1. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Hỏa Ngục - Dan Brown (end)

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      CHƯƠNG 58
      Type: TMT 
       
      “Ám* ư?” Sienna hỏi. “Em hiểu.”

      cũng chắc. Langdon nghiên cứu dòng chữ ra bên dưới bảy chữ P từ duy nhất được viết bên trong phần trán của Dante.

      Ám.

      “Như trong…quỷ ám phải ?”, Sienna hỏi.

      Có lẽ. Langdon ngước mắt nhìn lên chỗ bức gốm khảm hình quỷ Satan ăn thịt những linh hồn khốn khổ chẳng bao giờ có thể gột rửa sạch tội lỗi của mình. Dante…bị ám ư? Có lẽ có nghĩa cho lắm.

      “Có thể còn nữa”, Sienna quyết tâm, cầm lấy chiếc mặt nạ tay Langdon và săm soi nó gần hơn. lúc sau, bắt đầu gật gù. “Đúng, nhìn phía cuối của từ này xem…mé bên kia vẫn còn chữ nữa.”

      Langdon nhìn lại, giờ thấy bóng lờ mờ của phần chữ nữa lên qua lớp thạch cao mới thấm ướt ở cả hai mé của từ ám.

      Rất hào hứng, Sienna vớ lấy khăn và tiếp tục thấm quanh từ đó cho tới khi lại có thêm chữ xuất , được viết thành vòng cung.

      Các ngươi bị ám ảnh về tri thức vững vàng.

      Langdon khẽ huýt sáo. “ ‘Ôi, các ngươi ám ảnh về tri thức vững vàng…hãy làm theo lời dạy giấu ở đây…bên dưới lớp màn thơ phú khó hiểu…’. “

      Sienna trố mắt nhìn . “Sao cơ?”

      “Nội dung đó được rút ra từ trong những khổ thơ nổi tiếng nhất trong Hỏa ngục của Dante”, Langdon đầy phấn chấn, “Chính Dante thúc giục những học giả thông thái nhất của mình hãy tìm kiếm tri thức được giấu bên dưới những vần thơ khó hiểu của ông.”

      Langdon thường trích dẫn đúng dòng thơ này khi dạy về biểu tượng văn chương. Chẳng khác gì tác giả vẫy tay rối rít và gọi to: ”Này, các độc giả! Ở đây có biểu tượng hai nghĩa!”.

      Sienna bắt đầu chà phía sau chiếc mặt nạ, mạnh tay hơn hẳn.

      “Cẩn thận đấy!”, Langdon nhắc nhở.

      đúng”, Sienna , tay càng hăng hái tẩy lớp thạch cao. “Phần còn lại câu trích dẫn của Dante nằm ở đây - đúng như nhớ.” ngừng lại để nhúng khăn vào bồn và vắt bớt nước.

      Langdon thừ người đứng nhìn trong khi nước trong bồn rửa tội chuyển sang màu đùng đục do thạch cao tan ra. Chúng con xin thứ lỗi với San Giovanni, nghĩ thầm, cảm thấy thoải mái và cái bồn thiêng liêng bị sử dụng như cái chậu rửa.

      Khi Sienna nhấc chân ra khỏi nước, nó vẫn tong tong. gần như vắt nước khi áp chiếc khăn sũng nước vào chính giữa mặt nạ và kỳ soàn soạt như thể rửa bát súp vậy.

      “Sienna!”, Langdon nhắc nhở. “Đó là đồ cổ…”

      Toàn bộ mặt sau đều có chữ!”, trong lúc chà xát mạnh mé trong chiếc mặt nạ. “Và nó được viết bằng…” ngừng , nghiêng đầu sang trái và xoay chiếc mặt nạ sang phải, như thể cố đọc bên.

      “Viết bằng gì cơ?”, Langdon hỏi, vì thể nhìn .

      Sienna ngừng kỳ cọ mặt nạ và dùng chiếc khăn mới lau khô nó. Sau đó ngồi xuống trước mặt để cả hai cùng xem xét kết quả.

      Khi thấy mé trong chiếc mặt nạ, Langdon vô cùng kinh ngạc. Toàn bộ bề mặt lõm phủ kín văn tự, có lẽ phải đến cả trăm chữ. Bắt đầu từ đỉnh với dòng chữ Ôi các ngươi bị ám ảnh về tri thức vững vàng, phần chữ tiếp tục chạy theo dòng liền mạch duy nhất, xoay tròn sang bên phải chiếc mặt nạ để chạy xuống dưới đáy, nơi nó lại xoay ngược lên và tiếp tục chạy xuống đáy, rồi lại xoay lên ở phía bên trái với vị trí ban đầu, cứ tiếp tực đường tương tự như thế theo vòng tròn thu hẹp hơn chút.

      Đường của các con chữ gợi nhớ đến con đường xoáy trôn ốc của Núi Luyện ngục dẫn lên thiên đường. Chuyên gia biể tượng học Langdon lập tức nhận ra ngay đường xoắn ốc chính xác này. Đường Archimedes đăng đối thuận chiều kim đồng hồ. còn nhận thấy số vòng xoay từ chữ đầu tiên, Ôi, tới đoạn cuối cùng ở trung tâm là con số quen thuôc.

      Chín.

      Gần như nín thở, Langdon chầm chậm xoay chiếc mặt nạ thành từng vòng tròn, đọc nội dung văn tự cuộn dần vào phía trong của mặt lõm, xoáy về phía trung tâm.

      Ôi, các ngươi bí ám ảnh về tri thức vững vàng, hãy làm theo lời dạy giấu ở đây…bên dưới lớp màn thơ phú khó hiểu. Hãy tìm gã tổng trấn bội bạc của Venice, kẻ cắt rời râu ngựa…và moi xương cả người mù lòa. Hãy quỳ gối bên trong bảo quản mạ vàng của tri thức thánh thiêng, và áp tai xuống mặt đất, lắng nghe tiếng nước giọt. Hãy lần sâu vào tòa cung điện bị chìm…vì ở đây, trong bóng tối, con quái vật chốn địa phủ chờ đợi, lặn ngụp trong thứ nước đỏ như máu…của cái đầm hề phản chiếu ánh sao.

      “Gần như đúng nguyên văn khổ thơ đầu của Dante”, Langdon , “Ôi, các ngươi bí ám ảnh về tri thức vững vàng, hãy làm theo lời dạy giấu ở đây…bên dưới lớp màn thơ phú khó hiểu.”

      “Thế những gì còn lại sao?”, Sienna hối thúc.

      Langdon lắc đầu. “ nghĩ vậy. Nó được viết bằng giọng thơ tương tự, nhưng biết nội dung này phải của Dante. Giống như là có người bắt chước văn phong của ông ấy thôi.”

      “Zobrist”, Sienna thào. “Chắc chắn là ông ta.”

      Langdon gật đầu. phỏng đoán khả dĩ. Xét cho cùng, Zobrist, bằng cách thay đổi bức Vực Địa ngục của Botticelli cho thấy ông ta có khả năng hợp tác với những bậc thầy và thay đổi những tác phẩm nghệ thuật vĩ đại cho phù hợp với nhu cầu của mình.

      “Phần nội dung còn lại rất lạ”, Langdon , lại xoay chiếc mặt nạ và đọc dần vào phía trong. “Nó đến việc…chặt đầu ngựa…moi xương cả người mù.” bỏ qua đoạn để đọc tới dòng cuối cùng, được viết thành vòng tròn rất khít ở chính giữa chiếc mặt nạ. thở ra thảng thốt. “Nó còn đến ‘nước đỏ như máu’ .”

      Sienna nhướng mày, “Giống như ảo giác của về người phụ nữ tóc bạc à?”

      Langdon gật đầu, vẻ bối rối trước nội dung văn tự. Nước đỏ như máu…của cái đầm hề phản chiếu ánh sao ư?

      “Nhìn này”, thào, đọc qua vai và chỉ tay vào từ ở nửa chừng đường xoáy ốc. “ vị trí cụ thể.”

      Mắt Langdon tìm ra cái từ mà bỏ qua trong lần đọc đầu tiên. Đó chính là tên trong những thành phố độc đáo và ấn tượng nhất thế giới. Langdon cảm thấy cơn ớn lạnh, vì biết rằng đó cũng chính là thành phố nơi Dante Alighieri bị nhiễm thứ bệnh dịch chết người cướp sinh mạng của ông.

      Venice.

      Langdon và Sienna im lặng nghiên cứu những dòng thơ khó hiểu lúc lâu. Bài thơ này rùng rợn và đáng ngại, lại khó giải mã. Việc sử dụng các từ tổng trấn và đầm khẳng định chắc chắn với Langdon rằng bài thơ đích thực nhắc đến Venice - thành phố ngập nước độc đáo ở Ý, bao gồm hàng trăm đầm nước được nối thông với nhau, do người đứng đầu nhà nước Venice gọi là Tổng trấn cai quản trong nhiều thập kỷ.

      Lúc mới xem, Langdon thể nhận ra chính xác bài thơ này chỉ nơi nào ở Venice, nhưng có vẻ chắc chắn nó thúc giục người đọc theo chỉ dẫn của nó.

      Áp tai xuống mặt đất, lắng nghe tiếng nước giọt.

      “Nó ám chỉ dưới lòng đất”, Sienna , đọc cùng với .

      Langdon gật đầu cách khó nhọc trong lúc đọc dòng tiếp theo.

      Hãy nhìn sâu vào tòa cung điện bị chìm…vì ở đây, trong bóng tối, con quái vật chốn địa phủ chờ đợi.

      “Robert?”, Sienna hỏi vẻ bồn chồn. “Loại quái vật nào chứ?”

      “Địa phủ”, Langdon đáp, “Có nghĩa là ‘sống bên dưới mặt đất’.”

      Langdon chưa kịp tiếp có tiếng the cửa rất to vang khắp nhà rửa tội. Lối vào dành cho du khách ràng vừa được mở từ bên ngoài.



      ***



      “Cảm ơn rất nhiều”, người đàn ông bị phát ban mặt bằng tiếng Ý.

      Tay thuyết trình viên của Nhà rửa tội lo lắng gật đầu khi đút túi 500 đô la tiền mặt và liếc quanh để đảm bảo có ai theo dõi.

      “Năm phút thôi đấy”, thuyết trình viên nhắc nhở, thận trọng hé cánh cửa vừa được tháo chốt đủ rộng cho người đán ông phát ban lách vào trong. Thuyết trình viên đóng cửa lại, nhốt người đàn ông vào bên trong và chặn kín mọi thanh từ bên ngoài.

      Lúc đầu tay thuyết trình viên từ chối cảm thông với người đàn ông than vãn phải tít từ Mỹ tới để cầu nguyện tại Nhà rửa tội San Giovanni, với hy vọng chữa khỏi căn bệnh ngoài da quái ác của mình, Nhưng cuối cùng, ta tỏ ra cảm thông, dĩ nhiên có hậu thuẫn của món quà lót tay trị giá 500 đô la để đổi lấy năm phút ở mình trong nhà rửa tội, kèm theo tâm lý càng lúc càng lo ngại rằng người đàn ông trông dễ lây bệnh này đứng bên cạnh mình suốt ba tiếng nữa cho tới khi Nhà rửa tội mở cửa.

      Giờ đây, khi rón rén vào Nhà rửa tội hình bác giác, người đàn ông cảm thấy tầm mắt mình bị thu hút lên . Quái quỷ. Trần nhà chẳng giống thứ gì ông ta từng nhìn thấy. con quỷ ba đầu trợn mắt nhìn thẳng xuống ông ta, và ông ta vội đưa mắt nhìn xuống nền nhà.

      Chỗ này có vẻ vắng người.

      Họ đằng quái nào rồi?

      Nhìn khắp gian phòng lượt, mắt ông ta chạm tới bàn thờ chính. Đó là khối cẩm thạch đồ sộ hình chữ nhật được bố trí trong hốc tường, phía sau rào chắn bằng cột trụ và dây vải để ngăn khách tham quan.

      Bàn thờ có vẻ là nơi náu duy nhất trong toàn bộ gian phòng này. Hơn nữa, đoạn dây vải lại phất phơ nhè , như thể nó vừa bị chạm vào.



      ***



      Phía sau bàn thờ, Langdon và Sienna khom người im lặng. Họ chỉ kịp thời gian thu dọn những chiếc khăn bẩn và đặt lại nắp bồn nước trước khi nhào vào trốn phía sau bàn thờ chính, nhưng vẫn cẩn thận mang theo chiếc mặt nạ người chết. Kế hoạch náu tại đây cho đến khi gian phòng này toàn khách du lịch, khi đó họ lẻn ra ngoài cùng đám đông.

      Cánh cửa phía bắc Nhà rửa tội mở hoàn toàn - ít nhất là lúc - bởi vì Langdon nghe thấy những thanh vọng lại từ quảng trường, nhưng sau đó cánh cửa được đóng lại rất đột ngột, và tất cả lại chìm vào im ắng.

      Giờ đây, khi im ắng trở lại, Langdon nghe thấy những tiếng bước chân di chuyển sàn đá.

      thuyết trình viên chăng? Kiểm tra phòng trước khi mở cửa đón du khách chăng?

      còn đủ thời gian để tắt ngọn đèn rọi phía bồn rửa tội và tự hỏi liệu vị thuyết trình viên này có nhận ra . ràng là . Tiếng bước chân di chuyển mạnh mẽ về hướng họ, dừng lại trước bàn thờ chỗ đoạn dây Langdon và Sienna vừa nhảy qua.

      Im lặng kéo dài.

      “Robert, là tôi đây”, giọng đàn ông đầy giận dữ vang lên. “Tôi biết là trở lại đó. Chui ra ngay đây và giải thích xem nào.”



       


    2. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      CHƯƠNG 59 

       Type: TMT



      Chẳng việc gì phải giả vờ như mình hề có mặt ở đây.

      Langdon ra hiệu cho Sienna vẫn khom người an toàn để bị nhìn thấy, tay cầm chiếc mặt nạ người chết của Dante mà bỏ trở lại cái túi Ziploc.

      Sau đó, rất chậm rãi, Langdon đứng lên. đứng sững như vị linh mục phía sau bàn thờ của nhà rửa tội, đưa mắt nhìn giáo đoàn chỉ có người của mình. Người lạ mặt đối diện với có mái tóc nâu nhuốm bạc, đeo kính hàng hiệu, và những nốt phát ban rất kinh khủng mặt và cổ. Ông ta gãi cổ sồn sột, cặp mắt sưng mọng của ông ta ném ra những tia nhìn khó hiểu và giận dữ.

      cần cho tôi biết làm cái quái gì ở đây, Robert?!”, ông ta căn vặn, chân bước qua đoạn dây và tiến về phía Langdon. Giọng ông ta đặc Mỹ.

      “Chắc chắn tôi ”, Langdon lịch thiệp trả lời. “Nhưng trước hết, hãy cho tôi biết ông là ai.”

      Người đàn ông dừng sững lại, vẻ mặt đầy ngờ vực. “ sao cơ?!”

      Langdon cảm thấy có gì đó hơi quen quen trong ánh mắt của người đàn ông, giọng ông ta cũng vậy. Mình gặp ông ấy…bằng cách nào đó, ở nơi nào đó. Langdon bình tĩnh nhắc lại đề nghị của . “Xin hãy cho tôi biết ông là ai và làm sao ông biết tôi.”

      Người đàn ông vung tay lên vẻ tin nổi. ”Jonathan Ferris? Tổ chức Y tế Thế giới? Người bay tới Đại học Harvard và đón !?”

      Langdon cố gắng phân tích những gì mình nghe thấy.

      “Tại sao gọi lại?!”, người đàn ông vặn hỏi, vẫn gãi lấy gãi để cổ và má, lúc này nhìn đỏ tấy và phồng rộp. “Và ả mà tôi nhìn thấy vào đây cùng là ai vậy? Có phải ta là người bây giờ hợp tác phải ?”

      Sienna vẫn bò lom khom bên cạnh Langdon và lập tức lên tiếng. “Bác sĩ Ferris phải ? Tôi là Sienna Brooks. Tôi cũng là bác sĩ. Tôi làm việc ở Florence này. Giáo sư Langdon bị bắn vào đầu đêm qua. ấy bị mắc chứng rối loạn trí nhớ, và ấy biết ông là ai hay chuyện gì xảy ra với ấy hai ngày qua. Tôi ở đây bởi vì muốn giúp ấy.”

      Nghe những lời của Sienna vang vọng khắp nhà rửa tội vắng vẻ, người đàn ông nghiêng đầu, vẻ ngơ ngác như thể ý của lấy gì làm bảo đảm. Sau lúc kinh ngạc, ông ta lùi lại bước, cố đứng dựa vào trụ chống cho vững.

      “Ôi…Chúa ơi”, ông ta lắp bắp. “Thế là mọi chuyện rồi.”

      Langdon nhìn vẻ giận dữ tan biến gương mặt người đàn ông.

      “Robert”, người mới đến thào, “chúng tôi nghĩ …” Ông thấy lắc đầu như thể cố gắng sắp xếp mọi tình tiết cho phù hợp. “Chúng tôi nghĩ trở mặt…rằng có lẽ họ trả nhiều tiền cho …hoặc đe dọa …Chúng tôi nắm được!”

      “Tôi là người duy nhất ấy chuyện”, Sienna . “Tất cả những gì ấy biết là đêm qua ấy tỉnh dậy trong bệnh viện của tôi và có người tìm cách giết ấy. Thêm nữa, ấy cũng có những ảo giác kinh khủng - những xác chết, các nạn nhân bệnh dịch, và người phụ nữ nào đó có mái tóc bạc và cái bùa rắn cứ với ấy…”

      “Elizabeth!”, người đàn ông . “Đó là tiến sĩ Elizabeth Sinskey! Robert, bà ấy là người mời tới giúp chúng tôi!”

      “Chà, nếu đúng là bà ấy”, Sienna . “Tôi hy vọng biết rằng bà ấy gặp rắc rối. Chúng tôi nhìn thấy bà ấy bị kẹt phía sau chiếc xe thùng đầy lính tráng, và bà ấy trông như say thuốc hay gì đó.”

      Người đàn ông chậm rãi gật đầu, nhắm mắt lại. Mi mắt ông ấy trông sưng mọng và đỏ.

      “Mặt bị sao vậy?”, Sienna hỏi.

      Ông ấy mở mắt ra, “Sao cơ?”

      “Da của ? Trông như nhiễm phải thứ gì đó. có mệt ?”

      Người đàn ông trông đầy vẻ sững sốt, và cho dù chắc chắn câu hỏi của Sienna thẳng thừng đến mức có phần hơi thô lỗ nhưng Langdon cũng khỏi thắc mắc về điều đó. Nghĩ tới số lượng những thứ ám chỉ tới dịch bệnh mà gặp ngày hôm nay, hình ảnh da tấy đỏ quả rất đáng ngại.

      “Tôi ổn thôi”, người đàn ông . “Đó là do thứ xà phòng khốn kiếp ở khách sạn. Tôi dị ứng nặng với đậu nành, và hấu hết các loại xà phòng thơm của Ý đều có đậu nành. Tôi dại dột kiểm tra kỹ.”

      Sienna thở phào nhõm, giờ vai trùng xuống hẳn. “Ơn Chúa ăn thứ đó. Chứng viêm da tiếp xúc là do da sốc mẫn cảm.”
      Họ cùng cười ngượng nghịu.

      Sienna đánh bạo, “Xin cho chúng tôi biết cái tên Bertrand Zobrist có ý nghĩa gì với ?”

      Người đàn ông sững sờ, trông như thể ông ấy vừa mặt đối mặt với quỷ sứ ba đầu.

      “Chúng tôi tin mình vừa tìm được thông điệp từ ông ta”, Sienna . “Nó chỉ tới nơi nào đó ở Venice. Điều đó có ý nghĩa gì với ?”

      Giờ mắt người đàn ông trở nên dữ tợn. “Lạy Chúa, có đấy! Rất nhiều! Nó chỉ tới chỗ nào!?”

      Sienna hít hơi, ràng sẵn sàng kể cho người đàn ông mọi chuyện về bài thơ xoáy trôn ốc mà và Langdon vừa phát chiếc mặt nạ, nhưng theo bản năng, Langdon kín đáo đặt bàn tay lên tay . Có vẻ người đàn ông là đồng minh, nhưng sau tất cả việc hôm nay, tâm trí Langdon mách bảo đừng vội tin ai cả. Hơn nữa, cà vạt người đàn ông có đeo quả chuông, và có cảm giác người đàn ông này rất có thể là người cầu nguyện trong nhà thờ Dante lúc trước. Ông ta bám theo bọn mình chăng?

      “Làm sao tìm được chúng tôi ở đây?”, Langdon hỏi.

      Người đàn ông vẫn còn bối rối khi biết rằng Langdon nhớ được mọi việc. “Robert, gọi cho tôi đêm qua rằng dàn xếp cuộc gặp mặt với giám đốc bảo tàng tên là Ignazio Busoni. Sau đó biến mất. hề gọi lại. Khi nghe tin Ignazio Busoni chết, tôi rất lo. Tôi đến đây tìm suốt buổi sáng. Tôi nhìn thấy cảnh sát ở bên ngoài Cung điện Vecchio và trong khi đợi tìm hiểu xem chuyện gì xảy ra, tình cờ tôi nhìn thấy chui ra khỏi ô cửa cùng với…” Ông ta liếc nhìn về phía Sienna, ràng nhớ được tên .

      “Sienna”, nhắc. “Brooks.”

      “Tôi xin lỗi…cùng với bác sĩ Brooks. Tôi bám theo hai người, hy vọng biết được làm chuyện quái gì.”

      “Tôi nhìn thấy trong nhà thờ Cerchi, cầu nguyện, tôi có nhầm ?”
      ”Đúng đấy! Tôi cố gắng phán đoán xem làm gì, nhưng có tác dụng! Dường như rời khỏi nhà thờ chẳng khác gì người thi hành nhiệm vụ, cho nên tôi bám theo . Khi thấy hai người lẻn vào nhà rửa tội, tôi quyết định đến lúc phải trực tiếp gặp . Tôi chi tiền cho tay thuyết trình viên chỉ để có mấy phút mình ở trong này.”

      “Hơi hấp tấp”, Langdon nhận xét, “nếu nghĩ tôi phản .”

      Người đàn ông lắc đầu. “Có gì đó mách bảo tôi rằng bao giờ làm vậy. Giáo sư Robert Langdon ư? Tôi biết nhất định có lời giải thích khác. Nhưng bị mất trí nhớ sao? tin nổi. Tôi chưa bao giờ đoán ra được.”

      Người đàn ông với những nốt tấy đỏ lại bắt đầu gãi sồn sột. “Nghe này, tôi chỉ có năm phút thôi. Chúng ta cần ra khỏi đây ngay. Nếu tôi tìm được hai người những kẻ tìm cách giết cũng có thể tìm ra . Có rất nhiều chuyện xảy ra mà tôi hiểu. Chúng ta cần tới Venice. Ngay lập tức. Cần rời khỏi Florence mà để ai nhìn thấy. Những kẻ giữ tiến sĩ Sinskey…những kẻ truy đuổi chúng có mặt ở khắp mọi nơi.” Ông ta ra hiệu về phía cửa.

      Cuối cùng Langdon cũng cảm thấy như thể mình sắp có được câu trả lời nào đó. “Đám lính mặc đồng phục đen là ai? Tại sao họ lại cố tìm cách giết tôi?”

      “Chuyện dài lắm”, người đàn ông . “ đường tôi giải thích.”

      Langdon cau mày, hoàn toàn thích câu trả lời thế này. ra hiệu cho Sienna và kéo qua bên, nhanh với . “Em có tin ta ? Em thấy sao nào?”

      Sienna nhìn Langdon như thể hóa dại vì hỏi vậy. “Em nghĩ gì ư? Em nghĩ ta là người của Tổ chức Y tế Thế giới. Em nghĩ ta là ván cược tốt nhất cho chúng ta để có câu trả lời.”

      “Thế còn tình trạng phát ban?”

      Sienna nhún vai. “Đúng như những gì ta - viêm da tiếp xúc nặng.”
      ”Và nếu phải như những gì ta sao?”, Langdon thào. “Nếu…là gì đó khác?”

      “Gì khác chứ?” nhìn vẻ hoài nghi. “Robert, phải là dịch hạch, nếu đó là những gì nghĩ. May thay, ta là bác sĩ. Nếu ta bị căn bệnh chết người và biết mình lây nhiễm, ta khinh suất ra ngoài để lây nhiễm cho cả thế giới đâu.”

      “Thế nếu ta nhận ra mình bị dịch hạch sao?”

      Sienna mím môi, nghĩ ngợi lúc. “Thế em sợ rằng em và nhiễm cả rồi…cùng với tất cả mọi người trong khu vực.”

      “Em biết đấy, cách cư xử với bệnh nhân của em có thể hữu dụng.”

      “Cứ thẳng thắn thôi.” Sienna đưa cho Langdon túi Ziploc có chiếc mặt nạ người chết. “ mang người bạn của chúng ta theo nhé.”

      Khi trở lại chỗ bác sĩ Ferris, hai người nhận ra ông ta vừa kết thúc cuộc điện đàm.

      “Tôi vừa gọi cho lái xe của tôi”, người đàn ông . “ ấy đón chúng ta ở bên ngoài…” Bác sĩ Ferris dừng lại đột ngột, đăm đăm nhìn tay Langdon và lần đầu tiên thấy khuôn mặt lúc chết của Dante Alighieri.

      “Lạy Chúa!”, Ferris , co rúm lại. “Thứ quái gì vậy?”

      “Chuyện dài lắm”, Langdon đáp. “Tôi giải thích đường .”

       


    3. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Chương 60
      Biên tập viên tại New York Jonas Faukman tỉnh giấc vì tiếng điện thoại nối từ nhà tới văn phòng của mình réo vang. lật người và nhìn đồng hồ: 4 giờ 28 phút sáng.

      Trong giới xuất bản sách, những cuộc gọi khẩn cấp lúc đêm muộn hiếm gặp chẳng kém gì chuyện thành công chỉ sau đêm. Bực bội, Faukman chuồi ra khỏi giường, và vội tới phòng làm việc.

      “Xin chào”, giọng máy là giọng nam trung quen thuộc. “Jonas, may cậu có ở nhà . Robert đây. Tôi hy vọng khua cậu dậy.”

      “Đương nhiên cậu khua tôi dậy rồi! Mới có bốn giờ sáng thôi!”

      “Xin lỗi, tôi ở nước ngoài.”

      Ở Harvard họ dạy về các múi giờ à?

      “Tôi gặp rắc rối chút, Jonas, và tôi cần giúp đỡ.” Giọng Langdon nghe rất căng thẳng. “Nó liên quan đến thẻ NetJets hạng doanh nghiệp của cậu.”

      “NetJets à?”, Faukman bật cười. “Robert, chúng tôi ở trong ngành xuất bản sách. Chúng tôi có quyền tiếp cận các máy bay tư.”

      “Cả hai chúng ta đều biết cậu dối mà, bạn.”

      Faukman thở dài. “Được rồi, để tôi lại. Chúng tôi có quyền tiếp cận các máy bay tư cho các tác giả sách về lịch sử tôn giáo. Nếu cậu muốn viết cuốn Năm mươi sắc thái của thánh tượng học chúng ta có thể chuyện tiếp.”

      “Jonas, dù chuyến bay tốn kém bao nhiêu, tôi cũng thanh toán cho cậu. Tôi hứa đấy. Tôi bao giờ thất hứa với cậu chưa?”

      Còn hơn là cậu lỡ hạn chót lần cuối của cậu những ba năm cơ đấy! Tuy nhiên, Faukman cả, thấy giọng Langdon có vẻ khẩn trương. “Cho tôi biết có chuyện gì. Tôi cố gắng giúp.”

      “Tôi có thời gian giải thích, nhưng tôi cần cậu làm việc này cho tôi. Đó là vấn đề sinh tử đấy.”

      Faukman làm việc với Langdon đủ lâu để quen với khiếu hài hước của , nhưng ta hề nghe thấy vẻ đùa cợt trong giọng lo lắng của Langdon lúc này. chàng hết sức nghiêm túc. Faukman thở hắt ra và trấn tĩnh. Giám đốc tài chính của mình cắt đầu rút ruột mình mất. Ba mươi giây sau, Faukman viết ra chi tiết cầu chuyến bay đặc biệt của Langdon.

      “Mọi thứ ổn chứ?”, Langdon hỏi, ràng cảm thấy vẻ do dự và ngạc nhiên của chàng biên tập viên trước những chi tiết đặt chuyến bay.

      “Rồi, tôi cứ nghĩ cậu ở Mỹ”, Faukman . “Tôi ngạc nhiên khi biết cậu ở Ý.”

      “Tôi cũng có khác gì cậu đâu”, Langdon . “Cảm ơn lần nữa nhé, Jonas. Giờ tôi ra sân bay đây.”

      ***

      Trung tâm điều hành tại Hoa Kỳ của NetJets đặt tại Colombus, bang Ohio, với đội hổ trợ bay điện thoại toàn thời gian.

      Đại diện mảng dịch vụ chủ sở hữu, Deb Kier vừa nhận được cuộc gọi từ chủ doanh nghiệp ở New York. “Chờ chút, thưa ngài”, , chỉnh lại tai nghe và gõ thiết bị nhập thông tin của mình. “Về mặt kỹ thuật đây là chuyến bay của NetJets châu Âu, nhưng tôi có thể giúp ngài được.” nhanh chóng truy cập hệ thống NetJets châu Âu, có trung tâm đặt tại Paço de Arcos, Bồ Đào Nha, sau đó kiểm tra vị trí tại của các máy bay ở Ý và xung quanh đó.

      “Được rồi, thưa ngài”, , “chúng tôi có chiếc Citation Excel tại Monaco, chúng tôi có thể điều sang Florence trong vòng chưa đầy tiếng. Như thế có tiện cho ngài Langdon ạ?”.

      “Hy vọng như vậy”, người đàn ông từ công ty xuất bản trả lời, nghe như kiệt sức và hơi khó chịu. “Chúng tôi rất biết ơn.”

      “Đó là hân hạnh của chúng tôi”, Deb . “Và ngài Langdon muốn bay tới Geneva phải ?”

      “Đúng vậy!”

      Deb tiếp tục gõ máy. “Tất cả xong”, cuối cùng . “Ngài Langdon được xác nhận ở Trạm điều hành cơ sở cố định Tassignano tại Lucca, khoảng năm mươi dặm về phía tây Florence. Ông ấy khởi hành lúc 11 giờ 20 phút sáng theo giờ địa phương. Ông Langdon cần có mặt tại Trạm mười phút trước khi khởi hành. Ngài có dịch vụ di chuyển bộ, có phục vụ ăn, và ngài cần cung cấp thông tin hộ chiếu, để chúng tôi hoàn tất mọi việc. Ngài còn cầu gì nữa ạ?”

      công việc mới chăng?”, ấy cười . “Cảm ơn . giúp được nhiều lắm.”

      “Rất hân hạnh. Chúc ngủ ngon.” Deb kết thúc cuộc gọi và quay trở lại màn hình của mình để hoàn tất việc đặt chỗ. nhập thông tin hộ chiếu của Robert Langdon và định tiếp tục màn hình bắt đầu ra hộp thoại cảnh báo màu đỏ. Deb đọc thông báo, mắt mở to.

      Chắc là nhầm lẫn thôi.

      cố gắng nhập lại hộ chiếu của Langdon. Lời cảnh báo lại xuất lần nữa. Lời cảnh báo này xuất bất kỳ máy tính hàng nào thế giới mà Langdon tìm cách đặt chuyến bay.

      Deb Kier đăm đăm nhìn lúc lâu với vẻ tin nổi. biết NetJets giữ thông tin riêng của khách hàng rất kỹ càng, nhưng lời cảnh báo này phá bỏ mọi quy tắc bảo mật quyền riêng tư của công ty họ.

      Deb Kier lập tức gọi cho bộ phận chức năng.

      ***

      Đặc vụ Brüder tắt điện thoại di động và bắt đầu dẫn người của mình quay lại những chiếc xe thùng.

      “Langdon di chuyển rồi”, gã . “ ta máy bay riêng tới Geneva. Khởi hành chưa đầy giờ nữa từ Trạm điều hành Lucca, năm mươi dặm về phía tây. Nếu ngay, chúng ta có thể tới đó trước khi ta cất cánh.”

      ***

      Cùng lúc đó, chiết ô tô mui kín hiệu Fiat thuê riêng lao lên phía bắc dọc theo Đại lộ Panzani, bỏ lại Quảng trường Duomo phía sau và nhắm thẳng tới nhà ga xe lửa Santa Maria của Florence.

      Ở ghế sau, Langdon và Sienna cúi thấp trong khi bác sĩ Ferris ngồi ở phía trước cùng với tài xế. Việc đặ chỗ với NetJets là ý tưởng của Sienna. Nếu may mắn, nó đủ để đánh lạc hướng và cho phép ba người bọn họ an toàn vượt qua nhà ga Florence, nơi chắc chắn dày đặc cảnh sát nếu làm vậy. may, tới Venice chỉ mất hai giờ bằng tàu hỏa, và lại bằng xe lửa trong phạm vi nội địa cần đến hộ chiếu.

      Langdon nhìn Sienna, lúc này dường như săm soi bác sĩ Ferris với vẻ lo lắng. Người đàn ông này đau đớn thấy , hơi thở của ông ta nặng nề, như thể mỗi lần hít vào cũng làm ông ta đau đớn.

      Mình hy vọng ấy đúng về tình trạng bệnh, Langdon nghĩ thầm, mắt nhìn những chỗ phát ban của người đàn ông và tưởng tượng ra những mầm bệnh lững lờ trong khí bên trong chiếc xe xíu, tù túng. Ngay cả đầu ngón tay của ông ta trong cũng sưng vù và đỏ tấy. Langdon cố xua nỗi lo lắng ra khỏi tâm trí mình và nhìn ra ngoài cửa sổ.

      Khi đến nhà ga, họ ngang qua Đại khách sạn Baglioni, nơi vẫn thường tổ chức các kiện của hội nghị nghệ thuật mà Langdon tham dự hàng năm. Nhìn thấy tòa nhà, Langdon nhận ra mình sắp làm việc mà chưa từng làm trong đời.

      Mình rời khỏi Florence mà chưa kịp tới thăm chàng David.

      Với lời xin lỗi thầm gửi tới Michelangelo, Langdon đưa mắt nhìn về nhà ga phía trước... và hướng dòng ý nghĩ tới Venice.





      Chương 61

      Langdon tới Geneva à?

      Tiến sĩ Elizabeth Sinskey cảm thấy càng lúc càng mệt khi bà ngồi nghiêng ngả như đảo đồng ở băng ghế sau chiếc xe thùng, lúc này phóng như bay ra khỏi Florence, nhắm thẳng hướng tây về phía sân bay tư nhân bên ngoài thành phố.

      Geneva có nghĩa gì rồi, Sinskey tự nhủ.

      Mối liên hệ tương thích duy nhất đến Geneva là: Đây chính là địa điểm đặt tổng hành dinh của WHO. Langdon tìm mình ở đó chăng? Dường như chuyện đó hợp lý tí nào bởi lẽ Langdon biết bà ở Florence này.

      Giờ ý nghĩ khác vụt đến với bà.

      Chúa ơi... Hay Zobrist nhắm vào Geneva?

      Zobrist là người mê các biểu tượng, và phải thừa nhận rằng việc tạo ra “điểm bể mặt” 29 tại tổng hành dinh Tổ chức Y tế Thế giới là khá hợp lý, nếu xét đến cuộc chiến kéo dài giữa với Sinskey. Thế nhưng, nếu Zorbist tìm kiếm điểm bùng phát dễ dàng cho đại dịch Geneva phải là lựa chọn hay. So với các đô thị khác, thành phố này cách biệt về mặt địa lý và khá lạnh vào thời điểm này trong năm. Hầu hết các đại dịch đều bắt rễ trong những môi trường ấm áp và đông dân cư hơn. Geneva ở mực nước biển hơn ba trăm mét, và khó có thể là địa điểm thích hợp để bắt đầu đại dịch. Cho dù Zorbist có khinh thường ta đến đâu chăng nữa.

      Cho nên câu hỏi vẫn còn đó – tại sao Langdon lại đến đó? Đích đến kỳ lạ của vị giáo sư người Mỹ lại là điểm khác nữa trong bản danh sách càng lúc càng dài liệt kê những hành vi thể lý giải được của ta bắt đầu từ tối qua, và bất chấp những nỗ lực hết công suất, Sinskey thấy rất khó đến lời giải thích thỏa đáng nào cho những việc làm ấy.

      ta đứng về phe ai?

      Phải thừa nhận, Sinskey mới chỉ biết Langdon có vài ngày, như banà thường đánh giá nhân cách rất chính xác, và bà tin người như Robert Langdon lại có thể bị tiền bạc mua chuộc. Thế mà ta lại phá vỡ hợp đồng với chúng ta tối qua. Bây giờ có vẻ như ta chạy quanh như gã ma cà bông lên cơn. Hay ta bị thuyết phục bằng cách nào đó nên tin rằng hành động của Zorbist có ý nghĩa kép?

      Ý nghĩ ấy khiến bà rùng mình ớn lạnh.

      , bà tự trấn an mình. Ta biết tiếng tăm của ta quá , ta hơn thế nhiều.

      Lần đầu Sinskey gặp Robert Langdon là bốn đêm trước trong khoang chiếc máy bay vận tải C-130 được trưng dụng làm trung tâm điều phối di động của Tổ chức Y tế Thế giới.

      Mới chỉ hơn 7 giờ lúc máy bay đáp xuống Hanscom Field, chưa đầy mười lăm dặm từ Cambridge, bang Massachusetts. Sinskey chắc mình trông đợi gì ở vị học giả lừng danh mà bà liên lạc qua điện thoại, nhưng bà vui sướng đến ngạc nhiên khi sải bước tự tin lên ván cầu để chui vào khoang sau máy bay và chào bà bằng nụ cười vô tư.

      “Tiến sĩ Sinskey phải ạ?”, Langdon bắt tay bà khá chặt.

      “Chào giáo sư, rất vinh dự được gặp .”

      “Tôi cũng rất hân hạnh. Cảm ơn vì tất cả những gì bà làm.”

      Langdon là người đàn ông khá cao, có diện mạo tươi tắn của cư dân thành phố và giọng trầm. Sinskey bất ngờ khi thấy quần áo mặc lúc đó lại chính là trang phục lên lớp – áo khoác vải tuýt, quần ka-ki, và giày lười đế mềm – dễ khiến người khác có ấn tượng rằng nhiều lần phải rời khỏi trường mà được báo trước. Trông cũng trẻ và có dáng gọn hơn so với bà tưởng tượng, điều đó chỉ càng khiến Elizabeth nhớ tới tuổi tác của chính mình. Mình gần bằng tuổi mê ta.

      Bà mỉm cười mệt mỏi nhìn . “Cám ơn vì tới, giáo sư.”

      Langdon ra hiệu về phía người cộng chẳng lấy gì làm hài hước mà Sinskey phái đón mình. “Người bạn của bà đây chưa cho tôi nhiều cơ hội cân nhắc mọi việc.”

      sao. Tôi trả tiền cho ta làm việc đó mà.”

      “Cái bùa đẹp quá.”, Langdon , mắt nhìn chiếc vòng cổ của bà. “Lam ngọc thạch phải?”

      Sinskey gật đầu và cúi nhìn cái bùa bằng chất đá màu da trời của mình, được tạo tác thành biểu tượng con rắn quấn quanh cây gậy dựng đứng. “Biểu tượng đại cho ngành y khoa. Và tôi tin chắc có biết, nó được gọi là ‘y hiệu’ – ‘thương thần trượng’ 30 .”

      Langdon đột ngột ngước lên, như thể            có gì đó muốn .

      Bà chờ đợi. Vâng?

      ràng nhận ra mình có phần bốc đồng, mỉm cười nhã nhặn và đổi chủ đề. “Vậy tại sao tôi lại có mặt ở đây?”

      Elizabeth ra hiệu về phía khu vực thảo luận tạm thời chỗ chiếc bàn thép gỉ. “Mời ngồi. Tôi có việc cần xem xét.”

      Langdon thong thả tới chỗ bàn, và Elizabeth nhận thấy mặc dù vị giáo sư có tò mò với cuộc gặp bí mật này nhưng hề bối rối. Đây là người luôn thấy thoải mái với chính mình. Bà tự hỏi liệu có còn thấy thảnh thơi khi biết lý do được mời tới đây.

      Elizabeth mời Langdon ngồi ổn định rồi cần mào đầu, lấy ra cái vật mà bà cùng nhóm của mình tịch thu được từ hộc tủ an toàn ở Florence chưa đầy mười hai tiếng trước.

      Chờ Langdon nghiên cứu cái ống hình trụ có chạm khắc xíu lúc lâu, Elizabeth mới vắn tắt những gì bà biết. Vật này là trụ triện cổ có thể dùng để in. Nó mang theo hình ảnh đặc biệt kinh khủng – gã quỷ Satan ba đầu cùng với chữ duy nhất: Saligia.

      “Saligia”, Langdon , “là cách tiếng Latin để nhắc ta nhớ tới...”.

      “Bảy Trọng tội”, Elizabeth . “Vâng, chúng tôi tìm hiểu về nó.”

      “Vâng...” Giọng Langdon có vẻ lúng túng. “Có lý do gì bà muốn tôi xem xét thứ này ?”

      “Thực tế là có.” Sinskey lấy lại cái ống trụ và bắt đầu lắc mạnh, làm viên bi chạy lạo xạo.

      Langdon ngơ ngác trước hành động của bà, nhưng chưa kịp hỏi bà làm gì đầu mút cái ống trụ bắt đầu sáng lên, và bà chĩa nó vào tấm cách nhiệt vách chiếc máy bay được dọn sạch nội thất.

      Langdon huýt sáo và tiến lại phía hình ảnh được chiếu ra.

      “Bức Vực địa ngục của Botticelli”, Langdon . “Dựa theo Hỏa ngục của Dante. Mặc dù tôi đoán có lẽ bà cũng biết rồi.”

      Elizabeth gật đầu. Bà và đồng nghiệp xác định danh tính bức vẽ qua Internet, và rất ngạc nhiên khi biết đó là tác phẩm của Botticelli, họa sĩ nổi danh với những kiệt tác sáng tạo, lý tưởng hóa như Thần Vệ nữ chào đời Câu chuyện mùa xuân. Sinskey cả hai tác phẩm mặc dù chúng đều mô tả sinh sôi nảy nở và sức sáng tạo của cuộc sống – điều chỉ càng khiến bà nhớ đến bi kịch thể mang thai của mình – tâm hối tiếc duy nhất trong cuộc đời đầy ý nghĩa của bà.

      “Tôi hy vọng”, Sinskey , “rằng có thể cho tôi biết về những biểu tượng giấu trong bức vẽ này”.

      Lần đầu tiên trong buổi tối hôm nay, trông Langdon tỏ ra bồn chồn. “Có phải đó là lý do bà gọi tôi đến đây ? Tôi nghĩ bà đó là chuyện khẩn cấp.”

      “Xin làm ơn!”

      Langdon thở dài kiên nhẫn. “Tiến sĩ Sinskey, chung, nếu bà muốn biết về bức tranh cụ thể bà nên liên hệ với bảo tàng nơi lưu giữ tác phẩm gốc. Trong trường hợp này, đó phải là Thư viện Tông đồ của Vatican. Tòa thánh có rất nhiều chuyên gia siêu hạng ngành thánh tượng có khả năng...”

      “Tòa thánh rất ghét tôi.”

      Langdon nhìn bà thảng thốt. “Ghét bà ư? Tôi cứ nghĩ mình là người duy nhất.”

      Bà mỉm cười buồn bã. “WHO thấy rằng việc có sẵn các biện pháp tránh thai là trong những chìa khóa giải quyết vấn đề sức khỏe toàn cầu – vừa để ngăn chặn các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục như AIDS và cũng để kiểm soát dân số tổng thể.”

      “Nhưng Tòa thánh lại cảm thấy hoàn toàn khác.”

      “Đúng vậy. Họ bỏ ra rất nhiều công sức và tiền bạc truyền bá cho các nước thế giới thứ ba tin rằng phòng tránh thai là xấu xa.”

      “À, vâng.”, Langdon kèm theo nụ cười ranh mãnh. “Còn ai với thế giới về chuyện quan hệ tình dục tốt hơn đám những ông cụ độc thân tuổi bát tuần nữa chứ?”

      Sinskey càng lúc càng thấy thích vị giáo sư này.

      Bà lắc lắc cái ống trụ để nạp lại năng lượng cho nó và sau đó chiếu hình ảnh lên tường lần nữa. “Giáo sư, hãy nhìn kỹ hơn xem.”

      Langdon bước lại phía hình ảnh, chăm chú xem xét nó, trong lúc vẫn tiến lại càng lúc càng gần hơn. Đột nhiên, dừng phắt lại. “ lạ lùng. Nó bị thay đổi.”

      làm ta mất nhiều thời gian. “Phải, và tôi muốn cho tôi biết những chỗ thay đổi mang ý nghĩa gì.”

      Langdon im lặng, nhìn khắp toàn bộ hình ảnh, dừng lại để ghi ra mười chữ cái đọc thành catrovacer, sau đó là chiếc mặt nạ dịch hạch, rồi cả câu trích dẫn lạ lùng ở quanh rìa về “đôi mắt chết chóc”.

      “Ai làm việc này?”, Langdon hỏi. “Nó từ đâu mà ra?”

      , lúc này biết càng ít càng tốt. Điều tôi hy vọng là có thể phân tích những thay đổi này và cho chúng tôi biết chúng mang ý nghĩa gì.” Bà ra hiệu về phía chiếc bàn ở góc.

      “Ở đây ư? Ngay bây giờ ư?”

      Bà gật đầu. “Tôi biết đó là đòi hỏi có phần quá đáng, nhưng tôi biết giải thích làm sao cho hết tầm quan trọng của chuyện này đối với chúng tôi,” bà ngừng lại. “Nó chính là vấn đề sinh tử.”

      Langdon lo lắng nhìn bà. “Giải mã thứ này có thể phái mất lúc, nhưng tôi cho rằng nếu nó quan trọng với bà đến thế...”

      “Cám ơn ”, Sinskey trước khi kịp thay đổi suy nghĩ. “ có cần phải gọi ai khác ?”

      Langdon lắc đầu và bảo bà kế hoạch về kỳ nghỉ cuối tuần yên tĩnh mình.

      Quá tốt. Sinskey để ở lại bàn làm việc cùng với cái máu chiếu, giấy, bút chì và chiếc máy tính xách tay có kết nối vệ tinh bảo mật. Dù cực kỳ băn khoăn về lý do tại sao WHO lại quan tâm đến bức vẽ bị cải biến của Botticelli, nhưng Langdon vẫn nghiêm túc bắt tay vào việc.

      Tiến sĩ Sinskey đinh ninh có thể kết thúc việc tìm hiểu hình ảnh kia chỉ trong vài tiếng mà cần nghỉ, cho nên bà cũng tập trung giải quyết số công việc riêng của mình. Thỉnh thoảng bà lại nghe thấy lắc lắc cái máy chiếu và viết loạt xoạt lên giấy. Gần mười phút trôi qua, Langdon buông bút và tuyên bố, “Cerca trova”.

      Sinskey ngước nhìn lên. “Cái gì cơ?”

      “Cerca trova”, nhắc lại. “Hãy tìm và thấy. Đó là những gì mật mã này muốn .”

      Sinskey vội lại và ngồi xuống sát cạnh , lắng nghe cách say sưa trong lúc Langdon giải thích xem các tầng địa ngục của Dante được thay đổi như thế nào, và rằng khi được đặt lại đúng thứ tự chúng tạo thành cụm từ tiếng Ý cerca trova.

      Tìm kiếm và thấy ư? Sinskey tự hỏi. Đó là thông điệp mà gã điên ấy gửi tới mình sao? Cụm từ nghe giống như lời thách thức trực tiếp. Ký ức nhiễu loạn của bà về những lời cuối cùng của kẻ điên kia trong cuộc gặp gỡ của họ tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại lại trở lại trong tâm trí: Vậy có vẻ như màn khiêu vũ của chúng ta bắt đầu.

      “Trông bà tái nhợt kìa”, Langdon và chăm chú nhìn bà. “Tôi đoán đây phải thông điệp mà bà mong đợi phải ?”

      Sinskey cố trấn tĩnh, vuốt vuốt chiếc bùa cổ mình. “ hẳn. Cho tôi biết... có tin tấm bản đồ địa ngục này gợi ý tôi tìm kiếm thứ gì đó ?”

      “Có. Cerca trova.”

      “Và nó gợi ý tôi tìm ở chỗ nào?”

      Langdon xoa xoa cằm mình trong khi các nhân viên WHO khác bắt đầu quây lại xung quanh, vẻ háo hức chờ nghe thông tin. “ gì nhiều... hề, mặc dù tôi có ý tưởng về chỗ bà nên bắt đầu.”

      cho tôi biết ”, Sinskey cầu, có vẻ ép buộc hơn mức Langdon nghĩ.

      “Chà, bà cảm thấy Florence, ở Ý, thế nào?”

      Sinskey đờ người, phải cố hết sức thể phản ứng gì. Nhưng các nhân viên của bà khả năng kiềm chế bằng. Tất cả bọn họ cùng nhìn nhau thảng thốt. người vớ lấy điện thoại và bấm số. người khác vội vàng bước qua cửa tới phía trước máy bay.

      Langdon ngơ ngác. “Tôi gì à?”

      Chắc chắn rồi, Sinskey nghĩ. “Điều gì khiến đó là Florence?”

      “Cerca trova”, đáp lại, nhanh nhẹn kể lại bí mật có từ lâu liên quan đến bức tranh tường của Vasari tại Cung điện Vecchio.

      Đích thị là Florence, Sinskey nghĩ, cảm thấy nghe đủ. ràng, thể là trùng hợp ngẫu nhiên khi kẻ thủ của bà lại nhảy lầu tự sát cách Cung điện Vecchio ở Florence chưa đầy ba dãy nhà.

      “Giáo sư”, bà , “khi tôi cho thấy lá bùa của tôi lúc trước và gọi nó là thương thần trượng, sững lại, như thể muốn gì đó, nhưng khi đó do dự và dường như thay đổi suy nghĩ. định điều gì?”.

      Langdon lắc đầu. “ có gì cả. Chuyện vớ vẩn thôi. Thỉnh thoảng thói quen nghề nghiệp làm tôi có chút độc đoán.”

      Sinskey nhìn xoáy vào mắt . “Tôi hỏi bởi vì tôi cần biết tôi có thể tin được . định gì nào?”

      Langdon nuốt khan và hắng giọng. “ liên quan lắm, nhưng bà lá bùa của bà là biểu tượng y học cổ, đúng như vậy. Nhưng khi bà gọi nó là thương thần trượng, bà mắc phải nhầm lẫn rất phổ biến. Thương thần trượng có hai con rắn cây gậy và có cánh ở đỉnh. Chiếc bùa của bà chỉ có con rắn và có cánh. Biểu tượng của bà gọi là...”

      “Cây gậy Asclepius.”

      Langdon nghiêng đầu ngạc nhiên. “Vâng. Rất chính xác.”

      “Tôi biết. Tôi chỉ kiểm tra mức độ thành thực của thôi.”

      “Sao cơ?”

      “Tôi tò mò muốn biết liệu cho tôi biết hay , cho dù điều đó có thể khiến tôi khó chịu đến đâu.”

      “Nghe có vẻ như tôi qua được bài kiểm tra.”

      “Đừng làm như vậy lần nữa. Hoàn toàn trung thực là cách duy nhất và tôi có thể làm việc với nhau trong vụ này.”

      “Làm việc với nhau ư? Chúng ta vẫn chưa kết thúc ở đây à?”

      “Chưa, thưa giáo sư, chúng ta chưa kết thúc. Tôi cần đến Florence để giúp tôi tìm thứ.”

      Langdon nhìn sững mà tin nổi. “Tối nay sao?”

      “Tôi e là như vậy. Tôi chưa với về bản chất nghiêm trọng của tình huống này.”

      Langdon lắc đầu. “Bà gì với tôi thành vấn đề. Tôi muốn bay đến Florence.”

      “Tôi cũng vậy”, bà đanh giọng. “Nhưng rất tiếc, thời gian của chúng ta cạn dần.”

       

      29 Nguyên văn: “ground zero” : Điểm mặt đất gần với vụ nổ nhất. Thuật ngữ này thường gắn với các vụ nổ hạt nhân hay nổ bom lớn, nhưng nó cũng được dùng trong các trận động đất, đại dịch và những thảm họa khác để đánh dấu điểm thiệt hại nặng nhất.

      30  biểu tượng của ngành y.

                  

    4. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
       Type: TMT
      CHƯƠNG 62
       

       

      Mặt trời giữa trưa chiếu phần nóc khá trang nhã của đoàn tàu Frecciargento cao tốc ở Ýkhi nó lao về phía Bắc, cắt thành đường cong kiều qua vùng nông thôn Tuscan. Mặc dù rời khỏi Florence với vận tốc trăm bảy mươi tư dặm mỗi giờ, nhưng đoàn tàu “mũi tên bạc“ gần như hề tạo ra tiếng ồn, những tiếng lanh canh nhè lặp lặp lại cùng chuyển động lắc lư khe khẽ của nó đem lại cảm giác khá dễ chịu cho hành khách.

      Với Robert Langdon, tiếng đồng hồ vừa qua là khoảng thời gian mờ mịt.

      Lúc này, đoàn tàu cao tốc Frecciargento, Langdon, Sienna và bác sĩ Ferris ngồi ở trong những salottini riêng - loại buồng hạng nhất có bốn ghế da và bàn gấp. Ferris dùng thẻ tín dụng của mình mua toàn bộ buồng, cùng với bánh mì kẹp và nước khoáng, những thứ Langdon và Sienna ngấu nghiến hết sạch sau khi rửa ráy trong phòng vệ sinh cạnh buồng riêng của họ.

      Khi cả ba người ổn định chỗ để thực chuyến bằng tàu hỏa dài hai tiếng tới Venice, bác sĩ Ferris lập tức nhìn đăm đăm chiếc mặt nạ người chết của Dante nằm mặt bàn ở giữa họ, trong cái túi Ziploc. “Chúng ta cần biết chính xác chiếc mặt nạ này chỉ dẫn chứng ta tới nơi nào của Venice.”

      “Và phải nhanh”, Sienna thêm, giọng đầy khẩn trương. “Có lẽ đó là hy vọng duy nhất của chúng ta nhằm ngăn chặn đại dịch của Zobrist.”

      “Khoan ”, Langdon , chặn tay lên chiếc mặt nạ. “ hứa khi chúng ta an toàn lên được đoàn tàu này, cho tôi số câu trả lời về mấy ngày qua. Cho tới giờ, tất cả những gì tôi biết là WHO tuyển mộ tôi tại Cambridge để giúp giải mã bức Vực địa ngục của Zobrist. Ngoài ra, chưa gì với tôi cả.”

      Bác sĩ Zobrist trở mình vẻ thoải mái và lại bắt đầu gãi những chỗ mẫn ngứa mặt và cổ. “Tôi có thể nhận thấy thất vọng”, ông ta . “Tôi biết chắc rất khó chịu khi nhớ được những gì xảy ra, nhưng theo y khoa…” Ông ta liếc nhìn Sienna để xác nhận và sau đó tiếp. “Tôi đề nghị đừng tiêu tốn năng lượng cố nhớ lại những tình tiết mà thể nhớ. Với các nạn nhân bị chứng mất trí nhớ, tốt nhất là để những điều quên chìm vào quên lãng luôn.”

      “Vậy à?” Langdon cảm thấy bực bội. “Chả ra làm sao cả! Tôi cần vài câu trả lời! Tổ chức của đưa tôi tới Ý, nơi tôi bị bắn và đánh mất vài ngày của mình! Tôi muốn biết viêc đó xảy ra như thế nào!”

      “Robert”, Sienna dịu dàng xen vào, cố trấn an . “Bác sĩ Ferris đúng. Hoàn toàn tốt cho khi thông tin dồn dập đến cùng lúc. Hãy nghĩ đến những tình tiết nhớ được - người phụ nữ tóc bạc, ‘tìm và thấy’, những cái xác quằn quại trong bức Vực địa ngục - các hình ảnh đan xen trong tâm trí thành chuỗi hồi tưởng lộn xộn thể kiểm soát nổi khiến gần như mất hết năng lực. Nếu bác sĩ Ferris kể lại mấy ngày qua, gần như chắc chắn ông ấy khơi gợi được những ký ức khác, và các ảo giác của có thể bắt đầu trở lại. Chứng mất trí nhớ cũ là trạng thái đáng sợ. Kích thích những ký ức nhầm chỗ có thể cực kỳ nguy hiểm cho tâm thần.”

      Ý nghĩ đó hề có trong Langdon.

      “Chắc chắn cảm thấy mất phương hướng”, Ferris thêm, ”nhưng lúc này cần giữ tâm lý ổn định để tiếp tục hành động. Việc đoán ra được thông điệp của mặt nạ này là điều rất quan trọng.”

      Sienna gật đầu.

      Langdon thầm nhận ra các bác sĩ có vẻ đều thống nhất ý kiến.

      Langdon ngồi im lặng, cố gắng chế ngự những cảm giác bất an của mình. Gặp người hoàn toàn xa lạ và nhận ra thực tế bạn biết người đó vài ngày rồi là cảm giác rất lạ. Lại nữa, Langdon nghĩ, có gì đó hơi quen quen trong ánh mắt của ta.

      “Giáo sư”, Ferris đầy cảm thông. “Tôi có thể thấy tin tưởng tôi, và điều này hoàn toàn dễ hiểu nếu xét đến tất cả những gì trải qua. trong những hiệu ứng phụ phổ biến của chứng mất trí nhớ là đa nghi và ngờ vực.”

      Có lý đấy, Langdon nghĩ, bởi lẽ tôi thậm chí còn thể tin vào trí não của mình.

      đến đa nghi”, Sienna đùa, ràng cố gắng làm dịu khí, “ Robert ràng nhìn thấy tình trạng phát ban của và nghĩ bị nhiễm dịch hạch.”

      Đôi mắt sưng mọng của Ferris mở to, và ông ta cười phá lên. “Chỗ phát ban này á? Tin tôi , giáo sư, nếu tôi bị dịch hạch, tôi điều trị bằng khán histamine bày bán tự do đâu.” Ông ta móc tuýp thuốc trong túi và đưa cho Langdon. Quả nhiên, đó là tuýp kem chống ngứa
      chuyên trị các phản ứng dị ứng còn nửa.

      “Tôi xin lỗi về chuyện đó”, Langdon , cảm thấy mình ngớ ngẩn. “Ngày dài quá mà.”

      sao cả”, Ferris .

      Langdon xoay người về phía cửa sổ, nhìn những gam màu trầm của vùng thôn quê nước Ý kết hợp trong bức tranh thanh bình. Những vườn nho và trang trại giờ trở nên thưa thớt hơn khi bình nguyên nhường chỗ cho những quả đồi thấp vùng Apennines. Chỉ lát sau, đoàn tàu chạy vào con đèo ngoằn nghèo và sau dó lại xuống thấp, tiến về phía đông, tới biển Adriatic.

      Mình tới Venice, thầm nhủ. Để tìm kiếm đại dịch.

      Cái ngày lạ lùng hôm nay khiến Langdon cảm giác như thể mình di chuyển qua khung cảnh chẳng có gì khác ngoài những hình thù mơ hồ có chi tiết cụ thể. Như giấc mơ. Mỉa mai thay, những cơn ác mộng lại thường khiến người ta tỉnh giấc, nhưng Langdon cảm thấy như thể mình vừa choàng tỉnh trong cơn ác mộng.

      nghĩ gì vậy?”, Sienna thầm bên cạnh .

      Langdon ngước lên, mỉm cười mỏi mệt. “ nghĩ tỉnh giấc ở nhà và nhận ra tất cả chuyện này chỉ là cơn ác mộng.”

      Sienna nghiêng đầu, vẻ bẽn lẽn. “ nhớ em nếu tỉnh dậy và thấy rằng em hề có à?”

      Langdon đành cười. “Có chứ, nhớ em chút chút.”

      đập lên đùi . “Đừng có nằm mơ giữa ban ngày nữa , giáo sư, và làm việc nào.”

      Langdon miễn cưỡng đưa mắt trở lại khuôn mặt nhăn nhúm của Dante Alighieri chiếc bàn trước mặt trân trân nhìn mông lung lên trần. nhàng nhấc chiếc mặt nạ thạch cao lên và lật ngược nó tay mình, chăm chú nhìn phần mặt sau lõm, ngay dòng đầu tiên của thông điệp xoáy trôn ốc.

      Ôi, các người bị ám ảnh bởi tri thức vững vàng…

      Langdon e rằng lúc này mình thể hiểu nổi.

      Thế nhưng vẫn bắt tay vào việc.



      ***

       

      Hai trăm dặm phía trước đoàn tàu lao vùn vụt, con tàu The Mendacium vẫn buông neo biển Adriatic. Ở boong dưới, điều phối viên Laurence Knowlton nghe thấy những tiếng gõ khe khẽ lên buồng kính của mình và thò tay bấm cái nút bên dưới bàn làm việc, biến vách tường mờ đục thành trong suốt. Bên ngoài, dáng người thấp , rám nắng ra.

      Thị trưởng.

      Trông ông ta rất cau có.

      lời, ông ta bước vào, khóa trái cửa buồng, và bật công tắc để biến buồng kính thành mờ đục như cũ. Người ông ta nồng nặc mùi rượu.

      “Đoạn video Zobrist để lại cho chúng ta”, Thị trưởng lên tiếng.

      “Vâng, thưa ngài?”

      “Tôi muốn xem. Ngay bây giờ.”

                 
      CHƯƠNG 63
       

       

      Lúc này Robert Langdon vừa hoàn thành việc ghi lại đoạn thông điệp xoáy trôn ốc từ chiếc mặt nạ người chết ra giấy để có thể phân tích nó kỹ hơn. Sienna và bác sĩ Ferris tụm lại hỗ trợ, và Langdon phải cố hết sức để chú ý đến việc Ferris cứ liên tục gãi và thở dốc.

      ta sao, Langdon nhủ thầm, cố tập trung vào những tập thơ trước mặt mình.

      “Ôi, các người bị ám ảnh về những tri thức vững vàng,

      hãy làm theo lời dạy giấu ở đây…

      bên dưới lớp màn thơ phú khó hiểu.”

      “Chà”, Langdon , “tôi chắc về những con ngựa đầu và xương của kẻ mù lòa, nhưng nghe như thể chúng ta cần phải tìm vị tổng trấn cụ thể.”

      “Em cho rằng…ngôi mộ của tổng trấn chăng?”, Sienna hỏi.

      “Hay bức tượng hoặc chân dung?”, Langdon đáp lại. “ nhiều thế kỷ còn các tổng trấn.”

      Tổng trấn của Venice cũng tương đương với công tước của các thành bang nước Ý khác, và hơn trăm vị từng cai trị Venice trong suốt cả nghìn năm, bắt đầu từ năm 697 sau Công nguyên. Dòng dõi của họ kết thúc cuối thế kỷ XVIII với cuộc chinh phạt của Napoleon, nhưng vinh quang và quyền lực của họ vẫn là chủ đề mà nhiều sử gia vô cùng say mê.

      “Như hai người có thể biết”, Langdon , “hai điểm du lịch phổ biến nhất ở Venice - Dinh Tổng trấn và Thánh đường St. Mark - đều được các tổng trấn xây dựng cho chính mình. Nhiều người trong số họ được an táng ngay trong đó.

      “Và có biết”, Sienna hỏi, mắt nhìn bài thơ, “liệu có vị tổng trấn nào được coi là đặc biệt nguy hiểm ?”.

      Langdon cúi nhìn dòng thơ được nghiên cứu. Hãy tìm gã tổng trấn bội bạc của Venice. biết ai cả, nhưng bài thơ dùng từ ‘nguy hiểm’, mà dùng từ ‘bội bạc’. Có khác biệt, ít nhất trong thế giới của Dante. Bội bạc là trong Bảy trọng tội - thực tế là tội nặng nhất - bị trừng phạt ở tầng địa ngục thứ Chín và cũng là cuối cùng.”

      Bội bạc, theo định nghĩa của Dante, là hành vi phản bội người thương. Ví dụ khét tiếng nhất trong lịch sử về tội này chính là Judas phản bộ Jesus đáng kính, hành động Dante khinh bỉ tới mức tống Judas xuống khu vực trong cùng của hỏa ngục - khu vực được đặt tên Judecca, theo tên của gã cư dân nhục nhã nhất.

      “Hiểu rồi”, Ferris , “như vậy chúng ta tìm vị tổng trấn phạm tội bội bạc.”

      Sienna gật đầu tán thành. “Điều đó giúp chúng ta hạn chế được danh sách khả năng”, ngừng lại, mắt nhìn văn bản. “Nhưng dòng tiếp theo này… vị tổng trấn ‘cắt rời những đầu ngựa’ à?” ngước mắt nhìn Langdon. “Có vị tổng trấn nào cắt đầu ngựa ?”

      Hình ảnh nhắc đến khiến Langdon nhớ tới cảnh tượng khủng khiếp trong chuyện Bố già. “Thôi đừng nhắc đến nữa. Nhưng theo câu này, ông ta còn ‘moi xương cả người mù lòa’ nữa.” đưa mắt nhìn Ferris. “Điện thoại của có Internet ?”

      Ferris nhanh nhẹn lấy điện thoại và chìa ra những ngón tay phát ban sưng múp. “Các phím có thể hơi khó bấm với tôi.”

      “Để tôi”, Sienna , nhận lấy điện thoại của ông ta. “Tôi tìm kiếm các vị tổng trần Venice, liên quan đến những con ngựa mất đầu và xương của người mù lòa.” bắt đầu bấm rất nhanh bàn phím xíu.

      Langdon đọc bài thơ lần nữa, và sau đó tiếp tục đọc to.

      “Hãy quỳ gối bên trong bảo quán mạ vàng của tri thức thánh thiêng,

      và áp tai xuống mặt đất,

      lắng nghe tiếng nước giọt.”

      “Tôi chưa bào giờ nghe đến bảo quán”, Ferris .

      “Đó là từ cổ mang nghĩa ‘đền thờ được các nàng thơ bảo vệ’”, Langdon đáp. “Thời kỳ của người Hy Lạp cổ, bảo quán là nơi những người được khai sáng tụ họp để chia sẻ các ý tưởng và thảo luận về văn chương, nhạc và nghệ thuật. Bảo quán đầu tiên Ptolemy xây dựng tại Thư viện Alexandria nhiều thế kỷ trước Công nguyên, và sau đó hàng trăm bảo quán mọc lên khắp thế giới.”

      “Bác sĩ Brooks”, Ferris , nhìn về phía Sienna đầy hy vọng.

      có thể tra xem có bảo quán nào ở Venice ?”

      “Thực tế có hàng trăm nơi”, Langdon kèm theo nụ cười khôi hài. ”Giờ đây chúng được gọi là bảo tàng.”

      “Á à…”, Ferris đáp. “Tôi đoán chúng ta phải quét qua mạng lưới rộng hơn đấy.”

      Sienna vẫn bấm vào điện thoại, hề cảm thấy phiền phức vì có quá nhiều nhiệm vụ mà rất bình tĩnh xem danh sách liệt kê. “Được rồi, vậy là chúng ta tìm bảo tàng nơi có thể lần ra vị tổng trấn chặt đầu ngựa và moi xương người mù lòa. Robert, có bảo tàng đặc biệt nào có thể là nơi đáng tới xem ?”

      Langdon nghĩ đến tất cả các bảo tàng nổi tiếng nhất của Venice -Gallerie dell’ Academia, Ca’ Rezzonico, Cung điện Grassi, Bộ sưu tập Peggy Guggenheim, Bảo tàng Correr - nhưng có nơi nào phù hợp với mô tả cả.

      nhìn lại văn bản.

      Hãy quỳ gối bên trong bảo quán mạ vàng của tri thức thánh thiêng…

      Langdon nhăn nhó mỉm cười. “Venice bảo tàng nào phù hợp hoàn toàn với khái niệm ‘bảo quán mạ vàng của tri thức thánh thiêng’ cả.”

      Cả Ferris và Sienna đều nhìn đầy trông đợi.

      “Thánh đường St. Mark”, tuyên bố. “Nhà thờ lớn nhất tại Venice.”

      Ferris có vẻ chắc chắn lắm. “Nhà thớ đó là bảo tàng à?”

      Langdon gật đầu. “Giống như Bảo tàng Vatican. Và thêm nữa, nội thất của St. Mark nổi tiếng vì được trang trí toàn bộ bằng gạch ốp làm từ vàng đặc.”

      bảo quán mạ vàng”, Sienna , nghe phấn khích thấy .

      Langdon gật đầu, tin chắc rằng St. Mark chính là đền thờ mạ vàng được nhắc đến trong bài thơ. Trong nhiều thế kỷ, người dân Venice gọi St. Mark là Nhà thờ Vàng, và Langdon xem nội thất của nơi này là tráng lệ nhất so với bất kỳ nhà thờ nào thế giới.

      “Bài thơ ‘quỳ’ ở đó”, Ferris , “Và nhà thờ chính là nơi rất hợp lý để quỳ.”

      Sienna lại bấm nhoay nhoáy. “Tôi thêm St. Mark vào lệnh tìn kiếm. Đó nhất định là nơi chúng ta định tìm kiếm vị tổng trấn.”

      Langdon biết họ tìm ra thiếu các vị tổng trấn tại St. Mark - nơi, theo đúng nghĩa đen, chính là thánh đường của các tổng trấn. cảm thấy thêm phấn chấn khi đưa mắt trở lại bài thơ.

      “Hãy quỳ gối bên trong bảo quán mạ vàng của tri thức thánh thiêng,

      và áp tai xuống mặt đất,

      lắng nghe tiếng nước giọt.”

      Tiếng nước giọt à? Langdon thắc mắc. Có nước bên dưới St. Mark nhỉ? nhận ra câu hỏi này ngớ ngẩn. Toàn bộ thành phố này có nước bên dưới. Mọi tòa nhà của Venice đều chìm dần và thấm nước. Langdon hình dung ra tòa thánh đường và cố gắng nghĩ xem chỗ nào bên trong có thể quỳ để nghe được tiếng nước giọt. khi nghe thấy nó…chúng ta cần làm gì chứ?

      Langdon nhìn lại bài thơ và đọc nốt to.

      “Hãy lần sâu vào tòa cung điện bị chìm…

      vì ở đây, trong bóng tối, con quái vật của địa phủ chờ đợi,

      lặn ngụp trong thứ nước đỏ như máu…

      của cái đầm hề phản chiếu ánh sao.”

      “Được rồi”, Langdon , cảm thấy lo âu trước hình ảnh ấy, “ ràng, chúng ta lần theo tiếng nước giọt…tới cung điện bị chìm nào đó.”

      Ferris gãi mặt, trông rất lo lắng. “Con quái vật chốn địa phủ là sao?”

      “Ở bên dưới mặt đất”, Sienna , các ngón tay vẫn thao tác điện thoại. “’Địa phủ’ có nghĩa là ‘bên dưới mặt đất’.”

      “Phần nào đó đúng”, Langdon , “Mặc dù từ này có hàm nghĩa lịch sử khác - thường gắn với truyền thuyết và quái vật. Địa phủ hạng mục gồm các vị thần và quái vật trong thần thoại - Erinyes Hecate và Medusa chẳng hạn. Chúng được gọi là địa phủ bởi vì chúng sống bên dưới lòng đất và gắn với địa ngục”, Langdon ngừng lại. “Xa xưa chúng trồi lên từ lòng đất và xuất mặt đất để trả thù thế giới loài người.”

      Im lặng kéo dài, và Langdon cảm thấy tất cả bọn họ đều nghĩ đến cùng thứ. Con quái vật địa phủ này…chỉ có thể là đại dịch của Zobrist.

      “…vì ở đây, trong bóng tối, con quái vật chốn địa phủ chờ đợi,

      lặn ngụp trong thứ nước đỏ như máu…

      của cái đầm hề phản chiếu ánh sao.”

      “Nhân tiện”, Langdon , cố gắng tập trung vào vấn đề, “ ràng chúng ta tìm kiếm địa điểm dưới lòng đất, nơi ít nhất cũng giải thích cho dòng thơ cuối cùng đến ‘cái đầm hề phản chiếu ánh sao’.”

      “Hay lắm”, Sienna , giờ rời mắt khỏi chiếc điện thoại của Ferris. “Nếu cái đầm ở dưới lòng đất thể phản chiếu bầu trời. Nhưng Venice này có các đầm nước ngầm dưới lòng đất nhỉ?”

      biết cái nào cả”, Langdon đáp lời. “Nhưng thành phố được xây dựng nước có lẽ có vô số khả năng.”

      “Nếu đầm nước trong nhà sao?”, Sienna bất ngờ hỏi, mắt nhìn cả hai. “Bài thơ đến ‘bóng tối’ của ‘cung điện bị chìm’. Lúc trước rằng Dinh Tổng trấn được nối thông với thánh đường, phải nào? Điều đó có nghĩa là các công trình ấy có rất nhiều điểm mà bài thơ nhắc đến - bảo quán của tri thức thánh thiêng, cung điện, liên quan đến các vị tổng trấn - và tất cả đều tọa lạc ngay tại đây đầm nước lớn của Venice, ở mực nước biển.”

      Langdon suy nghĩ phân tích này. “Em nghĩ ‘cung điện bị chìm’ trong bài thơ chính là Dinh Tổng trấn à?”

      “Tại sao lại chứ? Bài thơ bảo chúng ta trước hết quỳ ở Thánh đường St. Mark, sau đó theo tiếng nước giọt. Có lẽ tiếng nước dẫn tới cánh cửa tiếp theo đến Dinh Tổng trấn. Nó có thể có phần nền chìm dưới lòng đất hay gì đó.”

      Langdon tới tham quan Dinh Tổng trấn nhiều lần và biết rằng nó rất rộng. Là quần thể nhiều tòa nhà, cung điện này chứa cả bảo tàng quy mô lớn, mê cung thực gồm nhiều gian phòng, buồng, và sân, và cả mạng lưới nhà tù rộng đến mức phải bố trí trong nhiều tòa nhà.

      “Có thể em đúng”, Langdon , “nhưng mò mẫm tìm kiếm cung điện như thế mất vài ngày. gợi ý chúng ta làm đúng như bài thơ bảo. Trước tiên, chúng ta tới Thánh đường St. Mark và tìm mộ hoặc tượng của vị tổng trấn bội bạc, sau đó chúng ta quỳ xuống.”

      “Còn sau đó?”, Sienna hỏi.

      “Còn sau đó”, Langdon thở dài , “chúng ta cầu nguyện để nghe được tiếng nước giọt…và dẫn chúng ta tới đâu đó.”

      Trong khoảnh khắc im lặng tiếp theo, Langdon hình dung ra bộ mặt đầy lo âu của Elizabeth Sanskey như nhìn thấy trong ảo giác, kêu gọi từ bên kia dòng nước. Thời gian rất gấp. Hãy tìm và thấy! tự hỏi giờ Sinskey ở đâu…và liệu bà ấy có ổn . Những tên lính mặc đồ đen ràng lúc này nhận ra rằng Langdon và Sienna trốn thoát. Còn bao lâu nữa cho tới khi chúng đuổi theo sau bọn mình?

      Khi đưa mắt nhìn lại bài thơ, Langdon cố chống lại trạng thái kiệt sức. nhìn dòng thơ cuối cùng, và ý nghĩ khác vụt đến với . tự hỏi có nên nêu ra . Cái đầm hề phản chiếu ánh sao. Có lẽ thích hợp với cuộc tìm kiếm của họ, nhưng quyết định vẫn ra. “Tôi cần đến điểm khác.”

      Sienna ngước mắt khỏi điện thoại di động.

      “Ba phần bộ Thần khúc của Dante”, Langdon . “Hỏa ngục, Luyện ngục và Thiên đường. Tất cả đều kết thúc với cùng từ.”

      Sienna tỏ ra ngạc nhiên.

      “Đó là từ gì vậy?”, Ferris hỏi.

      Langdon chỉ xuống cuối văn bản mà viết lại. “Cũng chính là từ kết thúc bài thơ này, ‘sao’”. nhấc chiếc mặt nạ người chết của Dante lên và chỉ vào chính giữa xoáy trôn ốc.

      Cái đầm hề phản chiếu ánh sao.

      “Thêm nữa”, Langdon tiếp tục, “trong đoạn kết của Hỏa ngục, chúng ta thấy Dante nghe tiếng nước giọt bên trong vực thẳm và theo thanh đó qua lối mờ…dẫn ông ra khỏi địa ngục.”

      Ferris hơi tái mặt. “Lạy Chúa.”

      Vừa lúc đó, luồng khí ong tai ùa vào khoang tàu khi đoàn tàu Frecciargento lao mình vào đường hầm xuyên núi.

      Trong bóng tối, Langdon nhắm mắt lại và cố để cho tâm trí mình thư giãn. Zobrist có lẽ là gã cuồng, nghĩ bụng, nhưng chắc chắn hiểu rất về Dante.



                 
      CHƯƠNG 64
       

       

       

      Laurence Knowlton cảm thấy cả người.

      Thị trưởng thay đổi suy nghĩ về việc xem đọan video của Zobrist.

      Knowlton thọc tay vào túi lấy chiếc thẻ nhớ đỏ thẫm rồi cắm vào máy tính của mình để cho ông chủ xem. Sức nặng từ thông đệp quái đản dài chín phút của Zobrist vẫn ám ảnh Knowlton, và ta rất nôn nóng muốn có thêm người khác cùng xem thứ đó.

      Việc này còn là trách nhiệm của mình nữa.

      Knowlton nín thở khi bắt đầu cho chạy đoạn video.

      Màn hình tối sầm, và tiếng nước vỗ nhè tràn ngập trong gian phòng. Máy quay di chuyển qua màn sương đỏ cùa cái hang ngầm, và mặc dù Thị trưởng lộ ra phản ứng rệt nào, Knowlton vẫn cảm thấy ông ta hoảng hốt và sững sờ.

      Máy quay tạm ngừng di chuyển về phía trước, xoay xuống mặt đầm, rồi lao thẳng xuống nước, chìm sâu vài mét cho tới khi ra tấm biển titan nhẵn bóng bắt vít chặt xuống nền.

      TẠI NƠI NÀY, VÀO NGÀY NÀY,

      THẾ GIỚ THAY ĐỔI MÃI MÃI.
       

       

      Thị trưởng hơi nao núng, “Ngày mai”, ông ta thào, mắt nhìn ngày giờ đoạn video. “Và chúng ta có biết ‘nơi này’ là chỗ nào ?”

      Knowlton lắc đầu.

      Giờ máy quay lia sang trái, để lộ ra cái túi nhựa chứa thứ chất lỏng sền sệt màu vàng nâu.

      “Trời đất quỷ thần ơi?!” Thị trưởng kéo chiếc ghế lại và ngồi xuống, mắt đăm đăm nhìn cái bong bóng lập lờ, giống như quả bóng bay được cột lại dưới nước.

      Cả gian phòng chìm trong bầu khí im lặng ngột ngạt khi đoạn video tiếp tục chạy. lát sau, màn hình tối om, và sau đó bóng đen mũi hình mỏ chim quái lạ xuất vách hang và bắt đầu bằng thứ ngôn ngữ bí .

      “Ta là Vong linh.

      Nếu ngươi xem đoạn phim này, tức là cuối cùng linh hồn ta yên nghỉ.

      Bị xua đuổi xuống dưới mặt đất, ta đành phải chuyện với thế giới từ sâu thẳm trong lòng đất, lần đến lòng hang tăm tối này, nơi thứ nước đỏ như máu tích tụ trong cái đầm ánh sao phản chiếu.

      Nhưng đây là thiên đường của ta…nơi nuôi dưỡng hoàn hảo đứa con yếu ớt của ta.

      Hỏa ngục.”

      Thị trưởng ngước lên. “Hỏa ngục à?”

      Knowlton nhún vai. “Như tôi , rất đáng ngại.”

      Trị trưởng đưa mắt nhìn lại màn hình, chăm chú theo dõi.

      Cái bóng đen mũi hình mỏ chim tiếp tục vài phút liền, diễn giải về đại dịch, về nhu cầu sáng lọc dân số, về vai trò vẻ vang của chính trong tương lai, về cuộc chiến của chống lại những kẻ ngu dốt tìm cách ngăn cản , và về vài đối tượng trung thành nhận ra rằng hành động quyết liệt là cách duy nhất để cứu lấy cả hành tinh.

      Cho dù cuộc chiến tranh có về cái gì cả buổi sáng nay Knowlton vẫn tự hỏi liệu Consortium có chiến đấu nhầm phe.

      Giọng tiếp tục.

      “Ta tạo ra kiệt tác cứu rỗi, nhưng những nỗ lực của ta được tưởng thưởng bằng các hồi kèn chào mừng và vòng hoa chiến thắng…mà bằng những lời đe dọa của thần chết.

      Ta đâu có sợ chết…vì cái chết biến những người nhìn xa trông rộng thành tử vì đạo…biến những ý tưởng cao quý thành hành động mạnh mẽ.

      Jesus, Socrates, Martin Luther King.

      ngày xa ta gia nhập với họ.

      Kiệt tác ta tạo ra chính là tác phẩm của Chúa trời… món quà từ Đấng tối cao, người ban cho ta trí tuệ, công cụ và lòng can đảm cần có để thực sáng tạo như vậy.

      Giờ đây, cái ngày đó đến gần.

      Hỏa ngục ngủ yên dưới chân ta, chuẩn bị phun trào…dưới con mắt giám sát của con quái vật địa phủ và tất cả cơn Cuồng nộ của nó.

      Mặc dù kỳ công của ta cao quý, nhưng cũng như các người, ta phải là kẻ xa lạ với Tội lỗi. Thậm chí ta còn phạm phải tội lỗi xấu xa nhất trong Bảy Trọng tội - cám dỗ độc nơi rất ít kẻ có thể tránh khỏi.

      Thói kiêu hãnh.

      Bằng cách ghi lại thông điệp này, ta gục ngã trước cám dỗ ghê gớm của lòng Kiêu hãnh…vì háo hức bảo đảm rằng thế giới biết đến công trình của ta.

      Và tại sao lại chứ?

      Loài người cần biết nguồn gốc cứu rỗi của chính mình. Tên tuổi của người đóng chặt mãi mãi những cánh cổng hoang hoác của địa ngục!

      Cứ mỗi giờ qua , kết quả càng thêm chắc chắn. Những phép toán - vốn nghiêm khắc như quy luật hấp dẫn - là điều thể bàn cãi.Chính việc sống sinh sôi theo cấp số mũ từng suýt tiêu diệt loài người cứu nguy cho loài người. Vẻ đẹp của sinh vật sống - dù nó tốt hay xấu - là ở chỗ nó tuân theo quy luật của Chúa với tầm nhìn duy nhất.

      Hãy sinh sản thêm nhiều.

      Và thế là ta dĩ độc…trị độc.”

      “Đủ rồi”, Thị trưởng xen vào khẽ đến mức Knowlton gần như nghe thấy.

      “Thưa ngài?”

      “Dừng đoạn video lại.”

      Knowlton cho dừng lại. “Thưa ngài, đoạn kết thực tế là phần đáng sợ nhất.”

      “Tôi xem đủ rồi.” Thị trưởng trông mệt mỏi. Ông ta rảo bước trong gian buồng lúc và sau đó đột ngột quay lại. “Chúng ta cần liên hệ với FS-2080.”

      Knowlton ngẫm nghĩ về động thái này.

      FS-2080 là bí số của trong những đầu mối liên hệ đáng tin cậy của Thị trưởng - cũng chính đầu mối liên hệ này giới thiệu Zobrist làm khách hàng của Consortium. ràng vào lúc này Thị trưởng trách chính mình vì tin đánh giá của FS-2080 , xuất của Bertrand Zobrist làm cho thế giới quy củ của Consortium hỗn loạn.

      FS-2080 là lý do của vụ khủng hoảng này.

      Chuỗi tai ương vây quanh Zobrist dường như chỉ càng tệ hơn, chỉ với Consortium, mà có lẽ cả thế giới.

      “Chúng ta cần phát ra ý định của Zobrist”, Thị trưởng tuyên bố. “Tôi muốn biết đích xác ông ta tạo ra cái gì, và liệu đây có phải là hiểm họa .”

      Knowlton biết rằng nếu có ai biết câu trả lời cho những câu hỏi này đó là FS-2080. Còn ai biết Bertrand Zobrist hơn nữa. Đến lúc Consortium phải phá bỏ quy trình và đánh giá xem tổ chức vô tình hậu thuẫn cho mưu điên rồi gì trong năm qua.

      Knowlton ngẫm nghĩ những khả năng có thể khi đối diện trực tiếp với FS-2080. Chỉ riêng việc bắt liên lạc kéo theo những rủi ro nhất định.

      “Thưa ngài”, Knowlton , “ ràng nếu ngài tiếp cận với FS-2080, ngài cần phải làm việc đó rất tế nhị.”

      Mắt Thị trưởng lóe lên giận dữ lúc ông ta rút điện thoại di động ra. “Chúng ta bước qua tế nhị từ lâu rồi.”



      ***



      Ngồi cùng với hai bạn đồng hành trong khoang riêng của đoàn tàu Freccirgento, người đàn ông đeo cà vạt hoa và cặp kính Plume Paris phải cố hết sức gãi những chỗ mẫn ngứa càng lúc càng tệ. Cơn đau ở ngực của ông ta dường như cũng tăng lên.

      Cuối cùng, khi đoàn tàu chui ra khỏi đường hầm, người đàn ông nhìn Langdon, lúc này từ từ mở mắt, ràng vừa thoát ra khỏi những ý nghĩ xa xăm. Bên cạnh , Sienna lại bắt đầu cúi xuống điện thoại di động của ông ta, nhưng lúc đoàn tàu lào qua hầm đành phải bỏ xuống vì có tín hiệu.

      Sienna có vẻ nôn nóng tiếp tục tìm kiếm Internet, nhưng chưa kịp cầm lấy điện thoại nó đột ngột rung lên, phát ra cả chuỗi những tiếng píp giật cục.

      Nghe thấy chuông, người đàn ông bị dị ứng lập tức vớ lấy điện thoại và nhìn màn hình, cố giấu vẻ ngạc nhiên.

      “Xin lỗi”, ông tá và đứng lên. “Bà cụ ốm nhà tôi. Tôi phải nghe máy.”

      Sienna và Langdon gật đầu cảm thông khi người đàn ông xin phép và ra khỏi buồng, nhanh ra hành lang và đến phòng vệ sinh gần đó.

      Người đàn ông bị dị ứng khóa trái buồng vệ sinh khi nhận cuộc gọi. “Tôi nghe?”

      Giọng máy nghiêm nghị. “Thị trưởng đây.”







       

       





    5. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
                  Type : TMT
      CHƯƠNG 65
       

      Nhà vệ sinh tàu Freccirgento lớn hơn nhà vệ sinh chiếc máy bay thương mại, chỉ vừa đủ gian để xoay người. Người đàn ông bị phát ban kết thúc cuộc điện đàm với Thị trưởng và đút điện thoại vào túi.

      Tình hình thay đổi, ông ta nhận ra như vậy. Toàn bộ cảnh tượng đột nhiên đảo lộn, và ông ta cần lúc để trấn tỉnh.

      Bạn bè của ta giờ trở thành kẻ thù của ta mất rồi.

      Người đàn ông nới chiếc cà vạt hoa và nhìn sững vào gương mặt nổi mẩn của mình trong gương. Trông ông ta còn tệ hơn so với ông ta tưởng.Song, gương mặt ông ta đáng lo lắng bằng cơn đau trong ngực.

      Hơi do dự, ông ta mở vài khuy áo và phanh tay áo sơ mi ra.

      Ông ta gượng nhìn vào gương và xem kỹ bộ ngực trần của mình.

      Chúa ơi.

      Vết đen loang rộng.

      Phần da ở chính giữa ngực là mảng màu tím đen. Đêm qua chỗ này chỉ bằng quả bóng golf, nhưng giờ đây nó to bằng quả cam. Ông ta chạm khẽ vào phần thịt mềm và cau mày.

      Ông ta vội vã cài lại khuy áo sơ mi, hy vọng mình có đủ sức để thực những gì cần làm.

      tiếng đồng hồ tới vô cùng quan trọng, ông ta nghĩ bụng. loạt nhiệm vụ vô cùng tinh vi.

      Ống ta nhắm mắt và gắng lấy lại tinh thần, nhẩm lại những việc cần phải diễn ra. Bạn bè của ta giờ trở thành kẻ thù của ta mất rồi, ông ta lại nghĩ thầm.

      Ông ta hít vài hơi sâu, đau nhói, hy vọng việc đó giúp trấn tĩnh tinh thần. Ông ta biết mình cần bình tĩnh nếu định giữ kín những ý định của mình.

      bình tĩnh trong lòng rất quan trọng để có những hành động thuyết phục.

      Người đàn ông xa lạ gì chuyện dối trá, nhưng lúc này tim ông ta vẫn đập thình thịch. Ông ta hít hơi sâu nữa, đau nhói. Mày lừa dối mọi người suốt nhiều năm, ông ta tự nhủ. Đó chính là công việc mày đảm nhận.

      Sau khi định thần lại, ông ta chuẩn bị quay trở về chỗ Langdon và Sienna.

      Màn trình diễn cuối cùng của ta, ông ta nghĩ.

      Như hành động thận trọng cuối cùng, trước khi ra khỏi nhà vệ sinh, ông ta tháo pin điện thoại di động, để đảm bảo rằng chiếc điện thoại lúc này còn hoạt động được nữa.



      ***



      Trông ông ta tái nhợt, Sienna nghĩ khi người đàn ông bị dị ứng trở lại buồng và ngồi xuống ghế kèm tiếng thở dài đau khổ.

      “Mọi việc ổn chứ?”, Sienna hỏi, vẻ quan tâm thấy .

      Ông ta gật đầu, “Vâng, cảm ơn. Mọi thứ vẫn ổn.”

      ràng lĩnh hội được tất cả thông tin người đàn ông định chia sẻ, Sienna chuyển sang chuyện khác. “Tôi lại cần điện thoại của ”, . “Nếu phiền, tôi muốn tiếp tục tìm kiếm thêm thông tin về tổng trấn. Có lẽ chúng ta có thề có câu trả lời trước khi tới thăm St. Mark.”

      sao”, ông ta móc chiếc điện thoại từ trong túi và kiểm tra lại màn hình. ”Ôi chán . Pin của tôi tắt sau cuộc gọi vừa rồi. Có vẻ như giờ nó tắt hẳn rồi.” Ông ta liếc nhìn đồng hồ đeo tay. “Chỉ lát nữa chúng ta vào Venice. Chúng ta chỉ việc đợi thôi.”



      ***



      Năm dặm ngoài khơi nước Ý, boong tàu The Mendacium, điều phối viên Knowlton

      im lặng nhìn Thị trưởng vòng quanh gian buồng như con thú bị nhốt trong chuồng. Sau cuộc điện thoại, ràng Thị trưởng cố vận hành cỗ máy tư duy, và Knowlton biết tốt hơn là nên gây ồn ào trong lúc này.

      Cuối cùng, người đàn ông nước da sạm nắng lên tiếng, giọng ông ta nghiêm nghị đúng như Knowlton vẫn nhớ. “Chúng ta có lựa chọn nào khác. Chúng ta cần đưa đoạn video này cho tiến sĩ Elizabeth Sinskey.”

      Knowlton ngồi chết sững, muốn bộc lộ vẻ ngạc nhiên của mình. Con quỷ tóc bạc ư? Người chúng ta giúp Zobrist lẩn tránh suốt cả năm ư? “Vâng, thưa ngài. Tôi tìm cách gửi thư điện tử đoạn video này cho bà ta phải ?”

      “Chúa ơi, ! Khác gì mạo hiểm làm lộ đoạn video này cho công chúng chứ? là cả cơn cuồng loạn. Tôi muốn tiến sĩ Sinskey có mặt boong tàu ngay khi các đưa được bà ấy tới đây.”

      Knowlton trôn mắt nhìn mà sao tin nổi. Ông ấy muốn đưa giám đốc WHO lên tàu The Mendacium sao? “Thưa ngài, việc phá bỏ quy trình bí mật của chúng ta ràng có nguy cơ…”

      “Hãy làm , Knowlton! NGAY BÂY GIỜ!”



                 
      CHƯƠNG 66
       

       

      FS-2080 đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ con tàu Frecciargento lao vùn vụt, trông vào bóng của Robert Langdon phản chiếu trong lớp kính. Vị giáo sư vẫn suy nghĩ về những đáp án có thể trả lời câu đố về chiếc mặt nạ người chết mà Bertrand Zobrist tạo ra.

      Bertrand, FS-2080 nghĩ thầm. Lạy Chúa, mình nhớ ấy.

      Nỗi đau mất mát nhói lên. Cái đêm hai người gặp gỡ vẫn giống như giấc mơi kỳ lạ.

      Chicago. Trận bão tuyết.

      Tháng Giêng, sáu năm về trước…nhưng vẫn có cảm giác như mới hôm qua. Mình lê bước những đống tuyết trắng dọc Đại lộ Magnificent Mile hút gió, cổ áo dựng đứng lên trong cơn nhòa trắng* chói mắt. Dù lạnh, mình vẫn tự nhủ rằng chẳng có gì ngăn nổi mình tới đích đến. Tối nay là cơ hội mình được nghe Bertrand vĩ đại chuyện…riêng.

       

      *Nguyên văn: whiteout. Đây là tượng thời tiết thường xảy ra ở nơi tuyết rơi với mật độ dày. Khi đám mây lớn kéo qua bầu trời, ánh sáng bị khuếch tán khắp nơi làm cho khung cảnh xung quanh biến thành toàn màu trắng.

       

      Khi mình đến hội trường, gần như tê cóng vì gió lạnh, mình phát hoảng khi biết rằng gian phòng gần như trống trơn. Buổi chuyện bị hoãn chăng?! Thành phố gần như ngừng hoạt động do thời tiết…nên Zobrist đến được tối nay chăng?!

      Nhưng ấy vẫn đến đó.

      dáng người cao ráo, lịch lãm bước lên sân khấu.

      ấy…rất cao…với đôi mắt màu lục lanh lợi sâu thẳm như nắm toàn bộ bí mật của thế giới. ấy nhìn khắp hội trường vắng hoe - chỉ có khoảng chục người hâm mộ - và mình cảm thấy xấu hổ vì hội trường gần như trống trơn.

      Đây chính là Bertrand Zobrist!

      im lặng đáng sợ khi ấy đăm đăm nhìn mọi người, nét mặt rắn đanh.

      Sau đó, rất đột ngột, ấy phá lên cười, đôi mắt màu lục của ấy lóe sáng. “Vứt cha cái khán phòng trống trơn này thôi”, ấy . “Khách sạn của tôi ở ngay bên cạnh. Chúng ta tới quán rượu nào!”

      Mọi người reo hò, và nhóm cùng di chuyển sang quán rượu của khách sạn kế bên, nơi bọn mình quây quần trong quầy lớn và gọi đồ uống. Zobrist khiến bọn mình thích thú với những câu chuyện về nghiệp nghiên cứu của ấy, quá trình thành danh và những suy nghĩ của ấy về tương lai của ngành điều khiển gene. Rượu vào, chủ đề chuyển sang niềm say mê mới của Zobrist đối với triết lý Siêu nhân học*.

       

      *Nguyên văn: Transhumanism (viết tắt H+) là phong trào tri thức và văn hóa với mục tiêu cuối cùng là cơ bản cải biến con người bằng công nghệ để tăng cường các năng lực trí tuệ, thể chất và tâm lý.

       

      “Tôi tin rằng Siêu nhân học là hy vọng duy nhất cho tồn tại lâu dài của nhân loại”, Zobrist giảng giải, vạch áo sơ mi và cho tất cả nhìn thấy hình xăm “H+” bả vai. “Các bạn thấy đấy, tôi cam kết hoàn toàn.”

      Mình cảm thấy như thể mình được gặp gỡ riêng ngôi sao nhạc rock vậy. Mình chưa bao giờ hình dung đến việc “thiên tài di truyền học” được tôn vinh lại có sức lôi cuốn và hấp dẫn riêng đến vậy. Mỗi lần Zobrist liếc nhìn mình, đôi mắt xanh lục của ấy lại làm dấy lên trong mình cảm giác hoàn toàn khác lạ - ham muốn nhục dục sâu thẳm.

      Đêm trôi , cả nhóm thưa dần khi các vị khách lần lượt cáo lỗi rút lui. Đến nửa đêm, chỉ còn mỗi mình ngồi với Bertrand Zobrist.

      “Cảm ơn vì buổi tối nay”, mình với ấy, hơi ngà ngà vì quá chén. “ đúng là giáo viên tuyệt vời.”

      “Lại tâng bốc phải ?” Zobrist mỉm cười và ghé lại gần hơn, giờ chân bọn mình chạm nhau. “Điều đó đưa em tới mọi nơi đấy.”

      Chuyện tán tỉnh ràng thích hợp tí nào nhưng đó là đêm gió tuyết tại khách sạn vắng vẻ ở Chicago, và có cảm giác như thể cả thế giới ngừng lại.

      “Vậy em nghĩ gì nào?”, Zobrist . “Uống với vài ly tại phòng nhé?”

      Mình như đông cứng lại, biết chắc chắn trông mình giống như con hươu trước ánh đèn pha.

      Đôi mắt của Zobrist hấp háy ân cần. “Để đoán nhé”, ấy thào, “Em chưa bao giờ ở cùng với người đàn ông nổi tiếng.”

      Mình cảm thấy máu dồn lên mặt, cố gắng giấu những cảm xúc dâng trào - xấu hổ, phấn khích, sợ hãi. “Thực ra, rất ”, mình với ấy, “em chưa bao giờ ở cùng bất kì người đàn ông nào.”

      Zobrist mỉm cười và nhích lại sát hơn. “ biết chắc em chờ đợi điều gì, nhưng hãy để là người đầu tiên của em.”

      Khoảnh khắc ấy, mọi nỗi sợ hãi và thất vọng nhục dục quái lạ từ thời niên thiếu của mình biến mất, như bốc hơi vào màn đêm gió tuyết.

      Lần đầu tiên trong đời, mình cảm thấy nỗi khao khát được giải phóng khỏi tâm lý xấu hổ.

      Mình muốn ấy.

      Mười phút sau, bọn mình ở trong phòng khách sạn của Zobrist, trần truồng trong vòng tay nhau. Zobrist vội vàng, bàn tay kiên nhẫn của ấy mơn trớn những cảm xúc từ cơ thể ngây dại của mình mà mình chưa bao giờ cảm nhận được trước đó.

      Đây là lựa chọn của chính mình. ấy hề ép buộc mình.

      Trong vòng tay ôm ấp của Zobrist, mình cảm thấy như thể mọi thứ thế giới đều đâu vào đấy. Mình nằm dài ở đó, đăm đăm nhìn ra cửa sổ qua màn đêm gió tuyết, mình biết mình theo người đàn ông này tới bất kỳ đâu.

      Đoàn tàu Frecciargento đột ngột chậm lại. FS-2080 bừng tỉnh khỏi ký ức hạnh phúc và trở lại với tại buồn rầu.

      Bertrand… rồi.

      Đêm đầu tiên bên nhau của họ là bước khởi đầu của cuộc hành trình kỳ lạ.

      Mình còn hơn là người tình của ấy. Mình là tín đồ của ấy.

      “Cầu Liberta”, Langdon . “Chúng ta sắp đến nơi rồi.”

      FS-2080 gật đầu buồn bã, mắt nhìn ra vùng nước trong vịnh Veneta, nhớ lại từng có lần dong buồm ở đây cùng Bertrand. hình ảnh yên bình giờ đây tan biến thành ký ức hãi hùng cách đâu tuần.

      Mình có mặt ở đó khi ấy nhảy khỏi tháp Badia.

      Đôi mắt mình là đôi mắt cuối cùng ấy nhìn thấy.

                 
      CHƯƠNG 67
       

       

      Chiếc NetJets Citation Excel xóc nảy qua tầng khí nhiễu mạnh khi nó lao vút lên trời từ sân bay Tassignato và chao về phía Venice. máy bay, tiến sĩ Elizabeth Sinskey chú ý mấy đến chuyến khởi hành chẳng mấy êm ả trong lúc bà lơ đễnh mân mê cái bùa của mình và nhìn ra khoảng trống rỗng bên ngoài cửa sổ.

      Cuối cùng họ thôi tiêm thuốc cho bà, và đầu óc Sinskey tỉnh táo hơn. ghế bên cạnh bà, đặc vụ Brũder vẫm im lặng, có lẽ thắc mắc về thay đổi kỳ lạ của các kiện vừa mới diễn ra.

      Mọi thứ đều đảo ngược, Sinskey nghĩ bụng, vẫn phải cố gắng tin vào những gì bà vừa chứng kiến.

      Ba mươi phút trước, họ ào tới cái sân bay xíu để chặn đầu Langdon khi lên chiếc máy bay tư nhân mà thuê. Thay vì tìm thấy vị giáo sư này, họ chỉ thấy chiếc Ciation Excel rảnh rỗi cùng hai phi công của hãng NetJets rảo bước lối trải đá dăm và kiểm tra đồng hồ đeo tay.

      Chẳng thấy Robert Langdon đâu cả.

      Rồi có cuộc điện thoại gọi đến.

      Khi điện thoại réo, Sinskey vẫn ở vị trí bà ngồi cả ngày, băng ghế sau của chiếc xe thùng đen. Đặc vụ Brũder chui vào xe với vẻ ngơ ngác mặt khi trao điện thoại của mình cho bà.

      cuộc gọi khẩn cho bà, thưa bà.”

      “Ai vậy?”, bà hỏi.

      “Ông ấy đề nghị tôi chỉ với bà rằng ông ấy có thông tin khẩn cấp muốn cho bà biết về Bertrand Zobrist .”

      Sinskey vồ lấy điện thoại. “Tiến sĩ Elizabeth đây.”

      “Tiến sĩ Sinskey, bà và tôi chưa bao giờ gặp nhau, nhưng tổ chức của tôi chịu trách nhiệm về việc che dấu Bertrand Zobrist trước bà suốt năm qua.”

      Sinskey ngồi thẳng dậy. “Cho dù các ông là lũ quái nào các ông cũng che giấu kẻ tội phạm.”

      “Chúng tôi làm gì phạm pháp, nhưng điều đó …”

      lố bịch!”

      Người đàn ông ở đầu dây bên kia hít hơi dài, kiên nhẫn, rất mềm mỏng. “Bà và tôi có đủ thời gian để tranh luận về vấn đề đạo đức trong những hành động của tôi. Tôi biết bà biết tôi, nhưng tôi biết khá nhiều về bà. Ông Zobrist trả tôi hậu hĩnh để ngăn bà và những người khác lại gần ông ấy trong năm vừa qua. Giờ tôi phá bỏ quy trình nghiêm ngặt của chính mình bằng việc liên lạc với bà. Nhưng, tôi tin rằng chúng ta có lựa chọn nào khác ngoài việc hợp tác với nhau. Tôi e rằng Bertrand Zobrist có thể làm chuyện gì đó khủng khiếp.”

      Sinskey thể nào đoán nổi người đàn ông này là ai. “Ông mới phát điều này phải ?!”

      “Đúng như vậy. Vừa mới đây.” Giọng ông ta nghiêm chỉnh.

      Sinskey cố gắng gạt bỏ hết lớp mạng nhện. “Ông là ai!?”

      “Người muốn giúp bà trước khi quá muộn. Tôi có trong tay thông điệp video do Bertrand Zobrist tạo ra. Ông ta đề nghị tôi công bố cho thế giới vào…ngày mai. Tôi nghĩ bà cần xem nó ngay lập tức.”

      “Nó gì?”

      được qua điện thoại. Chúng ta cần gặp nhau.”

      “Sao tôi biết có thể tin tưởng ông?”

      “Bởi vì tôi sắp cho bà biết Robert Langdon ở đâu…và tại sao ta lại hành động lạ lùng như vậy.”
      Sinskey thấy chóng váng khi nhắc đến tên Langdon, và bà kinh ngạc nghe lời giải thích lạ lùng. Người đán ông dường như đồng lõa với kẻ thù của bà suốt năm qua, nhưng khi nghe thấy các tình tiết, lòng bà mách bảo bà cần tin những gì ông ta .

      Mình có lựa chọn nào khác ngoài việc đồng ý.

      hợp tác của họ dẫn tới việc trưng dụng chiếc NetJets Citation Excel ‘bị bỏ rơi’. Sinskey và những người lính giờ đuổi về phía Venice, nơi mà theo thông tin của người đàn ông này, Langdon và hai bạn đồng hành tới bằng tàu hỏa. quá trễ để gọi cho giới chức địa phương, nhưng người đàn điện thoại biết chỗ Langdon tới.

      Quảng trường St. Mark à? Sinskey cảm thấy cơn ớn lạnh khi bà hình dung ra đám đông ở khu vực sầm uất nhất của Venice. “Làm sao ông biết chỗ này?”

      điện thoại được”, người đàn ông . “Nhưng bà cần biết rằng Robert Langdon vô tình cùng với nhân vật rất nguy hiểm.”

      “kẻ nào?!”, Sinskey gặng hỏi.

      trong những kẻ tâm phúc thân cận nhất của Zobrist.” Người đàn ông thở dài não nề. “ kẻ tôi tin tưởng. ngu ngốc, ràng như vậy. Giờ đây tôi tin kẻ đó có thể là hiểm họa ghê gớm.”

      Khi chiếc máy bay tư nhân lao tới sân bay Marco Polo của Venice mang theo Sinskey và sáu người lính, suy nghĩ của Sinskey trở lại với Robert Langdon. Cậu ấy bị mất trí nhớ ư? Cậu ấy nhớ được gì sao? Tin lạ lùng này, mặc dù giải thích được vài việc, nhưng lại khiến Sinskey càng cảm thấy lo lắng hơn so với chuyện kéo vị học giả xuất chúng vào cuộc khủng hoảng này.

      Mình khiến cho cậu ấy chẳng còn lựa chọn nào cả.

      Gần hai ngày trước, khi Sinskey tuyển mộ Langdon, bà thậm chí còn để quay về nhà lấy hộ chiếu. Thay vào đó, bà thu xếp để thuận lợi qua sân bay Florence với tư cách liên lạc viên đặc biệt cho Tổ chức Y tế Thế giới.

      Khi chiếc C-130 lao ầm ầm lên và nhắm về phía đông, vượt Đại Tây Dương, Sinskey liếc nhìn Langdon ngồi bên cạnh và nhận thấy trông được ổn. nhìn chăm chú vào vách của phần thân máy bay hề có cửa sổ.

      “Giáo sư, nhận ra chiếc máy bay này có cửa sổ phải ? Cho tới gần đây, nó vẫn được sử dụng như phương tiện quân .”

      Langdon quay lại, mặt tái mét. “Vâng, tôi nhận ra điều đó ngay từ lúc bước chân lên khoang. Tôi được khỏe khi ở trong những gian kín mít.”

      “Cho nên vờ như nhìn ra cửa sổ tưởng tượng à?”

      mỉm cười bẽn lẽn. “Đại loại như vậy.”

      “Chà, hãy xem thứ này .” Bà rút ra bức ảnh chụp gã kẻ thù mắt xanh lục cao lêu khêu và để nó trước mặt . “Đây chính là Bertrand Zobrist.”

      Sinskey cho Langdon biết về cuộc đối đầu của bà với Zobrist tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại, niềm say mê của với Phương trình Khải huyền Dân số, những nhận xét được loan truyền rộng rãi của về những lới ích mang tính toàn cầu của Cái chết Đen, và đáng sợ nhất là biến mất hoàn toàn của trong năm vừa qua.

      “Làm thế nào nhân vật nổi bật nhường ấy lại nấp được lâu vậy?”, Langdon hỏi.

      “Ông ta có rất nhiều trợ giúp. trợ giúp chuyên nghiệp. Thậm chí có lẽ của chính phủ nước ngoài.”

      “Chính phủ nào lại chấp nhận việc tạo ra đại dịch chứ?”

      “Chính là những chính phủ tìm mọi cách có được các đầu đạn hạt nhân ở chợ đen.

      Đừng quên rằng đại dịch hiệu quả cũng chính là vũ khí sinh hóa tối thượng, và nó rất đáng tiền. Zobrist có thể dễ dàng dối các đối tác của mình và trấn an họ rằng sáng tạo của có phạm vi hạn chế. Zobrist là người duy nhất hiểu sáng tạo của thực có tác động như thế nào.”

      Langdon im lặng.

      “Trong bất kỳ trường hợp nào”, Sinskey , “nếu phải vì quyền lực hoặc tiền bạc những kẻ giúp Zobrist có thể vì chung hệ tư tưởng. Zobrist thiếu những môn đệ làm bất kỳ việc gì vì . nhân vật tiếng tăm. Thực tế, từng có bài phát biểu tại trường đại học của cách đây lâu.”

      “Ở Harvard sao?”

      Sinskey rút ra cây bút và viết lên mép tấm ảnh của Zobrist - chữ H kèm theo dấu cộng. “ rất quen với các biểu tượng”, bà . “ có nhận ra thứ này ?”

      H+

      “H cộng.” Langdon thào, gật đầu. “Chắc chắn rồi, cách đây mấy mùa hè, nó được trưng ở khắp trường. Tôi cứ đinh ninh đó là hội thảo hóa học nào đó.

      Sinskey bật cười. “, đó là những dấu hiệu của Hội nghị thượng đỉnh ‘Nhân văn cộng’ 2010 – trong những cuộc gặp gỡ lớn nhất về Siên nhân học. H cộng là biểu tượng của phong trào Siêu nhân học.”

      Langdon nghiêng đầu, như thể cố lĩnh hội thuật ngữ.

      “Siêu nhân học”, Sinskey , “là phong trào trí thức, dạng triết thuyết, và nó nhanh chóng bén rễ trong cộng đồng khoa học. Cơ bản nó rằng con người cần sử dụng công nghệ để vượt lên những nhược điểm cố hữu trong cơ thể mình. cách khác, bước tiếp theo trong quá trình tiến hóa của con người là chúng ta bắt đầu kiến tạo bản thân mình về mặt sinh học.”

      “Nghe đáng ngại quá”, Langdon .

      “Như tất cả mọi thay đổi, chỉ là vấn đề mức độ. Về mặt kỹ thuật, chúng ta kiến tạo bản thân nhiều năm - phát triển các loại vắc xin giúp trẻ em miễn dịch trước số nệnh tật nhất định…bại liệt, đậu mùa, thương hàn. khác biệt là ở chỗ giờ đây, với những đột phá của Zobrist trong lĩnh vực điều khiền di truyền chuỗi phôi, chúng ta học cách tạo ra những kiểu miễn dịch có thể thừa kế được, những thứ tác động đến người nhận ở cấp độ chuỗi phôi lõi - làm cho tất cả thế hệ kế tiếp miễn dịch trước bệnh đó.”

      Langdon trông thảng thốt. “Vậy loài người cơ bản trải qua bước tiến hóa làm cho mình miễn dịch với thương hàn chẳng hạn phải ?”

      “Đúng hơn là bước tiến hóa hỗ trợ”, Sinskey đính chính. “Bình thường, quá trình tiến hóa - cho dù đó là loài cá thở bằng phổi phát triển đôi chân hay loài vượn phát triển ngón cái biết rẽ - đều phải mất hàng nghìn năm. Giờ đây chúng ta có thể tạo ra những thích nghi di truyền triệt để chỉ trong thế hệ. Những người đề xướng công nghệ này coi nó là biểu cao nhất của ‘ tồn tại loài tương thích nhất’ theo thuyết Darwin - con người trở thành loài học được cách cải tiến quá trình tiến hóa của mình.”

      “Nghe giống như thay vai trò của Chúa vậy”, Langdon đáp.

      “Tôi hoàn toàn đồng ý”, Sinskey . “Tuy nhiên, Zobrist cũng như nhiều nhân vật Siêu nhân học khác, lớn tiếng cho rằng chính nghĩa vụ tiến hóa của loài người là có toàn quyền dụng tất cả sức mạnh của mình - chẳng hạn, đột biến di truyền chuỗi phôi - để cải thiện với tư cách giống loài. Vấn đề là cấu tạo di truyền của chúng ta giống như ngôi nhà dựng bằng những lá bài, mỗi lá gắn kết và được hỗ trợ bởi rất nhiều lá khác, thường theo những cách thức chúng ta hiểu được. Nếu chúng ta tìm cách loại bỏ chỉ đặc điểm của con người thôi, chúng ta có thể khiến cho hàng trăm đặc điểm khác thay đổi theo, có lẽ tạo ra những hậu quả tai hại.”

      Langdon gật đầu, “Cho nên tiến hóa mới là quá trình dần dần.”

      “Chính xác!”, Sinskey , cảm thấy mỗi khắc trôi qua bà càng thán phục vị giáo sư này. “Chúng ta chắp và quá trình phải mất rất lâu để tạo dựng. Đây là những quảng thời gian nguy nan. Giờ đây đúng là chúng ta có khả năng kích hoạt các chuỗi gene nhất định để làm cho con cháu chúng ta thêm khéo léo, có khả năng chịu đựng, sức mạnh, và thậm chí trí thông minh - cơ bản là chủng loài siêu hạng. Những cá nhân ‘được củng cố’ theo giả thuyết này được nhóm Siêu nhân học gọi là hậu nhân loại, số người trong bọn họ còn tin rằng đó là tương lai giống loài chúng ta.”

      “Nghe lạ tai như thuyết Ưu sinh vậy”, Langdon đáp lời.

      Câu đó khiến Sinskey sởn gai ốc.

      Vào những năm 1940, các nhà khoa học Quốc tế nghĩ ra công nghệ mà họ gọi bằng thuật ngữ “thuyết Ưu sinh” - cố gắng sử dụng phương pháp điều khiển gene sơ khai để tăng tỷ lệ sinh của những người có các đặc điểm di truyền “mong muốn” nhất định, trong khi giảm tỷ lệ sinh của những người có các đặc điểm sắc tộc ” mong muốn bằng”.

      Thanh lọc sắc tộc ở cấp độ di truyền.

      “Có những điểm tương đồng”, Sinskey thừa nhận, “và dù rất khó hình dung người ta tạo tác mộ chủng người mới như thế nào, có nhiều người thông minh tin rằng điều quan trọng với tồn vong là chúng ta phải bắt đầu quá trình đó. trong những cộng tác viên của tạp chí Siêu nhân học H+ mô tả phương pháp điều khiển di truyền chuỗi phôi như là ‘bước ràng kế tiếp’, và cho rằng nó ‘ đặc tiềm năng đích thực của giống loài chúng ta’.” Sinskey tạm nghỉ. “Thêm nữa, để bảo vệ cho tạp chí ấy, họ còn đăng bài viết tạp chí Discover nhan đề ‘Ý tưởng nguy hiểm nhất thế giới’.”

      “Tôi nghĩ tôi đứng về nhóm thứ hai”, Langdon . “Ít nhất cũng từ quan điểm văn hóa xã hội.”

      “Tại sao?”

      “Chà, tôi cho rằng những hình thức thúc đẩy di truyền - rất giống phẫu thuật thẩm mỹ - khá tốn kém , phải nào?”

      “Dĩ nhiên. phải ai cũng có khả năng cải thiện bản thân hoặc con cái mình.”

      “Có nghĩa là những hình thức thúc đẩy di truyền hợp pháp lập tức tạo ra thế giới của những người có và có. Chúng ta hố sâu ngày càng lớn giữa người giàu và người nghèo, nhưng phương pháp điều khiển di truyền tạo ra chủng tộc siêu nhân và…những người bị xem là cận nhân. Bà có nghĩ người ta lo ngại về phần trăm người siêu giàu điều khiển thế giới ? Hãy hình dung nếu phần trăm đó chính là giống loài siêu việt - thông minh hơn, khỏe hơn, lành mạnh hơn. Đó là thời cơ chín muồi cho chế độ nô lệ hoặc thanh lọc sắc tộc.”
      Sinskey mỉm cười với vị học giả điển trai bên cạnh. “Giáo sư, nắm bắt rất nhanh những gì tôi tin là cạm bẫy nghiêm trọng nhất của phương pháp điều khiển di truyền.”

      “Chà, có thể tôi nắm bắt được điều đó, nhưng tôi vẫn chưa hiểu Zobrist. Toàn bộ tư tưởng Siêu nhân học này dường như nhằm cải thiện nhân loại, làm cho chúng ta khỏe hơn, cứu chữa các bệnh chết người, làm tăng tuổi thọ của chúng ta. Nhưng quan điểm của Zobrist về tình trạng quá tải dân số dường như lại tán thành việc giết bớt người. Những ý tưởng của ông ta về Siêu nhân học và quá tải dân số có vẻ mâu thuẫn nhau, phải ?”

      Sinskey thở dài não nề. Đó là câu hỏi thú vị, và rủi thay, nó lại có câu trả lời rất ràng, và đáng ngại. “Zobrist hòan toàn tin vào Siêu nhân học, ở chỗ làm cho giống loài tốt hơn thông qua công nghệ, tuy nhiên, cũng tin loài người tuyệt chủng trước khi có cơ hội làm được việc đó. Thực tế, nếu có ai hành động, dân số quá đông giết chết loài người trước khi chúng ta có cơ hội nhận ra triển vọng của phương pháp điều khiển di truyền.”

      Mắt Langdon mở to. “Vậy là Zobrist muốn giảm bốt loài người…để có thêm thời gian?”

      Sinskey gật đầu. “ từng mô tả mình giống như kẻ mắc kẹt con tàu nơi hành khách tăng gấp đôi sau mỗi giờ, trong khi cố hết sức đóng chiếc thuyền cứu sinh trước khi con tàu chìm do chính sức nặng của nó.” Bà ngừng lại. “ chủ trương đẩy bớt nửa số người tàu xuống biển.”

      Langdon nheo mắt. “ suy nghĩ đáng sợ.”

      “Chắc chắn. Đừng nhầm lẫn về nó”, bà . ”Zobrist tin chắc rằng việc quyết liệt kiềm chế dân số loài người ngày nào đó được ghi nhận như là hành động tối thượng của chủ nghĩa hùng…thời khắc loài người chọn cách tồn tại.”

      “Như tôi , đáng sợ.”

      “Còn hơn thế vì Zobrist hề là kẻ duy nhất mang suy nghĩ ấy. Khi Zobrist chết, trở thành kẻ tử vì đạo đối với rất nhiều người. Tôi biết chúng ta đối phó với những ai khi đến Florence, nhưng chúng ta cần rất thận trọng. Chúng tôi phải là những người duy nhất cố gắng tìm cho ra dịch bệnh này, và vì an toàn của , chúng tôi thể để cho kẻ nào biết có mặt ở Ý để truy tìm nó.”

      Langdon kể cho bà nghe về người bạn của là Ignazio Busoni, chuyên gia về Dante, người Langdon tin có thể giúp vào Cung điện Vecchio sau giờ mở cửa để xem xét bức tranh có chữ cerca trova, như trong máy chiếu của Zobrist. Busoni có thể cũng giúp Langdon hiểu câu trích dẫn kỳ lạ về cặp mắt chết chóc.

      Sinskey vuốt mái tóc bạc dài của mình ra sau và chăm chú nhìn Langdon. “Hãy tìm và thấy, giáo sư ạ. Thời gian cạn dần.”

      Sinskey bước lại phòng chứa máy bay và lấy chiếc ống bảo quản chất nguy hiểm loại bảo mật nhất của WHO - loại có khả năng khóa bằng sinh trắc học.

      “Đưa ngón tay cái của đây”, bà và đặt ống trước mặt Langdon.

      Langdon có vẻ ngơ ngác nhưng làm theo.

      Sinskey cài đặt chương trình cho cái ống để Langdon là người duy nhất có thể mở được. Sau đó bà cầm lấy cái máy chiếu xíu và đút nó vào bên trong ống.

      “Hãy nghĩ nó như hộp khóa có thể mang theo người”, bà mỉm cười .

      “Với biểu tượng nguy hiểm sinh học ư?” Langdon có vẻ thoải mái.

      “Đó là tất cả những gì chúng tôi có. cách lạc quan, ai dùng nó gây rối.”

      Langdon xin phép duỗi chân và sử dụng nhà vệ sinh. Trong lúc rời , Sinskey cố gắng nhét cái ống niêm kín vào túi áo khoác của . Rất tiếc nó lại vừa.

      Cậu ấy thể công nhiên mang máy chiếu này trước bao cặp mắt được. Bà ngẫm nghĩ lúc và sau đó quay trở lại phòng chứa để lấy con dao mổ và túi chỉ khâu. Vơi độ chính xác chuyên nghiệp, bà rạch đường lớp lót áo khoác của Langdon rồi cẩn thận khâu chiếc túi bí mật bằng đúng kích cỡ cần để giấu cái ống nghiệm.

      Khi Langdon trở lại, bà vừa hoàn thành xong đường khâu cuối cùng.

      Vị giáo sư sững lại và trợn mắt nhìn như thể bà vừa làm hỏng bức Mona Lisa vậy. “Bà nhét vào lớp lót chiếc áo Harris Tweed của tôi là à?”

      “Yên tâm , giáo sư”, bà . “Tôi là bác sĩ phẫu thuật được đào tạo. Các mũi khâu đều rất chuyên nghiệp.”



       





       

       

       

                 

       

       

       

       

                 

       





       

       

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :