1. QUY ĐỊNH BOX XUẤT BẢN :

       

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]

    ----•Nội dung cần:

    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)

    - Tác giả

    - Dịch giả

    - Đơn vị phát hành

    - Số trang ( nên có)

    - Giá bìa (nên có)

    - Ngày xuất bản (nên có)

    --- Quy định

    1 . Thành viên post có thể tự type hoặc copy từ nơi khác (để nguồn)

    2 . Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn

    3. Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ

    Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Hậu cung Chân Hoàn truyện -- Lưu Liễm Tử (Full 3 Tập)

Thảo luận trong 'Sách XB Đang Type'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. khahanhl

      khahanhl Well-Known Member

      Bài viết:
      2,937
      Được thích:
      1,718
      Chương 27: Đêm thu

      Hôm nay là ngày Thất Tịch, tôi đoán buổi tối trong cung hẳn mở tiệc theo lệ thường nên y nhất định thể tới đây. Thế là tôi bèn cùng Hoán Bích và Cận Tịch nấu vài món ăn đơn giản, chuẩn bị dùng bữa tối.

      Đêm về gió lớn, thổi bay cái nóng nực lúc ban ngày, làm chúng tôi cảm thấy dễ chịu hơn. Tôi thấy rau kim châm mà Cận Tịch xào ăn rất ngon, bèn hỏi: “Còn rau kim châm ?”

      Cận Tịch đứng dưới giàn mướp kiễng chân hái quả, nghe vậy liền ngoảnh đầu đáp: “Còn nhiều lắm.”

      Tôi suy nghĩ chút rồi cười : “Vậy chi bằng hãy xào rau kim châm, lại làm thêm món dưa chuột trộn nữa, rồi ta tự mình mang đến cho Thư Quý thái phi.”

      Cận Tịch cười, : “Vậy hay lắm, chỗ Thư Quý thái phi vốn ít người, nương tử tới đó thứ nhất là có thể tỏ lòng hiếu thảo, thứ hai là còn có thể chuyện trò bầu bạn với Thái phi phen.” rồi bèn quay sang nháy mắt với Hoán Bích, lại cúi đầu, cười khúc khích thôi.

      Hoán Bích tiếp lời, chỉ khẽ cười cho qua chuyện, đồng thời vẫn ngồi ghế chậm rãi bóc vỏ đỗ. Tôi biết Cận Tịch vậy là có ý gì, khỏi cảm thấy hơi xấu hổ, chỉ đành : “Thư Quý thái phi dù sao cũng là trưởng bối, ta thăm bà ấy là việc nên làm.”

      Cận Tịch mím môi cười, : “Tất nhiên rồi, rất nên làm ấy chứ.”

      Tôi biết nàng ta lấy chuyện với Huyền Thanh ra để trêu mình, cũng tiện biện bạch gì thêm, chỉ lặng im chờ Cận Tịch chuẩn bị đồ ăn xong xuôi rồi xếp vào trong hộp.

      Hoán Bích đứng dậy phủi áo mấy cái, : “Chi bằng để nô tỳ cùng tiểu thư qua đó chuyến.”

      Tôi mỉm cười, chỉ tay lên trời. “Trời hãy còn sáng lắm, để ta mình tới An Tê quán là được rồi. Dù sao cũng chỉ chút rồi về, muội và Cận Tịch cứ ở nhà ăn cơm trước .”

      Hoán Bích khẽ “ừm” tiếng, dõi mắt theo chân tôi ra đến bên ngoài.

      Lúc này trời còn sớm, mảng ráng chiều rực rỡ nổi lên giữa bầu trời biếc xanh, tựa như cây đèn lưu ly mà tôi từng nhìn thấy hồi , những màu sắc từ đỏ tía, xanh lam, vàng tươi, phỉ thúy tới vàng cam biến đổi ngừng, tựa như dải gấm ngũ sắc trải dài giữa trời cao. núi tuy gió lớn nhưng đường lâu rồi, lưng tôi cũng rỉ đầy mồ hôi. Có điều, tôi hề cảm thấy nóng, còn sinh lòng đắm đuối trước cảnh sắc thời, trong lòng thầm nghĩ người ta hay kể Chức Nữ giỏi nghề dệt vải, mảng mây màu rực rỡ như gấm vóc trước mắt này liệu có phải do chính tay nàng ta dệt thành đây?

      Thế nhưng, Chức Nữ bao năm trời nhung nhớ Ngưu Lang ở bờ bên kia sông Ngân, trọn ngày thành lời, khóc nghẹn lệ như mưa[1], đằng sau áng mây màu rực rỡ này rất có thể chính là vô số giọt nước mắt thương tâm tột độ. Suy nghĩ như vậy, cảnh sắc trước mắt dù có đẹp đến mấy cũng nhuốm đầy nét sầu, còn gì thú vị nữa.

      [1] Trích Điều điều khiên Ngưu tinh, vô danh. Nguyên văn Hán Việt: chung nhật bất thành chương, khấp thế linh như vũ - ND.

      Ngoài kinh đô có rất nhiều đồi núi, liên miên trùng điệp, tựa như bức bình phong thiên nhiên xanh biếc, trong đó nổi tiếng nhất phải kể đến đỉnh Phiêu Miểu, đỉnh Tha Nga, đỉnh Cam Lộ và đỉnh Lăng Vân. Đỉnh Phiêu Miểu và đỉnh Tha Nga đứng đối diện nhau, đỉnh Cam Lộ, đỉnh Tha Nga và đỉnh Lăng Vân liền thành dải, phong cảnh tú lệ vô cùng. Chùa Cam Lộ được xây phần ngọn của đỉnh Cam Lộ, An Tê quán của Thư Quý thái phi nằm ở hậu sơn, Thanh Lương Đài của Huyền Thanh tọa lạc đỉnh Phiêu Miểu, còn nơi tôi ở là đỉnh Lăng Vân, đỉnh này có thế núi cao và dốc nhất so với ba đỉnh còn lại, chỉ là lại nằm giữa đỉnh Tha Nga và đỉnh Cam Lộ, do đó việc lại thuận tiện hơn chút.

      Thiền phòng mà tôi trú ngụ vốn nằm tại sườn núi của đỉnh Lăng Vân, từ đó tới An Tê quán cũng xa lắm, chỉ cần chừng nửa canh giờ là có thể tới nơi.

      An Tê quán tuy nhưng chỉ có hai người Thư Quý thái phi và Tích Vân sống ở đó mà thôi, do đó hết sức thoáng đãng. Tôi đẩy cửa vào, Tích Vân nhìn thấy tôi tới liền nở nụ cười tươi, vẫy tay gọi: “Thái phi niệm kinh trong nội đường, nương tử hãy tạm qua đây ”, rồi lại cười tủm tỉm. “Nương tử tới đúng lúc , ta chuẩn bị hái ít nho mang rửa đây, vừa hay có thể mời nương tử.”

      rồi bà ta liền dẫn tôi xuyên qua sân trước để tới sân sau.

      Ở cửa sân trước có trồng cặp tùng bách, nhìn cao lớn cân đối, lại kết hợp với những gốc ngô đồng xung quanh, phủ bóng xuống tạo thành vùng râm mát.

      Tích Vân thấy tôi nhìn chăm chú, liền cũng đưa mắt liếc qua, : “Năm xưa, khi Thái phi mới vào quán, Lục Vương gia vô cùng quyến luyến, mang hai cái cây đến chính tay trồng ở đây rồi mới rời . Nhớ năm xưa hai cái cây này còn xíu, vậy mà giờ lớn thế này rồi, khiến người ta kìm được phải cảm thán thời gian quả như bóng câu qua khe cửa.”

      Tôi khẽ gật đầu, nghĩ tới việc cặp tùng bách này là do chính tay y trồng, kìm được đưa tay tới sờ thử, cảm thấy cực kỳ thân thiết.

      Dường như nơi bàn tay tôi chạm tới phải là lớp vỏ cây sần sùi, mà là dấu tích y từng sờ qua, nơi đáy lòng trào dâng nỗi niềm vui thích.

      tới sân sau, tôi ngẩng lên nhìn, quả nhiên thấy có giàn nho lớn, vô số cành lá xanh biếc trườn bò những chiếc sào trúc thẳng tắp, mỏng manh, biến toàn bộ sân sau thành khoảng râm mát. Từ giàn nho có vô số chùm nho rủ xuống, chùm đỏ tía, chùm xanh biếc, nhìn trái nào cũng căng mọng như sắp nứt ra đến nơi, ngon mắt vô cùng.

      Tôi cười : “Trông ngon mắt quá, Thái phi quả là có khẩu phúc.”

      Trong núi thanh tịnh, từng làn gió mát vi vu thổi tới, khiến người ta thư thái, dễ chịu. Lời của tôi vừa dứt, Thư Quý thái phi chậm rãi bước ra, cười : “Con tới rồi!”

      Tôi hành lễ bái kiến trưởng bối xong bèn thưa: “Vốn hôm nay là ngày Thất Tịch, con nên tùy tiện tới quấy rầy Thái phi, có điều thị nữ hầu cận của con mới nấu được hai món ăn vừa miệng, con nghĩ Thái phi chắc thích ăn, liền mang tới mời Thái phi nếm thử.”

      Thái phi vốn rất mực hiền hòa, khi cười trông lại càng tươi tắn, xinh đẹp. “Ta ở chỗ này quanh quẩn lại cũng chẳng có việc gì, con tới đúng lúc lắm, nếu đêm Thất Tịch năm nay lại chỉ có ta và Tích Vân ngồi nhìn nhau thôi, như thế nhạt nhẽo lắm.”

      lúc chuyện, Tích Vân bưng thức ăn từ trong chiếc hộp ra, đặt xuống chiếc bàn đá dưới giàn nho. Thái phi khẽ cười, : “Mấy món này chỉ mới nhìn thôi thấy ngon rồi, ta thích lắm!”, rồi liền kéo tôi ngồi xuống. “Ta vẫn chưa dùng bữa tối, chi bằng Hoàn Nhi hãy ngồi xuống ăn cùng ta luôn được ?”

      Tôi đáp: “Con vốn định quay về nhưng Thái phi có lời như thế, con tất nhiên cung kính bằng tuân lệnh, vừa hay khi tới đây con cũng chưa ăn gì.” Thế rồi tôi bèn giúp Tích Vân bưng từ trong hộp ra đĩa đậu phụ hoa hồng, đĩa gừng tím, bát canh mướp, ngoài ra còn có cháo trắng, toàn những món ăn dịu mát rất hợp dùng trong mùa hè. Sau đó, ba người chúng tôi cùng ngồi xuống ăn.

      Màn đêm tối mịt dần buông xuống, bao trùm cả bầu trời. Nơi chân trời phía đằng đông, vầng trăng khuyết từ từ xuất , cuối cùng leo lên mãi tít ngọn cây.

      Tôi và Thái phi ngồi ăn nho với nhau, Thái phi chậm rãi : “Mãi tới trưa nay nghe Tích Vân , ta mới nhớ ra hôm nay là ngày Thất Tịch. Cuộc sống trong núi quá mức bình lặng, làm ta quên hết tháng năm, thiếu chút nữa còn quên cả ngày Thất Tịch.” Những ngón tay cẩn thận bóc vỏ quả nho, miệng bà khẽ nở nụ cười. “Kỳ thực, tiên đế qua đời nhiều năm như vậy rồi, đối với ta mà , ngày Thất Tịch với ngày thường cũng chẳng có gì khác biệt, nhưng mấy bé như bọn con khác, ngày này quả là có ý nghĩa vô cùng.” xong, bà liền nhìn tôi mà cười tủm tỉm.

      Tôi có chút thẹn thùng, cúi gằm mặt xuống, mân mê quả nho trong tay, thấp giọng : “Thái phi gì vậy?”

      Bà chăm chú nhìn tôi lát, chợt nghĩ tới điều gì, bèn hỏi: “Thanh Nhi vẫn chưa tới sao? À, hôm nay trong cung nhất định lại tổ chức yến tiệc, chắc nó tới được rồi!”, sau đó lại hỏi tôi: “Có phải Thái Bình hành cung rồi ?”

      Tôi lắc đầu. “Hai năm nay, Hoàng thượng đều ở lại trong cung, rất ít khi tới Thái Bình hành cung tiêu khiển.”

      “Tuy là ở trong cung nhưng muốn ra ngoài e cũng chẳng dễ dàng gì.”

      Thái phi khẽ gật đầu, cười : “Chẳng trách trong ngày này mà con lại chạy đến đây bầu bạn với bà già như ta, hóa ra là độc mình.” Sau đó bà lại an ủi tôi: “ phải Thanh Nhi thương con, chỉ là ở trong cung nó cũng có bất đắc dĩ của nó. Vả lại thực lòng, ta nghĩ bây giờ dù tham gia yến tiệc nhưng trong lòng nó chắc chỉ có mình con thôi.”

      Khóe miệng tôi hơi nhếch lên: “Thái phi cần khuyên nhủ, lòng y thế nào con tất nhiên hiểu . Cho dù tạm thời thể ở bên nhau cũng đâu phải việc gì nghiêm trọng.”

      Thái phi khẽ xoa trán tôi cái, thở dài than: “Con có thể hiểu lòng nó như vậy là tốt rồi. Ta với Thanh Nhi mẫu tử đồng tâm, nó đối xử với con thế nào, ta là người làm mẹ tất nhiên biết . Do đó, trong lòng ta, con cũng giống như con của ta vậy.”

      Tôi thầm cảm động, vùi đầu xuống gối Thái phi, khẽ : “Trong lòng con, Thái phi cũng giống như mẹ của con vậy.” xong, hai bờ má bất giác nóng bừng, cảm thấy hết sức xấu hổ.

      Thái phi trìu mến : “Con coi ta là mẹ, ta cũng giấu gì con nữa, con và Thanh Nhi muốn được ở bên nhau, ắt phải trải qua rất nhiều gian nan thử thách. Chỉ là nếu lòng các con giống nhau, tất nhiên có việc gì làm khó được. Có câu rằng tình cứng hơn vàng, con có biết ?”

      Tôi gật đầu thưa: “Dạ biết!”

      làn gió khẽ thổi qua bờ má, mát rượi và dịu dàng giống như bàn tay Thái phi, mang tới cảm giác vô cùng thoải mái.

      Thái phi ngẩng đầu nhìn bầu trời đêm, bốn phía đều tĩnh lặng, loáng thoáng có tiếng chim hỉ thước vỗ cánh bay qua. Giọng của Thái phi vang lên tựa như làn nước mùa xuân mềm mại: “Thằng bé Thanh này rất giống với ta và phụ hoàng của nó. Trước đây, ta là con của hàng tướng Bãi Di, theo phụ thân vào triều đình Đại Chu, cuộc sống vốn khốn khó, về sau cha ta lại mắc tội, ta liền bị đưa vào tội tịch, phải tới làm nô tỳ trong phủ của Trưởng công chúa Vinh Đức. Sau này, Hoàng thượng vì muốn đưa ta vào cung, cho ta danh phận, để ta có thể ở mãi bên người, bèn bảo ta nhận Tri bình chương Nguyễn Diên Niên Nguyễn đại nhân làm nghĩa phụ. Sau bao phen trắc trở, ta rốt cuộc vào được cung nhưng lại chỉ được ở trong Thái Bình hành cung mà thôi.” Thái phi dường như chìm vào dòng hồi ức, khuôn mặt trắng nõn được ánh trăng mông lung mờ ảo chiếu lên, lại càng ngợp nét dịu dàng, mềm mại. “Chiêu Hiến Thái hậu vì bất mãn với xuất thân của ta, do đó cho phép ta vào Tử Áo Thành nhận sắc phong. Chiêu Hiến Thái hậu là mẹ cả của tiên đế, sau khi mẹ ruột của tiên đế là Chiêu Tuệ Thái hậu qua đời, tiên đế vốn là do bà ta chính tay nuôi nấng trưởng thành. Với tình mẫu tử mười mấy năm như thế, tiên đế tất nhiên tiện làm trái ý Chiêu Hiến Thái hậu nhưng đồng thời cũng nỡ để ta phải chịu ấm ức, do đó mới cho xây dựng đài Đồng Hoa ở Thái Bình hành cung rồi đón ta tới cử hành lễ sắc phong.”

      Đài Đồng Hoa, đó là nơi cử hành lễ sắc phong cho Thư Quý thái phi năm xưa, đồng thời cũng là nơi bà và tiên đế công khai đứng trước mặt người đời, dắt tay nhau cùng tiến cùng lùi, bất chấp mọi ngăn cấm. Khi đó, tiên đế đứng đài Đồng Hoa, đích thân dùng Trường tương thủ thổi bài Phượng hoàng vu phi để nghênh đón nữ tử mình . Đối với nữ tử mà , tình ý đậm sâu như thế tất nhiên là quãng hồi ức vô cùng đẹp đẽ.

      Nhưng đối với tôi, đài Đồng Hoa… Nơi khóe miệng tôi bất giác gợn lên nụ cười dịu dàng.

      Những bông tịch nhan đêm đó trông mới thuần khiết làm sao. Mỗi lần thương tâm, đau khổ, trong đầu tôi lại xuất cuộc chuyện trò đêm đó, tâm trạng bất giác trở nên bình lặng hơn nhiều.

      Thái phi thấy tôi mỉm cười, kìm được hỏi: “Hoàn Nhi, con cười gì vậy?”

      Tôi nghe thế giật mình tỉnh táo trở lại, cười đáp: “Con nghĩ trước đây mình từng nhìn thấy đài Đồng Hoa, do đó mới cười thôi.”

      Thái phi : “Phải rồi, đài Đồng Hoa cao ba trượng chín thước, được dựng thành hoàn toàn từ ngọc thạch trắng thượng hạng, vô cùng xa hoa, rực rỡ. Để dựng được đài Đồng Hoa, vô số người thợ giỏi phải bỏ ra rất nhiều tâm huyết. Tiên đế còn sai người trồng rất nhiều cây đường lê và ngô đồng xung quanh đài Đồng Hoa, ngô đồng… vốn là loài cây tượng trưng cho tình vĩnh cửu mà.”

      Tôi gật đầu, : “Dạ, ngô đồng có thể mời gọi phượng hoàng tới, quả là giống cây cao quý tượng trưng cho ân ái. Qua việc này có thể thấy tâm tư của tiên đế với Thái phi quả thực phải là nhất thời nổi hứng.”

      Thái phi khẽ gật đầu, đường cong mềm mại dưới cằm trông như vầng trăng non giữa trời cao. “Mỗi năm vào độ xuân hạ, đường lê nở hoa trắng như tuyết, tỏa khắp hương thầm. Thỉnh thoảng nó còn nở hoa màu tím, lại càng hiếm có, cảnh đẹp ấy cứ như khắp trời bay đầy sương mù màu tím, khiến người ta đắm đuối tâm hồn. Mỗi lần vào dịp như thế, tiên đế sai các thị nữ giỏi ca hát đứng dưới gốc ngô đồng, hát bài Đường lê chi hoa, sau đó cùng ta dạo bước giữa đó, thưởng thức cảnh hoa nở hoa rơi. Ta vào cung bao nhiêu năm, tiên đế đối đãi tốt với ta như thế từng ấy năm. Tuy trong vòng năm, có mấy tháng tiên đế phải về ở lại Tử Áo Thành, hai chúng ta mỗi người nơi, hơn nữa còn có khó chịu của Thái hậu, bất mãn của Hoàng hậu, dị nghị của các phi tần và quan viên trong triều, nhưng tình ý của tiên đế đối với ta chưa bao giờ thay đổi.”

      “Con cũng thường nghe , phế hậu của tiên đế khi đó là thân thích của Thái hậu, trong cung còn có Ngọc Ách phu nhân đắc thế, tiên đế thậm chí vì Thái phi mà có hành động khóa cửa cung để trừng phạt các phi tần.”

      “Tiên đế đối xử với ta quả thực rất tốt. Nếu tới ở tại Thái Bình hành cung, ngài nhất định tùy tiện triệu bất cứ phi tần nào khác tới hầu hạ ngoài ta. Tuy cho tới Thái hậu, dưới cho tới triều thần, ai cũng cố tình gây khó dễ cho ta, nhưng nhờ được tiên đế lòng bảo vệ, ta hề cảm thấy cuộc sống trong cung hồi đó có chút gì là vất vả.”

      Nghe bà như vậy, trong lòng tôi kỳ thực có chút sợ hãi. Tiên đế càng chuyên sủng Thư Quý thái phi, kỳ thực lại càng đẩy bà vào cảnh đối địch với các phi tần khác.

      Chiếm trọn mọi sủng ái vào mình thực ra cũng ngang với việc chiếm trọn mọi oán hận vào mình! Chẳng trách khi đó đài Đồng Hoa, Huyền Thanh lại khuyên tôi: “Ân sủng của đế vương quá đầy cũng như bị hơ lửa nóng, mười phần khổ sở.”

      Câu này, e rằng cũng là lời cảm khái của Huyền Thanh về mối tao ngộ mà mẫu phi y từng phải trải qua.

      Như thế, tuy ngoài miệng Thư Quý thái phi là rất ngọt ngào nhưng trong lòng hẳn cũng muôn vàn đau khổ.

      Nhưng trong lòng bà, có lẽ tình ý của tiên đế mới là điều quan trọng nhất.

      “Về sau, Chiêu Hiến Thái hậu qua đời, ta cũng theo đó mà được vào ở trong Tử Áo Thành. Tử Áo Thành tuy phồn hoa, náo nhiệt nhưng trong lòng ta còn xa mới so được với ung dung, nhàn nhã ở đài Đồng Hoa.” tới đây, Thư Quý thái phi khẽ buông tiếng thở dài. “Tiếc rằng đương kim Thái hậu thích đài Đồng Hoa, cho là nó quá xa hoa, lãng phí, nhiều năm nay ta quay trở lại, chắc giờ nó trở nên hoang phế rồi!”

      Tôi khẽ nở nụ cười, cất lời khuyên giải: “Vậy cũng có sao, bất kể đài Đồng Hoa phồn hoa hay suy bại, trong mắt Thái phi và tiên đế, nó vẫn mãi là nơi chứng kiến tình ý mặn nồng của hai người năm xưa.”

      Thư Quý thái phi cũng mỉm cười. “Đúng thế, trong lòng ta, đài Đồng Hoa vĩnh viễn là nơi chứng kiến tình ý bao năm của ta và tiên đế.” Rồi bà ngoảnh đầu nhìn tôi, ánh mắt ngợp nét dịu hiền. “Ta kể lại những việc xưa cũ thế này, có phải con thấy rất nhạt nhẽo ?”

      Tôi cười đáp: “Dạ , con vốn vẫn thích nghe kể chuyện xưa mà. Trước đây chỉ là nghe người khác đồn thổi về tình cảm giữa Thái phi và tiên đế, bây giờ mới được nghe chính miệng Thái phi kể lại, con tất nhiên hết sức vui mừng.”

      Thái phi tươi cười vui vẻ, ngay đến chiếc áo màu xám bạc cũng như được nhuốm vẻ lóng lánh của ánh trăng, toàn thân đều phát sáng, lại thêm làn gió đêm thổi tới khiến góc áo khẽ bay lất phất, nhìn bà chẳng khác gì thần tiên trời. Thư Quý thái phi lúc này quá bốn mươi tuổi, nhưng dung mạo bà vẫn rất trẻ trung, chừng như mấy chục năm qua bị thời gian làm ảnh hưởng chút nào. Nghĩ tới cảnh bà nắm tay tiên đế, đứng đài cao đón gió lúc mới vào cung thuở nọ, tự đáy lòng tôi bỗng nảy sinh niềm ngưỡng mộ vô bờ.

      Thái phi khẽ nắm lấy bàn tay tôi, : “Cũng khá muộn rồi, ở trong núi lại giống với nơi khác, nếu con thấy lạnh chi bằng chúng ta vào trong chuyện tiếp .”

      Tôi cười đáp: “Sao lại lạnh được, chỉ là ngồi mãi ghế đá, con thấy hơi khó chịu.”

      Tích Vân cười, : “Nếu nương tử thấy khó chịu, vậy hãy cùng Thái phi nhà ta tới bên bậc thềm đằng kia mà ngồi, chỗ đó ta quét dọn sạch lắm rồi!”

      Thái phi mỉm cười nhìn tôi, quay sang trách Tích Vân: “Hoàn Nhi xuất thân khuê các, đâu có tùy tiện như người Bãi Di chúng ta, e là quen đâu.”

      Tôi đứng dậy, dắt tay Thư Quý thái phi tới trước bậc thềm đá, chẳng buồn phủi bụi, ngồi thẳng xuống. “Trước đây, hồi còn ở trong nhà, con từng đọc bài Thu tịch của Đỗ Mục, thấy rằng ‘đêm thu đèn rọi họa bình, đuổi xua đom đóm phong phanh quạt là, cảnh trời đêm mát vẩn vơ, Khiên Ngưu Chức Nữ ngồi chờ xem chơi[2]’. Bây giờ cảnh trời đêm mát vẩn vơ, tuy hoa lệ khi đêm thu đèn rọi họa bình, cũng tao nhã khi đuổi xua đom đóm phong phanh quạt là, nhưng cái tâm trạng Khiên Ngưu Chức Nữ ngồi chờ xem chơi thực có chút nào khác biệt.” Tôi tươi cười, : “Ngồi bậc thềm ngắm cảnh thế này, tầm nhìn đúng là thoáng đãng hơn ngồi ghế đá nhiều.”

      [2] Nguyên văn Hán Việt: Ngân chúc thu quang lãnh họa bình, khinh la tiểu phiến phác lưu huỳnh, thiên giai dạ sắc lương như thủy, tọa khán Khiên Ngưu Chức Nữ tinh. Dịch thơ Trần Trọng Kim. Bài thơ này tả về đơn và buồn bã của người cung nữ bị thất sủng, ta ngủ được ngồi bậc thềm nhìn sao Khiên Ngưu và Chức Nữ, đấng quân vương đến nữa, chỉ có đom đóm bay quanh mà thôi - ND.

      Tích Vân bật cười khúc khích. “Thái phi thấy nô tỳ đúng chưa nào? Nương tử vốn phải loại nữ tử thích làm bộ làm tịch, cũng là người tính tình sảng khoái.”

      Thái phi mỉm cười, gật đầu. “Cũng phải, bằng sao có thể khiến ta vừa gặp thấy quen thân như thế được”, sau đó lại quay sang với tôi: “Bài con vừa đọc hình như là thơ cung đình phải.”

      Tôi gật đầu thưa: “Thái phi đúng lắm.”

      Bà cau mày suy nghĩ lát, khẽ : “Trước đây khi còn ở trong cung, ta cũng thường nghe các cung nữ ngâm thơ cung đình như vậy, có bài đương kim Thái hậu hay ngâm nhất, thời gian qua lâu rồi, ta cũng nhớ lắm, hình như có câu ‘ơn vua như nước chảy về đông, đắc sủng lo khi lúc lạnh phòng[3]’ phải. Nữ tử Bãi Di bọn ta chỉ biết hát dân ca, được học về thi từ, mấy thứ này mãi về sau vào cung rồi, ta mới dần được biết.”

      [3] Trích Cung từ, Lý Thương , dịch thơ Lê Quang Trường. Toàn bài: Ơn vua như nước chảy về đông, đắc sủng lo khi lúc lạnh phòng. Giữa tiệc chớ đàn Hoa lạc khúc, mé tây điện luống nổi thu phong. Nguyên văn Hán Việt: Quân ân như thủy hướng đông lưu, đắc sủng ưu di thất sủng sầu. Mạc hướng tôn tiền tấu Hoa lạc, lương phong chích tại điện tây đầu - ND.

      Tôi thầm kinh ngạc, ngờ Thái hậu lại ngâm bài thơ như thế, nhất định là từng thương tâm vô cùng. Chắc hẳn từ sau khi Thư Quý thái phi vào cung, bà ta rơi vào cảnh quạnh, trống vắng, do đó mới sinh lòng tự thương bản thân mình.

      Nụ cười dần , tôi cất lời cảm khái: “Ơn vua nước chảy về đông, được lo ngại mà lại sầu. Phàm là nữ tử trong cung, chắc ai cũng từng có nỗi thương cảm như vậy.”

      Thái phi nở nụ cười rạng rỡ. “Ta chưa có tâm trạng như vậy.” Thấy tôi có vẻ tin lắm, bà liền : “Tuy lòng dạ của bậc đế vương dễ đổi thay nhưng tiên đế đối xử với ta luôn trước sau như .” Bà dừng lại chút rồi mới tiếp: “Tạm chưa xét tới việc ơn vua có như nước chảy về đông hay , cho dù thực ngày như thế, ta cũng buồn bã chút nào, vì trong lòng ta mãi chỉ có mình tiên đế. Bất kể tiên đế có sủng hạnh ta hay , có còn ta nữa , trong lòng ta, ngài vẫn mãi là vị thiên tử thiếu niên buổi đầu gặp gỡ. Mà tiên đế đối xử với ta cũng như vậy, do đó ta mới có niềm tin sâu sắc vào câu tình cứng hơn vàng.”

      Tôi thấy vẻ mặt bà như si như mê, trong lòng bỗng hoàn toàn sáng tỏ.

      Theo như lời đồn trong cung trước đây, Thư Quý thái phi được tiên đế chuyên sủng, khắp hậu cung ai sánh bằng. Ban đầu tôi cứ ngỡ đó chỉ là thứ tình cảm bình thường giữa quân vương và phi tử, nhưng tới giờ mới biết, ra Thư Quý thái phi và tiên đế đều có trái tim chân thành, coi nhau như vợ chồng đích thực, vậy nên tình mới có thể cứng hơn vàng.

      Nghĩ đến tình ý như vậy, tôi cảm động đến suýt rơi nước mắt, liền hơi cúi đầu để che giấu ánh lệ, sau khi suy nghĩ chút bèn tiếp lời của Thái phi vừa rồi: “Câu thơ này hình như nằm trong bài Cung từ của Lý Nghĩa Sơn[4]. Câu kế tiếp là ‘giữa tiệc chớ đàn Hoa lạc khúc, mé tây điện luống nổi thu phong’.”

      [4] Tức Lý Thương , Nghĩa Sơn là tên tự - ND.

      Trước đây khi còn ở trong cung, tôi từng được nghe người ta hát khúc Hoa lạc, hình như người hát là An Lăng Dung. Đó là bữa tiệc nơi đại điện, ả ngồi bên cạnh Huyền Lăng mà cất tiếng ca vang, nhưng đó rốt cuộc là bữa tiệc nào tôi thực nhớ nổi.

      Mà cũng có thể phải An Lăng Dung mà chính tôi ngồi trong Đường Lê cung tự mình đàn khúc Hoa lạc, hình như khi tôi gảy đàn, Huyền Lăng còn ngồi bên cạnh, mỉm cười chăm chú nhìn tôi.

      Hoa lạc còn có tên khác là Mai hoa lạc, là khúc nhạc nổi tiếng trong Nhạc phủ, được rất nhiều người biết đến. Trong thời đại thái bình thịnh trị như bây giờ, khúc nhạc ấy nhất định từng được tấu ít lần trước mặt kẻ đế vương.

      Tôi buồn bã nghĩ lại, năm xưa khi xuân phong đắc ý tấu khúc Mai hoa lạc đó trước mặt kẻ đế vương, ai mà ngờ được lại có ngày gió lạnh thổi tới, bản thân theo đó trở thành trong vô số bông hoa lụi tàn. Còn bây giờ, bông hoa xuân phong đắc ý, vẫn đậu cành khoe sắc phải ai khác mà chính là An Lăng Dung.

      Ơn vua như dòng nước chảy dài bất định, khi đông khi tây, việc đắc sủng, thất sủng của các phi tần cũng theo đó mà biến hóa, có lúc chỉ trong khoảnh khắc mọi đổi thay. Hôm nay ơn vua như nước triều dâng, ngày mai lại như hồ nước cạn; phi tử hôm nay còn đắc sủng, ngày mai lại thất sủng ai hay; mà khi thất sủng rồi, ơn vua chẳng bao giờ còn trở lại, nỗi sầu thất sủng giống như dòng nước mùa xuân chảy mãi về đông. Do đó trong chốn cung đình, bất kể là đắc sủng hay thất sủng, tương lai chờ đợi những kiếp hồng nhan kia hầu như đều là nỗi bất hạnh khôn cùng.

      Còn tôi, tuy giờ phải ở nơi nhà tranh giậu trúc nhưng được giải thoát.

      Thái phi thấy tôi trầm ngâm, liền kéo tay tôi, : “Hoàn Nhi, trước đây khi còn ở trong khuê các, con đón ngày Thất Tịch thế nào?”

      Tôi cầm chùm nho trong tay, bóc từng quả, cười đáp: “Trước đây khi còn ở trong nhà, nhũ mẫu thường hay kể chuyện cho con nghe, nhưng kỳ thực vẫn là kể kể lại chuyện Ngưu Lang, Chức Nữ gặp gỡ sông Ngân. Sau đó dùng bữa tối, đợi khi trời tối hẳn cùng các tỷ muội thân thiết tụ hội. Trước tiên, bọn con ăn bánh chẻo cầu may, những chiếc bánh chẻo ấy được gói sẵn từ sáng sớm, trong đó có ba chiếc được nhét sẵn đồng tiền, cây kim và quả táo đỏ, ai ăn phải đồng tiền là có phúc, ăn phải cây kim được khéo tay, còn ăn trúng quả táo thành hôn sớm. Kế đó bọn con lại cúng Chức Nữ, đồ cúng đều là những loại hoa quả tươi đúng mùa, ví như bát sen, ngó sen, ấu đỏ hay nho, tiếp đến thắp hương quỳ bái, thành tâm cầu khấn, hy vọng sau này tìm được vị lang quân như ý, đồng thời cũng xin Chức Nữ phù hộ cho mình đầu óc thông minh, chân tay khéo léo, việc gì cũng được như ý nguyện. Sau khi thắp hương xong, mấy bọn con lại cùng xâu kim dưới trăng để thi xem ai khéo tay hơn, xin Chức Nữ ban phúc; hoặc cũng có lúc cầm chỉ màu đứng dưới đèn xâu chỉ qua lỗ kim, ai có thể xâu liền lúc qua bảy lỗ kim được gọi là ‘Xảo thủ’, người nào làm được bị gọi là ‘Thâu xảo’, còn bị mọi người búng mũi nữa. Cũng có lúc bọn con bắt con nhện bỏ vào trong hộp, đến ngày thứ hai mở hộp ra, nếu nó nhả tơ chăng lưới gọi là ‘Đắc xảo’, tức là được ban cho khéo léo.” Tôi cười hì hì, : “Có điều bắt nhện rất khó, bọn con lại sợ bẩn, do đó rất ít khi làm việc này.”

      Trước đây hồi còn chưa vào cung, mỗi năm tôi đều cùng My Trang, Thái Nguyệt, Hoán Bích, Lưu Chu, Phân Nhi và mấy tỷ muội nhà khác cùng nhau chơi những trò này, thường chưa tới tháng Sáu ngóng ngày Thất Tịch, hôm nào cũng vạch ngón tay đếm ngày tính tháng. Tối hôm ấy chúng tôi có thể thoải mái chơi đùa với nhau mà sợ các nhũ mẫu thường ngày luôn nghiêm khắc bám theo quản giáo hay răn dạy nữa.

      Đúng rồi, trong ngày Thất Tịch, chúng tôi còn phải làm “quả khéo tay”, người khéo nhất chính là Hoán Bích, muội ấy chỉ dùng những thứ dầu, bột mì, đường, mật bình thường cũng có thể làm ra đủ loại quả xinh xắn đáng , vừa thơm vừa ngọt, ăn ngấy chút nào.

      Những quãng thời gian tươi đẹp ấy giờ trở thành quá khứ, trở lại.

      Còn có điều tôi kể, đó là năm xưa khi ở trong cung đình, ngày Thất Tịch của tôi chẳng qua là bầu bạn bên cạnh kẻ đế vương, dự tiệc và ca múa. Những ngày lễ như thế luôn ngợp trong tiếng đàn ca, lần nào cũng là yến tiệc, xa hoa bất tận.

      Nghĩ đến đây, lòng tôi bất giác có chút buồn bã, đồng thời cũng nảy lòng thương cảm về chuyện ngày xưa.

      Thư Quý thái phi chỉ tay qua Tích Vân mà cười, : “Trước đây khi bọn ta còn ở Bãi Di, nữ tử Bãi Di thích nhất là ca hát và nhảy múa, mà ngày Thất Tịch kỳ thực cũng là ngày nam nữ trong tộc hát đối và thể tình cảm với nhau. Bọn ta thường đốt những đống lửa lớn bên bờ sông, rồi hai bên nam nữ đứng ở hai bên bờ hát đối tình ca. Nếu có cặp đôi nào vừa ý nhau, người con trai bơi qua sông tới dắt tay người con rồi cả hai cùng nhảy múa trước mặt mọi người trong tộc, tỏ ý rằng tình cảm của hai bên vô cùng sâu đậm, vĩnh viễn chẳng đổi thay.”

      Nam nữ Bãi Di xưa nay luôn sắt son chung thủy, dân phong lại thuần phác, bất kể già trẻ trai đều thẳng thắn hào sảng, có thể chút kiêng dè theo đuổi người mà mình , do đó mới thích dùng cách hát đối để tỏ tình, hoàn toàn khác với bảo thủ của người Trung Nguyên, luôn phải nghe theo sắp đặt của cha mẹ.

      Tôi khẽ “ồ” tiếng, tò mò hỏi: “Vậy lỡ như hôm đó trời mưa sao, há chẳng phải thể đốt lửa và hát đối được nữa?”

      Thư Quý thái phi dường như vô cùng hoài niệm những tháng năm xưa cũ đó. “Người Bãi Di gọi cơn mưa trong ngày Thất Tịch là ‘mưa tương tư’ hoặc ‘lệ tương tư’, vì mưa này là do Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau mà ra, do đó coi là mưa lành. Nếu hôm đó trời đổ mưa lành, việc đốt lửa tất nhiên phải tạm thời lùi lại đến hôm sau. Ngoài ra trong ngày Thất Tịch, chim hỉ thước thường rất ít xuất , người già trong tộc bọn chúng đều bay lên trời để bắc cầu rồi.”

      Tôi cảm thấy rất thú vị, bèn : “Người Bãi Di cũng có truyền thuyết về việc chim hỉ thước bắc cầu cho Ngưu Lang, Chức Nữ sao?”

      “Ban đầu vốn có, nhưng về sau Bãi Di và Trung Nguyên qua lại với nhau, thế là truyền thuyết này mới dần xuất .” Thư Quý thái phi dường như nhớ tới chuyện gì thú vị, liền cười vui vẻ, : “Đêm ấy có rất nhiều thiếu nữ còn chưa tới tuổi để hát đối, đa phần bọn họ đều mình lén nấp vào trong giàn bí ngô rậm rạp nào đó, nghe đồn giữa đêm khuya tĩnh lặng, nếu có thể nghe thấy lời chuyện trò của Ngưu Lang, Chức Nữ lúc gặp nhau, sau này lớn lên, thiếu nữ đó nhận được tình son sắt thủy chung, có thể sống với nam tử mà mình tới lúc răng long đầu bạc.”

      Tôi mím môi cười, : “Chuyện này đúng là có chút hoang đường, ai mà nghe lén được cuộc chuyện trò của Ngưu Lang, Chức Nữ chứ? Khi ấy Ngưu Lang, Chức Nữ đoàn tụ cầu Hỉ Thước, làm gì có thời gian mà tới nhân gian.”

      Thư Quý thái phi bật cười. “Đâu phải là Ngưu Lang, Chức Nữ , chỉ là những cặp nam nữ hát đối thành công trốn vào chỗ kín để trò chuyện với nhau mà thôi.”

      Tôi nghe thấy thú vị, bất giác bật cười theo. Tích Vân lúc này cũng dừng việc giặt quần áo lại, ghé tới góp vui: “Còn chưa hết đâu, hôm mùng Bảy tháng Bảy đó bọn ta đều phải dậy sớm, vì người già trong tộc hôm đó bảy nàng tiên hạ phàm tắm rửa, nếu uống được nước tắm của bọn họ có thể tránh khỏi tà ma bệnh tật, tuổi thọ tăng lên. Thứ nước ấy được gọi là ‘Song thất thủy’, vì có nhiều lợi ích như thế nên vào ngày này, khi con chim đực vừa mới cất tiếng hót vang, mọi người liền tranh nhau đến bên bờ sông lấy nước, sau đó mang về đựng vào vò, để dành sau này từ từ uống.”

      Tích Vân quay sang nhìn Thư Quý thái phi, cười : “Hồi , Thái phi rất nghịch ngợm, sáng hôm ấy thường dậy sớm nhất, kéo ta đến bên bờ sông lấy nước đầu tiên.”

      Thư Quý thái phi khẽ mỉm cười. “Chuyện từ bao năm trước rồi, ngờ ngươi còn nhớ như thế, bây giờ mới mang ra trêu ta.”

      Tích Vân cất tiếng cười vang. “Hồi là quãng thời gian vui vẻ nhất, có điều gì vướng bận. Về sau vào cung rồi, đâu còn được tự do tự tại như vậy nữa.”

      Thư Quý thái phi có chút ngẩn ngơ, thần sắc như vui vẻ mà lại như buồn bã. Có điều, tất cả đều chỉ thoáng qua, tựa như chút sương mù buổi sớm khi mặt trời còn chưa ló dạng, rồi bà trầm giọng : “Về sau, mỗi dịp Thất Tịch, trong cung đều là tiên đế bầu bạn bên ta, hai người bọn ta thường ngồi uống trà với nhau, thỉnh thoảng trò chuyện đôi câu. Cũng có lúc ta đàn Trường tương tư, tiên đế thổi Trường tương thủ, hợp tấu khúc nhạc, rồi hai bên lặng lẽ nhìn nhau, cảm thấy vô cùng thư thái. Chỉ là… tiên đế qua đời, giờ chỉ còn lại mình ta lê kiếp sống tàn giữa chốn nhân gian. Chẳng biết ở dưới suối vàng, tiên đế có cảm thấy đơn, buồn bã vì có ta bầu bạn cạnh bên nữa?”

      Tôi biết Thư Quý thái phi thương tâm vì cái chết của tiên đế, liền an ủi: “Nếu khi tiên đế qua đời, Thái phi lấy thân tuẫn tình, tiên đế ở dưới suối vàng lại càng chẳng thể yên nghỉ. Tiên đế Thái phi sâu sắc như thế, tất nhiên hy vọng sau khi mình qua đời, Thái phi và Thanh có thể tiếp tục sống tốt, vui vẻ, bị vướng bận điều gì.”

      Thư Quý thái phi ngước nhìn bầu trời tối mịt mà ngơ ngẩn, hồi lâu sau mới thở ra hơi dài, cất giọng thê lương: “Nếu vì có nỗi khổ bất đắc dĩ, chỉ e tấm thân tàn này của ta sớm theo tiên đế rồi.”

      Tôi suy nghĩ chút, đoạn nghiêm túc : “Thái phi có nỗi khổ bất đắc dĩ, vậy xin hãy vì nỗi khổ bất đắc dĩ này, cũng là vì Thanh, mà sống tiếp cho tốt. Hoàn Nhi biết, nếu còn Thái phi ở bên, dù Thanh có được cuộc sống yên vui, an nhàn thế nào, rốt cuộc vẫn cả đời day dứt.”

      Thư Quý thái phi đột nhiên xoay người lại, chăm chú nhìn tôi, sắc mặt dần trở nên hiền từ, dịu giọng : “Hoàn Nhi, Thanh có được con chính là cái phúc lớn nhất của nó rồi.”

      Trái tim tôi nhảy dựng lên, khuôn mặt nóng bừng, vội vàng khom người hành lễ, cất giọng chân thành: “Có thể gặp được Thanh, ấy cũng là cái phúc lớn nhất của Hoàn Nhi.”

      Thư Quý thái phi vội đỡ tôi dậy, lại thở phào hơi, trong mắt tràn ngập nét trìu mến, hiền từ.

      Tôi thấy trăng lên cao, thời gian còn sớm nữa, bèn đứng dậy cáo từ.


      Vầng trăng tuy rất sáng nhưng các vì sao vẫn rạng rỡ vô cùng. Có điều, cho cùng đây vẫn chỉ là trăng đầu tháng, đủ để soi tỏ đường , thế nên tôi vẫn phải xách theo chiếc đèn lồng , bước chậm rãi.

      Ánh trăng phủ xuống như làn khói sương trắng lóa, đường núi gồ ghề, lại nhiều đá lớn nên tôi phải rất cẩn thận, thỉnh thoảng lại nghe có tiếng con chim nào đó bay vút qua, giữa vùng núi non tịch mịch, thanh ấy thực chói tai vô cùng.

      Tuy tôi qua con đường này rất nhiều lần nhưng dù sao cũng dám sơ suất. lúc tập trung tinh thần, chợt vang lên tiếng “bộp”, có bàn tay ai đó vỗ vào vai tôi. Bốn phía bóng núi trập trùng, những tảng đá lớn nhìn như quái thú, trái tim tôi đập rộn lên, kìm được thất thanh kêu lớn: “Ai đó?”

      Lọt vào mắt tôi là đôi mắt ngợp nét cười, trông quen thuộc và ấm áp xiết bao. Tôi dần bình tĩnh trở lại, vừa ngạc nhiên, vừa vui mừng, nhào thẳng vào lòng y, tò mò hỏi: “Sao huynh lại tới đây?”

      A Tấn đứng bên cạnh cười hì hì, đáp thay: “Vốn trong cung mở tiệc nhưng được nửa chừng Vương gia giả vờ uống say, thế là Hoàng thượng mới vội sai người đưa ngài về phủ. Nào ngờ vừa mới vào phủ, thấy người trong cung rời , Vương gia liền lập tức tỉnh rượu, vội vàng chạy tới nơi này.”

      Thấy A Tấn cũng ở đây, tôi vội rời khỏi lòng Huyền Thanh, chỉnh sửa lại quần áo. Lòng vô cùng hoan hỉ nhưng ngoài miệng tôi lại trách: “Huynh điên rồi, ban đêm đường núi khó lắm đấy!”

      Y bước lại gần, ghé tai tôi, khẽ : “Ta muốn gặp nàng mà.”

      Hai má tôi đỏ bừng, vội ngoảnh đầu , phỉ phui tiếng: “Muốn gặp muội phải tới ngay hay sao, tới có vấn đề gì chắc? Có ai đợi huynh à?”

      Y khẽ nhéo tai tôi, cười : “Tất nhiên là nàng đợi ta rồi… Đến dối cũng biết, tai nóng hết cả lên rồi này.”

      Tôi định biện bạch, chợt nhớ tới việc vừa rồi, liền đấm lên vai y. “Vừa rồi tại sao lại dọa muội như vậy? Làm muội sợ chết mất.”

      Y cười hà hà, đáp: “Làm gì có ai đường mà tập trung tinh thần quá thể như nàng, chỉ biết cắm cúi nhìn đường thôi, ngay cả việc ta theo sau cũng biết.”

      Tôi thèm để ý đến y, quay sang với A Tấn: “Ngươi cũng chẳng ra gì, chỉ biết theo chủ nhân nhà ngươi mà làm bừa thôi.”

      A Tấn cười hì hì, : “Nương tử đừng giận mà, hãy nể tình Vương gia đêm hôm khuya khoắt mà còn tới đây .”

      Tôi khẽ cười tiếng, : “Có ai giận đâu nào.”

      Tới lúc này, Huyền Thanh mới lên tiếng: “Nàng mình, ta yên tâm, vì thế mới theo nàng.”

      Tôi kìm được hơi nhếch khóe môi, khẽ : “Tất nhiên muội biết chứ!”, rồi lại hỏi: “Huynh còn phải tới An Tê quán đúng ? Mau thỉnh an Thái phi trước !”

      Y “ừm” tiếng, giao chiếc đèn lồng trong tay cho A Tấn, : “Ngươi hãy đích thân đưa nương tử về, ta thỉnh an Thái phi trước.” Y chăm chú nhìn tôi, khuôn mặt ngợp nét vui mừng, khẽ : “Nàng đợi ta nhé!”

      Tôi thẹn thùng cúi đầu, lí nhí đáp lời y: “Được!” Rồi y mình về hướng An Tê quán. Đợi sau khi y xa, tôi mới cùng A Tấn chậm rãi quay về.

    2. khahanhl

      khahanhl Well-Known Member

      Bài viết:
      2,937
      Được thích:
      1,718
      Chương 28: Gió vàng sương ngọc[1]

      [1] câu thành ngữ tả cảnh mùa thu, thường được dùng để về khung cảnh gặp gỡ của những cặp nam nữ - ND.

      Khi y tới trời khuya lắm rồi, có điều biết y tới nên tôi vẫn để sẵn cửa chứ đóng lại.

      Tôi ngồi trong phòng, thắp ngọn nến mà lẳng lặng vá áo. Chợt nghe tiếng “két” từ phía cánh cửa bên ngoài, tôi biết là y tới, vội đứng dậy.

      Hoán Bích sớm ra ngoài mở cửa, còn tươi cười cất tiếng giòn tan: “Vương gia tới rồi!”

      Quả nhiên là y tới. chiếc mũ đồng bó tóc của y dính chút sương đêm, lấp lánh phát sáng, ngay cả ống tay áo và mép áo cũng đều ướt đẫm mảng, chắc là quệt vào lá cỏ lúc đường. Vì ẩm ướt nên khi gió thổi tới, áo y hề tung bay, có điều cũng vì thế mà nhìn dáng người y càng thêm rắn rỏi, vững chãi.

      Tôi lấy chiếc khăn tới đưa cho y, : “Huynh tự lau , lỡ như bị nhiễm phong hàn hay chút nào.”

      Y cầm lấy khăn tay tự lau chùi chút, cười : “Xin lỗi, ta ở chỗ mẫu phi hơi lâu, khiến nàng muộn thế này rồi mà còn chưa thể ngủ.”

      Tôi khẽ mỉm cười. “Muội trước giờ vẫn luôn ngủ muộn, huynh biết mà.”

      Y nửa như lo lắng nửa như cảm khái: “Nàng vẫn bị mất ngủ sao? Thuốc lần trước uống thế nào rồi?”

      Tôi lại lấy chiếc khăn tay nữa tới, bảo y ngồi xuống, lau chỗ nước sương bám chiếc mũ đồng búi tóc của y, vừa lau vừa khẽ : “Thuốc đó tốt lắm, muội uống xong rất ít khi nằm mơ. Chỉ là muội thích ngủ sớm thôi!” xong, tôi lại mỉm cười. “Huynh chắc cũng tin vào y thuật của Ôn thái y chứ.”

      Y khẽ gật đầu: “Tất nhiên”, sau đó lại nhìn tôi vẻ trìu mến, : “ có việc gì ngủ sớm .”

      Tôi nhàng vuốt ve mái tóc được búi lại gọn gàng của y, cười : “Hôm nay có thể tính là có việc gì ?”

      Đợi y chỉnh sửa lại quần áo xong xuôi, tôi mới nhìn kĩ. Độ này thời tiết nóng nực, y chỉ mặc chiếc áo dài màu xám bạc may bằng the mỏng, nơi ống tay áo có thêu hai bông hoa màu trắng, nếu tỉ mỉ nhìn kĩ cơ hồ thể nhìn ra được. Trông bộ dạng này của y hoàn toàn có chút khí độ nào của bậc thân vương mà hệt như tay công tử nho nhã bình thường.

      Tôi khỏi thầm khen y tinh tế: “A Tấn huynh giả vờ say ra ngoài, lại vội vã chạy tới đây, ngờ quần áo lại hề có chút sơ hở nào như vậy, khi đường có ai ngờ huynh lại là hoàng thân quý tộc cơ chứ!”

      Y cúi xuống nhìn rồi cũng bật cười tiếng. “Trong Thanh Hà Vương phủ thiếu loại quần áo bình thường thế này, chỉ là màu xám bạc này ấy mà…”

      Lòng tôi hiểu , vì tôi giờ sống ở thiền phòng, thường ngày chỉ mặc loại áo ni màu xám, do đó y mới cố ý chọn màu sắc này cho hợp với tôi.

      Hoán Bích đứng bên cạnh khẽ cười tiếng, chỉ tay vào ngọn nến dài chiếc bàn gỗ trước mặt, : “Hôm nay tiểu thư cố ý chọn cây nến dài nhất đó, đốt rất lâu rồi mới cháy hết phần. Nô tỳ cứ ngỡ là vì tiểu thư định tới chỗ Thái phi nên quay về muộn, ngờ lại là vì biết trước Vương gia tới.”

      Y mỉm cười, giọng thoáng mang theo chút nghi hoặc: “Nàng biết là ta tới sao?”

      Tôi chăm chú nhìn y, cười đáp: “Muội biết huynh có lẽ thể tới được, nhưng trong lòng vẫn luôn nghĩ rằng huynh có thể tới. Còn về nến ấy mà, chẳng qua thắp để tối đến may vá hoặc là chép kinh văn thôi.”

      Y gì, chỉ đưa bọc nho tới cho Hoán Bích, : “ rửa qua !” Hoán Bích vâng lời rời .

      Y ghé tai tôi, khẽ: “Nàng cứ nghĩ, nghĩ mãi, mong rằng có thể gặp được ta đường, thế rồi ta liền tới, đúng vậy ?”

      Dưới ánh nến đỏ lờ mờ, trông y dịu dàng mà tuấn tú, sắc mặt ngợp nét mừng vui. Tôi nhất thời ngơ ngẩn, quên cả việc đáp trả câu trêu chọc đó của y.

      Y cũng gì thêm, chỉ khẽ búng mũi tôi cái, cười tủm tỉm, : “Mẫu phi nàng thích ăn nho, bảo ta mang cho nàng ít.”

      Tôi mỉm cười, liếc nhìn bóng dáng Hoán Bích bên ngoài. “Thái phi cứ nghĩ cho muội thế này, thực phải hao tâm tổn sức rồi!”

      Y cười, : “Ta thấy mẫu phi thương nàng còn hơn cả thương ta ấy chứ!” rồi lại kéo ống tay áo tôi lại. “Hôm nay dường như mẫu phi rất vui, nhất định là vì nàng tới đó cùng bà trò chuyện rồi.” Y chăm chú nhìn tôi, dịu dàng : “Cảm ơn nàng!”

      Tôi cúi đầu lí nhí: “Huynh gì vậy, muội còn cần huynh cảm ơn sao?”

      Y càng cười tươi hơn. “Thấy mẫu phi thích nàng như vậy, ta rất vui.”

      Tôi chợt nghĩ tới chuyện, khuôn mặt bất giác nóng bừng, vội hỏi: “Thái phi bảo huynh mang nho tới cho muội thế này, có phải là vì biết sau khi rời khỏi An Tê quán, huynh tới chỗ muội vậy?”

      Y cười, : “Tất nhiên rồi, chứ ta còn có thể đâu được?”

      Tôi lại càng thẹn thùng. “Như vậy đâu có tiện chứ, sau này muội dám đến gặp Thái phi nữa mất thôi.”

      Y xoay người tôi lại, chăm chú nhìn vào mắt tôi, : “Mẫu phi ràng cũng hy vọng ta tới thăm nàng, vậy nên mới giao đồ cho ta. Ta là con trai của mẫu phi, bà tất nhiên hiểu lòng ta nhất rồi.”

      Tôi cả thẹn, kìm được bật cười khúc khích, vùi đầu vào lòng y.

      Y khẽ hỏi tôi: “Nàng có buồn ngủ ?”

      Tôi ngẩng lên nhìn y, mỉm cười : “Huynh muốn nghe lời lòng ?”

      Y ngẩn người. “Tất nhiên là có rồi.”

      Tôi đưa tay sờ cằm, cố nét cười trong mắt, cất giọng tinh nghịch: “Vừa rồi cơn buồn ngủ qua , bây giờ muội tỉnh như sáo ấy.”

      Y tươi cười rạng rỡ, đưa bàn tay tới trước mặt tôi. “Vậy bây giờ chúng ta ra ngoài dạo chút nhé, nàng thấy có được ?”

      Tôi cũng nở nụ cười tươi, đặt tay mình vào giữa bàn tay y, hai người dắt tay nhau cùng bước ra ngoài.

      được gần nửa canh giờ, tôi vẫn chẳng biết y rốt cuộc muốn đưa tôi đâu, chỉ cảm thấy được y dắt tay, chậm rãi bước thế này, bất kể là tới đâu, lòng tôi cũng vô cùng vui vẻ.

      đường , y kỳ thực hề yên phận, bên hông y có buộc chiếc túi trong suốt làm bằng vải thưa, giữa trung thỉnh thoảng lại có con đom đóm lập lòe bay liệng, y liền nhanh tay bắt lấy, bỏ vào túi. Mắt y rất tinh, ra tay lại chuẩn xác, chẳng bao lâu sau bắt được khá nhiều đom đóm.

      Tôi mỉm cười trách cứ: “Huynh tập trung đường , cứ như trẻ con vậy.”

      Y gì, vẫn tiếp tục vừa vừa bắt đom đóm.

      Con đường núi uốn lượn dốc dần xuống, loáng cái chúng tôi tới bên dòng sông dưới chân núi. Nước sông chầm chậm chảy về đông, phát ra những tiếng rì rào nhè , từng làn gió thổi tới khiến dãy cỏ bên bờ sông ngừng đung đưa, khiến khung cảnh càng trở nên thanh bình và tịch mịch.

      Tôi mỉm cười, : “Huynh muốn nghe hát sao? Giờ này A Nô ngủ từ lâu rồi, chẳng thèm để ý tới huynh đâu.”

      Y kéo tôi lại gần, chỉ tay vào chiếc thuyền mà A Nô dùng để chở khách lúc ban ngày. “Chúng ta qua sông thôi.”

      Tôi xua tay lia lịa. “Huynh điên rồi, nửa đêm thế này mà còn muốn qua sông.”

      Y : “Ta làm người chèo thuyền.”

      Tôi thấy y cao hứng, liền chút nghĩ ngợi ngay: “Vậy được rồi.”

      Hai chúng tôi nhảy lên thuyền, y khua mái chèo chậm rãi đưa thuyền tới giữa sông, động tác hết sức thuần thục. Tôi nhớ lại cảnh gặp y hồ Thái Dịch năm xưa, khung cảnh cũng giống thế này, y ngồi ở đầu thuyền khua mái chèo, còn tôi ngồi lặng lẽ giữa thuyền, bó hoa sen cuối cùng trong hồ Thái Dịch lẳng lặng tỏa hương, dường như tới giờ, hương thơm vẫn còn đọng nơi đầu mũi. Giữa làn nước rung rinh, vầng trăng dường như vẫn là vầng trăng độ nào, tôi ngồi thuyền của y, trái tim đập thình thịch. Chỉ là thời gian chưa khi nào ngừng trôi, tựa như dòng nước sông chảy mãi bên cạnh, giờ tôi có thể dắt tay y cùng bước rồi.

      Nhớ lại ngày xưa, lòng tôi cũng tràn đầy cảm khái, chưa từng nghĩ lại có hôm nay.

      Nhất thời tâm tình khoan khoái, tôi kìm được vỗ tay làm nhịp cất tiếng hát vang: “Em nay đối với tình lang, tình càng thấm thía dạ càng ngẩn ngơ. Nhớ ai nhớ đến bao giờ? Ngày ngày tựa cửa trông chờ tình lang. Tình lang ơi hỡi tình lang, lòng này thắm thiết xin chàng chớ quên…”

      Đây chính là bài mà A Nô vẫn thường hát lúc chèo thuyền.

      Huyền Thanh nghe thấy tôi hát, liền ngoảnh lại khẽ mỉm cười. “Hiếm khi được nghe nàng hát, ra nàng hát lại thế này.”

      Tôi có chút thẹn thùng, cười : “Có gì đâu mà hay chứ, chẳng qua là ngày ngày nghe A Nô hát, có ngốc đến mấy cũng học được thôi.”

      Y khẽ ngân nga: “Nhớ ai nhớ đến bao giờ? Ngày ngày tựa cửa trông chờ tình lang”, rồi liền nhìn tôi chăm chú.

      Tôi kìm được bật cười khúc khích. “Hình như huynh rất thích nghe bài dân ca này phải?”

      Y : “Tất nhiên rồi, so với thơ từ, dân ca lại càng thẳng vào lòng người, chút vòng vèo, có thể dễ dàng biểu đạt tâm trạng khoan khoái, vui vẻ của người ta.”

      Tôi khẽ cười dịu dàng. “Tâm tư mỗi người đều quanh co khó đoán, nếu tất cả đều có thể thẳng thắn tỏ nỗi lòng tốt biết bao.”

      Bóng lưng cao lớn của y đổ xuống người tôi, dường như toàn bộ thân thể tôi đều bị bóng của y bao trùm. Trời đất dù có sáng tỏ đến mấy cũng thể khiến tôi yên tâm bằng việc được bóng dáng của y trùm lên người như lúc này.

      Tôi bất giác khẽ cười tiếng, nhìn y, : “Động tác chèo thuyền của huynh thuần thục quá, lẽ nào là bởi huynh thường xuyên tới hồ Thái Dịch luyện tập?”

      Y cười “phì” tiếng, đáp: “Cho dù ta thường xuyên tới hồ Thái Dịch chèo thuyền, nàng nghĩ lần nào cũng có thể gặp được nữ tử giả dạng làm cung nữ lén chạy ra ngoài như nàng sao?” Y nhìn tôi chăm chú. “Khi đó lá gan của nàng lớn , ngờ lại dám lén chạy thăm Huệ Quý tần bị cấm túc.”

      “My Trang tỷ tỷ sao? biết bây giờ tỷ ấy thế nào rồi?” Vừa nghĩ tới My Trang, trong lòng tôi liền trào dâng muôn vàn nỗi nhớ nhung.

      Y nhìn tôi, cất lời an ủi: “ ấy rất khỏe, hôm nay ta vừa gặp ấy xong. Chỉ là ấy vẫn như trước đây, rất ít qua lại với người khác.”

      Tôi nhớ đến lối xưng hô của y với My Trang vừa rồi, kìm được hơi cau mày, hỏi với giọng nghi hoặc: “Huệ Quý tần?”

      “Phải!” Y thoáng trầm ngâm rồi mới đáp: “Mùng tháng Bảy năm nay, tức là sáu ngày trước, vâng theo ý chỉ của Thái hậu, hoàng huynh thăng cho Thẩm My Trang làm Quý tần chính tam phẩm, cho phép dọn ra khỏi Sướng An cung tới làm chủ nhân Diễn Khánh cung, ngoài ra còn được xây riêng cho Tồn Cúc điện để ở.”

      Nghe đây là ý chỉ của Thái hậu, lòng tôi hiểu Thái hậu nhất định vẫn còn bảo bọc cho My Trang. Diễn Khánh cung là trong những cung điện lớn nhất hậu cung, gần kề Sướng An cung mà My Trang trú ngụ trước đây, cũng chính là cung điện mà Kính Phi làm chủ, đương nhiên thuận tiện vô cùng. Nghĩ tới đây, lòng tôi nhõm hẳn , sắc mặt cũng tràn ngập vẻ thư thái.

      “Nhưng…” Huyền Thanh lại tiếp: “Huệ Quý tần từ chối.”

      Tôi cả kinh, vội hỏi: “Tại sao? Là vì Hoàng hậu gây khó dễ? Hay là vì An Lăng Dung giở trò?”

      Y chậm rãi lắc đầu. “Đều phải. Là Huệ Quý tần tự mình từ chối. ấy xin được đến ở tại Đường Lê cung.”

      Đường Lê cung, tôi tột cùng chấn động, bởi đó chính là nơi ở của tôi trong Tử Áo Thành trước đây. Tôi lập tức hiểu ra, Đường Lê cung là nơi tôi bị giam lỏng, sau khi tôi bị đuổi ra khỏi cung, nó tất nhiên trở thành vùng đất lành trong mắt các phi tần, ai chịu đến ở, ngay đến Huyền Lăng có lẽ cũng muốn bước chân vào đó lấy nửa bước.

      Tôi bị đuổi ra khỏi cung, phụng chỉ để tóc tu hành, đời này kiếp này tất nhiên phải chết già bên ngoài, bao giờ được trở về nữa. Nếu có gì thay đổi, cung điện mà tôi từng ở sớm muộn gì cũng được ban cho phi tần khác, thân là tỷ muội chí cốt của tôi, My Trang tất nhiên đành lòng trơ mắt đứng nhìn, mà thà rằng tự mình đến đó ở.

      Dù sao trong mấy năm sống ở Tử Áo Thành, Đường Lê cung cũng là chốn yên thân duy nhất của tôi.

      Dường như Huyền Thanh cũng vô cùng cảm khái: “Huệ Quý tần muốn trú tại Diễn Khánh cung đường hoàng, hoa lệ, mà lại xin tới Đường Lê cung bị tất cả mọi người trong cung coi là vùng đất lành, chỉ e từ nay về sau ơn mưa móc càng ít ỏi.”

      Tôi bất giác buột miệng hỏi: “Tỷ ấy làm như vậy, lẽ nào Thái hậu ngăn cản sao?”

      Y khẽ lắc đầu vẻ cảm thương. “Nàng và ấy giao hảo với nhau từ , lẽ nào còn tính cách của ấy? Huống chi đám người Hoàng hậu và An thị đều mong ấy bị thất sủng, tất nhiên thuận nước dong thuyền.” Có lẽ vì tâm trạng nặng nề nên động tác chèo thuyền của Huyền Thanh bất giác chậm hẳn . “Theo ta thấy, chắc ấy có ý giữ Đường Lê cung thay nàng, sống mình ở đó trong quạnh hiu.”

      Lòng tôi xúc động vô cùng, ra My Trang cự tuyệt ý tốt của Huyền Lăng, muốn dọn tới Đường Lê cung là vì còn có thâm ý này. Đường Lê cung là nơi tôi gặp Huyền Lăng lần cuối, Huyền Lăng canh cánh trong lòng, tất nhiên để cho sủng phi nào tới ở. khi có ai vào ở trong Đường Lê cung, Huyền Lăng ắt chẳng buồn ngó ngàng gì tới nàng ta nữa. cách khác, phi tần nào tới Đường Lê cung cũng đồng nghĩa với việc bị Hoàng đế ghẻ lạnh, gần như chẳng còn cơ hội gặp được Hoàng đế nữa.

      My Trang ơi là My Trang, ngờ tỷ cũng quyết liệt với Huyền Lăng tới mức này rồi.

      Nhưng cũng phải thôi, với tính cách của tỷ ấy, thà độc mình trong cung chứ nhất định chịu xin Huyền Lăng thương hại.

      Tôi vừa cảm động lại vừa lo lắng, nghĩ tới việc My Trang tuổi xuân tươi đẹp như vậy mà lại phải ở trong Đường Lê cung u uất mình, lòng tôi trào dâng muôn vàn cảm xúc đan xen, vô cùng bức bối. “Cuộc đời của My Trang có quá nhiều điều tiếc nuối.”

      Huyền Thanh đưa tay khẽ vuốt ve bờ má tôi, cất giọng xót xa: “Nàng cảm thấy cuộc đời của ấy có chỗ nào đáng tiếc sao?”

      Tôi suy nghĩ tới chỗ sâu xa, càng nghĩ lại càng khó chịu, thế nhưng trong khó chịu ấy cũng dần sinh ra tia an ủi, khiến sắc mặt tôi bất giác nhõm hẳn . “ thực lòng, so với việc tỷ ấy đắc sủng để rồi phải mình nắm giữ đại cục, đối chọi với đám người Hoàng hậu, An thị và Quản thị, muội vẫn mong tỷ ấy có thể sống yên ổn trong Đường Lê cung, như vậy ít nhất cũng lo lắng về tính mạng, có thể bình yên đến già.” Tôi đưa tay tới, nắm lấy bàn tay Huyền Thanh. “Tỷ ấy được Thái hậu bảo vệ, hơn nữa lại là người thất sủng, Hoàng hậu và các phi tần khác hãm hại tỷ ấy đâu. Muội chỉ mong My Trang tỷ tỷ được bình an, phải sống quá vất vả, chỉ vậy thôi.”

      Lòng bàn tay Huyền Thanh rất ấm áp, ấm áp ấy len qua da thịt, truyền vào lòng tôi từng chút, khiến tôi dần bình tĩnh trở lại.

      Gia tộc tôi phát sinh biến cố, tôi phải rời , mẹ con tôi phải ly tán, My Trang chưa chắc muốn báo thù giúp tôi. Nhưng ở trong cung bây giờ, My Trang thế đơn lực bạc, khó có thể làm gì. Dù tỷ ấy có căm hận đến đâu nữa, có mong muốn đến đâu nữa, Thái hậu cũng cho phép tỷ ấy làm gì vì tôi. Hẳn Thái hậu đáp ứng với tỷ ấy điều gì nên mới sai Phương Nhược mỗi tháng tới thăm tôi lần, cầu tôi dâng lên chỗ kinh văn chép được mỗi tháng, qua đó chứng tỏ tôi vẫn còn sống. Như vậy, My Trang có đắc sủng hay có gì khác biệt đây? Bởi lẽ điều mà lòng tôi mong mỏi chỉ là tỷ ấy có thể sống tốt, sống trong bình yên và thanh tịnh.

      Tâm trạng tôi dần trở nên bình lặng, khi ngẩng lên, bắt gặp ánh mắt quan tâm của y, trái tim tôi bất giác buông lỏng nhiều, toàn thân đều thư thái.

      Thế nhưng, người mà tôi quan tâm chỉ có My Trang. “Vậy…”

      Y hiểu tâm ý của tôi, bèn cười, : “Kính Phi vẫn khỏe, Lung Nguyệt cũng rất khỏe. Kính Phi coi Lung Nguyệt như con ruột của mình, Lung Nguyệt cũng rất quấn nàng ta, tình mẹ con giữa hai người sâu đậm lắm!”

      Lòng tôi vô cùng vui vẻ, lúm đồng tiền má bất giác ra. “Vậy tốt quá, Lung Nguyệt có bảo bọc của Kính Phi, muội cũng yên tâm rồi!”

      Huyền Thanh trầm giọng : “ giờ Kính Phi và Đoan Phi cùng hợp sức quản lý lục cung, Lung Nguyệt lại ngoan ngoãn, hiểu chuyện, Kính Phi gần như chưa từng rời xa nó. Hơn nữa…” Y cố ý với giọng nhấn mạnh: “Lung Nguyệt là công chúa chứ phải hoàng tử, lại còn rất .”

      Tôi khẽ gật đầu, lòng xao động khôn nguôi, hai hàng lệ nóng chậm rãi tuôn trào, chảy đến khóe miệng cũng hề có cảm giác đắng chát, mà chỉ thấy ngọt ngào. Huyền Thanh rất ràng, Lung Nguyệt là công chúa, vĩnh viễn thể uy hiếp tới địa vị của ai, mà Kính Phi lại có quyền quản lý lục cung, người khác ắt dám tùy tiện trêu chọc nàng ta. Huống chi Kính Phi coi Lung Nguyệt như con đẻ, lúc nào cũng mang nó theo bên cạnh, có thể thấy Kính Phi hạ quyết tâm phải dốc hết sức mình bảo vệ nó.

      Tôi thoáng do dự, cuối cùng vẫn hỏi: “Vậy phụ hoàng của nó…”

      “Rất tốt.” Đôi mắt y lộ vẻ dịu dàng và thấu hiểu, tựa vầng trăng sáng trời, khiến người ta thầm cảm thấy yên tâm. “Có hai chữ Oản Oản đó, hoàng huynh và mẫu hậu tất nhiên đều coi nó như hòn ngọc tay, huống chi bản thân Lung Nguyệt vốn rất đáng rồi.”

      Nước mắt tôi vẫn lã chã tuôn rơi, y dịu dàng đưa tay lên lau giúp, nước mắt của tôi cứ thế thấm vào những đường vân nơi đầu ngón tay y, y : “Mọi người đều khỏe cả, nàng chỉ cần giữ gìn bản thân cho tốt là được.”

      Tôi nhào vào lòng y, gật đầu cách kiên định, cất giọng nghẹn ngào: “Muội biết, muội nhất định giữ gìn bản thân tốt, đó là vì huynh, cũng là vì tất cả những người mà muội thương và nhung nhớ.”

      Tôi ngẩng lên nhìn y, khẽ : “Thanh, cảm ơn huynh, cảm ơn huynh thường xuyên mang tin tức về Lung Nguyệt tới cho muội. Muội là người làm mẹ, kỳ thực nợ nó quá nhiều.”

      Thanh dịu dàng vuốt ve bờ má tôi, ôn tồn : “Nàng suy nghĩ cho Lung Nguyệt rất nhiều rồi, nó ở trong cung, được sống cuộc sống rất tốt. Với tư cách người mẹ, nàng dốc hết sức mình rồi.”

      Dòng sông chảy dài miên man vô tận, tôi và y dừng thuyền sông, để mặc cho nó tự trôi. Tiếng chuông từ chùa Cam Lộ du dương vang lại, bay xa tới tận chân trời, lưu lại dư vương vất, mãi tan. Bầu trời như trải dài bát ngát, vô số vì sao cùng soi bóng xuống dòng sông, mỗi vì sao như viên kim cương lấp lánh, cùng tỏa sáng giữa những nhành cỏ nước rung rinh. Giữa khoảng gian tịch mịch, con thuyền như trôi dòng sông Ngân rực rỡ, tựa hồ có điểm dừng. Y nắm chặt lấy bàn tay tôi, tôi lặng lẽ gối đầu lên đùi y. Vì để tóc tu hành, mái tóc dài của tôi tùy ý buông lơi, bên có món đồ trang sức nào. Chiếc áo dài người y hẳn mặc được thời gian, vậy nên mới mang tới cảm giác mềm mại và thoải mái như vậy, dính sát vào làn da tôi.

      Mái tóc buông xõa của tôi liên tục bị gió thổi qua trước mắt, khiến tôi phải gạt ra hết lần này tới lần khác. Y khẽ nở nụ cười, giọng nghe như tiếng chuông gió tháng Ba từ ngoài hiên vẳng lại, vừa trong trẻo vừa vui tai: “Đêm xưa chẳng chải đầu, tóc xõa buông hai vai[2].”

      [2] Trích Tử Dạ ca, nguyên văn Hán Việt: Túc tích bất sơ đầu, ti phát bị lưỡng kiên - ND.

      Tôi hơi nghiêng đầu qua bên, cất giọng du dương tiếp lời: “Gối tình lang tựa khẽ, nhìn sao đáng [3].”

      [3] Trích Tử Dạ ca, nguyên văn Hán Việt: Uyển thân lang tất thượng, hà xứ bất khả liên - ND.

      Tôi ngẩng đầu nhìn y, khẽ cười “khì” tiếng. Cằm y chắc vừa mới cạo râu, nhìn bóng loáng và ánh lên màu xanh biếc, tựa những tia sáng lờ mờ xuất vào buổi sáng sớm khi mặt trời còn chưa mọc.

      Y cất tiếng cười vang, lại ôm tôi vào lòng, những ngón tay nhàng lướt mái tóc óng mượt của tôi, khẽ : “Chẳng trách các nữ tử đời đều coi trọng mái tóc của mình như vậy, tóc xanh đầy đầu cũng là nỗi tương tư khôn xiết.”

      Tôi nhất thời nảy lòng nghịch ngợm, bèn giật mạnh sợi tóc trước trán y. Vì quá bất ngờ, y kêu “úi chao” tiếng, đau đớn cau mày lại. “Gì thế?”

      Tôi bật cười đáp: “Vừa rồi phải huynh tóc xanh đầy đầu cũng là nỗi tương tư khôn xiết sao? Thấy Thanh lang nhiều tóc như vậy, muội mới giúp huynh nhổ sợi để bớt được chút phiền não vì nỗi tương tư, vậy tốt ư?”

      Y cất tiếng cười vang, đưa hai ngón tay lại nhéo mũi tôi cái. Chiếc thuyền quá , tôi có chỗ nào để tránh, chỉ đành để y nhéo mũi cho xong. Y : “Ai bảo tương tư là phiền não chứ. Nàng có nhổ hết mái tóc này của ta, ta vẫn đối xử với nàng như trước thôi.”

      Tôi khẽ phỉ phui tiếng, : “Thực biết xấu hổ gì hết!” Còn chưa xong bật cười, ngã vào lòng y. Ở trong lòng y, tôi luôn ngửi thấy mùi hương thanh tân, thuần khiết, dường như là mùi hương của hoa đỗ nhược bên trong chiếc túi gấm thuở nào.

      Y cởi chiếc túi vải thưa đeo bên hông ra, dốc hết đám đom đóm bên trong vào giữa hai bàn tay tôi, dịu dàng hỏi: “Có thích ?”

      Những con đom đóm lập lòe phát ra ánh sáng màu xanh lam lành lạnh, như những vì sao đẹp đẽ. Tôi vừa ngạc nhiên vừa vui mừng. “ có sao sáng đầy trời rồi, muội dám nảy lòng tham thêm nữa.”

      Tiếng nước chảy nghe róc rách bên tai, dịu dàng tựa lời tình nhân rủ rỉ. Tôi nhìn đến đắm say nhưng rốt cuộc vẫn thấy đành lòng, liền buông tay thả hết lũ đom đóm ra, nhìn bọn chúng nhàng bay lượn xung quanh mình.

      Tôi thò bàn tay vào trong vạt áo trước ngực y, rất nhanh tìm được chiếc túi gấm bé kia và lấy nó ra. Chiếc túi gấm trông vô cùng tinh xảo, phần miệng có mấy sợi dây tua màu bạc đính ngọc đồi mồi, dưới ánh trăng tỏa ra những tia sáng dìu dịu.

      Tôi thầm nghĩ bao năm nay hẳn y vẫn giữ gìn cẩn thận nên chiếc túi gấm chút nào. Cẩn thận mở nó ra, tôi khẽ : “ là vật từ bao năm trước rồi, sao huynh vẫn mang nó bên mình như thế?”

      Y nhìn chiếc túi gấm bằng ánh mắt dịu dàng và tha thiết, đáp: “Tuy nó cũ rồi nhưng mấy năm nay, nếu có nó bầu bạn kề bên, chắc lòng ta cách nào bình tĩnh được.” Trong chiếc túi gấm vẫn là mấy cánh hoa đỗ nhược như trước, tuy khô nhưng mùi thơm hề giảm bớt, bên cạnh đó còn đặt bức tranh cắt hình tôi, y khẽ cất tiếng ngâm: “Người trong núi chừ, như đỗ nhược thơm[4], cũng chỉ có loài hoa đỗ nhược này mới xứng ở bên bức tranh cắt của nàng thôi.”

      [4] Trích Sơn quỷ, Khuất Nguyên. Nguyên văn Hán Việt: Sơn trung nhân hề phương đỗ nhược - ND.

      Ngón tay tôi nhàng vuốt ve bức tranh cắt màu đỏ, đầu ngón tay như mang theo nỗi lưu luyến khôn nguôi. “Đây là muội của ngày xưa rồi!”

      Bức tranh cắt này là chính tay Tiểu Doãn Tử cắt cho tôi trong đêm Giao thừa năm tôi mới vào cung, dùng để cầu phúc. Đôi tay cực kỳ khéo léo, do đó tranh cắt sống động như .

      Tôi chợt nghĩ tới việc, kìm được tò mò hỏi: “Có chuyện này muội vẫn luôn muốn hỏi huynh nhưng lần nào cũng quên mất… Bức tranh cắt này, rốt cuộc tại sao huynh lại có?” Nghĩ chút tôi lại thêm: “Người muội gặp trong Ỷ Mai viên ngày đó phải là huynh mà.”

      Y khẽ gật đầu. “Tất nhiên phải là ta”, rồi bèn chậm rãi kể: “Hôm đó hoàng huynh rời khỏi bữa tiệc tản bộ, tới Ỷ Mai viên ngẫu nhiên gặp nàng, ta hề hay biết. Ta chỉ nhìn thấy huynh ấy lướt khướt rời , lại nghe tới Ỷ Mai viên, do đó yên tâm lắm, liền cùng Lý Trường tới đó xem thử.” Giọng của y hơi trầm thấp: “Hoa mai ở Ỷ Mai viên vốn nở đẹp nhất trong cung, năm xưa khi Thuần Nguyên Hoàng hậu vào cung, rất được hoàng huynh sủng ái, những loại hoa mai trân quý trong Ỷ Mai viên đều là do hoàng huynh cùng Thuần Nguyên Hoàng hậu chính tay trồng, để nàng ta có thể ngắm nhìn vào mùa đông. Cũng vì thế nên khi nghe hoàng huynh rời bữa tiệc Ỷ Mai viên, ta mới thấy yên tâm, phải đích thân qua đó xem thử.”

      Tôi cúi đầu cất lời cảm khái: “Nguồn cơn của biết bao việc, kỳ thực đều là từ Thuần Nguyên Hoàng hậu mà ra”, rồi lại gượng cười tiếp: “ ra ngay từ đầu, muội tránh khỏi cái bóng của nàng ta.”

      Y dịu dàng an ủi: “Thực ra nàng và nàng ta cũng hẳn là quá giống nhau.”

      Tôi khẽ gật đầu. “Huynh kể tiếp .”

      “Khi ta tới Ỷ Mai viên, hoàng huynh trở ra rồi, còn dặn dò Lý Trường phải nhanh chóng tìm cung nữ trong Ỷ Mai viên, ta nghe vậy liền biết nhất định là có chuyện. Khi đó, ta chẳng qua chỉ là nhất thời tò mò, thấy Lý Trường đỡ hoàng huynh rời , ta liền vào Ỷ Mai viên xem thử. Ta nhớ lại việc hoàng huynh đứng chuyện với cung nữ đó cách gốc cây, thế là bèn tìm tới chỗ hoa nở nhiều nhất, lại có dấu chân tuyết sâu nhất, sau đó liền phát bức tranh cắt được treo cành cây, ta đoán đó chắc là vật mà cung nữ đó để lại.”

      Tôi che miệng khẽ cười. “Sao huynh lại biết ả cung nữ kia, cũng chính là Diệu nương tử sau này, phải là người bức tranh cắt? Huynh từng gặp Diệu nương tử bao giờ chưa?”

      “Gặp rồi.” Y khẽ cười tiếng. “Ta vừa gặp biết ngay ta phải người mà hoàng huynh muốn tìm.”

      “Bức tranh cắt đó tuy sống động như nhưng dù sao cũng phải người sống, thể vừa nhìn nhận ra là ai được.”

      Y khẽ gật đầu. “Tất nhiên rồi, ta cũng đâu thể dựa vào bức tranh cắt đó mà biết ta phải là nàng”, sau đó lại hơi nhướng mày, lộ vẻ khá đắc ý. “Nàng có biết tại sao ta lại biết được ?”

      Tôi cố ý làm bộ để ý đến y. “Huynh muốn , muốn muội cũng chẳng thèm nghe đâu.”

      Y cười rộ. “Là vì dấu chân. Dấu chân mà ta nhìn thấy tuyết ngày đó hơn so với chân của Diệu nương tử nhiều. Vả lại, hoàng huynh từng kể với ta rằng cung nữ chuyện với huynh ấy biết chút về thơ văn. Mà Diệu nương tử xuất thân là cung nữ trồng hoa, dù có thế nào cũng giống như kiểu người có thể ra câu thơ ‘nếu gió đông hiểu ý, xin đừng hại đến hoa’. biết phải là ta rồi, ta liền nảy ra chủ ý giấu bức tranh cắt này .”

      “Tại sao lại phải giấu ?”

      “Diệu nương tử về sau ngừng tranh sủng, lại càng chứng thực phán đoán của ta. Nếu ta là cung nữ trò chuyện với hoàng huynh đêm đó, đáng lẽ phải có ý tránh né mới phải, cớ sao sau khi trở thành phi tần của hoàng huynh lại gây chuyện thị phi khắp nơi như thế? Qua đó đủ thấy ta phải là cung nữ kia.” Y khẽ cười, : “Người trò chuyện với hoàng huynh đêm đó tự xưng là cung nữ trong Ỷ Mai viên, tuy chưa chắc đúng là vậy nhưng nhất định phải là nữ tử trong cung. ấy tất nhiên biết việc Diệu nương tử mạo danh mình, vậy mà lại chẳng gì cả. Ta bất giác cảm thấy thú vị, người xem vinh hoa phú quý, lại hiểu biết về thơ văn, nếu chỉ làm cung nữ thôi quá đáng tiếc.”

      Tôi kìm được cười, : “Muội hiểu rồi, huynh cố tình giấu nhẹm việc này là mong có thể mang ấy về làm thiếp cho mình.”

      Trong mắt Thanh ánh lên nét cười rạng rỡ. “Ta hề có ý nghĩ này. Ta chỉ cảm thấy, nếu có đủ khả năng mình nên cùng ấy làm cặp tri kỷ về thơ từ ca phú, chứ cứ để ấy phải vất vả trong cung, có lẽ ngày ấy bước theo dấu chân của Diệu nương tử, tranh giành sủng ái của hoàng huynh với các nữ tử khác, thế trong cung lại có Hoa Phi đè nén, như vậy cuộc sống của ấy vất vả vô cùng. Ta luôn thầm nghĩ, nữ tử như vậy nên bị mai trong chốn hậu cung.”

      Tôi nở nụ cười chua chát, ngẩn ngơ ngoảnh đầu qua bên. “Đáng tiếc, dù có trốn tránh thế nào, muội rốt cuộc vẫn thể thoát khỏi vận mệnh của mình.”

      Y nhớ lại chuyện xưa, cất giọng nhàng: “Vì thế ngày đó nàng mới mất con, thất sủng, chịu đủ ghẻ lạnh. Nhưng rồi cuối cùng ta thấy nàng mặc bộ đồ trắng xuất trong Ỷ Mai viên cầu phúc cho hoàng huynh, cho dù mang mối hiềm nghi là cố ý, nhưng hoàng huynh ắt chẳng hề để tâm.”

      Tôi cười hờ hững, : “Muội cứ ngỡ rằng lần đó y bị tình ý của muội làm cho cảm động, chẳng ngờ rốt cuộc vẫn là vì Thuần Nguyên Hoàng hậu.”

      Y : “Muội chịu chấp nhận lấy lòng hoàng huynh, y tất nhiên hết sức vui mừng. Tuy nhiên trong có chút tâm cơ nho nhưng y chỉ cảm thấy nàng đáng thương và đáng , vả lại việc còn xảy ra trong Ỷ Mai viên, do đó đắc sủng của nàng về sau là điều hiển nhiên.”

      Tôi lẳng lặng cúi đầu, chậm rãi : “Muội kỳ thực hề biết gì về Ỷ Mai viên”, sau đó lại cười lạnh tiếng, ngoảnh lại : “ ra ngay từ đầu tất cả là vì nàng ta rồi.”

      Y khẽ gật đầu. “Ta biết chứ, chỉ là bây giờ việc này còn quan trọng nữa rồi.” Thần sắc Huyền Thanh dần trở nên ảm đạm, tựa bông tịch nhan ướt đẫm sương đêm, lại giống như vầng trăng non cong cong ở phía chân trời, đầy vẻ đơn, hiu quạnh. “Từ lần đầu tiên nhìn thấy nàng rửa chân bên dòng suối ở Thái Bình hành cung, nghe nàng ngâm câu thơ ‘đời người nếu dừng khi mới gặp, sợ chi vì gió bỏ quạt tròn’, lòng ta , nàng nhất định chính là nữ tử bức tranh cắt đó. Tuy tranh giống người nhưng ta lại có cảm giác đó nhất định chính là nàng. Chỉ đáng tiếc… khi ta gặp nàng lần đầu, nàng là Chân Uyển nghi đắc sủng nhất bên cạnh hoàng huynh rồi.”

      Chân Uyển nghi, quả đúng là thế. Trong Thái Bình hành cung năm đó, tôi là uyển nghi tiểu chủ được Hoàng thượng sủng ái nhất.

      Tôi lòng muốn nhớ lại những việc có liên quan tới Huyền Lăng để rồi khiến bản thân vui, bèn cười, : “Ngày đó huynh lỗ mãng quá chừng, thấy muội để chân trần mà biết tránh , lại còn dám hỏi khuê danh của muội, thực là vô lễ.”

      Y nắm lấy bàn tay tôi, có chút ngượng ngùng cười, : “Ngày đó đúng là ta có phần mạo muội, nhưng ở trong cung ta chưa từng thấy nữ tử nào dám để chân trần mà cất tiếng ngâm nga như nàng. Khi ấy ta quả rất muốn biết tên nàng, do đó tuy cảm thấy ổn nhưng rốt cuộc vẫn cất tiếng hỏi.”

      Tôi đưa tay khẽ cào vào má y, cất tiếng trêu chọc: “Đôi chân trần của nữ tử là thứ quý báu nhất, phải tới đêm động phòng hoa chúc mới có thể cho phu quân của mình nhìn thấy, huynh đúng là được món hời rồi. Mà hỏi tên cũng là nghi lễ quan trọng trong quá trình thành hôn, sao huynh có thể tùy tiện hỏi như thế chứ?”

      Y cười rộ tiếng rồi ôm tôi vào lòng. “Nghĩ lại mới thấy đúng là thế , nhưng qua đó cũng đủ để thấy duyên phận giữa ta và nàng sớm được định sẵn rồi, nếu sao ta lại hỏi những lời như thế và bây giờ nàng lại ở bên cạnh ta chứ?”

      Tôi vô cùng thẹn thùng, phỉ phui : “Sao muội lại quen người như huynh chứ, là xui xẻo quá !”

      Y đáp lại lời tôi, chỉ : “Ta vốn định khi tìm thấy người cung nữ đó tự tay trả lại bức tranh cắt cho nàng ta, nhưng kể từ khi gặp nàng, ta liền biết rằng bức tranh cắt ấy, ta mãi mãi bao giờ chịu trả lại nữa.”

      Tôi hiểu được dụng tâm của y, bèn thấp giọng : “Muội biết, vì muội là người của Hoàng đế nên huynh chỉ có thể giữ lại bức tranh cắt ấy mà thôi.”

      “Trong những tháng ngày đứng nhìn nàng từ xa thuở nào, bức tranh cắt ấy quả thực là thứ duy nhất mà ta có.” Y khẽ gật đầu, trong niềm thương cảm miên man toát ra nỗi mừng vui mà bất cứ ai cũng có thể nhận ra. “Ta cứ luôn nghĩ rằng, cả cuộc đời này, thứ mà ta có thể giữ lại được chỉ có duy nhất bức tranh cắt ấy mà thôi.”

      Tôi đặt bàn tay mình vào giữa lòng bàn tay y, cảm nhận ấm áp từ lòng bàn tay y truyền lại, khẽ : “ đâu.” Y khẽ “ừm” tiếng, tôi lại : “Khi ở trong cung, muội coi huynh như tri kỷ. Chỉ là, muội sợ phải đối mặt với tình cảm của mình.”

      “Vậy bây giờ muội còn sợ nữa ?”

      Bờ vai y vững chãi mà rắn rỏi, tôi tựa mình vào đó, nghe tiếng tim đập đều đều của y, cất giọng kiên định: “Chỉ cần có huynh ở bên, muội sợ gì hết.”

      Ánh mắt y có sức mạnh nào đó khiến người ta cảm thấy yên tâm, tôi có thể nhìn thấy ràng bóng dáng của bản thân trong mắt y, những ngôi sao trời dù có sáng đến mấy cũng thể sáng hơn cặp mắt y được.

      Những con đom đóm bay lượn vòng quanh, đẹp đẽ tựa sao trời. Tôi hơi nghiêng đầu qua bên, nụ hôn của y mang theo làn hơi thở ấm áp tràn tới, nhanh chóng bao bọc lấy tâm hồn tôi.

    3. khahanhl

      khahanhl Well-Known Member

      Bài viết:
      2,937
      Được thích:
      1,718
      Chương 29: Rong chơi mạn Bắc

      Giữa tiết thu se lạnh, Huyền Thanh giục ngựa tới, hưng phấn : “Hoàng huynh vừa cho phép ta lên miền Bắc du ngoạn hai tháng, ta chuẩn bị xong hành trang rồi, chúng ta cùng nhé!”

      Tôi ngẩn người. “Huynh lên miền Bắc ngao du, sao muội có thể theo được?”

      Y cười đáp: “Ta xưa nay vẫn luôn độc lai độc vãng, vi hành ra ngoài, có ai biết ta là vương gia chứ. Còn hoàng huynh, từ sau khi có được tân sủng Phó thị, huynh ấy đâu còn thời gian rảnh mà để ý tới người khác nữa. Lần này ta chỉ mang theo mình A Tấn, chúng ta cùng nhau du ngoạn Thượng Kinh, nàng thấy thế nào?”

      Tôi có chút do dự. “Nhưng muội mình mặc áo ni , còn tu hành nữa.”

      Cận Tịch đứng bên cười, : “Nương tử ngày ngày ngồi ở đỉnh Lăng Vân này thực là bí bách lắm, cứ ra ngoài vui chơi cho khuây khỏa cũng hay. Dù sao chúng ta cũng ở riêng bên ngoài, ai mà biết được nương tử có còn ở đây . Chỉ cần thay áo ni ra là được, chúng ta vẫn còn rất nhiều quần áo cũ từ ngày xưa mà, mặc vào rồi há chẳng phải giống nữ tử bình thường sao?”

      Hoán Bích cũng mỉm cười, : “Bên cạnh tiểu thư thể có người hầu hạ, chi bằng hãy mang theo cả nô tỳ nữa.”

      A Tấn cười hì hì, vỗ tay : “Bích nương hầu hạ nương tử, A Tấn ta hầu hạ Vương gia, bốn người chúng ta cùng với nhau là tuyệt nhất.”

      Cận Tịch ôn tồn : “Nương tử và Hoán Bích nương cứ , nô tỳ ở lại đây trông nhà. Tới Thượng Kinh vào mùa này là hợp nhất đấy, phong cảnh rất đẹp.”

      Trong mắt Huyền Thanh tràn ngập nét cười. “Chúng ta chưa từng ra ngoài chơi với nhau bao giờ đâu đấy, nàng có bằng lòng ?”

      Đại Chu hồi mới lập quốc từng định đô ở Dương Kinh mười hai năm nên nơi đó còn có tên là Thượng Kinh, cách kinh đô Trung Kinh giờ khoảng chừng ba trăm dặm. Đại Chu năm Kiến Nguyên thứ mười, tộc Hách Hách ở miền Bắc liên tục đưa quân xâm phạm khu vực phụ cận Thượng Kinh, trong lần tồi tệ nhất, Tế Cách Khả hãn của tộc Hách Hách thậm chí còn dẫn theo năm ngàn tinh binh đánh thẳng tới Nhạn Minh quan, cửa ải cách Thượng Kinh chỉ chừng tám mươi dặm.

      Nhạn Minh quan tây giáp sông Hi Lăng, phía nam gần địa giới Dương Kinh, phía bắc có Chỉ Tiên quan nối liền với sạn đạo ở núi Lạc Thiết, xưa nay luôn là vùng đất nhà binh ắt phải tranh đoạt. Bên ngoài núi Lạc Thiết là vùng thảo nguyên và sa mạc mênh mông, toàn bộ là lãnh địa của người Hách Hách. Do đó Nhạn Minh quan là vùng yếu địa bảo vệ giang sơn Đại Chu trước tấn công của tộc Hách Hách, quan trọng vô cùng. Vì cửa quan đó được dựng ở nơi hiểm trở, dễ thủ khó công, ngẩng đầu là gần như có thể chạm tới trời, ngay đến chim nhạn cũng khó lòng bay qua được, mỗi lần đến cuối thu lại thường xuyên nghe thấy từng đàn chim nhạn bay lòng vòng xung quanh mà cất tiếng hót bi thương, do đó mới có tên là Nhạn Minh quan. Thế nhưng chỉ chim nhạn mới cất tiếng hót bi thương, cuộc sống của người dân xung quanh Nhạn Minh quan cũng kham khổ vô cùng. Tộc Hách Hách vốn sống ở phương Bắc, thường xuyên di cư theo nguồn nước và thảm cỏ, khi nào nước đầy cỏ rậm còn đỡ, khi tới mùa thu nước cạn cỏ khô, ấm no của bộ tộc bị đe dọa, bọn họ xua quân xuống miền Nam, băng qua núi Lạc Thiết mà chém giết cướp bóc, khiến dân cư Đại Chu nơi biên thùy cửa nhà bị hủy, gặp hồi chiến loạn liên miên, khổ sở lời nào tả xiết.

      Năm Kiến Nguyên thứ mười vừa khéo xảy ra cơn đại hạn, ngàn dặm thảo nguyên tươi tốt của người Hách Hách biến thành vùng hoang vu, vào thu chỉ chừng mười ngày thời tiết biến đổi hẳn, trở nên giá lạnh vô cùng, vài ngày sau tuyết rơi, băng dày ba thước. Người Hách Hách vì muốn giữ vận nước, duy trì sinh tồn của bộ tộc, liền dốc hết quốc lực mà xua mười vạn đại quân đánh xuống miền Nam.

      Khi đó Đại Chu cũng trong cơn hạn hán, lại vừa phải trải qua mấy năm chinh chiến liên miên, đất nước cần có thời gian phục hồi nguyên khí, sức nước suy yếu vô cùng, vấn đề lương thảo ở nơi biên ải khó lòng giải quyết, thế lại gặp cơn tuyết lớn, tướng sĩ giữ ải ai ngờ được giữa trời tuyết lớn mênh mang lại thình lình có mấy vạn thiết kỵ Hách Hách xông ra, thế là tất cả chỉ biết trợn tròn mắt há hốc miệng, ngơ ngác nhìn nhau, để mặc cho vó ngựa của đối phương tràn xuống phía Nam.

      Nếu Nhạn Minh quan bị phá, Thượng Kinh e chẳng còn gì che chắn, hoàn toàn hé lộ trước mặt kẻ địch. Thái Tổ chinh chiến mất mười mấy năm mới giành được mảnh giang sơn gấm vóc, vậy mà tưởng như sắp rơi vào tay lũ giặc man di tới nơi, lập tức lòng người cả nước đều hoang mang khôn tả, thậm chí có người còn khuyên Thái Tổ lui xuống bờ Nam sông Trường Giang, giữ lấy nửa giang sơn để giằng co với người Hách Hách.

      Trong cơn nguy cấp, may mà có Đại tướng Tề Bất Trì chẳng ngại mang tấm thân già nua chinh chiến sa trường nửa đời người, khoác áo giáp trở ra chiến trận, với tuổi lục tuần mà vẫn xung phong trước sĩ tốt, mũi tên bắn xuyên qua vai Tế Cách Khả hãn, khiến ngã ngựa, qua đó quét sạch ủ dột của tướng sĩ Đại Chu, đồng thời cũng làm cho sĩ khí quân Hách Hách suy giảm hẳn, còn dám tiến lên phía trước nữa.

      Tháng Mười năm Kiến Nguyên thứ mười, Nguyên soái quân Hách Hách là A Bất Ly lại lần nữa dẫn quân tiến đánh Nhạn Minh quan, Tề Bất Trì cầm quân phòng thủ, cho xây dựng tường lũy bên phải cửa quan, đặt tên là Diệt Hách Bình, đồng thời lại chọn nơi hiểm yếu dựng thêm cửa ải, thiết lập đạo phòng tuyến thứ hai, sẵn sàng chờ đợi. Tháng Mười hai cùng năm, Tề Bất Trì và quân Hách Hách giao chiến mấy ngày, rốt cuộc giữ được, phải lùi về đạo phòng tuyến thứ hai. Tướng sĩ Hách Hách mình mặc giáp dày, dùng móc sắt leo lên tường thành ngớt, Tề Bất Trì và đệ đệ là Tề Bất Thoái đốc quân tử chiến, dùng cung cứng nỏ mạnh giết chết rất nhiều quân địch, nhưng thế công của đối phương vẫn suy giảm, Tề Bất Trì sai bộ tướng Mộ Dung Chính dẫn theo cánh quân tinh nhuệ, dùng đao dài búa lớn tấn công vào hai cánh trái phải của quân Hách Hách, qua đó phá tan nhuệ khí quân địch. Ngày mùng tháng Giêng năm Kiến Nguyên thứ mười , Tề Bất Trì cho đốt núi Lạc Thiết, gõ trống trận vang trời, xuất quân phản kích, lại phái các tướng Vương Hỉ, Vương Vũ tấn công vào đại doanh quân Hách Hách. Đại quân Hách Hách trong cơn kinh hãi bị đánh cho luống cuống chân tay, Nguyên soái quân Hách Hách là A Bất Ly chiến tử, Tế Cách Khả hãn bị thương chưa lành phải dẫn quân tháo chạy, nửa đường vết thương tái phát mạng vong. Tề Bất Trì thừa thế sai Mộ Dung Chính dẫn quân truy kích, giết được hơn vạn tên địch, làm máu chảy thành sông; lại phái Tề Bất Thoái chặn cánh phục binh con đường mà quân Hách Hách ắt phải qua khi trốn về nước, tập kích quân Hách Hách thêm lần nữa. Sau trận này, quân Hách Hách bị ép phải lùi về đến đô thành Tàng Kinh.

      Tề Bất Trì chinh chiến cả đời, kiên trinh can đảm, rốt cuộc vào tuổi sáu mươi dựa vào chiến công ở Nhạn Minh quan mà được phong hầu bái tướng, trở thành vị võ tướng tước hầu đầu tiên của triều Đại Chu, Định Huân Hầu. Thái Tổ sai họa sĩ giỏi vẽ lại chân dung ông, cho treo trong Dương Dực điện kề bên Thái miếu ở Thượng Kinh, lưu danh sử sách. Thậm chí năm đó ở vùng phụ cận núi Lạc Thiết, nếu có đứa trẻ nào bướng bỉnh gào khóc ngơi, người lớn chỉ cần dọa câu: “Tề Bất Trì tới rồi!”, đứa bé đó ắt nín bặt, dám quấy khóc thêm nữa.

      Đáng tiếc, ông trời chẳng tha cho ai, sau khi được phong tước ba tháng, Tề Bất Trì kiệt sức qua đời, ngậm cười nơi chín suối. Về sau, hậu nhân của ông tuy bị Thái Tông dùng vinh hoa phú quý mà tước binh quyền, còn nắm trong tay thiên binh vạn mã của Đại Chu nữa, thế nhưng gia tộc vẫn hiển hách vô cùng, trải trăm năm suy chuyển. Nhưng tới năm Càn Nguyên của bản triều, dòng họ Tề nhân đinh dần trở nên thưa thớt, gia tộc cũng theo đó mà suy bại. Thế nhưng dù sao cũng là gia tộc sừng sững trăm năm, dư uy của bọn họ vẫn còn, ai dám xem . Hậu nhân của Tề Bất Trì chính là Đoan Phi Tề Nguyệt Tân trong cung nay, đây cũng là nguyên nhân Tề Nguyệt Tân từ được nuôi trong thâm cung để Huyền Lăng chọn làm phi tần.

      Mấy năm sau khi Tề Bất Trì qua đời, tin tức vẫn bị triều đình Đại Chu phong tỏa chặt chẽ. Người Hách Hách trong trận Nhạn Minh quan chỉ bị mất nguyên soái và mấy vạn binh sĩ, ngay cả Khả hãn cũng bỏ mạng giữa đường, do đó rất sợ uy danh của Tề Bất Trì, thêm vào đó, nguyên khí tổn thương rất nặng, suốt mấy năm liền dám có hành động gì với Đại Chu, mực yên phận giữ mình. lâu sau, Đại hãn Hách Hách đời kế tiếp là Cách đưa ra đề nghị giải hòa với Đại Chu, đồng ý lấy núi Lạc Thiết làm biên giới, xây dựng chợ Hỗ Thị để tiến hành mậu dịch, dùng trâu bò ngựa dê đổi lấy lá trà, tơ lụa cùng với lương thực từ Đại Chu, hai bên tự phòng thủ biên giới của mình, mãi mãi xâm phạm lẫn nhau.

      Sau khi Tề Bất Trì qua đời, Đại Chu kỳ thực chẳng còn bao nhiêu binh lực để mà điều động, thêm vào đó trận Nhạn Minh quan làm quốc lực tổn hao nặng nề, có vài năm đừng hòng hồi phục, do đó thấy Hách Hách đến nghị hòa lập tức đồng ý. Thế rồi hai bên Đại Chu và Hách Hách tiến hành uống máu ăn thề tại con sông biên giới, sử sách gọi đây là “Hội thề Hà Trì”.

      Đại Chu và Hách Hách cùng cho dựng bia ở Thượng Kinh và Tàng Kinh, bên khắc các việc có liên quan tới hội thề. Trong hội thề, hai bên đồng thời bày tỏ Đại Chu và Hách Hách là huynh đệ nhà, từ nay về sau coi nhau như , cùng giữ biên cương, vĩnh viễn xâm phạm lẫn nhau để dân chúng được an cư. Ngoài ra hai bên còn bàn bạc các hạng mục trong việc xây dựng Hỗ Thị, ước định bên Hách Hách dùng các vật như vàng bạc, ngựa dê, da sống, đuôi ngựa để trao đổi, còn bên Đại Chu dùng các vật như lá trà, tơ lụa, nồi niêu, lương thực để trao đổi; đồng thời lại cho thiết lập Trà Mã ty, chuyên quản việc buôn bán trao đổi giữa hai bên.

      Thế nhưng tình cảnh quân Hách Hách tấn công vào năm Kiến Nguyên thứ mười khiến Thái Tổ sao quên được, nên vào tháng năm Kiến Nguyên thứ mười hai, Thái Tổ dời đô tới Trung Kinh bây giờ, cho xây dựng Tử Áo Thành để ở, lại gia phong Mậu Thành Quận chúa làm Kim Sơn Công chúa, gả cho Cách Khả hãn làm Đại phi chính thất. Trăm năm qua, tuy vùng biên giới Đại Chu và Hách Hách thỉnh thoảng vẫn phát sinh chút xung đột , nhưng rốt cuộc cũng có được trăm năm bình yên, còn cảnh chiến tranh tàn khốc nữa.

      Lúc này, tôi và Huyền Thanh dắt tay nhau du ngoạn Thượng Kinh, giả trang làm cặp vợ chồng bình thường. Tôi vận chiếc áo lụa màu hồng, lại kết hợp với chiếc váy gấm dài màu vàng nhạt, Huyền Thanh thấy giờ tiết trời thu, liền tiện tay khoác thêm cho tôi chiếc áo ngoài. Tôi ngồi chăm chú, ngó nhìn vào gương hồi, kìm được cười, : “Màu sắc tươi vui quá chừng.” Huyền Thanh vận chiếc áo gấm dài màu xanh nhạt, lại càng tôn lên thân thể cao lớn và khí độ ung dung, dịu êm tựa như ánh trăng xuân tháng Ba chiếu xuống nhành dương liễu.

      Tôi ngoảnh đầu chăm chú nhìn y, khóe môi hơi nhếch lên, mang theo mấy phần tình ý, khẽ nở nụ cười. “Sao tự nhiên huynh lại chọn mặc màu này thế?”

      Huyền Thanh đặt tay lên vai tôi, khiến dáng người vốn thuộc tầm trung của tôi bất giác có vẻ nhắn nhiều. “Nàng mặc áo màu hồng, ta liền chọn áo màu xanh, hai màu sắc này rất hợp nhau, khiến bầu khí càng thêm vẻ tươi vui.”

      Hoán Bích lúc này bưng hộp đồ trang sức tay, sau khi chăm chú ngắm nghía tôi và Huyền Thanh hồi, đột nhiên ngoảnh đầu chỉnh trang quần áo, nhìn chúng tôi nữa, chỉ hờ hững cười, : “Tiểu thư và công tử thế này, nhìn cứ như cặp vợ chồng mới cưới chuẩn bị ra ngoài dạo chơi vậy.”

      Tôi thoáng cảm thấy giờ đây nụ cười của Hoán Bích ngày hờ hững hơn, tựa như vầng trăng sau lớp mây thưa, dù có đôi chút ánh sáng chiếu xuống cũng vô cùng mờ ảo. Hơn nữa, muội ấy còn rất thích cúi đầu, tính tình ngày càng điềm đạm, ít .

      Huyền Thanh nghe vậy tỏ ra hết sức mừng rỡ, lập tức ngoảnh lại cười, hỏi: “ rất giống sao?”

      Hoán Bích hơi cúi đầu, cất giọng dịu dàng : “Nếu tự bản thân công tử cảm thấy giống, như vậy người ngoài ắt càng thấy giống.”

      Tôi khẽ chọc vào tay Huyền Thanh cái, hai má đỏ bừng, bật cười khúc khích. “Làm gì có ai hỏi như vậy chứ, biết xấu hổ gì cả. Hoán Bích trêu huynh đấy!”

      Huyền Thanh lộ ra bộ dạng nghịch ngợm như trẻ con, ung dung : “Ta thấy rất giống mà.”

      Nghe y như vậy, tôi lại càng xấu hổ, liền thèm để ý tới y nữa mà kéo tay Hoán Bích qua bên hỏi: “Lâu lắm ăn mặc thế này rồi, nữ tử bình thường nên bới kiểu tóc thế nào đây nhỉ?”

      Hoán Bích khẽ nở nụ cười. “Tiểu thư muốn cùng Vương gia đóng giả làm vợ chồng tân hôn ra ngoài chơi, vậy tất nhiên phải bới hết tóc lên thành búi lớn rồi.” Vừa , Hoán Bích vừa nhanh nhẹn chải tóc, bới tóc giúp tôi nhưng mới bới được nửa lại chợt chăm chú suy tư, sau đó liền gỡ ra mà bới cho tôi kiểu tóc bình thường, cuối cùng dùng cây trâm vàng để cố định. Cây trâm đó làm bằng vàng ròng, được đính hai viên minh châu to bằng đầu ngón tay cái, trắng lóa tròn xoe, lấp lánh phát sáng, vô cùng bắt mắt. Hoán Bích ngắm nghía chút, lại chọn thêm đồ trang sức chuẩn bị cài lên cho tôi. Lúc này, chậu thu hải đường đặt dưới cửa sổ nở hoa rạng rỡ, có điều đây chỉ là loại thu hải đường bình thường nơi dân gian, tất nhiên thể so sánh với những giống hoa trân quý nơi cung đình, cánh hoa lốm đốm màu hồng phấn, đượm nét vui tươi. Huyền Thanh hái lấy cành hoa cài lên búi tóc tôi, sau đó liền mỉm cười nhìn tôi chăm chú, ánh mắt tràn ngập vẻ quyến luyến, thương.

      Hoán Bích coi như nhìn thấy, sau hồi chọn lựa chọn được mấy bông hoa cài đầu hình hoa mai làm bằng phỉ thúy và cẩn thận cài lên mái tóc cho tôi.

      Tôi soi mình trong gương, chiếc áo màu hồng rạng rỡ làm tôn lên khuôn mặt vui tươi như tia nắng mùa xuân của tôi, khiến toàn thân tôi tràn đầy sức sống, dường như tôi chưa từng nhìn thấy mình như thế này bao giờ. Tôi và y đứng kề vai nhau, chiếc gương đồng có khắc hình cặp uyên ương vờn nước hết sức bình thường, kỹ thuật khắc có thể là khá vụng nhưng vẫn thể giấu được niềm hạnh phúc viên mãn tròn đầy toát ra từ bên trong. Tôi tựa đầu vào vai y, bên khóe môi luôn thấp thoáng nụ cười tủm tỉm. Tôi rất ít khi mặc đồ màu hồng, bởi màu sắc này quá mức kiều và diễm lệ, làm tôi cảm thấy nó hơi tầm thường, thậm chí là thô tục. Thế nhưng lúc này mặc vào, tôi lại chỉ thấy nó toát ra niềm vui vô hạn, hợp với mình vô cùng, bởi chỉ có như thế mới thể được tâm trạng của tôi lúc này. Giống như bông hoa thu hải đường cài mái tóc kia, trái tim tôi lúc này cũng vô cùng vui tươi và mềm mại, thế là tôi bèn quyết định chọn luôn chiếc khăn tay thêu hình hai bông hải đường liền cành màu đỏ tươi mà mang theo bên mình.

    4. khahanhl

      khahanhl Well-Known Member

      Bài viết:
      2,937
      Được thích:
      1,718
      Chương 30: Giang sơn

      Rồi chúng tôi dắt tay nhau dạo bước ra ngoài, tựa như cặp thiếu niên nam nữ du xuân, mang theo chút lòng chờ mong và thỏa mãn, lần lượt thăm thú “Thượng Kinh bát cảnh”. Thượng Kinh nằm chếch về mạn Bắc, tất nhiên thể có phong cảnh tú lệ và non nước hữu tình như Trung Kinh vốn ở miền Nam, có điều cũng có tám khu thắng cảnh cực kỳ nổi tiếng, lần lượt là: Vạn Tuyền Thùy Điếu, Thiên Trụ Bài Thanh, Huy Sơn Tình Tuyết, Hoa Bạc Quan Liên, Hoàng Tự Chung Minh, Hồn Hà Vãn Độ, Tháp Loan Tịch Chiếu, Liễu Đường Tị Thử[1].

      [1] Đây kỳ thực là tám cảnh đẹp ở Thịnh Kinh, tức thành phố Thẩm Dương thuộc tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc ngày nay. Tên mỗi thắng cảnh có bốn chữ, hai chữ đầu là chỉ địa danh, hai chữ sau là điểm đặc sắc của địa danh đó - ND.

      Trong các thắng cảnh kể , Huy Sơn Tình Tuyết là đẹp nhất nhưng Huyền Thanh lại thở dài than: “Nơi phong cảnh đẹp nhất chưa chắc là nơi mọi người thích nhất.”

      Tôi kìm được lòng tò mò, bèn hỏi: “Tại sao lại như vậy?”

      Huyền Thanh chắp tay sau lưng, ngước nhìn ngọn Huy Sơn, ung dung đáp: “Phàm là các chốn phong cảnh tú lệ, tuyệt vời thế gian, thường cần phải tới nơi hiểm trở mới nhìn thấy được. Mà người đời đa phần đều sợ phải dấn thân vào nơi hiểm địa, do đó thường chỉ đồn thổi về vẻ đẹp của nơi nào đó chứ chịu tự mình tới nơi. Tựa như Huy Sơn Tình Tuyết này vậy, người đứng ở chân núi nhìn lên nhiều, chứ người lên núi ngắm cảnh tuyết chẳng được mấy ai.”

      Tôi ngước mắt nhìn theo, thấy quả nhiên dưới chân núi người đông nườm nượp, đỉnh núi lại băng tuyết đơn, tịch mịch vô cùng, thực là đối lập vô cùng rệt, khiến người ta kìm được phải sinh lòng cảm thán.

      Huyền Thanh : “Huy Sơn cao chừng trăm trượng, đứng đỉnh núi nhìn về phía bắc có thể thấy sa mạc bao la của người Hách Hách, nhìn về phía nam có thể thấy cảnh nước non tươi đẹp ở Trung Kinh, đó là tầm mắt rộng lớn đến chừng nào kia chứ!”


      Mấy ngày nay thăm thú Hồn Hà Vãn Độ, Tháp Loan Tịch Chiếu, Vạn Tuyền Thùy Điếu, tôi thấy chẳng qua chỉ hơn những phong cảnh bình thường chút, nếu có Huyền Thanh bầu bạn kề bên chẳng có gì thú vị. Lúc này nghe y vậy, tôi bất giác nảy lòng hứng thú, bèn hào hứng : “ có ai chịu , vậy chi bằng chúng ta cùng trèo lên đó được ?” Dừng chút, tôi cất giọng thiết tha: “ núi băng tuyết phủ đầy, chỉ có huynh và muội.”

      Huyền Thanh mỉm cười đưa mắt nhìn tôi, khẽ vuốt ve bờ vai tôi vẻ đầy trìu mến. “Ta chẳng qua chỉ vậy thôi, chứ núi lạnh như thế, ta sợ nàng chịu nổi. Hôm nay chúng ta đâu có mang theo quần áo ra ngoài, người lại chẳng còn bao nhiêu bạc.”

      Tôi cười tươi, : “Có gì mà phải sợ chứ?”

      Tôi đưa mắt nhìn khắp xung quanh, thấy phía đằng xa có người gánh theo gánh áo choàng da chồn tới bán, bèn vẫy tay gọi gã lại, sau khi lật xem thử thấy chất lượng cũng tốt bèn đưa tay tháo cây trâm vàng đính minh châu đầu xuống, đưa cho gã, cười : “Ta dùng cây trâm này đổi lấy ba chiếc áo choàng da chồn, vậy có được ?”

      Người đó nhìn tôi vẻ nghi hoặc, nhất thời dám nhận lấy. Tôi chỉ tay vào hai viên minh châu to bằng ngón tay cái cây trâm, giải thích cho gã nghe: “Vàng ròng có gì, nhưng hai viên minh châu này ít nhất cũng có giá ngang mười gánh áo choàng da chồn như của ngươi, ngươi thiệt đâu.”

      Gã nhận lấy cây trâm rồi tỉ mỉ ngắm nghía hồi, chừng như sợ tôi hối hận, vội vàng cất vào vạt áo trước ngực, mặt mày tươi cười, chọn lấy ba chiếc áo choàng lông chồn tốt nhất đưa cho tôi, lại tặng thêm cả bao tay, khăn quàng cổ, sau đó mới mừng rỡ rời .

      Hoán Bích kìm được, tỏ ra có chút tiếc nuối. “ cây trâm đẹp như thế, đổi lấy ba chiếc áo lông chồn đáng chút nào.”

      Tôi cười, thản nhiên : “Ngàn vàng khó mua được khoảnh khắc mừng vui, hà tất phải tiếc cây trâm chứ, chẳng qua là vật ngoài thân mà thôi.”

      Huyền Thanh mỉm cười, nắm lấy bàn tay tôi. “Ngàn vàng đem đổi lấy nụ cười, câu đó chính là tới nàng đấy. Tính cách sảng khoái này của nàng đúng là rất tuyệt vời.”

      Huyền Thanh vốn muốn thuê hai chiếc kiệu mềm khiêng tôi và Hoán Bích lên núi, nhưng kiệu phu vừa nghe là phải leo lên đỉnh Huy Sơn liền vội vàng xua tay lia lịa, mặt mày nhăn nhó khuyên nhủ: “Công tử và hai vị nương đúng là có nhã hứng, nhưng đỉnh Huy Sơn toàn băng với tuyết, thực quá lạnh, đường lại trơn nữa, khó vô cùng, việc này bọn ta quả thực thể nhận nổi.”

      Tôi quay sang cười, với Huyền Thanh: “Huynh cần mất công tìm người nữa đâu, chúng ta cứ tự mình lên núi, được tới đâu hay tới đó, vậy cũng coi như là tận hứng rồi.”

      Hoán Bích cũng khẽ nở nụ cười. “Công tử chớ xem thường nô tỳ và tiểu thư, hai người chúng tôi phải là loại người yếu ớt gió thổi cũng ngã đâu.”

      Huyền Thanh vỗ tay cười rộ. “Hai vị nương như vậy, Thanh tất nhiên thể chịu kém, nhất định theo hầu tới cùng. Chỉ là có thứ chúng ta thể thiếu được.”

      Tôi khỏi có chút tò mò. “Là thứ gì vậy?”

      Huyền Thanh lấy từ trong vạt áo trước ngực ra gói gì đó, mùi khá khó ngửi, có màu vàng, là thứ dạng bột.

      Hoán Bích ghé mũi tới ngửi, kìm được hơi cau mày lại. “Mùi hăng quá, là thứ gì vậy?”

      Huyền Thanh đáp: “Là thuốc rắn. đỉnh Huy Sơn tuy nhiều băng tuyết nhưng đó phải là thứ đáng sợ nhất, bởi dù lạnh đến mấy cũng chỉ cần mặc nhiều áo là được.” Y lộ vẻ nghiêm túc, : “ Huy Sơn có thứ đáng sợ nhất, ấy là hàn xà, người chưa từng tới Huy Sơn biết gì về thứ này đâu. Các loài rắn khác cứ tới mùa giá lạnh đều phải ngủ đông nhưng hàn xà lại khác, vẫn hoạt động như thường, mà nó cũng chỉ có thể sinh sống ở nơi băng tuyết giá lạnh thôi. Hàn xà thân thể tuy nhưng lại rất độc. khi bị nó cắn trúng, hôn mê, nặng mất mạng. Bôi thứ thuốc rắn này vào có thể đảm bảo xảy ra vấn đề gì, mà lỡ như bị rắn cắn vẫn có thể trong uống ngoài thoa, ít nhiều cũng có chút tác dụng.” Thấy tôi và Hoán Bích đều tỏ ra sợ hãi, Huyền Thanh liền tươi cười an ủi: “Có điều, hàn xà bao giờ chủ động tấn công con người, hơn nữa số lượng cũng nhiều. Chỉ là tuy chưa chắc gặp phải nhưng chúng ta vẫn cần đề phòng mới được.”

      Hoán Bích sợ hãi : “Nếu vậy, chi bằng chúng ta lên đỉnh núi nữa. Giống hàn xà đó, nô tỳ vừa nghe tới cảm thấy sợ hãi rồi.”

      Huyền Thanh cười bảo: “Nếu chỉ vì loài rắn mà bỏ qua phong cảnh tuyệt vời là đáng tiếc!”, rồi lại nhìn qua phía tôi. “Hoàn Nhi, ý nàng thế nào?”

      Tôi nhìn chăm chú vào gói thuốc rắn trong tay y, cười : “ phải huynh có nó rồi có vấn đề gì sao?”, sau đó bèn mở gói thuốc ra, bôi thuốc lên người. Huyền Thanh nở nụ cười hiểu ý, cũng bắt đầu bôi thuốc.

      Tôi quay sang với Hoán Bích: “Nếu muội sợ cứ ở đây đợi bọn ta, bọn ta quay lại nhanh thôi.”

      Hoán Bích nhìn tôi, rồi lại nhìn Huyền Thanh, cặp mắt hơi lóe sáng, thấp giọng : “Nô tỳ cũng muốn .”

      Kỳ thực đường núi hề khó , nơi chân núi Huy Sơn mọc đầy những cây cổ thụ xanh biếc, cao tới chọc trời, cây um tùm những phiến lá to nhưng mỏng manh và mềm mại, hết sức ưa nhìn. dần lên , cây cối dần toát ra vẻ lạnh lẽo, màu sắc cũng chuyển dần thành màu đen, chủ yếu là tùng bách, dưới đất rụng đầy lá tùng, giẫm chân lên có cảm giác hết sức mềm mại, cứ như thảm gấm. Thế nhưng màu sắc của lá tùng hoặc là xanh biếc hoặc là vàng ruộm, so với những loại thảm gấm hoa lệ bình thường đẹp hơn gấp mấy lần, qua đó cũng có thể phần nào thấy được kỳ diệu của thiên nhiên. Lại tiếp lên , thảm cỏ dài xanh biếc dần biến thành loại cỏ thấp dính sát đất và các loại rêu, thỉnh thoảng gặp vài cái cây đều là loại sần sùi, cứng cáp, ngạo nghễ đứng vươn mình giữa thế gian.

      Vốn dĩ nơi chân núi cây cối mọc rất nhiều, hơn nữa người còn đông như mắc cửi, tới đây rồi du khách thưa dần, chỉ có lác đác vài người, ai nấy đều mặc áo lông chồn giữ ấm nhưng tất thảy đều do dự tiếp, chỉ ngẩng đầu nhìn đỉnh núi băng tuyết phủ đầy, cất lên từng tràng tán thán.

      Hồi nãy dưới chân núi còn ấm áp như dịp đầu thu, nhưng tới lưng chừng núi khí trở nên vô cùng giá lạnh, từng làn gió rét ngừng thổi tới, khiến Hoán Bích run lẩy bẩy, nép sát vào người tôi.

      Huyền Thanh đưa mắt liếc qua Hoán Bích, rồi khẽ mỉm cười quay sang nhìn tôi. “Mời nương tử quyết định, chúng ta có nên tiếp đây?”

      Tôi bật cười, lườm y cái, hờn trách: “Càng ngày càng lẻo mép, đáng ghét!”

      Tôi ngẩng đầu nhìn đỉnh núi, dưới nền trời xanh biếc, ngọn núi tuyết cao sừng sững, tựa con rồng uốn lượn tung bay. Từ cao ánh dương chiếu xuống, ấm áp vàng ươm, càng làm đỉnh núi toát ra vẻ rực rỡ và thuần khiết khôn tả, tôi kìm được phải nín thở, trong lòng nảy sinh muôn vàn nỗi niềm sùng kính.

      tại sao, tự nơi đáy lòng tôi chợt sinh ra xúc động khó có thể diễn tả bằng lời, khiến tôi rất muốn lên đỉnh núi để thử cảm giác đứng ở nơi cao vót mà nhìn xuống thiên hạ. Thế là tôi bèn với giọng chắc nịch: “ tới được đây rồi, tất nhiên là phải tiếp. So với việc phải ngước nhìn cả đời, tự mình trèo lên mà ngắm nghía cho thỏa thích há lại chẳng tốt hơn sao.”

      Tôi lấy chiếc áo lông chồn màu xám bạc đưa cho Hoán Bích, lại lấy chiếc màu tím sẫm đưa cho Huyền Thanh. Mặc chiếc áo choàng màu tím sẫm lên người, trông Huyền Thanh lại càng tuấn tú, toàn thân toát ra khí độ hiên ngang, quý phái, tựa như tới từ chín tầng mây, vẻ cao quý gì che giấu được. Tôi giúp y thắt nút chiếc áo choàng, mặt ngoài chiếc áo mềm mượt, bóng loáng, lướt tay qua có cảm giác vô cùng dễ chịu. Lòng tôi bất chợt mềm , ngước mắt nhìn y chăm chú. Vừa khéo lúc này y cũng nhìn tôi, trong mắt đầy vẻ dịu dàng, làm lòng tôi càng mềm nhũn. Y đưa tay tới nắm lấy bàn tay tôi, tôi cúi đầu cười khẽ, thấp giọng : “Huynh làm gì đấy? Hoán Bích cũng ở đây kìa.”

      Y nở nụ cười dịu dàng mà kiên định. “Ta chỉ muốn dắt tay nàng, mặc kệ gió tuyết, cùng nhau mãi.”

      Tự nơi đáy lòng tôi trào dâng niềm ấm áp khó tả, khiến tôi cảm thấy toàn thân thư thái, tựa như được tắm nắng xuân.

      Nụ cười của tôi nhanh chóng lan ra khắp khuôn mặt, tựa bông hoa nở rộ. Tôi khẽ : “Được!”

      Mười ngón tay của tôi và y nắm chặt, đan vào nhau. Tư thế nắm tay kiểu này chính là “Đồng tâm khấu” mà có lần y từng tới, mười ngón tay đan vào nhau, bất kể là sống hay chết cũng tách rời.

      tay y nắm tay tôi, tay còn lại giúp tôi khoác chiếc áo lông chồn lên người. Chiếc áo của tôi so ra có màu nhạt hơn của y chút, phần đầu những sợi lông tím lác đác mấy đốm màu bạc, nhưng như thế kết hợp với màu tím sẫm của y trông lại càng đẹp đẽ hơn. Phía bên kia, Hoán Bích cũng mặc áo xong, ba người chúng tôi cùng tiếp.

      Đường núi càng càng dốc, vì hiếm có ai tới đây nên đường dần bị băng tuyết phủ dày, tất cả ngợp trong màu trắng mênh mang. Ấy vậy mà con đường phía trước lại có hai hàng dấu chân rất , hẳn là vừa có ai qua đây.

      Tôi kìm được thầm cảm thấy kinh ngạc, liền quay sang với Huyền Thanh: “ ngờ lại có người có nhã hứng giống chúng ta, lại còn trước bước nữa.”

      Huyền Thanh cười, : “Như vậy cũng tốt, qua đó đủ thấy chúng ta phải người lập dị.”

      Tôi lúc này tuy khá vất vả nhưng vẫn cất tiếng cười vang. “Đây là chuyện thú vị biết chừng nào, sao có thể coi là lập dị được.”

      Khi chúng tôi lên tới đỉnh núi trời ngả bóng hoàng hôn. đỉnh núi tuy đầy băng tuyết nhưng vẫn có tùng bách vươn mình ngạo nghễ, những cành cây bị tuyết lạnh đè lên, nhìn như muôn vàn bông hoa lê nở rộ. Hơn nữa, cảnh tuyết đè tùng xanh vừa khéo trông như bạch ngọc khảm phỉ thúy, cực kỳ tráng lệ.

      đỉnh núi, gió lạnh rít gào, nhưng đứng ở nơi đây lại có thể nhìn thấy sa mạc vô biên vô tận trong địa giới Hách Hách, ở nơi chân trời, vầng dương đỏ rực treo giữa những hạt cát vàng bay lượn, sắc đỏ chiếu xuống uốn lượn tựa dòng sông sóng nước cuộn trào. Còn trong địa giới Đại Chu, vẫn là vầng dương ấy nhưng lại giống viên bảo thạch màu đỏ treo cao giữa trời, xung quanh là mảng màu xanh thuần khiết cùng muôn áng mây màu, tạo nên khung cảnh vô cùng rực rỡ, hoa lệ, tựa gấm vóc muôn màu. Ngọn núi xanh biếc trải dài liên miên bất tận chừng như cũng bị nhuốm lên những màu sắc ấy, trở nên hết sức mê ly. Trong thành Thượng Kinh, phố chợ ồn ào, người qua lại hết sức tấp nập. Từ nơi trang viện của mấy gia đình giàu có, khói chiều vương vất bay lên, tô điểm cho vô số tường xanh ngói đỏ cực kỳ hoa lệ. Mà những gia đình đó, lúc này chắc đều tấu nhạc vui tươi để hưởng thụ giàu sang giữa chốn nhân gian.

      phồn hoa náo nhiệt, xa xỉ vàng son của vùng đất phía Nam thực giống như áng mây màu nơi chân trời, khiến người ta mê đắm. Nhưng phong cảnh như vậy, tôi lại chẳng có lòng dạ để thưởng thức.

      Lúc này, mắt thấy đại mạc mênh mang, tà dương sắp lặn, non nước mê ly, thế gian hữu tình, tất thảy đều ở xung quanh mình, lòng tôi bỗng xúc động khôn nguôi, sinh ra niềm hào tình tráng chí “nắm trọn giang sơn vào giữa bàn tay”.

      Tôi kìm được cất lời cảm khái: “Quả đúng là giang sơn tươi đẹp biết bao, làm ngất ngây vố số bậc hào. Muội dù chỉ là nữ tử chân yếu tay mềm nhưng cũng nguyện vì thế mà ngây ngất.”

      Huyền Thanh khẽ kéo tôi vào lòng, hỏi: “Có lạnh ?”

      Tôi vẫn trong tâm trạng sục sôi, hưng phấn đến nỗi hai má đỏ bừng. Huyền Thanh xoa má tôi, : “Sao mà hưng phấn đến vậy chứ? Làm ngất ngây vô số bậc hào, tâm tư của muội quả cũng chẳng thua gì trang nam tử.”

      Tôi nở nụ cười rạng rỡ. “Người quân tử thấy cảnh này, ắt đều nghĩ tới hưng vong của thiên hạ. Muội là nữ tử nhưng cảm xúc cũng có gì khác biệt.”

      Huyền Thanh đưa tay chỉ hướng Hách Hách đằng xa, cất giọng sang sảng: “Nàng nhìn thấy chưa? Nơi đó cát vàng ngợp trời, đại mạc mênh mang, chính là địa giới Hách Hách. Năm xưa Tế Cách Khả hãn của Hách Hách dẫn quân tiến đánh Nhạn Minh quan, ý đồ phá ải đoạt thành, chiếm lấy giang sơn gấm vóc của Đại Chu ta. May có Đại tướng Tề Bất Trì dẫn quân huyết chiến liền mấy tháng, Đại Chu ta mới có được thanh bình ngày nay.” Hào khí trong y bỗng dâng cao vút. “Là thân nam nhi vốn phải như thế! Nếu Thanh sinh sớm trăm năm, gặp trận chiến này, ắt ruổi ngựa sa trường, tắm máu giết địch, vậy mới uổng kiếp nam nhi!”

      Hoài bão của y sao tôi , chỉ đáng tiếc… Thần sắc tôi thoáng trở nên ảm đạm, chỉ đáng tiếc y là con trai của Thư Quý thái phi, cả đời này ắt đều phải giấu tài năng của mình đằng sau bộ dạng đùa giỡn với đời.

      lạnh giá của băng tuyết dần phủ khắp lòng tôi, cũng lan lên khuôn mặt của y. Y chăm chú nhìn non sông Hách Hách, tỏ vẻ bất bình. “ giờ Ma Cách Khả hãn của Hách Hách lăm le hành động, dã tâm kém gì tiên tổ Tế Cách Khả hãn của năm xưa. Hách Hách và Đại Chu từ sau hội thề Hà Trì trải trăm năm phát sinh hồi đại chiến, tuy thỉnh thoảng cũng có vài cuộc tranh đấu quy mô nhưng đa phần vẫn là hòa bình. Hợp lâu tất phân, phân lâu tất hợp, ấy chính là chân lý của thế gian. Những năm nay Ma Cách Khả hãn ngừng thôn tính các bộ lạc yếu xung quanh Hách Hách, hòng tăng cường sức mạnh của bản thân. Mấy năm trước, hoàng huynh luôn dồn tinh lực vào chiến ở vùng Tây Nam, mong khôi phục cương thổ, về sau lại tổn hao ít tâm sức trong việc bình định Nhữ Nam Vương, khó tránh khỏi có chút buông lỏng vấn đề Hách Hách. Ma Cách dã tâm bừng bừng, chỉ sợ trong vòng mười năm, giữa Hách Hách và Đại Chu lại phát sinh hồi đại chiến.”

      Tôi thoáng trầm ngâm. “Đại Chu binh lực yếu, chỉ là binh sĩ dù dũng mãnh đến mấy cũng cần có tướng soái chỉ đạo. Theo huynh thấy, trong triều đình nay có tướng tài nào ?”

      Huyền Thanh chỉ gượng cười chứ năng gì. Tôi lập tức hiểu ra, Đại Chu xưa nay luôn trọng văn khinh võ, dùng văn để trị quốc, hạn chế quyền lực của các tướng lĩnh. Cứ nhìn những việc xảy ra khi Huyền Lăng nắm quyền , sau khi bình định mạn Tây Nam, Nhữ Nam Vương bị cầm tù, nhà họ Chân sau khi bình định mối họa Nhữ Nam Vương bị lưu đày, như thế thử hỏi trong nước còn có ai dám hết lòng xông pha sa trường giết địch? Tất cả mọi người chỉ có vùi đầu đọc sách, mong qua đó tiến bước con đường hoạn lộ.

      Sau mấy lời vừa rồi, tôi và Huyền Thanh đều ôm những mối thương cảm riêng.

    5. khahanhl

      khahanhl Well-Known Member

      Bài viết:
      2,937
      Được thích:
      1,718
      Chương 31: Cứu người

      Hoán Bích thấy hai chúng tôi đều im lặng, sau khi ngó nhìn sắc trời bèn : “Mặt trời sắp xuống núi rồi, mà núi lại lạnh thế này, chúng ta cũng ngắm cảnh rồi, chi bằng mau xuống núi thôi, nếu để muộn quá, phải ở lại núi hay chút nào.”

      Tôi khẽ gật đầu, chuẩn bị cùng Hoán Bích và Huyền Thanh xuống núi, chợt nghe phía xa có những tiếng hò hét vang lại. Bốn bề vốn tĩnh lặng, những thanh ấy vang lên nghe đột ngột và quái dị vô cùng, khiến tôi kìm được thầm sinh lòng sợ hãi.

      Huyền Thanh lúc này hơi cau mày trầm ngâm, bỗng hô lớn tiếng: “ hay!” Sau đó liền chạy như bay. Tôi và Hoán Bích ngơ ngác nhìn nhau, biết xảy ra chuyện gì. Thế nhưng thấy sắc mặt Huyền Thanh biến đổi hẳn, chúng tôi cũng biết là có điều gì đó hay, liền suy nghĩ quá nhiều nữa mà vội chạy theo y.

      Tôi và Hoán Bích chạy được nhanh, khi tới chỗ phát ra những thanh quái dị vừa rồi chỉ thấy có đôi nam nữ nằm nền đất tuyết, sắc mặt tái đen, đặc biệt là mấy chỗ xung quanh tai mắt mũi miệng lại càng đen kịt như mực. Hai người họ nhíu chặt đôi mày, dường như vô cùng đau khổ, thế nhưng chỗ từ hai mắt trở xuống lại đầy vẻ vui mừng, khóe miệng nhếch lên cười toe toét, cái mũi đen kịt ngớt rung lên, dưới nền đất tuyết trắng tinh trông lại càng rùng rợn, khiến người nhìn sợ hãi. Hai chân bọn họ gập lại, đôi tay co giật liên hồi, miệng phát ra những tiếng kêu khò khè quái dị.

      Nhìn thấy cảnh tượng ghê rợn này, tôi và Hoán Bích lập tức ngây người. Hoán Bích thầm cảm thấy sợ hãi, vô thức tới nấp sau lưng tôi.

      Huyền Thanh đứng chắn trước mặt chúng tôi, nôn nóng : “Cẩn thận! Hai người đó trúng phải độc của hàn xà rồi.”

      Hoán Bích nghe thấy vậy kìm được kêu “a” tiếng, sợ hãi lùi lại mấy bước. Tôi chưa từng nhìn thấy cảnh này, trong lòng tất nhiên cũng rất sợ hãi, bất giác chăm chú nhìn y. “Phải làm sao đây?”

      Huyền Thanh khẽ hô lên: “Cứu người là quan trọng!” Tôi gật đầu mạnh, lập tức theo y. Huyền Thanh lấy thuốc rắn từ trong vạt áo trước ngực ra đưa cho tôi, sau đó liền đè chặt nam tử nằm mặt đất kia xuống, cho gã giãy giụa, đồng thời quay đầu lại, : “Trong uống ngoài thoa, mau bôi thuốc rắn lên miệng vết thương của gã!”

      Tôi luống cuống chân tay, nhất thời biết nên bắt đầu tìm miệng vết thương của người đó từ đâu, huống chi vết rắn cắn vốn rất . Chợt tôi để ý thấy người đó mặc chiếc áo lông cáo màu bạc hoa lệ, duy có đôi tay là lộ ra ngoài, liền chụp lấy hai tay gã mà kiểm tra, quả nhiên phát ra hai dấu răng rất mu bàn tay trái của gã. Tôi vội lấy khăn tay ra, siết chặt chỗ sát với miệng vết thương, miệng vết thương liền mở rộng ra, tôi lập tức rắc lớp thuốc rắn dày lên đó.

      Nam tử này ăn vận xa hoa, nhìn như vị công tử nhà giàu, thế nhưng khi để ý thấy gan bàn tay của gã, tôi bất giác sững người, ở đó có lớp chai rất dày và cứng, còn bóng đến độ có thể phản quang. Tôi thoáng do dự, lại lật bàn tay gã lên quan sát, thấy lòng bàn tay và mười ngón tay của gã cũng đều như vậy cả.

      Hai hàm răng người đó cắn rất chặt, sao cạy ra mà đổ thuốc vào được. Tôi nôn nóng đến độ đầu vã đầy mồ hôi, đành nhìn qua phía Huyền Thanh cầu cứu. Y lập tức hiểu ý, liền đánh mạnh cú vào cằm nam tử đó làm gã há miệng ra. Tôi vội đổ thuốc bột vào miệng gã, lại lấy túi da đựng nước ra mà đổ thêm vào.

      Huyền Thanh quan sát sắc mặt gã chút, lập tức thở phào hơi, khẽ : “Mau qua xem nữ tử kia .” Tôi vâng lời theo y qua đó. Nữ tử đó dường như hết sức đau đớn, khuôn mặt vốn thanh tú nhăn nhó đến biến dạng, miệng thể năng, chỉ ngừng phát ra những tiếng “khò khè” quái dị, nghe như tiếng kêu khàn khàn của con chim cú. Tôi thấy mặt ta xám như tro tàn, hai hàm răng nghiến chặt, vừa như vui sướng lại vừa như đau khổ, kỳ dị đến khó tả. Huyền Thanh đánh mạnh cái vào cằm ta nhưng ta lại chẳng có chút phản ứng, vẫn nghiến chặt răng. Huyền Thanh nhíu chặt đôi mày, lật mí mắt ta lên, đột nhiên cúi đầu, ủ rũ : “ ta trúng độc quá lâu, còn cách gì nữa rồi, đồng tử cũng dãn ra.” Tôi bất giác cả kinh, vô thức rắc bột thuốc lên bàn tay chẳng còn chút sinh khí của ta, trong lòng ngợp nỗi hoang mang, sợ hãi.

      Huyền Thanh giữ tay tôi lại, cất giọng bi thương: “ ích gì đâu.”

      ích gì đâu.” Tiếng thở dài của y như nhát búa gõ mạnh vào trái tim tôi, khiến tôi đau nhói. Tôi nhìn nữ tử mà mình mới gặp mặt lần đầu đó, trong lòng bỗng nảy sinh cảm giác kỳ dị: Tôi nhất định phải giúp ta, nếu … Đến bản thân tôi cũng biết là nếu như thế nào, chỉ loáng thoáng cảm thấy có điều gì đó hay.

      Tôi mải suy nghĩ, nữ tử đó chợt co giật dữ dội trong lòng tôi, thân thể run lẩy bẩy từng hồi, như thể chiếc lá vàng giữa làn gió thu, ngợp nỗi tang thương khôn tả. Có lẽ là vì cơn đau đột nhiên kéo tới, ta đau đớn đến nỗi toàn thân co rúm lại, trán, mu bàn tay đều hằn gân xanh, tựa những con rắn uốn lượn, cả khuôn mặt lúc này trở nên đen như mực, màu đen còn ngấm sâu vào tận trong da.

      Tôi hỏi Huyền Thanh: “Có phải ta sắp chết rồi ?”

      Huyền Thanh đau khổ ngoảnh mặt qua bên. “Phải, nhưng nhanh lắm đâu. Nọc hàn xà khi phát tác làm người ta vô cùng đau đớn nhưng lại thể chết ngay. Tuy đồng tử của ta dãn ra còn cách nào cứu nổi nhưng vẫn phải chờ khắc nữa mới chết được.”

      “Vậy ta nhất định chết, có đúng vậy ?”

      Huyền Thanh khẽ “ừm” tiếng, đầu vẫn ngoảnh , đành lòng nhìn.

      Tôi đưa mắt nhìn con dao găm mà y giắt xéo bên hông, con dao này y vốn dùng để phòng thân, vô cùng sắc bén, gần như đặt sợi tóc lên thổi là đứt, do đó y mới thường xuyên mang theo bên mình như vậy. Tôi khẽ “ừm” tiếng, đột nhiên rút con dao găm ra, đâm thẳng vào ngực nữ tử kia.

      Tâm trí tôi vô cùng kiên định, loạt những động tác ấy diễn ra rất nhanh, khi con dao găm được rút ra, từng làn khí lạnh nơi lưỡi dao phả thẳng vào mặt tôi, nhưng cảm giác ấy còn chưa tan hết, lưỡi dao đâm thẳng vào thân thể mềm nhũn làm bằng máu thịt kia rồi. “Phụp” tiếng, lưỡi dao loáng cái đâm lút cán. thanh ấy nghe dịu dàng, tựa như lời rủ rỉ khẽ khàng của cặp tình nhân trò chuyện.

      ta chết rồi.

      Thân thể ta trở nên bình lặng, tựa phiến lá còn bay lượn giữa trung nữa mà hoàn toàn trở về với đất bụi.

      Hoán Bích đứng bên nhìn thấy tất cả, sau khi sững người trong giây lát liền thất thanh kêu “a” tiếng. Huyền Thanh cũng cả kinh thất sắc, bật thốt lên: “Hoàn Nhi, nàng làm gì vậy?”

      Sau khi giết người xong, tôi rất nhanh bình tĩnh trở lại, thản nhiên : “Muội giết ta rồi!”

      Tiếng kêu chói tai của Hoán Bích vẫn chưa dừng lại, tôi ra hiệu im lặng mà muội ấy vẫn bỏ ngoài tai. Tôi lật tay tát cho Hoán Bích cái mạnh, thấp giọng quát: “Im miệng cho ta!”

      Huyền Thanh đưa tay kéo bàn tay tôi lại, nhìn chằm chằm vào tôi bằng ánh mắt sao tin nổi. “Nàng giết người, còn đánh Hoán Bích nữa?”

      “Phải!” Tôi bình thản nhìn lại y. “Đây là núi tuyết, tuyết phủ quanh năm, tiếng kêu của Hoán Bích dù thu hút chú ý của người khác cũng làm tuyết lở. Muội tuy giết người nhưng cũng muốn phải chết cùng đâu.”

      Huyền Thanh cả giận, chỉ tay vào thi thể mặt đất. “ ta và muội thù oán…”

      “Nếu thực có thù oán, muội nhất định trơ mắt nhìn ta phải chịu đau đớn đủ khắc rồi mới được chết.” Tôi nhìn Huyền Thanh, cố bằng giọng dịu dàng nhất có thể: “Thanh, đồng tử của ta dãn ra rồi, huynh cũng thể cứu được nữa mà, vậy sao còn phải để ấy chịu khổ?”

      “Muội…” Huyền Thanh còn lời nào để phản bác, chỉ đành : “Dù sao cũng là mạng người…”

      Tôi vặn lại: “Vậy lẽ nào huynh muốn nhìn ta phải chịu đau khổ xong rồi mới được chết?”

      Huyền Thanh buồn bã lắc đầu, đột nhiên ngẩng lên, ánh mắt u khó tả. “Hoàn Nhi, ta thừa nhận là nàng làm sai.” Y hơi nheo mắt lại, khẽ thở dài. “Nhưng tàn nhẫn của nàng… nằm ngoài ý liệu của ta.”

      Tàn nhẫn? Tôi tàn nhẫn? Tôi cơ hồ bật cười thành tiếng, vì câu này của y, cảm xúc dữ dằn bất giác cuồn cuộn tràn lên từ nơi nào đó trong sâu thẳm trái tim tôi. Tôi cười gằn, : “Muội tàn nhẫn?”, sau đó lại cất giọng hờ hững: “Chẳng lẽ huynh nghĩ Chân Hoàn có thể sống sót để ra từ trong cung rồi đứng trước mặt huynh là người hồn nhiên ngây thơ, ngốc nghếch lương thiện?” Tôi cười lạnh, tiếp: “Tàn nhẫn, ấy là bản lĩnh phòng thân của muội. Giết ta cũng là cứu ta. Nhưng trước khi giết ta, người chết trong tay muội vốn phải mới chỉ có .”

      Sắc mặt y biến đổi ngừng, lúc xanh lúc trắng, tựa như phải trải qua cơn đấu tranh dằn vặt khó mà dùng lời miêu tả trong nội tâm.

      Nơi đáy lòng tôi bỗng trào lên niềm thất vọng, là với y, cũng là với chính bản thân mình. đau khổ nơi đáy lòng tôi lan tỏa từng chút, cuối cùng bật ra ngoài qua kẽ răng: “Có phải bây giờ huynh mới phát , muội kỳ thực phải là người mà huynh muốn tìm? Chân Hoàn mà huynh vĩnh viễn luôn thuần khiết ngây thơ, hề giống như muội bây giờ. Hoặc có lẽ, huynh vốn chỉ thứ lý tưởng nào đó của huynh thôi, chứ phải bản thân muội.”

      Bầu khí chìm vào tĩnh lặng, tĩnh lặng tột cùng, thậm chí có thể nghe thấy tiếng tuyết tan thành nước, từ từ xuống giọt, hồi lâu sau, lại là giọt nữa, như thể xuyên thấu trái tim người ta.

      Phía sau lưng chúng tôi bất chợt vang lên giọng lạnh lùng: “Ngươi giết nàng?”

      Tôi nhìn theo hướng phát ra thanh, thấy chính là nam tử vừa rồi. Lúc này gã tỉnh lại, ngồi xếp bằng nền đất tuyết, chỉ là hơi thở có chút yếu ớt, sắc mặt vàng như nghệ, trông thê thảm vô cùng. Tôi trong cơn tức giận, liền lật tay rút con dao găm dính đầy máu ra vứt xuống đất, thản nhiên lớn tiếng đáp lời: “Phải sao nào?”

      Nam tử đó tuy vừa mới dạo vòng qua Quỷ môn quan nhưng khí thế vẫn hề suy giảm, toát ra đầy vẻ quý phái. chợt cất giọng khàn khàn vẻ hết sức chân thành: “Đa tạ!” Tôi toàn thân chấn động, mà những lời kế tiếp của gã lại càng khiến tôi chấn động hơn: “Con rắn đó chỉ cắn cái, vậy mà hai mạng người ra rồi.” Giọng gã nghe dịu dàng mà thương cảm, trong thương cảm còn như mang theo tiếng thở dài u uất.

      Chỉ sau nháy mắt, tôi giật mình hiểu ra, ngạc nhiên bật thốt: “Lẽ nào ta mang thai?”

      sai.” Gã khẽ gật đầu. “Nếu sinh ra, nó là đứa con trai thứ ba giữa ta và nàng.”

      Tôi nở nụ cười. “Có phải là đứa con trai thứ ba hay ta quan tâm, chỉ là… người Hách Hách các ngươi trước giờ đúng là luôn coi trọng con trai hơn.”

      Cơ thịt mặt gã bất giác hơi co giật, nhưng rất nhanh sau đó gã khôi phục được vẻ cứng cỏi như trước, còn cười khà khà hỏi: “Làm sao biết ta là người Hách Hách?”

      Tôi khom người cười khẽ, ung dung vuốt ve chiếc áo lông chồn ấm áp mặc người. “Khẩu và lối ăn mặc của ngươi có chút sơ hở nào, nhưng bàn tay ngươi bán đứng ngươi.” Gã vô thức cúi đầu nhìn bàn tay mình, tôi chậm rãi : “Những vết chai tay ngươi là do nhiều năm kéo cung bắn tên mà thành, có hai mươi năm trời khổ luyện ắt chẳng thể có được vết chai như thế. Mà Đại Chu vốn trọng văn khinh võ, ngoài các tướng sĩ ra, tuyệt đối có người dân thường nào luyện tập cưỡi ngựa bắn tên, đừng là tinh thông. Mà là tướng sĩ ắt đều ở trong quân doanh cả, sao có thời gian rảnh mà leo lên Huy Sơn du ngoạn thế này. Người Hách Hách giành lãnh thổ từ lưng ngựa, giỏi nhất ngón cưỡi ngựa bắn tên, do đó mới có dấu vết này. Nếu ngươi bằng lòng, có thể để vị công tử bên cạnh ta xem thử cơ bắp nơi cẳng chân ngươi, ta dám chắc phần bên trong rắn chắc hơn phần bên ngoài, đó là do nhiều năm cưỡi ngựa mà ra.”

      Gã mỉm cười lắng nghe, thừa nhận cũng phủ nhận, nghe xong liền lảng sang chuyện khác: “Loài rắn này đúng là lợi hại, ta chẳng qua chỉ vô ý giẫm lên người nó, vậy mà nó thiếu chút nữa lấy mạng ta rồi.” Ánh mắt gã sắc bén chẳng kém gì lưỡi dao găm tôi vừa vứt qua bên, gã nhìn chằm chằm vào tôi, khóe môi chậm rãi nhếch lên: “Nàng rất thông minh, nhưng nàng có biết nữ nhân thông minh quá thế nào ?”

      Tôi để tâm tới việc gã thay đổi lối xưng hô với mình, chỉ khẽ xoay chiếc vòng ngọc phỉ thúy cổ tay. “Ngươi giết ta sao? Bây giờ chẳng lẽ ngươi có đủ sức lực để giết ta? Thậm chí cần đến vị công tử bên cạnh ta ra tay, ta hoàn toàn có thể dùng con dao vừa giết chết vợ ngươi để giết ngươi.”

      Gã vẫn tỏ vẻ thản nhiên, mực mỉm cười, vì nụ cười ấy mà những đường nét cứng cỏi khuôn mặt gã mềm mại hẳn . “Ta căn bản muốn giết nàng.” Dừng chút, gã tiếp: “ nữ nhân vừa thông minh lại vừa xinh đẹp, thường rất dễ khiến người khác có cảm tình.”

      Tôi bật cười khúc khích, nhưng tiếng cười ấy lại làm khơi lên nỗi đau vừa rồi, tôi bèn cất lời tự giễu: “Vừa rồi nếu ngươi tỉnh, chắc cũng nghe thấy vị công tử này ta tàn nhẫn. Như vậy, đối với nữ tử tàn nhẫn như rắn rết, ngươi còn dám có suy nghĩ gì quá phận ?”

      Tôi cố ý những lời tệ hại về mình, khó chịu nơi đáy lòng hoàn toàn bị nụ cười mặt che . Khóe mắt liếc qua bên cạnh, tôi thấy Huyền Thanh sau khi nghe thấy những lời này, mí mắt liền nẩy lên mấy cái, nhìn chằm chằm vào tôi. Tôi ngoảnh đầu qua hướng khác, chịu nhìn y nữa.

      Nam tử kia ngẩng đầu, cười rộ: “Nếu nữ tử được ông trời ưu ái cả về nhan sắc và trí tuệ, lại có cả tàn nhẫn, vậy càng khiến người ta dễ sinh lòng ái mộ.”

      “Vậy sao?” Tôi chỉ coi như nghe những lời đùa cợt, đột ngột ngoảnh đầu nhìn qua phía Huyền Thanh, cố tình kích thích y, nở nụ cười rạng rỡ. “Quả nhiên mật ngọt của người này có khi lại là thuốc độc với người khác.” ngoài dự liệu, mí mắt Huyền Thanh lại nẩy lên lần nữa, thần sắc thoáng vẻ bi thương.

      Nam tử đó thoáng sững người, sau đó liền nhìn chằm chằm vào tôi. Chắc hẳn thuốc rắn kia hết sức hữu hiệu, lúc này khí sắc gã khá hơn rất nhiều, vẻ tím tái gần như biến mất hẳn. Tôi để ý quan sát gã, thấy người này tuổi độ tam tuần, khuôn mặt cực kỳ góc cạnh, mày kiếm đâm ngang, đôi mắt đen láy sâu thẳm như mắt ưng, khiến người ta khó lòng đoán ra suy nghĩ trong lòng gã. Tuy gã cố ý ăn mặc theo lối công tử nhà giàu bình thường, thế nhưng luồng bá khí và sắc bén khuôn mặt kia lại sao che giấu được, khiến người ta vừa thoáng liếc qua có cảm giác sợ hãi. Khóe môi gã hơi nhếch lên coi như nở nụ cười, thế nhưng trong mắt lại chẳng có nét cười nào. “ nữ tử hội tụ đủ sắc đẹp, trí tuệ và tàn nhẫn, thực có thể khiến người ta ái mộ. Người như nàng đây, ta từng khắp Hách Hách mà chưa gặp bao giờ. Do đó ta rất muốn giết chết nàng hoặc là mang nàng , để Đại Chu còn nữ tử xuất sắc như nàng nữa.”

      Huyền Thanh vốn mực lặng im , nhưng khi nghe thấy những lời này, dù công phu nhẫn nại có tốt đến mấy cũng nhịn được, bèn gằn giọng: “Vị công tử này, ngôn từ của ngươi có phần hơi quá rồi đấy!”

      Nam tử kia thấy Huyền Thanh chỉ đứng bên, ung dung nho nhã, rất có điệu bộ thư sinh, kìm được lộ vẻ khinh miệt. “Ngươi có quan hệ thế nào với nàng ấy?”

      Tôi vốn vẫn giận Huyền Thanh, lúc này được dịp liền phát tác, cười tủm tỉm, : “Tất nhiên chẳng có quan hệ gì rồi!” Tôi khẽ lườm Huyền Thanh cái rồi với nam tử kia: “Nếu y có quan hệ gì với ta, vừa rồi khi ngươi ra hai chữ ‘ái mộ’ cợt nhả ta, y phải trách mắng ngươi mới đúng, làm gì còn phải đợi đến lúc này.”

      Nam tử kia cất giọng thản nhiên: “Cũng phải. Có điều, ta thấy bọn nàng giống cặp vợ chồng giận nhau hơn.” Tôi phỉ phui tiếng, thèm để ý đến gã. Gã lại cười hà hà, tiếp: “Nhưng ta mặc kệ nàng và có phải là vợ chồng , nàng tự chọn , muốn chết hay là muốn theo ta?”

      Huyền Thanh nghe thấy lời này giận đến nỗi sắc mặt tái nhợt, toàn thân hơi run rẩy. Y sao kìm nén được nữa, bước lên bước đứng chắn trước mặt tôi, lạnh lùng với nam tử kia: “Ta cho phép ngươi mạo phạm nàng. Vừa rồi ta có thể cứu ngươi, bây giờ tất nhiên cũng có thể giết ngươi!”

      Nam tử kia ngồi xếp bằng nền đất, bị hơi lạnh làm sặc sụa hồi, sau khi ổn định lại hơi thở bèn thản nhiên : “Tuy ngươi cứu mạng ta nhưng xưa nay ta muốn có thứ gì, nhất định phải có bằng được. Tuy chất độc người ta còn chưa được giải hết nhưng muốn đối phó với ngươi chẳng khó khăn gì.”

      Huyền Thanh nở nụ cười hờ hững. “ như vậy, ngươi cứ việc thử xem.”

      Nam tử kia hơi hất hàm cái, ngạo nghễ : “Nam nhân nhà Chu các ngươi làm gì có cái gọi là nhiệt huyết nam nhi, khí khái hùng. Nhìn khắp nhà Chu, người đáng lọt vào mắt ta chỉ có Nhữ Nam Vương Huyền Tế của các ngươi ngày trước, về sau y bị cầm tù, nghe Hoàng đế của các ngươi còn phải tốn phen công sức mới xử lý được y. Bình định Nhữ Nam Vương xong, có vị tướng quân trẻ tuổi họ Chân cũng khá nổi bật, chỉ là về sau phạm tội bị lưu đày, chẳng biết kết cục thế nào. Nhà Chu có tướng tài nào để dùng, trong nước lại trọng văn khinh võ, dân chúng phần lớn là trói gà chặt. Chỉ dựa vào đám quân lính tản mạn của các ngươi, ta thực chưa thèm để mắt.”

      Thấy gã kiêu ngạo như vậy tôi vẫn chẳng hề lo lắng, với bản lĩnh của Huyền Thanh, muốn đối phó với kẻ trúng độc còn chưa giải hết tất nhiên thành vấn đề. Thế nhưng nghe khẩu khí và thần thái của nam tử kia, hình như là rất tự tin, hơn nữa còn có hiểu biết khá về tình hình chính trị ở Đại Chu, thực chẳng biết là có lai lịch thế nào. Lỡ như gã thực có địa vị gì đó ở Hách Hách, khi bị Huyền Thanh giết chết, rất có thể làm lộ ra chuyện tôi và y lén ra ngoài du ngoạn, như thế là được bằng mất rồi. Tôi thầm suy nghĩ, nếu gã còn có người giúp đỡ nấp xung quanh, hoặc là có người đường tới chi viện, vậy việc càng thêm nan giải. Huyền Thanh mà chỉ có mình tất nhiên dễ dàng ứng phó mọi việc, nhưng có thêm tôi và Hoán Bích ở bên nhất định gặp phiền phức lớn.

      Hơn nữa, tôi cũng muốn nhìn thấy cục diện căng thẳng như giờ, bèn tới sát bên cạnh Huyền Thanh, hạ thấp giọng : “Tạm thời đừng ra tay vội.”

      Y thoáng ngẩn ra, rất nhanh khẽ “ừm” tiếng.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :