1. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Hỏa Ngục - Dan Brown (end)

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
         Type: TMT
      CHƯƠNG 68
       

       

      Nhà ga Santa Lucia của Venice là công trình thấp và trang nhã làm tứ đá xám và bê tông. Nó được thiết kế theo phong cách tối giản đại, với mặt tiền đề trống có ký hiệu nào ngoại trừ biểu tượng - hai chữ cái FS có cánh - biểu tượng của hệ thống đường sắt bang, Ferrovie dello Stato.

      Vì nhà ga nằm ở cự tây con kênh Đại Vận Hà* nên hành khách đến Venice chỉ cần bước bước ra khỏi nhà ga là thấy mình hoàn toàn ngập chìm trong cảnh quan, mùi vị và thanh đặc trưng của Venice.



      *Đại Vận Hà (Grand Canal ) ở Venice, Ý, là dòng kênh lớn tạo thành hành lang giao thông đường thủy chính tại thành phố này. Kênh ăn thông vào đầm nước gần nhà ga Santa Lucia, đầu kia dẫn vào quảng trường St. Mark. Phần giữa kênh tạo thành hình chữ S ngược lớn chạy qua các quận trung tâm của Venice.

       

      Với Langdon, mùi mặn mòi của làn gió đại dương trong lành đẫm vị món pizza trắng của những người bán hàng rong phố bên ngoài nhà ga luôn là thứ đến với trước tiên. Hôm nay, gió từ phía đông thổi vào khí cả mùi dầu diesel từ hàng dài taxi nước trống đỗ gần đó, phía mặt kênh. Hàng chục chủ thuyền vẫy tay và hét mời du khách, hy vọng kéo được vị khách lên taxi, thuyền đáy bằng, phà, hay xuồng cao tốc cá nhân.

      Cảnh nhộn nhạo mặt nước, Langdon thầm nghĩ, mắt nhìn cảnh “lẹt xe nổi”. Ít nhiều, cảnh tắc nghẽn khiến người ta phát điên ở Boston nhưng lại rất thú vị tại Venice.

      Bên kia kênh tầm ném đá, mài vòm màu xanh đồng mang tính biểu tượng của nhà thờ San Simeone Piccolo vươn cao bầu trời về chiều. Nhà thờ này là trong những công trình có kiến trúc pha trộn nhiều nhất ở Châu Âu. Mái vòm dốc cách khác thường cùng thánh đường hình tròn theo phong cách Byzantine, trong khi cổng vào điện thờ bằng đá cẩm thạch có cột đỡ ràng lại theo khuôn mẫu lối vào kiểu Hy Lạp cổ điển của đền Patheon tại Rome. đỉnh lối vào chính là phần trán tường ngoạn mục bằng đá cẩm thạch đẽo nổi tinh tế, mô tả nhiều vị thánh tử đạo.

      Venice bảo tàng ngoài trời, Langdon nghĩ, ánh mắt nhìn xuống dòng nước kênh vỗ ì oạpvào bậc cấp nhà thờ. bảo tàng từ từ chìm xuống. Mặc dù vậy, khả năng ngập lụt dường như đáng kể so với mối đe dọa mà Langdon sợ rằng lúc này vẫn nấp bên dưới thành phố này.

      ai có ý tưởng gì.

      Bài thô ở mặt sau chiếc mặt nạ người chết của Dante vẫn còn trong tâm trí Langdon, và thắc mắc liệu những dòng thơ dẫn họ tới đâu. vẫn giữ bản chép lại bài thơ trong túi áo, nhưng còn chiếc mặt nạ thạch cao - theo gợi ý của Sienna - Langdon bọc vào giấy báo và bí mật cất bên trong tủ khóa tự phục vụ ở ga tàu. Mặc dù đó là chỗ cất giữ rất hợp lý đối với vật quý giá, nhưng hộc tủ chắc chắn vẫn an toàn hơn so với việc cứ mang theo chiếc mặt nạ thạch cao vô giá khắp thành phố toàn nước là nước này.

      “Robert?”, Sienna vượt lên trước cùng với Ferris, ra hiệu về phía chiếc taxi nước. “Chúng ta có nhiều thời gian.”

      Langdon vội nhanh về phía họ, mặc dù là người say mê kiến trúc, gần như vẫn thể tin được khi phải trải qua chuyến vội vàng dọc theo Đại Vận Hà. Có lẽ trải nghiệm nào tại Venice thú vị hơn việc ngồi phà vaporetto tuyến số 1 - loại xe buýt nước mái che chính của thành phố - nhất là vào buổi tối, và ngồi ở phía trước khi những thánh đường và cung điện tràn ngập ánh sáng trôi về phía sau.

      Hôm nay có phà rồi, Langdon nghĩ. Những xe buýt dưới nước này có tiếng là chậm, và taxi nước là lực chọn nhanh hơn. Nhưng may, vào thời điểm này, đoàn người đứng xếp hàng chờ taxi bên ngoài nhà ga có vẻ như dài vô tận.

      Ferris thấy có lòng dạ nào chờ đợi, nhanh chóng đứng ra giải quyết vấn đề. Với tập tiền mặt hậu hĩnh, ông ta nhanh chóng gọi được chiếc limousine nước - chiếc Veneziano Convertible bằng gỗ gụ Nam Phi hào nhoáng. Mặc dù chiếc thuyền trang nhã này sang quá mức cần thiết như g chuyến nhanh chóng và bảo đảm riêng tư - chỉ mất mười lăm phút chạy dọc Đại Vận Hà tới Quảng trường St. Mark.

      Người lái thuyền của họ là chàng điển trai mặc bộ đồ Armani may đo. Trông ta giống tài tử điện ảnh hơn là lái tàu, nhưng cho cùng, đây là Venice, mảnh đất của nét thanh lịch Ý.

      “Maurizio Pimponi”, chàng giới thiệu, nháy mắt với Sienna trong khi chào đón cả nhóm lên thuyền. “Vang trắng Prosecco? Rượu chanh Limoncello? Hay sâm panh?”

      , cảm ơn:, Sienna đáp và nhanh như bắn liên thanh bằng tiếng Ý để hướng dẫn ta đưa họ tới Quảng trường St. Mark càng nhanh càng tốt.

      “Chắc chắn rồi!” Maurizio nháy mắt lần nữa. “Thuyền của tôi là chiếc nhanh nhất ở Venezia…”

      Khi Langdon và hai người kia ngồi xuống những chiếc ghế bọc vải nhung ở phần khoang mái che, Maurizio cho động cơ Volvo Penta của thuyền chạy ngược, đưa nó lùi xa bờ cách thành thục. Sau đó ta đánh tay lái sang phải và rồ máy lao tới, lách chiếc thuyền lớn của mình qua cả đám thuyền đáy bằng, khiến cho rất nhiều chủ thuyền mặc sơ mi kẻ vung tay bực bội khi những chiếc thuyền đen bóng bảnh bao của họ nhấp nhô chao đảo do đợt sóng ta tạo ra.

      “Xin lỗi nhé!”, Maurizio lên tiếng cáo lỗi. “Khách VIP.”

      Chỉ trong vài giây, Maurizio thoát ra khỏi đám đông tắc nghẽn ở ga Santa Lucia và lao băng băng về phía đông, dọc theo Đại Vận Hà. Khi họ tăng tốc bên dưới vòm cầu Ponte degli Scalzi Langdon, ngửi thấy hương vị ngọt ngào đặc trưng của món mì xào mực ống seppie al nero ­- loại mì giữ nguyên sắc đen của chính con mực tuyệt hảo của địa phương - ngào ngạt bay ra từ các nhà hàng có mái vòm dọc bờ kênh. Khi họ vòng theo khúc quanh của con kênh, nhà thờ mái vòm đồ sộ San Garemia ra trước mắt.

      “Saint Lucia”, Langdon thầm, đọc tên vị thánh còn khắc bên hông nhà thờ. “Xương của những người mù lòa.”

      sao cơ?”, Sienna ngó lại, hy vọng Langdon có thề đoán ra thêm điều gì đó về bài thơ bí .

      có gì”, Langdon . “Ý nghĩ lạ lùng. Có lẽ có gì.” chỉ về phía nhà thờ. “Hãy nhìn dòng chữ khắc? Thánh Lucia được chôn cất ở đó. Thỉnh thoảng tôi có giảng về nghệ thuật viết thánh truyện – nghệ thuật khắc họa các vị thánh Thiên Chúa giáo, và tôi vừa chợt nghĩ ra Thánh Lucia là thánh bảo trợ của người mù.”

      “À, Thánh Lucia!”, Maurizio xen vào, vẻ háo hức muốn góp chuyện. “Vị thánh của người mù! Các vị có biết chuyện ?” chàng chủ thuyền ngoảnh lại nhìn họ và hét to át cả tiếng động cơ. “Lucia đẹp đến mức tất cả đàn ông đều thèm khát nàng. Cho nên, để giữ mình thanh khiết vì Chúa và bảo vệ trinh bạch, Lucia tự móc mắt mình.”

      Sienna xuýt xoa. “Đó là hết lòng.”

      “Để thưởng cho hy sinh của nàng”, Maurizio thêm, “Chúa ban cho nàng đôi mắt còn đẹp hơn nữa!”.

      Sienna nhìn Langdon, “ ta biết chuyện đó vô lý, đúng ?”

      “Chúa khiến người ta tin bằng những cách thức huyền bí”, Langdon nhận xét, hình dung ra hai mươi bức vẽ theo trường phái Thợ Cả nổi tiếng mô tả Thánh Lucia bưng cặp nhãn cầu của mình chiếc đĩa phẳng.

      Có rất nhiều khảo dị về câu chuyện Thánh Lucia, nhưng tất cả đều nhắc đến việc Lucia tự móc đôi mắt khiến người ta thèm khát của mình và đặt lên đĩa phẳng để đưa cho người theo đuổi nàng cách cuồng Sienna và khẳng khái tuyên bố. “Đây, có thứ thèm muốn…và giờ tôi cầu xin để cho tôi được yên!”. Điều kỳ lạ là chính Kinh Thánh khơi nguồn cảm hứng cho hành động tự hủy hoại mình của Lucia, mãi mãi gắn kết nàng với lời răn nổi tiếng của Chúa Jesus: “Nếu mắt con làm dịp tội con, hãy moi đôi mắt đó và vứt .”

      Moi, Langdon ngẫm nghĩ, nhận ra cũng chính từ này được dùng trong bài thơ. Hãy tìm gã tổng trấn bội bạc của Venice, kẻ…moi xương cả người mù lòa.

      Cảm thấy khói hiểu với trùng hợp này, băn khoăn biết liệu có phải đây là ý rằng Thánh Lucia chính là người mù lòa được nhắc đến trong bài thơ .

      “Maurizio”, Langdon gọi to, tay chỉ nhà thờ Geremia. “Hài cốt của Thánh Lucia ở trong nhà thờ đó phải ?”

      “Đúng rồi, ít thôi”, Maurizio , trong khi điều khiền thuyền bằng tay rất điệu nghệ và ngoái lại nhìn các vị khách của mình, chẳng cần để tâm đến thuyền bè lại phía trước. “Nhưng hầu như là còn. Thánh Lucia rất được kính nên di cốt của bà phân tán ở nhiều nhà thờ khắp thế giới. Người dân Venice kính Thánh Lucia nhất, dĩ nhiên rồi, và vì thế chúng tôi tưởng niệm…”

      “Maurizio”, Ferris gọi to. “Thánh Lucia bị mù, . Nhìn đằng trước kìa!”

      Maurizio cười rất thoải mái và đánh tay lái vừa kịp để khéo léo tránh đâm phải chiếc thuyền vừa sáp tới.

      Sienna chăm chú nhìn Langdon.” hiểu được gì rồi? Gã tổng trấn moi xương cả người mù lòa à?”

      Langdon mím môi. “ dám chắc.”

      nhanh chóng kể cho Sienna và Ferris câu chuyện về thánh tích của Thánh Lucia - di cốt của bà - được xem là câu chuyện lạ lùng nhất trong số truyện về các vị thánh. Người ta cho rằng, khi nàng Lucia xinh đẹp khước từnhững lời tán tỉnh của kẻ quyền thế theo đuổi, gã này tố giác nàng và nàng bị thiêu sống, nhưng theo truyền thuyết, thân xác nàng cháy. Vì da thịt nàng bắt lửa nên người ta tin rằng di hài của nàng có quyền năng đặc biệt, và bất kỳ ai sở hữu được chúng đều có tuổi thọ kéo dài.

      “Hài cốt cho phép thần thông ư?”, Sienna hỏi.

      “Phải, người ta tin như vậy, và đó là lý do di hài của bà phân tán khắp thế giới. Trong suốt hai thiên niên kỷ, những nhà lãnh đạo uy quyền đều tìm cách né tránh tuổi già và cái chết bằng việc sở hữu xương cốt của Thánh Lucia. Xương của bà bị đánh cắp, rồi lại bị nẫng tay , được hoàn trả về chỗ cũ, và bị chia nhiều lần hơn hài cốt của bất kỳ vị thánh nào khác. Xương của bà qua tay ít nhất cả tá những nhân vật uy quyền nhất trong lịch sử.”

      “Bao gồm cả vị tổng trấn bội bạc à?”, Sienna hỏi.

      Hãy tìm gã tổng trấn bội bạc của Venice, kẻ…moi xương cả người mù lòa.

      “Rất có thể”, Langdon , lúc này nhận ra rằng Hỏa ngục của Dante có nhắc đến Thánh Lucia rất . Lucia là trong ba người phụ nữ được ban phước giúp gọi Virgil tới giúp Dante thoát khỏi địa ngục. Hai người phụ nữa kia là Đức me Đồng trinh Mary và nàng Beatrice dấu của Dante, nhưng Dante đặt Thánh Lucia ở vị trí cao nhất trong số họ.

      “Nếu đúng trong chi tiết này”, Sienna , giọng đầy phấn khích, “ cũng chính gã tổng trấn bội bạc cắt rời những đầu ngựa…”

      “Và còn đánh cắp xương của Thánh Lucia nữa”, Langdon kết luận.

      Sienna gật đầu. “Điều đó th hẹp bản danh sách của chúng ta đáng kể đấy.” đưa mắt nhìn Ferris. “ có chắc điện thoại của hoạt động ? Chúng ta có thể tìm kiếm mạng về…”

      “Chết ngắc rồi”, Ferris . “Tôi vừa kiểm tra. Rất tiếc.”

      “Chúng ta sắp đến đó bây giờ”, Langdon . “Tôi tin chắc chúng ta có thể tìm được câu trả lời gì đó tại Thánh đường St. Mark.”

      Mark là mảnh ghép duy nhất là Langdon thấy chắc chắn trong câu đố. Bảo quán mạ vàng của tri thức thánh thiêng. Langdon hy vọng thánh đường hé lộ nhân dạng của vị tổng trấn bí …và từ đó, nếu may mắn, là tòa cung điện cụ thể mà Zobrist lựa chọn để tung ra đại dịch của . Vì ở đây, trong bóng tối, con quái vật của địa phủ chờ đợi.

      Langdon cố gắng gạt khỏi tâm trí mình bất kỳ hình ảnh nào về đại dịch, nhưng chẳng có tác dụng gì. hay tự hỏi thành phố lạ thường này trông như thế nào vào thời hoàng kim của nó lúc còn là trung tâm thương mại của Châu Âu, trước khi trận dịch hạch làm thành phố suy yếu đến mức nó bị người Ottoman chinh phục, rồi đến Napoleon. Theo những thông tin thu thập được, còn thành phố nào thế giới đẹp hơn thế, giàu có và văn hóa của dân cư nơi đây là thể so sánh được.

      Nhưng mỉa mai, chính thị hiếu sinh những thứ xa xỉ nước ngoài của người dân ở đây đưa tai hoạ đến - bệnh dịch hạch chết người từ Trung Quốc tràn đến Venice lưng những con chuột bám theo các thương thuyền. Đại dịch từng tiêu diệt hai phần ba dân số Trung Quốc tràn đến Châu Âu và nhanh chóng tàn sát phần ba dân số ở đây - trẻ cũng như già, giàu cũng như nghèo.

      Langdon đọc những mô tả về cuộc sống ở Venice trong thời kỳ dịch hạch bùng phát. có nhiều đất khô để an táng người chết, những xác người sưng tấy trôi nổi các dòng kênh, số khu vực tắc nghẽn xác chết đến mức các công nhân phải làm việc như những phu kéo gỗ và đẩy các xác chết ra biển. Dường như những lời cầu nguyện thể xoa dịu cơn cuồng nộ của đại dịch. Đến khi các quan chức của thành phố nhận ra chính lũ chuột gây ra bệnh dịch hạch quá muộn, nhưng venice vẫn ban hành sắc lệnh, theo đó mọi con tàu đều phải buông neo ngoài khơi đủ bốn mươi ngày trước khi được phép bốc dỡ hàng hóa. Đến hôm nay, con số bốn mươi – quaranta trong tiếng Ý – vẫn hư là lời nhắc hãi hùng về nguồn gốc của từ quarantine*

       

      *Từ tiếng có nghĩa: Cách ly để kiểm dịch.

       

      Khi thuyền của họ tăng tốc vượt qua khúc quanh nữa kênh, có tấm vải bạt đỏ thường thấy trong dịp lễ hội phất phơ trong làn gió , kéo chú ý cỉa Langdon khỏi những ý nghĩ u ám về cái chết để hướng đến tòa nhà ba tầng trang nhã bên tay trái .

      SÒNG BẠC VENEZIA: XÚC CẢM VÔ HẠN.

      Langdon chưa bao giờ hiểu hết các ngôn từ băng rôn của sòng bạc, nhưng tòa nhà theo phong cách Phục Hưng ấn tượng này là phần trong cảnh quan Venice kể từ thế kỷ XVI. Từng nổi tiếng là biệt thự tư nhân, giờ đây nó chính là sòng bạc sang trọng. Vào năm 1883, đây còn là nơi chứng kiến cái chết vì đột quỵ của nhà soạn nhạc Richard Wagner sau khi ông soạn xong vở opera Parsifal.

      Kế bên phải sòng bạc là mặt tiền trát vữa nhám theo phong cách Baroque có treo băng rôn còn lớn hơn, màu xanh dương thẫm, ghi CA’ PESARO: PHÒNG TRIỂN LÃM QUỐC TẾ NGHỆ THUẬT ĐẠI. Nhiều năm trước, Langdon từng vào trong này và xem kiệt tác Nụ hôn của Gustav Klimt khi tác phẩm được mượn từ Vienna. Tác phẩm diễn kịch bằng vàng lá chói lọi của Klimt mô tả cặp tình nhân quấn lấy nhau khơi gợi trong cảm xúc mãnh liệt, và cho tới hôm nay, Langdon vẫn biết ơn Phòng triển lãm Ca’ Pesaro của Venice vì đánh thức niềm say mê suốt đời của dành cho nghệ thuật đại.

      Maurizio cho thuyền chạy tới, giờ lao nhanh hơn vào dòng kênh rộng.

      Phía trước, cây cầu Rialto nổi tiếng đứng sừng sững ở vị trí nửa quảng đường tới Quảng trường St. Mark. Khi họ tới gần, chuẩn bị vọt qua dưới gầm cầu, Langdon nhìn lên và thấy bóng người đơn độc đứng bất động bên lan can, nhìn chòng chọc xuống họ với gương mặt u ám.

      Bộ mặt đó vừa quen thuộc vừa đáng sợ.

      Theo bản năng, Langdon lùi lại.

      Bộ mặt đó xám xịt và dài thuỗn, có đôi mắt lạnh lẽo chết chóc và cái mũi mỏ chim dài.

      Chiếc thuyền vừa lướt qua phía dưới bóng người hắc ám Langdon nhận ra đó chỉ là du khách khoe món đồ mới mua được – trong hàng trăm chiếc mặt nạ dịch hạch được bán ra mỗi ngày tại chợ Rialto gần đó.

      Tuy nhiên, ngày hôm nay, thứ phục sức kia dường như rất ma quái.



                 
      CHƯƠNG 69
       

       



      Quảng trường St. Mark nằm mút ở phía nam Đại Vận Hà của Venice, nơi thủy lộ này nhập vào biển khơi. Nhìn xuống chỗ giao thoa nguy hiểm này là pháo đài hình tam giác mộc mạc mang tên Dogana da Mar - Văn phòng Thuế quan Hàng hải - với tòa tháp canh từng trấn giữ cho Venice trước xâm lăng của ngoại bang. Ngày nay, tòa tháp được thay thế bằng quả cầu vàng rất lớn và cái chong chóng thời tiết có hình nữ thần may mắn, mỗi khi thay đổi hướng theo chiều gió đều nhắc cho các thủy thủ gắn bó đại dương nhớ đến khó lường của số phận.

      Khi Maurizio cho chiếc thuyền bóng bẩy lướt về cuối con kênh, biển khơi sóng vỗ ra trước mặt họ đầy hăm dọa. Robert Langdon theo tuyến đường này nhiều lần trước đó, mặc dù luôn bằng chiếc phà lớn hơn nhiều, và cảm thấy thoải mái khi chiếc limousine của họ nhao lên những ngọn sóng cồn cuộn lên từng đợt.

      Để tới được cầu cảng của Quảng trường St. Mark, thuyền của họ cần vượt qua vùng đầm tắc nghẽn với hàng trăm phương tiện thủy, từ những du thuyền sang trọng đến tàu chở dầu, các thuyền buồm tư nhân, và cả những tàu lớn đồ sộ. Có cảm giác như thể họ rời khỏi con đường thôn quê và hòa vào siêu xa lộ tám làn xe vậy.

      Sienna có vẻ bối rối kém khi nhìn thấy con tàu chở khách cao mười tầng lừng lững lướt qua trước mặt họ, chỉ cách có ba trăm thước. Các sàn tàu lố nhố hành khách, tất cả đều bu lấy lan can, chụp ảnh Quảng trường St. Mark từ phía biển. Trong vệt nước cồn lên của con tàu, ba chiếc tàu khác xếp hàng chờ đến lượt lướt qua danh thắng nổi tiếng nhất của Venice. Langdon từng nghe rằng trong những năm gần đây, số tàu thuyền tăng lên nhanh đến mức có cả chuỗi tàu biển bất tận qua lại suốt ngày đêm.

      Ở vị trí cầm lái, Maurizio nhìn dãy tàu chở khách lướt qua và nhìn sang trái nơi có cầu cảng có mái che nằm cách đó xa. “Tôi đỗ ở quán rượu Harry’s nhé?” ta ra hiệu về phía nhà hàng nổi tiếng vì sáng chế ra món uống Bellini*. “ bộ đến Quảng trường St. Mark xa lắm đâu.”



      *Loại cocktail là hỗn hợp của rượu vang Prosecco và đào nghiền nhuyễn.

       

      được, đưa chúng tôi hết đường ”, Ferris cầu, chỉ tay qua đầm nước về phía những cầu cảng của Quảng trường St. Mark.

      Maurizio nhún vai hiền lành. “ được như ý các vị thôi. nào!”

      Tiếng động cơ rồ lên và chiếc limousine bắt đầu cắt qua mặt nước gợn sóng, lao vào trong những luồng lạch có phao tiêu đánh dấu. Những con tàu lớn chở khách lướt qua trông chẳng khác gì các tòa nhà nổi, lằn sóng của chúng xô những chiếc thuyền khác tựa như những cái phao bần.

      Trước ngạc nhiên của Langdon, hàng chục chiếc thuyền đáy bằng cũng băng băng vượt đầm nước như họ. Những thân thuyền thanh mảnh - dài gần trăm hai mươi mét và nặng hơn sáu trăm cân - có vẻ rất vững vàng trong vùng nước sóng gió. Mỗi thuyền do người chèo vững chân điều khiển. Họ đứng sàn bên mạn trái thân thuyền, mặc áo sơ mi kẻ sọc đen trắng truyền thống và điều khiển mái chèo duy nhất gắn vào mép thuyền bên phải. Mặc dù sóng lớn nhưng thấy chiếc thuyền đáy bằng nào cũng nghiêng nghiêng sang trái đầy bí , điều kỳ quái mà Langdon biết là do kết cấu phi đối xứng của thuyền. Tất cả thân thuyền đáy bằng đều uốn cong về bên phải, ngược với phía lái thuyền, để khắc phục xu hướng thuyền cứ xoay sang trái do chèo thuyền bên phải.

      Maurizio tự hào chỉ vào trong những chiếc thuyền đáy bằng khi họ chạy qua nó. “Các vị thấy thiết kế kim loại ở đằng trước ?”, ta gọi với lại qua vai, làm hiệu về phía món đồ trang trí trang nhã nhô ra từ mũi thuyền. “Đó là bộ phận kim loại duy nhất thuyền đáy bằng - gọi là ferro di prua - lưỡi hái sắt mũi thuyền. Đó chính là hình ảnh của Venice!”

      Maurizio giải thích rằng bộ phận trang trí hình lưỡi hái nhô lên từ mũi thuyền đáy bằng ở Venice có ý nghĩa biểu trưng. Hình dạng uốn cong của ferro đại diện cho Đại Vận Hà, sáu răng của nó thể cho sáu quận hay sestieri của Venice, và phần lưỡi thuôn là mũ sắt cách điệu của quan tổng trấn Venice.

      Quan tổng trấn, Langdon nghĩ thầm, ý nghĩ của quay trở lại với nhiệm vụ trước mắt. Hãy tìm gã tổng trấn bội bạc của Venice, kẻ cắt rời những đầu ngựa…và moi xương cả người mù lòa.

      Langdon đưa mắt ngước nhìn dãi đất ven bờ phía trước, nơi công viên có trồng cây tiếp giáp với mép nước. Vượt lên những ngọn cây in bóng lên bầu trời gợn mây là tòa tháp bằng gạch đỏ của tháp chuông St. Mark, đỉnh có Tổng lãnh thiên thần Gabriel bằng vàng dõi đôi mắt nhìn xuống từ độ cao chóng mặt, gần trăm mét.

      Trong thành phố mà mọi vật dù cao lớn đến đâu cũng đều có xu hướng dễ chìm nghỉm, tòa tháp sừng sững Campanile di San Marco cũng chỉ giống như ngọn đèn hiệu chỉ đường cho tất cả những ai mạo hiểm tiến vào cái mê cung kênh rạch và ngõ hẹp của Venice. Khi du khách bị lạc đườn, chỉ cần nhìn lên bầu trời, nhận ra đường trở lại Quảng trường St. Mark. Langdon vẫn thấy khó tin rằng tòa tháp đồ sộ này từng sụp đổ vào năm 1902, để lại đống gạch vụn khổng lồ ngay Quảng trường St. Mark. Điều kỳ lạ là chỉ có duy nhất chú mèo bị thương vong trong thảm họa đó.

      Du khách tới Venice được trải nghiệm cảm giác độc đáo khi đến thăm những cảnh quan đẹp đến ngỡ ngàng của nơi này, nhưng địa điểm ưa thích của Langdon luôn là Riva degli Schiavoni. Khu vực dạo lát đá rộng rãi này ngay kề mép nước và được xây dựng từ thế kỷ IX bằng phù sa nạo vét. Nó chạy dài từ xưởng tàu cũ đến tận Quảng trường St. Mark.

      Dọc theo nó là các quán cà phê xinh xắn, những khách sạn trang nhã, và thậm chí cả nhà thờ của gia đình Antionio Vivaldi*. Điểm khởi đầu của Riva là tại xưởng đóng tàu cổ của Venice - mùi hương nồng nồng của chất nhựa cây đun sôi từng tràn ngập khí khi những người thợ đóng tàu quét nhựa nóng lên những con tàu chưa hoàn thiện để bín kín các lỗ thủng. Người ta đồn rằng chính lần tới thăm các xưởng đóng tàu này mà Dante Alighieri có cảm hứng đưa những dòng sông nhựa sôi sùng sục vào Hỏa ngục của mình như công cụ trừng phạt.



      *Antonio Vavaldi ( 1678, tại Venice – 1741, tại Vienna ) là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ vĩ cầm, nhà sư phạm, chỉ huy dàn nhạc người Ý, cũng là linh mục chỉ huy dàn nhạc và dàn đồng ca “della Pieta” ở Venice.

       

      Langdon đưa mắt nhìn sang phải, bám theo Riva chạy dọc bến nước, và dừng lại ở đoạn cuối rất ấn tượng của khu vực dạo này. Ở đây, rìa tận cùng phía nam của Quảng trường St. Mark, gian lát đá rộng rãi này tiếp xúc trực tiếp với biển. Vào thời hoàng kim của Venice, chỗ vách bờ dựng đứng này được tự hào đặt tên là “rìa của tất cả nền văn minh.”

      Hôm nay, khoảng gian dài ba trăm thước nơi Quảng trường St. Mark gặp gỡ biển cả, vẫn như mọi khi, có dưới trăm chiếc thuyền đáy bằng sơn đen bập bềnh va vào bờ neo, những mũi thuyền hình lưỡi hái nhô lên ngụp xuống nền những tòa nhà bằng đá cẩm thạch trắng của quảng trường.

      Langdon vẫn hiểu vì lý do gì mà cái thành phố bé - chỉ rộng gấp đôi công viên Central Park ở New York - vươn lên từ biển khơi này lại có thể trở thành đế chế rộng lớn và giàu có nhất phương Tây.

      Khi Maurizio cho thuyền chạy lại gần hơn, Langdon có thể nhận ra quảng trường chính đông nghịt người. Napoleon từng gọi Quảng trường St.Mark là “phòng khách của châu Âu”, và theo cảnh tượng nhìn thấy, “gian phòng” này chủ trì đại tiệc đông nghịt khách khứa. Toàn bộ quảng trường trông như thể bị chìm dưới sức nặng của các vị khách tới chiêm ngưỡng.

      “Chúa ơi”, Sienna thào, mắt nhìn đám đông khách tham quan.

      Langdon như vậy vì sợ rằng Zobrist có thể lựa chọn địa điểm đông đúc như thế này để tung ra đại dịch của , hay bởi vì cảm thấy rằng thực tế Zobrist có thể có lý khi cảnh báo về những hiểm họa của tình trạng quá tải dân số.

      Mỗi năm Venice đón tiếp số lượng du khách đông kinh khủng - ước tính chiếm đến phần ba dân số thế giới - khoảng hai mươi triệu khách trong năm 2000. Với con số tỷ người được bổ sung vào dân số thế giới kề từ thời gian đó, giờ đây hàng năm, thành phố này phải rên rỉ dưới sức nặng của thêm ba triệu du khách nữa. Venice, giống như chính hành trình này, chỉ có gian nhất định, và đến lúc nào đó còn khả năng nhập khẩu đủ lương thực, xử lý đủ lượng chất thải, hay tìm đủ giường ngủ cho tất cả những người muốn tới thăm nó.

      Ferris đứng gần đó, nhưng mắt nhìn về phía đất liền mà lại hướng ra biển, quan sát tất cả những con tàu tiến vào.

      ổn chứ?”, Sienna hỏi, mắt nhìn ông ta vẻ tò mò.

      Ferris quay phắt lại. “Ờ, tốt thôi…chỉ suy nghĩ.” Ông ta hướng lên phía trước và gọi Maurizio: “Đậu càng gần St.Mark càng tốt nhé!”.

      thành vấn đề!” chàng lái thuyền vẫy tay. “Hai phút thôi.”

      Chiếc limousine nước giờ đến ngang tầm Quảng trường St.Mark, và Dinh Tổng trấn đứng uy nghiêm bên tay phải họ, nổi bật bờ biển.

      ví dụ hoàn hảo cho kiến trúc Venetian Gothic, tòa cung điện này chẳng khác gì bài tập về cách tiết chế tao nhã. hề có những tháp pháo hay tháp canh vẫn gắn liền với cung điện của Pháp hay , công trình này được tạo hình như lăng trụ vuông vức rất lớn, đem lại gian vô cùng rộng rãi phía bên trong, là nơi lưu trú của chính phủ trọng yếu cùng bộ máy hỗ trợ của tổng trấn.

      Nhìn từ đại dương, tòa cung điện đồ sộ bằng đá vô trắng trông có vẻ ngạo nghễ nếu tiết chế cách thận trọng hiệu ứng ấy bằng cách bổ sung thêm những mái cổng, cộ trụ, hành lang ngoài và những lỗ răng cưa hình lá bốn thùy. Những hoa văn kỷ hà bằng đá vôi hồng xuất khắp mặt ngoài, gợi cho Langdon nhớ đến pháo đài Alhambra* ở Tây Ban Nha.



      *Alhambra ( tên đầy đủ Calat Alhambra )là quần thể cung điện và pháo đài nằm tại Granada, Andalusia, Tây Ban Nha. Nguyên thủy, đây là pháo đài được xây dựng năm 889 và sau đó bị bỏ quên cho tới khi được vua người Moor là Mohammed ben Al-Ahmar xây dựng lại vào giữa thế kỷ XI và được quốc vương Yusuf I biến thành hoàng cung vào năm 1333.

       

      Khi thuyền áp sát bờ neo hơn, Ferris có vẻ lo lắng trước đám đông phía trước cung điện. đám đông khác tụ tập cầu, và mọi thành viên đều chỉ tay xuống dòng kênh hẹp cắt giữa hai khu rộng lớn của Dinh Tổng trấn.

      “Họ nhìn gì thế nhỉ?”, Ferris thắc mắc, giọng đầy lo lắng.

      “II Ponte dei Sospiri”, Sienna đáp. “ cây cầu nổi tiếng của Venice.”

      Langdon nhìn xuống con kênh chật hẹp và thấy đường hầm kín mít có chạm trổ rất đẹp uốn vòng giữa hai tòa nhà. Cầu Thở dài, nghĩ thầm, nhớ lại bộ phim mình rất thích khi còn bé là A Little Romance, được xây dựng dựa câu chuyện rằng nếu lúc hoàng hôn, hai ngươi trẻ tuổi hôn nhau dưới cây cầu này trong khi Nhà thờ St. Mark đổ chuông, tình của họ mãi mãi bền vững. Cái ý niệm vô cùng lãn mạn ấy đọng lại trong Langdon suốt cả đời . Dĩ nhiên, còn có lý do nữa là bộ phim có diễn viên chính là thiếu nữ mười bốn tuổi đáng có tên Diane Lane, khiến cho Langdon lập tức mê mẩn. Đó là thứ tình cảm thời niên thiếu mà Langdon chưa bao giờ muốn lãng quên.

      Nhiều năm sau, Langdon thấy sợ khi biết rằng Cầu Thở dài có tên gọi như vậy phải từ những tiếng thở hỗn hển đầy đam mê, mà từ những tiếng thở dài đau khổ. Hóa ra, cái lối kín mít ấy có chức năng nối giữa dinh của tổng trấn và nhà tù của ông ta, nơi những người tù héo hon và qua đời, tiếng rên rỉ đau khổ của họ vọng qua những ô cửa chặn lưới sắt trổ dọc theo con kênh hẹp.

      Langdon từng tới thăm nhà tù lần, và rất ngạc nhiên khi biết rằng những buồng giam đáng sợ nhất phải là những buồng ngang mực nước, vốn thường xuyên bị ngập, mà là những buồng ở sàn cùng của cung điện đích thực - gọi là piombi do có phần mái ốp chì - khiến cho những gian buồng ấy nóng khủng khiếp vào mùa hè và lạnh cóng vào mùa đông. Người tình vĩ đại Casanova* từng là người tù trong piombi vì bị tòa án dị giáo buộc tội thông dâm và làm gián điệp, ta sống sót qua mười lăm tháng bị giam cầm rồi trốn thoát bằng cách đánh lừa cai ngục.



      *Giacomo Casanova (1725-1798-) nhà thám hiểm và tác gia Venice. Tự truyện của ông, Câu chuyện đời tôi, được xem là trong những nguồn đáng tin cậy về phong tục và tiêu chuẩn xã hội châu Âu trong thế kỷ XVIII. Ông nổi tiếng là tay quyến rũ phụ nữ, và kể nhiều câu chuyện phiêu lưu tình ái trong tự truyện của mình.

       

      “Chú ý vào!” Maurizio quát to với người điều khiển thuyền đáy bằng khi chiếc limousine của họ lướt vào vị trí buông neo mà chiếc thuyền kia vừa bỏ trống. ta tìm thấy nơi ở phía trước khách sạn Danieli, chỉ cách Quảng trường St.Mark và Dinh Tổng trấn trăm thước.

      Maurizio quăng sợi dây quanh cọc neo và nhảy lên bờ, như thể thử vai cho bộ phim phiêu lưu lục lâm thảo khấu. Khi buộc chắc thuyền, ta quay lại và chìa tay xuống thuyền như muốn giúp các vị khách lên bờ.

      “Cảm ơn ”, Langdon lúc chàng Ý vạm vỡ kéo lên bờ.

      Ferris theo sau, trông hơi thiếu tập trung và lại liếc nhìn ra ngoài biển.

      Sienna là người cuối cùng lên bờ. Khi nhấc bổng lên bờ, chàng Maurizio điển trai nhìn xoáy vào như hàm ý rằng quãng thời gian tuyệt vời hơn nữa nếu hất cẳng hai gã đồng hành và ở lại thuyền với ta. Sienna dường như chú ý.

      “Cảm ơn, Maurizio”, lơ đễnh , ánh mắt tập trung vào Dinh Tổng trấn gần đó.

      Sau đó, bỏ lỡ bước, cùng Langdon và Ferris hòa vào đám đông.

      CHƯƠNG 70
       

       



      Được đặt theo tên trong những nhà du hành lừng danh nhất lịch sử, sân bay quốc tế Marco Polo nằm cách Quảng trường St.Mark bốn dặm về phía bắc vùng nước của phá Veneta.

      Nhờ dịch vụ bay riêng xa xỉ, Elizabeth Sinskey vừa rời máy bay chỉ mới mười phút băng băng lướt sóng vượt qua phá chiếc xuồng chở khách màu đen, kiểu viễn tưởng - chiếc Dubois SR52 Blackbird - do chính người lạ mặt chuyện điện thoại lúc trước gửi tới.

      Thị trưởng.

      Với Sinskey, sau khi bị giữ ở phía sau chiếc xe thùng suốt cả ngày, khí của đại dương như tiếp thêm sinh lực cho bà. Bà ngoảnh mặt về phía làn gió mằn mặn và để cho mái tóc bạc của mình xổ tung phía sau. Gần hai tiếng trôi qua kể từ khi bị tiêm mũi cuối cùng, rốt cuộc bà thấy tỉnh táo. Lần đầu tiên kể từ tối qua, Elizabeth Sinskey được là chính mình.

      Đặc vụ Brũder ngồi bên cạnh bà cùng với đội của ta. ai trong số họ lời. Nếu họ lo lắng về cuộc hẹn hò bất thường này, họ đều lập tức biết suy nghĩ ấy phù hợp ở đây, bởi quyết định phải do họ đưa ra.

      Chiếc xuồng phăm phăm lao về phía trước cho tới khi hòn đảo lớn dần ra ở bên phải, bờ đảo điểm những toàn nhà gạch thấp cùng những ống khói, Murano, Elizabeth nhận ra đó là những nhà máy thổi thủy tinh nổi tiếng.

      Mình tin được là mình trở lại đây, bà thầm nghĩ, lòng ngập tràn nỗi buồn tê tái. vòng tròn trọn vẹn.

      Nhiều năm trước, khi còn học ở trường y, bà tới Venice cùng với vị hôn phu của mình và tới thăm Bảo tàng Thủy tinh Murano. Ở đó, vị hôn phu của bà chú ý đến vậy xoay tròn thủy tinh thổi bằng tay rất đẹp và vô tình rằng ông muốn có vật giống như thế để ngày nào đó đem treo trong phòng con của họ. Cảm thấy có lỗi vì giữ kín bí mật đau lòng quá lâu, cuối cùng Elizabeth bộc bạch với ông về chứng hen suyễn lúc còn và những buổi điều trị bằng glucocorticoid tai hại hủy hoại cơ quan sinh sản của bà.

      Elizabeth bao giờ biết được liệu thiếu trung thực hay chuyện vô sinh của bà biến trái tim người đàn ông trẻ thành sắt đá. Nhưng tuần sau, bà rời Venice mà còn chiếc nhẫn đính hôn.

      Vật kỷ niệm duy nhất về chuyến đau khổ đó chính là chiếc bùa lam ngọc. Cây gậy Asclepius là biểu tượng thích hợp cho y học - liều thuốc đắng trong trường hợp này - nhưng bà luôn đeo nó kể từ khi đó.

      Chiếc bùa quý giá của mình, bà thầm nghĩ. Món quà chia tay từ người đàn ông muốn mình sinh con cho ấy.

      Ngày nay, đối với bà, các đả Venice còn lãng mạn, những ngôi làng biệt lập của chúng gợi lên ý nghĩ phải về tình mà về những khu vực kiểm dịch từng được thiết lập đó để kiểm soát Cái chết Đen.

      Ki chiếc tàu Blackbird lao qua đảo San Pietro, Elizabeth nhận ra họ hướng đến du thuyền màu xám rất lớn, hình như buông neo ở luồng nước sâu, chờ họ đến.

      Con tàu màu xám kim khí trông như hạng mục trong chương trình lá chắn của quân đội Hoa Kỳ. Cái tên ghi ở phía sau cho biết điều gì về thể loại tàu cá.

      The Mendacium?

      Con tàu ra càng lúc càng lớn hơn, và chỉ chốc lát Sinskey có thể nhìn bóng người đơn độc đứng boong sau - người đán ông độc, bé, nước da rám nắng, quan sát họ qua ống nhòm. Khi chiếc Blackbird tiến lại khoang neo đậu ở phía sau tàu The Mendacium,người đàn ông bước xuống thang để đón họ.

      “Tiến sĩ Sinskey, chào mừng bà lên tàu.” Người đàn ông sạm nắng lịch thiệp bắt tay bà, bàn tay ông ta mềm và nhẵn, thể là tuy của thủy thủ. “Tôi rất mừng vì bà đến. Xin hãy theo tôi.”

      Khi cả nhóm leo lên vài tầng, Sinskey mới chú ý đến cách bài trí giống như các buồng ngăn ô nhộn nhịp. Con tàu kỳ lạ này thực tế chứa nhiều người, nhưng có ai nghỉ ngơi cả - tất cả bọn họ đều làm việc.

      Làm việc gì chứ?

      Khi họ leo tiếp lên cao, Sinskey có thể nghe tiếng động cơ rất mạnh của con tàu chạy ầm ầm, tạo ra lằn nước sâu khi con tàu bắt đầu chuyển động.

      Chúng ta đâu đây nhỉ? Bà cảnh giác thắc mắc.

      “Tôi muốn chuyện riêng với tiến sĩ Sinskey”, người đàn ông với mấy người lính, hơi ngừng lại đề nhìn Sinskey. “Nếu bà thấy tiện?”

      Elizabeth gật đầu.

      “Thưa ngài”, Brũder miễn cưỡng , “tôi đề nghị, bác sĩ tàu kiểm tra cho tiến sĩ Sinskey. Bà ấy có số…”

      “Tôi sao”, Sinskey xen vào. “Thực . Nhưng cũng cảm ơn .”

      Thị trưởng nhìn Brũder lúc lâu và sau đó ra hiệu về phía bàn thức ăn đồ uống được bố trí boong. “Nghỉ ngơi . Các cần như vậy. Chỉ lát nữa là các phải quay vào bờ rồi.”

      bận tâm thêm nữa, Thị trưởng quay lưng lại gã đặc vụ và dẫn Sinskey vào phòng khánh tiết cũng là phòng làm việc trang nhã, đóng cửa lại phía sau.

      “Bà uống chút chứ?”, ông ta hỏi, ra hiệu về phía quầy rượu.

      Bà lắc đầu, vẫn tìm hiểu gian kỳ lạ xung quanh mình. Người đàn ông này là ai? Ông ta làm gì ở đây?

      Lúc này vị chủ nhà quan sát bà, những ngón tay của ông ta đỡ bên dưới cằm. “Chắc bà biết ông khách Bertrand Zobrist của tôi gọi bà là ‘con quỷ tóc bạc; phải ?”

      “Tôi cũng có số tên gọi dành cho .”

      Người đàn ông để lộ cảm xúc gì trong lúc về phía bàn làm việc và chỉ tay xuống cuốn sách to. “Tôi rất muốn bà xem thứ này.”

      Sinskey bước lại và nhìn trang bìa. Hỏa ngục của Dante ư? Bà nhớ lại những hình ảnh chết chóc rùng rợn mà Zobrist cho bà xem trong cuộc gặp gỡ của họ tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại.

      “Zobrist cũng cho tôi xem thứ này hai tuần trước. Còn có dòng chữ nữa.”

      Sinskey chăm chú nhìn dòng chữ viết tay trang bìa. Nó có chữ ký của Zobrist.

      Bạn thân mến của tôi, cảm ơn bạn vì giúp tôi tìm ra đường . Thế giới cũng cảm ơn bạn.

      Sinskey cảm thấy rùng mình, “Ông giúp tìm ra con đường nào?”

      “Tôi hề biết. Hay đúng hơn, cho tới vài tiếng trước tôi vẫn chưa biết.”

      “Còn bây giờ?”

      “Giờ tôi phải tạo ra ngoại lệ hiếm hoi trong quy trình của mình…và tôi mời bà đến.”

      Sinskey cả chặng đường dài và có tâm trí đâu cho cuộc trò chuyện khó hiểu. “Thưa ông, tôi biết ông là ai, hay ông làm việc quái gì con tàu này, nhưng ông nợ tôi lời giải thích. Hãy cho tôi biết tại sao ông lại che giấu kẻ bị Tổ chứ Y tế Thế giới tích cực truy lùng.”

      Bất chấp giọng nóng nảy của Sinskey, người đàn ông vẫn trả lời rất khẽ như thào. “Tôi nhận ra bà và tôi làm việc vì những mục tiêu xung đột với nhau, nhưng tôi mong rằng chúng ta nên quên quá khứ . Tương lai, như tôi cảm nhận được, chính là những gì đòi hỏi chúng ta phải chú tâm ngay lập tức.”

      xong, người đàn ông rút ra thẻ nhớ màu đỏ và cắm vào máy tính của mình, ra hiệu cho bà ngồi xuống. “Bertrand Zobrist tạo ra đoạn video này. Ông ta muốn tôi phát tán nó cho ông ta vào sáng mai.”

      Sinskey chưa kịp đáp lại màn hình máy tính chuyển sang lờ mờ, và bà nghe thấy những thanh nhè của nước. khung cảnh bắt đầu trong bóng tối của lòng hang ngập nước, giống như cái hố chìm dưới lòng đất. Điều lạ lùng là có vẻ như nước được chiếu sáng từ bên trong, phát ra thứ ánh sáng đỏ đòng đọc rất kỳ quái.

      Tiếng nước róc rách vẫn tiếp tục, máy quay lia xuống dưới và chìm hẳn vào làn nước, định vị nền hang phủ đầy bùn. Bắt vít xuống nền hang là tấm biển, hình chữ nhật sáng loáng khắc ngày tháng và cái tên bên .



      TẠI NƠI NÀY, VÀO NGÀY NÀY,

      THẾ GIỚI THAY ĐỔI MÃI MÃI.





      Ngày tháng chính là ngày mai. Còn cai tên là Bertrand Zobrist.

      Elizabeth Sinskey thấy rùng mình. “Chỗ này là đâu vậy?!”, bà hỏi. “Chỗ này là nơi nào?!”

      Để đáp lại, Thị trưởng biểu lộ chút cảm xúc đầu tiên của ông ta - tiếng thở dài thất vọng và lo lắng. “Tiến sĩ Sinskey”, ông ta đáp, “tôi hy vọng bà có thể biết được câu trả lời cho thắc mắc ấy.”

       

      ***

       

      Cách đó dặm, lối tản bộ bên bờ nước của Riva degli Schiavoni, cảnh tượng nhìn ra phía biển có chút thay đổi. Nếu có ai đó quan sát kỹ, ắt nhận ra du thuyền màu xám rất lớn vừa xuất chỗ mũi đất phía đông. Giờ nó hướng về phía Quảng trường St.Mark.

      Tàu The Mendacium, FS-2080 nhận ra ngay cùng với chút sợ hãi.

      Phần tàu màu xám thể lẫn đâu được.

      Thị trưởng đến…và thời gian cạn dần.



       



       



       



       

       



       

       

       

    2. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 71
      Luồn lách qua những đám đông người ở Riva degli Schiavoni, Langdon, Sienna và Ferris sát theo mép nước, tìm đường tiến vào Quảng trường St. Mark và đến rìa phía nam, nơi quảng trường tiếp giáp biển.

      Ở đây, du khách đông nghịt, tạo thành đám đông chen chúc vây quanh Langdon khi họ cùng đổ dồn tới quảng trường để chụp hai cây cột đồ sộ, sừng sững tại đó.

      Cổng chào chính thức vào thành phố, Langdon nghĩ thầm, biết rằng địa điểm này từng được dùng cho các vụ hành quyết công khai cho tới cuối thế kỷ XVIII.

      đỉnh trong hai trụ biểu của cổng chào là biểu tượng xuất khắp mọi nơi của Venice – con sư tử có cánh. Trong khắp thành phố, có thể nhìn thấy con sư tử có cánh kiêu hãnh đặt móng vuốt lên cuốn sách mở có dòng chữ Latin Pax tibi Marce, evangelista meus (Mong ngươi bình yên, Mark, nhà truyền giáo của ta). Theo truyền thuyết, những lời này là của thiên thần ban cho Thánh Mark khi ngài đến Venice, cùng với lời tiên đoán rằng thân xác ngài có ngày nằm lại đây. Câu chuyện xác thực này sau này được người dân Venice dùng để biện minh cho việc cướp đoạt hài cốt Thánh Mark từ Alexandria để an táng tại Thánh đường St. Mark. Tới hôm nay, con sư tử có cánh vẫn được xem như biểu tượng của thành phố và gần như có thể nhìn thấy ở mọi chỗ.

      Langdon ra hiệu về phía bên phải mình, vượt qua những trụ biểu, bên kia Quảng trường St. Mark. “Nếu chúng ta bị tách ra, hãy gặp nhau ở cửa trước của thánh đường.”

      Hai người kia đồng ý và nhanh chóng men theo mé ngoài của đám đông, lần dọc bức tường phía tây của Dinh Tổng trấn để tiến vào Quảng trường. Mặc dù có luật cấm việc tự ý cho động vật ăn nhưng những đàn bồ câu được quý của Venice có vẻ vẫn sống khỏe, số con còn kiếm mồi dưới chân đám đông trong khi những con khác sà xuống các quán cà phê ngoài trời, cướp những giỏ bánh mì có ai trông giữ và quấy nhiễu những người hầu bàn mặc lễ phục.

      Khu quảng trường rộng lớn này, khác với hầu hết quảng trường ở châu Âu, có hình dáng phải của quảng trường mà lại là chữ L. Phần chân ngắn hơn – vẫn được gọi là piazzetta – nối đại dương với Thánh đường St. Mark. Phía trước mặt, quảng trường ngoặt sang trái góc chín mươi độ để ăn vào phần chân dài hơn, chạy suốt từ thánh đường đến Bảo tàng Correr. Rất lạ là, thay vì chạy thẳng, quảng trường này lại là hình thang đều, thu hẹp khá nhiều ở đầu. Cái ảo giác kiểu ngôi nhà hoạt náo này làm cho quảng trường trông dài hơn nhiều so với thực tế, hiệu ứng càng tăng lên thấy nhờ mảng gạch lát được bố trí bao lấy những gian hàng sơ khai của các thương gia đường phố ở thế kỷ XV.

      Khi tiến đến khúc ngoặt của quảng trường, Langdon có thể nhìn , thẳng trước mặt cách đó quãng, mặt kính màu lam lấp loáng của Tháp đồng hồ St. Mark – cũng chính là cái đồng hồ thiên văn nơi điệp viên James Bond ném tên tội phạm xuống dưới trong phim Người tìm trăng 43 .

      phải tới thời điểm này, khi tiến vào khu quảng trường kín đáo, Langdon mới đánh giá được đầy đủ món quà độc đáo nhất của thành phố này.

      thanh.

      Hầu như có xe hơi hay loại xe gắn động cơ nào, Venice vắng hẳn những dòng xe cộ, tàu điện ngầm, và còi xe, nhường gian thanh cho món “lẩu” tiếng động rất đặc trưng và hề có tí máy móc nào. Tiếng con người, tiếng bồ câu gù, và tiếng vĩ cầm du dương vang lên ở những quán cà phê ngoài trời. thanh của Venice giống bất kỳ đại đô thị nào khác thế giới.

      Khi trời ngả chiều, mặt trời từ phía tây chiếu xuống St. Mark tạo ra những bóng đổ dài quảng trường lát gạch, Langdon ngước nhìn tòa tháp chương cao vút vươn cao phía quảng trường và sừng sững in bầu trời Venice cổ kính. Phần hành lang phía của tháp chen chúc hàng trăm con người. Chỉ nghĩ đến việc leo lên đó khiến rùng mình, cho nên cúi đầu xuống và tiếp tục len qua biển người.

      ***

      Sienna có thể bám sát Langdon dễ dàng, nhưng Ferris tụt lại phía sau, và Sienna quyết định tách hẳn ra để có thể trông chừng cả hai người. Tuy nhiên, lúc này khi khoảng cách giữa họ thêm cách biệt, nôn nóng nhìn lại. Ferris chỉ tay vào ngực mình, tỏ ý ông ta mệt đứt hơi rồi, và ra hiệu cho cứ tiếp.

      Sienna làm theo, nhanh chóng bám sau Langdon và để mắt đến Ferris nữa. Nhưng khi len lỏi qua đám đông, có cảm giác mình bị ai đó bám riết. Trong dấy lên nỗi nghi ngờ rất lạ rằng Ferris cố tình tụt lại sau, như thể ông ta tìm cách tạo ra khoảng cách giữa họ.

      Từ lâu học được cách tin vào bản năng của mình, Sienna lẩn vào hốc tường và từ trong bóng râm nhìn ra, đưa mắt quét qua đám đông phía sau mình và tìm kiếm Ferris.

      Ông ta biến đâu rồi?!

      Cứ như thể ông ta thậm chí còn tìm cách bám theo họ. Sienna nhìn kỹ từng gương mặt trong đám đông, và cuối cùng nhìn thấy ông ta. Trước vẻ ngạc nhiên của , Ferris dừng lại và cúi đầu thấp, bấm lia lịa điện thoại của mình.

      Vẫn là cái điện thoại ông ta bảo hết pin.

      cảm giác sợ hãi rất bản năng ùa đến với , và lần nữa biết cần phải tin vào nó.

      Ông ta dối mình lúc ở tàu.

      Khi quan sát Ferris, Sienna cố gắng đoán xem ông ta làm gì. Bí mật gửi tin nhắn cho ai đó chăng? Tìm hiểu sau lưng chăng? Cố gắng giải quyết bí trong bài thơ của Zorbist trước khi Langdon và Sienna có thể làm được chăng?

      Cho dù lý do là gì ông ta cũng ngang nhiên lừa dối .

      Mình thể tin .

      Sienna tự hỏi liệu có nên trách móc và đối đầu với ông ta , nhưng nhanh chóng quyết định lẩn vào đám đông trước khi ông ta phát giác ra mình. lại nhắm về phía thánh đường, tìm kiếm Langdon. Mình phải cảnh báo ấy đừng tiết lộ thêm gì cho Ferris.

      chỉ còn cách thánh đường năm mươi thước cảm thấy có người túm chặt lấy áo mình từ phía sau.

      xoay lại và thấy mình mặt đối mặt với Ferris.

      Người đàn ông bị dị ứng thở hổn hển, ràng đả phải len lách qua đám đông để bắt kịp . Ông ta có vẻ điên cuồng gì đó mà Sienna nhận ra trước đó.

      “Xin lỗi”, ông ta , gần như thở nổi. “Tôi bị lạc trong đám đông.”

      Khoảnh khắc nhìn vào mắt ông ta, Sienna thấy rất .

      Ông ta che giấu điều gì đó.

      ***

      Khi đến được phía trước Thánh đường St. Mark, Langdon ngạc nhiên phát ra rằng hai người bạn đồng hành đều còn ở phía sau . Langdon cũng ngạc nhiên là hoàn toàn có du khách nào đợi vào thăm nhà thờ. Nhưng rồi nhận ra giờ là chiều muộn ở Venice, thời điểm hầu hết khách du lịch – do năng lượng giảm sút sau bữa trưa no nê gồm mì sốt và rượu vang- đều quyết định dạo quảng trường hoặc nhâm nhi chút cà phê thay vì cố thu nạp thêm những chi tiết lịch sử.

      Nghĩ rằng Sienna và Ferris đến bất kỳ lúc nào, Langdon đưa mắt nhìn vào lối thánh đường trước mặt mình. Đôi khi bị cho là “có quá nhiều gian ra vào”, phần mặt tiền dưới thấp của tòa nhà gần như bị choáng hết diện tích bởi đội hình năm lối ra vào gồm những nhóm cột trụ, những cổng tò vò uốn cong, và những cánh cửa đồng toang hoác khiến cho công trình, nếu còn gì khác, luộn rộng mở chào đón.

      trong những bản mẫu đẹp nhất của kiến trúc Byzantine ở châu Âu, nhà thờ St. Mark có bề ngoài kỳ lạ và mềm mại, rất nổi bật. Trái ngược với những tòa tháp xám xịt chân phương của nhà thờ Notre-Dame hay Chartres, nhà thờ St. Mark dường như hùng vĩ nhưng lại gần gũi hơn nhiều. Nhà thờ vươn cao mà trải rộng ra, có đỉnh là năm mái vòm quét sơn trắng, toát ra vẻ thoáng đãng, gần như náo nhiệt. ít cuốn sách hướng dẫn du lịch phải so sánh St. Mark với chiếc bánh cưới phủ kem trứng.

      đỉnh của mái vòm trung tâm là bức tượng Thánh Mark nhìn xuống quảng trường mang tên chính mình. Hai chân ngài đặt đỉnh vòm cung sơn màu lam thẫm và có điểm những ngôi sao bằng vàng. phông nền sặc sỡ này, con sư tử có cánh thếp vàng của Venice đứng sừng sững như linh vật lấp lánh của thành phố.

      Tuy nhiên, ngay phía dưới con sư tử vàng, Thánh đường St. Mark lại khoe ra trong những báu vật nổi tiếng nhất của mình – bốn chú ngựa đực bằng đồng to lớn – lúc này phản chiếu ánh nắng về chiều.

      Đàn ngựa nhà thờ St. Mark.

      Trong tư thế như sẵn sàng nhảy xuống quảng trường, bất kỳ lúc nào, bốn con ngựa vô giá này – giống như rất nhiều bảo vật tại Venice – được cướp về từ Constantinople trong các cuộc Thập tự chinh. tác phẩm nghệ thuật bị tước đoạt khác cũng được trưng ra bên dưới những chú ngựa ở góc tây nam của nhà thờ - bức điêu khắc bằng tràng thạch sắc tía vẫn được gọi là Tứ đế 44 . Bức tượng nổi tiếng vì bị gãy mất chân lúc đoạt được từ Constantinople vào thế kỷ XIII. kỳ diệu, vào những năm 1960, người ta lại đào đượt cái chân đó ở Istanbul. Venice thỉnh xin mảnh tượng thất lạc ấy, nhưng chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ phúc đáp bằng bức điện vỏn vẹn: Các vị đánh cắp bức tượng – chúng tôi giữ cái chân của mình.

      “Thưa ông, mời ông mua?”, giọng phụ nữ vang lên, khiến Langdon phải nhìn xuống.

      phụ nữ Gypsy đẫy đà giơ ra cây gậy dài có treo cả bộ sưu tập những chiếc mặt nạ Venice. Hầu hết đều theo phong cách volto intero rất thịnh hành – những chiếc mặt nạ cách điệu màu trắng che kín mặt thường được phụ nữ đeo trong lễ hội hóa trang Carnevale. Bộ sưu tập của bà cũng có số mặt nạ Colombina hóm hỉnh chỉ che nửa mặt, vài cái Bauta cằm nhọn hoắt, và cái mặt nạ tròn Monetta quai đeo. Mặc dù có nhiều món hang sặc sỡ nhưng chính chiếc mặt nạ đen xám duy nhất nằm ở đầu gậy mới khiến Langdon chú ý, đôi mắt chết chóc đầy hăm dọa của nó dường như nhìn thẳng xuống qua cái mũi mỏ chim dài.

      Bác sĩ dịch hạch. Langdon ngoảnh mặt , cần phải nhớ thêm mình làm gì ở Venice này.

      “Ông mua ?”, người phụ nữ Gypsy nhắc lại.

      Langdon mỉm cười và lắc đầu. “Chúng rất đẹp, nhưng , cảm ơn bà.”

      Khi người phụ nữ rời , ánh mắt Langdon dõi theo cái mặt nạ dịch hạch đáng ngại trong lúc nó lắc lư phía đám đông. thở dài nặng nề và ngước mắt nhìn lại bốn chú ngựa đồng ban công tầng hai.

      ý nghĩ vụt đến với .

      Langdon cảm thấy mọi yếu tố đột ngột va vào nhau – Đàn ngựa nhà thờ St. Mark, những chiếc mặt nạ Venice, và những báu vật cướp về từ Constantinople.

      “Chúa ơi”, thầm. “Đúng nó rồi!”

       

      43 Moonraker.

      44 Nguyên văn: The Tetrarchs. Bức tượng điêu khắc miêu tả bốn hoàng đế La Mã có niên đại khoảng năm 300. Chế độ “Tứ đế đồng trị” (Tetrarchy) là thế chế trong đó quyền lực được phân chia giữa bốn cá nhân, nhưng trong cách dùng đại, thuật ngữ này thường để chỉ hệ thống do hoàng đế La Mã Diocletian khởi xướng năm 293, dánh dấu phục hồi của đế chế La Mã. Chế độ này kéo dài tới khoảng năm 313, khi cuộc xung đột huynh đệ tương tàn loại bỏ hầu hết những ứng viên quyền lực, chỉ còn lại Constantine ở phía đông và Licinius ở phía tây.




      Chương 72
      Robert Langdon sững sờ.

      Đàn ngựa nhà thờ St. Mark!

      Bốn chú ngựa oai vệ này – với những cái cổ vương giả và vòng cổ khỏe khoắn của chúng – làm lên trong Langdon ký ức bất ngờ, mà giờ đây nhận ra nó chứa đựng lời giải thích cho yếu tố quan trọng trong bài thơ bí in chiếc mặt nạ người chết bí của Dante.

      Langdon từng tham dự tiệc cưới của nhân vật nổi tiếng tại trang trại Runnymede lịch sử ở New Hampshire – quê hương của chú ngựa vô địch giải Kentucky Derby có tên Hình ảnh Vũ công 45 . Là phần trong chương trình tiếp đón thịnh soạn, các quan khách được xem màn trình diễn của nhóm kịch ngựa nổi tiếng Behind the Mask – chương trình tuyệt vời trong đó các kỵ sĩ biểu diễn mặc trang phục lộng lẫy của Venice, giấu kín mặt sau những chiếc mặt nạ volto intero. Đàn ngựa ô Friesian của nhóm là những con ngựa to lớn nhất Langdon từng thấy. Những con vật ấn tượng có vóc dáng cao lớn này phi ầm ầm qua sân, để lộ những tảng cơ bắp cuồn cuộn, cặp vó gắn lông chim, và cái bờm dài gần mét tung bay phía sau cái cổ dài duyên dáng của chúng.

      Vẻ đẹp của những sinh vật này để lại trong Langdon ấn tượng mạnh mẽ đến mức khi về đến nhà, ngay lập tức tìm kiếm mạng và phát ra rằng giống ngựa này từng được các vị vua thời Trung cổ ưa chuộng và dùng làm ngựa chiến, nhưng trong những năm gần đây, chúng bị đẩy đến bờ vực tuyệt chủng. Vốn được biết đến như là Equus robustus, cái tên Fresian đại của giống ngựa này là món quà tôn vinh quê hương chúng – Friesland, tỉnh của Hà Lan, cũng là nơi họa sĩ đồ họa xuất chúng M. C. Escher chào đời.

      Hóa ra, chính thân hình mạnh mẽ của những chú ngựa Fresian thời xưa truyền cảm hứng thẩm mỹ cho Đàn ngựa nhà thờ St. Mark ở Venice. Theo trang web, Đàn ngựa nhà thờ St. Mark đẹp đến mức được xếp vào hàng “những tác phẩm nghệ thuật thường xuyên bị đánh cắp nhất lịch sử”.

      Langdon trước giờ vẫn tin rằng vinh dự đáng ngờ này thuộc về tác phẩm Ghent Altarpiece và có lướt xem trang web Hiệp hội Nghiên cứu Tội phạm Nghệ thuật (ARCA) để xác thực giả thuyết của mình. Hiệp hội đưa ra xếp hạng tuyệt đối nào, nhưng họ cung cấp câu chuyện ngắn gọn về cuộc đời phiền toái của những tượng điêu khắc vốn luôn là mục tiêu tranh cướp ấy.

      Bốn chú ngựa bằng đồng được đúc đảo Chios vào thế kỷ IV bởi điêu khắc gia Hy Lạp khuyết danh. Chúng nằm nguyên ở đó cho tới khi được Hoàng đế Theodosius II 46 mang tới Constantinople để trưng bày tại trường đua Hippodrome 47 . Sau đó, trong cuộc Thập tự chinh thứ tư, khi binh lực của Venice cướp phá Constantinople, quan tổng trấn đương quyền ra lệnh chở bốn bức tượng quý giá bằng thuyền về tận Venice. Do trọng lượng và kích thước của chúng rất lớn nên việc vận chuyển là gần như bất khả thi, song cuối cùng, những chú ngựa này cũng được đưa đến Venice vào năm 1254, và được dựng phía trước mặt tiền của Vương cung Thánh đường St. Mark.

      Hơn nửa thiên niên kỷ sau đó, vào năm 1797, Napoleon chinh phạt Venice và đoạt lấy những chú ngựa cho mình. Chúng được chở về Paris và kiêu hãnh xuất nóc Khải hoàn môn. Cuối cùng, năm 1815, Napoleon bị đánh bại tại Waterloo và chịu đày ải, đàn ngựa bị hạ xuống khỏi Khải hoàn môn và vận chuyển bằng tàu ngược trở lại Venice, nơi chúng được dựng lại ban công phía trước của Thánh đường St. Mark.

      Mặc dù Langdon khá quen với câu chuyện về đàn ngựa này, nhưng trang web của ARCA còn có đoạn thông tin khiến giật mình.

      “Phần vòng cổ trang trí được người Venice thêm vào cổ ngựa năm 1204 nhằm che chỗ đầu bị cắt đứt để dễ chuyên chở bằng tàu từ Constantinople về Venice.”

      Vị tổng trấn ra lệnh cắt đứt đầu Đàn ngựa nhà thờ St. Mark ư?Langdon dường như tài nào nghĩ ra nổi.

      “Robert?”, tiếng Sienna gọi to.

      Langdon bừng tỉnh khỏi những suy nghĩ của mình, quay lại nhìn Sienna len qua đám đông cùng với Ferris sát bên cạnh.

      “Những con ngựa trong bài thơ!”, Langdon hét to đầy phấn khởi. “ nghĩ ra rồi!”

      “Cái gì cơ?”, Sienna có vẻ ngơ ngác.

      “Chúng ta tìm kiếm vị tổng trấn bội bạc chặt đứt đầu những con ngựa đấy thôi!”

      “Vâng?”

      “Bài thơ đến những con ngựa sống.” Langdon chỉ tay lên cao phía mặt tiền của nhà thờ St. Mark, nơi cột nắng chói chang chiếu sáng bức tượng đồng. “Nó đến những con ngựa kia kìa!”



      45 Nguyên văn: Dancer’s Image, là tên con ngựa đua Mỹ giống Thoroughbred và là chú ngựa duy nhất trong lịch sử Kentucky Derby giành chiến thắng nhưng bị truất quyền thi đấu. Chú ngựa này thuộc sở hữu của doanh nhân Peter Fuller, con trai của cựu Thống đốc bang Massachusetts Alvan T.Fuller, được Lou Cavalaris, Jr. huấn luyện và được kỵ sĩ Bobby Ussery điều khiển trong giải Derby.

      46 Theodosius II (401 – 450), thường gọi là Theodosius Trẻ hoặc Theodosius Nhà thư pháp, là hoàng đế Đông La Mã từ năm 408 đến 450. Ông được biết đến nhiều về việc ban hành bộ luật Theodosius và công xây dựng các bức tường thành Theodosius quanh Constantinople.

      47 Hippodrome là sân vận động để đua ngựa hoặc đua xe kéo. Nhưng Hippodrome của Constantinople, thủ đô của đế chế Byzantine, là đấu trường, được xem như trung tâm xã hội và thể thao của thành phố. nay, đây là quảng trường mang tên Sultan Ahmet tại thủ đô Istanbul của Thổ Nhĩ Kỳ, với số tàn tích của các công trình nguyên thủy từng tồn tại.

      Chương 73
      tàu The Mendacium, tay tiến sĩ Elizabeth Sinskey vẫn run rẩy. Bà xem đoạn video trong phòng làm việc của Thị trưởng, và mặc dù từng gặp nhiều chuyện kinh khủng trong đời mình nhưng đoạn phim sao giải thích nổi mà Bertrand Zorbist tạo ra trước khi tự sát để lại trong bà cảm giác lạnh lẽo như cái chết.

      màn hình trước mặt bà, cái bóng của bộ mặt có mỏ chim chập chờn, chiếu lên vách hang ngầm. Cái bóng vẫn tiếp tục , tự hào mô tả về kiệt tác của gã – sáng tạo được gọi là Hỏa ngục – thứ cứu vớt cả thế giới bằng cách chọn lọc dân số.

      Chúa cứu rỗi chúng con, Sinskey nghĩ thầm. “Chúng ta phải...”, bà , giọng run run. “Chúng ta phải tìm ra cái địa điểm ngầm trong lòng đất kia. Có thể còn chưa quá muộn.”

      “Cứ xem ”, Thị trưởng đáp. “Còn lạ lùng hơn nữa cơ.”

      Đột nhiên, cái bóng mặt nạ lớn hẳn lên vách hang ẩm ướt, lù lù trước mắt bà, cho tới khi bóng người đột ngột xuất trong khuôn hình.

      Khốn kiếp.

      Sinskey đăm đăm nhìn vị bác sĩ dịch hạch được trang bị đầy đủ, chỉnh tề trong chiếc áo choàng đen và đeo mặt nạ có mỏ chim trông đến ớn lạnh. Vị bác sĩ dịch hạch bước thẳng tới phía máy quay, cái mặt nạ của gã choán hết màn hình để tạo hiệu ứng kinh sợ.

      “Những nơi tăm tối nhất chốn địa ngục”, gã thào, “dành riêng cho những kẻ giữ thái độ trung dung trong những thời kỳ khủng hoảng đạo đức.”

      Sinskey cảm thấy nghẹn ứ trong cổ họng. Đây cũng chính là câu trích dẫn mà Zorbist để lại cho bà tại quầy thủ tục của hãng hàng khi bà thoát khỏi ở New York năm về trước.

      “Ta biết”, gã bác sĩ dịch hạch tiếp tục, “có những kẻ gọi ta là quái vật”. Gã ngừng lại, và Sinskey cảm thấy những lời của gã nhằm thẳng vào bà. “Ta biết có những kẻ nghĩ ta là con thú có trái tim giấu mặt dưới lớp mặt nạ.” Gã lại ngừng lại, bước đến gần máy quay hơn. “Nhưng ta hề vô diện. Ta cũng hề nhẫn tâm.”

      xong, Zorbist lột chiếc mặt nạ của mình và gỡ bỏ mũ trùm áo choàng – bộ mặt được phơi ra. Sinskey cứng đờ, nhìn sững cặp mắt xanh quen thuộc mà bà nhìn thấy lần cuối trong bóng tối của Hội đồng Quan hệ Đối ngoại. Cặp mắt của trong đoạn video cũng chứa chất ánh lửa và nỗi cuồng mê y như vậy, nhưng giờ đây trong ấy còn có gì đó tựa như vẻ nhiệt thành man dại của gã điên.

      “Tên ta là Bertrand Zorbist”, , mắt nhìn xoáy vào máy quay. “Và đây là gương mặt ta, che giấu và để nguyên cho cả thế giới thấy. Tâm hồn ta luôn ước giá như mình có thể giơ cao trái tim rực cháy, như Thánh Dante làm với nàng Beatrice dấu của ngài, để các người có thể thấy ta cũng tràn ngập tình . Thứ tình sâu xa nhất. Dành cho tất cả các người. Và, hết, cho người trong số các người.”

      Zorbist bước gần hơn nữa, nhìn sâu vào máy quay và rất khẽ, như thể với người tình.

      “Tình của ta”, thầm, “tình quý giá của ta. Em là diễm phúc của ta, là người hủy diệt mọi thứ xấu xa của ta, là người ban cho ta mọi đức hạnh, là cứu rỗi của ta. Em là người khỏa thân nằm bên ta và vô tình giúp ta vượt qua vực thẳm, cho ta sức mạnh để làm những điều ta muốn”.

      Sinskey lắng nghe với thái độ ghê tởm.

      “Tình của ta,” Zorbist tiếp tục những tiếng thầm ai oán vang vọng trong hang ngầm ma quái nơi đứng . “Em là nguồn cảm hứng và chỉ lối cho ta, nàng Virgil và cũng là nàng Beatrice của ta, và kiệt tác này có công của cả em cũng như của ta. Nếu em và ta, như cặp tình nhân định mệnh, bao giờ còn được gặp nhau nữa, ta thấy thanh thản khi biết rằng ta trao gửi tương lai vào đôi tay dịu dàng của em. Công trình bên dưới của ta hoàn thành. Và giờ đây đến lúc ta lại trở về thế giới bên ... và lại ngắm nhìn những vì sao.”

      Zorbist ngừng , và cụm từ những vì sao ngân vang lúc trong lòng hang. Sau đó, rất bình tĩnh, Zorbist vươn tay chạm vào máy quay, kết thúc lời nhắn gửi của mình.

      Màn hình tối đen.

      nơi ở dưới lòng đất”, Thị trưởng , tắt màn hình. “Chúng tôi tài nào nhận ra. Còn bà?”

      Sinskey lắc đầu. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy nơi nào như thế này. Bà nghĩ đến Robert Langdon, tự hỏi biết ta có tiến thêm được chút nào trong việc giải mã những đầu mối của Zorbist .

      “Nếu điều này có thể giúp ích”, Thị trưởng , “ tôi tin tôi biết người tình của Zorbist là ai.” Ông ta ngừng lại. “ nhân vật có bí danh FS-2080.”

      Sinskey bật dậy. “FS-2080 à?!” Bà sững sờ nhìn Thị trưởng.

      Thị trưởng cũng giật mình kém. “Điều đó có nghĩa gì với bà sao?”

      Sinskey gật đầu hoài nghi. “Chắc chắn rồi.”

      Tim Sinskey đập thình thịch. FS-2080. Dù biết nhân dạng của nhân vật này, nhưng chắc chắn bà biết bí danh đó mang ý nghĩa gì. Suốt nhiều năm, WHO theo dõi những bí danh tương tự.

      “Phong trào Siêu nhân học”, bà . “Ông có thấy quen ?”

      Thị trưởng lắc đầu.

      cách đơn giản nhất”, Sinskey giải thích, “Siêu nhân học là triết lý cho rằng con người cần sử dụng mọi công nghệ có sẵn để kiến tạo chính giống loài chúng ta, làm cho nó mạnh hơn. tồn tại của những cá thể ưu việt nhất”.

      Thị trưởng nhún vai cách thờ ơ.

      chung”, bà tiếp tục, “phong trào Siêu nhân học gồm các nhân vật có trách nhiệm – những nhà khoa học, người theo thuyết vị lai, người nhìn xa trông rộng có trách nhiệm về đạo đức – nhưng cũng như ở nhiều phong trào khác, vẫn có bộ phận tin rằng phong trào này tiến triển chưa đủ nhanh. Họ là những nhà tư tưởng khải huyền tin rằng kết thúc đến gần và ai đó cần có hành động quyết liệt để cứu lấy tương lai của giống loài”.

      “Và tôi đoán”, Thị trưởng , “Bertrand Zorbist là người như thế?”.

      “Chính xác”, Sinskey . “ thủ lĩnh của phong trào. Ngoài việc là người cực kỳ thông minh, còn rất có uy tín và chấp bút viết nhiều bài báo về ngày tận thế làm sinh ra cả cộng đồng những kẻ cuồng tín Siêu nhân học. nay, nhiều tín đồ cuồng tín của sử dụng những bí danh như thế này, tất cả đều có hình thức giống nhau – hai chữ cái và con số có bốn chữ số - chẳng hạn DG-2064, BA-2105, hoặc cái bí danh ông vừa nhắc đến.”

      “FS-2080.”

      Sinskey gật đầu. “Đó chỉ có thể là bí danh Siêu nhân học.”

      “Những con số và chữ cái có ý nghĩa gì ?”

      Sinskey ra hiệu về phía máy tính của ông ta. “Mở trình duyệt của ông ra. Tôi chỉ cho ông.”

      Thị trưởng có vẻ do dự nhưng vẫn tới máy tính và mở chương trình tìm kiếm.

      “Tìm ‘FM-2030’”, Sinskey , tiến đến đằng sau ông ta.

      Thị trưởng gõ FM-2030, và hàng nghìn trang web xuất .

      “Cứ bấm vào bất kỳ trang nào cũng được”, Sinskey .

      Thị trưởng bấm đầu mục cùng, mở ra trang Wikipedia với hình người Iran điển trai – Fereidoun M. Esfandiary – người được mô tả là tác giả, triết gia, nhà vị lai chủ nghĩa, và ông tổ của phong trào Siêu nhân học. Sinh năm 1930, ông có công giới thiệu triết lý Siêu nhân học cho nhiều người, cũng như đưa ra những dự báo có tính tiên tri về thụ tinh trong ống nghiệm, điều khiển di truyền, và quá trình toàn cầu hóa nền văn minh.

      Theo Wikipedia, tuyên bố mạnh bạo nhất của Esfandiary là những công nghệ mới giúp ông sống được trăm tuổi – trường hợp hiếm hoi với thế hệ của ông. Như cách thể niềm tin vào công nghệ tương lai, Fereidoun M. Esfandiary đổi tên mình thành FM-2030, bí danh hình thành bằng cách kết hợp chữ cái chỉ tên và tên đệm của ông cùng với năm ông tròn trăm tuổi. Buồn thay, ông chết vì bị ung thư tụy ở tuổi bảy mươi và bao giờ đạt được mục tiêu của mình, nhưng để tôn vinh ông, những tín đồ Siêu nhân học cuồng tín vẫn suy tôn FM-2030 bằng cách tiếp nhận kỹ thuật đặt tên của ông.

      Khi đọc xong, Thị trưởng đứng dậy và bước tới bên cửa sổ, nhìn mông lung ra phía đại dương lúc lâu.

      “Vậy là”, cuối cùng ông ta thào, như thể nghĩ thành tiếng. “Người tình của Bertrand Zorbist – ả FS-2080 này – ràng là trong những… tín đồ Siêu nhân học.”

      còn nghi ngờ gì nữa”, Sinskey đáp. “Tôi rất tiếc tôi biết chính xác FS-2080 này là ai, nhưng…”

      “Đó là vấn đề của tôi”, Thị trưởng ngắt lời, vẫn đăm đăm nhìn ra biển. “Tôi biết . Tôi biết đích xác ả là ai.”

    3. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 74
      Typer: Candy Lai


      khí như được tạo tác bằng vàng vậy.

      Trong đời mình, Robert Langdon tới tham quan nhiều Vương cung Thánh đường lộng lẫy nhưng khí của Chiesa d’Oro (Nhà thờ Vàng) ở St. Mark luôn đem đến cho ấn tượng có hai. Trong nhiều thế kỷ, người ta rằng chỉ cần ngửi khí ở St. Mark cũng làm cho bạn giàu có hơn. Câu này cần được hiểu chỉ theo nghĩa dụ, mà còn cả nghĩa đen.

      Với bề mặt nội thất bao gồm vài triệu viên gạch lát bằng vàng cổ, người ta nhiều phân tử bụi lững lờ trong khí thực tế chính là mạt vàng. Thứ bụi vàng lơ lửng này, kết hợp với ánh nắng rực rỡ giúp những tín đồ sùng đạo có được giàu có về mặt tinh thần và, nếu hít sâu, họ còn nhận được sung túc thực tiễn hơn dưới hình thức mạ vàng hai lá phổi.

      Vào giờ này, vầng mặt trời xuống thấp rọi qua cửa sổ mé tây, tỏa ra những tia nắng đầu Langdon như chiếc quạt lớn sáng rực, hay mái hiên bằng lụa tỏa sáng. Langdon thể hít hơi mạnh, và cảm thấy Sienna cùng Ferris cũng làm y như vậy bên cạnh mình.

      “Đường nào đây?”, Sienna thào.

      Langdon ra hiệu về phía lối cầu thang lên. Khu bảo tàng của nhà thờ nằm ở tầng và có khu trưng bày đồ sộ dành cho Đàn ngựa St. Mark, nơi mà Langdon tin rằng nhanh chóng hé lộ nhân dạng của vị         tổng trấn bí cắt rời đầu của mấy con vật ấy.

      Khi họ leo lên cầu thang, nhận raFerris phải cố gắng thở, và Sienna bắt được ánh mắt Langdon, điều cố gắng thực suốt mấy phút qua. Nét mặt vẻ cánh báo khi kín đáo hất đầu về phía Ferris và miệng gì đó mà Langdon thể hiểu. chưa kịp bảo Ferris liếc nhìn lại, chỉ trễ phần mấy giây, vì Sienna đảo mắt và nhìn thẳng vào Ferris.

      ổn chứ, bác sĩ?”, hỏi vẻ ngây thơ.

      Ferris gật đầu và leo nhanh hơn.

      Nữ diễn viên tài năng, Langdon nghĩ, nhưng ấy cố gì với mình nhỉ?

      Khi lên đến tầng hai, họ có thể nhìn thấy toàn bộ thánh đường trải ra bên dưới. Điện thờ được kiến tạo dưới dạng thập giá Hy Lạp, nhìn vuông vức hơn những hình chữ nhật kéo dài của nhà thờ St. Peter hay Notre-Dame. Với khoảng cách từ lối vào chính tới bàn thờ ngắn hơn hẳn, nhà thờ St. Mark toát ra khí chất đường bệ, vững vàng, cũng như tạo cảm giác dễ tiếp cận hơn.

      Tuy nhiên, như thế có nghĩa là quá dễ tiếp cận, bàn thờ của công trình này lại được bố trí phía sau bình phong có cột chống, đỉnh có cây thánh giá và chúa Jesus chịu khổ hình.Che chở phía là ô đựng mình thánh Chúa mỹ lệ và tự hào là trong những bệ thờ giá trị nhất thế giới – được mệnh danh là Pala d’Oro (Tán vàng). Phần phông nền lớn bằng bạc mạ vàng được xem là “tấm vải vàng”, nhưng “vải” chỉ có nghĩa “tấm tranh thảm” gồm những tác phẩm xưa hơn – cơ bản là tranh vẽ men kiểu Byzantine – tất cả được đan kết trong cái khung Gothic duy nhất. Được trang điểm với khoảng nghìn ba trăm viên ngọc trai, bốn trăm viên hồng lựu ngọc, ba trăm viên ngọc bích, cũng như ngọc lục bảo, thạch tím, và hồng ngọc, Pala d’Oro cùng với Đàn ngựa St. Mark, được coi là trong những bảo vật đẹp nhất ở Venice.

      về mặt kiến trúc, từ basilica dùng cho bất kỳ nhà thờ phương Đông theo phong cách Byzantine nào ở châu Âu hay phương Tây. Là bản sao của thánh đường Các thánh Tông đồ do Justinian xây ở Constantinople, nhà thờ St. Mark mang phong cách Đông phương đến mức các sách hướng dẫn du lịch thường gợi ý nơi này như lựa chọn thay thế cho việc tham quan giáo đường Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ, đa phần trong số đó chính là những thánh đường Byzantine được cải biến thành các cơ sở thờ phụng Hồi giáo.

      Langdon chưa bao giờ coi nhà thờ St. Mark như lựa chọn thay thế cho các giáo đường Hồi giáo ngoạn mục ở Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng phải thừa nhận rằng niềm đam mê của người dành cho nghệ thuật Byzantine có thể được thỏa mãn nhờ chuyến tham quan dãy phòng bí mật ngay cung thờ bên phải trong nhà thờ này, trong đó có cất giữ thứ được coi là Kho báu của Thánh Mark – bộ sưu tập gồm hai trăm tám mươi ba thánh tượng, đồ trang sức và cốc rượu lễ quý giá thu thập được trong quá trình cướp phá Constantinople.

      Langdon hài lòng khi thấy thánh đường khá yên tĩnh trong buổi chiều nay.Vẫn có người nhưng ít nhất có đủ chỗ để di chuyển. Len lách qua những nhóm du khách, Langdon hướng dẫn Ferris và Sienna tới ô cửa sổ phía tây, nơi khách tham quan có thể bước ra ngoài để xem những chú ngựa ban công. Mặc dù tự tin vào khả năng nhận diên vị tổng trấn cần tìm, nhưng Langdon vẫn thấy lo lắng về bước họ phải thực sau đó – tìm ra vị trí của vị tổng trấn. Mộ của ông chăng? Hay tượng? Việc này có lẽ cần đến hình thức hỗ trợ nào đó, bởi lẽ có hàng trăm bức tượng trong nhà thờ, hầm mộ ở bên dưới và cả những mộ vòm dọc nhánh phía đông của nhà thờ.

      Langdon chú ý đến nữ thuyết trình viên trẻ dẫn đoàn khách, và lịch thiệp ngắt lời .“Xin lỗi”, .“Ettore Vio có ở đây chiều nay ?”

      “Etrore Vio à?”Người phụ nữ ngơ ngác nhìn Langdon. “Có, tất nhiên rồi, nhưng…” ấy đột ngột im bặt, mắt sáng lên. “Ông là Robert Langdon có phải ?”

      Langdon mỉm cười nhẫn nại.“Vâng, tôi đây.Tôi có thể chuyện với Ettore được ?”

      “Được, được!”Người phụ nữ ra hiệu cho nhóm tham quan của mình đợi lúc và chạy vội .

      Langdon và người phụ trách bảo tàng, Ettore Vio, từng cùng xuất trong phim tài liệu gắn về thánh đường này, và họ vẫn giữ liên lạc với nhau kể từ đó.“Ettore viết sách về thánh đường này”, Langdon giải thích với Sienna. “Thực tế là có vài quyển kia.”

      Sienna vẫn có cảm giác bất an kỳ lạ về Ferris, người vẫn theo sát Langdon trong lúc dẫn cả nhóm tới cửa sổ phía tây để quan sát đàn ngựa. Qua cửa sổ, họ thấy phần thân sau rắn chắc của đàn ngựa nổi bật nền trời chiều. ban công bên ngoài là những du khách bách bộ để tận hưởng cơ hội tiếp xúc gần với đàn ngựa cũng như toàn cảnh Quảng trường St. Mark ngoạn mục.

      “Chúng đó!”, Sienna kêu lên, chạy về phía cánh cửa mở ra ban công.

      hẳn”, Langdon . “Đàn ngựa chúng ta nhìn thấy ban công thực tế chỉ là bản sao thôi. Đàn ngựa nhà thờ St. Mark được cất giữ bên trong vì lý do an toàn và bảo quản.”

      Langdon hướng dẫn Sienna và Ferris dọc hành lang về phía hốc phòng sáng đèn, nơi có nhóm bốn chú ngựa giống hệt như chạy nước kiệu về phía họ từ lối có mái vòm bằng gạch làm nền phía sau.

      Langdon ra hiệu về phía những bức tượng, tỏ vẻ ngưỡng mộ.“Đây mới là bản gốc.”

      Mỗi lần nhìn thấy những chú ngựa ở khoảng cách gần như vậy, Langdon đều thể kìm được nổi kinh ngạc trước kết cấu và chi tiết hệ thống cơ bắp của chúng.Diện mạo ấn tượng của phần da ngựa càng nổi bật nhờ lớp gỉ đồng màu xanh vàng lộng lẫy bao phủ toàn bộ bề mặt. Với Langdon, việc nhìn thấy bốn chú ngựa này được gìn giữ nguyên vẹn bất chấp quá khứ đầy sóng gió của chúng luôn là lời nhắc nhở về tầm quan trọng của bảo tồn nghệ thuật.

      “Vòng cổ của chúng”, Sienna , tay chỉ những chiếc vòng trang trí quanh cổ ngựa. “ chúng được cho thêm vào phải ? Để che mối nối à?”

      Langdon kể cho Sienna và Ferris về chi tiết “đầu bị chặt” lạ lùng mà đọc được trang web của Hiệp hội ARCA.

      “Hiển nhiên rồi”, Langdon và tiến về tấm biển thông tin dựng gần đó.

      “Roberto!”, giọng thân thiện vang lên phía sau họ. “ xem thường tôi quá!”

      Langdon quay lại thấy Ettore Vio, người đàn ông tóc bạc trắng, tươi tỉnh, mặc bộ cánh màu xanh lam và đep cặp kính có sợi xích vòng quanh cổ, lách qua đám đông. “ dám đến Venice mà thèm gọi cho tôi à?”

      Langdon mỉm cười và bắt tay người đàn ông. “Tôi thích làm cho ngạc nhiên, Ettore. Trông khỏe lắm.Đây là các bạn tôi, bác sĩ Brooks và bác sĩ Ferris.”

      Ettore chào họ và sau đó đứng lùi lại, đánh gá Langdon. “ du lịch với các bác sĩ à? bị ốm sao?Còn quần áo nữa? biến thành dân Ý à?”

      ”, Langdon , phì cười.“Tôi đến để lấy số thông tin về đàn ngựa.”

      Ettore có vẻ tò mò.“Còn điều gì mà giáo sư nổi tiếng lại chưa biết nào?”

      Langdon cười to. “Tôi cần biết về vụ chặt đầu những chú ngựa này để vận chuyển thời Thập tự chinh,”

      Ettore Vio nhìn cứ như thể Langdon vừa hỏi về bệnh trĩ của nữ hoàng vậy. “Chúa ơi, Robert”, ông ấy thào, “chúng tôi về chuyện đó. Nếu muốn xem những cái đầu bị chặt tôi có thể cho xem tượng thủ cấp Carmagnola 48 nổi tiếng hoặc…”

      “Ettore, tôi cần biết vị tổng trấn Venice nào cắt những chiếc đầu này.”

      “Chuyện đó chưa hề xảy ra”, Ettore phản bác. “Tôi có nghe nhiều câu chuyện, dĩ nhiên rồi, nhưng trong lịch sử ít thấy thông tin gợi ý về vị tổng trấn nào phạm phải…”

      “Ettore, làm ơn giúp tôi ”, Langdon .“Theo giai thoại là vị tổng trấn nào?”

      Ettore đeo kính lên và nhìn Langdon.“Chậc, theo giai thoại, những chú ngựa dấu của chúng tôi được chở đến Venice bởi vì tổng trấn dối trá và quỷ quyệt nhất.”

      “Dối trá à?”

      “Phải, vị tổng trấn lừa tất cả mọi người tham gia Thập tự chinh”.Ông ấy nhìn Langdon chờ đợi.“Vị tổng trấn lấy tiền công quỹ để dong buồm tới Ai Cập… nhưng lại chuyển hướng quân lính và cướp phá Constantinople.”

      Nghe giống như hành động bội bạc, Langdon đăm chiêu.“Và tên ông ta là gì?”

      Ettore cau mày.“Robert, tôi nghĩ sinh viên về lịch sử thế giới mà.”

      “Phải, nhưng thế giới rộng lớn, và lịch sử rất dài.Tôi có thể phải cần đến trợ giúp.”

      “Tốt thôi, manh mối cuối cùng.”

      Langdon định phản đối, nhưng lại cảm thấy mình lãng phí công sức.

      “Vị tổng trấn của sống thọ gần thế kỷ”, Ettore . “ phép màu ở thời đại của ông ta. Những người mê tín gắn tuổi thọ của ông ta cho những hành động táo bạo trong việc lấy hài cốt của Thánh Lucia từ Constantinople và đưa trở về Venice. Thánh Lucia bị mù mắt do…”

      “Ông ta moi xương kẻ mù lòa!”, Sienna buột miệng, mắt nhìn Langdon, cũng vừa có ý nghĩ tương tự.

      Ettore nhìn Sienna với ánh mắt kỳ lạ.“ như vậy cũng được, tôi cho là thế.”

      Ferris bỗng chợt tái nhợt, như thể ông ta vẫn chưa lấy lại nhịp thở sau cuốc bộ dài qua quảng trường và trèo lên cầu thang.

      “Tôi cần thêm”, Ettore , “vị tổng trấn này rất kính Thánh Lucia bởi vì chính ông ta cũng mù lòa. Ở tuổi chín mươi, ông ta đứng giữa quảng trường này, nhìn thấy gì cả, và thuyết giáo về Thập tự chinh”.

      “Tôi biết ông ta là ai rồi”, Langdon .

      “Chà, tôi cũng hy vọng như vậy!”, Ettore mỉm cười đáp lời.

      Vì trí nhớ thị giác của Langdon làm việc tốt với các hình ảnh hơn là những ý tưởng có bối cảnh, nên trong đầu ra tác phẩm nghệ thuật – minh họa nổi tiếng của Gustave Doré mô tả vị tổng trấn mù lòa, nhăn nheo, hai tay giơ cao đầu khi ông ta khích lệ đám đông gia nhập Thập tự chinh. Tên bức họa của Doré còn rất trong tâm trí : Dandolo thuyết giáo Thập tự chinh.

      “Enrico Dandolo”, Langdon tuyên bố. “Vị tổng trấn sống mãi.”

      “Có thế chứ!”, Ettore . “Tôi sợ đầu óc già cỗi mất rồi, bạn của tôi.”

      “Cũng như cơ thể tôi thôi. Ông ấy được chôn ở đây à?”

      “Dandolo hả?”, Ettore lắc đầu. “, phải ở đây.”

      “Thế ở đâu?”, Sienna hỏi. “Ở Dinh Tổng trấn à?”

      Ettore tháo kính, nghĩ lúc. “Để tôi nghĩ lát. Có rất nhiều tổng trấn, tôi thể nhớ ra…”

      Ettore chưa kịp kết thúc thuyết trình viên hốt hoảng chạy đến và kéo ông ta sang bên, thào vào tai. Ettore sững người, trông đầy cảnh giác, rồi lập tức chạy tới lan can và nhìn xuống điện thờ phía dưới. lúc sau, ông ấy quay lại phía Langdon.

      “Tôi trở lại ngay”, Ettore hét to, rồi vội vã chạy thêm lời nào khác.

      Ngơ ngác, Langdon chạy ra lan can và nhìn xuống. Có chuyện gì ở dưới kia nhỉ?

      Ban đầu, chẳng thấy gì hết, chỉ có những du khách lại xung quanh. Nhưng lúc sau, nhận ra nhiều khách tham qua chăm chú nhìn về hướng, phía lối vào chính, qua đó có thể thấy nhóm binh sĩ mặc áo đen vừa bước vào nhà thờ và tỏa ra khắp lối vào chính, chặn tất cả đường ra.

      Đám lính áo đen.Langdon cảm thấy tay mình bám chặt lấy lan can.

      “Robert!”, Sienna gọi to phía sau .

      Langdon vẫn rời mắt khỏi đám lính.Làm thế nào họ tìm ra bọn mình?

      “Robert”, gọi khẩn cấp hơn. “Có chuyện hay! Giúp em!”

      Langdon quay khỏi lan can, ngơ ngác vì những tiếng kêu cứu của .

      ấy đâu rồi?

      lát sau, nhìn thấy cả Sienna và Ferris. sàn ngay phía trước Đàn ngựa nhà thờ St. Mark, Sienna quỳ bên cạnh bác sĩ Ferris, người vừa ngã sụp xuống trong cơn co giật, tay ôm chặt lấy ngực.

      48 Francessco Bussone (1382 - 1432), thường được gọi bá tước Carmagnola, là nhà lãnh đạo người Ý. Ông sinh tại Carmagnola trong gia đình nông dân nghèo.Ông bắt đầu nghiệp quân khi mới mười hai tuổi và nhanh chóng trở thành chiến tướng xuất sắc. Ông bị chính Gian Galeazzo Visconti, quận công Milan, người mà ông phục vụ, nghi ngờ và bỏ tù rồi kết án xử tử ngày 5/5/1432.


      Chương 75


      “Em nghĩ ta bị đau tim!”, Sienna kêu to.

      Langdon chạy vội lại chỗ bác sĩ Ferris nằm co quắp sàn nhà.Ông ta há hốc miệng, sao thở được.

      Có chuyện gì xảy ra với ta?! Với Langdon, mọi thứ diễn ra đột ngột chỉ trong khoảnh khắc. Trước cảnh đám lính ập đến dưới nhà và Ferris nằm vật sàn, Langdon nhất thời cảm thấy tê liệt, dám chắc nên xoay về hướng nào.

      Sienna quỳ xuống bên cạnh Ferris và nới lỏng cà vạt, giật tung vài cúc áo sơ mi phía để giúp ông ta thở. Nhưng khi áo sơ mi của Ferris bung ra, Sienna bật ngược lại và hét lên tiếng hoảng hốt, đưa tay che miệng trong lúc loạng choạng lùi lại, mắt đăm đăm nhìn khoảng ngực trần của ông ta.

      Langdon cũng nhìn thấy.

      Phần da ngực Ferris biến màu rất . vết bầm xanh trông rất đáng ngại có chui vi bằng quả bưởi loang ra chỗ xương ức. Ferris trông như thể bị cả quả đạn đại bác bắn trúng ngực.

      “Bị chảy máu trong”, Sienna , ngước lên nhìn Langdon vẻ choáng váng.“Thảo nào ta cứ khó thở suốt cả ngày.”

      Ferris ngó ngoáy đầu, ràng cố gắng , nhưng ông ta chỉ có thể phát ra những tiếng khò khè yếu ớt. Du khách bắt đầu tụm lại xung quanh, và Langdon cảm thấy tình hình sắp trở nên hỗn loạn.

      “Đám lính ở dưới nhà”, Langdon cảnh báo Sienna.“ biết làm sao họ tìm ra chúng ta.”

      Vẻ ngạc nhiên và sợ hãi mặt Sienna nhanh chóng chuyển thành giận dữ, và trừng mắt nhìn xuống Ferris.“ dối chúng tôi, phải vậy ?”

      Ferris lại cố gắng , nhưng thể phát ra tiếng, Sienna thò tay lục tìm các túi của Ferris và móc ví cùng điện thoại của ông ta ra rồi đút gọn vào túi mình, trừng mắt đứng nhìn ông ta như buộc tội.

      Đúng lúc đó, phụ nữ Ý có tuổi lách qua đám đông, quát to đầy giận dữ với Sienna.“Ấn vào ngực ta!” Bà ấy dùng nắm tay ấn mạnh vào ngực mình.

      !”, Sienna quát lại. “Làm hô hấp nhân tạo khiến ta tử vong! Nhìn ngực ta xem!” quay lại phía Langdon. “Robert, chúng ta cần thoát ra khỏi đây. Ngay bây giờ.”

      Langdon cúi nhìn Ferris, lúc này nhìn cách tuyệt vọng, như thể muốn gì đó.

      “Chúng ta thể bỏ ta lại!”, Langdon .

      “Tin em ”, Sienna . “Đấy phải là trụy tim. Và chúng ta phải thôi.Ngay bây giờ.”

      Khi đám đông tụm lại gần, du khách bắt đầu kêu cứu. Sienna nắm lấy tay Langdon bằng sức mạnh đáng ngạc nhiên và kéo ra khỏi đám hỗn loạn, lách ra khu vực thoáng khí ngoài ban công.

      Langdon bị lóa mắt mất lúc. Mặt trời xuống thấp ở đầu phía tây của Quảng trường St. Mark khiến toàn bộ ban công như tắm trong ánh nắng vàng rực. Sienna dẫn Langdon về mé bên trái, dọc theo sân thượng tầng hai, len lỏi qua những khách du lịch ra ngoài này để chiêm ngưỡng quảng trường và bản sao Đàn ngựa nhà thờ St. Mark.

      Khi họ chạy dọc mặt tiền của thánh đường, vùng đàm nước chợt xuất ngay trước mặt.ngoài biền kia, hình ảnh lạ lùng khiến Langdon chú ý – chiếc thuyền siêu đại trông như dạng tàu chiến thời tương lai nào đó.

      Langdon chưa kịp đổi ý Sienna và lại ngoặt sang trái, theo ban công vòng tới góc tây nam của thánh đường về phía “Khuôn cửa giấy” – phần chai nối thánh đường với Dinh Tổng trấn – được đặt tên như vậy vì các vị tổng trấn thường dán các sắc lệnh ở đó cho công chúng đọc.

      phải là trụy tin sai?Hình ảnh phần ngực xanh đen của Ferris bám chặt lấy tâm trí Langdon, và đột nhiên cảm thấy sợ hãi trước chẩn đoán của Sienna về tình trạng bệnh lý của người đàn ông kia.Hơn nữa, dường như có gì đó thay đổi, và Sienna còn tin tưởng Ferris nữa.Phải chăng đó là lý do ấy cổ ra hiệu bằng mắt cho mình lúc trước?

      Sienna đột ngột dừng sững lại và nhoài người ra phía ngoài lan can, ngó xuống góc hiên của Quảng trường St. Mark tít phía dưới.

      “Khốn khiếp”, .“Chúng ta ở cao hơn em nghĩ.”

      Langdon sững nhìn .Em nghĩ đến việc nhảy xuống ư?!

      Trông Sienna rất hoảng sợ.“Chúng ta thể để họ bắt được, Robert.”

      Langdon xoay lại phía thánh đường, đưa mắt nhìn cánh cửa nặng nề bằng sắt đúc và kinh ngay phía sau họ.Rất nhiều du khách ra ra vào vào và nếu ước tính của Langdon đúng, qua được cánh cửa đó là họ vào trong bảo tàng gần phía sau nhà thờ.

      “Họ bít kín mọi lối ra”, Sienna .

      Langdon suy ngẫm mọi khả năng thoát thân của họ và đến lựa chọn duy nhất.“ nghĩ nhìn thấy thứ bên trong kia có thể giải quyết được vấn đề.”

      do dự trước những gì mình suy tính, Langdon dẫn Sienna quay vào trong thánh đường. Họ men theo vòng ngoài của bảo tàng, cố gắng lấn vào đám đông để bị chú ý, nhiều người trong đám đông nhìn chếch qua gian rộng của gian trung tâm giáo đường về phía đám đông nhốn nháo quanh Ferris. Langdon chú ý đến người phụ nữ đứng tuổi Ý đầy cáu giận hướng dẫn hai người lính mặc áo đen chạy ra ban công, chỉ cho họ lối thoát thân của Langdon và Sienna.

      Chúng ta phải nhanh lên, Langdon nghĩ, nhìn lướt các bức tường và cuối cùng nhận ra thứ đanh tìm kiếm ở gần tấm thảm cỡ lớn.

      Thiết bị ở tường có màu vàng tươi với tấm biển cảnh báo màu đỏ: ALLARME ANTINCENDIO 49 .

      “Báo cháy à?”, Sienna . “Kế hoạch của như vậy à?”

      “Chúng ta có thể lén ra cùng với đám đông”, Langdon tiến lại và nắm lấy cần báo động.Rồi chẳng ích gì đâu.Trước khi có thể suy nghĩ kỹ lại, khẩn trương kéo mạnh xuống, thấy cơ cấu này dễ dàng làm vỡ tan cái trụ thủy tinh bên trong.

      hề có tiếng còi và tình trạng huyên nào mà Langdon mong đợi.

      Chỉ thấy im lặng.

      kéo lần nữa.

      Chẳng có gì cả.

      Sienna trợn mắt nhìn như thế hóa dại. “Robert, chúng ta ở trong nhà thờ đá toàn khách du lịch! nghĩ những thiết bị báo cháy công cộng này vẫn hoạt động khi vài kẻ tinh nghịch có thể…”

      “Dĩ nhiên! Luật phòng cháy ở Hoa Kỳ…”

      ở châu Âu. Ở đây bọn em có nhiều luật sư như Hoa Kỳ”. chỉ qua vai Langdon.“Và chúng ta cũng còn thời gian đâu.”

      Langdon ngoảnh về phía cánh cửa kính nơi họ vừa bước vào và nhìn thấy hai người lính hối hả chạy vào từ phía ngoài ban công, cặp mắt quét qua toàn bộ khu vực. Langdon nhận ra người chính là gã đặc vụ cơ bắp nổ súng vào họ chiếc xe Trike khi họ chạy trốn khỏi căn họ của Sienna.

      có nhiều lựa chọn,Langdon và Sienna cố gắng né khỏi tầm mắt của họ, lẩn nhanh vào hốc cầu thang xoắn ốc kín đáo dẫn xuống tầng trệt.Khi xuống đến mặt đất, họ dừng lại trong bóng tối của cầu thang. Phía bên kia điện thờ có vài người lính đứng canh các lối ra, chăm chú quan sát khắp phòng.

      “Nếu chúng ta bước ra khỏi cầu thang này, họ nhìn thấy ngay”, Langdon .

      “Cầu thang vẫn chạy xuống phía dưới nữa”, Sienna thào, ra hiệu về phía băng vải đề ACCESSO VIETATO 50 quây lấy những bậc thang phía dưới họ. Phía sau băng vải, các bậc thang chạy xoắn ốc hẹp hơn nữa xuống vùng tối như hũ nút.

      phải là ý hay, Langdon thầm nghĩ.Hầm mộ dưới lòng đất có lối thoát

      Sienna bước qua băng vải và dò dẫm xuống đường hầm xoắn ốc, biến mất hút trong khoảng tối.

      “Cửa mở”, Sienna thào từ phía dưới.

      Langdon hề tỏ ra ngạc nhiên.Hầm mộ của nhà thờ St. Mark khác với nhiều địa điểm khác ở chỗ nó cũng là nhà nguyện, nơi thường xuyên có các buổi hành lễ trước hài cốt của Thánh Mark.

      “Em nghĩ em thấy có ánh sáng tự nhiên”, Sienna khẽ.

      Làm gì có chuyện như thế được? Langdon cố nhớ lại những lần tham quan trước đây tới gian dưới lòng đất linh thiêng này và đoán rằng có lẽ Sienna vừa nhìn thấy ánh sáng vĩnh cửu ngọn đèn điện vẫn còn thắp sáng mộ Thánh Mark ở chính giữa hầm mộ. Mặc dù vậy, những bước chân đến gần ở phía khiến Langdon còn nhiều thời gian để ngẫm nghĩ. nhanh chóng bước qua băng vải, cẩn thận làm nó đung đưa, và sau đó đặt tay lên tường đá gồ ghề, lần tìm đường qua đoạn cua và biến mất hút.

      Sienna đợi ở dưới chân cầu thang.Phía sau , hầm mộ tối mù như bưng lấy mắt.Đó là gian phòng dưới lòng đất với phần trần đá thấp đến đáng sợ được đỡ bằng những cây cột xưa cũ và những lối có mái vòm bằng gạch.Trọng lượng của toàn bộ thánh đường chỉ nằm những cây cột này, Langdon thầm nghĩ, bắt đầu cảm thấy sợ gian chật hẹp ở đây.

      “Em với rồi đấy”, Sienna thào, khuôn mặt xinh đẹp của hơi sáng nhờ chút ánh sáng tự nhiên le lói. chỉ về mấy ô cửa sổ con hình vòm cung nho ở tít cao tường.

      Giếng lấy sáng, Langdon nhận ra ngay, dù quên mất diện của chúng ở đây. Những giếng này – được thiết kế để lấy ánh sáng và khí vào trong hầm mộ tù túng – được mở thành những đường ống sâu hút chạy suốt từ Quảng trường St. Mark phá xuống. Kính cửa sổ được gia cố bằng hệ thống hoa sắt ken dày gồm mười lăm vòng tròn lồng vào nhau, và mặc dù Langdon ngờ rằng chúng có thể mở ra được từ bên trong nhưng chúng đều cao đền ngang vai và rất khít khao. Thậm chí nếu bằng cách nào đó họ thoát qua được cửa sổ để lọt vào giếng việc trèo lên khỏi giếng vẫn là bất khả thi, vì chúng sâu tới hơn ba mét và được phủ những lưới sắt an ninh to nặng ở đỉnh.

      Trong thứ ánh sáng lờ mờ lọt qua giếng, hầm mộ nhà thờ St. Mark giống như khu rừng dưới ánh trăng – khoảnh rừng dày đặc những cột trụ giống như những thân cây đổ bóng dài và nặng nề xuống nền đất. Langdon đưa mắt về phía trung tâm hầm mộ, nơi bóng đèn duy nhất cháy sáng chỗ mộ Thánh Mark. Vì thánh trùng tên với nhà thờ yên nghĩ trong quách đá phía sau bàn thờ, còn đằng trước là những hàng ghế dài cho số ít người may mắn được mời xuống hành lễ tại đây – trung tâm của cộng đồng Thiên Chúa giáo Venice.

      đốm sáng xúi bất chợp nhấp nháy sáng lên bên cạnh Langdon, ngoảnh nhìn thấy Sienna giơ lên chiếc điện thoại sáng đèn của Ferris.

      Langdon ngạc nhiên. “ nghĩ Ferris điện thoại của ta hết pin rồi cơ mà.”

      ta dối”, Sienna , vẫn bấm lia lịa.“Vẽ rất nhiều chuyện”. cau mày trước cái điện thoại và lắc đầu. “ có tín hiệu. Em nghĩ có lẽ em có thể tìm được vị trí mộ của Enrico Dandolo”. vội tới giếng lấy sáng và giơ cao chiếc điện thoại đầu cho gần tấm kính, cố gắng bắt sóng tín hiệu.

      Enrico Dandolo, Langdon nghĩ thầm, vẫn chưa có cơ hội ngẫm nghĩ về vị tổng trấn này trước lúc phải tháo chạy. Bất chấp tình thế khó xử tại của họ, thực tế việc họ tới nhà thờ St. Mark vẫn đạt được mục đích – hé lộ nhân dạng của vị tổng trấn bội bạc chặt đầu ngựa, và ,oi xương người mù lòa.

      may, Langdon lại biết mộ của Enrico Dandolo nằm ở đâu, và ràng Ettore Vio cũng vậy. ấy biết từng ly từng tý về nhà thờ này… có khi cả Dinh Tổng trấn nữa.Việc Ettore lập tức chỉ địa điểm mộ của Dandolo cho Langdon thấy rằng ngôi mộ này có lẽ chẳng nằm ở đâu gần nhà thờ St. Mark hoặc Dinh Tổng trấn.

      Vậy nó ở đâu?

      Langdon liếc nhìn Sienna, lúc này đứng ghế băng vừa đặt xuống bên dưới giếng lấy sáng. mở chốt cửa sổ, đẩy nó mở bưng ra, và giơ chiếc điện thoại của Ferris vào lòng giếng.

      Những thanh bên ngoài Quảng trường St. Mark lọt xuống từ phía , và Langdon đột nhiên tự hỏi liệu có thể có cách nào đó thoát ra khỏi đây . Có dãy ghế gấp phía sau những ghế băng, và Langdon cảm thấy có thể nhấc bổng chiếc đưa vào giếng lấy sáng. Có khi những lưới sắt phía cũng mở được từ bên trong?

      Langdon vội băng qua bóng tối tới chỗ Sienna. chỉ mới bước vài bước cú tang rất mạnh vào trán khiến bật ngược trở lại. Khi khuỵu gối xuống, ngay lập tức nghĩ mình vừa bị tấn công.Nhưng nhanh chóng nhận ra phải, nên đành thầm rủa chính mình phán đoán trước rằng thân hình cao hơn mét tám của mình quá khổ so với chiều cao của mái vòm được xây cho người có tầm vóc trung bình từ hơn nghìn năm trước.

      Trong lúc vẫn quỳ nần đá cứng và chờ cho đom đóm mắt dịu lại, nhận ra mắt mình đanh nhìn xuống dòng chữ khắc nền hầm.

      Sanctus Marcus.

      nhìn sững lúc lâu. phải tên của Thánh Mark khắc ở đó khiến chú ý mà là thứ ngôn ngữ đươhc dùng để viết cái tên đó.

      Tiếng Latin.

      Sau cả ngày trời đắm mình trong tiếng Ý đại, Langdon cảm thấy hơi mất phương hướng khi thấy tên Thánh Mark được viết bằng tiếng Latin, chi tiết gợi nhớ nhanh rằng thứ từ ngữ này là ngôn ngữ chung của đế chế La Mã khi Thánh Mark qua đời.

      Rồi ý nghĩ nữa vụt đến với Langdon.

      Giai đoạn đầu thế kỷ XIII – thời kỳ của Enrico Dandolo và cuộc Thập tự chinh thứ tư- ngôn ngữ của giới cầm quyền vẫn chủ yếu là tiếng Latin. tổng trấn Venice đem lại vinh qyang to lớn cho đế chế La Mã bằng việc tái chiếm Constantinople bao giờ được chôn cất với cái tên Enrico Dandolo, thay vào đó là cái tên bằng tiếng Latin của ông ta.

      Henricus Dandolo

      Langdon thở cách khó nhọc khi nghĩ đến tấm bia mộ lẻ loi của vị tổng trấn. Mình từng đến đó.Đúng y như bài thơ , Enrico Dandolo thực tế được chôn trong bảo tàng mạ vàng – bảo quán của tri thức thánh thiêng – nhưng phải là Thánh đường St. Mark.

      Khi chân lý xuất , Langdon chậm rãi đứng lên.

      “Em tài nào bắt được tín hiệu”, Sienna , từ giếng lấy sáng trèo xuống và tiến lại phía .

      “Em cần làm thế nữa”, Langdon . “Bảo quán mạ vàng của tri thức thánh thiêng…” hít hơi sâu.“ nhầm lẫn.”

      Sienna tái nhợt.“Đừng có là chúng ta đến nhầm bảo tàng nhé!”

      “Sienna”, Langdon thầm, cảm thấy mệt rũ. “Chúng ta ở nhầm quốc gia rồi.”

      49 Báo cháy.

      50 Cấm vào
      Chương 76


      Bên ngoài Quảng trường St. Mark, người phụ nữ Gypsy bán những chiếc mặt nạ Venice dựa vào bức tường ngoài của thánh đường để nghĩ ngơi. Như mọi khi, bà tìm đến chỗ ưa thích của mình – hốc tường giữa hai tấm lưới kim loại vỉa hè – chỗ lý tưởng để đặt số hàng nặng trịch và ngắm mặt trời lặn.

      chứng kiến nhiều chuyện Quảng trường St. Mark trong bấy nhiêu năm, nhưng cái kiện quái lạ khiến bà chú ý lúc này phải diễn ra quảng trường, mà ở bên dưới. Giật mình vì tiếng động lớn dưới chân, người phụ nữ ngó qua tấm lưới nhìn xuống cái giếng hẹp, có lẽ sâu tới ba mét. Ô cửa sổ dưới đáy mở toang và chiếc ghế gấp được đẩy lên từ đáy giếng, cáo cào vào vỉa hè.

      Trước vẻ ngạc nhiên của người phụ nữ Gypsy, theo sau chiếc ghế là xinh đẹp có mái tóc đuôi ngựa vàng óng, ràng được đun lên từ phía dưới và giờ leo qua cửa sổ chui vào lỗ hổng hẹp.

      tóc vàng lách người đứng dậy và lập tức ngước nhìn lên, giật bắn mình khi nhìn thấy bà Gypsy đăm đăm nhìn xuống qua tâm lưới. tóc vàng đưa ngón tay lên môi và cố mĩm cười. Sau đó ta mở ghế và trèo lên, vươn tay về phía lưới sắt.

      thấp quá, bà Gypsy nghĩ bụng. làm cái gì vây?

      tóc vàng tụt khỏi ghế và với ai đó bên trong. Mặc dù có nhiều chỗ để đứng trong lòng giếng, chật hẹp bên cạnh cái ghế, nhưng lúc này vẫn bước sang bên khi có người thứ hai – người đàn ông tóc đen cao lơn mặc bộ đồ bảnh bao – tự mình chui lên khỏi tầng hầm Thánh đường và lách vào đường ống chật chội.

      ta cũng ngước lên, nhìn thẳng vào bà Gypsy qua tấm lưới sắt, sau đó, ta đổi chỗ cho tóc vàng và trèo lên chiếc ghế yếu ớt. ta cao hơn, và khi vươn người, ta có thể tháo được cái then an ninh bên dưới tấm lưới sắt. ta đứng kiễng mấy đầu ngón chân, đặt tay lên tấm lưới và đẩy lên . Tấm lưới nhấc lên phân rồi ta lại phải đặt nó xuống.

      “”Giúp chúng tôi tay được ?”, tóc vàng gọi với lên chỗ bà Gypsy.

      Giúp các người tay à? Bà Gypsy tự hỏi, hề có ý định can thiệp. Các người làm gì nào?

      tóc vàng móc ra chiếc ví đàn ông và rút tờ 100 euro, vẫy vẫy như lời đề nghị.Tờ tiền còn nhiều hơn bà Gypsy kiếm được với những chiếc mặt nạ trong cả ba ngày trời. lạ gì chuyện mặc cả, bà bán mặt nạ lắc đầu và giơ ra hai ngón tay. Người phụ nữ tóc vàng rút ra tờ tiền nữa.

      tin nổi vận may của mình, bà Gypsy nhún vai đồng ý vẻ miễn cưỡng, cố gắng tỏ ra dửng dung trong lúc nhoài xuống và kéo những thanh sắt, nhìn vào mắt người đàn ông để họ có thể hợp lực cho ăn khớp.

      Khi người đàn ông đẩy thanh sắt lần nữa, bà Gypsy kéo mạnh chúng lên bằng đôi tay được rèn luyện suốt nhiều năm mang vác hàng, và tấm lưới sắt bung lên nửa chừng. Đúng lúc bà nghĩ họ làm được có tiếng loảng xoảng rất to bên dưới, và người đàn ông biến mất, rơi tuột xuống giếng khi chiếc ghế gấp gẫy sập dưới chân ta.

      Ngay lập tức tấm lưới sắt trở nên nặng trĩu trong tay bà, và bà nghĩ mình phải bỏ nó xuống, nhưng lời hứa 200 euro như tiếp thêm sức mạnh, vậy là bà cố kéo tấm lưới lên và vứt vào bên hông thánh đường, khiến nó vang lên tiếng rất lớn.

      Thở ra hơi, bà Gypsy ngó xuống giếng chỗ hai con người xoắn lấy nhau và cái ghế gãy gập.khi người đàn ông đứng dậy và phủi bụi người, bà Gypsy bèn cúi xuống giếng và chìa tay ra để nhận tiền.

      Người phụ nữ tóc đuôi ngựa gật đầu biết ơn và giơ hai tờ giấy bạc lên quá đầu.Bà Gypsy cúi xuống nhưng vẫn còn quá xa.

      Đưa tiền cho người đàn ông.

      Đột nhiên trong giếng có náo loạn – những giọng giận dữ vang ầm ầm bên trong thánh đường.Người đàn ông và người phụ nữ đều hoảng hốt, bật ngược lại từ cửa sổ.

      Rồi mọi thứ trở nên hỗn loạn.

      Người đàn ông tóc sậm màu cúi khom xuống và ra lệnh cho đặt chân lên những ngón tay khum lại thành bàn đạp. bước lên, và ta đẩy mạnh lên. vọt lên thành giếng, rang cắn chặt mấy tờ tiền để giải phóng hai tay trong lúc vươn người cố bám lấy mép. Người đàn ông đẩy lên, cao hơn… cao hơn nữa… nâng cho tới khi bám được hai tay vào mép giếng.

      Lấy hết sức, đun mình lên hẳn quảng trường giống như người phụ nữ leo khỏi bể bơi. ta dúi tiền vào tay bà Gypsy và lập tức xoay người, quỳ bên mép giếng, cúi xuống đón người đàn ông.

      quá muộn.

      Những cánh tay rắn rỏi trong trang phục đen với vào giếng như những xúc tu quăng quật của con quái vật đói mồi, tóm lấy chân người đàn ông, kéo ta về phía cửa sổ.

      “Chạy , Sienna”, người đàn ông vùng vẫy kêu to.“Chạy ngay !”

      Bà Gypsy nhìn thấy mắt họ nhìn nhau đầy đau đớn tiếc nuối và mọi việc kết thúc.

      Người đàn ông bị kéo tuột xuống qua ô cửa sổ vào lại thánh đường.

      Người phụ nữ tóc váng trân trối nhìn xuống, mắt ầng ậng nước.“Em xin lỗi, Robert”, ấy khẽ.Thế rồi, sau lúc sững lại, ấy thêm.“Vì tất cả.”

      khắc sau, bò dậy, mái tóc đuôi ngựa vung vẩy khi lao nhanh vào ngõ hẹp Merceria dell’Orologio, mất hút vào trung tâm Venice.








    4. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 77
      Tiếng nước vỗ miên man nhàng kéo Robert Langdon tỉnh lại. ngửi thấy mùi thuốc vô trùng lẫn với mùi biển mằn mặn và cảm thấy thế giới lắc lư phía dưới mình.

      Mình ở đâu đây?

      Chỉ lúc trước, có vẻ như vậy, bị khống chế trong cuộc vật lộn tuyệt vọng với những cánh tay mạnh mẽ kéo tuột ra khỏi giếng lấy sáng và lôi trở lại hầm mộ. Còn giờ đây, lạ lùng, còn cảm thấy nền đá lạnh lẽo của nhà thờ St. Mark dưới lưng mình nữa, mà chỉ cảm nhận được tấm nệm mềm.

      Langdon mở mắt và ngó xung quanh – gian phòng sạch với ô cửa sổ duy nhất. Chuyển động lắc lư vẫn tiếp tục.

      Mình con thuyền sao?

      Ký ức cuối cùng của Langdon là bị người lính mặc đồ đen đè chặt xuống nền hầm mộ và giận dữ rít lên với , “Đừng tìm cách chạy trốn nữa!”.

      Langdon kêu ầm ĩ, cố gắng cầu cứu khi những người lính tìm cách bịt miệng lại.

      “Chúng ta cần đưa gã ra khỏi đây”, người lính với đồng bọn.

      chàng kia gật đầu do dự. “Cứ làm .”

      Langdon cảm thấy những ngón tay chắc khỏe thành thục tìm động mạch và ven cổ . Sau đó, khi xác định được vị trí chính xác động mạch cảnh, những ngón tay ấy bắt đầu ép lực rất mạnh xuống. Chỉ trong vài giây, mắt Langdon bắt đầu nhòa , và cảm thấy mình trôi, não còn dưỡng khí.

      Họ giết mình, Langdon nghĩ. Ngay ở đây, bên cạnh mộ Thánh Mark.

      Mọi thứ tối sầm, nhưng dường như vẫn chưa đủ vì còn có thêm những bóng xám câm lặng xuất .

      Langdon biết thời gian trôi qua bao lâu, nhưng lúc này thế giới bắt đầu trở lại với . Từ những gì có thể phán đoán ở trong bệnh xá tàu. Khung cảnh vô trùng xung quanh cùng với mùi cồn isopropyl tạo nên cảm giác ngờ ngợ rất lạ, cứ như thế Langdon vừa trọn vòng tròn, tỉnh lại y như đêm hôm trước, giường bệnh xa lạ với những ký ức được nên lời.

      Ý nghĩ của lập tức hướng đến Sienna và an toàn của . vẫn còn thấy đôi mắt nâu dịu dàng của nhìn xuống , chất chứa đầy hối tiếc và sợ hãi. Langdon cầu mong rằng thoát được và tìm cách ra khỏi Venice an toàn.

      Chúng ta ở nhầm quốc gia rồi, Langdon với , vì sững sờ nhận ra địa điểm đích thực phần mộ của Enrico Dandolo. Tòa bảo quản của tri thức thánh thiêng bí trong bài thơ hề nằm ở Venice, mà ở thế giới xa vời. Đúng như tác phẩm của Dante , ý nghĩa của bài thơ được giấu “bên dưới lớp màn thơ phú khó hiểu”.

      Langdon định giải thích mọi việc cho Sienna ngay khi họ thoát ra khỏi hầm mộ, nhưng chẳng còn cơ hội nữa.

      ấy bỏ chạy mà chỉ biết rằng mình thất bại.

      Langdon cảm thấy dạ dày quặn thắt.

      Đại dịch vẫn ở ngoài kia… thế giới xa vời.

      Từ bên ngoài bệnh xá, Langdon nghe thấy tiếng giầy ủng vang rất to trong sảnh, và ngoảnh nhìn người đàn ông mặc áo đen bước vào chỗ nằm. Vẫn là gã lính vạm vỡ đè nghiến xuống sàn hầm mộ. Đôi mắt gã lạnh lẽo như đá. Bản năng của Langdon nhắc lùi lại khi người đàn ông tiến đến, nhưng chẳng còn chỗ nào để chạy nữa. Bất kỳ việc gì những kẻ này muốn ra tay với mình, họ đều có thể làm.

      “Tôi ở đâu?”, Langdon hỏi, giọng cố tỏ ra thách thức hết mức.

      chiếc thuyền buông neo ngoài khơi Venice.”

      Langdon nhìn tấm phù hiệu xanh lá cây đồng phục của người đàn ông – quả cầu có những chữ cái ECDC 51 bao quanh. Langdon chưa bao giờ nhìn thấy biểu tượng hay cụm từ viết tắt này.

      “Chúng tôi cần thông tin từ ”, người lính , “và chúng tôi có nhiều thời gian”.

      “Tại sao tôi phải gì đó cho các người chứ?”, Langdon hỏi lại. “Các người suýt giết tôi.”

      đến mức thế. Chúng tôi dùng kỹ thuật vô hiệu hóa của judo gọi là shime waza. Chúng tôi có ý định làm hại đâu.”

      bắn tôi sáng nay đấy thôi!”, Langdon , còn nhớ thanh rền vang khi viên đạn bắn trúng chắn bùn chiếc Trike của Sienna. “Đạn của suýt trúng đốt sống tôi còn gì!”

      Người đàn ông nheo mắt. “Nếu tôi muốn bắn vào sống lưng tôi làm được ngay rồi. Tôi chỉ bắn viên duy nhất để xuyên thủng lốp sau xe của , cho các chạy thôi. Tôi được lệnh liên hệ với và tìm hiểu xem tại sao lại hành động thất thường như vậy.”

      Langdon còn chưa lĩnh hội được đầy đủ những lời này thêm hai người lính nữa bước qua cửa, tiến lại phía giường nằm.

      giữa họ là người phụ nữ.

      bóng ma.

      Đầy vẻ siêu trần và thuộc thế giới khác.

      Langdon lập tức nhận ra bà ấy chính là hình ảnh trong những ảo giác của . Người phụ nữ trước mặt rất đẹp, với mái tóc bạc dài và cái bùa làm bằng lam ngọc. Vì trước đây bà ấy xuất trong khung cảnh đáng sợ toàn những xác chết nên Langdon phải mất lúc mới tin rằng đích thực bà ấy đứng trước mặt mình, bằng xương bằng thịt.

      “Giáo sư Langdon”, bà ấy , mỉm cười mệt mỏi lúc đến bên giường . “Tôi thấy người vì sao”. Bà ngồi xuống và bắt mạch cho . “Tôi nghe bị mất trí nhớ. còn nhớ tôi ?”

      Langdon nhìn kỹ người phụ nữ lúc. “Tôi từng… thấy hình ảnh bà, mặc dù tôi nhớ gặp bà.”

      Người phụ nữ cúi về phía , vẻ mặt đầy thông cảm. “Tên tôi là Elizabeth Sinskey. Tôi là giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới, và tôi chiêu mộ để giúp tôi tìm ra…”

      đại dịch”, Langdon . “Do Bertrand Zobrist tạo ra.”

      Sinskey gật đầu, trông phấn khởi hẳn. “ còn nhớ à?”

      , tôi tỉnh dậy trong bệnh viện với cái máy chiếu rất lạ cùng những hình về bà luôn bảo tôi hãy tìm kiếm và thấy. Đó chính là những gì tôi cố làm khi những người đàn ông này tìm cách giết tôi.” Langdon ra hiệu về phía những người lính.

      Gã lính cơ bắp sừng cổ, ràng sẵn sàng trả miếng, nhưng Elizabeth Sinskey vẫy tay ra hiệu cho gã im lặng.

      “Giáo sư”, bà nhàng , “tôi biết chắc bị nhầm lẫn. Là người lôi vào vụ này, chính tôi cũng hết hồn vì những gì xảy ra và tôi biết ơn vì vẫn an toàn.”

      “An toàn ư?”, Langdon đáp lại. “Tôi bị mắc kẹt con tàu!” Và bà cũng vậy!

      Người phụ nữ tóc bạc gật đầu thông cảm. “Tôi sợ rằng chứng mất trí làm đầu óc rối beng trước những vấn đề tôi định . Thế nhưng, thời gian của chúng ta rất ít, và nhiều người cần giúp đỡ của .”

      Sinskey do dự, như thể biết phải tiếp tục như thế nào. “Trước hết”, bà ấy bắt đầu, “tôi cần hiểu rằng đặc vụ Brüder và nhóm của ấy chưa bao giờ cố làm hại cả. Họ trực tiếp nhận mệnh lệnh liên hệ lại với bằng bất kỳ cách cần thiết nào?”

      “Liên hệ lại ư? Tôi …”

      “Giáo sư, làm ơn cứ nghe thôi. Mọi thứ được làm sáng tỏ. Tôi hứa đấy.”

      Langdon yên vị trở lại chiếc giường bệnh xá, ý nghĩ của xoay vòng trong lúc tiến sĩ Sinskey .

      “Đặc vụ Brüder và người của ấy là đội SRS – Hỗ trợ giám sát và phản ứng. Họ hoạt động dưới quyền Trung tâm Phòng ngừa và Kiểm soát dịch bệnh châu Âu.”

      Langdon liếc nhìn những chiếc phù hiệu ECDC đồng phục của họ. Phòng ngừa và Kiểm soát dịch bệnh à?

      “Nhóm của ấy”, bà tiếp tục, “chuyên phát và ngăn chặn những hiểm họa bệnh lây lan. Về cơ bản, họ là nhóm SWAT chuyên ứng phó với các nguy cơ sức khỏe cấp tính quy mô lớn. là hy vọng duy nhất của chúng tôi trong việc xác định dịch bệnh mà Zorbist tạo ra, và vì thế khi biến mất, tôi giao nhiệm vụ cho nhóm SRS tìm kiếm Tôi triệu tập họ tới Florence để hỗ trợ tôi.”

      Langdon sững sờ. “Những người lính kia làm việc cho sao?”

      Bà gật đầu. “Mượn họ từ ECDC. Tối qua, khi biến mất và gọi lại, chúng tôi nghĩ có chuyện gì đó xảy ra với . Mãi cho tới tận sáng sớm nay, khi nhóm hỗ trợ kỹ thuật của chúng tôi phát thấy kiểm tra tài khoản thư điện tử Harvard của mình chúng tôi mới biết còn sống. Đến lúc đó, lời giải thích duy nhất của chúng tôi cho cách hành xử kỳ lạ của đổi phe… có thể vì được đề nghị những khoản tiến rất lớn để tìm dịch bệnh cho ai khác.”

      Langdon lắc đầu. “Chuyện đó phi lý!”

      “Phải, nó như là kịch bản chắc chắn, nhưng đó là cách giải thích hợp lý duy nhất – và với nguy cơ quá cao, chúng tôi thể đánh liều. Dĩ nhiên, chúng tôi bao giờ nghĩ ra được lại mất trí nhớ. Khi đội hỗ trợ công nghệ của chúng tôi thấy tài khoản thư điện tử Harvard của đột nhiên hoạt động, chúng tôi dò theo địa chỉ IP máy tính của tới căn hộ ở Florence và tiến vào. Nhưng bỏ chạy bằng chiếc xe máy, cùng với kia, càng làm tăng nghi ngờ của chúng tôi rằng lúc này làm việc cho ai đó khác.”

      “Chúng tôi phóng ngay qua bà!”, Langdon ngắt lời. “Tôi nhìn thấy bà ở phía sau xe thùng đen, có lính tráng vây quanh. Tôi nghĩ bà là người bị bắt. Có vẻ như bà bị hôn mê, giống như họ cho bà dùng thuốc.”

      nhìn thấy chúng tôi ư?” Tiến sĩ Sinskey có vẻ rất ngạc nhiên. “Lạ nhỉ, đúng… họ cho tôi dùng thuốc.” Bà dừng lại. “Nhưng chỉ là vì tôi ra lệnh cho họ làm việc đó.”

      Giờ Langdon hoàn toàn hiểu. Bà ấy bảo họ cho mình dùng thuốc ư?

      “Có lẽ còn nhớ chuyện này”, Sinskey , “nhưng khi chiếc C-130 của chúng ta hạ cánh tại Florence, áp suất thay đổi, và tôi bị tượng vẫn được gọi là mất thăng bằng vị trí đột phát – chứng tai trong suy nhược mạnh mà tôi bị từ trước. Nó chỉ tạm thời và nghiêm trọng, nhưng khiến cho nạn nhân bị chóng mặt và buồn nôn nên thể tỉnh táo được. Bình thường, tôi phải nằm và rất buồn nôn, nhưng chúng ta đối phó với cuộc khủng hoảng Zobrist, và vì thế tôi tự kê toa thuốc cho mình bằng những mũi tiêm metoclopramide đều đặn mỗi giờ để giúp tôi chống nôn. Thuốc có hiệu ứng phụ rất nặng là gây ra tình trạng uể oải, nhưng ít nhất nó giúp tôi có thể điều hành mội việc bằng điện thoại từ phía sau xe thùng. Nhóm SRS muốn đưa tôi tới bệnh viện, nhưng tôi ra lệnh cho họ được làm vậy cho tới khi chúng tôi liên hệ lại được với . may, cuối cùng chứng mất thăng bằng cũng dứt trong chuyến bay đến Venice”.

      Langdon nằm vật xuống giường, bực bội. Mình chạy trốn Tổ chức Y tế Thế giới suốt cả ngày – trốn chính những người chiêu mộ mình vào cuộc.

      “Giờ chúng ta phải tập trung, giáo sư”, Sinskey , giọng bà đầy khẩn trương. “Đại dịch của Zobrist... có manh mối xem nó ở đâu ?” Bà nhìn với vẻ mặt đầy mong ngóng. “Chúng ta có rất ít thời gian.”

      Nó ở rất xa. Langdon muốn vậy, nhưng có gì đó ngăn lại. ngước lên nhìn Brüder, gã lính nổ súng vào sáng nay và gần như bóp nghẹt cách đây lâu. Với Langdon, mọi chuyện thay đổi nhanh đến mức biết phải tin ai nữa.

      Sinskey cúi xuống, nét mặt bà vẫn rất chăm chú.”Chúng tôi có linh cảm rất mạnh mẽ rằng đại dịch ở tại Venice này. Có phải vậy ? Hãy cho chúng tôi biết chỗ nào, và tôi phái đội vào đất liền.”

      Langdon do dự.

      “Thưa ngài!”, Brüder lên tiếng vẻ nôn nóng. “ ràng ngài biết điều gì đó... hãy cho chúng tôi biết nó ở đâu! Ngài hiểu chuyện gì sắp xảy ra sao?”

      “Đặc vụ Brüder!”, Sinskey giận dữ quát gã kia. “Đủ rồi”, bà ra lệnh, sau đó quay lại Langdon và khẽ. “Nghĩ đến tất cả những gì vừa trải qua, hoàn toàn có thể hiểu rằng bị mất phương hướng và biết chắc phải tin ai.” Bà ngừng lại, nhìn sâu vào mắt . “Nhưng thời gian của chúng ta rất ít, và tôi đề nghị tin tưởng tôi.”

      “Ông Langdon có đứng lên được ?”, giọng mới vang lên.

      người đàn ông thấp với nước da sạm nắng xuất ở ngưỡng cửa. Ông ta nhìn kỹ Langdon với vẻ bình thản được rèn luyện, nhưng Langdon thấy nguy hiểm trong mắt ông ta.

      Sinskey ra hiệu cho Langdon ngồi dậy. “Giáo sư, đây là người mà tôi định hợp tác, nhưng tình hình quá nghiêm trọng nên tôi còn lựa chọn nào khác.”

      Ngập ngừng, Langdon bước xuống giường và đứng dậy, phải mất lúc mới lấy lại được thăng bằng.

      “Theo tôi”, người đàn ông , lại phía cửa. “Có thứ các vị cần xem.”

      Langdon vẫn đứng nguyên. “Ông là ai?”

      Người đàn ông dừng lại và khum khum những ngón tay. “Tên tuổi quan trọng. có thể gọi tôi là Thị trưởng. Tôi điều hành tổ chức mà ... tôi xin lỗi phải vậy, phạm sai lầm giúp Bertrand Zobrist đạt được mục đích của . Giờ tôi cố gắng sữa chữa sai lầm đó trước khi quá muộn.”

      “Ông muốn cho tôi xem thứ gì?”, Langdon hỏi.

      Người đàn ông nhìn sững Langdon với ánh mắt kiên nghị. “ thứ chắc chắn khiến cho có suy nghĩ rằng tất cả chúng ta cùng chiến tuyến.”



      51 Viết tắt của European Centre for Disease Perevention and Control.


      Chương 78
      Langdon theo người đàn ông sạm nắng qua cả mê cung những hành lang chật chội ở sàn dưới tàu, cùng với tiến sĩ Sinskey và những người lính ECDC rồng rắn theo sau thành hàng. Khi cả nhóm đến gần cầu thang, Langdon hy vọng họ lên phía có ánh sáng ban ngày, nhưng họ lại sâu xuống phía dưới hơn.

      Ở sâu trong bụng con tày lúc này, người hướng dẫn đưa họ qua khu gồm toàn những buồng kính kín mít – số buồng có tường trong suốt và số lại là tường mờ. Bên trong mỗi gian phòng cách đó, nhiều nhân viên miệt mài gõ máy tính hoặc điện thoại. Họ ngước nhìn nhóm người qua, trông họ đều rất cảnh giác khi thấy người lạ mặt ở khu vực này của con tàu. Người đàn ông sạm nắng gật đầu trấn an họ và tiếp.

      Nơi này là nơi nào? Langdon thắc mắc khi họ tiếp tục qua loạt khu vực làm việc được thiết kế san sát.

      Cuối cùng, vị chủ tàu đưa họ đến phòng họp lớn, và tất cả đều bước vào. Khi cả nhóm ngồi xuống, người đàn ông ấn cái nút, những bức tường kính đột nhiên chuyển sang mờ đục, nhốt kín họ bên trong. Langdon giật mình, vì chưa bao giờ nhìn thấy thứ gì như thế này.

      “Chúng ta ở đâu?” Cuối cùng Langdon lên tiếng hỏi.

      “Đây là tàu của tôi – The Mendacium.”

      Mendacium à?”, Langdon hỏi. “Như trong... tên gọi Latin của Pseudologos – vị thần dối trá của người Hy Lạp à?”

      Người đàn ông có vẻ rất ấn tượng. “ có nhiều người biết điều đó đâu.”

      danh hiệu hay tí nào, Langdon nghĩ thầm. Mendacium là vị thần hắc ám cai quản tất cả những pseudologoi – những con quỷ chuyên dối trá, lừa lọc và dựng chuyện.

      Người đàn ông rút ra chiếc thẻ nhớ màu đỏ và cắm vào ổ điện tử ở cuối phòng. màn hình LCD phẳng rất lớn nhấp nháy sáng lên, và các ngọn đèn đầu mờ .

      Trong khí im lặng, Langdon nghe thấy tiếng nước vỗ nhè . Mới đầu, nghĩ những thanh đó đến từ phía ngoài con tàu, nhưng sau đó nhận ra thanh ấy đến từ loa của màn hình LCD. hình ảnh từ từ ra – vách hang nước rỏ tong tong, được chiếu thứ ánh sáng màu đỏ lập lòe.

      “Bertrand Zobrist tạo ra đoạn video này”, vị chủ tàu của họ lên tiếng. “Và ông ta đề nghị tôi tung nó ra trước thế giới vào ngày mai.”

      tin nổi, Langdon trân trối nhìn đoạn phim kỳ quái – gian trong hang với hồ nước lăn tăn sóng, nơi máy quay lao xuống và chìm hẳn dưới mặt nước để tiến gần phần nền lát gạch phủ bùn có bắt vít tấm biển ghi TẠI NƠI NÀY, VÀO NGÀY NÀY, THẾ GIỚI THAY ĐỔI MÃI MÃI.

      Tấm biển ký tên: BERTRAND ZOBRIST.

      Ngày tháng chính là ngày mai.

      Chúa ơi! Langdon quay sang Sinskey khuất trong bóng tối, nhưng bà ấy nhìn vô định xuống nền gạch, ràng xem đoạn phim rồi, và chắc chắn muốn xem lại lần nữa.

      Giờ máy quay lia sang trái, Langdon nhìn thấy lơ lửng dưới nước là bong bóng bằng nhựa trong suốt bập bềnh, bên trong chứa thứ chất lỏng màu vàng nâu sền sệt. Cái quả cầu đó có vẻ được cột xuống nền nên thể trồi hẳn lên mặt nước.

      Cái quái gì vậy? Langdon nhìn kỹ cái túi căng phồng đó. Thứ chất nhầy nhụa bên trong có vẻ xoay chuyển chầm chậm, gần như cháy ỉ vậy.

      Langdon như nín thở. Dịch bệnh của Zobrist.

      “Cho dừng lại”, Sinskey trong bóng tối.

      Hình ảnh dừng lại – túi chất dẻo bị cột chặt lơ lửng dưới nước – đám mây chất lỏng được bọc kín lững lờ trong gian.

      “Tôi nghĩ các vị có thể đoán được thứ đó là gì”, Sinskey . “Câu hỏi là, nó còn được bọc kín như vậy bao lâu nữa?” Bà lại phía màn hình LCD và chỉ vào dấu vết rất cái túi trong suốt. “Rất tiếc, thứ này cho chúng ta biết cái túi đó làm bằng gì. Các vị có đọc được ?”

      Tim đập rộn lên, Langdon nheo mắt nhìn dòng chữ, chính là thương hiệu của nhà sản xuất: Solublon®.

      “Hãng sản xuất chất dẻo có thể tan trong nước lớn nhất thế giới”, Sinskey .

      Langdon cảm thấy dạ dày thắt lại. “Bà rằng cái túi này ... tan dần phải ?!”

      Sinskey nhăn nhó gật đầu với . “Chúng tôi liên hệ với nhà sản xuất, và nhờ đó biết rằng, may, họ sản xuất hàng chục loại chất dẻo kiểu này khác nhau, tan hết ở bất cứ chỗ nào từ mười phút đến mười tuần. Tốc độ phân hủy cũng có chút thay đổi tùy theo loại nước và nhiệt độ, nhưng chúng tôi biết rằng Zobrist tính toán rất kỹ những nguyên tố này.” Bà ngừng lại. “Chúng tôi tin rằng cái túi này tan hết vào...”

      “Ngày mai”, Thị trưởng chen ngang. “Ngày mai là ngày Zobrist khoanh tròn cuốn lịch của tôi. Và cũng là ngày ghi tấm biển.”

      Langdon ngồi im trong bóng tối, nên lời.

      “Cho ấy xem nốt ”, Sinskey .

      màn hình LCD, hình ảnh video trở lại, giờ máy quay lia theo phần nước được chiếu sáng vào khoảng tối của hang. Langdon biết chắc đây chính là đại điểm được đến trong bài thơ. Cái đầm hề phản chiếu ánh sao.

      Cảnh tượng này gợi nhớ đến những hình dung của Dante về địa ngục – dòng sông Cocytus chảy qua những hang hốc của ty.

      Cho dù cái đầm này tọa lạc ở đâu nước của nó cũng được bưng kín trong những bức tường rêu trơn tuột mà theo Langdon cảm nhận, đó là do bàn tay con người làm ra. cũng cho rằng máy quay mới chỉ hé lộ góc của gian rộng lớn bên trong, và điều này được củng cố nhờ diện của những cái bóng lờ mờ nằm dọc tường. Những cái bóng ấy rất lớn, có hình trụ và ở vị trí cách đều nhau.

      Những cột trụ, Langdon nhận ra như vậy.

      Trần hang được đỡ bằng những hàng cột trụ.

      Đầm nước này phải nằm trong cái hang, mà trong gian phòng rộng.

      Hãy lần sâu vào tòa cung điện bị chìm...

      chưa kịp lời nào phải chú ý đến xuất của cái bóng mới tường – hình người với cái mũi mỏ chim dài.

      Ôi, lạy Chúa lòng lành...

      Cái bóng bắt đầu , từ ngữ của nó bị bóp méo, thành những tiếng thầm lan mặt nước theo nhịp thơ rất lạ.

      “Ta là cứu rỗi. Ta là Vong linh.”

      Mấy phút tiếp theo, Langdon phải xem đoạn phim kinh dị nhất mà từng thấy. ràng, những đam mê của thiên tài điên rồ, lời độc thoại của Bertrand Zobrist – được truyền tải dưới lớp vỏ của bác sĩ dịch hạch – có rất nhiều dẫn giải đến Hỏa ngục của Dante và mang theo thông điệp ràng: Tăng trưởng dân số vượt ra khỏi tầm kiểm soát, và tồn vong của nhân loại như chỉ mành treo chuông.

      màn hình, giọng vẫn vang lên:

      làm gì cả chính là chào đón địa ngục của Dante... tù túng và đói khát, ngập chìm trong Tội lỗi. Và vì thế ta mạnh dạn hành động. số kẻ co rúm lại sợ hãi, nhưng cứu rỗi nào cũng có giá của nó. ngày nào đó thế giới há hốc mồm trước vẻ đẹp của thứ ta hiến tế.”

      Langdon giật mình khi đích thân Zobrist xuất , phục sức như bác sĩ dịch hạch, và sau đó lột mặt nạ của mình. Langdon nhìn sững bộ mặt dễ sợ và đôi mắt xanh lục hoang dại, nhận ra rằng cuối cùng cũng nhìn thấy bộ mặt của gã đàn ông là trung tâm của cuộc khủng hoảng này. Zobrist bắt đầu lải nhải về tình của với người nào đó mà gọi là nguồn cảm hứng cho .

      “Ta trao gửi tương lai vào đôi tay dịu dàng của em. Công trình bên dưới của ta hoàn thành. Và giờ đây đến lúc ta leo trở lại thế giới bên ... và lại ngắm nhìn những vì sao.”

      Khi đoạn video kết thúc, Langdon nhận ra những lời cuối cùng của Zobrist gần như lặp lại những lời cuối cùng trong Hỏa ngục của Dante.

      Trong bóng tối của phòng họp, Langdon nhận ra rằng tất cả những khoảnh khắc sợ hãi mà trải qua ngày hôm nay đều kết tinh thành thực tế đáng sợ duy nhất.

      Giờ đây Bertrand Zobrist có hẳn khuôn mặt... và giọng .

      Đèn phòng họp lại sáng lên, và Langdon nhìn thấy tất cả ánh mắt đều dồn hết về đầy mong ngóng.

      Vẻ mặt Elizabeth Sinskey dường như đông cứng khi bà đứng lên và bồn chồn mân mê cái bùa của mình. “Giáo sư, ràng thời gian của chúng ta rất ngắn. Tin tức tốt lành duy nhất cho đến lúc này là chúng ta có trường hợp phát mầm bệnh nào, hay có tin báo về bệnh, cho nên chúng ta cho rằng cái túi Solublon lơ lửng kia vẫn còn nguyên vẹn. Nhưng chúng ta biết tìm nó ở đâu. Mục tiêu của chúng ta là vô hiệu hóa mối đe dọa này bằng cách cách ly cái túi trước khi nó vỡ bung. Cách duy nhất chúng ta có thể làm được việc đó, dĩ nhiên, là tìm ra vị trí của nó ngay lập tức.”

      Giờ đây đặc vụ Brüder đứng dậy, đăm đăm nhìn Langdon. “Chúng tôi đinh ninh rằng đến Venice vì biết rằng đây là nơi Zobrist giấu bệnh dịch của .”

      Langdon nhìn đám người trước mặt mình, những gương mặt căng thẳng vì sợ hãi, tất cả mọi người đều hy vọng phép màu, và ước gì mình có những tin tức tốt lành hơn để cho họ biết.

      “Chúng ta ở nhầm quốc gia rồi”, Langdon tuyên bố. “Những gì các vị tìm kiếm cách đây ngót nghìn dặm cơ.”

      ***

      Ruột gan Langdon dội lại tiếng động cơ đều đều của tàu The Mendacium khi con tàu tăng tốc lượn vòng rộng, hướng trở lại sân bay Venice. tàu, tất cả bắt đầu nháo nhào. Thị trưởng hối hả lớn tiếng ra lệnh cho người của mình. Elizabeth Sinskey vớ lấy điện thoại và gọi phi công chiếc máy bay vận tải C-130 của WHO, cầu họ sẵn sàng bay ra khỏi sân bay Venice càng sớm càng tốt. Và đặc vụ Brüder lập tức ngồi trước máy tính xách tay để tìm kiếm nhóm quốc tế mà ta có thể phối hợp tại đích đến cuối cùng.

      thế giới xa vời.

      Giờ Thị trưởng quay lại phòng họp và gấp gáp với Brüder. “Có thêm tin gì từ giới chức Venice chưa?”

      Brüder lắc đầu. “ có dấu vết gì. Họ tìm, nhưng Sienna Brooks biến mất.”

      Langdon hiểu ngay. Họ lùng tìm Sienna sao?

      Sinskey kết thúc cuộc gọi và đến chuyện cùng. “Chưa tiến triển gì trong việc tìm kiếm ta sao?”

      Thị trưởng lắc đầu. “Nếu bà đồng ý, tôi nghĩ WHO cần cho phép sử dụng sức mạnh nếu cần thiết để đưa ta về.”

      Langdon bật dậy. “Tại sao?! Sienna Brooks liên quan gì đến chuyện này!”

      Đôi mắt đen của Thị trưởng quay sang Langdon. “Giáo sư, có vài chuyện tôi phải với về Brooks.”

    5. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
                  Type :TMT
      CHƯƠNG 81
       

      Nằm ngay phía đông nhà thờ Fari kỳ vĩ, xưởng Pietro Longhi luôn là trong những nhà cung cấp đồ cổ trang, tóc giả, và các phụ kiện hàng đầu Venice. Danh sách khách hàng của nó bao gồm những công ty điện ảnh và đoàn kịch, cũng như các nhân vật có ảnh hưởng của công chúng, những người phải nhờ cậy đến tay nghề của đội ngũ ở đây để giúp họ phục sức trong những buổi dạ tiệc tốn kém nhất của lễ hội Carnevale.

      Nhân viên bán hàng vừa định đóng cửa nghỉ tối có tiếng chuông cửa réo vang. ta ngước lên và thấy phụ nữ quyến rũ với mái tóc đuôi ngựa vàng óng xộc vào. vội tới bên quầy, đôi mắt màu nâu đầy tuyệt vọng và bấn loạn.

      “Tôi muốn chuyện với Giorgio Venci”, ấy hổn hển .

      Khéo thế, chàng nhân viên nghĩ thầm. Làm gì có ai tới để gặp phù thủy đâu.

      Giorgio Venci - chuyên gia thiết kế trưởng của xưởng - thực ‘phép màu’ từ sau rèm, hiếm khi trò chuyện với khách hàng và chẳng bao giờ thiếu lịch hẹn. Là người giàu có và có thế lực, Giorgio được phép có số điểm lập di nhất định, trong đó bao gồm việc ưa thích được độc. Ông ấy uống riêng, bay riệng, và ngớt than phiền về số lượng khách du lịch ngày càng tăng ở Venice. Ông phải là người thích bầu bạn khách khứa.

      “Tôi xin lỗi”, chàng nhân viên kèm theo nụ cười nhà nghề. “Tôi sợ rằng ngày Venci ở đây. Tôi có thể giúp được gì cho ?”

      “Giorgio ở đây”, tuyên bố. “Phòng ông ấy ở tầng. Tôi nhìn thấy đèn còn sáng. Tôi là người bạn của ông ấy. Tình hình rất khẩn cấp.”

      Ở người phụ nữ này có quyết liệt cháy bỏng. người bạn ư? ấy nhận như vậy. “Tôi có thề với Giorgio tên được ?”

      Người phụ nữ với lấy mảnh giấy quầy và ghi vội xuống mấy chữ cái và con số.

      “Cứ đưa cho ông ấy cái này”, ấy , trao cho chành nhân viên mẫu giấy. “Và xin nhanh lên cho. Tôi có nhiều thời gian.”

      chàng nhân viên ngần ngừ cầm mảnh giấy lên gác và đặt nó chiếc bàn dài, nơi Giorgio vẫn chăm chú gò lưng bên máy khâu.

      “Thưa ông”, ta khẽ. “Có người đến đây gặp ông. ấy là tình huống khẩn cấp.”

      ngừng tay cũng chẳng nhìn lên, người đàn ông thò tay và nhặt mẫu giấy, đọc nội dung.

      Máy khâu của ông ta chạy lạch xạch rồi dừng lại.

      “Dẫn ấy lên đây ngay lập tức”, Giorgio trong khi xé vụn mảnh giấy thành những mẫu .

                 

      CHƯƠNG 82

       

       

      Chiếc máy bay vận tải C-130 to lớn vẫn tăng độ cao trong lúc liệng về phía đông nam, ầm ầm bay qua biển Adriatic. máy bay Robert Langdon vừa cảm thấy tù túng vừa thấy lâng lâng. bức bối vì xung quanh có những ô cửa sổ, và hoang mang trước tất cả những câu hỏi chưa có lời giải đáp vẫn quay cuồng trong tâm trí.

      Tình trạng sức khỏe của , Sinskey , hơi phức tạp chứ chỉ là vết thương ở đầu.

      Mạch đập của Langdon rộn lên khi nghĩ về những gì bà ấy có thể với mình, nhưng vào lúc này bá ấy bận thảo luận các chiến lược ngăn chặn với nhóm SRS. Brũder điện thoại gần đó, chuyện với các cơ quan chính phủ về Sienna Brooks, cập nhật tình hình tìm kiếm ấy của tất cả mọi người.

      Sienna…

      Langdon vẫn cố gắng tiếp nhận rằng có dính dáng đến tất cả chuyện này. Khi chiếc máy bay lấy lại thăng bằng, người đàn ông thấp tự gọi mình là Thị trưởng bước qua khoang lái và ngồi xuống đối diện với Langdon. Ông ta chống tay lên cằm và mím môi. “Tiến sĩ Sinskey đề nghị tôi chuyện với …cố gắng làm thêm tình hình của .”

      Langdon tự hỏi người đan ông này có thể gì để làm cho câu chuyện rối rắm này sáng sủa hơn.

      “Như tôi ban nãy”, Thị trưởng , “có rất nhiều rắc rối xảy ra sau khi đặc vụ Vayentha của tôi bắt quá sớm. Chúng tôi biết làm những gì cùng với tiến sĩ Sinskey, hay chia sẻ với bà ấy được chừng nào. Nhưng chúng tôi sợ nếu bà ấy biết được địa điểm dự án nơi khách hàng thuê chúng tôi bảo vệ bà ấy tịch thu hoặc phá hủy nó. Chúng tôi phải tìm ra nó trước bà ấy, và vì thế chúng tôi cần làm việc cho chúng tôi…chứ phải cho bà Sinskey.” Thị trưởng ngừng lại, dập đập ngn tay vào nhau. “Rất tiếc, chúng tôi để lộ kế hoạch của mình…và chắc chắn tin chúng tôi.”

      “Cho nên các bắn vào đầu tôi phải ?”, Langdon giận dữ đáp lại.

      “Chúng tôi lập kế hoạch để làm cho tin tưởng chúng tôi.

      Langdon cảm thấy rối bời. “Làm sao có chuyện các ông làm cho ai đó tin các ông…sau khi các ông bắt cóc và tra khảo ta được?”

      Giờ người đàn ông có vẻ thoải mái. “Giáo sư, có quen với các nhóm hóa chất vẫn được gọi là benzodiazepine ?”

      Langdon lắc đầu.

      “Đó là dòng dược chất dùng để điều trị chứng căng thẳng sau chấn thương, bên cạnh nhiều tác dụng khác. Như có thể biết, khi ai đó trải qua kiện kinh khủng như tai nạn xe hơi hay bị xâm hại tình dục, trí nhớ lâu dài có thề bị suy yếu vĩnh viễn. Thông qua việc sử dụng benzodiazepine, các nhà khoa học thần kinh giờ đây có thể điều trị và ngăn ngừa tình trạng căng thẳng hậu chấn thương.”

      Langdon im lặng lắng nghe, sao hình dung được câu chuyện này tới đâu.

      “Khi những ký ức mới được hình thành”, Thị trưởng tiếp tục, “các kiện đó được lưu giữ trong ký ức ngắn hạn của khoảng bốn mươi tám tiếng trước khi chuyển sang trí nhớ lâu dài. Sử dụng các hỗn hợp benzodiazepinemới, người ta có thể dễ dàng làm mới lại trí nhớ ngắn hạn…Cơ bản là xóa bỏ nội dung của nó trước khi những ký ức gần đây chuyển sang ký ức lâu dài, đại để như vậy. Xin lấy ví dụ, nạn nhân bị tấn công, nếu được cấp liều benzodiazepine trong vài giờ sau vụ tấn công, ta có thể bị xóa sạch những ký ức đó mãi mãi, và cơn tổn thương bao giờ trở thành phần trng tinh thần của người đó nữa. Cái dỡ duy nhất là người đó cũng mất sạch toàn bộ ký ức về vài vày trong cuộc đời mình.”

      Langdon nhìn sững người đàn ông bé mà tin nổi. “Các ông gây cho tôi chứng quên!”

      Thị trưởng thở dài như xin lỗi. “Tôi e là như vậy. Sử dụng hóa chất. Rất an toàn. Nhưng đúng, xóa sạch trí nhớ ngắn hạn của .” Ông ấy ngừng lại. “Khi ờ ngoài kia lúc trước, lẩm nhẩm gì đó về đại dịch, chúng tôi cho là do xem những hình ảnh trong chiếc máy chiếu. Chúng tôi chưa bao giờ nghĩ rằng Zobrist tạo ra dịch bệnh .” Ông ta ngừng lại. “ cũng lẩm bẩm cụm từ mà chúng tôi nghe giống như ‘Rất xin lỗi. Rất xin lỗi’.”

      Đó chính là tất cả những gì nghĩ ra từ chiếc máy chiếu đến thời điểm đó. Cerca trova. “Nhưng..tôi nghĩ chứng quên của tôi là do vết thương đầu. Có ai đó bắn tôi.”

      Thị trưởng lắc đầu. “ ai bắn cả, thưa giáo sư. hề có vết thương đầu.”

      “Sao cơ?!” Theo bản năng, Langdon đưa tay lần sờ những vết khâu và chỗ đau sưng phồng lên ở phía sau gáy. “Vậy đây là cái quái gì!” vén tóc để lộ ra vùng da bị cạo sạch.

      phần của ảo giác. Chúng tôi tạo ra vết rách da đầu và sau đó lập tức khâu lại bằng chỉ, để tin là mình bị tấn công.”

      Đây phải là vết thương do đạn bắn sao?!

      “Khi tỉnh dậy”, Thị trưởng , “chúng tôi muốn tin rằng có người tìm cách giết …rằng gặp nguy hiểm.”

      “Có người tìm cách giết tôi!”, Langdon hét lên, cơn giận của khiến những người khác máy bay đều phải chú ý. “Tôi thấy vị bác sĩ trong bệnh viện - bác sĩ Marconi - bị bắn gục trong vũng máu!”

      “Đó là những gì nhìn thấy”, Thị trưởng vẫn bình thản , “nhưng đó phải là những gì xảy ra. Vayentha làm việc cho tôi. ta có loại kỹ năng siêu việt dành cho loại công việc này.”

      “Giết người à?”, Langdon vặn hỏi.

      ”, Thị trưởng bình tĩnh đáp. “Giả vờ giết người.”

      Langdon trợn mắt nhìn ông ta lúc lâu, nhớ lại vị bác sĩ râu xám với đôi lông mày rậm đổ gục sàn máu phun xối xả từ ngực.

      “Súng của Vayentha được lắp đạn rỗng”, Thị trưởng . “Nó kích hoạt mồi nổ điều khiển bằng sóng vô tuyến làm nổ tung túi máu ngực bác sĩ Marconi. Nhưng ra ông ấy sao.”

      Langdon nhắm mắt, chết lặng trước những gì nghe. “Và…gian phòng bệnh viện.”

      sân khấu ứng biến nhanh”, Thị trưởng . “Giáo sư, tôi biết tất cả chuyện này rất khó tiếp nhận. Chúng tôi làm việc rất nhanh, và choáng váng, cho nên cần phải hoàn hảo lắm. Khi tỉnh dậy, nhìn thấy những gì chúng tôi muốn thấy - trang thiết bị bệnh viện, vài diễn viên, và cảnh tấn công được dàn dựng.”

      Langdon như quay cuồng.

      “Đây là những điều công ty chúng tôi làm”, Thị trưởng . “Chúng tôi rất giỏi tạo ra những ảo giác.”

      “Thế còn Sienna?” Langdon hỏi, tay giụi mắt.

      “Tôi cần đưa ra quyết định, và tôi chọn bắt tay với ta. Ưu tiên của tôi là bảo vệ dự án của khách hàng trước tiến sĩ Sinskey, và Sienna với tôi có chung mong muốn đó. Để có được tin tưởng của , Sienna cứu khỏi kẻ ám sát và giúp trốn vào ngõ phía sau. Chiếc taxi đợi sẵn là của chúng tôi, với mồi nổ điều khiển bằng sóng vô tuyến khác gắn kính chắn gió sau để tạo ra hiệu ứng cuối cùng khi chạy trốn. Chiếc taxi đưa tới căn hộ được chúng tôi bố trí sẵn.”

      Căn hộ tuềnh toàng của Sienna, Langdon nghĩ, giờ hiểu tại sao trông như thể căn hộ được bài trí đồ đạc thanh lý vậy. Và nó cũng giải thích cho trùng hợp là “người hàng xóm” của Sienna lại có áo quần vừa vặn với .

      Toàn bộ mọi thứ được dàn cảnh.

      Ngay cả cuộc điện thoại tuyệt vọng của người bạn Sienna ở bệnh viện cũng là giả. Danikova đây!

      “Khi gọi điện cho lãnh quán Hoa Kỳ”, Thị trưởng tiếp, “ gọi tới số mà Sienna bố trí cho chúng tôi. Đó là số đổ chuông tàu The Mendacium.”

      “Tôi chưa hề gọi đến lãnh quán…”

      “Chưa hề.”

      Cứ ở nguyên chỗ của , gã nhân viên lãnh quán giả mạo nhắc . Tôi cho ngườ đến đón ngay. Sau đó, khi Vayentha xuất , Sienna dễ dàng phát ra ả bên kia phố và kết nối các mắt xích lại với nhau. Robert, chính phủ của tìm cách giết . thể liên lạc với bất kỳ cơ quan công quyền nào! Hy vọng duy nhất của là phán đoán xem cái máy chiếu kia có ý nghĩa gì.

      Thị trưởng và tổ chức bí của ông ta - cho dù nó là thứ quái gì - rất thành công khi làm cho Langdon ngừng hợp tác với Sinskey và bắt đầu làm việc cho họ. Màn đánh lừa hoàn thành.

      Sienna dắt mũi mình quá hoàn hảo, nghĩ, cảm thấy buồn nhiều hơn là giận. thấy cảm mến trong quãng thời gian ngắn ngủi bên nhau. Điều phiền toái nhất với Langdon là câu hỏi nhức nhối rằng tại sao tâm hồn tinh và nồng ấm như Sienna lại hoàn toàn ưng thuận giải pháp điên rồ của Zobrist đối với tình trạng quá tải dân số.

      Em có thể với chút ngờ vực. Sienna với , rằng nếu hình thức thay đổi quyết liệt nào đó, cáo chung của giống loài chúng ta đến…Các phép tính toán có gì để bàn cãi nữa.

      “Thế còn những bài báo về Sienna?”, Langdon hỏi, nhớ đến cuốn chương trình biểu diễn kịch Shakespeare và những bài viết về chỉ số IQ cao chất ngất của .

      “Đều là ”, Thị trưởng đáp. “Những màn đánh lừa tốt nhất phải càng liên quan đến thế giới càng tốt. Chúng tôi có nhiều thời gian để bố trí, vì thế máy tính của Sienna và những hồ sơ cá nhân đời gần như là tất cả những gì chúng tôi phải sử dụng. chẳng bao giờ có ý định xem bất kỳ thứ gì trong số đó trừ phi bắt đầu thấy nghi ngờ về độ chân thực của ta.”

      “Cũng như sử dụng máy tính của ấy”, Langdon .

      “Đúng, chúng tôi mất kiểm soát ở chỗ đó. Sienna hề nghĩ đội SRS của bà Sinskey tìm ra căn hộ, cho nên khi những người lính ập đến, Sienna rất hoảng hốt và phải ứng biến. ta cùng dùng chiếc xe máy bỏ chạy, cố gắng duy trì tấn kịch. Khi toan bộ nhiệm vụ bị phơi bày, tôi còn lựa chọn nào khác ngoài việc từ bỏ Vayentha, mặc dù ta phá bỏ quy trình và đuổi theo bọn .”

      ta suýt giết tôi”, Langdon , kể lại cho Thị trưởng tình huống tầng áp mái của Cung điện Vecchio, khi Vayentha giơ súng lên và nhắm thẳng vào ngực Langdon. Chỉ đau trong nháy mắt thôi…nhưng đó là lựa chọn duy nhất của tôi. Sau đó Sienna vọt ra và đẩy ta ngã nhào ra ngoài lan can, khiến Vayentha rơi xuống dưới và tử vong.

      Thị trưởng thở dài rất , ngẫm nghĩ những gì Langdon vừa kể. “Tôi nghĩ Vayentha cố tìm cách sát hại …súng của ta chỉ bắn đạn rỗng. Hy vọng chuộc lỗi duy nhất của ta vào thời điểm đó là kiểm soát được . Có lẽ ta nghĩ nếu ta bắn bằng phát đạn rỗng ta có thể làm cho hiểu ta phải là kẻ ám sát và rằng bị đánh lừa.”

      Thị trưởng ngừng lại, ngẫm nghĩ lúc, và sau đó tiếp tục. “Sienna có định sát hại Vayentha hay chỉ là cố gắng can thiệp, tôi dám mạo muội suy đoán. Tôi bắt đầu nhận ra rằng mình biết nhiều về Sienna Brooks như tôi nghĩ.”

      Tôi cũng vậy, Langdon đồng ý, mặc dù khi nhớ lại vẻ sững sờ và đau đớn gương mặt của người phụ nữ trẻ, cảm thấy những gì làm với người phụ nữa đầu đinh chắc chắn là sai lầm.

      Langdon cảm thấy thông suốt và vô cùng độc. ngoảnh ra phía cửa sổ, muốn nhìn ra thế giới bên dưới, nhưng tất cả những gì thấy chỉ là vách máy bay.

      Mình phải thoát ra khỏi đây.

      ổn chứ?”, Thị trưởng hỏi, mắt nhìn Langdon vẻ lo lắng.

      ”, la đáp. “Tôi rất ổn.”



      ***



      ta ổn thôi, Thị trưởng nghĩ. ta cố gắng xử lý thực tế mới mẻ của mình.

      Vị giáo sư người Mỹ trông như thể vừa bị cuốn bay khỏi mặt đất vì trận lốc xoáy, xoay tít thò lò rồi rơi xuống vùng đất xa lạ, khiến hoàn toàn mất phương hướng và choáng váng.

      Những người là mục tiêu của Consortium hiếm khi nhận ra đằng sau tất cả các kiện được dàn dựng mà họ chứng kiến, và nếu họ nhận ra chắc chắn Thị trưởngcũng bao giờ có mặt để nhìn hậu quả. Ngày hôm nay, ngoài cảm giác tội lỗi khi trực tiếp chứng kiến nỗi hoang mang của Langdon, trong lòng Thị trưởng còn nặng trĩu cảm giác về trách nhiệm đối với cuộc khủng hoảng tại.

      Mình sai lầm khi chấp nhận vị khách. Bertrand Zobrist.

      Mình tin tưởng nhầm con người. Sienna Brooks.

      Giờ Thị trưởng bay về phía mắt bão – khu vực tâm chấn nơi có thể chính là đại dịch chết người có khả năng hủy hoại cả thế giới. Nếu còn sống sót qua khỏi toàn bộ vụ việc này, ông ta ngờ rằng Consortium của mình tài nào thoát khỏi ảnh hưởng của nó. có những cáo buộc và chất vấn liên tu bất tận.

      Đó là cách mọi việc kết thúc với mình sao?







       



       

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :