdon chăm chú nhìn cảnh chiến trận hỗn loạn phía họ.
      Chỉ có thể nắm bắt được chân lý qua cặp mắt chết chóc.
      Langdon từng nghĩ có lẽ trong bức bích họa có xác chết với ánh mắt vô hồn nhìn về phía manh mối nào đó trong bức tranh… hoặc thậm chí là vị trí nào đó trong gian phòng. Tiếc thay, lúc này Langdon thấy rằng có đến hàng chục xác chết trong bức bích họa, và cái xác nào đáng chú ý cũng như có cặp mắt người chết nào hướng tới bất kỳ nơi nào đặc biệt.
      Chỉ có thể nắm bắt được chân lý qua cặp mắt chết chóc ư?
      cố gắng mường tượng các đường kết nối từ xác chết này tới xác chết khác, băn khoăn biết có thể ra hình thù gì nhưng chẳng thấy gì cả.
      Đầu Langdon lại căng rần rật trong lúc cố lục tung những tầng sau trí nhớ của mình. Đâu đó, giọng của người phụ nữ tóc bạc vẫn thầm: Hãy tìm kiếm và thấy.
      “Tìm cái gì chứ?”, Langdon muốn hét to lên.
      cố nhắm mắt lại và từ từ thở ra. xoay vai vài lần và cố gắng giải phóng mình khỏi tất cả những suy nghĩ có ý thức, hy vọng chạm đến bản năng sâu thẳm.
      Rất xin lỗi.
      Vasari.
      Cerca trova.
      Chỉ có thể nắm bắt được chân lý qua cặp mắt chết chóc.
      Bản năng mách bảo, chắc chắn tìm đúng chỗ. Và dù lúc này hiểu nổi tại sao, vẫn có cảm nhận rệt rằng chẳng mấy chốc mình thông suốt mọi chuyện.
      ***
      Đặc vụ Bruder hững hờ nhìn đống quần áo chẽn nhung màu đỏ trong tủ trưng bày trước mắt mình và rủa thầm. Đội SRS của ta lục soát khắp khu trưng bày phục trang, nhưng tìm thấy Langdon và Sienna Brooks ở đây cả.
      Giám sát và hỗ trợ phản ứng, ta giận dữ nghĩ. Kể từ lúc nào thằng cha giáo sư đại học lại thoát khỏi tay SRS chứ? Bọn họ biến chỗ quái nào rồi!
      “Mọi lối ra đều phong tỏa”, người của ta khẳng định. “Khả năng duy nhất là bọn họ vẫn còn trong khu vườn.”
      Điều này dường như khá hợp lý nhưng Bruder lại có cảm giác rằng Langdon và Sienna tìm được lối thoát nào đó.
      “Cho máy bay bay lại ”, Bruder quát. “Và lệnh cho giới chức địa phương mở rộng phạm vi tìm kiếm bên ngoài các bức tường.” Mẹ kiếp!
      Trong khi người của mình tỏa , Bruder vớ lấy điện thoại và gọi cho người có trách nhiệm. “Bruder đây”, ta . “Tôi e là chúng ta gặp phải vấn đề rất nghiêm trọng. Thực tế là rất nhiều vấn đề.”


    3. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      CHƯƠNG 36
      Type: TMT


      Chỉ có thể nắm bắt được chân lý qua cặp mắt chết chóc.

      Sienna lập lại những từ này trong lúc tiếp tục xem xét từng phần trong quang cảnh chiến trận dữ dội của Vasari, hy vọng có thể thấy chi tiết gì đó nổi bật.

      nhìn thấy những đôi mắt chết chóc ở khắp mọi nơi.

      Bọn mình tìm kiếm cặp mắt nào đây?

      tự hỏi liệu cặp mắt chết chóc có ám chỉ đến những xác chết thối rữa rải rác khắp châu Âu do dịch hạch .

      Ít nhất điều đó cũng giải thích cho cái mặt nạ dịch hạch…

      Bất ngờ, bài đồng dao trẻ con nảy ra trong tâm trí Sienna: Cổ đeo chuỗi hồng hoa. Túi đầy cỏ với hoa. Hóa thành đám tro tàn. Tất cả đều ra ma.

      thường hát bài đồng dao này trong khi còn là nữ sinh ở cho tới khi nghe bài đồng dao xuất xứ từ trận dịch hạch ở London năm 1665. Người ta cho rằng, chuỗi hồng hoa là đến những cục hạch sưng tấy có quầng đỏ da phát triển thanh chuỗi và là dấu hiệu cho thấy người bị nhiễm bệnh. Người bệnh thường mang theo trong túi áo đầy các loại thảo dược hoặc hoa với hy vọng được bảo vệ trước mùi cơ thể bị hủy hoại của chính họ cũng như mùi hôi thối của cả thành phố, nơi hàng trăm nạn nhân dịch hạch bỏ mạng mỗi ngày, và xác họ được hỏa thiêu sau đó. Hóa thành đám tro tàn(*). Tất cả đều ra ma.

      (*)Nguyên tác là “Ashes, ashes”, vừa mang nghĩa là “tro tàn” sau khi xác người bệnh bị hỏa thiêu, nhưng cũng đồng với

      “Hắt xì” là dấu hiệu của tượng chớm bệnh.


      “Ơn Chúa”, Langdon đột ngột buột miệng, xoay người về phía bức tường đối diện.

      Sienna tò mò. “Có gì ổn à?”

      “Đó là tên tác phẩm nghệ thuật từng được trưng bày ở đây. Ơn Chúa.”

      Bối rối, Sienna nhìn Langdon vội vã băng ngang phòng về phía cánh cửa kính và cố gắng mở ra. Cửa bịkhóa. áp mặt vào kính, khum hai bàn tay quanh mắt và nhìn vào bên trong.

      Dù Langdon cố tìm kiếm cái gì, Sienna cũng hy vọng tìm thấy nhanh. Ông bảo vệ vừa xuất lần nữa, lần này mang vẻ mặt nghi ngờ rất ràng khi nhìn thấy Langdon tới săm soi cánh cửa khóa kỹ.

      Sienna rối rít vẫy tay với ông bảo vệ, nhưng ông ta lạnh lùng nhìn lúc lâu và mất.


      ***


      Lo Studiolo.

      Nằm phía sau cánh cửa kính, ngay đối diện mấy từ cerca trova được giấu kĩ trong Sảnh Năm trăm là, là gian xíu có cửa sổ. Được Vasari thiết kế như phòng làm việc bí mật cho Công tước Francesco I, gian Studiolo vuông vức có trần uống thành vòng tròn như hầm rượu, khiến cho người bên trong có cảm giác như ở trong hòm châu báu cỡ lớn.

      Rất phù hợp là nội thất gian phòng cũng lấp lánh những món đồ đầy thẩm mỹ. Hơn ba mươi bức tranh hiếm có trang hoàng cho những bức tường và trần nhà, được treo sát nhau đến mức còn gian trống nào tường. Cú ngã của Icarus…Phúng dụ đời người…Mẹ Thiên nhiên tặng Prometheus bảo ngọc…

      Lúc nhìn qua lớp kính vào gian rực rỡ phía sau, Langdon thào với chính mình “Cặp mắt chết chóc.”
      Lần đầu tiên Langdon ở bên trong Lo Studiolo là cách đây vài năm, trong chuyến tham quan riêng theo các lối bí mật của cung điện. sững sờ khi biết có vô số cánh cửa, cầu thang và lối bí mật trong cung điện, chẳng khác gì tổ ong, kể cả vài hạng mục được giấu kín phía sau những bức vẽ bên trong Lo Studiolo.

      Tuy nhiên, các lối bí mật phải là thứ khiến Langdon quan tâm. Thay vào đó, chú ý đến tác phẩm nghệ thuật đại rất táo bạo được trưng bày ở đây - Ơn Chúa – tác phẩm gây tranh cãi của Damien Hirst, từng gây sóng gió khi xuất bên trong Studiolo lừng danh của Vasari.

      cái khuôn đầu lâu kích thước bằng platinum đặc, bề mặt phủ kín hơn tám nghìn viên kim cương nạm sáng lấp lánh ra. Hiệu ứng vô cùng ấn tượng. Hai hốc mắt trống rỗng của cái sọ lấp loáng ánh sáng và đầy sức sống, tạo ra cặp biểu tượng đối lập nhau – sống và cái chết, vẻ đẹp và hãi hùng. Mặc dù cái sọ kim cương của Hirst bị chuyển khỏi Lo Studiolo từ lâu nhưng ký ức về nó làm cho Langdon nảy ra ý tưởng.

      Cặp mắt chết chóc, nghĩ bụng. cái đầu lâu là chuẩn xác, phải nhỉ?

      Đầu lâu là chủ đề thường xuyên xuất trong Hỏa ngục của Dante, nổi tiếng nhất là hình phạt tàn khốc đối với Bá tước Ugolino ở tầng địa ngục thấp nhất - ông ta bị kết án phải mãi mãi gặp đầu lâu của vị tổng giám mục xấu xa.

      Phải chăng bọn mình tìm cái đầu lâu?

      Langdon biết , gian Studilo bí được xây dựng theo kiểu “tủ bách khoa toàn tư” truyền thống. Gần như tất cả bức vẽ của gian phòng đều lắp bản lề bí mật, có thể xoay thành những hộc tủ, nơi Công tước cất giữ những món đồ lạ lùng mà ông quan tâm - các mẫu khoáng vật hiếm hoi, những sợi lông vũ đẹp mắt, háo thạch vỏ ốc vũ hoàn hảo, và thậm chí người ta còn cho rằng có cả xương ống chân của nhà sư được trang trí bằng bạc.

      Rất tiếc, Langdon ngờ rằng tất cả món đồ tranh sức trong các hộc tủ đều được dọn sách từ lâu, và chưa từng nghe có bất kỳ hộp sọ nào được trưng bày ở đây, ngoại trừ tác phẩm của Hirst.

      Suy nghĩ của bị đứt quãng bởi tiếng cửa đóng mạnh ở đầu sảnh bên kia. Những tiếng bước chân vội vã băng qua sảnh tiến lại rất nhanh.

      “Thưa ông!”, giọng giận dữ quát lên. “Sảnh này mở cửa!”

      Langdon quay lại nhìn thấy nữ nhân viên tiến về phía mình. ấy , với mái tóc nâu cắt ngắn. ấy mang bầu rất lớn. Người phụ nữ hối hả tiến lại phía họ, tay chỉ vào đồng hồ và lớn tiếng gì đó về việc khu vực này chưa mở cửa. Lúc tiến lại gần hơn, bắt gặp ánh mắt Langdon và lập tức dứng sững lại, sững sốt đưa tay che miệng.

      “Giáo sư Langdon!”, ấy kêu lên , vẻ bối rối. “Tôi xin lỗi! Tôi biết ở đây. Chào mừng trở lại!”

      Langdon cứng đờ người.

      tin chắc mình chưa bao giờ gặp người phụ nữ này trước đó.

    4. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      CHƯƠNG 37
      Type: TMT



      “Tôi suýt nữa nhận ra , thưa giáo sư!”, người phụ nữ bằng thứ tiếng nằng nặng trong lúc tiến lại gần Langdon. “May nhờ trang phục của .” mỉm cười trìu mến và gật đầu tán thưởng bộ cánh Brioni của Langdon. “Rất thời trang. Trông chẳng khác gì người Ý.”

      Miệng Langdon khô khốc, nhưng cố nở nụ cười nhã nhặn lúc người phụ nữ đến bên . “Xin…chào chị!”, ấp úng. “Chị khỏe ?”

      ấy bật cười, tay ôm lấy bụng. “Kiệt sức mất rồi. Con bé Catalina đêm nào cũng quẫy đạp.” Người phụ nữ nhìn quanh phòng, vẻ ngơ ngác. “Ngài Tiểu Mái vòm hề quay lại đây hôm nay. Tôi cứ ngỡ ông ấy cùng ?”

      Ngài Tiểu Mái vòm ư? Langdon hoàn toàn hiểu đến ai.

      Người phụ nữ ràng nhận ra vẻ bối rối của và phì cười trấn an. “ sao, tất cả mọi người ở Florence đều gọi ông ấy bằng biệt danh đó. Ông ấy bận tâm đâu.” nhìn xung quanh. “Ông ấy dẫn vào à?”

      “Đúng vậy” , Sienna lên tiếng và bước lại từ bên kia sảnh, “Nhưng ông ấy có cuộc hẹn ăn sáng. Ông ấy các chị phiền nếu chúng tôi ngắm nghía quanh quẩn ở đây.”. Sienna nhiệt thành chìa tay ra. “Tôi là Sienna . Em của Robert.”

      Người phụ nữ bắt tay Sienna có phần hơi quá trịnh trọng. “Tôi là Marta Alvarez. là may mắn vì có hẳn giáo sư Langdon làm hướng dẫn viên riêng.”

      “Vâng”, Sienna tán dương, cố giấu động tác đảo mắt. “ ấy rất thông minh.”

      khí chợt yên ắng và có phần gượng gạo khi người phụ nữ ngắm nhìn Sienna. “Buồn cười nhỉ”, ấy , “tôi chẳng thấy có nét nào giống nhau. Có lẽ trừ chiều cao của .”

      Langdon cảm thấy như sắp có vụ va chạm tàu hỏa đến nơi. Ngay lúc này hoặc hết cơ hội.

      “Marta”, Langdon ngắt lời, hy vọng mình nghe chính xác tên của người phụ nữ. “Tôi xin lỗi làm phiền chị nhưng…tôi đoán có lẽ chị biết lý do vì sao tôi lại ở đây.”

      hề”, ấy trả lời, mắt hơi nheo lại. “Tôi tài nào tưởng tượng được là làm gì ở đây.”

      Tim Langdon đập rộn lên, và trong khoảnh khắc im lặng gượng gạo sau đó, nhận ra canh bạc của mình sắp thua đến nơi. Đột nhiên Marta nhoẻn miệng rồi bật cười to.

      “Thưa giáo sư, tôi đùa thôi! Dĩ nhiên, tôi có thể đoán tại sao quay lại. Thành , tôi biết tại sao lại thấy việc đó thú vị, nhưng vì và ngài Tiểu Mái vòm bỏ gần tiếng đó đêm qua nên tôi đoán quay lại để cho em xem phải ?”

      “Phải…”, vội đáp. “Chính xác đấy. Tôi rất muốn chỉ cho Sienna xem, nếu việc đó …phiền?”

      Marta ngước nhìn lên ban công tầng hai và nhún vai. “ sao. Tôi cũng lên đó bây giờ.”

      Tim Langdon đập rộn lên khi nhìn lên ban công tầng hai ở phía sau sảnh. Mình đó tối qua ư? chẳng nhớ gì cả. Cái ban công ấy, biết , ngoại trừ ở đúng độ cao với mấy từ cerca trova, còn là lối vào bảo tàng của cung điện, nơi Langdon luôn tới thăm mỗi khi ở đây.

      Marta định dẫn họ qua sảnh chợt dừng lại, như thể vừa nghĩ ra gì đó. “Này, giáo sư, chẳng lẽ chúng ta tìm được thứ gì đó kinh dị hơn cho em đáng của xem à?”

      Langdon chẳng biết sao.

      “Chúng ta xem thứ kinh dị à?”, Sienna hỏi. “Cái gì thế? ấy hề với tôi.”

      Marta mỉm cười duyên dáng và liếc nhìn Langdon. “Giáo sư, có muốn tôi cho em biết về nó , hay muốn tự mình làm việc đó hơn?”

      Langdon gần như vồ lấy cơ hội đó. “Tất nhiên rồi, Marta, tại sao chị lại kể cho ấy nghe chứ?”

      Marta quay lại phía Sienna, rất chậm rãi. “Tôi biết trai kể với những gì, nhưng chúng ta lên bảo tàng để xem cái mặt nạ rất khác thường.”

      Mắt Sienna hơi mở to. “Mặt nạ gì cơ? Có phải cái mặt nạ dịch hạch xấu òm người ta vẫn đeo dịp Carnevale ?”

      “Đoán giỏi lắm”, Marta , “nhưng , phải mặt nạ dịch hạch đâu. Là loại mặt nạ khác hẳn. Người ta gọi là mặt nạ người chết.”

      Marta nghe tiếng Langdon há miệng sững sốt. lừ mắt nhìn , ràng nghĩ rằng cố tình tỏ ra kịch tính cách thái quá để dọa em .

      “Đừng có nghe trai ”, ấy . “Mặt nạ người chết là phong tục rất phổ biến vào thế kỷ XVI. Về bản nó chỉ là cái khuôn thạch cao theo đúng gương mặt của ai đó, được đúc thời gian sau khi người đó qua đời.”

      Mặt nạ người chết! Langdon cảm thấy tia sáng đầu tiên kể từ lúc tỉnh lại ở Florence. Hỏa ngục của Dante…Nhìn qua cặp mắt chết chóc. Mặt nạ!

      Sienna lên tiếng hỏi, “Người ta dùng khuôn mặt ai để đúc chiếc mặt nạ?!”

      Langdon đặt tay lên vai Sienna và cố gắng trả lời cách bình thản nhất. “ thi sĩ nổi tiếng của Ý. Tên ông ấy là Dante Alighieri.”






    5. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 38
      Typer: Tiểu Quỷ
      Mặt trời Địa Trung Hải chiếu rực rỡ boong tàu The Mendacium trong lúc nó lắc lư theo những đợt sóng biển Adriatic. Cảm thấy mệt mỏi, Thị trưởng uống cạn ly Scotch thứ hai và thẫn thờ nhìn ra ngoài cửa sổ phòng làm việc.
      Tin tức từ Florence được tốt.
      Có lẽ phần do lần đầu tiên uống rượu sau thời gian rất dài, nên ông ta cảm thấy mất phương hướng và bất lực cách lạ lùng, như thể con tàu này mất động cơ và trôi nổi vô định theo thủy triều.
      Cảm giác là điều rất xa lạ với Thị trưởng. Trong thế giới của ông ta, luôn tồn tại thứ la bàn đáng tin cậy – quy trình – và chưa bao giờ chỉ đường sai cả. Quy trình là thứ giúp ông ta đưa những quyết định khó khăn mà cần phải xem xét lại.
      Cũng chính quy trình cầu phải từ chối Vayentha, và Thị trưởng thực việc đó chút do dự. Ta xử lý ả ngay khi vụ khủng hoảng tại chấm dứt.
      Cũng chính quy trình đòi hỏi Thị trưởng biết về các khách hàng của mình càng ít càng tốt. Cách đây rất lâu ông ta quyết định rằng Consortium có trách nhiện đạo đức để phán xét họ.
      Cung cấp dịch vụ.
      Tin tưởng khách hàng.
      đặt câu hỏi.
      Giống như lãnh đạo của hầu hết các công ty khác, Thị trưởng chỉ cung cấp dịch vụ với giá định rằng các dịch vụ ấy được thực trong khuôn khổ luật pháp. cho cùng, hãng Volvo có trách nhiệm đảm bảo rằng những bà mẹ nôn nóng20 phóng nhanh qua khu vực trường học, cũng chẳng khác gì việc hãng Dell phải chịu trách nhiệm nếu có ai đó sử dụng máy tính của họ để tấn công tài khoản ngân hàng.
      Còn lúc này, trước tất cả mọi chuyện diễn ra, Thị trưởng thầm rủa cái đầu mối liên hệ đáng tin cậy giới thiệu vị khách hàng này cho Consortium.
      “Ông ấy đòi hỏi nhiều về hậu mãi và chi tiền rất hào phóng”, đầu mối liên hệ quả quyết với ông ta. “Ông ta rất giỏi, là siêu sao trong lĩnh vực của mình, và vô cùng giàu có. Ông ấy chỉ cần biến mất trong hoặc hai năm thôi. Ông ấy muốn mua khoảng thời gian yên tĩnh để thực dự án quan trọng.”
      Thị trưởng đồng ý mà cần suy nghĩ nhiều. Bố trí chỗ lưu trú dài hạn luôn là dịch vụ dễ kiếm tiền, và Thị trưởng tin tưởng vào khả năng của đầu mối liên hệ.
      Đúng như mong đợi công việc đem lại bộn tiền.
      Cho tới tuần trước.
      Giờ đây, trước tình trạng hỗn loạn mà người đàn ông này gây ra. Thị trưởng thấy mình vòng quanh chai Scotch và đếm từng ngày mong cho trách nhiệm của mình với vị khách này nhanh kết thuc.
      Điện thoại bàn réo vang, Thị trưởng nhận ra đó là Knowlton, trong những điều phối hàng đầu của mình, gọi từ tầng dưới.
      “Ừ”, ông ta đáp.
      “Thưa ngài”, Knowlton bắt đầu , giọng đầy lo lắng. “Tôi muốn làm phiền ngài chuyện này, nhưng có lẽ ngài biết, chúng ta có nhiệm vụ đăng tải đoạn video lên cho truyền thông vào ngày mai.”
      “Phải”, Thị trưởng trả lời. “ chuẩn bị xong chưa?”
      xong, nhưng tôi nghĩ có lẽ ngài cần xem trước khi đưa lên.”
      Thị trưởng sững lại, hiểu lời đề nghị. “Đoạn video có nhắc đến tên chúng ta hay làm ảnh hưởng thế nào đó đến chúng ta ?”
      , thưa ngài, nhưng nội dung khá phiền phức. Ông khách xuất màn hình và …”
      “Thôi ”, Thị trưởng ra lệnh, sửng sốt vì điều phối viên cao cấp lại dám đề xuất việc phá vỡ quy trình ngang nhiên như vậy. “Nội dung là thứ vô hình. Cho dù có vấn đề gì đoạn video của ông ta cũng phải được công bố, dù qua hay qua chúng ta. Ông khách đó có thể dễ dàng công bố đoạn video này bằng hình thức điện tử, nhưng ông ta thuê chúng ta. Ông ta trả tiền chúng ta. Ông ấy tin tưởng chúng ta.”
      “Vâng, thưa ngài!”
      được trả tiền để làm nhà phê bình phim”, Thị trưởng cảnh cáo. “ được trả tiền để giữ lời hứa. Hãy thực công việc của mình.”
      ***
      cầu Ponte Vecchieo, Vayentha vẫn đợi, đôi mắt sắc lẹm của ả quét qua hàng trăm gương mặt cầu. Ả rất cảnh giác và cảm thấy chắc chắn rằng Langdon chưa qua mặt mình, nhưng chiếc máy bay người lái im tiếng, ràng nhiệm vụ truy tìm của nó còn cần thiết nữa.
      Chắc Bruder tóm được ta.
      Đây miễn cưỡng, ả bắt đầu nghĩ tới viễn cảnh u ám về phiên điều trần ở Consortium. Hay còn tệ hơn nữa.
      Vayentha lại nghĩ tới hai đặc vụ từng bị từ chối… chẳng bao giờ còn nghe đến họ nữa. Chắc họ chỉ chuyển sang công việc khác, ả tự trấn an mình. Thế nhưng lúc này, ả tự hỏi liệu ả có nên phóng xe vào vùng núi Tuscany, biến mất và sử dụng những kỹ năng của mình để bắt đầu cuộc sống mới hay .
      Nhưng ta có thể trốn tránh họ được bao lâu?
      Rất nhiều mục tiêu tận mắt chứng kiến khi Consortium để bạn vào tầm ngắm chuyện giữ bí mật trở thành điều ảo tưởng. Vấn đề chỉ là thời gian mà thôi.
      Lẽ nào nghiệp của ta lại kết thúc như thế này? Ả tự hỏi, vẫn tài nào chấp nhận được rằng công việc suốt mười hai năm ròng rã của ả ở Consortium lại chấm hết vì loạt những cố may. Suốt cả năm trời ả thận trọng giám sát những nhu cầu của vị khách hàng mắt xanh. Ông ấy nhảy lầu tự sát đâu phải lỗi của ta… và dường như ta rơi theo ông ấy.
      Cơ hội chuộc tội duy nhất của ả là qua mặt được Bruder… nhưng ngay từ đầu ả biết đây là việc ít có khả năng thành công.
      Đêm qua ta có cơ hội, nhưng ta lại thất bại.
      Lúc miễn cưỡng quay lại chiếc xe máy của mình, Vayentha đột nhiên nhận ra thanh phía xa… tiếng rít chói lói quen thuộc.
      Ngỡ ngàng ả ngước nhìn lên. Trước vẻ ngạc nhiên của ả, chiếc trực thăng giám sát người lái vừa cất cánh trở lại, lần này gần phía đầu kia của Cung điện Pitti. Vayentha nhìn theo trong lúc chiếc máy bay xíu bắt đầu bay thành vòng tròn phía cung điện.
      Chiếc máy bay trở lại hoạt động chỉ có thể đồng nghĩa với việc.
      Họ vẫn chưa tóm được Langdon!
      ta ở chỗ quái nào nhỉ?
      ***
      Tiếng rít chói tai đầu lại kéo Tiến sĩ Elizabeth Sinskey ra khỏi cơn mê. Chiếc máy bay lại bay lên à? Nhưng mình nghĩ…
      Bà đổi tư thế băng ghế sau của chiếc xe thùng, nơi chàng đặc vụ trẻ vẫn ngồi bên cạnh. Bà lại nhắm mắt, cố chống lại cơn đau và buồn nôn. Nhưng chủ yếu là cố chống lại nỗi sợ hãi.
      Thời gian cạn dần.
      Mặc dù kẻ thù của bà nhảy lầu tự sát, bà vẫn thấy bóng dáng của trong những giấc mơ, thuyết giảng cho bà trong bóng tối của Hội đồng Quan hệ Đối ngoại.
      Rất cần người có hành động táo bạo, ta tuyên bố, đôi mắt xanh lè lóe lên. Nếu phải chúng ta, ai? Nếu phải lúc này, bao giờ?
      Elizabeth ngăn chặn ngay khi có cơ hội. Bà bao giờ quên lúc thoát vội khỏi cuộc gặp gỡ đó và lao vào ghế sau chiếc limousine, rồi băng qua Manhattan về phía Sân bay quốc tế JFK. Sốt ruột muốn biết ngay gã điên này là kẻ nào, bà rút điện thoại di động và nhìn kỹ tấm hình vừa chụp được.
      Khi nhìn tấm hình, bà thốt lên kinh ngạc. Tiến sĩ Elizabeth Sinskey biết chính xác người đàn ông này là ai. Tin mừng là rất dễ lần theo dấu vết . Nhưng rủi thay lại là thiên tài trong lĩnh vực của mình – lựa chọn trở thành con người rất nguy hiểm.
      Chẳng có gì sáng tạo… có sức phá hủy… hơn bộ óc xuất chúng với mục tiêu.
      Lúc đến sân bay ba mươi phút sau đó, bà gọi cho đội của mình và đưa người đàn ông này vào danh sách theo dõi khủng bố sinh học của tất cả cơ quan chức năng thế giới – CIA, CDC, ECDC, và tất cả tổ chức tương tự toàn cầu.
      Đó là những gì mình có thể làm cho tới khi trở lại Geneva, bà nghĩ.
      Kiệt sức, bà mang hành lý tới quầy làm thủ tục và trao cho nhân viên hộ chiếu cùng vé của mình.
      “Ồ, Tiến sĩ Sinskey”, nhân viên mĩm cười . “ quý ông rất lịch thiệp vừa gửi tin nhắn cho bà.”
      “Sao cơ?”, Elizabeth hề biết ai đó lại nắm được thông tin chuyến bay của bà.
      “Ông ấy rất cao?”, nhân viên . “Với đôi mắt màu xanh lục?”
      Elizabeth buông rơi hành lý. Ông ta ở đây ư? Bằng cách nào?! Bà nhìn quanh, săm soi những gương mặt phía sau mình.
      “Ông ta rồi”, nhân viên , “nhưng ông ấy muốn chúng tôi trao cho bà thứ này”. ấy đưa cho Elizabeth nột tờ giấy gấp lại.
      Elizabeth run run mở tờ giấy và đọc lời nhắn viết bằng tay.
      Đó là câu trích nổi tiếng rút ra từ tác phẩm của Dante Alighieri.
      “Nhưng nơi tăm tối nhất của địa ngục
      dành riêng cho những kẻ
      giữ thái độ trung dung
      trong những thời lỳ khủng hoảng đạo đức.”
      20 Nguyên văn: “soccer monm”, chỉ những phụ nữ trung lưu sống ở ngoại ô Bắc Mỹ, dành phần lớn thời gian chở con cái tới các kiện thể thao hoặc hoạt động khác. Cụm từ này dần mang nghĩa tiêu cực vì những phụ nữ này thường bị phê phán về việc ép con cái tham gia quá nhiều hoạt động ngoại khóa thay vì để cho chúng được sống đúng tuổi thơ.


    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :