1. QUY ĐỊNH BOX XUẤT BẢN :

       

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]

    ----•Nội dung cần:

    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)

    - Tác giả

    - Dịch giả

    - Đơn vị phát hành

    - Số trang ( nên có)

    - Giá bìa (nên có)

    - Ngày xuất bản (nên có)

    --- Quy định

    1 . Thành viên post có thể tự type hoặc copy từ nơi khác (để nguồn)

    2 . Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn

    3. Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ

    Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Hậu cung Chân Hoàn truyện -- Lưu Liễm Tử (Full 3 Tập)

Thảo luận trong 'Sách XB Đang Type'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. khahanhl

      khahanhl Well-Known Member

      Bài viết:
      2,937
      Được thích:
      1,718
      Chương 12: Ơn mẹ cha


      Đến đêm, tôi đặc biệt dặn dò Cận Tịch phải thắp cả đèn dầu và nến, khoác lên người chiếc áo ngoài, tinh thần phấn chấn chuẩn bị cắt vải may vá. Thế nhưng vừa mới đưa nhát kéo đầu tiên, tôi sinh lòng do dự, ngẩn ngơ suốt hồi lâu.

      Cận Tịch : “Nương tử xưa nay vốn chẳng thua ai về tài may vá, sao lúc này lại do dự cắt nổi nhát kéo như vậy?”

      Tôi thoáng ngượng ngùng, đáp: “Ta chỉ sợ mình chẳng may cắt nhầm rồi thể may cho Lung Nguyệt chiếc áo đẹp nhất.”

      Cận Tịch cười, : “Nương tử là mẹ ruột của Công chúa, chiếc áo do người tự tay may vốn là đẹp nhất rồi, người cứ yên tâm mà làm thôi.”

      Tôi chà cây kim lên đầu, mỉm cười : “Có lẽ người làm mẹ nào cũng từng có tâm trạng như ta bây giờ.”

      Vừa khéo lúc này Hoán Bích giặt xong chỗ quần áo của ngày hôm nay, bước vào với thần sắc uể oải, nhìn thấy bàn có đặt mấy miếng vải màu sắc sặc sỡ, kìm được tò mò hỏi: “Hôm nay Phương Nhược mới tới sao? Trước đây đều phải ngày này mà”, rồi lại hỏi: “Lần này sao Phương Nhược lại đưa vải tới thế?”

      Bình thường khi Phương Nhược tới thăm tôi chỉ đưa tới ít đồ điểm tâm hoặc đồ dùng thường ngày, chưa từng đưa vải tới, mà tôi cũng chỉ mang theo mấy bộ đồ cũ bên người, đều là đồ của tôi từ trước khi vào cung, quãng thời gian gần đây chưa từng mặc lại lần nào. Tôi tu hành trong chùa, để tránh bị chú ý nên tuy còn để tóc nhưng cũng giống như các ni bình thường, chỉ mặc loại áo nhà chùa màu xám.

      Tôi tập trung tinh thần vào việc may vá, tiện miệng đáp: “Là vải Lục Vương gia đưa tới để ta may quần áo cho Lung Nguyệt.”

      Hoán Bích lộ vẻ vừa ngạc nhiên vừa vui mừng. “Vương gia về rồi sao? Về lúc nào vậy?”

      “Ba ngày trước.” Tôi đáp: “Chắc là về rất vội, trông dáng vẻ bụi bặm phong trần lắm.”

      Hoán Bích chăm chú nhìn cuộn tranh mà tôi mở sẵn bên cạnh, giọng thấp thoáng nét mừng vui: “Đứa bé này là Lung Nguyệt Công chúa của chúng ta sao?”

      Cận Tịch cũng vui vẻ : “Đúng thế, trông đáng quá chừng, đôi mắt này giống hệt mắt nương tử.”

      Ánh mắt tôi cũng bị thu hút qua đó, lại chăm chú nhìn hồi lâu. “Kính Phi trông đẫy đà hơn chút, chắc thời gian vừa qua sống rất thoải mái, đáng tiếc My Trang lại gầy !”

      Cận Tịch ghé đến bên cạnh, : “Cũng ràng lắm, kỳ thực từ sau khi bị cấm túc, Thẩm Tiệp dư chưa bao giờ hoàn toàn khỏe mạnh trở lại, cũng thực khổ cho ấy.”

      Hoán Bích khẽ : “Những nhân vật trong bức họa này sống động như , trình độ của người vẽ quả tầm thường.”

      Tôi đưa mắt liếc qua, mỉm cười, : “Vương gia vốn nổi tiếng tài năng, trước đây, ta chỉ cho rằng y thi thư thông thuộc, cưỡi ngựa rất giỏi, ngờ ngay đến việc vẽ tranh cũng là sở trường của y.”

      Hoán Bích thoáng ngạc nhiên, ngay sau đó lại mỉm cười bình thản. “Vương gia quả là có lòng.” Sau đó, nàng ta gì thêm, xoay người ra ngoài lấy nước.

      Trong chiếc bình sứ bàn có cắm bó hoa lau, tôi hái chúng bên bờ sông lúc quay về, có mùi hương cũng có màu sắc đẹp đẽ, chỉ nằm lặng lẽ trong bình, thoáng nhìn qua thấy yên bình, thoải mái.

      Cứ thế, mỗi đêm tôi đều thắp đèn may quần áo, rốt cuộc hai ngày trước sinh nhật của Lung Nguyệt, tôi may xong tất thảy mọi thứ. Mỗi món đồ tôi đều may theo kích thước mà Huyền Thanh đưa, gồm hai chiếc áo yếm may bằng vải gấm màu đỏ, lần lượt thêu hình bướm vờn hoa mẫu đơn và rồng phượng ngũ sắc; chiếc váy dài màu xanh biếc may bằng gấm đoạn; bộ quần áo bông thêu hoa mặc trong mùa đông; bộ đồ mặc mùa thu may bằng vải gấm in hoa; còn bộ xiêm y may bằng gấm Thục kẻ ô để Lung Nguyệt mặc dịp thôi nôi, dù rằng nó chưa chắc mặc; ngoài ra còn có mấy đôi tất và khăn quàng cổ may bằng vải đoạn màu tím.

      Tôi cầm từng thứ lên ngắm nghía kĩ càng, xem có chỗ nào bị lỗi , chỉ sợ có sợi chỉ thừa nào đó làm tổn thương đến làn da non nớt của Lung Nguyệt.

      Sau khi tôi may xong, cả Hoán Bích và Cận Tịch đều hết sức mừng rỡ. Hoán Bích lo lắng : “Mấy món đồ này đều rất đẹp nhưng tiểu thư phải làm thế nào mới đưa được chúng vào cung đây? Thực là đau đầu!”

      Tôi nhìn mấy bộ quần áo đó rời mắt, tươi cười đáp: “Ngày mai Vương gia đến đây lấy.”

      Hoán Bích buột miệng hỏi: “Tiểu thư mình gặp Vương gia sao?”, suy nghĩ chút, lại tiếp: “Bên cạnh Vương gia có người hầu tùy thân tên A Tấn, nô tỳ từng quen biết từ hồi ở trong cung, lâu lắm gặp rồi, chẳng bây giờ y có khỏe nữa.”

      Tôi mỉm cười chỉnh sửa lại rồi cẩn thận bỏ tất cả những thứ quần áo, khăn tất ấy vào trong bọc, : “Ta biết người đó, có điều nếu muội muốn , ngày mai cứ cùng ta cũng được.”

      Hoán Bích tươi cười, : “Tiểu thư như vậy, nô tỳ tất nhiên phải chứ!”, sau đó lại cất giọng xót xa: “Hôm nay tiểu thư phải ngủ sớm đấy, mấy ngày vừa qua tiểu thư dốc lòng may quần áo cho Công chúa chẳng được ngủ ngon, đôi mắt thâm quầng rồi kìa, thân thể chắc cũng rất mệt, hôm nay nhớ ngủ sớm chút nhé!”

      Tôi ngáp dài cái, cười : “Muội đúng lắm, có điều vì Lung Nguyệt, dù phải chịu khổ thế nào ta cũng cam lòng.”

      Buổi trưa hôm sau, tôi tìm dịp rảnh rỗi tới bên bờ sông như ước hẹn. Khi tôi tới nơi Huyền Thanh ở đó rồi, lần này theo y quả nhiên có người hầu, tuổi chỉ khoảng dưới hai mươi, vừa nhìn biết là người mẫn cán, tính cách cũng đôn hậu.

      Hoán Bích nhìn thấy y từ xa liền vẫy tay gọi: “A Tấn!”

      A Tấn nhìn thấy Hoán Bích cũng lộ vẻ vui mừng, cười : “Lâu lắm gặp Hoán Bích nương rồi, cứ ngỡ sống trong chùa Cam Lộ phải ăn uống kham khổ, ngờ nương càng ngày càng xinh đẹp.”

      Hoán Bích khẽ phỉ phui tiếng, đưa tay làm bộ định đánh y. “Càng ngày càng lẻo mép hơn rồi, đúng là đáng ghét!”

      Huyền Thanh thấy bọn họ cười đùa với nhau, liền với tôi: “Đây là A Tấn, tùy tùng theo ta từ .”

      A Tấn nhìn thấy tôi, vội khom người thỉnh an: “Trước đây ở trong cung chưa được thỉnh an nương tử lần nào, nay xin bổ sung cả thể”, rồi lại cười, tiếp: “Trước đây, nô tài thường nghe Vương gia khen nương tử đẹp thế nào, tốt thế nào, cứ ngỡ là ngài quá, nay được gặp mới biết tuy Vương gia mồm miệng lợi hại nhưng so với nương tử ở bên ngoài, lời kể rốt cuộc vẫn có chỗ bằng, thực chẳng là vì nguyên nhân gì.”

      Hoán Bích đứng bên cạnh nghe thấy thế cười khép được miệng, lát sau mới : “Tiểu thư đừng nghe lời y. A Tấn ỷ được Vương gia sủng ái, mồm mép láu lỉnh lắm!”

      A Tấn đưa tay chống nạnh, ngẩng đầu : “Nghe Hoán Bích nương kìa, vừa rồi nô tài có sai sao? Ở đâu lại có thị tỳ chủ nhân của mình tốt nhỉ, đúng là chưa từng nghe bao giờ.”

      Hoán Bích vừa nôn nóng vừa tức giận, hậm hực giậm chân. Huyền Thanh vừa cười vừa cốc đầu A Tấn cái mạnh. “Càng ngày càng thích linh tinh.”

      Tôi tươi cười rạng rỡ đưa bọc quần áo cho Huyền Thanh, tiếng “cám ơn”, rồi lại quay sang với A Tấn: “Hoán Bích vì đoán ngươi tới nên mới xin ta cho theo tới đây, chẳng ngờ vừa mới gặp mặt, ngươi chọc cho muội ấy tức giận.”

      A Tấn vội vàng nhận lỗi: “Nô tài hề biết việc này, như vậy xem ra lần này là nô tài đúng rồi”, sau đó lại quay sang kéo mép áo Hoán Bích, : “Là ta hiểu chuyện, hảo tỷ tỷ xin hãy tha cho ta lần này .”

      Hoán Bích gạt mạnh tay y ra, thẹn đỏ mặt : “Vương gia cũng ở đây mà, sao dạy dỗ A Tấn chút, để y càng ngày càng càn quấy”, rồi lại : “Chỗ quần áo này tiểu thư phải tốn rất nhiều công sức mới làm xong, phiền Vương gia đưa vào cung giúp.”

      Huyền Thanh khẽ nở nụ cười mỉm. “Tất nhiên vấn đề gì.”

      Tôi lại lấy từ trong bọc đồ ra quả cầu vải màu đỏ, bên dưới treo hai chiếc chuông bạc, liên tục phát ra những tiếng đinh , tươi cười : “Thứ này là dành cho Ngự Phong, Vương gia đeo vào cho nó .”

      Huyền Thanh cố ý cau mày, : “Qua việc này có thể thấy trong lòng nương tử, Thanh còn so được với Ngự Phong. Nương tử có quà cho Ngự Phong nhưng lại chẳng có gì cho ta cả.”

      Tôi mím môi cười, : “Lần trước phải Vương gia rồi sao? Ngự Phong học được hết điểm xấu của Vương gia rồi, như vậy ta tặng quà cho Ngự Phong cũng giống như tặng quà cho Vương gia vậy.”

      cười được lát, A Tấn chợt cất tiếng: “Chúng ta còn phải thăm lão Thái phi nữa đấy!”

      Sau đó, chúng tôi nhanh chóng từ biệt nhau.

      Về đến phòng, Phương Nhược sớm chờ tôi ở đó, thấy tôi quay về liền vội mỉm cười, đứng dậy. “Nương tử về rồi. Vì bận chuẩn bị lễ thôi nôi cho Công chúa, ta mới đến muộn mất hai ngày.”

      Tôi khẽ : “ sao, mời ngồi.”

      Phương Nhược y lời ngồi xuống, ngắm nhìn tôi lát, cười : “Hôm nay trông nương tử khí sắc tốt quá, vừa rồi dạo ở đâu sao?”

      Hoán Bích rót trà đưa tới, đáp thay: “Tiểu thư thấy hôm nay thời tiết khá tốt, liền ra ngoài dạo loanh quanh chút thôi.”

      Thế rồi Phương Nhược liền chọn mấy việc liên quan tới lễ thôi nôi của Lung Nguyệt mà kể lại, chẳng hạn như phủ Nội vụ chuẩn bị thế nào, buổi lễ cử hành ra sao, các phi tần định tặng lễ vật gì. “Lễ vật của các nương nương tiểu chủ khác có gì, chỉ toàn là gậy như ý, khóa vàng hoặc là nguyên bảo. Duy có Từ Tài nhân là đặc biệt nhất, chuẩn bị hẳn bức tượng Quan làm bằng bạch ngọc, đúng là rất có lòng.” Dừng chút, bà ta lại tiếp: “Nương tử tu hành trong chùa Cam Lộ, tất nhiên thể ở bên chăm sóc Công chúa, Từ Tài nhân tặng bức tượng Quan bạch ngọc như vậy, thứ nhất là thể rằng lòng con của nương tử tựa như từ bi phổ độ chúng sinh của Quan , chưa từng ngừng nghỉ bao giờ, trong đó tất nhiên cũng có ý tới Kính Phi nương nương; thứ hai còn là để cầu phúc cho Công chúa. Bức tượng Quan bạch ngọc ấy khá quý giá, Từ Tài nhân gia cảnh bình thường, hẳn phải hao phí ít tâm sức.”

      Tôi thấy Phương Nhược chỉ tới mình Từ Tài nhân, hiểu rằng nàng ta rất quý Lung Nguyệt, kìm được hỏi: “Từ Tài nhân là ai?”

      Phương Nhược mỉm cười, đáp: “Từ Tài nhân họ Từ, khuê danh Yến Nghi, vào cung trong đợt tuyển tú dịp này năm ngoái. Ban đầu ấy được phong làm thái nữ, bây giờ là tài nhân rồi.”

      Tôi thoáng trầm ngâm. “Từ Tài nhân rất đắc sủng sao?”

      Phương Nhược lắc đầu, đáp: “Ban đầu còn tốt nhưng bây giờ đắc sủng lắm, cũng có thể là trầm lặng, ai biết tới. giờ nổi bật nhất trong cung vẫn là An Dung hoa và Quản Thuận nghi… cũng chính là An Phương nghi và Kỳ Tần khi trước, ngoài ra chỉ có Khánh Quý nhân, Xương Tần và Dương Lương đệ là đắc sủng, ba người này cũng đều mới vào cung. Đặc biệt nhất phải kể đến Xương Tần Hồ thị, vị Xương Tần này vào cung với thân phận tú nữ, mà được Hoàng thượng đích thân nhìn trúng trong bữa tiệc cung đình. Thân mẫu ta là con của Vũ Dương Công chúa - em của Thái tông, cũng chính là Tấn Khang Quận chúa bây giờ. Tuy là nhà chồng của Tấn Khang Quận chúa suy bại nhưng tính ra vẫn là thân thích của hoàng gia. Hơn nữa, Xương Tần thực rất xinh đẹp, khi mới vào cung còn được Thái hậu đặc biệt triệu kiến.”

      Tôi nắm chặt bàn tay, cười lạnh tiếng: “Chúc mừng An Dung hoa và Quản Thuận nghi, lại được tấn phong rồi.”

      Phương Nhược hờ hững : “Quả là như vậy, chỉ trong năm mà An Dung hoa liên tục được tấn phong, đúng là phong quang vô hạn.” Dừng chút, bà ta lại tiếp rành rọt từng từ: “Huống chi bây giờ, Xương Tần có thai rồi.”

      Tôi bất giác cả kinh, hơi nheo mắt. “Xương Tần có thai rồi?” Ngay sau đó lập tức ý thức được rằng mình thất thố, tôi dần bình tĩnh trở lại, thử thăm dò: “Xương Tần có thân phận cao quý, hết sức bất phàm, có thai tất nhiên là việc tốt, sau này nếu sinh được công chúa hay hoàng tử, nhất định càng hiển hách.”

      Phương Nhược ngẩn ra, ngay sau đó hiểu được ý của tôi, bèn chậm rãi : “Nương tử yên tâm, Lung Nguyệt Công chúa tự khắc có người bảo bọc. Còn về cái thai của Xương Tần tiểu chủ, Hoàng thượng tất nhiên chú ý tới, chỉ như vậy, tất cả mọi người trong cung cũng đều để tâm tới việc này, ngay cả mẹ ruột của Xương Tần tiểu chủ là Tấn Khang Quận chúa cũng thường xuyên vào cung chăm nom đấy!”

      Tôi chậm rãi nhắm mắt lại, cất giọng đầy ý vị sâu xa: “ được xem trọng như vậy, cái thai của Xương Tần nhất định gặp vấn đề gì.”

      Phương Nhược ngẩng đầu nhìn trời, cười hờ hững, : “Điều này ai mà biết được. Chỉ bởi vì Xương Tần có thai, Hoàng thượng ba, bốn ngày liền thăm Công chúa rồi, có điều, trong buổi lễ thôi nôi của Công chúa, Hoàng thượng nhất định tới.”

      “Đây là việc nằm trong ý liệu, có điều, đợi sau khi đứa bé của Xương Tần ra đời, Lung Nguyệt bị ghẻ lạnh.” Tôi buồn bã thở dài. “Đứa con có mẹ ruột ở bên, lúc nào cũng phải chịu thiệt thòi.”

      Phương Nhược tỏ ý tán đồng, : “Ôn Nghi Công chúa được Đoan Phi nương nương nuôi nấng, Thục Hòa Công chúa có mẹ ruột là Hân Quý tần, vậy mà đãi ngộ của Thục Hòa Công chúa lại có phần kém Ôn Nghi Công chúa, và cả hai vị Công chúa đều được Hoàng thượng quý bằng Lung Nguyệt Công chúa.”

      “Có điều…” Đôi hàng lông mày của tôi dần cau lại. “Mẹ ruột của Lung Nguyệt là người bị Hoàng đế căm ghét. Do đó, thứ duy nhất mà Lung Nguyệt có thể dựa vào trong cung chính là thương của phụ hoàng nó, chỉ khi nào thương ấy giảm bớt, nó mới có thể sống yên ổn trong cung.”

      Kỳ thực, ở trong cung, các phi tần tranh đoạt sủng ái của Hoàng đế là để bảo vệ bản thân mình, các con cái của hoàng đế cũng có khác gì đâu. Hoàng tử còn có thể dựa vào phấn đấu của bản thân để vươn lên, nhưng còn công chúa, tiền đồ và tao ngộ cả đời đều phải trông chờ vào thương của phụ hoàng.

      Tôi đưa tay chống cằm, trầm tư suy nghĩ, mấy bông cúc vàng tươi cắm trong phòng tỏa mùi hương hơi hăng tựa như mùi thuốc, khiến đầu óc người ta tỉnh táo hơn. Tôi chậm rãi mở mắt ra, nở nụ cười cực kì điềm đạm, : “Di vật của Thuần Nguyên Hoàng hậu, bây giờ do ai bảo quản?”

      Phương Nhược vạch từng ngón tay ra, vừa suy nghĩ vừa : “Những thứ quần áo hoặc đồ trang sức mà Thuần Nguyên Hoàng hậu quý nhất đều ở chỗ Hoàng thượng, còn lại là do Hoàng hậu bảo quản, chỗ Thái hậu cũng có ít.”

      “Vậy khi còn tại thế, Thuần Nguyên Hoàng hậu có thích thứ đồ trang sức nào kiểu như vòng đeo cổ ?”

      Phương Nhược tập trung suy nghĩ lát rồi mới đáp: “Có. Nô tỳ nhớ Thuần Nguyên Hoàng hậu có chiếc vòng ngọc phù dung được điêu khắc thành từ ngọc Dương Chi, ở chính giữa là bông phù dung trắng tinh thuần khiết, hai bên phải trái đều là những cành lá nối liền với nhau, do chín miếng ngọc xanh điêu khắc thành. Lúc sinh tiền, Thuần Nguyên Hoàng hậu hết sức thích chiếc vòng này, hình như nó là do Hoàng thượng chính tay ban tặng trong ngày đại hôn.”

      “Vậy, nếu muốn điêu khắc chiếc vòng tương tự như thế, đại khái cần khoảng bao lâu?”

      Phương Nhược suy nghĩ chút rồi : “Ngọc Dương Chi thuần khiết vốn khó tìm, dù có tìm được, muốn chế thành ít ra cũng cần nửa tháng mới xong.”

      Tôi bẻ lấy bông cúc, chậm rãi ngắt từng cánh hoa, đôi chút dịch thể màu vàng nhạt dính vào lòng bàn tay tôi, tỏa ra mùi thơm thoang thoảng. “Nếu chỉ dùng loại ngọc trắng bình thường để điêu khắc bông hải đường bốn cánh tương tự phù dung, cành lá dùng ngọc phỉ thúy thứ phẩm, liệu cần thời gian bao lâu? Ta chỉ cần hao hao giống, cầu giống hoàn toàn.”

      “Cho dù dùng vật liệu bình thường, lại điêu khắc theo lối đơn giản nhất, cũng cần ba, bốn ngày mới có thể hoàn thành được.”

      Tôi đứng dậy, mở hộp châu ngọc phủ đầy bụi, lấy từ bên trong ra những món đồ trang sức mà mình lâu dùng tới, giao hết vào tay Phương Nhược, khẩn khoản : “Lung Nguyệt là đứa con duy nhất của ta, bây giờ nó sắp tròn tuổi, ta là người làm mẹ, chỉ biết làm hết những điều có thể thôi. Xin hãy giúp ta cầm mấy thứ này tới phủ Nội vụ nhờ những người thợ ở đó làm nhanh giúp ta chiếc vòng cổ như ta vừa , để Lung Nguyệt có thể đeo trong dịp thôi nôi, đây cũng coi như chút tâm ý của người làm mẹ này.”

      Phương Nhược nhìn tôi bằng ánh mắt thấu hiểu, hồi lâu sau liền buông tiếng thở dài, giữ tay tôi lại. “Nương tử ở bên ngoài, đồ đạc cũng chẳng còn lại bao nhiêu, mời thợ cần tiêu tốn nhiều như vậy.” Bà ta tiện tay cầm lấy chiếc vòng ngọc phỉ thúy, : “Chỉ cái này cũng đủ rồi. Nương tử yên tâm, nô tỳ cố hết sức.”

      Tôi dặn dò thêm: “Ta vì mặc nhầm quần áo cũ của Thuần Nguyên Hoàng hậu mà mang tội, hy vọng Lung Nguyệt đừng giẫm lên vết xe đổ của ta.”

      Phương Nhược vỗ lên bàn tay tôi tỏ ý an ủi, : “Nương tử yên tâm, nô tỳ hiểu mà!”

      Tôi đứng tựa người vào cánh cửa, dùng ánh mắt tiễn Phương Nhược quay về. Thấy bóng dáng bà ta dần biến mất giữa ánh hoàng hôn mờ mịt, lưu luyến trong lòng tôi bất giác càng nồng đậm hơn.

      Khi Phương Nhược tới đây lần nữa tháng sau. Theo lệ thường, bà ta nhận lấy chỗ kinh Phật mà tôi vừa chép xong, cười tủm tỉm, : “Nghe Thái hậu chữ của nương tử đẹp hơn nhiều rồi, chỉ là thiếu chút sức sống, có lẽ vì đọc nhiều kinh Phật quá, tính tình nương tử trở nên quá mức điềm đạm.”

      Tôi : “Bản lĩnh nhìn chữ đoán người của Thái hậu quả là phi phàm.”

      Phương Nhược mỉm cười, : “Xương Tần có thai được ba tháng rồi, cái bụng cũng hơi nhô lên.”

      Tôi hờ hững “ừm” tiếng, chậm rãi lần tràng hạt trong tay, tỏ ra chẳng mấy để tâm tới việc này. “Ai mà chưa từng có thai, việc này liên quan gì tới ta chứ?”

      Phương Nhược : “Việc này quả thực liên quan gì tới nương tử, chỉ là cứ ngỡ cái thai của Xương Tần chia sẻ bớt quan tâm của Hoàng thượng tới mấy vị công chúa và hoàng tử, nhưng bây giờ người khác thế nào chúng ta tạm chưa tới, còn Lung Nguyệt Công chúa đắc sủng vô cùng, ai có thể so sánh được.”

      Tôi mỉm cười, lật mở trang kế tiếp của cuốn Lăng Nghiêm kinh, khẽ : “Thực làm phiền Phương Nhược rồi!”

      “Nô tỳ chẳng qua chỉ làm theo dặn dò của nương tử mà thôi. Sau việc lần này, ngay đến Kính Phi nương nương cũng thán phục thôi.” Phương Nhược chậm rãi kể lại: “Ngày mùng Sáu tháng Mười là ngày sinh của Công chúa, lễ thôi nôi được tổ chức ở Trọng Hoa điện, khách chủ đều vui cả. Công chúa mặc chiếc áo kẻ ô may bằng gấm Thục, đáng vô cùng, được Kính Phi nương nương bế ngồi phía bên trái Hoàng thượng. Khi Hoàng thượng bế Công chúa nhìn thấy chiếc vòng ngọc mà Công chúa đeo cổ. Việc này vốn khá mạo hiểm, ban đầu Kính Phi nương nương do dự suốt hồi lâu, sợ Công chúa giẫm vào vết xe đổ của nương tử mang họa. Nô tỳ phải khuyên nhủ hết lòng, lại kể ra mưu trí của nương tử ngày trước, Kính Phi nương nương mới chịu nghe theo. Lúc Hoàng thượng nhìn về phía chiếc vòng ngọc kia, chắc Kính Phi nương nương hồi hộp vô cùng. Ai ngờ Hoàng thượng chỉ ngẩn ngơ nhìn lát, là rất quen mắt nhưng hề tức giận, chỉ hỏi Kính Phi nương nương chiếc vòng này là ở đâu ra. Kính Phi liền trả lời rằng hai ngày trước, khi chuẩn bị đồ trang sức cho Công chúa, phát Công chúa còn chưa có vòng đeo cổ mới vội vã bảo phủ Nội vụ làm chiếc. Nương tử biết đấy, khi Kính Phi nương nương vào cung Thuần Nguyên Hoàng hậu qua đời, Kính Phi nương nương tất nhiên chưa từng nhìn thấy di vật của Thuần Nguyên Hoàng hậu, mà chiếc vòng ấy chế tác cũng đơn giản, nhìn xa mới thấy hơi giống chiếc của Thuần Nguyên Hoàng hậu, còn nhìn gần khác hẳn. Hoàng thượng tất nhiên nghi ngờ gì Kính Phi nương nương, chỉ cho rằng là trùng hợp mà thôi. Sau đó người liền sai Lý Trường lấy chiếc vòng kia của Thuần Nguyên Hoàng hậu tới, ban tặng cho Công chúa, còn đích thân giúp Công chúa đeo lên cổ. Mãi tới lúc ấy nô tỳ mới dám thở phào hơi.”

      Những hạt châu tròn lẳn chậm rãi lướt đầu ngón tay tôi, tuần hoàn liên tục. Tôi nhắm hai mắt lại, ngửi mùi đàn hương trong phòng, khẽ : “Công chúa còn tuổi, vẫn chưa biết gì, cho dù là thứ đồ giống hệt, Hoàng thượng cũng cho rằng Công chúa cố ý mạo phạm. Làm vật có phần tương tự như thế, thứ nhất là để Kính Phi bị liên lụy, thứ hai là biến việc hữu ý thành vô tâm, khiến Hoàng thượng càng dễ dàng tin tưởng hơn, ngay đến Hoàng hậu cũng nghi ngờ gì.”

      “Sau việc này, ngay đến Kinh Phi nương nương cũng , có được chiếc vòng ngọc phù dung này của Thuần Nguyên Hoàng hậu, Công chúa giống như có thêm bùa hộ mệnh vậy.”

      Tôi hỏi: “Vậy ở trước mặt Hoàng thượng, Kính Phi nương nương xưng hô với Công chúa thế nào?”

      Phương Nhược hơi cúi thấp đầu, thấp giọng đáp: “Ở chỗ có người gọi là Lung Nguyệt, còn khi ở riêng với Hoàng thượng gọi khuê danh Oản Oản của Công chúa.”

      Tôi gật đầu, mỉm cười. “Kính Phi là người thông minh, hiểu rất cách tự bảo vệ mình. Giao Công chúa cho nàng ấy nuôi dưỡng, ta rất yên tâm. Phiền khi quay về hãy dặn Kính Phi câu, chiếc vòng ngọc phù dung ấy nên cất vào chỗ, nếu để Công chúa thường xuyên đeo người, có thể gặp phải những rắc rối cần thiết.”

      “Nô tỳ hiểu.” Phương Nhược nở nụ cười hiền dịu. “Nương tử từ chỗ mình sẩy chân học được cách biến thua thành thắng, giúp Công chúa thu được rất nhiều lợi ích. Qua việc này có thể thấy tâm trí nương tử hề vì đắm chìm trong Phật pháp mà trở nên trì trệ, đầu óc ngược lại còn có vẻ chu toàn hơn.”

      Tôi hờ hững : “ đùa rồi, ta chỉ là kẻ thua trận, còn dám gì tới mưu trí nữa. Chẳng qua là ngã keo, leo nấc, ta có thể giúp được con mình chỗ nào cố gắng giúp chỗ đó mà thôi!”

      Phương Nhược khoan khoái : “Qua chiếc vòng ngọc phù dung này, đủ thấy địa vị của Công chúa trong lòng Hoàng thượng, dù sau này Xương Tần có mẹ tròn con vuông, đứa bé sắp ra đời kia cũng khó mà uy hiếp tới Công chúa được.”

      Trong lòng tôi cũng trào dâng tia mừng rỡ, mỉm cười khẽ than: “Nuôi con tới trăm tuổi có đến chín mươi chín năm lo lắng, làm gì có lúc nào yên tâm. Dù sau này Lung Nguyệt được gả chồng, ta cũng lo lắng biết phò mã liệu có lòng dạ với nó .” Thoáng suy nghĩ chút, tôi lại hỏi Phương Nhược: “Có việc ta luôn muốn hỏi . Đoan Phi là con của danh tướng Tề Bất Trì, vừa vào cung thành quý tần; Hoa Phi có chỗ dựa là Nhữ Nam Vương, mới tiến cung được phong làm Hoa Tần; Hoàng hậu năm xưa càng chẳng cần phải , là biểu tỷ của Hoàng thượng, cháu của Thái hậu, mới vào cung được tôn làm Nhàn Phi. Nhưng Xương Tần là con của Tấn Khang Quận chúa, có quan hệ thân thích với hoàng gia, tại sao khi vào cung lại chỉ có danh phận quý nhân, bây giờ có thai rồi cũng chỉ được phong làm tần?”

      Phương Nhược thoáng suy nghĩ rồi trầm ngâm đáp: “Khi Hoàng thượng vừa mới đăng cơ, cả hậu cung và triều đình đều chưa ổn định, do đó cần phải lập mấy vị phi tử có địa vị cao. Bây giờ hậu cung về cơ bản vào quy củ, dù Xương Tần có đắc sủng đến mấy cũng phải tiến dần từng bước từ thấp đến cao. Vì việc này, khi tới thỉnh an Thái hậu, Tấn Khang Quận chúa từng ít lần than vãn. Thế nhưng Tấn Khang Quận chúa cũng quá hồ đồ.” Phương Nhược lắc đầu, : “Bây giờ hậu cung là do Hoàng hậu chủ trì đại cuộc, thân thể Thái hậu khỏe lắm, đâu còn có thể lời chín đỉnh như năm xưa được.”

      “Vậy quan hệ của Xương Tần với các phi tần ở hậu cung thế nào? Có đặc biệt thân thiết với ai ?”

      “Dạ .” Phương Nhược chút nghĩ ngợi đáp ngay. “Xương Tần thân phận tôn quý, xưa nay luôn tự thị rất cao, mấy khi qua lại với người khác, luôn độc lai độc vãng. Ngoài Hoàng hậu, Đoan Phi và Kính Phi ra, những người khác, ta đều để ý tới.”

      Tôi đưa tay khẽ vuốt chiếc cằm ngày gầy guộc của mình, trầm giọng hỏi: “Vậy với An Lăng Dung sao?”

      Phương Nhược chẳng buồn nhướng mày lên, : “Xương Tần mắt cao quá trán, sao thèm để ý đến An Dung hoa. An Dung hoa tuy có tước vị cao hơn Xương Tần nhưng cư xử với Xương Tần lại vô cùng cung kính, dám ra vẻ kẻ cả chút nào.”

      Tôi cười lạnh, : “An Lăng Dung vốn chẳng có căn cơ gì trong hậu cung, trước mặt Xương Tần tất nhiên phải nhún mình rồi. Có điều, chỉ cần Xương Tần và An Lăng Dung chung giuộc, ta cũng có gì phải lo lắng nữa.”

      Phương Nhược nghe thấy vậy trầm ngâm lát, sau đó liền đứng dậy cáo từ: “Nương tử có gì để lo lắng, như vậy nô tỳ cũng yên tâm hơn rồi.”

      Giữa vùng núi vắng mênh mang, mùa đông thường tới rất sớm. Như lệ thường, mùa đông năm nay lại tới giữa những chiếc lá cây rơi lả tả. Huyền Thanh cứ cố định mỗi tháng đến thăm tôi , hai lần, để tránh bị nghi ngờ, cũng để tránh cho tôi khỏi gặp khó khăn với những lời đồn thổi, y thường xuyên đợi tôi bên bờ sông dưới chân núi khi tôi ra ngoài giặt giũ hoặc cắt cỏ.

      Ban đầu, thường là y bảo A Tấn với Hoán Bích thời gian y tới, sau đó đợi tôi ra ngoài gặp y. Dần dần, có lẽ là do hiểu nhau, tôi thường xuyên cảm giác được khi nào y tới, thế là bèn ra ngoài, những lúc đó, y đều chờ tôi sẵn bên bờ sông rồi.

      Thỉnh thoảng tôi hỏi tới việc này, y chỉ cười, đáp: “Ta thường xuyên rảnh rỗi có việc gì làm, bèn lại loanh quanh bên bờ sông, lại nhiều rồi, tất nhiên biết được khi nào nương tử qua đây.” Nụ cười của y điềm đạm như làn gió, cắt ngang qua mặt sông, làm mặt nước nhàng lay động. “Cũng có thể , ta thích chờ ở đây, nếu chờ được người mà mình muốn gặp niềm vui lớn vô cùng, còn có thể cảm thán diệu kỳ của duyên phận nữa.”

      Tôi khẽ cười trước gió. “ thực lòng, trong chuyện tình cảm nam nữ, ta hề tin vào duyên phận. Xưa nay ta luôn nghĩ chỉ những người yếu đuối, chịu cố gắng tranh thủ mới dùng hai chữ duyên phận để làm cái cớ, khi nào thân mật là duyện phận sâu dày, còn khi muốn kết thúc mối tình là duyên phận hết.”

      Huyền Thanh cười tủm tỉm, : “Nương tử cứ luôn khiến người ta phải sáng mắt lên như thế đấy, từng lời đều chứa chân lý sâu xa.”

      “Vương gia quá khen rồi!” Tôi nhìn về phía con thuyền dập dềnh sóng nước đằng xa, khẽ : “Có lẽ tới ngày nào còn đường để nữa, ta mới chịu rằng, duyên phận hết rồi.”

      Huyền Thanh chậm rãi , khuôn mặt đầy vẻ ung dung, điềm đạm: “Nếu là trước đây, khi nương tử còn đắc ý, nương tử ra những lời này Thanh hề cảm thấy lạ. Nhưng bây giờ nương tử theo Phật Tổ tu hành, chẳng lẽ vẫn chưa tin vào duyên phận sao?”

      “Phải.” Tôi hơi chỉnh lại vạt áo, nơi nội tâm trong veo và bình lặng. “Dù vào nơi cửa Phật, ta vẫn kiên trì với lòng tin của mình. Huống chi Phật Pháp tinh thông, ta cũng chưa từng hiểu được hết, chỉ mong Phật Pháp có thể làm lòng người yên ổn mà thôi. Còn về cái thuyết duyên phận, ta cảm thấy việc là ở người, sum vầy hay ly tán đều như thế cả, cần thiết phải lấy hai chữ duyên phận ra làm cái cớ.”

      Huyền Thanh vỗ tay cười, : “Thanh cứ ngỡ tính tình của nương tử hoàn toàn bị kinh Phật làm mềm , ngờ vẫn còn mặt thế này. Những lời vừa rồi của nương tử thực chẳng có vẻ gì của người xuất gia.”

      Hai bờ má thoáng ửng hồng, tôi rất nhanh cười, : “Tuy gần đây thường xuyên tiếp xúc nhưng dù sao ta cũng mới nghiên cứu kinh Phật được hơn năm thôi, những chỗ bác đại tinh thâm còn chưa thể lĩnh ngộ, khiến Vương gia chê cười rồi.”

      Chúng tôi cứ thỉnh thoảng trò chuyện vài câu như vậy, y hề nhắc tới nhi nữ tư tình, khiến chút tâm tư thấp thỏm của tôi dần tan biến.

      Ngoài dịp cứ hai tháng lần đưa tranh của Lung Nguyệt tới, phần lớn thời gian gặp gỡ, tôi và y đều trò chuyện với nhau về Phật pháp hay thi từ, thỉnh thoảng có gì để chỉ ngồi cùng nhau ngắm cảnh. Cũng có lúc y tìm được cuốn sách hay nào đó, liền đem tặng cho tôi. Nếu khi nào tiện gặp mặt, y bảo A Tấn nhân lúc Hoán Bích ra ngoài mà nhờ giao lại cho tôi. Cuộc sống trong chùa Cam Lộ vẫn luôn khô khan và độc, chỉ có những cuốn kinh văn và công việc hằng ngày, thỉnh thoảng trò chuyện với y là dịp mà tôi vui vẻ nhất, qua đó mà còn nhớ được số bài thơ, bài từ thuở xưa, đây có lẽ là chút lạc thú duy nhất của tôi trong quãng đời tẻ nhạt còn lại.

      Những ngày tháng ở chùa Cam Lộ, tâm trạng tôi luôn tràn ngập tuyệt vọng và oán hận nặng nề, vô số chuyện cũ hoặc tươi đẹp hoặc u ám ngừng xuất trước mắt tôi. Tôi vẫn luôn cố gắng quên chúng , nhưng mỗi lần màn đêm buông xuống, những ngọn gió bên ngoài cửa sổ đều như than như khóc, kết hợp với những dòng ký ức ùa về, đè nặng lên trái tim tôi, hủy hoại tôi cách tàn nhẫn mà dữ dội.

      Thế nhưng mỗi lần tới trước mặt y, tôi lại luôn giữ được tâm trạng bình lặng, bình lặng tựa mặt nước hồ thu lấp lánh những ánh dương ấm áp.

      Hoán Bích thường yên tâm để tôi và Huyền Thanh ở riêng với nhau, sợ lại xuất những lời đồn thổi như lần trước, thế là lần nào cũng đòi theo, nhưng thấy tôi và y chỉ tán gẫu bình thường, liền đứng ra phía xa, trò chuyện với A Tấn đôi câu.

      Cứ thế, chúng tôi lẳng lặng qua lại với nhau, hết sức thanh bạch.

      Mãi đến rất nhiều ngày sau, khá lâu rồi thấy y tới, khi ngang qua dòng sông bên dưới chùa Cam Lộ, nghe thấy tiếng chim hót véo von, cảm nhận mềm mại và đắm đuối đặc biệt của làn gió trong dịp giao mùa xuân hạ, lại ngửi mùi thơm thoang thoảng của cỏ cây xung quanh, tôi đột nhiên ý thức được, Huyền Thanh hai tháng tới đây rồi, dưới chân núi chỉ còn lại dòng sông vẫn lững lờ chảy mãi, A Nô vẫn tiếp tục hát khúc hát mà tôi từng nghe thấy trong lần đầu gặp mặt.

      Em nay đối với tình lang, tình càng thấm thía dạ càng ngẩn ngơ. Nhớ ai nhớ đến bao giờ? Ngày ngày tựa cửa trông chờ tình lang. Tình lang ơi hỡi tình lang, lòng này thắm thiết xin chàng chớ quên…

      Tiếng ca của A Nô cao vút mà khoan khoái, lúc nào cũng hết sức vui tươi.

      Có lúc tôi hiểu, liền hỏi bé: “A Nô, ngươi có biết ý nghĩa của khúc hát này ?”

      A Nô tươi cười rạng rỡ, đáp: “Tất nhiên là biết chứ!”

      Tôi cười, thở dài: “Khúc hát này về tình cảm nam nữ, ngươi tuy rằng biết nhưng lại chẳng hát ra được chút tình ý nào.”

      A Nô ngẩng cao đầu, tỏ ý tán đồng, bàn tay mân mê bím tóc, tươi cười : “Biết được sao? hát ra được sao? thế gian này có rất nhiều chuyện bản thân ràng biết là thể làm được. Huống chi ta còn chưa có người trong lòng, hát ra được tình cảm nam nữ có gì là kỳ lạ đâu.”

      Tôi vẫn tiếp tục nghe khúc tình ca đó bằng giọng hát vui vẻ của A Nô, trong lòng chợt trào dâng nỗi độc tột cùng. Bên cạnh tôi, Hoán Bích cũng thở dài, : “Vương gia lâu lắm rồi tới, đến người để chuyện cũng còn nữa rồi.” Nghe giọng của nàng cũng đầy vẻ đơn.

    2. khahanhl

      khahanhl Well-Known Member

      Bài viết:
      2,937
      Được thích:
      1,718
      Chương 13: Tuyệt đại giai nhân


      Khu vực quanh chùa Cam Lộ dần trở nên quen thuộc với tôi, tôi bắt đầu xa hơn chút trong những lần cắt cỏ.

      Có lúc Tịnh Bạch cau mày, trách mắng tôi: “Đừng có lười nhác, tưởng mình còn là lá ngọc cành vàng như trước sao? cắt cỏ nhớ xa chút!”

      Thế là ngay cả đỉnh Lăng Vân hay hậu sơn của đỉnh Cam Lộ, tôi cũng thường hay lui tới.

      Chỉ duy có đỉnh Phiêu Miểu, nơi có biệt viện Thanh Lương Đài của Huyền Thanh là tôi nhất quyết tới bao giờ. phải bởi nguyên nhân gì khác, chỉ là vì khi tôi trèo lên cao, nhìn thấy Thanh Lương Đài tường xanh ngói đỏ ở phía xa, tâm trạng liền trở nên bình yên khó tả, cảm thấy chỉ cần nhìn xa như vậy là được. khi lại gần, trong lòng tôi liền thấp thoáng trào dâng cảm giác sợ hãi.

      Hôm ấy, tôi tới hậu sơn của đỉnh Cam Lộ, nơi đây đường hẹp cây nhiều, cành lá rậm rạp, những bông hoa dại mọc lác đác giữa bụi cỏ, thoang thoảng hương thơm, tôi nhất thời nhìn mà say đắm, liền bước vào sâu trong khu rừng, nơi mình chưa từng đặt chân tới. Chỉ thấy xung quanh là vùng xanh biếc, hoàn toàn che hết ánh mặt trời nóng nực, văng vẳng đâu đây còn có tiếng chim hót véo von, vui tai vô cùng, thời tiết tháng Năm cũng theo đó mà trở nên mát mẻ. Càng vào sâu trong núi lại càng xuất nhiều mạch suối, khí trở nên sảng khoái, dễ chịu hơn, toàn thân tôi có chỗ nào là thoải mái.

      tới giữa rừng, con đường ruột dê lát đá cuội ra trước mắt, chẳng biết dẫn về nơi nào, dường như mời gọi người ta tiếp. Men theo đó mà , chỉ thấy có mấy ngôi nhà cũ quây quần chỗ, màu sắc ban đầu của tường ngói sớm bị gió núi xóa nhòa, chỉ còn lại vẻ cũ kĩ, hòa vào màu xanh biếc của khung cảnh xung quanh, có lấy chút sinh khí, cũng chẳng có gì bắt mắt.

      tới gần, tôi thấy cổng của khu nhà đó có tấm biển , sơn vàng quá nửa bị bong tróc, thêm vào đó, lúc này sắc trời u ám, phải nhìn lúc lâu tôi mới nhận ra đó là ba chữ lớn “An Tê Quán”.

      Tôi nhất thời tò mò, lại cảm thấy mồm miệng khát khô, thầm nghĩ cánh cửa gỗ màu xám kia khép hờ, hẳn là có người ở trong. Thế là tôi bèn đưa tay đẩy khẽ, cánh cửa “két” tiếng mở ra.

      Xuất trước mắt tôi là chiếc sân cùng gian chính đường kiểu dáng bình thường, sau chính đường là sân giữa, sau nữa lại có ba gian thiền phòng , tất cả đều vô cùng sạch , chỉnh tề. Điều đáng chú ý là ở nơi đây, giữa những lùm cỏ xanh biếc có nguồn suối từ giữa khe đá chảy ra, hết sức thú vị. Quanh sân trồng đầy những cây ngô đồng , khiến khung cảnh càng trở nên thanh tịnh và đẹp đẽ.

      Giữa rừng tĩnh lặng, gió mát vi vu thổi tới khiến tôi khỏi cảm thấy hơi lành lạnh, thế là còn khát như trước nữa.

      giọng dịu dàng, điềm đạm chợt vang lên: “ tìm ai sao?”

      Tôi nhìn theo hướng phát ra thanh, thấy nữ tử ăn mặc theo lối đạo đứng giữa ánh ráng chiều, tay xách thùng nước, lẳng lặng nhìn tôi.

      Vì đứng ngược sáng nên tôi thể nhìn dung mạo bà ta, chỉ cảm thấy giọng của bà ta rất ôn hòa và động lòng người. Tôi biết mình tự tiện tiến vào thế này là vô cùng thất lễ, liền vội khom người, áy náy cười, : “Ta khát nước quá, do đó mới mạo muội vào đây định xin miếng nước.”

      Bà ta nghe vậy liền khẽ nở nụ cười, vẫy tay với tôi: “Nước ở đó là nước lã, uống được đâu. Theo ta vào đây , để ta lấy nước cho .” Tôi vội vã cảm tạ rồi mới tới bên cạnh bà ta.

      tới gần, tôi mới thấy đạo này chỉ chừng xấp xỉ bốn mươi tuổi, trông đến mức quá diễm lệ nhưng khuôn mặt lại rất thanh tú và điềm đạm, còn có mấy phần quen thuộc. Từ trong đôi mắt của bà ta toát ra vẻ dịu dàng, uyển chuyển khó mà diễn tả bằng lời, tựa bài Tống từ tinh tế nhất. Lúc này sắc trời tối dần, ánh hoàng hôn lập lòe chừng như sắp tắt đến nơi. Tấm dung nhan đột nhiên xuất của bà ta tựa vầng trăng sáng treo cao trời, chiếu xuống vô số tia sáng dìu dịu, lại như bông tuyết đầu tiên rơi xuống giữa trời mùa đông, thuần khiết, thanh tân.

      Tôi nhất thời cảm thấy ánh mắt mơ màng, mồm miệng khô khốc. khô khốc đó phải do cơn khát vừa rồi gây ra, mà là bởi tâm tư tôi còn ở trong đầu mình mà dừng lại hết người bà ta, sao dời được.

      Bà ta cười tủm tỉm, đưa cho tôi chén nước, : “Uống , trà này vừa mới nguội, chính là lúc ngon nhất đấy!”

      Tôi vẫn còn ngơ ngẩn, chẳng đưa tay ra đón. Bà ta khẽ giục hai câu, tôi mới giật mình bừng tỉnh, ngượng ngùng : “ thất lễ rồi!”

      Bà ta khẽ lắc đầu, trách cứ gì. Tôi vội đưa tay đón lấy chén nước, thầm tự trách mình, tôi phải là nam tử háo sắc, lúc ở trong cung cũng từng thấy đủ loại nữ tử xinh đẹp rồi, thậm chí có cả người diễm lệ tuyệt trần như Hoa Phi. Đạo trước mắt này thể tính là mỹ nhân tuyệt sắc, nhưng lại có thể khiến người ta kìm được, sinh lòng đắm say.

      Tôi thầm khen lạ, uống ngụm nước rồi hỏi: “ biết phải xưng hô với sư phụ thế nào?”

      Bà ta cười, ôn tồn : “Cứ gọi ta là Xung Tĩnh.”

      Xung Tĩnh? Tôi thầm ngơ ngẩn, cảm thấy hình như mình từng nghe thấy cái tên này ở đâu rồi. Mà điều khiến tôi nghi hoặc nhất là chùa Cam Lộ vốn thờ Phật, là nơi ở của các ni , tại sao ngay trong ngọn núi gần chùa Cam Lộ lại có tòa đạo quán chẳng mấy nổi danh thế này?

      Xung Tĩnh, tôi cẩn thận suy nghĩ nhưng rốt cuộc vẫn nhớ ra được từng nghe thấy cái tên này ở đâu. Thế nhưng, tôi biết cái tên này rất quen.

      Đương nghĩ ngợi, bà ta chợt hỏi tôi: “ là ni ở chùa Cam Lộ sao?” Tôi khẽ gật đầu. Bà ta lại hỏi: “ là người mới tới à? Sao muộn thế này rồi mà vẫn còn ở bên ngoài?”

      Tôi thấp giọng đáp: “Dạ phải. Chỉ vì còn chưa cắt đủ cỏ, vãn bối mới ở lại bên ngoài này nhưng cũng chuẩn bị về ngay đây.”

      Bà ta khẽ nở nụ cười, trong mắt thấp thoáng tia xót thương. “Thực vất vả cho rồi!”

      Tôi muốn để người khác thương hại nên chỉ im lặng đáp lời. Thấy bà ta chỉ có mình, tôi bèn hỏi: “Sư phụ ở đây mình sao?”

      Bà ta ngó nhìn xung quanh chút, mỉm cười : “Ta ở cùng với người thị nữ.”

      Tôi khỏi thầm kinh ngạc, như vậy thực hiu quạnh quá, nhưng cũng tiện hỏi bà ta sao lại ở đây, chỉ cúi đầu, lẳng lặng uống nước.

      Đương trò chuyện, cánh cửa gỗ chợt mở ra lần nữa, giọng khẽ vang lên: “Úi chao, có người lạ ở đây sao?”

      Tôi ngoảnh đầu lại, nhìn thấy người ăn mặc theo lối thị nữ, chắc hẳn chính là người thị nữ mà Xung Tĩnh vừa nhắc tới, bèn : “ làm phiền rồi!”

      Bà ta tuổi tác tương đương với đạo kia, đặt thứ đồ trong tay xuống, nở nụ cười sảng khoái. “Thái phi còn thấy bị làm phiền, sao ta có thể có cảm giác ấy được?”

      Tôi ngẩn ra, trong đầu như lóe lên tia sáng. Vị đạo dáng vẻ hiền hòa trước mắt này được thị nữ gọi là “Thái phi”, nơi này lại ở ngay gần Thanh Lương Đài của Huyền Thanh, mà nhìn khí chất điềm tĩnh nơi khóe mắt bà ta còn phải giống hệt với Huyền Thanh đó sao? Thứ khí độ cao quý kia, đạo bình thường sao mà có được?

      ngờ đạo trước mắt tôi đây lại chính là Thư Quý thái phi, mẹ ruột của Huyền Thanh, người năm xưa từng làm chấn động kinh thành, đến bây giờ vẫn còn được vô số người trong cung nhắc tới.

      Xung Tĩnh, giờ tôi mới nhớ ra lúc xưa Huyền Lăng sắc phong cho Thư Quý thái phi làm “Xung Tĩnh nguyên sư, Kim Đình giáo chủ”.

      ngờ vị Thư Quý thái phi năm xưa từng khiến sáu cung nhan sắc thua hờn phấn son bây giờ lại sống trong tòa đạo quán vắng vẻ thế này.

      Tôi nhất thời kinh hãi, ngẩn ngơ chẳng được gì, lát sau mới buột miệng thốt lên: “Thư Quý thái phi?”

      Bà ta hơi cau đôi mày ngài, nhìn tôi vẻ nghi hoặc. “ biết ta?”

      Nghe bà ta như vậy, tôi lại càng khẳng định phán đoán của mọi người.

      Trong lời đồn đại của mọi người và trong tưởng tượng của tôi, Thư Quý thái phi được tiên đế rất mực sủng ái nhất định phải là nữ tử xinh đẹp vô ngần, rạng rỡ tựa vầng dương chính ngọ, nhưng đạo trước mặt tôi đây lại hết sức dịu dàng, tính tình điềm đạm như hoa cúc, hoàn toàn có vẻ sắc bén của nữ tử từng sống mấy chục năm ở nơi cung đình

      Tôi khẽ gật đầu, cung kính hành lễ. “Dạ phải! Bây giờ nên gọi người là Xung Tĩnh nguyên sư, Kim Đình giáo chủ rồi.”

      Danh hiệu này là do Hoàng đế đích thân ban phong, phải ai trong thiên hạ cũng biết. Lúc này tôi buột miệng ra, bà ta cũng đoán được điều gì, sau khi quan sát tôi hồi lâu bèn hỏi: “ là người từ trong cung ra?”

      Tôi thoáng ngượng ngùng, nhanh chóng đáp: “Thái phi sai.”

      Bà ta lặng lẽ đứng trước mặt tôi, khóe miệng thấp thoáng nụ cười mỉm. Giữa nơi u ám, nụ cười ấy thực rạng rỡ vô cùng, khiến lòng người ấm áp. Lúc này trời tối hẳn, trời thấp thoáng những vì sao mịt mờ, đạo bào của Thư Quý thái phi bị gió núi thổi bay lất phất, tựa bông hoa lê thuần khiết vô ngần, càng tôn lên thân hình yểu điệu tựa tiên tử đứng ngắm trăng của bà ta.

      Tôi nhìn mà thầm chấn động, cơ hồ mở mắt ra nổi. Bà ta kỳ thực quá diễm lệ nhưng điểm động lòng người kia lại khó ai có thể so sánh. Tôi từ tự phụ rằng dung mạo mình chẳng thua kém ai nhưng đứng trước mặt bà ta lại thấp thoáng có cảm giác tự thẹn kém người.

      Khí chất dịu dàng, linh động này thực vô cùng đặc biệt, có thể thu hút bất cứ người nào, tôi chưa từng được thấy ở bất kỳ ai khác trong cung. Thư Quý thái phi sống nơi thâm cung mấy chục năm mà khí chất thay đổi, chẳng trách tiên đế lại thích bà ta đến mức đó, gần như chẳng để ý đến bất cứ nữ tử nào khác. Cũng khó trách mẫu thân của Kỳ Sơn Vương lại từng lén mắng bà ta là “hồ ly lẳng lơ”, nhưng đó kỳ thực phải lẳng lơ, mà là dịu dàng, ấm áp có thể khiến cả nữ nhân mê đắm.


      Bà ta nhìn tôi, cười, : “Thanh Nhi từng với ta, trong cung có vị Hoàn Quý tần phụng chỉ tới chùa Cam Lộ tu hành, chắc hẳn chính là rồi.”

      Tôi có chút ngượng ngùng, đoạn khẽ đáp: “Quý tần là lối xưng hô của ngày xưa rồi, Thái phi cứ gọi vãn bối là Mạc Sầu.”

      “Mạc Sầu?” Bà ta thoáng trầm ngâm, cười hỏi: “ vốn họ gì?”

      Tôi đáp: “Dạ, họ Chân.”

      Bà ta nhìn mái tóc dài buông xõa qua vai của tôi, mỉm cười : “Vậy ta gọi là Chân nương tử.”

      Tôi : “Thái phi khách sáo quá rồi!”

      Thư Quý thái phi cười, dịu dàng : “Vừa rồi đúng là ta nhìn nhầm rồi, khí độ của Chân nương tử, những ni bình thường trong chùa miếu tất nhiên thể nào có được, vậy mà ta nhất thời lại thể nhận ra, thực sơ suất quá!” rồi bà ta liền mời tôi ngồi xuống, chỉ tay về phía người thị nữ vừa rồi. “Đây là thị nữ hầu cận của ta, tên gọi Tích Vân”, sau đó lại bảo Tích Vân tới hành lễ.

      Tôi vội khiêm tốn : “Người hầu hạ Thái phi tất nhiên là , mà vãn bối bây giờ chỉ là thứ dân, sao có thể nhận lễ của vị chứ.”

      Thái phi vội kéo tôi lại, nghiêm túc : “Giờ chúng ta đều còn ở trong cung, hà tất phải giữ lễ số trong cung làm gì. Ta coi như vãn bối, mà Tích Vân là thị nữ của ta, hành lễ chút cũng là việc nên làm.”

      Tôi nghe Thái phi năng thân mật như vậy cũng tiện cự tuyệt, đành để im cho Tích Vân hành lễ. Tích Vân tính tình rất thẳng thắn, sảng khoái, cười hì hì với tôi: “Vừa rồi nghe Thái phi nương tử là ni trong chùa Cam Lộ, ta khỏi giật nẩy mình, nghĩ thầm làm gì có ni nào xinh đẹp như vậy, nhất định là Thái phi dối ta.”

      Tôi thấy bà ta năng hề câu nệ, kìm được nhìn qua phía Thái phi. Quả nhiên Thái phi chẳng để bụng chút nào, cười : “Thị từ lớn lên cùng ta, năng lúc nào cũng như vậy cả, nương tử đừng trách.”

      Tôi cười, : “Tất nhiên rồi. Vãn bối thực thích lối chuyện thẳng thắn như vậy, mệt mỏi như ở trong cung.”

      Tích Vân tới gần tôi, tôi ngước mắt nhìn, bất giác cả kinh, đôi mắt của thị giống Thư Quý thái phi, đều có màu hổ phách. Tôi kìm được, hỏi: “Mắt của hai người…”

      Thư Quý thái phi cười tủm tỉm : “Tích Vân giống ta, đều là người Bãi Di, do đó mắt của bọn ta giống với người Hán các .”

      Bãi Di là tộc ở phía nam của Nam Chiếu, vốn tự hình thành thể, hằng năm xưng thần triều cống Nam Chiếu. Năm Long Khánh thứ ba, tiên đế sai Phủ Viễn Đại tướng quân bình định Nam Chiếu, nhân tiện đạp bằng mấy tộc phụ thuộc vào Nam Chiếu như Bãi Di, Thương Nam, cuối cùng mấy tộc đó đều quy hàng, trở thành chư hầu của Đại Chu.

      Trong sách sử có viết Thư Quý thái phi là con của Tri bình chương Nguyễn Diên Niên, cũng coi như xuất thân thế gia thư hương, sao lại là người Bãi Di? Lẽ nào mẫu thân của Thư Quý thái phi là nữ tử Bãi Di?

      Tích Vân thấy tôi nghĩ ngợi, bèn cười tủm tỉm, : “Chân nương tử, ta biết suy nghĩ chuyện gì. nhất định nghĩ tại sao Thái phi lại là người Bãi Di đúng ?”

      Tôi bị đoán trúng tâm tư khỏi có chút ngượng ngùng, tiện giấu giếm, liền dứt khoát : “Trong Chu sử đâu có viết như vậy, ràng Thái phi là thiên kim của Tri bình chương Nguyễn đại nhân…”

      Thư Quý thái phi thản nhiên : “Trước đây ở trong cung tất nhiên có nhiều điều kiêng kỵ, bây giờ ra cũng sao. Nguyễn đại nhân là dưỡng phụ của ta, năm xưa tiên đế muốn ta vào cung thuận tiện hơn, do đó mới để ta nhận Nguyễn đại nhân làm dưỡng phụ. Ta quả thực chính là con Bãi Di, phụ mẫu đều là người Bãi Di chính gốc.” Bà ta thoáng lộ vẻ ngẩn ngơ. “Non nước Bãi Di mới thực là cố hương của ta.”

      Nghe bà ta năng chân thành, hề giấu giếm, tôi khỏi thầm cảm động, bất giác thấy gần gũi với bà ta hơn rất nhiều.

      Thư Quý thái phi cười, : “Ta nhiều quá rồi, nương tử có lẽ cũng chẳng thích nghe. Đúng là con người ta già rồi thường hay nhiều lời.”

      Trong mắt bà ta ánh lên vẻ thương . “Chỉ là vừa nhìn thấy nương tử, ta có cảm giác gần gũi, mong nương tử chớ trách.”

      Tôi vội : “Sao có thể chứ, được Thái phi thương là niềm vinh hạnh của vãn bối.”

      Thư Quý thái phi cười tủm tỉm. “Trước đây, ta từng nghe Thanh Nhi nhắc đến nương tử mấy lần, lần nào cũng ngớt lời khen. Khi đó, ta chỉ nghe rồi bỏ ngoài tai, bây giờ gặp rồi mới biết nương tử thực đẹp như tiên nữ ở núi tuyết A Nặc của người Bãi Di bọn ta.”

      Tích Vân cũng cười, : “Phải rồi, trước đây những người già trong tộc thường hay kể, tiên nữ núi tuyết A Nặc là người đẹp nhất thế gian đấy!”

      Tôi vội : “Thái phi cứ khen mãi như vậy, vãn bối thực chẳng biết giấu mặt vào đâu. Phong tư của Thái phi, Chân Hoàn cũng ngưỡng mộ từ lâu rồi.”

      Thái phi đưa mắt liếc qua, mỉm cười hỏi: “Chân Hoàn? Đây là tên của nương tử sao?”

      Tôi gật đầu cười, đáp: “Dạ, là khuê danh trước đây của vãn bối.”

      Thái phi gật đầu, quay sang với Tích Vân: “Ta rồi mà, tên của con người Hán là hay nhất. Chân Hoàn, nào có như ở Bãi Di, cái tên đều do cha mẹ tùy ý đặt.”

      Tích Vân pha trà mang tới, cười trách: “Thái phi đúng là, nương tử tới đây lâu như vậy rồi mà chẳng mời lấy chén trà, còn bắt người ta ở ngoài hầu chuyện.”

      Thư Quý thái phi bật cười vui vẻ, đưa mắt liếc qua phía thị. “Phải rồi, phải rồi, là ta đúng. Nhưng sao ngươi cũng chỉ đứng bên chẳng làm gì vậy, còn phải là thất lễ với khách sao?”

      Tôi thấy bọn họ cười thân mật, hề phân chia chủ tớ, bất giác cảm thấy thân thiết, gần gũi vô cùng, : “Vừa rồi vãn bối khát nước, tùy tiện vào đây, Thái phi những trách tội, còn đích thân rót nước cho vãn bối, thực làm vãn bối tổn thọ rồi.”

      Tích Vân đưa cho tôi và Thư Quý thái phi mỗi người chén trà, cười : “Trước đây ở Bãi Di, tên của Thái phi là Di Quang, còn tên ta là A Vân, cái tên Tích Vận này là về sau mới đổi.”

      Tôi suy nghĩ chút rồi : “Thứ cho vãn bối mạo muội, hình như trước đây vãn bối có nghe phương danh của Thái phi là…” Tôi cố sức suy nghĩ nhưng nhất thời nôn nóng sao nhớ ra được.

      Thư Quý thái phi : “Là Yên Nhiên, Nguyễn Yên Nhiên.” Dừng chút, bà ta cười, tiếp: “Ta vốn tên Di Quang, cái tên Yên Nhiên sau khi tới Đại Chu mới đổi, là do tiên đế đích thân đặt cho ta.”

      Tôi thấy bà ta tâm tư thẳng thắn, có gì nấy, ngay cả khuê danh cũng chẳng giấu giếm, khỏi càng hào hứng, sinh lòng muốn kết giao. “Duyên phận giữa vãn bối và Thái phi đúng là cạn, tạm chưa xét tới việc hôm nay tình cờ gặp mặt, vãn bối còn có cây đàn tên gọi Trường tương tư, cũng chính là vật mà ngày trước Thái phi từng dùng.”

      Thư Quý thái phi “ồ” lên tiếng, hai mắt đột nhiên sáng rực, mừng rỡ : “ thế sao?”

      Tôi gật đầu, đáp: “Lúc rời khỏi cung, vãn bối chỉ mang theo duy nhất cây đàn Trường tương tư đó, bây giờ để ở chùa Cam Lộ.”

      Thư Quý thái phi kìm được cất lời cảm khái: “Ngày đó khi rời khỏi cung, ta để lại Trường tương tư và Trường tương thủ trong cung, chỉ bởi vì tiên đế qua đời ta có giữ lại hai thứ ấy cũng chẳng để làm gì. ngờ bây giờ Trường tương tư lại ở trong tay nương tử, chắc nương tử cũng là người tinh thông luật.” Bà ta nhìn tôi chăm chú. “Thoắt cái chia lìa hai vật ấy mười mấy năm, nếu nương tử bằng lòng, xin hãy mang nó tới đây chuyến.”

      Tôi áy náy : “Vốn nên mang nó tới cho Thái phi xem, chỉ là mấy tháng trước, vãn bối gảy đàn cẩn thận, làm đứt mất sợi dây đàn…”

      Tôi hơi cúi đầu, thầm nghĩ Trường tương tư là vật mà Thư Quý thái phi quý, mình nhất định bị trách móc mấy câu. Thế nhưng Thư Quý thái phi lại chỉ cười sảng khoái, hòa nhã : “Làm gì có ai gảy đàn mà làm đứt dây đàn bao giờ? Nếu nương tử tin tưởng, chi bằng hãy mang nó tới đây cho ta xem thử, ta cố sửa lại xem.”

      Tôi cả mừng, vội vàng đứng dậy. “Như vậy tốt quá! Thái phi là chủ nhân cũ của Trường tương tư, tất nhiên biết nên sửa thế nào.”

      Thái phi mím môi : “Tạm thời đừng cảm ơn ta vội, lối cài dây của Trường tương tư khác với những cây đàn bình thường, muốn sửa được ít nhất cũng cần vài ba tháng. Nếu thể nối dây, ta phải bảo Thanh nhi về cung mang lông đuôi ngựa, Băng tuyết tàm ti và Kim ti tới đây, e là mấy thứ ấy đều dễ tìm.”

      Tôi vội cười, : “Việc này giao cho Thái phi là vãn bối yên tâm rồi. Nếu sửa được, vậy chỉ đành than tiếc là thể nghe thấy tiếng đàn tuyệt diệu của Trường tương tư nữa thôi.”

      Thái phi mỉm cười, ánh mắt toát lên vẻ hiền từ vô hạn. “Vậy lần sau tới đây nương tử hãy ngồi lại lâu chút, nhân tiện mang Trường tương tư tới luôn. Ta thực rất thích trò chuyện cùng nương tử đấy!”

      lâu tôi được chuyện thoải mái với người khác như vậy, do đó cũng rất mừng rỡ. “Thái phi có thịnh tình, sao vãn bối dám tuân lệnh?”

      Lúc tôi quay về đến chùa Cam Lộ rất muộn, Hoán Bích và Cận Tịch đều nôn nóng thôi nhưng lại dám khua chiêng gióng trống ra ngoài tìm, đành đứng ngoài cửa, nghển cổ chờ tôi. Thấy tôi quay về, Hoán Bích mừng rỡ kéo tay tôi lại, đồng thời kìm được oán trách: “Tiểu thư đâu vậy, mãi bây giờ mới quay về, làm người ta lo lắng chết được. Nếu tiểu thư còn chưa về, nô tỳ và Cận Tịch đành phải bẩm việc này với trụ trì, xin trụ trì cho người ra ngoài tìm tiểu thư thôi.”

      Cận Tịch đón lấy sọt cỏ trong tay tôi, dịu dàng : “Nương tử đường chắc cũng vất vả rồi, cơm canh được hâm nóng, nương tử mau vào ăn thôi!”

      Hai người bọn họ mang nước đến cho tôi rửa mặt rồi ngồi xuống cạnh tôi, nghe tôi kể lại mọi việc gặp trong ngày hôm nay.

      Cận Tịch hơi cau mày, trầm giọng : “Quả như lời nương tử , người nương tử gặp hôm nay chính là Thư Quý thái phi. Khi nô tỳ vào cung là năm Long Khánh cuối cùng, thành ra chỉ được gặp Thư Quý thái phi mấy lần. Thế nhưng phong thái của Thư Quý thái phi, bất cứ ai từng gặp, cả đời đều khó mà quên được.”

      Tôi dừng đũa, nghi hoặc hỏi: “Năm xưa Thư Quý thái phi phụng chỉ xuất gia theo đạo, sao lại tu hành ngay gần chùa Cam Lộ thế này, bà ấy đáng lẽ phải đến đạo quán nào đó tu hành mới đúng chứ?”

      Cận Tịch đáp: “Thư Quý thái phi quả thực tu hành trong đạo quán, cũng chính là An Tề quán mà bà ấy ở.” Cận Tịch hơi hạ thấp giọng: “Bởi vì Thái hậu tu hành cần thanh tịnh mới có thể tập trung, do đó bên cạnh Thư Quý thái phi chỉ có duy nhất người thị nữ để sai bảo.”

      Hoán Bích kìm được ngạc nhiên “úi chao” tiếng, tôi vội dùng ánh mắt ra hiệu bảo nàng ta im lặng.

      Hoán Bích dám gì thêm, chỉ lẳng lặng nhìn Cận Tịch, chờ nghe kể tiếp. Cận Tịch thở dài tiếng, cất giọng đầy vẻ xót xa: “Trước lúc tiên đế băng hà, Thư Quý thái phi là người đắc sủng nhất, gần như chiếm trọn sủng ái của tiên đế, ai có thể sánh được. Có điều, tuy danh nghĩa bà ấy là con nuôi của Tri bình chương Nguyễn Diên Niên nhưng thực chất việc này chỉ là để che tai mắt thiên hạ, các phi tần trong cung đều biết bà ấy là người dị tộc, hết sức coi thường, sau khi bà ấy được phong làm phi cũng chỉ mực ở trong Thái Bình hành cung, qua lại với các phi tần khác. Thế nhưng về sau, Thư Quý thái phi sinh được Lục Hoàng tử, cũng chính là Thanh Hà Vương bây giờ, tiên đế hết sức quý Lục Hoàng tử thông minh sáng dạ, liền bất chấp phản đối của Thái hậu, sắc phong Thư Phi khi đó làm Thư Quý phi, từ đó bà ấy nhảy vọt lên thành người đứng đầu các phi tần. Nếu chỉ có vậy thôi cũng đành nhưng trước khi chết, Ngọc Ách phu nhân vẫn còn oán hận Thư Quý thái phi vô cùng, Hoàng hậu cũng vì Thư Quý thái phi mà bị phế, ngay đến Chiêu Hiến Thái hậu năm xưa cũng chẳng thích bà ấy chút nào, ngừng làm khó. Trong tình cảnh như vậy, tuy được tiên đế vô cùng sủng ái nhưng cuộc sống của Thư Quý thái phi trong cung vẫn hết sức khó khăn. Duy có Thái hậu bây giờ, tức là Lâm phi nương nương năm xưa giao hảo với bà ấy, hai người thân mật vô cùng, chẳng khác nào chị em ruột. Có mấy lần Thư Quý thái phi phải chịu ấm ức, đều là Lâm Phi nương nương ra mặt giúp đỡ. Vậy nên ngay đến tiên đế cũng khá thương Thái hậu bây giờ, sau khi Hoàng hậu chết liền để cho Thái hậu bây giờ chấp chưởng hậu cung, tới khi đó cuộc sống của Thư Quý thái phi trong cung mới thoải mái hơn chút.”

      sủng ái của tiên đế với Thư Quý thái phi bỗng khiến tôi nhớ lại lời cảm khái của Huyền Thanh lúc ở đài Đồng Hoa: “Thực ra có người chia sẻ sủng ái cũng là chuyện tốt, nếu , ba ngàn sủng ái ôm trọn vào thân, trở thành mục tiêu oán trách của cả lục cung, khi đó Huyền Thanh quả thực phải khóc than thay cho Tiệp dư rồi!”

      Lời cảm thán đó của y là vì tôi, cũng là vì cuộc đời của mẫu thân y, Thư Quý thái phi.

      Ôm trọn sủng ái vào người cũng là ôm trọn mọi oán hận vào người. Quá được sủng ái, con người ta chẳng khác nào như phải ở lò lửa!

      Nghe kể về tình cảm giữa Thái hậu và Thư Quý thái phi, tôi hết sức cảm động, lại nhớ tới My Trang còn ở trong cung, thế là càng thổn thức thôi.

      Lời của Cận Tịch dường như là khen ngợi tình tỷ muội giữa Thái hậu và Thư Quý thái phi, thế nhưng lại chẳng liên quan chút nào tới câu hỏi của tôi.

      Cận Tịch cũng hiểu nghi hoặc của tôi, cặp mắt thoáng đong đưa, mỉm cười, : “Sau khi tiên đế băng hà, Thư Quý thái phi khóc lóc sầu thảm thôi, có mấy lần còn muốn tự vẫn theo tiên đế, may mà được các cung nhân kịp thời phát giác và cứu sống. Phi tần trong cung tuy trước đây đều oán hận Thư Quý thái phi nhưng thấy vậy vô cùng cảm động, ngay cả các thần tử bên ngoài cũng biết được việc này, liền hết lời khen ngợi Thư Quý thái phi. Thái hậu hết sức cảm động, lúc này Thư Quý thái phi lại xin được xuất gia để cầu phúc cho tiên đế, đồng thời giao phó Lục Vương gia cho Thái hậu nuôi dưỡng. Thái hậu cảm tấm lòng thành của Thư Quý thái phi, lại Thái phi sống thoải mái quen, tất nhiên thể ở cùng với các ni trong chùa Cam Lộ, liền đặc biệt cho xây dựng An Tê quán để Thư Quý thái phi ở mình, sau đó lệnh cho bà ấy xuất gia tu đạo chứ phải vào chùa Cam Lộ tu hành. Thái hậu sợ người ngoài hầu hạ quen làm Thái phi tức giận, liền để thị nữ hầu cận của Thái phi theo hầu hạ, đây cũng là vì suy nghĩ cho Thư Quý thái phi. Tất nhiên, nếu có việc gì quan trọng, Thư Quý thái phi cũng thể tự tiện rời khỏi An Tê quán bước.”

      Cận Tịch với giọng vô cùng mềm mỏng nhưng dù có mềm mỏng đến mấy, tôi cũng hiểu được ý tứ bên trong.

      Thư Quý thái phi xuất gia tu đạo, mà chùa Cam Lộ lại là nơi cửa Phật, hai bên tất nhiên nước sông phạm nước giếng, qua lại với nhau, mà bên cạnh bà ta lại chỉ có thị tỳ hầu hạ… Lòng tôi thầm máy động, như vậy coi như Thư Quý thái phi bị cách ly hoàn toàn với thế giới bên ngoài rồi.

      Tôi mặt đổi sắc, chỉ chậm rãi đưa đũa gắp lấy cọng rau xanh. Cọng rau xanh ấy được nấu chín, rất mềm, chỉ có thể để mặc người ta gắp gắp lại. Tôi thản nhiên : “Nghe lúc sinh tiền, tiên đế hết sức quý Thanh Hà vương, có mấy bận còn muốn lập y làm thái tử.”

      Cận Tịch cúi đầu, cung kính đứng bên, nhìn xuống mũi bàn chân mình, với giọng đều đều, có lấy tia xao động: “Xuất thân của Thư Quý thái phi bị người ta bàn tán rất nhiều, việc lập Thanh Hà vương làm thái tử, ngay đến các triều thần cũng cực lực phản đối. Bên Thanh Hà Vương còn có mấy vị vương gia, tuy triều ta chủ trương lập người hiền, lập con trưởng, Hoàng hậu cũng sinh được con trai nhưng mấy vị vương gia khác, ví như đương kim Hoàng thượng, cũng đều vô cùng xuất sắc, mà khi đó ở trong cung, Lâm Phi nương nương bất kể là về địa vị hay sủng ái đều chỉ thua kém mình Thư Quý phi, xuất thân lại cao quý hơn chút, còn nắm quyền quản lý hậu cung. Vậy là cuối cùng, tiên đế đành quyết định lùi bước, lập đương kim Thánh thượng làm thái tử, ấy cũng là việc hợp tình hợp lý.” Câu cuối cùng, Cận Tịch rất khẽ, tựa như kể về chuyện chẳng hề quan trọng, nhưng tôi vẫn nghe được ràng: “Huống chi, có ủng hộ của Nhiếp Chính Vương năm xưa, đương kim Thánh thượng kế thừa ngôi thiên tử cũng là lẽ thường tình.”

      Tôi bất giác cảm thấy lòng mình rét buốt từng cơn, đồng thời sau nháy mắt hiểu ra được rất nhiều điều.

      Nhiếp Chính Vương, có lẽ y mới là điểm mấu chốt để Huyền Lăng được kế thừa ngôi báu.

      Thế nhưng, tôi rất nhanh bình tĩnh trở lại.

      Đó chỉ là những việc xưa cũ mà thôi, đều là ân oán của đời trước rồi. Bây giờ, người ngồi vững ngai vàng ở Tử Áo Thành, tay nắm càn khôn, ngạo nghễ cúi đầu nhìn thiên hạ là Huyền Lăng rồi.

      Thư Quý thái phi và Huyền Thanh đều là vật hy sinh trong cuộc chiến đoạt hoàng quyền, dù cam tâm đến mấy thực cũng là như vậy, chẳng thể thay đổi.

      Nhưng bất kể thực như thế nào, việc tôi qua lại với Thư Quý thái phi và Huyền Thanh đều liên quan gì tới hoàng quyền, dù sao bây giờ tôi cũng là người xuất gia rồi.

      Tôi lẩm bẩm : “Mọi phân tranh kỳ thực đều bắt nguồn từ việc Thư Quý thái phi là nữ tử Bãi Di thôi.”

      Hoán Bích vốn luôn im lặng lắng nghe, nhưng khi nghe đến chỗ này, bát cơm trong tay chợt “cạch” tiếng rơi xuống bàn, lăn tròn lúc mới dừng lại. Tôi vội giúp nàng ta giữ chiếc bát lại, lo lắng hỏi: “Sao thế?”

      Trong mắt thoáng qua nét hoang mang, Hoán Bích vội cười, : “Nô tỳ chỉ có chút tò mò, Thư Quý thái phi là nữ tử Bãi Di sao?”

      “Ừm.”

      Hoán Bích đưa tay gạt lọn tóc mai bên thái dương, thấp giọng : “Sau khi bị chinh phục, Bãi Di trở thành thuộc quốc của Đại Chu, thế nhưng dù sao cũng là dị tộc, Thư Quý thái phi có thể leo lên địa vị như vậy với xuất thân dị tộc quả là dễ dàng gì.”

      Tôi nghe vậy bèn ngoảnh đầu qua, hỏi: “Hoán Bích, hình như muội khá hiểu về Bãi Di phải?”

      Hoán Bích khẽ “a” tiếng, hờ hững : “Chẳng qua nô tỳ chỉ được nghe chút chuyện bên ngoài mà thôi.” Sau đó nàng ta lại khẩn khoản nhìn tôi. “Tiểu thư, vừa rồi tiểu thư định mang Trường tương tư tới chỗ Thái phi, khi đó đưa nô tỳ theo cùng được ?”

      Tôi ôn tồn : “Muội cũng rất muốn gặp Thái phi sao? Vừa hay có thể để muội ôm đàn, rồi chúng ta cùng tới đó.”

      khuôn mặt xuất nét mừng rỡ như trẻ con được quà, Hoán Bích gật đầu mạnh.

    3. khahanhl

      khahanhl Well-Known Member

      Bài viết:
      2,937
      Được thích:
      1,718
      Chương 14: Xanh xanh cỏ bên sông


      Thế rồi vào ngày trời trong gió mát, Hoán Bích ôm theo cây đàn Trường tương tư cùng tôi tới hậu sơn. Tới nơi, tôi thấy ngoài cửa An Tê quán có con ngựa trắng, cổ đeo quả cầu vải màu đỏ, đứng ung dung gặm cỏ non. Trong lòng tôi bỗng trào dâng cảm giác mừng rỡ khó tả, con ngựa này chính là Ngự Phong. Nhìn thấy tôi, nó cũng mừng rỡ hí vang tiếng.

      Tôi đưa tay vuốt tai nó, Hoán Bích nôn nóng đẩy cửa thẳng vào trong. Trong sân có tiếng trò chuyện vui vẻ nhưng sau khi Hoán Bích đẩy cửa vào lập tức dừng lại. Tôi lúc này cũng chậm rãi bước vào, nghe thấy Hoán Bích cất tiếng gọi lảnh lót, giòn tan: “Vương gia.”

      Tôi đưa mắt nhìn, thấy y vận bộ đồ lụa màu trắng, chắp tay sau lưng đứng bên cạnh Thư Quý thái phi. Nghe thấy tiếng gọi, y lập tức ngoảnh đầu qua phía cửa, nhìn thấy tôi vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, buột miệng : “Hồi nãy mẫu phi vừa nhắc tới nàng xong đấy…”

      Tôi khẽ gật đầu tỏ ý chào y, sau đó quay sang kính cẩn hành lễ với Thư Quý thái phi. Thái phi mỉm cười bước tới đỡ tôi dậy, : “Đúng là nhắc đến Tào Tháo, Tào Tháo tới liền, qua đó đủ thấy thể tùy tiện xấu người khác sau lưng được”, rồi lại chỉ qua phía Huyền Thanh : “Nó vừa từ vùng Xuyên Thục quay về, thậm chí còn chưa kịp trở lại vương phủ, tới đúng lúc.”

      Tôi cười, : “Vãn bối thấy hôm nay trời đẹp, liền mang Trường tương tư đến đây, mối họa mà vãn bối gây ra xin phiền Thái phi bổ cứu giúp.”

      Thái phi hiền từ : “Đúng là đứa ngốc ngếch, lời khách sáo như vậy làm gì, chỉ khiến người ta xót xa thôi.”

      Tôi đưa tay chỉ Hoán Bích, giới thiệu: “Đây là thị nữ hầu cận của vãn bối, hôm nay đặc biệt đưa tới đây thỉnh an Thái phi.”

      Hoán Bích ngoan ngoãn quỳ xuống hành lễ, : “Nô tỳ thỉnh an Thái phi và Vương gia.”

      Huyền Thanh cười, : “Hiếm có khi nào Hoán Bích hành đại lễ với ta như vậy, hôm nay coi như được nhờ phúc mẫu phi rồi.”

      Thư Quý thái phi vẫy tay gọi Hoán Bích lại gần, cầm bàn tay nàng ta lên ngắm nghía hồi lâu, cười : “Mặt mũi thanh tú, làn da cũng hết sức nõn nà”, sau đó lại nhìn qua phía tôi. “Đặc biệt là đôi mắt này, trông giống nương tử lắm đấy!”

      Tôi ngờ ánh mắt Thái phi lại sắc bén như vậy, vội cười : “Dạ phải!”

      Huyền Thanh đứng bên cạnh cũng khẽ cười. “Trước đây chưa nhìn kỹ còn chưa cảm thấy gì, bây giờ nghe mẫu phi vậy, con cũng thấy đúng là có mấy phần giống nhau.”

      Hoán Bích thẹn thùng cúi đầu, đưa cây đàn trong tay cho Tích Vân, sau đó cùng ngồi xuống uống trà. Huyền Thanh dịu dàng đưa mắt nhìn tôi. “Đây là trà Tuyết đính hàm thúy mới hái, vừa được pha xong, nàng nhất định rất thích.”

      Chén trà được làm bằng sứ trắng, càng tôn lên màu xanh biếc của nước trà. Tôi thích cái gì, ghét cái gì, y hoàn toàn biết . Có điều, lúc này đột nhiên nhìn thấy loại trà mình hay uống trong cung, tôi cũng chẳng mình có tâm trạng gì, chỉ cảm thấy thổn thức thôi. Trà là trà vừa hái, cũng mới được pha xong, chỉ có người uống trà tôi đây vẫn là con người ngày trước.

      Huyền Thanh vừa từ nơi xa về, Thư Quý thái phi quan tâm đến con trai, liền kéo y lại ân cần hỏi han đủ chuyện.

      Thư Quý thái phi và Huyền Thanh trò chuyện bằng tiếng Bãi Di mấy câu, tôi nghe hiểu lắm, kìm được hơi cau mày, chăm chú lắng nghe.

      Hoán Bích thấy tôi cau mày liền ghé tai tôi, khẽ : “Thư Quý thái phi dùng tiếng Bãi Di chuyện với Vương gia, dặn dò Vương gia ở trong cung phải cẩn thận, thường ngày cũng nên chú ý giữ gìn sức khỏe, an phận giữ mình.”

      Hoán Bích rất khẽ nhưng vì Thư Quý thái phi ở quá gần nên vẫn nghe thấy. Bà ta kìm được nhìn qua phía Hoán Bích, đôi hàng lông mày thanh tú hơi cau lại, hỏi: “Ngươi hiểu tiếng Bãi Di sao?”

      Hoán Bích thoáng do dự, đáp: “Dạ!” Sau khi định thần lại thêm: “Vì mẫu thân của nô tỳ là nữ tử Bãi Di.”

      Tôi thầm kinh hãi, chẳng trách hôm nay Hoán Bích lại muốn theo tôi tới nơi đây, ra là vì mẫu thân của Hoán Bích cũng là nữ tử Bãi Di.

      Thư Quý thái phi khẽ “ồ” tiếng, mặt xuất mấy tia vui mừng. “Vậy sao?” Kế đó liền dùng tiếng Bãi Di hỏi han mấy câu.

      Hoán Bích chút nghĩ ngợi, dùng tiếng Bãi Di trả lời cách trôi chảy, lại hành lễ vấn an với Thư Quý thái phi theo lễ tiết vãn bối gặp trưởng bối của người Bãi Di.

      Thư Quý thái phi tươi cười vui vẻ, vẫy tay gọi: “Người qua đây, để ta nhìn kỹ ngươi nào.”

      Hoán Bích y lời tới, lại khom người hành lễ theo lễ tiết Trung Nguyên, : “Thư Quý thái phi vạn an.”

      Thư Quý thái phi đưa tay tới nâng cằm Hoán Bích lên, cẩn thận ngắm nghía hồi lâu, khẽ hỏi: “Ngươi làm nô tỳ trong nhà Chân nương tử sao?”

      Hoán Bích bất giác cúi xuống, giọng tới mức cơ hồ nghe thấy được: “Dạ phải, chính là Chân phủ của Thị lang bộ Lại trước kia.”

      Thái phi hơi trầm ngâm, hai mắt đột nhiên sáng rực, khẽ hỏi: “Tên húy của y có phải là Chân Viễn Đạo ?”

      Hoán Bích gật đầu đáp: “Chính thế.”

      Tôi thấy cha mình được nhắc đến, tiện im lặng nữa, bèn bẩm : “Chân Viễn Đạo chính là gia phụ, Hoán Bích từ hầu hạ bên cạnh vãn bối, tiếng là nô tỳ, kỳ thực khác gì tỷ muội.”

      Huyền Thanh tươi cười nhàng tựa vầng mây trắng ở nơi chân trời. “Hoán Bích từ sống trong Chân phủ, khi nương tử vào cung bầu bạn kề bên, bây giờ lại cùng đồng cam cộng khổ.”

      Thư Quý thái phi gì, chăm chú nhìn Hoán Bích lát, đột nhiên cất tiếng hỏi: “Hà Miên Miên là gì của ngươi?”

      Toàn thân Hoán Bích chấn động, trong đôi mắt trong veo như làn nước mùa thu chợt lên tầng sương mù mong manh, nơi khóe mắt ầng ậng nước, giọng cũng hơi run rẩy: “Chính là mẫu thân của nô tỳ.”

      Tôi thầm kinh hãi, đây là lần đầu tiên tôi nghe tới tên của mẫu thân Hoán Bích. Trước đây tôi chỉ biết Hoán Bích là em mình, còn những việc khác ai với tôi, thành ra tôi cũng biết gì nhiều.

      Chỉ là, mang cái tên triền miên da diết như vậy, lại có xuất thân Bãi Di, đó rốt cuộc là nữ tử quyến rũ tới mức nào đây?

      Thư Quý thái phi khẽ thở dài tiếng, mặt lộ ra thần sắc vui mừng. “Quả nhiên, hai mẹ con nhìn giống nhau quá, cứ như được đúc ra từ khuôn vậy”, rồi lại hỏi với giọng quan tâm: “Mẫu thân ngươi vẫn khỏe chứ?”

      Hoán Bích nhất thời thể trả lời, cổ họng như nghẹn lại, nước mắt kìm được lã chã tuôn rơi, vội vàng xoay người lại lau. Tôi lên tiếng trả lời thay: “Khi đó Hoán Bích được sinh ra mẫu thân của muội ấy qua đời, do đó cha vãn bối mới bế muội ấy về, nuôi dưỡng trong phủ từ .”

      Thư Quý thái phi thở dài buồn bã, lát sau mới cất tiếng: “Phải rồi, Miên Miên và ta đều là hậu nhân của tội thần, ấy còn bị đưa vào nô tịch, suốt kiếp chẳng thể trở mình, tất nhiên cách nào gả vào nhà quan lại làm thê thiếp. Chẳng trách Hoán Bích lại gọi nương tử là tiểu thư.” tới đây, khóe mắt bà cũng ầng ậng nước, cúi đầu sụt sịt tiếp: “Miên Miên đáng thương!” Sau đó lại gọi Hoán Bích tới gần, khẽ xoa trán Hoán Bích, an ủi: “ bé ngoan, ngươi thực phải chịu ấm ức rồi.”

      Lòng tôi cũng thầm thương cảm, khi ngẩng lên, chợt phát Huyền Thanh chăm chú nhìn mình, liền vội ngoảnh qua hướng khác, nhìn y, với Thư Quý thái phi: “Mẫu thân của Hoán Bích có phải là người quen của Thái phi ?”

      Thư Quý thái phi vừa vỗ vai Hoán Bích tỏ ý an ủi vừa nhìn sang phía tôi, : “Trước đây, khi từ Bãi Di ra ngoài, ta và Tích Vân cùng nhau. Khi đó đương lúc chiến tranh loạn lạc, lòng người hoang mang, bọn ta vừa khéo gặp được Miên Miên cũng rời khỏi Bãi Di quy hàng Đại Chu.” Thái phi lộ vẻ vô cùng cảm khái. “Khi đó, ấy còn chưa mang tên Miên Miên, mà là Bích Châu Nhi. Cái tên Miên Miên là do ấy về sau tự đổi.” tới đây, Thái phi chỉ lẳng lặng nhìn tôi, gì thêm, ánh mắt thấp thoáng nét sâu xa khó tả.

      Trái tim tôi chợt sáng bừng, tựa như có tia chớp vừa xẹt qua, kìm được buột miệng : “Thanh thanh hà biên thảo, miên miên tư viễn đạo[1]! Bởi vì cha vãn bối tên là Chân Viễn Đạo, do đó bà ấy mới đổi tên thành Miên Miên đúng vậy ?”

      [1] Đây là hai câu đầu trong bài thơ Nhạc phủ Ẩm mã Trường Thành quật hành, tả về nỗi nhớ của người vợ với người chồng ở nơi xa, dịch nghĩa: Xanh xanh, cỏ bên sông, trải dài bát ngát, (làm ta) nhớ đến người ở nẻo xa. Trong đó chữ “tư” có nghĩa là tương tư, nhung nhớ - ND.

      Thư Quý thái phi gật đầu mạnh, thổn thức : “ sai! Miên Miên lòng ái mộ phụ thân nương tử, do đó mới đổi tên mình để biểu đạt tình ý sắt son sâu nặng. Tuy là người mang tội nhưng tình ý của ấy hẳn cũng khiến phụ thân nương tử xúc động vô cùng.”

      Tôi nhìn Hoán Bích, thấy khuôn mặt Hoán Bích lúc này tựa như bông hoa lê trong mưa, yếu đuối vô cùng. Thư Quý thái phi Hoán Bích trông rất giống mẫu thân, như vậy ngoài đôi mắt có mấy phần giống tôi ra, tất cả những đường nét còn lại hẳn đều thoát thai từ mẫu thân của muội ấy, ví như khuôn mặt hiền hòa, cái cằm thon gọn, khí chất dịu dàng. Mà như thế, Miên Miên tất nhiên cũng có dung mạo xinh đẹp thanh tú như Hoán Bích, hơn nữa nữ tử Bãi Di còn giỏi ca hát, có phóng khoáng, cố chấp có ở nữ tử người Hán, từ việc vì cha tôi mà đổi tên là có thể thấy được phần nào.

      Hoán Bích phủ phục xuống đầu gối Thư Quý thái phi mà bật khóc nức nở. “Cha nô tỳ , khi mẹ qua đời còn cố gọi tên cha, sau đó mới trút hơi thở cuối cùng.”

      Nỗi sợ hãi trong lòng tôi tựa như những đám mây cuồn cuộn đan xen giữa trời.

      Thực ra cha mẹ tôi chỉ là cặp phu thê gia đình quan lại bình thường, cũng chẳng ân ái với nhau lắm. Nhưng sau khi sinh con đẻ cái và bầu bạn bên nhau nhiều năm như vậy, giữa họ dù gì cũng có chút tình cảm, ít nhất ở trong mắt những người con như chúng tôi, họ luôn hết sức tôn trọng nhau. Hơn nữa, cha cũng có người thiếp được mua về từ vùng Giang Nam hơn mười năm trước. Khi đó, mẹ thường xuyên cha dù sao cũng là người làm quan, có người thiếp nào ổn, chưa kể người ngoài có khi lại là mẹ ghen tuông, có dạ dung người, vì thế mẹ liền làm chủ, mua người thiếp đó về cho cha. Có điều, vị di nương đó chẳng qua chỉ là để cho có, cả năm trời cũng chẳng thấy cha gần gũi với ta mấy lần, đa phần thời gian ta đều hầu hạ bên cạnh mẹ, thỉnh thoảng rảnh rỗi còn dạy tỉ muội bọn tôi thổi sáo, gảy đàn. Di nương được sủng ái, lại có con, do đó thể làm ảnh hưởng đến địa vị của mẹ. Vì thế mẹ thường xuyên mình may mắn, được gả cho người háo nữ sắc như cha, nhờ vậy mà cả đời thanh tịnh, phải lo lắng quá nhiều.

      Thế nhưng, mẹ ràng biết được chân tướng việc, biết rằng đằng sau vẻ ngoài thanh tịnh, yên ổn kia là cuộc tình sâu đậm giữa chồng mình với nữ nhân khác.

      Thanh thanh hà biên thảo, Miên Miên tư Viễn Đạo!

      Những cây bách được trồng xung quanh tràn ngập vẻ sâu cay khó tả, khiến đầu óc người ta trở nên choáng váng. Đầu óc tôi xoay chuyển liên hồi, chợt nảy ra suy nghĩ cổ quái: Nếu… nếu Miên Miên chết sớm như vậy, có lẽ có ngày bà ấy trở thành thiếp của cha tôi, có lẽ có ngày vì sủng ái của cha tôi mà địa vị còn lên cao hơn cả mẹ tôi, thậm chí là trở thành chính thất. Khi ấy, liệu tôi có còn là đại tiểu thư thân phận cao quý của nhà họ Chân nữa ? Nếu điều này xảy ra, có lẽ bây giờ tôi và Hoán Bích phải đổi vị trí cho nhau rồi. Nghĩ tới đây, tôi kìm được nhìn qua phía Hoán Bích, cố ép bản thân nuốt ngụm nước bọt để giữ bình tĩnh, nơi sống lưng toát đầy mồ hôi lạnh.

      Bên tai tôi chợt vang lên giọng dịu dàng của Thư Quý thái phi: “Cha? Ngươi gọi Chân Viễn Đạo là cha sao?” Thoáng trầm ngâm, bà tỏ vẻ thấu hiểu. “Phải rồi, con của Miên Miên sao có thể phải là con của Chân Viễn Đạo được? Vì mẹ ngươi là hậu nhân của tội thần, ông ta tất nhiên thể thừa nhận ngươi là con . Do đó, ngươi phải gọi tỷ tỷ của mình là tiểu thư, nhưng ấy vẫn đối xử với ngươi như muội muội, đúng ?”

      Hoán Bích khẽ gật đầu, lại đưa tay lên lau mắt. “Tiểu thư đối xử với nô tỳ rất tốt.”

      Thư Quý thái phi trầm ngâm : “Tên ban đầu của Miên Miên là Bích Châu Nhi, cha ngươi đặt tên cho ngươi là Hoán Bích chắc cũng vì nguyên nhân này.”

      Huyền Thanh cảm thấy khá bất ngờ, đưa mắt nhìn tôi rồi lại nhìn Hoán Bích, cuối cùng ánh mắt dừng lại đôi mắt tôi, : “Chẳng trách mắt hai người lại giống nhau như thế, ra là chị em cùng cha khác mẹ. Còn nhớ trước đây, lần đầu tiên gặp Hoán Bích, ta nghe ấy mình là thị nữ hầu cận của nàng, liền nghĩ có lẽ vì hai người lớn lên cùng nhau từ , ngày ngày ở bên nhau, cho nên đôi mắt mới giống nhau như vậy.”

      Hoán Bích ngẩng lên nhìn y, nở nụ cười thê thảm. “Nô tỳ và tiểu thư tuy cùng cha, nhưng mẹ của nô tỳ thậm chí còn chẳng phải là thiếp. Nô tỳ chẳng qua… chỉ là đứa con rơi mà thôi!”

      Tôi trước giờ chưa từng biết rằng giữa mẹ của Hoán Bích và cha tôi lại có nhiều mối dây dưa như vậy, mà cha cũng chưa từng kể với tôi về việc này. Trong nhà, ngoài cha ra chỉ có tôi biết Hoán Bích là em mình, việc này thậm chí đến mẹ tôi cũng chân tướng, chỉ nghĩ Hoán Bích cũng giống như Lưu Chu, đều là trẻ mồ côi được đem về từ bên ngoài.

      Tôi lúc này lại càng cảm thấy thương Hoán Bích hơn, nếu vì vấn đề xuất thân của Miên Miên, chắc Hoán Bích trở thành nhị tiểu thư của nhà họ Chân rồi, muội ấy vốn chỉ hơn tôi tuổi mà thôi.

      Huyền Thanh kéo Hoán Bích đứng dậy, dịu giọng an ủi: “ có con rơi con vãi nào cả, trong lòng mấy người bọn ta chưa bao giờ có suy nghĩ như vậy.”

      Hoán Bích đan hai tay vào nhau, đầu cúi thấp, cắn chặt môi, lẩm bẩm : “Bây giờ… mọi người đều biết rồi…” Sau đó lại chợt ngẩng lên, đôi mắt long lanh xinh đẹp ầng ậng nước, đột nhiên bật khóc nức nở. “Vương gia, ngài đừng coi thường nô tỳ.”

      Huyền Thanh thoáng sững người, đưa mắt nhìn tôi, ngay sau đó liền dịu giọng với Hoán Bích: “Tất nhiên rồi, mẫu thân và mẫu thân ta là cố giao, lại là người cùng tộc, người chúng ta đều có dòng máu Bãi Di, sao ta có thể coi thường được.”

      Mắt Hoán Bích càng lúc càng sáng, vẻ như còn chưa tin tưởng. “ thế sao?”

      Huyền Thanh mỉm cười, đáp: “Tất nhiên là rồi, ta gạt bao giờ đâu.”

      Hoán Bích gật đầu mạnh, đôi má lúm đồng tiền ra giữa nụ cười tươi. Tôi bất giác thầm kinh ngạc, cảm thấy Hoán Bích lúc này xinh đẹp, đáng vô cùng, tôi ngờ Hoán Bích lại có thể đẹp tới mức này. Nhưng nhìn Huyền Thanh dịu dàng an ủi Hoán Bích, bản thân chỉ có thể đứng im lặng bên, tựa như bị ngăn cách với bọn họ bởi mấy lớp màn dày, nhìn thấy được mà với tới được, nơi đáy lòng tôi chợt xuất cảm giác đơn và hụt hẫng.

      Tôi cố gắng ngoảnh đầu qua bên, nhìn họ nữa, cất tiếng hỏi Thư Quý thái phi: “Chẳng hay cha vãn bối quen Miên Miên, cũng chính là Hà di nương trước hay là quen mẫu thân của vãn bối trước?”

      Thư Quý thái phi buồn bã : “Cái duyên phận này há có thể dựa vào việc ai tới trước, ai tới sau mà quyết định. Khi Miên Miên quen biết Chân Viễn Đạo y thành thân rồi. Hẳn nương tử cũng biết, trước khi thành hôn, cha mẹ chưa từng gặp mặt, đừng tới chuyện quen biết. kết hợp giữa bọn họ chẳng qua là nghe theo sắp xếp của bề thôi, kỳ thực các gia đình quan lại người Hán đều như vậy cả.”

      Hai má tôi bất giác nóng bừng, thấp giọng : “Dạ phải!”

      “Người Hán các có chế độ vợ chồng như người Bãi Di chúng ta, có thể nạp thiếp được đúng ?” Tôi lại gật đầu lần nữa. Thái phi tiếp: “Tuy là quen biết sau nhưng cha há lại muốn cưới Miên Miên về làm thiếp để được ở bên nhau lâu dài. Chỉ là Miên Miên bạc mệnh đáng thương, gia đình đột nhiên gặp cơn biến cố, do đó mới mất cơ hội về bên cha mà thôi.”

      “Thái phi cảm thấy mẫu thân của vãn bối cũng rất đáng thương sao?” Tôi cười ngơ ngẩn, lại nhìn thẳng vào mắt của Thư Quý thái phi. “Làm vợ chồng với nhau cả đời, vậy mà mẫu thân vãn bối hề hay biết trong lòng phụ thân lại luôn có nữ nhân khác. Tuy phụ thân thể cho Hà di nương danh phận nhưng vì áy náy, vì nhớ nhung, cũng là vì Hoán Bích, trong lòng phụ thân nhất định thường xuyên nhớ tới di nương. Giữa di nương và mẫu thân, thực chẳng ai mới là người đáng thương hơn.”

      Huyền Thanh ngoảnh đầu lại, chăm chú nhìn tôi, hai mắt sáng lấp lánh, tôi cúi đầu làm bộ phát ra. Thái phi im lặng hồi lâu, ánh mắt nhìn tôi dần ánh lên nét hiền từ, rồi bà thở dài, : “ thế gian này, người đáng thương luôn nhiều kể xiết.”

      Tôi hơi khom người, đáp: “Thái phi rất phải, di nương qua đời nhiều năm, còn cha mẹ vãn bối bây giờ đều bị đày đến vùng Xuyên Bắc. Người qua đời về nơi yên nghỉ, bây giờ chúng ta chỉ có thể quan tâm tới người còn sống thôi. Hoán Bích là muội muội của vãn bối, dù hôm nay rơi vào cảnh này nhưng vãn bối cũng bỏ mặc muội ấy. Có chuyện này vãn bối lực bất tòng tâm, chỉ có thể cố hết sức, mong Thái phi và Vương gia giúp đỡ cho.”

      Thư Quý thái phi : “Nương tử cứ , ta nghe thử.”

      Tôi chậm rãi : “Hoán Bích còn nữa, vãn bối muốn vì mình mà làm ảnh hưởng tới chuyện chung thân đại của muội ấy. Xin Thái phi làm chủ, chọn cho Hoán Bích người chồng tốt, như thế cũng coi như hoàn thành tâm nguyện cho Hà di nương rồi.”

      Thư Quý thái phi mỉm cười, : “Nương tử quả suy nghĩ cho muội muội rất chu toàn, ta ngờ còn có tấm lòng như thế.” Sau đó lại cười tủm tỉm, quay sang với Huyền Thanh: “Thanh Nhi, mẫu phi bây giờ chỉ mong thanh tịnh, tiện nhúng tay vào chuyện này, mà có muốn cũng nhúng tay vào được. Hoán Bích là con bạn cũ của ta, cũng là người muội muội mà con phải lòng bảo vệ, mẫu phi giao chuyện này cho con, con nhất định phải chọn cho Hoán Bích người chồng tốt!”

      Huyền Thanh khẽ nở nụ cười, kính cẩn đáp: “Lời dặn dò của mẫu phi, con nhất định ghi nhớ kĩ.”

    4. khahanhl

      khahanhl Well-Known Member

      Bài viết:
      2,937
      Được thích:
      1,718
      Chương 15: Hoán Bích


      Trò chuyện được lát, tôi thấy mặt Thái phi lộ nét mỏi mệt, liền đứng dậy cáo từ. Thái phi với Huyền Thanh: “Để hai về nhà mình tiện, con thay ta tiễn bọn họ đoạn .”

      Huyền Thanh cung kính đáp “vâng” tiếng rồi A Tấn dắt Ngự Phong theo tôi và Hoán Bích, Huyền Thanh bên cạnh. Hoán Bích thỉnh thoảng lại ngoảnh đầu trò chuyện vài câu với A Tấn, đoàn bốn người chậm rãi về phía chùa Cam Lộ.

      Tôi làm bộ như vô ý hỏi: “Vừa rồi nghe Thái phi hình như mấy tháng vừa rồi Vương gia tới vùng Xuyên Thục?”

      Huyền Thanh : “Hôm đó hoàng huynh đột nhiên nổi hứng, ta từng dừng chân du ngoạn ở đất Thục Trung mấy tháng, bèn lệnh cho ta vi hành tới vùng Xuyên Thục lần nữa, để ý xem chính tích của các quan viên thế nào. Vì nhận lệnh vội vã, ta phải thu dọn đồ đạc rồi tới Xuyên Thục ngay, vốn muốn bảo A Tấn bẩm báo với mẫu phi, nhân tiện với nương tử tiếng, đáng tiếc thời gian gấp rút quá, thành ra kịp dặn dò câu nào.”

      Tôi khẽ mỉm cười, : “Lần này ly biệt cũng phải gần ba tháng!”

      Y khẽ nở nụ cười điềm đạm, bên khóe môi như tỏa ra từng làn hơi thở thanh tân của cây rừng rậm rạp xung quanh. “Tính từ lần gặp gỡ gần đây nhất, ta và nương tử có chín mươi bảy ngày chưa gặp nhau!”

      Trái tim tôi bất giác nẩy lên, tựa như bị ai đó dùng cây búa đập vỡ tan lớp vỏ cứng bên ngoài, làm lộ ra phần nội tâm yếu đuối và mềm mại bên trong, tự nơi đáy lòng trào dâng cảm giác vừa ngọt ngào vừa chua chát, sau nháy mắt chất đầy trái tim vốn ngợp trong hoang lương của tôi.

      Hoán Bích chợt cười, : “Trí nhớ của Vương gia tốt , thế còn rất xem trọng nương tử, coi nương tử như Thái phi vậy.”

      Hoán Bích chỉ vô tâm vậy nhưng tôi nghe rồi lòng liền trầm hẳn xuống, đôi hàng lông mày nhăn tít lại, sắc mặt cũng trở nên hờ hững. “Vương gia có kiến thức uyên bác, học rộng biết nhiều, trí nhớ tất nhiên là rất tốt, sở dĩ…”

      Huyền Thanh nhàng cất tiếng: “Sở dĩ ta với nương tử về chuyến Xuyên Thục lần này, ấy là vì song thân của nương tử đều ở Giang Châu.” Y lấy từ trong vạt áo trước ngực ra phong thư, : “Khi quay về, ta rẽ sang Giang Châu, tuy hành trình bị chậm trễ hai ngày nhưng coi như uổng chuyến này. Phong thư này nương tử hãy tự xem .”

      Khi đưa tay ra, bàn tay tôi kìm được hơi run rẩy, phong thư màu vàng nhạt ấy có cài bông sen màu hồng. Y : “Đây là bông sen đầu tiên trong vại nước của mẫu phi, ta thấy đẹp, liền hái xuống.” Bình thường, khi người ta đặt cánh hoa sen vào trong bức thư là để tỏ ý nhớ nhung với người ở phương xa, cũng là muốn với người thân hay bè bạn rằng mình vẫn bình yên, y cài hoa lên bức thư như vậy quả là việc làm sáng tạo. Ánh mắt đầy vẻ kiên định, y nhìn tôi, cất giọng hết sức hiền hòa: “Mau mở ra , đây là thư nhà mà Chân đại nhân gửi cho nương tử đấy.”

      Tôi run rẩy mở phong thư ra, nét chữ quen thuộc của cha vẫn hệt như ngày trước, ngay ngắn và gọn gàng. “Ta và mẹ con đều khỏe, cần lo lắng. Nghe con và Hoán Bích tu hành trong chùa Cam Lộ, cũng tốt. Đại cục định, chớ cố làm những việc uổng công. Chỉ biết Hành Nhi giờ thế nào, lòng rất nhớ nhung. Kẻ chân trời người góc bể, hãy tự mình bảo trọng, đừng nên quá vấn vương.”

      Muôn vàn lời cùng tấm lòng quyến luyến của cha, cuối cùng chỉ ngưng tụ thành mấy câu ngắn ngủi, tình cảm sâu đậm dành cho tôi, dành cho Hoán Bích, dành cho ca ca, đều ở trong đó cả.

      Huyền Thanh : “Từ phong thư, hẳn là nàng có thể nhìn ra, Chân đại nhân bút lực rắn rỏi, nhất định thân thể có vấn đề gì. Khi ta tới đó nghe đại nhân được người dân khá quý mến, bản thân đại nhân cũng , sau khi rời xa triều đình và những phân tranh ở kinh đô, cuộc sống cũng thoải mái hơn chút.”

      Lòng tôi thầm đau xót, rơm rớm nước mắt, : “Giang Châu là nơi thế nào chứ, tuy ta chưa từng tới đó nhưng cũng biết đó là nơi thế nào. Sông Bồn gần chốn cát lầm, lau vàng trúc võ thầm quanh hiên. Tiếng chi đó nghe liền sớm tối, cuốc kêu sầu vượn hót véo von[1]. Cha mẹ ta tuổi tác cao, bảo ta làm sao đành lòng được đây.” Dứt lời, tôi liền bật khóc nức nở.

      [1] Trích Tỳ bà hành, Bạch Cư Dị, dịch thơ Phan Huy Vinh. Nguyên văn Hán Việt: Trụ cận bồn giang địa đê thấp, hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh. Kỳ gian đán văn hà vật, đỗ quyên đề huyết viên ai minh - ND.

      Y đưa tay tới khẽ xoa lưng tôi, để tôi tựa đầu vào bờ vai y, cất tiếng an ủi: “Cuộc sống ở Giang Châu tuy vất vả nhưng con người có thể ung dung tự tại cả ngày. Lần này ta gặp Chân đại nhân, trong lúc trò chuyện thấy ông ấy hoàn toàn thích ứng với hoàn cảnh mới. Trong triều đình có biết bao đấu đá, bề ngoài phong quang vô hạn, nhưng Chân đại nhân dù sao tuổi tác cũng cao, có thể sống ở nơi yên bình, thanh tịnh, ông ấy kỳ thực rất thỏa mãn. Trong lời lẽ của Chân đại nhân cũng tràn ngập tình cảm với nương tử, so với những cuộc minh tranh ám đấu nơi hậu cung, ông ấy hy vọng nương tử có thể sống bình yên trong chùa Cam Lộ, dù sao tính mạng của bản thân cũng quan trọng hơn những vinh hoa phú quý nhiều. Thân là người làm cha mẹ, ai chẳng mong con cái được bình an, ấy là nguyện vọng lớn nhất cả đời rồi.”

      Tôi khóc rấm rứt, hỏi: “Chỉ biết bây giờ ca ca thế nào rồi.”

      Y đưa tay tới khẽ xoa đầu tôi, lớp vải mềm mại chiếc áo của y nhanh chóng hút hết nước mắt của tôi. “Ta phái người nghe ngóng rồi, ca ca nàng bị lưu đày đến Lĩnh Nam, cuộc sống so được với Chân đại nhân vẫn còn làm quan, tất nhiên thể gửi thư được. Có điều, nghe tướng lĩnh ở Lĩnh Nam , ca ca nàng tuy ngày đêm phải làm việc vất vả nhưng tinh thần vẫn còn khá tốt. Chỉ là…” Thoáng dừng lại, y mới tiếp: “Việc tẩu tẩu và cháu nàng qua đời, đến giờ y vẫn chưa hay biết.”

      Tôi thầm cảm thấy kinh hãi, đột ngột ngẩng lên. “Điều này là đương nhiên. Ca ca có thể yên tâm ở lại nơi biên thùy, tinh thần còn khá tốt, ắt là nghĩ rằng vợ con mình đều bình yên. Vương gia biết ca ca ta thương tẩu tẩu và Trí Ninh thế nào đâu, nếu để huynh ấy biết…” Tôi thực dám nghĩ tiếp, vội đưa tay lên bụm miệng, dám tiếp.

      Y : “Ta biết chứ, ta nhất định cố hết sức giúp đỡ giấu giếm chuyện này. Khi xưa, ta từng cùng Hành huynh chung sức trong cuộc bình định Nhữ Nam Vương, cũng coi như là bạn bè tri giao, có thể giúp được gì ta nhất định từ nan.”

      Tôi đột nhiên cảm thấy, vừa rồi mình gục đầu vào vai y khóc lóc cách yếu đuối như thế thực quá thân mật cũng quá thất lễ. Hai bờ má tôi khỏi nóng bừng, vội lùi lại hai bước, đưa tay lên lau nước mắt, cố lấy lại vẻ bình tĩnh thường ngày, mỉm cười thản nhiên : “Vừa rồi thất lễ quá, mong Vương gia chớ trách.” Tôi cẩn thận gấp phong thư kia lại, cất vào vạt áo trước ngực rồi : “Lửa phong ba tháng lan tràn, thư nhà đưa đến muôn vàn chắt chiu[2]. Nhưng trong lòng ta, phong thư mà Vương gia đưa tới chỉ có giá trị liên thành.” Sau đó liền khom người sâu. “Xin đa tạ Vương gia!”

      [2] Trích Xuân Vọng, Đỗ Phủ, dịch thơ Trần Trọng San. Nguyên văn Hán Việt: Phong hỏa liên tam nguyệt, gia thư để vạn kim - ND.

      Huyền Thanh tỏ ý bảo Hoán Bích đỡ tôi dậy, trầm giọng : “Thanh và nương tử là bạn tri giao, nương tử những lời khách sáo như vậy làm gì?” Suy nghĩ chút, y lại tiếp: “Vừa rồi mẫu phi có về vấn đề hôn của Hoán Bích, ta nghĩ có người khá thích hợp, biết ý nương tử thế nào?” rồi liền mỉm cười nhìn qua phía A Tấn.

      Tôi ngạc nhiên bật thốt: “A Tấn?”

      Hoán Bích kìm được đỏ bừng hai má, A Tấn cũng tỏ ra hết sức kinh ngạc, cả hai đồng loạt ngẩng lên bật thốt: “Cái gì?”

      Kỳ thực nếu nhìn kỹ, A Tấn cũng có thể coi là thiếu niên tuấn tú. Huyền Thanh cười, : “A Tấn từ lớn lên cùng ta, về mặt nhân phẩm ta tất nhiên có thể đảm bảo. Hơn nữa Hoán Bích với y cũng biết nhau sẵn, thể tính là gả bừa cưới bậy.”

      A Tấn gãi đầu gãi tai, đỏ bừng hai má, : “Việc này…”

      Hoán Bích vội vã kêu lên: “Nô tỳ muốn.”

      Tôi kéo tay Hoán Bích lại, dịu giọng : “Hoán Bích, muội xấu hổ đấy sao?”

      Hoán Bích lắc đầu nguầy nguậy, Huyền Thanh mỉm cười, quay sang hỏi A Tấn: “A Tấn, ngươi có bằng lòng cưới Hoán Bích nương ?”

      A Tấn xấu hổ đến nỗi hai má đỏ bừng, nghe thấy câu hỏi chỉ biết nắm chặt dây cương ngựa trong tay, lát sau lại quay sang xoa bờm Ngự Phong liên tục, lí nhí : “A! Vương gia thế nào là thế ấy.”

      Huyền Thanh vừa tức giận vừa tức cười, quát bảo: “Đường đường đại nam nhân, có có, , nhanh nhẹn thường ngày của ngươi đâu mất rồi?”

      Hoán Bích đột nhiên giật tay ra khỏi tay tôi, chỉnh sửa lại quần áo, quỳ xuống : “Vương gia bất tất phải hỏi A Tấn làm gì, dù A Tấn có bằng lòng, nô tỳ cũng bằng lòng. Tiểu thư phải tu hành trong chùa Cam Lộ cả đời, nếu nô tỳ rồi, dù bên cạnh tiểu thư còn có Cận Tịch nhưng tình cảm giữa nô tỳ và tiểu thư chỉ là chủ tớ thông thường. Hôm nay, nô tỳ hết thực, tiểu thư là trưởng tỷ của nô tỳ, nô tỳ thân là muội muội thể nhìn tỷ ấy mình chịu khổ, còn bản thân lại thành thân với người khác để hưởng phúc.” Hoán Bích tỏ ra rất tỉnh táo nhưng từng lời, từng từ đều khẩn thiết vô cùng.

      Huyền Thanh ôn tồn : “Nếu ngươi thành thân với A Tấn, sau này sống ở Thanh Lương Đài, có thể thường xuyên gặp mặt nương tử. Nếu vẫn thấy tiện, thỉnh thoảng đón nương tử tới Thanh Lương Đài vài ngày cũng được.”

      Giọng Hoán Bích đột nhiên trở nên hết sức chói tai: “Vậy biết Vương gia rốt cuộc muốn nô tỳ thành thân với A Tấn hay là muốn mượn việc nô tỳ và A Tấn thành hôn để sau này tiểu thư có thể thỉnh thoảng tới Thanh Lương Đài? Làm như thế rốt cuộc là để tiện cho hai tỷ muội nô tỳ gặp mặt, hay là tiện cho Vương gia và tiểu thư gặp mặt đây? Có những lời, Vương gia hoàn toàn có thể ra ràng.”

      Những lời này của Hoán Bích tựa như lưỡi dao bén nhọn, từng nhát từng nhát cắt vào má tôi, khiến tôi hổ thẹn đến nỗi chỉ muốn chui xuống đất. Tôi kìm được quát lên: “Hoán Bích!”

      Sắc mặt tôi lúc này nhất định trở nên trắng bệch, Huyền Thanh cau mày : “Hoán Bích, rốt cuộc muốn giúp tiểu thư của , hay là muốn làm ấy tổn thương?”

      Hoán Bích thấy sắc mặt tôi biến đổi hẳn, bất giác có chút hoang mang, kéo tay áo tôi, thấp giọng gọi: “Tiểu thư…”

      Bờ môi hơi tái , Huyền Thanh đưa tay tới đỡ lấy thân thể tôi, khẽ gọi: “Hoàn Nhi!”

      Đương cơn chấn động, tôi bất giác sững người, trước đây y chưa từng xưng hô như vậy bao giờ, Hoàn Nhi, ngờ y lại gọi tôi bằng khuê danh của tôi ngày trước. Rất lâu, rất lâu rồi, chưa có ai gọi tên tôi như vậy, ngay cả Huyền Lăng cũng chỉ gọi tôi là “Hoàn Hoàn”. Trong khoảnh khắc ấy, trong lòng tôi trào dâng vô vàn cảm xúc vừa buồn vừa vui, bỗng dưng sinh ra cảm giác như được trùng phùng với chuyện cũ.

      Thế nhưng, cảm giác ấy chỉ lóe trong trái tim tôi, tôi rất nhanh tỉnh táo trở lại, lạnh lùng đưa tay gạt bàn tay đỡ tôi của Huyền Thanh ra, khôi phục lại bộ dáng hờ hững thường ngày, khẽ : “Pháp hiệu của ta là Mạc Sầu.”

      Mạc Sầu, cái tên này hoàn toàn ngăn cách tôi với những chuyện ngày xưa. Giờ đây, tôi là Mạc Sầu để tóc tu hành.

      khuôn mặt thoáng qua tia hụt hẫng và buồn thương sâu sắc, y lẳng lặng buông bàn tay ra.

      Tôi với giọng hòa hoãn hơn chút: “Hoán Bích dù gì cũng là con , dễ xấu hổ, vội vã bàn tới việc hôn nhân thế này cũng tốt, đợi sau khi quay về, ta hỏi han muội ấy kĩ càng phen.”

      cần.” Hoán Bích cất giọng kiên quyết mà lạnh lẽo, thân thể thẳng tắp dựa vào gốc cây cạnh đó. “Chúng ta ràng rồi, cần chia làm hai lần làm gì cả, chỉ lần là đủ rồi.” Ánh mắt nhìn đăm đăm vào A Tấn, Hoán Bích cắn môi hỏi: “A Tấn, ngươi thực với ta, ngươi có thích ta ?”

      A Tấn nào từng gặp nữ tử năng thẳng thắn như vậy, khỏi đỏ mặt tía tai, nôn nóng đến nỗi lời có chút lắp bắp: “ phải, phải! Bích nương, ta thích nhưng ta chỉ coi như em thôi!”

      Sắc mặt nhõm hẳn , Hoán Bích thở phào hơi, : “Huynh thích ta, ta tất nhiên lấy người thích mình. Nhưng điều quan trọng nhất là ta cũng thích huynh. Nếu như Hoán Bích ta thích ai, nhất định lấy người đó, dù người đó có thích ta đến thế nào!” Hoán Bích đưa mắt liếc nhìn tôi, tâm tư này của muội ấy thực rất giống tâm tư của tôi với Ôn Thực Sơ khi trước. Hoán Bích định thần chút, tiếp: “Nếu có ngày phải gả chồng, tự ta với tiểu thư, cần người khác mất công an bài cho ta làm gì. Nếu ta thích ai đó, dù phải làm thiếp của y, ta cũng cam tâm tình nguyện. Còn bây giờ, ta chỉ muốn được bầu bạn bên tiểu thư thôi. Hôm nay ta xin được , sau này việc hôn nhân của ta cần bất cứ người nào khác nhắc tới.” Dứt khoát, Hoán Bích thở phào hơi như thể vừa giải quyết được mối tâm lớn, thế nhưng dù gì nàng ta cũng là con , sau khi đứng trước mặt mọi người ra những lời kiên quyết như vậy, khuôn mặt xinh đẹp mau chóng trở nên đỏ bừng, giậm chân cái rồi vội vã chạy .

      A Tấn lúng túng : “Tiểu nhân dù sao cũng xứng với Hoán Bích nương.”

      Tôi dịu giọng : “Hoán Bích xưa nay tâm khí rất cao, bây giờ lại vừa cùng ta trải qua cơn biến cố, khó tránh khỏi sinh lòng thờ ơ trước mọi việc, mong Vương gia thứ lỗi.”

      Huyền Thanh cũng buồn bực thôi, ánh mắt đầy vẻ áy náy. “Việc hôm nay là ta lỗ mãng rồi, ta chỉ mong Hoán Bích nương có thể sớm thành hôn, ngờ lại khiến ấy tức giận.”

      Tôi thầm lo lắng cho Hoán Bích, bèn : “ sao đâu, để ta về an ủi muội ấy là được.” Sau đó, hơi khom người cái, cũng kịp cáo từ, tôi xoay người rời .

      Tôi vừa về đến nơi, Cận Tịch lẳng lặng bước tới và hỏi: “ xảy ra chuyện gì sao? Hoán Bích nương vừa về khóc rồi.”

      Tôi bước vào xem thử, thấy Hoán Bích quả nhiên vùi đầu vào trong chăn khóc nức nở. Lòng tôi bất giác nguội ngắt từng cơn, nhất thời cũng biết nên khuyên nhủ thế nào, đành cắm bông sen kia vào trong bình.

      Ngày hôm sau ngủ dậy, tôi phát bông sen cắm trong bình sau đêm chỉ còn lại phần cọng sen hơi ngả màu vàng, những cánh sen hồng phấn rụng xuống lác đác xung quanh chiếc bình sứ, tựa như những cánh bướm chẳng thể bay lên, nằm lặng im chỗ.

      Tôi khẽ cất tiếng thở dài, thương cảm : “ bông hoa đẹp như vậy, ngờ chỉ sau đêm tàn rồi.”

      “Bông hoa nở đầu tiên thường thể tồn tại quá lâu.” Giọng lạnh băng của Hoán Bích chợt vang lên phía sau lưng. Hoán Bích đưa tay gạt những cánh hoa vào trong chiếc túi vải, tiếp: “Để nô tỳ mang chúng phơi nắng, vậy là có thể giữ lại được lâu dài.”

      Tôi đưa tay giữ lấy bàn tay Hoán Bích. “Hoán Bích, muội còn khó chịu sao?”

      Hoán Bích mỉm cười, : “Nô tỳ suy nghĩ cả đêm, Vương gia dù sao cũng suy nghĩ cho nô tỳ”, rồi lại hơi nhếch khóe môi. “Trong mắt Vương gia, nô tỳ là con cố nhân của Thư Quý thái phi, an bài để nô tỳ thành thân với người mà y quen thuộc có gì là đúng?” Lúc này vẻ đơn và hụt hẫng trong mắt Hoán Bích lên hết sức ràng. “Trong mắt Vương gia, nô tỳ chỉ là tiểu nha hoàn bên cạnh tiểu thư, do đó, tất nhiên chỉ có thể gả cho tùy tùng thân tín của y thôi, lại càng chẳng có gì là sai cả.”

      Tôi thở dài, : “Hoán Bích, muội vẫn luôn thông minh, chớ nên tự đẩy mình vào chỗ khó như thế. Cho dù hôm qua Vương gia biết muội là con của Hà di nương cũng biết muội và ta tình như tỷ muội, ắt có lòng tùy tiện gả muội cho gã người hầu đâu. Chính vì y biết ta với muội tình như tỷ muội, lại có lời nhờ cậy của Thái phi, do đó mới muốn gả muội cho người mà y tin tưởng.” Tôi khẽ gạt mấy sợi tóc rối trước trán Hoán Bích, tiếp: “Huống chi, muội với A Tấn xưa nay luôn chuyện với nhau rất hợp, do dó khó tránh khỏi khiến Vương gia hiểu lầm.”

      Hoán Bích ban đầu chỉ lẳng lặng lắng nghe, nhưng khi nghe thấy câu cuối cùng, đột nhiên ngẩng lên nhìn tôi chăm chú. “Nhưng…” Nụ cười của Hoán Bích dần trở nên sâu sắc. “Vương gia và tiểu thư xưa nay chuyện cũng rất hợp nhau mà.”

      Hoán Bích nhấn mạnh vào hai chữ “xưa nay”, tôi nghe mà thầm kinh hãi: “Ta cũng chỉ chuyện hợp với Vương gia mà thôi. Chính vì thế nên muội mới nghi ngờ Vương gia mượn việc hôn nhân của muội để tiếp cận ta, đúng ?”

      Hoán Bích cắn chặt môi, cúi gằm mặt xuống, lát sau mới : “Nô tỳ cứ luôn cảm thấy Vương gia đối xử với tiểu thư quá tốt, còn ngàn dặm xa xôi mang thư nhà tới cho tiểu thư nữa.”

      “Vậy…” Tôi hỏi: “Ôn Thực Sơ đối xử với ta thế nào? Còn ta đối xử với y ra sao?”

      “Ôn đại nhân từ đối xử với tiểu thư rất tốt, nên tiểu thư cũng biết giữ chừng mực. Ngày đó khi vừa tới chùa Cam Lộ, nô tỳ thấy tiểu thư phải chịu đủ điều ấm ức, vất vả, cũng rất muốn tiểu thư có được chỗ dựa cả đời, dù là kín đáo để ai biết cũng tốt. Đương nhiên, bất kể là về phẩm cách, tướng mạo hay khí độ, học thức, Vương gia đều hơn hẳn Ôn đại nhân, nhưng…” Thoáng do dự, Hoán Bích tiếp: “Vương gia là đệ đệ của Hoàng thượng.”

      Lời của Hoán Bích tựa như chậu nước lạnh băng giội thẳng xuống đầu tôi. Tôi trầm ngâm chút rồi hờ hững : “Ta nào phải biết điều này, hơn nữa ta cũng chẳng có chút tâm tư nào khác với y.”

      Hoán Bích khỏi có chút nôn nóng, lay người tôi, : “Nô tỳ biết hôm qua mình rất nhiều lời làm tiểu thư tổn thương nhưng dù tiểu thư có tâm tư gì với Vương gia, chẳng lẽ Vương gia cũng có tâm tư gì với tiểu thư sao? Có số việc vẫn nên cẩn thận chút, chúng ta… chúng ta thể chịu được cơn trắc trở nào nữa rồi.”


      Tôi im lặng hồi lâu, dường như những làn khói đàn hương trong phòng dần làm mờ đôi mắt tôi, tôi miễn cưỡng cười, : “Hoán Bích, muội cứ yên tâm, có việc đó đâu. Vương gia coi ta là tri kỷ, ta cũng coi y là tri kỷ. Bất kể là ở trong cung hay ngoài cung, y đều giúp đỡ ta rất nhiều, muội từng thấy y có lời lẽ nào mạo phạm ta chưa? Tất nhiên, ta cũng biết là phải có chừng mực.”

      Hoán Bích khẽ gật đầu, tựa người vào lòng tôi, rủ rỉ : “Tiểu thư, từ nô tỳ có mẹ, đều là do tiểu thư tay chăm sóc. Bây giờ, chỉ còn hai tỷ muội chúng ta nương tựa vào nhau thôi.”

      Tôi khẽ xoa đầu Hoán Bích, ôn tồn : “Ta biết, ta biết chứ!”

      Thế nhưng từ tận đáy lòng, tôi lại kìm được thầm thở dài tiếng. Có lẽ, tôi nên chú ý giữ khoảng cách với Huyền Thanh.

      Phải giữ khoảng cách với Huyền Thanh, trong lòng tôi ít nhiều gì cũng sinh ra chút khúc mắc. Trong quãng thời gian sau đó, tôi còn tới bên bờ sông nữa. Y là người hết sức thông minh, biết là tôi cố ý né tránh, do vậy cũng ít lui tới hơn. Thỉnh thoảng giữa buổi chiều tĩnh lặng, tôi nghe thấy trong làn gió thấp thoáng tiếng ca cao vút mà vui vẻ của A Nô, vẫn là khúc hát ngày đó:

      Em nay đối với tình lang, tình càng thấm thía dạ càng ngẩn ngơ. Nhớ ai nhớ đến bao giờ? Ngày ngày tựa cửa trông chờ tình lang. Tình lang ơi hỡi tình lang, lòng này thắm thiết xin chàng chớ quên…

      Tiếng ca xuyên qua lớp lớp đình đài lầu các, dừng lại mỗi phiến ngói lưu ly trong chùa Cam Lộ, Tịnh Bạch trề môi với giọng chán ghét: “Lời ca dâm dật, thực là khinh nhờn Phật Tổ.”

      Trụ trì lại : “Có lòng nghe, tất nhiên là nghe thấy, cứ làm ngơ, để ý tới là được.”

      Tôi thầm thở dài, dù tôi vô tâm nhưng lời ca ấy cũng lọt vào tai tôi.

      Trong thời gian này, tôi phát Hoán Bích có mấy lần tới bên bờ sông, khi quay về cả giày và tất đều bị ướt, thế là bèn hỏi xem có chuyện gì. Hoán Bích chỉ đáp: “Lần trước, những lời của nô tỳ hình như làm tổn thương Vương gia và A Tấn, có lúc nô tỳ muốn trực tiếp xin lỗi bọn họ.” Thoáng dừng chút, nàng ta lại tiếp: “Dù sao, Vương gia cũng đối xử với chúng ta rất tốt.”

      Sau thoáng lặng im, tôi : “Hoán Bích, những lời của muội lần này khác hẳn với lần trước, hình như có chút mâu thuẫn đấy.”

      Hoán Bích nghẹn lời, lúng túng : “Nô tỳ chẳng qua chỉ ra lời trong lòng mà thôi.”

      “Vậy…” Tôi hỏi: “Muội có gặp được Vương gia ?”

      “Có gặp mấy lần.” Hoán Bích cúi đầu, mân mê mép áo. “Nhưng y chỉ nhìn mặt sông mà ngơ ngẩn, lần nào cũng chỉ có A Tấn chuyện với nô tỳ, thành ra nô tỳ cách nào mà xin lỗi được.”

      Tôi khẽ “ừm” tiếng, cũng suy nghĩ gì nhiều. quan tâm của Huyền Thanh vẫn chưa từng gián đoạn, chỉ là bây giờ phải thông qua Cận Tịch mà thôi. Có lúc y bảo Cận Tịch đưa tranh của Lung Nguyệt tới, có lúc lại hỏi Cận Tịch xem tôi có khỏe .

      Tất nhiên, ngay từ lúc ở trong cung, Cận Tịch và y khá thân thuộc với nhau rồi.

      Mùa hạ rất nhanh qua và mùa thu lại tới.

    5. khahanhl

      khahanhl Well-Known Member

      Bài viết:
      2,937
      Được thích:
      1,718
      Chương 16: Xuất ky đông môn[1]


      [1] Tên bài thơ trong Kinh thi, thuộc tập Trịnh phong trong phần Quốc phong, nghĩa đen là “ra khỏi cửa đông” - ND.

      Trung thu năm nay tôi vốn nghĩ lại trôi qua trong đơn và tịch mịch như trước, cùng lắm cũng chỉ là tôi với Cận Tịch và Hoán Bích chia nhau ăn bánh Trung thu.

      Đến giờ cơm tối, các ni trong chùa đều lên núi ngắm trăng, chỉ có tôi, Cận Tịch và Hoán Bích là ở lại trong phòng, ra ngoài.

      Chợt nghe bên ngoài có tiếng chuông ngựa vang lên, tôi thính tai nghe thấy, bèn : “ biết là ai tới đây vào giờ này, để ta ra ngoài xem thử.”

      Mở cửa ra ngoài, tôi nhìn thấy A Tấn tay xách giỏ hoa quả nhảy xuống từ lưng ngựa, cười hì hì, : “Tiểu nhân biết ngay lúc này các ni trong chùa Cam Lộ đều ngắm trăng rồi mà. Vương gia vốn muốn đích thân tới, tiếc rằng bây giờ trong cung mở tiệc, Thái hậu cũng có mặt, thành ra thể tranh thủ tới đây được.” Y đưa giỏ hoa quả cho Hoán Bích, tiếp: “Đây là những thứ hoa quả mà thường ngày nương tử thích ăn, Vương gia dặn tiểu nhân đặc biệt chuẩn bị cho nương tử, khi ngắm trăng dù sao cũng phải ăn gì đó.”

      Hoán Bích mỉm cười, đón lấy. “Vương gia quả là có lòng, ta xin thay tiểu thư nhà ta tạ ơn Vương gia.”

      Tôi trêu: “Cứ tưởng ngươi dám đến gặp bọn ta nữa cơ, ngờ bây giờ lại lon ton chạy đến đây thế này.”

      Hoán Bích giậm chân thẹn thùng : “Tiểu thư lại trêu nô tỳ rồi.”

      A Tấn gãi đầu gãi tai, xấu hổ giải thích: “Việc lần trước ràng rồi, nô tài chỉ coi Hoán Bích như muội muội thôi.”

      Tôi mỉm cười, quay sang với Cận Tịch: “ phải chúng ta cũng có bánh Trung thu sao, lấy mấy cái ra đây cho A Tấn, coi như là chúng ta cùng đón Trung thu.”

      A Tấn nghe tôi như vậy, trong mắt chợt lóe lên tia nghịch ngợm, mỉm cười, : “Nương tử đến bánh Trung thu, vừa hay Vương gia nhà nô tài cũng bảo nô tài mang bánh tới cho nương tử đấy.”

      Tôi thấy có chút khó hiểu, nhưng vẫn tỏ vẻ thản nhiên. “Là loại bánh Trung thu đặc biệt gì mà phải bảo ngươi mang tới đây vậy?”

      A Tấn cười tủm tỉm, : “Nương tử cứ xem rồi khắc biết, Vương gia dặn dặn lại nô tài rằng nhất định phải đưa bánh tới tận tay nương tử mới được.”

      Tôi nghiêng đầu suy nghĩ chút rồi với y: “Trịnh trọng như vậy, xem ra nhất định là loại bánh Trung thu hiếm có rồi.”

      A Tấn lấy từ trong ống tay áo ra chiếc bọc , mở lần lượt từng lớp giấy và vải lụa bọc bên ngoài ra, cẩn thận đưa tới trước mặt tôi. “Nương tử hãy tự xem .”

      Đó chẳng qua chỉ là chiếc bánh bình thường, có chỗ nào đặc biệt, Hoán Bích đứng bên cạnh kìm được nghi hoặc, cười hỏi: “ phải chỉ là chiếc bánh bình thường thôi sao?”

      Tôi cũng thấy hơi nghi hoặc, bèn bẻ đôi chiếc bánh ra xem. ra chiếc bánh này rỗng ruột, bên trong có mảnh giấy , tôi mở mảnh giấy ra xem thấy bên có viết bốn chữ “hữu bị vô hoạn[2]” hết sức ngay ngắn, nắn nót.

      [2] Đây là câu thành ngữ, ý có phòng bị trước tránh được tai họa - ND.

      Tôi nhất thời nhìn ra được điều gì, bèn hỏi A Tấn: “Thế này là ý gì vậy?”

      A Tấn cười hì hì, : “Vương gia hôm nay là tết Trung thu, phải ngắm đèn lồng đoán câu đố, do đó bèn bảo nô tài mang lời giải đố này đến cho nương tử, nương tử thông minh hết mực, nhất định có thể đoán ra câu đố.”

      Hoán Bích đứng bên cạnh cũng đoán ra được gì, bèn cười oán trách: “A Tấn, Vương gia nhà ngươi đúng là cổ quái, người ta bình thường đều là đoán lời giải đố, ai lại cho lời giải để đoán câu đố như vậy bao giờ.”

      A Tấn xòe tay, nhún vai vẻ hết cách. “Đây là ý của Vương gia, ta là kẻ nô tài, chỉ có thể nghe lệnh, sao dám cãi lại câu nào”, rồi lại quay sang cười, với tôi: “Nương tử phải nhọc lòng rồi!” xong, lại cười nữa mà khẽ thở dài hơi. “Vương gia nhà nô tài vui nhưng vẫn muốn giành được nụ cười của nương tử.”

      A Tấn xưa nay vốn mau mồm mau miệng, con người cũng thông minh nhanh trí, đột nhiên như vậy nhất định là có nguyên do. Tôi cũng gì, chỉ thoáng đưa mắt liếc qua phía Hoán Bích.

      Hoán Bích cười, : “Đây nhất định là lời đùa cợt rồi, Vương gia thân phận tôn quý, là tấm thân ngàn vàng, dù có ai đắc tội cũng chỉ cần đánh cho trận là được, cớ gì mà lại vui chứ.”

      A Tấn nghiêm túc : “Lời này thực sai lắm, thứ nhất Vương gia nhà ta phải người như vậy, thứ hai, Vương gia phiền lòng là do ý của Thái hậu. Thái hậu Vương gia còn nữa và giúp ngài chọn được vị tiểu thư để làm Thanh Hà Vương phi rồi. Thái hậu có vẻ rất hài lòng về vị tiểu thư đó, hôm nào an bài cho Vương gia gặp mặt.”

      Lòng tôi thầm chấn động, kìm được nhìn qua phía Hoán Bích. Hoán Bích cũng tỏ ra hết sức bất ngờ, thốt lên: “ thế sao?”

      A Tấn cau mày, rầu rĩ : “Tất nhiên là rồi, nếu tại sao Vương gia lại vui chứ. Thời gian qua, Thái hậu giục rất gấp Vương gia hai mươi tư tuổi rồi, làm gì có ai đến tuổi này mà còn chưa nạp phi, Vương gia thậm chí đến người thiếp cũng có, chẳng ra thể thống gì cả. Lần này, Thái hậu chọn được tiểu thư nhà Bái Quốc công, tên gọi Vưu Tĩnh Nhàn, nghe vô cùng dịu dàng, hiền thục, ngay đến mấy vị thái phi cũng ngớt lời khen.”

      Tự đáy lòng tôi chợt dâng trào từng cơn giá lạnh khó mà miêu tả bằng lời, tựa như giữa ngày đông có ai đó thò bàn tay vừa ngâm trong nước lạnh tới, nắm chặt lấy trái tim tôi để sưởi ấm. Tôi biết cảm giác này là khó hiểu và nên có, vội mỉm cười bình tĩnh để che giấu. “Đây là việc tốt, ở tuổi của Vương gia, nếu đổi lại là người khác chỉ e con cái thành đàn, vào lúc này Vương gia quả cũng nên cưới vị Vương phi về để quản lý việc nhà rồi.”

      Hoán Bích khẽ gọi: “Tiểu thư…”

      Tôi mỉm cười đưa mắt nhìn qua, : “Vương gia chuẩn bị nạp phi là việc tốt, hơn nữa cặp mắt Thái hậu xưa nay vẫn luôn nhìn người rất chuẩn, chúng ta nên chúc mừng Vương gia mới đúng chứ!”

      A Tấn nghe tôi vậy liền khẽ “hừm” tiếng, trong giọng thấp thoáng vẻ vui: “Vương gia nhà ta vì chuyện này mà sầu não thôi, ta vốn nghĩ Vương gia coi nương tử như tri kỷ, nương tử nhất định cũng hiểu được tâm tư của Vương gia, ngờ nương tử lại ra lời chúc mừng Vương gia như thế, A Tấn thích nghe chút nào, xin được cáo từ.” Sau đó liền hậm hực tung người nhảy lên lưng ngựa, giục ngựa rời .

      Gió ngừng thổi tự lúc nào, bốn phía đều chìm trong tịch mịch. Bàn tay tôi vẫn cầm chặt mảnh giấy lấy từ trong chiếc bánh Trung thu ra. Hoán Bích bước tới đỡ lấy cánh tay tôi. “Đêm hơi lạnh rồi, chúng ta mau vào trong thôi.”

      Tôi thấy giọng Hoán Bích đầy vẻ buồn bã, khác hẳn với thường ngày, liền ngoảnh đầu nhìn, phát khuôn mặt xinh đẹp kia quả nhiên thấp thoáng nét hụt hẫng. Tôi thở dài tiếng, khẽ : “Hoán Bích, muội trách ta những lời vừa rồi sao?”

      Hoán Bích khẽ lắc đầu, lát sau lại gật đầu, : “Tiểu thư lòng chúc mừng cho Vương gia sao? A Tấn hiểu, nhưng sao nô tỳ hiểu cho được chứ!”

      Nỗi ưu sầu của tôi như thảm cỏ xuân lan tràn khắp nơi. Tôi cố để ý tới việc này, hỏi lại Hoán Bích: “Vậy muội cảm thấy ta nên thế nào? Ngoài lời chúc mừng ra, ta chẳng thể được gì khác.”

      Đầu ngón tay Hoán Bích hơi giá lạnh, tựa như giọt sương lá. “Đây là việc mừng, nhưng phải ai cũng vui mừng”, rồi lại hơi cúi xuống. “ phải A Tấn rồi sao? Vương gia cũng vừa ý.”

      “Vừa ý hay vừa ý Vương gia cũng đến tuổi rồi, đây lại là ý của Thái hậu, lẽ nào có thể làm trái?”

      Tôi bước qua bên cạnh, chậm rãi thắp nén đàn hương, mùi khói lửa trộn lẫn mùi thơm dìu dịu của đàn hương khiến lòng tôi bình lặng hơn chút nhưng đồng thời lại càng cảm thấy thê lương.

      Hoán Bích tựa người vào cửa, chăm chú nhìn động tác của tôi, buồn bã : “Khi sầu muộn, tiểu thư thường thích thắp đàn hương thế này.”

      Bàn tay tôi hơi run rẩy nhưng rất nhanh sau đó bình tĩnh trở lại. “Muội thấy ta sầu muộn sao?”

      Hoán Bích chỉ khẽ lắc đầu, mỉm cười, : “ khi Vương gia có gia thất, nhất định được tự do tự tại như trước nữa, cũng thể thỉnh thoảng tới thăm chúng ta như bây giờ.”

      Tôi hít hơi sâu, chầm chậm nhấm nháp mùi thơm dìu dịu của đàn hương trong khí, hồi lâu sau mới : “Muội rất mong được gặp Lục Vương gia sao?”

      Cuối cùng, Hoán Bích chịu gì thêm.

      Mười lăm trăng sáng, Mười sáu trăng tròn, hôm nay, trong lúc các ni tụng niệm, Huyền Thanh bước giữa những ánh trăng màu trắng sữa tới thăm tôi. Mãi đến khi chiếc bóng dài của y xuất trong tầm mắt, tôi mới giật mình phát y tới.

      Thoáng kinh ngạc, tôi rất nhanh đứng dậy, : “Vương gia trước giờ chưa từng tới đây, sao hôm nay lại tới thế?”

      Dáng vẻ y rất ung dung, tựa như chẳng có việc gì, bước tới gần tôi, mỉm cười : “ làm gì thế?”

      Tôi gác cây bút trong tay qua bên, khẽ cười, : “Còn có thể làm gì được, chép kinh Phật cho Thái hậu thôi. Mấy ngày nữa Phương Nhược lại tới lấy!”

      Y “ồ” tiếng, lẳng lặng đọc tập kinh văn mà tôi vừa chép, hồi lâu sau mới chậm rãi : “Chữ của nàng lại tiến bộ hơn rồi, chỉ là…” Sau đó, y vừa chỉ tay vào chữ vừa nhìn tôi, : “Hình như tâm thần nàng yên, do đó mấy chữ này có hơi nghiêng ngả.”

      Tôi hờ hững đưa mắt liếc qua, làm bộ thản nhiên : “Vương gia tinh mắt , mấy việc này ta đều chẳng thể giấu được ngài.” Thấy Hoán Bích bưng trà bước vào, tôi mới mỉm cười, : “Đa tạ Vương gia hôm qua tặng bánh, ta nhất thời cao hứng nên chữ viết mới thành ra như vậy.”

      Hai mắt bỗng hơi lóe sáng, Huyền Thanh mỉm cười, ôn tồn hỏi: “Nương tử đoán được rồi sao?”

      Loại trà mà Hoán Bích pha mang tới là trà cúc Hàng bạch, những bông hoa màu vàng nhạt nổi bồng bềnh mặt nước, phía dưới là mảng màu xanh trong vắt. Tôi hơi cúi đầu, lập tức ngửi thấy mùi thơm thanh tân dễ chịu.

      Tôi hiểu dụng tâm của Hoán Bích, hôm qua nghe thấy những lời đó của A Tấn, tôi tất nhiên vui; còn A Tấn xưa này vốn mau mồm mau miệng, sau khi quay về nhất định hết những lời của tôi với Huyền Thanh, như thế Huyền Thanh ắt càng vui, do đó Hoán Bích mới chọn trà cúc Hàng bạch, giúp tâm trạng hai chúng tôi phần nào bình tĩnh hơn.

      Tôi chậm rãi nhấp ngụm trà, cười tủm tỉm, : “Lời giải đố là ‘hữu bị vô hoạn’, muốn dựa vào đó để đoán ra câu đố quả dễ dàng gì. Ta phải nghiền ngẫm suốt hồi lâu mới nghĩ tới truyện Tam Quốc, từ đó đoán ra đáp án, nhưng cũng biết mình đoán có đúng , còn phải chờ Vương gia trả lời mới được.”

      Y cầm chén trà trong tay, cười : “Nương tử cứ ta nghe thử.”

      “Trong Tam Quốc, ‘bị’ ý chỉ hoàng thúc nhà Hán Lưu Bị. Lưu Bị dốc hết tâm sức cả đời, lập quốc ở Thục Trung, trở thành chủ nhân nước Thục. Còn ‘vô hoạn’ có nghĩa là bình an.” Ngón tay tôi búng vào chiếc chén làm bằng sứ, vang lên những tiếng “tách tách” vui tai, nụ cười bên khóe miệng đầy vẻ thư thái. “Thục Trung và Xuyên Bách ở rất gần nhau, hẳn là Vương gia muốn với ta, cha mẹ và muội muội ta ở vùng Xuyên Bắc đều bình an, khỏe mạnh.”

      Y nở nụ cười vui mừng, : “Nàng đoán đúng lắm, người mà ta phái quay về bẩm báo rồi, cha mẹ nàng đều khỏe mạnh, đau bệnh gì, hơn nữa hai năm nay cha nàng hưng tu thủy lợi, mở rộng kênh mương, giúp việc giao thông thêm thuận lợi, chính tích khá tốt, hơn nữa còn được nhân dân quý.”

      Xuyên Bắc là nơi đất đai cằn cỗi, cha mẹ đều khỏe mạnh, tôi cũng yên tâm hơn phần nào. Tôi thầm cảm động, giọng cũng bất giác dịu dàng hơn: “Đa tạ Vương gia với ta những việc này”, rồi lại lo lắng : “Nơi đó giá lạnh, chân cha ta xưa nay luôn yếu, nhỡ bị đau nhức phải làm sao đây?”

      Huyền Thanh bật cười, đôi mắt nheo lại thành hình hai vầng trăng non rất đẹp. “Sau Trung thu là tới mùa đông rồi, chỉ e thời tiết càng lúc càng lạnh. Hôm qua được biết có sứ giả vào Xuyên, ta liền nhờ Ôn thái y tìm cho ít thuốc cao đặc trị những bệnh hay mắc ở nơi ẩm thấp, đặc biệt là về xương, sau đó nhờ sứ giả mang tới cho Chân đại nhân rồi.”

      Lòng tôi thầm thư thái, lại càng cảm kích chu đáo của y. “Thực làm phiền Vương gia phải tổn hao tâm trí.”

      Y cười vang, : “Ta đâu có gì mà hao tâm tổn trí, người hao tâm tổn trí là Ôn thái y kìa. Vừa nghe ta muốn đưa thuốc tới cho Chân Viễn Đạo đại nhân, suốt đêm đó, y liền chọn những loại nguyên liệu tốt nhất để chế tạo ra loại thuốc cao mới, rồi đích thân đưa tới phủ của ta, ta chẳng qua chỉ thuận nước dong thuyền mà thôi.”

      Nơi đáy lòng tôi thầm buông tiếng thở dài, cũng rất cảm kích. Ở trong cung may còn có Ôn Thực Sơ. Nhưng tôi muốn để Huyền Thanh nghĩ nhiều, vì vậy chỉ mỉm cười, : “Ôn thái y là cố giao lâu năm với nhà ta, nhưng bây giờ vẫn chịu giúp đỡ như thế cũng thực là hiếm có.” Tôi bất giác thấy hơi buồn bã, thế gian này việc thêu hoa gấm nhiều, tặng than giữa trời tuyết rơi ít, tâm ý của Ôn Thực Sơ thực đáng quý vô cùng.

      Thế nhưng tôi rất nhanh tỉnh táo trở lại, ra vẻ trách cứ, : “Có điều, câu đố lần này của Vương gia lòng vòng trắc trở, muốn đoán ra được quả là chẳng dễ dàng gì.”

      “Nếu quá đơn giản, với thông minh của nương tử nhất định đoán ra được ngay, như thế còn gì thú vị nữa.” Y búng ngón tay cười khẽ, tựa như nhấm nháp chén trà hoa cúc trong tay. “Hôm qua là Trung thu, ta đoán nàng nhất định nhớ nhà, do đó mới cố ý chọn câu đố khó đoán như vậy, hy vọng có thể giúp nàng xua bớt nỗi nhớ mong.”

      Huyền Thanh cứ luôn như vậy, mang tới cho tôi cảm động trong lặng lẽ. Đó phải là những cơn sóng dữ cuộn trào, mà là từng làn gió buổi đêm, hết sức dịu dàng và mềm mại, khiến tôi cách nào nổi lên ý niệm kháng cự.

      Trong lòng tôi trào dâng từng tia ấm áp, tựa như những bông hoa cúc bị ngâm trong nước trà kia, dần dãn nở từng chút.

      Đột nhiên tôi nhớ tới câu của Hoán Bích hôm qua: “ khi Vương gia có gia thất, nhất định được tự do tự tại như trước nữa, cũng thể thỉnh thoảng tới thăm chúng ta như bây giờ.”

      Muốn thỉnh thoảng gặp lần cũng được, với y là thế, với tôi cũng thế.

      Nghĩ tới đây, tôi lại càng buồn bã, khuôn mặt dần xuất vẻ hụt hẫng.

      Đúng lúc này, Hoán Bích ôm theo bó cúc lớn bước vào, chẳng qua trông hết sức tự nhiên, trắng tinh thuần khiết, thanh nhã vô cùng.

      Hoán Bích đứng lẳng lặng bên cạnh ô cửa sổ phía nam, cẩn thận thay hoa mới vào bình. Vì có muội ấy ở đây, tôi nhất thời tiện gì, mà Huyền Thanh cũng nửa lời, hai chúng tôi chỉ ngồi cạnh nhau, im lặng uống trà.

      Lát sau, Hoán Bích ôm theo bó hoa cúc vàng lụi tàn quá nửa rời , vì có hơi vội vã nên mấy cánh hoa rơi xuống sàn, màu sắc đều đen thui, còn hơi xoăn vào, tựa trái tim hoàn toàn suy sụp.

      Hôn của y, nếu y nhắc tới, tôi cũng chẳng đề cập từ nào, chỉ làm như biết mà thôi, bởi tôi cũng đâu thể được gì.

      Hồi lâu sau, trà nguội hẳn, rốt cuộc y cũng lên tiếng: “Hôm qua, A Tấn làm nương tử giận sao?”

      Tôi lắc đầu, nụ cười hờ hững mà xa cách mực diện khóe môi. “A Tấn xưa nay luôn nhanh nhẹn, thẳng thắn, dù y có ta cũng tức giận đâu.”

      Y hơi khép mắt lại vẻ mỏi mệt, khẽ cất tiếng: “Y rất lắm lời”, suy nghĩ chút lại thêm: “Như vậy, nàng biết rồi đúng ?”

      Tôi hờ hững vạch qua vạch lại ngón tay mặt bàn, : “Đúng vậy, nhưng ta chỉ thấy mừng thay Vương gia thôi!”, rồi lại chậm rãi tiếp: “Tiểu thư của Vưu phủ đương nhiên là lựa chọn tốt, huống chi Thái hậu lại thích nàng ta nữa.” Tôi khẽ nhấp ngụm trà, để dòng nước giá lạnh chảy qua đầu lưỡi. “Năm xưa, Bái Quốc công từng cùng Thái tổ Hoàng đế chinh chiến sa trường, vào sinh ra tử nên mới có được công danh như thế, tất cả đều là dùng đao thương mà đổi lại. Bái Quốc công gia thế hiển hách, phong quang được mấy trăm năm, tuy bây giờ chẳng còn thực quyền trong tay nhưng gia giáo rất tốt, con trong gia đình như vậy nhất định là bậc đại gia khuê tú, phong hoa tuyệt trần. Tĩnh Nhàn…” Tôi thoáng trầm ngâm, cười : “Vừa nghe biết là tên của ngoan hiền nền nã, ta xin có lời chúc mừng Vương gia trước.”

      Tôi cũng biết tại sao mình lại thao thao bất tuyệt như vậy, dường như chẳng khống chế nổi bản thân, càng nhiều, cảm giác thê lương trong lòng càng nồng đậm, nhanh chóng bao phủ toàn thân tôi.

      Thần sắc Huyền Thanh theo từng lời của tôi mà càng lúc càng trở nên buồn bã.

      Y im lặng hồi lâu, đột nhiên khẽ nở nụ cười tao nhã, bên trong lại thấp thoáng đôi nét ưu sầu, nhìn tôi, trầm giọng hỏi: “Nàng lòng chúc mừng ta sao?”

      Có khoảnh khắc nào đó tôi thực rất muốn ngoảnh đầu , vô cùng muốn, nhưng rốt cuộc tôi vẫn kìm được, cố nở nụ cười dịu dàng nhất có thể. “Đương nhiên là lòng chúc mừng rồi!”

      Y chỉ im lặng. Tôi dám nhìn y nhưng chiếc bóng của y in xuống chén trà thực ràng biết mấy, ràng đến mức khiến tôi thể nhìn.

      Bàn tay y chậm rãi đưa tới, muốn nắm lấy tay tôi. Tôi cả kinh, rụt tay về theo bản năng, dám ngẩng lên thêm lần nào.

      Nụ cười của y lại càng trở nên giá lạnh, tuy cười nhưng lại chẳng có chút tâm trạng vui vẻ nào, khuôn mặt tựa như tấm mặt nạ cứng đơ, khiến người ta vừa nhìn là có cảm giác như bị làn gió thu héo hắt thổi qua, chỉ còn lại nỗi đơn cùng ánh tà dương tịch mịch.

      Bàn tay của y giữ nguyên khoảng cách tấc với tay tôi, động đậy, tôi cơ hồ có thể cảm nhận được giá lạnh nơi đầu ngón tay y. Giọng y vẫn giữ nguyên vẻ bình tĩnh: “Bất kể nàng có thực lòng hay , ta chỉ muốn với nàng, ta hề thích Vưu Tĩnh Nhàn.” Rồi y chậm rãi đứng dậy, chắp tay sau lưng tới trước cửa sổ, bó hoa cúc dại kia khoe sắc trước mắt y, ngoài cửa sổ là gốc ngô đồng với rất nhiều phiến lá rơi lặng lẽ. “Có mấy câu thơ vừa hay có thể biểu đạt tâm trạng ta lúc này.” Y , giọng hơi hờ hững, trong hờ hững lại toát ra vẻ kiên định thể thay đổi: “Bước ra vừa khỏi cửa đông, lắm thiếu nữ sắc dung mặn mà. Tuy nhiều đẹp đẽ thướt tha, chẳng hề lưu luyến lòng ta chút tình[3]. Dù Vưu Tĩnh Nhàn có tốt đến thế nào, ta cũng sao thích được.”

      [3] Trích Xuất kỳ đông môn, Kinh thi, dịch thơ Tạ Quang Phát. Nguyên văn Hán Việt: Xuất kỳ đông môn, hữu nữ như vân. Tuy tắc như vân, phi ngã tư tồn - ND.

      Tuy nhiều đẹp đẽ thướt tha, chẳng hề lưu luyến lòng ta chút tình. ngờ y lại dùng đôi câu thơ này để tỏ tâm ý.

      Tôi còn gì để , chỉ biết cúi đầu, khẽ thở dài. “Nhưng Thái hậu rất vừa ý tiểu thư nhà họ Vưu, mà Vương gia quả thực cũng tới tuổi thành hôn rồi, chẳng lẽ cứ định kéo dài mãi hay sao?”

      Ánh mắt y nóng bỏng như lửa, sáng rực như đuốc. “Thái hậu biết, nhưng nàng biết , ai kia áo xám khăn đen, làm ta vui thích riêng mình đương[4].”

      [4] Trích Xuất kỳ đông môn, Kinh thi, dịch thơ Tạ Quang Phát. Nguyên văn Hán Việt: Cảo y kỳ cân, liêu nhạc ngã viên - ND.

      Lòng tôi chấn động khôn cùng, áo xám khăn đen? Chẳng phải tôi chính là người tu hành áo xám đó sao? ngờ y lại có thể thẳng thắn bày tỏ như vậy, hề vòng vèo, cũng hề mềm mỏng. Trong khoảnh khắc đó, tôi đột nhiên muốn né tránh nữa, dù tôi hiểu được tâm ý của y sao, có thể làm gì được chứ? Thế là tôi bèn : “Dù Vương gia vừa ý tiểu thư nhà họ Vưu Thái hậu cũng chọn cho ngài những mối hôn khác, Vương gia có thể cự tuyệt Vưu tiểu thư nhưng chẳng lẽ có thể cự tuyệt tất cả những người khác hay sao? Ý chỉ của Thái hậu dễ gì phản kháng được đâu.” Khẽ hắng giọng, tôi lại tiếp: “Vương gia vừa mới ‘ai kia áo xám khăn đen, làm ta vui thích riêng mình đương’ nhưng người áo xám khăn đen kia vị tất có tâm tư gì với Vương gia, Vương gia cớ sao phải tự làm khổ mình?”

      Ngoài cửa sổ, lá vàng rơi lả tả, tựa những cánh bướm nhè lượn bay, càng tôn lên vẻ tiêu điều của mùa thu. Y đứng trước cửa sổ, chậm rãi lên tiếng: “Dù mẫu hậu nhất định muốn chỉ hôn, ta cũng liều chết phản kháng. Mẫu hậu có kiên trì đến mấy rốt cuộc cũng thể cự lại tâm ý của ta. Ta phải quân vương, việc hôn nhân liên quan gì tới vận nước, mẫu hậu ắt bức ép ta quá!” Y chăm chú nhìn tôi, ánh mắt nóng bỏng có lấy nửa phần rụt rè mà còn cuồn cuộn như nước, càng lúc càng mãnh liệt. “Còn về việc người áo xám khăn đen có tâm tư gì với ta hay , ta nghĩ mình chỉ cần kiên trì chờ đợi nàng là được. Bởi ta tin rằng, chỉ cần đủ lòng thành, có ngày vàng đá cũng phải nứt ra.”

      Đây là lần đầu tiên y thẳng thắn tỏ tâm tư của mình với tôi như vậy.

      Tôi hít hơi khí lạnh nhưng trong người bất giác lại có những tia ấm áp dần lan tỏa. Tôi cơ hồ hơi xao động nhưng rốt cuộc vẫn cố kìm nén suy nghĩ thêm, dứt khoát hỏi thẳng: “Đủ lòng thành, có lẽ thực có ngày vàng đá cũng phải nứt ra, nhưng giờ đây lòng ta như giếng lặng, thực muốn nổi lên gợn sóng nào nữa, do đó dù có nhiều lòng thành đến mấy cũng vô dụng thôi, Vương gia hà tất phải uổng phí tâm sức.”

      Nhưng y lại dùng nụ cười bình thản để đón lấy vẻ hờ hững của tôi. “ cần biết vàng đá có nứt ra hay , Thanh vẫn dốc hết lòng mình.” Y nhìn tôi chăm chú, tiếp: “Thanh chỉ mong nương tử đừng hai chữ ‘chúc mừng’ nữa, Thanh quả thực sợ phải nghe thấy hai chữ đó vô cùng.”

      Tôi khẽ buông tiếng thở dài buồn bã. “Được, ta tùy tiện vậy nữa. Chỉ là nếu thực ngày như thế, Vương gia cũng để ta được lòng chúc mừng sao?” Thấy y hơi cau mày, tôi vội : “Được rồi, được rồi, ta nữa.”

      Nụ cười của y rốt cuộc ấm áp trở lại. “Nàng biết , hôm qua khi A Tấn quay về với ta việc nàng chúc mừng ta, ta thực tức đến phát điên, chỉ hận thể bỏ dở bữa tiệc trong cung mà chạy tới đây lý luận với nàng.”

      Tôi phỉ phui tiếng, khẽ : “Ta vốn có lòng tốt, ngài hà tất phải tìm ta lý luận làm gì”, rồi lại mỉm cười tiếp: “Thanh Hà Vương xưa nay luôn tự phụ là bậc quân tử ung dung, nho nhã, ngờ cũng có lúc nóng giận đến mức này.”

      “Cũng chỉ có nàng mới có thể khiến ta tức giận đến thế thôi!” Y thở dài lẩm bẩm. “Chỉ mình nàng thôi!”

      Tôi khẽ cười tiếng, gì thêm.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :