5 Hôm thứ năm, buổi sáng đầy sương mù - màn sương ẩm giăng giăng dày đặc đến nỗi cảm thấy được vị nồng nồng mằn mặn của nó. Những chiếc ô tô bò như rùa, đèn pha bật sáng loáng. Gần trưa sương mới tan, trời những đám mây xoăn tít thong thả trôi, và cao hơn nữa, phía những đám mây này là những đám mây ti đứng lặng nhúc nhích. Đến năm giờ chiều những đám mây, chả khác nào những bức tranh đố hóc búa, bắt đầu rã vụn ra thành nhiều mảnh kỳ quái. Những tia nắng mặt trời, lọt qua kẽ hở giữa chúng, chiếu thành những khoanh rực màu xanh lơ bề mặt xanh xám của đại dương. Brody ngồi bãi tắm của thị trấn, khuỷu tay chống vào đầu gối để chiếc ống nhòm nằm trong tay khỏi rung. có ống nhòm khó khăn lắm mới phân biệt được chiếc tàu: đốm trắng con con khi khi trong sóng biển khơi. Tuy chiếc tàu chao đảo mạnh, nhưng ống kính giúp giữ nó khỏi tuột ra khỏi tầm nhìn. Brody ngồi đây gần tiếng rồi. căng thị lực lên, cố phân biệt cho được cái gì đó boong tàu. Cuối cùng, chửi tục, thả ống nhòm khỏi tay, thế là nó treo lủng lẳng sợi dây da dưới cổ. - Chào thủ trưởng. - Hendricks khi bước lại gần Brody. - Chào cậu, Leonard. Sao cậu lại ở đây? - Tôi phóng xe ngang qua, trông thấy ô tô của thủ trưởng. Thủ trưởng xem gì phía đằng kia thế? - Tôi muốn tìm hiểu xem Ben Gardner làm gì ở đằng ấy, cái lão khỉ gió khỉ dây ấy! - đánh cá chứ còn làm gì nữa. - Người ta trả công cho lão ta đấy, thế nhưng cái trò đánh cá ngu xuẩn như thế này từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến giờ tôi chưa thấy bao giờ. Tôi ngồi đây cả tiếng đồng hồ rồi mà thuyền chẳng thấy động tĩnh nào chứng tỏ là có người cả. - Thủ trưởng cho phép nhòm cái. - Brody đưa ống nhòm cho ta. Hendricks đưa ống nhòm lên mắt và đăm đăm nhìn vào chiếc tàu. - Thực là lạ quá nhỉ. ta ngồi đấy lâu chưa? - Cả ngày rồi. Chiều hôm qua tôi chuyện với , bảo rằng nhổ neo lúc sáu giờ. - có mình thôi à? - . thử rủ thêm chàng cùng đòi hình như tên là Danny phải. Nhưng thằng cha này đâu như đăng ký khám nha sĩ rồi. Hy vọng là ta ra khơi chỉ có mình. - Thủ trưởng có muốn ta ra xem. Từ giờ đến lúc mặt trời lặn còn ít ra là hai tiếng đồng hồ nữa. - Cậu nghĩ cách gì mà mò ra tới tận đấy được? - Tôi hỏi mượn canô của Chickering. ta có chiếc "AquaSport" động cơ mười tám mã lực. Phóng nhanh thôi. Brody cảm thấy rợn tóc gáy vì sợ. bơi kém, và chỉ ý nghĩ rằng bỗng chốc ở trong làn nước hoặc, xin cắn cỏ lạy trời, ở dưới làn nước, là làm cho "hồn vía lên mây" rồi, như lời mẹ vẫn thường : lòng bàn tay túa mồ hôi, miệng liên tục tợp tợp, dạ dày bắt đầu đau - số người cũng có những cảm giác hệt như thế khi bay. Brody thường như mê thấy những mãnh ngư hung hãn trơn nhuồi nhuội từ dưới sâu vọt lên chỗ và xé thành từng mảnh, còn lũ hà bá la hét và cười ha hả. - Thôi được, - . - Chúng ta chẳng còn lựa chọn nào khác. Có thể trong khi ta ra được đến cảng Gardner có mặt ở đấy rồi. Nếu chưa cậu cứ chuẩn bị canô . Còn tôi ghé vào đồn gọi điện cho vợ ta cái... Để hỏi xem có thông báo gì bằng vô tuyến . Cảng thị trấn Amity : cả thảy chỉ có hai chục chỗ đỗ tàu, cầu tàu tiếp dầu và lầu gỗ có bán xúc xích nóng và sò rán những chiếc đĩa giấy. Các cầu tàu nằm trong cái vịnh , có đập đá vươn dài ra đến giữa vịnh ngăn sóng biển khơi. Hendricks đứng canô, động cơ được khởi động, chuyện phiếm với người đàn ông nào đó chiếc thuyền buồm du lịch hai mươi lăm bộ, cột ở cầu tàu bên cạnh. Brody dọc thành gỗ của bến tàu rồi xuống cũng theo chiếc thang ngắn. - Chị ta gì? - Hendricks hỏi. - Chẳng nhận được lời nào của chồng cả. ấy cố bắt liên lạc với chồng suốt nửa tiếng đồng hồ, nhưng Gardner, theo như dự đoán của vợ, hình như tắt máy vô tuyến liên lạc rồi. - ta ở ngoài biển có mình? - Chị vợ bảo là có mình. Ông bạn cùng hội bị đau cái răng khôn, hôm nay phải nhổ. - mạn phép ông, tôi thấy thế lạ lắm, - người đàn ông chiếc thuyền buồm xen vào. - Cái gì lạ? - Ai đời lại tắt vô tuyến khi chỉ có mình ngoài biển. Chẳng có ai làm như thế cả. - Tôi cũng chả . Ben là tất cả các cuộc điện thoại vô tuyến giữa các thuyền với nhau chỉ thêm quấy rầy ta lúc đánh cá. Có thể ta phát ngán và tắt rồi. - Cũng có thể. - Ta thôi, Leonard. Cậu ít nhiều cũng biết lái cái của này chứ? Hendricks thả dây cáp đằng mui, dọc xuống đuôi tàu cởi dây thừng và ném lên boong. Sau đó lại bàn điều khiển và kéo cần về phía trước. Chiếc canô giật mạnh, thở hồng hộc. Hendricks đẩy cần tiếp nữa và động cơ bắt đầu chạy đều nhịp hơn. Đuôi tàu chúi xuống, mũi nhô lên. Khi họ vòng qua con đập chắn sóng, Hendricks ấn tay cầm hết cỡ về phía trước, và mũi tàu hạ xuống nước. - là thượng thặng, - ta . Brody bíu vào quai sắt của bàn điều khiển. - Có phao kiểu áo gilê ? - hỏi. - Chỉ có phao kiểu gối thôi, - Hendricks đáp. - Loại phao này chắc chịu được , nếu như là cậu bé tám tuổi. - Cám ơn. Gió lặng, mặt biển thoáng gợn lăn tăn. Nhưng những con sóng dẫu sao cũng vỗ vào mạn canô, và nó hết nghiêng phía bên này lại nghiêng sang bên kia, khiến Brody thấy cáu tiết. lên tiếng: - Cái canô của cậu tan thành từng mảnh bây giờ, nếu cậu chịu giảm bớt tốc độ. Hendricks mỉm cười vì khoan khoái về quyền lực tạm thời của mình đối với thủ trưởng. - Đừng lo, thủ trưởng ơi. Nếu tôi giảm tốc độ, ta lênh phênh mãi sóng ấy. Có mà đến tuần sau ta mới giáp mặt Gardner, dạ dày thủ trưởng nhào lên như thể có đàn sóc nhảy nhót ấy. Chiếc tàu của Gardner ở cách bờ khoảng ba bốn dặm. Khi tới gần hơn, Brody nhận ra nó khẽ lắc lư sóng. Thậm chí còn có thể đọc được hàng chữ đen sống đuôi: "Flicka". - Nó buông neo, - Hendricks ngạc nhiên. - Mặc dù ở đây phải cái độ sâu để thả neo. Dễ phải đến hơn trăm bộ. - Quỷ tha ma bắt cậu , - Brody lên tiếng. - Chính đấy là điều tôi muốn nghe thấy ở cậu hơn cả. Khi họ còn cách "Flicka" quãng năm chục yát, Hendricks giảm tốc độ, và chiếc canô từ từ tiến lại mạn tàu "Flicka". Brody leo lên đài dẫn. vẫn chưa nhìn thấy ai. côngxon cũng thấy các cần câu quăng. - Ben ơi! - gọi to. có tiếng đáp. - Có khi ở phía dưới, - Hendricks . Brody lại gọi: - Ben ơi! Mũi chiếc "AquaSport" cả thảy chỉ cách đuôi chiếc "Flicka" có vài bộ. Hendricks quay cần về vị trí số , sau đó bẻ ra sau, "AquaSport" dừng lại và khi con sóng tiếp theo dồn đến nó đụng vào dầm lan can của chiếc "Flicka". Brody nắm lấy lan can mép tàu. - Ben ơi! Hendricks đón lấy đuôi dây thừng, bước về phía trước và buộc nó vào cọc cáp phía mũi chiếc "AquaSport". Sau đó quăng dây thừng qua tay vịn của chiếc canô kia rồi buộc nút nó lại. Hendricks hỏi: - Thủ trưởng muốn leo lên? - Ừ. Brody trèo sang tàu "Flicka", Hendricks theo sau. Họ dừng lại trong buồng tàu. Hendricks chui đầu vào cửa nắp phía trước. - Cậu ở đây phải , Ben? - nhìn quanh, xoay đầu rụt khỏi cửa nắp và . - ta có ở đây. - Tóm lại ta có tàu. - Brody . - Còn cái gì ở đằng kia nhỉ? - Hendricks vừa vừa đưa tay chỉ cái chậu gỗ ở góc đuôi tàu. Brody bước lại phía cái chậu gỗ và cúi xuống. Mùi cá thối và mỡ cá hôi xộc vào mũi. Chậu chứa đầy lòng ruột và máu cá. : - Chắc là để làm mồi. Toàn lòng ruột cá với những thứ tạp nham. Những thứ này ném xuống nước để nhử cá mập đây. ta chưa sử dụng tí nào. Chậu gần như còn đầy. thanh bất ngờ làm Brody giật mình "Uýt-xki, ngựa vằn, hồi , hai, năm, chín, - giọng vang lên qua tiếng lẹt xẹt của rađiô. - "Người đẹp" đây. Alô, Jake phải ? - Giả thuyết của chúng ta đúng, - Brody , - ta tắt rađiô liên lạc. - Tôi chịu hiểu, thủ trưởng ạ. Cần câu quăng đâu cả rồi? ta có xuồng, vậy là ta thể xuống xuồng được rồi. ta bơi giỏi như cá, cho nên nếu có người ngã xuống biển phải trèo lên được ngay chứ. - Cậu có thấy cái lao nào ? - Nó hình thù ra sao ạ? - Tôi cũng . như cái lao ấy. Còn các thùng? Hình như các thùng dùng để làm phao tiêu phải. - Ở đây chẳng có mấy thứ ấy. Brody đứng bên lan can bao mạn phải, băn khoăn nhìn xuống mặt nước trước mắt . Con tàu khẽ lắc lư, thế là bíu tay phải vào thành tàu. Có cái gì khiến phải dè chừng, nhìn xuống dưới chân và trông thấy bốn vết lở lói của các vít gỗ, chỗ mà xưa nay vẫn có cái vấu hình mỏ vịt. Cái vít gỗ ràng được vặn ra bằng tuốcnơvít: gờ gỗ xung quanh các lỗ bị toét. - Nhìn xem này, Leonard. Hendricks sờ tay vào các lỗ vít. Rồi nhìn sang thành bên trái, nơi vấu mỏ vịt bằng thép mười insơ vẫn bám chắc gỗ. cất tiếng hỏi: - Thủ trưởng có nghĩ rằng thành bên phải này cũng có cái vấu to đùng như thế kia ? Trời đất, phải có sức lực như thế nào mới giật tung được nó ra chứ? - Trông chỗ này này, Leonard, - Brody rê ngón tay trỏ lên mép ngoài tay vịn. đó thấy vết xước chiều dài khoảng tám insơ, sơn bị tróc, trơ gỗ ra. - Cứ như là có ai khua giũa mặt gỗ này ấy. - Hoặc là kéo dây cáp thép căng nghiến qua đây. Brody vòng buồng tàu dọc sang thành bên trái và sờ thử mép ngoài lan can. - Chỉ ở đấy có vết xước thôi, - . đến mạn đuôi, chống tay lên lan can và đau đáu nhìn xuống nước. Trong giây lát, cái nhìn hồn của hướng vào sống đuôi con tàu. Cảnh trí dần dần lên nét: những vết lõm, những vết lõm sâu ở mảnh gỗ sống đuôi tạo thành nửa vòng tròn đều bề rộng hơn ba bộ. Bên cạnh còn hình nửa vòng tròn như thế. Ở tít phía dưới, sát mép nước có ba vết máu . Lạy Chúa lòng lành, - Brody thầm nghĩ, - chả lẽ lại nạn nhân nữa? gọi: - Lại đây, Leonard. Hendricks lại đuôi tàu và nhìn xuống. - Cái gì ở đấy? - Nếu tôi giữ chân cậu, cậu có thể trườn người cong xưống và xem xét các vết lõm ở phía dưới ấy được ? Cũng nên xác định xem làm thế nào mà những vết này lại sinh ra ở đó. - Thế thủ trưởng nghĩ thế nào về chuyện này? - giờ chưa nghĩ gì cả. Nhưng phải có nguyên nhân nào đó, mà tôi muốn biết là nguyên nhân nào. Nếu như chúng ta làm sáng tỏ được điều gì, chúng ta dứt bỏ hết khỏi đầu và về nhà. Xong ? - Xong, - Hendricks nằm lên dầm gỗ. - Thủ trưởng giữ cho chắc vào nhé… Brody cúi người, nắm lấy chỗ mắt cá chân của Hendricks. - Đừng lo, - và kẹp chắc đôi chân Hendricks vào hai bên nách rồi từ từ thẳng người lên. Hendricks cong người ra ngoài lan can. - Tới ? - Brody hỏi. - Hạ thấp xuống chút nữa. Tôi cầu có chút xíu thôi, mà thủ trưởng nhúng cả đầu tôi xuống nước rồi. - Xin lỗi. Giờ thế nào rồi? - Bình thường, vừa vặn lắm. - Hendricks bắt đầu nghiên cứu các vết lõm. - Mà nếu bây giờ cá mập xuất sao nhỉ? Nó giật tôi khỏi tay thủ trưởng đấy. - Đừng nghĩ đến chuyện ấy. Cứ xem các vết xước . - Tôi xem đây. - Vài phút trôi qua. - Cái con chết giẫm ấy, - Hendricks rủa. - Chỉ nghĩ đến cũng thấy kinh. Nào, thủ trưởng kéo tôi lên nhé. Tôi cần con dao. - Có cái gì thế? - Brody hỏi, khi Hendricks lại ở boong. Hendricks mở con dao díp của mình ra và : - Tôi . Có cái miếng gì trăng trắng mắc trong lỗ. Brody lại kẹp hai chân của Hendricks dưới nách và thả ta ra ngoài thành tàu. Sử dụng dao đối với Hendricks lúc này khó, toàn thân run run vì căng thẳng. Cuối cùng lên tiếng: - Ổn rồi. Lấy được rồi. Thủ trưởng kéo lên . Brody lùi người lại, kéo Hendricks qua sống đuôi con tàu, cho tới khi chân ta chạm xuống mặt boong. - Thủ trưởng xem này, - ta đặt vào lòng bàn tay Brody chiếc răng hình tam giác trắng bóc. Nó dài quá hai insơ. Các gờ cạnh sắc như lưỡi cưa. Brody quệt chiếc răng vào dầm gỗ, đó lưu lại vết khía. - Ôi, lạy Chúa, - lắc đầu rồi nhìn chăm chăm xuống nước. - Đây là cái răng có đúng nào? - Hendricks hỏi. - Lạy Đấng Toàn năng. Thủ trưởng có nghĩ là Ben làm mồi cho cá mập rồi ? - Còn giả định cách nào khác được nữa? - Brody lại nhìn chiếc răng và bỏ nó vào túi. - Ta thôi! Chẳng còn việc gì ở đây nữa. - Thế còn chiếc canô này của Ben? - Ta để đây cho đến mai. Ngày mai có người đưa nó vào bến. - Nếu thủ trưởng muốn, tôi có thể bắt nó vào bờ ngay bây giờ. - Thế cậu bắt tôi lái chiếc kia à? Đừng có nghĩ đến chuyện ấy. - ta có thể buộc vào và kéo nó theo. - . Sắp tối rồi, tối tăm như thế cần gì phải kéo ngay lúc hai chiếc tàu vào bờ. Qua đêm nay cũng chẳng có chuyện gì xảy ra với chiếc tàu đâu mà sợ. Chỉ cần kiểm tra xem neo bám có chắc thôi. Nào, rút lui. Từ giờ đến mai cũng chẳng ai cần đến chiếc tàu này... kể cả Ben Gardner. Họ vào đến bến lúc trời bắt đầu tối. Harry Meadows với người đàn ông nữa mà Brody quen, đứng đợi họ. - Quả thực ông có linh cảm khá lắm. Harry ạ, - Brody vừa vừa leo cầu thang lên bến. Meadows mỉm cười khoan khoái vì được tâng bốc. - Cái nghề của tôi nó thế đấy, Martin ạ. - Ông ta khoát tay về phía người đàn ông đứng bên cạnh. - Matt Hooper, còn đây là cảnh sát trưởng Brody. Hooper và Brody bắt tay nhau. - chính là chàng trai ở Woods Hole đấy à? - Brody hỏi, và ra sức ngắm ta kỹ trong ráng hoàng hôn mỗi lúc đậm đặc. ta còn trẻ, quãng hăm lăm, Brody nghĩ, và đẹp trai: khuôn mặt rám nắng, tóc màu sáng, da cháy nắng mặt trời. ta vóc người cũng xấp xỉ như Brody, sáu bộ insơ, nhưng cân đối hơn nhiều. Brody đoán ta nặng trăm bảy chục pao, trong khi mình phải đến hai trăm pao. Bất giác Brody có cảm giác rằng Hooper có cái gì đó nguy hiểm đối với mình. Nhưng lại nhủ thầm được ngay, tuy vẫn hiểu rằng có lẽ đấy chẳng qua là cái cách tự trấn an cho lòng tự ái của mình; nếu có khi nào quan hệ giữa họ đến chỗ va chạm, thắng Hooper. Lúc đó chênh lệch về kinh nghiệm sống được việc. - Đúng quá rồi, - Hooper đáp. - Harry sử dụng những tri thức của nhờ hệ thống điện thoại liên tỉnh, - Brody . - Còn bây giờ chính lại có mặt ở đây? - Tôi gọi ấy đến đấy, - Meadows trả lời. - Có thể ấy biết tìm hiểu đến ngọn ngành những gì diễn ra ở nơi đây. - Harry này, thế mà ông hỏi tôi chuyện đó, - Brody phán. - tôi kể đầu đuôi cho ông nghe. Ông biết , con cá nó bơi ở đằng kia kìa… - Ông biết ý tôi định rồi đấy. Brody cảm thấy trong người cuộn lên nỗi bực dọc. Việc Hooper đến đây, năng lực chuyên môn của ta chỉ mang lại những phức tạp mới, chỉ kéo theo phân chia quyền lực. Nhưng mau chóng đấu tranh với bản thân và kiềm chế bực dọc lại. : - Dĩ nhiên, Harry ạ. Mọi chuyện đều bình thường. Chẳng qua hôm nay tôi mệt lử cò bợ rồi đấy thôi. - Thế cái canô kia có chuyện gì? - Meadows hỏi. Brody toan thò tay vào túi lấy cái răng ra, nhưng lại thay đổi ý định. muốn cứ đứng trong tối bến tàu này mà kể lại tình. - Ta về đồn , - , - ở đó tôi kể đầu đuôi. - Ben ở lại canô cả đêm à? - Có vẻ là như vậy, Harry ạ. - Brody quay về phía Hendricks, lúc này buộc chiếc canô. - Cậu về nhà chứ, Leonard? - Vâng, tôi muốn sửa soạn cho mình tươm tất , trước khi bước vào ca trực. Brody lên xe về đồn trước Meadows và Hooper. gần tám giờ tối. còn phải gọi điện về cho Ellen xem ở nhà có để phần gì hay là phải tạt vào cửa hàng đường về nhà. Rồi lại còn phải gọi điện cho Sally Gardner - sợ việc đó lắm. Đầu tiên gọi cho Ellen. Té ra ở nhà còn thịt bò hầm, có thể hầm lên, chắc cũng ngon lành gì lắm, nhưng cũng còn gọi là có món nóng. Sau đó tìm thấy số điện của Gardner trong danh bạ điện thoại. - Sally phải ? Martin Brody đây, - thế rồi lại hối là quay số ngay lập tức mà chưa suy tính xem mình gì. có phải kể tất cả cho ấy biết hay ? Có lẽ là , kể hết tất cả. Trước hết nên hỏi ý kiến Hooper . Để xem chàng này có thái độ ra sao đối với giả định của . - Ben đâu, Martin? - giọng Sally đều đều, chỉ có hưởng hơi cao hơn bình thường. - Tôi , Sally ạ. - là thế nào? ra đấy cơ mà? - Phải. ấy có tàu. - Nhưng con tàu vẫn ở tại chỗ chứ? - Vẫn tại chỗ. - lên tàu? xem mọi chỗ? Cả trong hầm tàu? - Phải. - Bỗng có hy vọng le lói lóe lên. - Ben có xuồng nhỉ? - ạ, có. Nhưng tại sao lại có ấy ở đó? - Giọng Sally bắt đầu trở nên dữ dội. - Tôi… - ấy ở đâu? Brody nắm bắt được những gam giọng kinh hoàng. hối tiếc là đích thân đến nhà Gardner, mà chỉ gọi điện thế này. - có mình thôi phải , Sally? - . Em còn con cái. Dường như chị có bình tâm lại chút ít, nhưng Brody hiểu rằng bình tĩnh ấy chỉ là phút bình lặng trước cơn bùng nổ của nỗi tuyệt vọng sắp xảy đến, hễ chị nhận thức được rằng tất cả những nỗi lo sợ lúc nào nguôi cả đêm lẫn ngày suốt mười sáu năm qua, mỗi khi Ben ra khơi đánh cá, tất cả những nỗi lo sợ giấu sâu kín trong đáy lòng và chưa bao giờ được thổ lộ thành lời, bởi vì với người ngoài chúng có vẻ ngô nghê tức cười và vô lý, nay bỗng là . Brody cố nhớ ra lũ trẻ nhà Gardner. Đứa lớn hình như quãng mười hai tuổi, đứa thứ hai lên chín và đứa khoảng lên sáu. Cậu bé lớn nhất như thế nào nhỉ? Brody tài nào hình dung ra. Và hàng xóm láng giềng xung quanh có ai nhỉ? Khỉ ! Tại sao nghĩ tới chuyện này từ trước? À phải rồi, có Finley. - Đợi chút nhé, Sally! - và qua máy đàm thoại truyền lệnh ra phòng ngoài cho người cảnh sát trực: - Clements, liên lạc với Grace Finley và với ta hãy đến nhà Sally Gardner, chậm trễ. - Nếu ấy hỏi để làm gì? - Cứ là tôi cầu. Cứ là tôi giải thích sau, - lại cầm lấy điện thoại: - Xin lỗi Sally. Chắc tôi chỉ có thể với rằng chúng tôi tới đó, leo lên tàu, nhưng tìm thấy Ben. Chúng tôi xem xét tất cả rồi. Meadows và Hooper bước vào phòng làm việc của Brody. ra hiệu mời họ ngồi. - ấy có thể ở đâu được ạ? - Sally Gardner . - thể nào ấy lại biến khỏi tàu ở giữa biển như vậy được. - Đúng, thể. - ấy cũng thể ngã xuống biển được. Tức là có thể, nhưng lại lên ngay được. - Tất nhiên. - Hay là ấy lên chiếc canô nào khác và khỏi đấy? Có lẽ động cơ hỏng, nên ấy buộc phải lên canô khác? kiểm tra động cơ chưa? - Chưa, - Brody lúng túng trả lời. - Có lẽ là tại thế. - Giọng Sally vang lên mềm mại dịu dàng như giọng thiếu nữ, trong đó thấp thoáng hy vọng yếu ớt. - Tại cái ắc qui nên dễ hiểu là tại sao ấy liên lạc. - Máy liên lạc vẫn làm việc, Sally ạ. - Đợt chút nhé. Ai đấy? À, ra là cậu. - thoáng im lặng. Sally chuyện với Grace Finley. Rồi giọng Sally lại truyền tới tai Brody, - Grace là bảo ấy tới đây. Để làm gì thế? - Tôi nghĩ… - cho rằng Ben chết rồi? nghĩ rằng ấy bị chết đuối? - Niềm hy vọng tắt, và Sally òa lên khóc. - Tôi lo như thế đấy, Sally ạ. Vào giờ phút này chúng tôi còn giả định cách nào khác. cho tôi vài lời với Grace nhé. - Có đây, Martin? - nghe thấy trong máy giọng của Grace Finley. - Xin lỗi là tôi phiền đến , nhưng vì thể nghĩ ra được cách nào khác cả. có thể ở đấy với Sally lát được ? - Em ở lại đây cả đêm. - Thế rất tốt. Tôi cố gắng đến, lát nữa. Cám ơn nhé. - Chuyện gì xảy ra thế Martin? - Chúng tôi cũng chẳng hiểu ngọn ngành ra làm sao cả. - Lại... cái con vật chết tiệt ấy? - Có thể lắm. Chuyện ấy chúng tôi cố điều tra. Grace này, hãy làm ơn đừng gì với Sally về cá mập cả. Mới thế cũng khốn khổ lắm rồi. - Được thôi, Martin ạ. đợi chút nhé. Đợi phút thôi, - Grace lấy tay che ống điện thoại, Brody nghe thấy câu chuyện rì rầm. Sau đó trong máy vang lên giọng của Sally Gardner. - Sao lại làm thế, Martin? - Làm gì cơ? Hình như Grace Finley ra sức tước ống điện thoại khỏi Sally, bởi vì thấy Sally sẵng giọng: - Để cho tớ nào, đồ khỉ gió! - Rồi sau đó Sally hỏi Brody: - Tại sao lại cử ấy ? Tại sao lại cho Ben ? - Giọng chị to lắm, nhưng những lời làm đinh tai Brody. - Sally, ... - Chuyện ấy có thể xảy ra, - chị . - có thể ngăn ngừa được cả. Brody muốn quẳng ống xuống. Lặp lại cái cảnh diễn ra với mẹ cậu bé Kintner chẳng muốn tí nào. Nhưng phải biện hộ cho mình. ấy phải biết rằng có lỗi. Làm sao ấy lại có thể kết tội ? - Thôi , - . - Ben là người đánh cá giỏi. ấy biết mình dấn thân đâu chứ! - Nếu như ... - Thôi đủ rồi, Sally! - Brody cắt ngang. - Hãy bình tĩnh lại. - gác điện thoại lên. Brody vừa giận dữ lại vừa hoang mang. cáu tiết với Sally Gardner vì ta kết tội , vừa cáu với bản thân vì tỏ ra giận dữ với Sally. "Nếu như ..." - ta bắt đầu. Nếu như cử Ben . ta muốn như vậy. Nếu như, nếu như... Nếu như chính ra khơi tìm cá mập. Nhưng phải là dân chài lưới. Cho nên mới cử Ben . - Ông có nghe thấy ? - quay sang Meadows hỏi. - nghe được hết. Nhưng cũng đủ hiểu: Ben Gardner là nạn nhân thứ tư. - Tôi nghĩ là như vậy, - Brody gật đầu. Và kể cho Meadows và Hooper nghe chuyện với Hendricks ra tàu của Ben như thế nào. Hai lần Meadows ngắt lời để hỏi thêm. Hooper chỉ im lặng nghe, khuôn mặt hao gầy vẫn bình thản, còn đôi mắt màu xanh nhạt hướng thẳng vào Brody. Brody thọc tay vào túi quần. - Đây là cái chúng tôi tìm được, - . - Leonard lôi nó ra từ thành gỗ của tàu. - chìa chiếc răng cho Hooper, và Hooper xoay xoay nó trong lòng bàn tay. - có ý kiến gì nào, Matt? - Meadows hỏi. - Đó là loài trắng. - Loại lớn? - Vâng. Tôi nghĩ rằng phải đến mười lăm, hai mươi bộ. con cá khổng lồ. - ta nhìn sang Meadows. - Cám ơn gọi tôi đến. Có lẽ tôi cả đời nghiên cứu cá mập, mà chưa trông thấy con như thế bao giờ. - Con cá mập này có thể cân nặng bao nhiêu? - Brody hỏi. - Năm sáu nghìn pao. - Ba tấn? - Brody đến mức phải rít lên. - Thế nghĩ sao về trường hợp cuối cùng này? - Meadows hỏi. - Cứ xét theo những điều thủ trưởng cảnh sát đây kể cá mập thịt cả ông Gardner rồi. - Nhưng thịt thế nào mới được chứ? - Brody hỏi. - Các giả thuyết có thể khác nhau. Có thể là Gardner ngã ra ngoài thành tàu, hoặc giả con cá lôi ta xuống nước, cái đó có nhiều khả năng hơn. Chân ta có thể bị mắc trong dây thừng buộc lao. Hoặc là con cá tóm lấy ta khi ta cong người qua thành tàu. - Nhưng làm sao lại có cái răng ở gờ gỗ được? - Cá mập tấn công tàu. - Vì cái quái gì! - Cá mập phải loài thông minh cho lắm, sếp ạ. Nó được điều khiển bởi bản năng. Bản năng đói của nó rất mạnh. - Nhưng con tàu dài ba chục bộ... - Cá mập nghĩ cái gì trước mặt nó. Nó trông thấy cái vật gì đó to... - Nhưng ăn được. - Điều ấy nó biết khi chưa nếm thử. Xin hiểu rằng ở ngoài đại dương nó sợ ai cả. Những con cá khác cố lẩn trốn khỏi những con to hơn. Nó biết sợ. Nó có thể thận trọng, chẳng hạn, khi có bên cạnh con cá trắng khác, nhưng kích thước lớn hơn. Nhưng nó biết sợ là gì. - Loài này thường tấn công ai? - Tất cả mọi người và mọi vật. - Thế là thế nào: tất cả mọi người mọi vật? - Chính thế đấy. - có thể giải thích vì sao nó lại lang thang ở vùng bờ biển của chúng ta đây lâu thế được ? - Brody hỏi. - Tôi có quen với nước ở đây, với dòng chảy... - Tôi lớn lên ở đây. - Ở đây? Ở Amity? - , ở Southampton. Mùa hè nào tôi chả ở đây cả khi còn là học sinh phổ thông, cả tận khi làm nghiên cứu sinh. - Mùa hè nào cũng vậy? Nghĩa là gốc gác phải nơi đây... - Brody rất muốn chuyện bằng vai phải lứa với Hooper hoặc thậm chí với vẻ kẻ cả nào đó đối với chàng thanh niên này, nhưng lại hóa ra đặc sệt giọng hợm mình mà vô tình dân chúng các thị trấn nghỉ mát vẫn hay dùng. Kiểu ấy tạo cho họ khả năng đối chọi lại thói ngạo mạn - điều này họ cảm thấy được - xuất phát từ cánh nghỉ giàu sang. Trong tư thế: "Chúng tôi là thường dân" có rất nhiều tính chất lấn át xã hội, tính chất vẫn thường gắn giàu có với tính nhu nhược ẻo lả, giản dị với phẩm chất đứng đắn và nghèo khổ (đến chừng mực nào đó) với tính chính trực. Tư thế này bị Brody coi là ngu ngốc và đáng ghét. Nhưng lờ mờ cảm thấy nguy hiểm xuất phát từ con người trẻ trung này, tuy thể hiểu là tại sao và cũng chẳng qua theo bản năng chỉ nhập vào cung cách quen thuộc này để đối chọi lại với Hooper. - Đừng có bới móc nhau làm gì, - Hooper bực dọc ngắt lời . - Đúng là tôi sinh ra ở đây. Nhưng tôi ở vùng nước này khá nhiều và dựa những tư liệu ấy mà viết luận án. Tôi hiểu định hướng vào cái gì. đúng đấy: nước ở đây phải là môi trường tốt nhất đối với cá mập để có thể ở lâu. - Thế tại sao nó khỏi đây? - thể giải đáp được câu hỏi đó. Hoàn toàn ràng là tính cách của nó khác thường, mà cá mập vẫn có biết bao nhiêu những hành động lạ lùng, đến mức ngoại lệ lại trở thành quy tắc. Bất kỳ ai bạo phổi tranh luận, cố đoán trước cảnh xử của cá mập trong tình cảnh cụ thể nào đó, chắc thua thôi. loại trừ khả năng là con cá mập này bị bệnh. Cá mập có khả năng điều khiển những hành vi của chúng. Thêm vào đấy nếu lại có cái gì đó phân giải trong cơ thể phức tạp của nó, nó mất khả năng định hướng, tính cách nó chung lại càng thể đoán trước được. - Nếu con cá ốm trở tính trở nết như thế, - Brody , - lúc khỏe nó mà vớ được ai còn chết. - Tất nhiên. Nhưng bản thân tôi nghĩ là nó bị bệnh. Có những nguyên nhân khác khiến nó ở lại đây. Chúng ta chỉ có thể dự đoán những nguyên nhân ấy mà thôi. Chỗ này có cả những yếu tố tự nhiên lẫn tính nết thất thường của nó. - Có thể có những nguyên nhân nào vậy? - tăng hoặc giảm nhiệt độ nước, thay đổi hướng chảy ngầm hoặc thay đổi ăn uống. Những loài mà cá mập vẫn ăn di chuyển, thế là cá mập cũng di chuyển theo. Ví dụ như hai năm trước ở bờ biển bang Connecticut và Rhode Island diễn ra chuyện mà cho đến bây giờ người ta vẫn chưa tìm ra cách giải thích. Ở vùng nước ven biển bỗng xuất cơ man nào là cá menhêđen. Toàn những đàn cá lớn. Hàng triệu con cá. Mặt nước giống như bị phủ màng váng dầu. Cá nhiều đến mức người ta đánh cá phải để kiếm tiền nữa. Liền sau menhêđen, ở ngay gần các bãi tắm xuất những đàn rắn đẻn đông đảo, thức ăn của chúng là cá menhêđen. Ở Watch Hill (bang Rhode Island) người ta ào xuống sóng nước vỗ vào bờ và lấy cào để bắt rắn đẻn. Cào làm vườn ấy! Chỉ việc hốt chúng lên khỏi nước. Sau đó xuất loài cá to hơn: cá ngừ lớn. Các tàu đánh cá thông thường vẫn ở ngoài khơi sâu, kéo lên được những con cá ngừ lớn nhất, cân nặng bốn, năm, sáu trăm pao ở quãng cách bờ trăm yát. Đôi khi ngay cả ở bến tàu. Thế rồi mọi chấm dứt. Cá menhêđen kéo , làm những loài kia cũng bỏ . Tôi ở đấy ba tuần lễ, cố tìm hiểu chuyện gì xảy ra; nhưng chẳng hiểu gì cả. Mọi thứ phụ thuộc vào cân bằng sinh thái. Khi nào mất cân bằng xảy ra lắm lạ lùng. - Còn trong trường hợp này chẳng qua là giải thích nổi, - Brody nhận xét. - Con cá mập này kén chọn cho mình khu vực diện tích hai dặm vuông và rong ruổi trong khu vực này hơn tuần rồi. Nó bỏ bãi tắm để bơi đâu cả. Nó chẳng động đến ai ở East Hampton hoặc Southampton. Nó cần gì ở Amity? - Tôi . Tôi cũng tin là có người nào giải đáp được thỏa đáng cho ông. - Minnie Eldridge có lời giải đáp đấy, - Meadows . - Cũng tìm được người để hỏi ý kiến đấy nhỉ, - Brody phản ứng lại. - Bà ta là ai? - Hooper hỏi. - Trưởng trạm bưu điện, - Brody đáp. - Bà ta bảo rằng đấy là ý trời, đấy là trời trừng phạt vì những tội lỗi của chúng ta. - Biết làm thế nào được, - Hooper mỉm cười, - giả thuyết của bà ta cũng có thể xem như ngang hàng với các giả thuyết khác. - Điều này cũng có tính chất an ủi đối với chúng tôi, - Brody lên tiếng. - Nhưng dù sao định cho tiến hành việc gì để tìm ra lời giải đáp chưa? - Có. Tôi lấy mẫu nước ở đây và ở East Hampton. Tôi cố gắng tìm hiểu xem các con cá khác xử ra sao, xem trong vùng nước này có những điều kiện đặc thù, đặc biệt nào . Ngoài ra tôi còn thử tìm con cá mập này. À, mà trong tay chúng ta có chiếc tàu nào nhỉ? - Có, mặc dù rất đáng buồn khi thừa nhận điều này, - Brody trả lời. - Có canô của Ben Gardner. Ngày mai chúng tôi chở ra đó, có thể sử dụng chiếc tàu, ít ra là cho đến khi chúng ta dàn xếp ổn thỏa mọi thủ tục với vợ Ben. có thực cho rằng bắt được cá mập ngay cả sau tai nạn của Ben Gardner ? - Tôi là tôi định bắt cá. Ngay đến chuyện thử làm tôi cũng định - ít nhất là trong trường hợp chỉ có mình. - Vậy tóm lại định làm cái đếch gì ở đây? - Tôi cũng . Tôi hành động tùy theo hoàn cảnh. Brody nhìn thẳng vào mắt Hooper rồi : - Tôi muốn phải giết được con cá này. Nếu thể giúp được chúng tôi, chúng tôi tìm người khác. Hooper phá lên cười: - năng cứ như găngxtơ ấy. "Tôi muốn phải giết được con cá này". Nào, cứ ký hợp đồng . tính thuê ai vào cái chân ấy? - Tôi chưa biết. Ông xem thế nào, Harry? Ông cũng phải nắm được mọi việc. Chả lẽ hòn đảo chết tiệt này có lấy ngư dân nào có phương tiện, đồ nghề để đánh cá mập lớn hay sao? - Hình như có người, - Meadows nghĩ ngợi chừng phút rồi trả lời. - Tôi có biết chút ít về người ấy, hình như bác ta tên là Quint, bác ta vẫn hay cập vào bến tàu tư ở đâu đó quanh đây. Nếu ông muốn tôi có thể tìm hiểu thêm về bác ta. - Cứ làm , Harry, - Brody . - Có vẻ bác ta thích hợp đấy. - Gượm , sếp ơi, - Hooper xen vào. - muốn trả thù con cá bằng bất cứ giá nào. Nhưng thực ra cá mập phải là chính cái ác. Nó phải là kẻ giết người. Nó là nô lệ cho những bản năng của chính nó. - Nghe này, ... - Nỗi giận dữ do lép vế và tuyệt vọng gây ra dâng lên trong lòng Brody. hiểu rằng Hooper đúng, nhưng còn hiểu rằng trong hoàn cảnh này, dù Hooper đúng hay đúng chẳng quan trọng lắm. Cá mập trở thành kẻ thù. Nó xuất ở vùng bờ biển của họ và giết hại hai người đàn ông, phụ nữ và em . Dân chúng Amity nhất quyết đòi hỏi con cá phải chết. Họ cần được trông thấy xác nó, để cảm thấy mình an toàn, để có thể trở lại cuộc sống bình thường. Hơn ai hết Brody quan tâm thiết thân đến việc này, cái chết của con cá mập đối với là giải tỏa, thanh lọc. Hooper làm chạm nọc, khiến Brody bật khỏi trạng thái ổn định. Tuy nhiên vẫn nén giận xuống. : - Xin lỗi. Chuông điện thoại reo. - Thủ trưởng có điện thoại. - Clements . - Ông Vaughan gọi. - khỉ, lại còn thêm lão ấy nữa. - Brrôđi cáu kỉnh ấn cái nút có đèn sáng máy đàm thoại rồi nhấc ống nghe. - Vâng, Larry ạ. - Chào cậu, Martin. Dạo này sinh sống thế nào? - Giọng Vaughan tỏ ra thân thiện. "Có lẽ, còn cực kỳ thân thiện nữa là khác, - Brody nghĩ bụng. - Xem ra ông ta tợp vài ly rượu rồi". - Tốt hết chỗ , Larry ạ. - Muộn thế này mà cậu còn ở chỗ làm việc cơ à? Tôi mới gọi điện về nhà cậu. - khi làm cảnh sát trưởng mà cứ hai chục phút lại có hai trong số cử tri của mình mất mạng, cũng bấn việc. - Tôi có nghe chuyện Gardner. - Cụ thể là gì? - Là ta bị mất tích. - Tin tức ở ta lan truyền chóng . - Cậu nghĩ là lại do cá mập à? - Lại còn nghĩ gì nữa! Tôi chắc hẳn là như thế. - Martin này, cậu định làm gì nào? - Vaughan đồng thời vừa hỏi vừa đòi được biết. - câu hỏi hay, Larry ạ. Chúng tôi làm tất cả những gì trong tầm sức lực của mình. đóng cửa các bãi tắm, chúng tôi... - Tôi biết chuyện đó như mọi chuyện khác. - Ý ông muốn cái gì thế? - bao giờ cậu phải rao bán cho những người khỏe mạnh bất động sản ở biệt khu của người hủi chưa? - Chưa cất công bao giờ, - Brody mệt mỏi đáp. - Tôi phải hủy bỏ hợp đồng hàng ngày. Người ta cứ từ chối thuê nữa. Tính từ hôm chủ nhật chưa có khách hàng nào đến chỗ tôi cả. - Thế ông muốn gì ở tôi? - Cậu biết đấy, tôi nghĩ... Có lẽ chúng ta quá phóng đại mọi chuyện. - Ông cứ đùa dai. Hãy xem ông định ú tim trò gì với tôi nào. - Ấy , Martin. Xin cậu bình tĩnh. Chúng ta hãy bàn bạc cách tỉnh táo. - Tôi tỉnh táo phán xét. Còn ông hình như là . Im lặng kéo dài chừng phút, sau đó Vaughan tiếp tục: - Chỉ mở cửa các bãi tắm vào các ngày lễ có được nhỉ? - Việc ấy bị loại trừ. Tuyệt đối loại trừ. - Hãy lắng nghe tôi nhé... - , ông hãy lắng nghe tôi ông Larry ạ. Tôi lắng nghe ông rồi, sau đó chết thêm hai người nữa. Khi nào ta bắt được con cá kia, khi nào giết được nó ta mở cửa các bãi tắm. giờ hãy tạm quên chuyện đó . - Hay là ta quây lưới? - Còn lưới gì nữa? - Tại sao ta chăng lưới thép dưới nước, ngăn bãi tắm lại? Có ai đó bảo với tôi rằng ở Australia người ta làm như vậy mà. "Chắc là ông ta say", - Brody nghĩ thầm. - Larry này, đường bờ biển của ta thẳng. Ông muốn căng lưới suốt hai dặm rưỡi dọc các bãi tắm ư? Hay lắm. Nhưng ông có tiền . Cứ cho là thoạt đầu cần triệu đôla . - Hay là cắt người canh chừng? Chúng ta có thể thuê người canô tuần tiễu dọc các bãi tắm. - Như thế ràng là vẫn chưa đủ, Larry ạ. Ông làm sao thế? Các bạn hàng của ông lại dồn sức thúc ông à? - Bạn hàng của tôi phải là việc cậu lo. Hãy vì Chúa, ông bạn ơi, thị trấn có nguy cơ rơi vào thảm họa. - Tôi biết chứ, - Brody mềm mỏng trả lời. - Và theo như chỗ tôi hiểu, chúng ta thể làm gì được hết. Chúc ngủ ngon! - Và ngắt máy. Meadows và Hooper đứng dậy. Brody tiễn họ ra, và khi họ mở cửa rồi Brody bỗng quay về phía Meadows. - Harry này, bỏ quên bật lửa ở chỗ tôi. - Meadows định cái gì đó, nhưng Brody lên tiếng trước: - Quay lại mà lấy bật lửa , lại mất thêm cái nữa bây giờ. - Rồi gật đầu với Hooper. - Hẹn gặp lại. Khi họ lại vào phòng làm việc của Brody rồi, Meadows với vẻ thắc mắc lôi chiếc bật lửa của mình ở trong túi ra. - ra muốn thông báo điều gì đó với tôi? Brody khẽ khép cửa lại. - có thể tìm hiểu được đám cùng cánh làm ăn của Larry ? - Tôi nghĩ là có thể được. Mà cần để làm gì? - Kể từ khi có cái tai họa kia giáng xuống, Larry chịu cho tôi thực biện pháp nào, ông ta quyết cho tôi đóng cửa các bãi tắm. Ngay cả bây giờ, sau khi có ngần ấy người chết rồi, ông ta vẫn muốn tôi mở cửa các bãi tắm vào Ngày Độc lập. Mới rồi ông ta còn buột mồm ra: ông ta bị sức ép của đám cùng làm ăn với ông ta. Tôi với rồi. - Rồi sao nữa? - Tôi nghĩ cánh ta cũng nên biết xem kẻ nào có ảnh hưởng như vậy đối với Larry. Nếu ông ta làm thị trưởng tôi cũng chẳng cần quái gì. Vậy nếu có ai đó chỉ đạo ông ta phải xem những kẻ ấy thuộc hạng người gì. - Được rồi, Martin ạ, - Meadows thở hơi dài. - Tôi làm tất cả những gì thuộc sức mình. Tuy rằng sục vào công chuyện của Larry Vaughan cũng chẳng khoái gì cho lắm. - Đúng rồi, nhưng có phải chỉ mình bây giờ là ở vào thế bí đâu. Brody tiễn Meadows đến cửa rồi lại quay vào ngồi xuống bên bàn. Vaughan đúng ở điểm, nghĩ: những dấu hiệu của việc Amity ở bên mép thảm họa, biểu lộ ra ở mọi . Nó chỉ liên quan đến việc bán bất động sản, về mặt này thể tồi tệ lắm rồi. Evelyn Bixby, vợ của cảnh sát viên dưới quyền Brody mất việc ở công ty bán bất động sản và bây giờ làm phục vụ viên ở cái quán nào đó đường 27. Hai cửa hàng mới chuyên về y phục phụ nữ hợp thời trang hoãn việc mở cửa đến mùng ba tháng bảy, cả hai chủ hiệu đều thấy cần gọi điện cho Brody báo rằng nếu mùng ba tháng bảy mà các bãi tắm vẫn mở cửa họ cũng mở các cửa hàng của mình. chủ hiệu còn tính đến chuyện hay là chuyển sang bên East Hampton. Cửa hàng bán đồ thể thao loan báo việc bán tống bán tháo, mặc dù thông thường cửa hàng chỉ làm việc ấy sau ngày lễ Lao động. Đối với Brody trong tình thế này ở Amity, điều vui mừng duy nhất là việc bar "Saxon’s" đắt khách lắm, nên người ta sa thải Henry Kimble. Và bởi lẽ ta còn làm cái chân phục vụ bar nữa, nên bây giờ trong phiên trực ta thức là chủ yếu. Ngay từ tinh mơ sáng thứ hai - ngày đầu tiên đóng cửa các bãi tắm, Brody cử hai cảnh sát viên đến đấy. Giữa họ với những người lăm le muốn tắm bằng bất cứ giá nào xảy ra ít va chạm. người đàn ông tên là Robert Dexter còn lớn tiếng tuyên bố về quyền được tắm ở khu vực của riêng mình được Hiến pháp công nhận và toan suỵt chó xông vào cảnh sát viên, khiến này phải rút súng ngắn, vì thực thi công vụ và đe bắn chết con chó. cuộc xô xát khác diễn ra ở bãi tắm của thị trấn, khi luật gia từ New York tới lên tiếng đọc Hiến pháp Hoa Kỳ cho cảnh sát và đám thanh niên ồn ào nghe. Thế nhưng chuyện tắm dù sao cũng ai xuống tắm cả. Brody biết đích xác như thế. Sáng hôm thứ tư có hai cậu bé thuê thuyền và ra cách bờ độ ba trăm yát, ở ngoài đó gần giờ đồng hồ để quẳng lòng ruột gà và đầu vịt xuống nước. con tàu đánh cá ngang qua, người ta trông thấy và báo qua máy vô tuyến cho Brody. Brody gọi điện cho Hooper, cả hai cùng chiếc "Flicka" ra và kéo hai cậu bé vào bờ. Họ tìm thấy thuyền của hai cậu bé cái lao buộc liền với dây chão vải bình thường dài khoảng hai trăm yát, đầu kia quàng chặt vào mũi xuồng bằng kiểu nút buộc của những người biển. Hai cậu là họ muốn móc câu liêm vào cá và "lao vút thuyền, như xe trượt tuyết, đến tận Nantucket". Brody cảnh cáo hai cậu bé rằng nếu chúng còn bày ra những trò đại loại như thế bắt chúng về tội mưu toan tự sát. bốn lần người ta gọi điện đến đồn cảnh sát báo là trông thấy cá mập. Trong trường hợp hóa ra là khúc gỗ trôi. Trong khi trường hợp khác, theo lời khẳng định của người dân chài được phái kiểm tra thông báo nhận được, đó là những đám cá con nô giỡn trong nước. Còn trong trường hợp thứ tư chẳng phát thấy gì cả. Chiều hôm thứ ba, khi trời vừa mới sâm sẩm tối lại có điện cho Brody. Người gọi muốn giấu tên, rằng người đàn ông ở bãi tắm thành phố lại ném mồi xuống nước cho cá mập. Té ra, đó phải là đàn ông, mà là người đàn bà, mặc áo choàng đàn ông, - Jessie Parker, làm nghề bán hàng ở cửa hàng văn phòng phẩm. Thoạt đầu chị ta cứ chối, nhưng rồi sau thú nhận là ném túi giấy xuống nước. Trong đó có ba chai rượu Vecmut rỗng. - Sao chị ném nó vào thùng rác? - Brody hỏi. - Tôi muốn công nhân đổ rác lại tưởng là tôi say rượu. - Thế sao chị quẳng vào thùng rác của người khác? - Thế lại tốt, - chị ta đáp. - Thùng rác... Đó cũng là của riêng đấy chứ, có phải ông? Brody khuyên chị ta từ nay về sau hãy xếp những chai rỗng vào cái túi giấy bóng, sau đó cho vào cái túi giấy to và dùng búa đập cho kỹ. Lúc ấy ai biết đây là những chai gì nữa. Brody nhìn đồng hồ. qua tám giờ. Đến nhà Sally Gardner cũng muộn rồi. Có lẽ ấy ngủ. Grace Finley cho ấy viên thuốc nào đó hoặc là rượu uýt-xki, và Sally thiếp . Brody gọi điện đến trạm canh gác bờ biển ở Montauk và báo cho người trực ở đó về việc Ben Gardner. - Người ấy trả lời là hễ khi nào rạng cho canô tìm xác. - Cám ơn, - Brody đáp lại. - Tôi hy vọng là phát được nó trước khi nó bị ném lên bờ. - Brody bỗng giật mình thảng thốt vì chính những lời của mình. "Nó" đấy là Ben Gardner, bạn . Sally sao, nếu ta nghe thấy gọi chồng là "nó"? Cứ như thể hề có mười lăm năm kết bạn, Ben Gardner còn nữa. Chỉ còn "nó", và phải tìm nó trước khi cái mớ lầy nhầy đẫm máu ấy dạt lên bờ. - Chúng tôi cố, - người trực nhật trả lời. - là hết hơi! Tớ cũng thông cảm với các cậu. Mùa hè ở chỗ các cậu như thế kia mà, tị sao được. - Chỉ còn biết hy vọng rằng đấy phải là mùa hè cuối cùng của chúng tôi. - Brody rồi đặt điện thoại lên giá. Sau đó tắt đèn trong phòng làm việc đóng cửa lại rồi ra xe. Sau khi quặt về nhà, Brody trông thấy ánh sáng màu vàng đục hơi pha xanh lơ quen thuộc ở các cửa sổ phòng khách. Lũ trẻ xem vô tuyến. bước qua cửa trước, gí công tắc đèn ngoài bậc tam cấp và nhìn vào phòng khách tranh tối tranh sáng. Cậu con trai cả Billy nằm dài đivăng, chống khuỷu tay. Martin, đứa giữa mười hai tuổi, ngả ngớn chiếc ghế bành mềm, đôi chân trần gác lên chiếc bàn để tạp chí. Thằng Sean lên tám ngồi dưới đất tựa người vào đivăng và vuốt ve con mèo. - Ở nhà thế nào? - Brody hỏi. - Bình thường, bố ạ, - Billy đáp, mắt vẫn rời cái máy thu hình. - Mẹ đâu? - Ở gác ấy ạ. Mẹ dặn bảo bố là bữa ăn sắp ra cho bố ở dưới bếp ấy. - Tốt lắm. Muộn rồi đấy, Sean. Sắp tám rưỡi rồi. - Con ngủ đây, bố ạ, - Sean . Brody xuống bếp, mở tủ lạnh lấy ra lon bia. bàn ăn trong chiếc chảo còn chỗ thịt bò ninh để phần. Thịt màu xám xám nâu nâu bạc nhạc, nước xốt nguội tanh. "Bữa ăn tối đây đấy", - Brody nghĩ thầm. quyết định làm mấy miếng bánh mì kẹp nhân. Trong tủ lạnh còn vài miếng bít tết, gói chân gà, độ chục quả trứng, lọ dưa chuột ngâm và mười hai cái hộp sắt có nước xôđa sủi bọt. Cuối cùng tìm thấy mẩu pho mát khô, các góc quăn lại, bẻ nó ra và đút vào mồm. Ngẫm nghĩ lát xem có nên hâm lại thịt hay , rồi thành tiếng: "Thôi, mặc xác!" lấy hai lát bánh mì, quết mù tạt lên, gỡ con dao thái thịt từ cái thớt ở tường xuống và cắt miếng thịt bò dày. đặt miếng thịt lên lát bánh mì, xếp mấy miếng dưa chuột ngâm lên , rồi lấy lát bánh mì khác kẹp lại. Xếp tất cả những thứ ấy lên đĩa, cộng thêm lon bia, thế là mang lên gác vào phòng ngủ. Ellen ngồi giường đọc tạp chí "Cosmopolitan". - đấy à? - chị . - Ngày hôm nay có vất vả lắm ? chẳng gọi điện gì cho em cả. - Vất vả. Bây giờ ngày nào cũng vất vả. Em nghe chuyện Ben Gardner chưa? Ngay lúc với em đây, cũng chỉ có thể phỏng đoán điều gì xảy ra với ta, - đặt cái đĩa và lon bia lên bàn trang điểm rồi ngồi xuống mép giường để cởi giầy. - Em có nghe. Grace Finley gọi điện cho em, hỏi em có biết bác sĩ Craig ở đâu . Ở phòng thường trực đăng ký người ta chỉ được cho ấy là bác sĩ Craig ở đâu, mà Grace muốn cho Sally uống thuốc ngủ. - Thế em có tìm ông ta ? - . Em sai thằng Sean đem thuốc Seconal cho ấy. - Lại Seconal nào nữa? - Thuốc ngủ ấy mà. - biết là em vẫn uống thuốc ngủ. - Cũng hay uống lắm. Rất hãn hữu thôi. - Em lấy ở đâu ra? - Bác sĩ Craig kê cho em, hôm em đến khám về thần kinh ấy mà. Em có với rồi. Brody quẳng giày vào góc phòng đứng dậy cởi quần dài ra rồi cẩn thận vắt nó bên thành ghế. Sau đó cởi áo sơ mi treo lên mắc trong tủ quần áo và an tọa giường trong bộ quần đùi áo may ô, bắt đầu đánh chén. Thịt khô và lắm gân. chỉ cảm thấy vị ngon của mù tạt. - có tìm thấy thịt bò ? - Ellen hỏi. Mồm Brody nhồi đầy, nên chỉ gật đầu. - Thế ăn cái gì đấy? - Thịt bò. - hâm nóng lên chưa? - Chưa. Thế này cũng được rồi. Ellen bĩu môi hài lòng. Brody yên lặng ăn. Ellen lật giở các trang tạp chí. Mấy phút trôi qua, khi Ellen lật đến trang cuối cùng rồi, chị đặt tạp chí lên đầu gối. - Trời ạ! - chị thốt ra. - Cái gì thế? - Em nghĩ về Ben Gardner. Khủng khiếp quá. Bây giờ biết Sally làm sao đây? - cũng chả biết. lo cho ấy quá. ấy có tiền nong gì lắm nhỉ? bao giờ em chuyện ấy với ta chưa? - Chưa bao giờ. ấy lấy đâu ra tiền? Em nghĩ có lẽ cả năm chả bao giờ ấy mua cho con cái quần áo mới nào cả. ấy cứ ước mong giá được mua thịt thường xuyên hơn cái cảnh tuần lần, và khỏi phải cứ ăn mãi món cá mà Ben đánh về. Chắc ấy nhận được ít nhiều tiền bảo hiểm xã hội? - Chắc có nhưng nhiều. Còn lẽ các hội từ thiện nữa. - đời nào ấy chịu đâu. - Ellen nhận xét. - Em biết đấy, sĩ diện bây giờ chính là cái điều ấy thể cho phép mình được nữa. Giờ đến cá cũng chả có mà ăn. - Chúng ta có thể làm được gì nhỉ? - Chính chúng mình ấy à? Có thể làm gì được? Chúng mình cũng có giàu sang gì cho cam. Nhưng có lẽ thị trấn có thể giúp ấy được. với Vaughan. - À mà công việc của có tiến triển gì ? - Em muốn hỏi là bắt được con quái vật ấy chưa chứ gì? Chưa đâu, Meadows vời nhà hải dương học, bạn ông ta ở Woods Hole đến. Tuy rằng cũng chẳng ta có thể giúp được cái gì. - Nom ta thế nào? - Trẻ, bề ngoài khá dễ chịu. Có hơi kiêu căng tí, cái ấy cũng chẳng có gì lạ. Hình như ta khá thông thạo vùng ta. - Thú vị nhỉ. Ở đâu tới hả ? - ta là từ hồi còn bé hay đến Southampton rồi. Mùa hè nào cũng nghỉ ở đấy. - ta có làm ? - cũng . Chắc là ta sống với bố mẹ. Có vẻ như ta thuộc hạng ấy. - Thuộc hạng nào. - Hạng những người nghỉ. Bố mẹ giàu có. Nền nếp giáo dục đến nơi đến chốn. Em thông thạo cái hạng ấy quá rồi còn gì. - đừng cáu. Em chỉ hỏi vậy thôi. - cáu. Chẳng qua chỉ rằng em thông thạo cái hạng ấy lắm rồi. em từ môi trường của họ ra mà lại. Ellen khúc khích cười: - Từ môi trường của họ. Bây giờ em chỉ là đồ già thôi. hơn kém. - Đừng có ngớ ngẩn, - Brody bác lại. - Hễ em mặc quần áo tắm, đa số các ả mỹ miều đến đây mùa hè chẳng đáng xách dép cho em. - lấy làm khoan khoái vì chị thích được nghe khen, cũng thấy khoan khoái khi những lời khen với Ellen. Những lời khen này đối với họ trở thành cái gì đó nghi thức rồi, những đoạn dạo đầu của tình . Hình dáng Ellen nằm giường gợi cho Brody thèm muốn. Tóc chị xõa xuống vai, ở chỗ xẻ sâu xuống của chiếc áo ngủ lộ ra hai bầu vú, sát đến tận đầu vú. : - vào bây giờ đây. đánh răng cái nhé. Từ buồng tắm quay vào, vẫn còn cảm thấy kích thích. bước lại bàn trang điểm để tắt đèn. - biết , - Ellen , - em nghĩ rằng nên để cho lũ trẻ nhà ta học đánh tennis. - Để làm gì? Chúng nó thích chơi tennis à? - , nhưng đấy là môn thể thao tốt, học được càng tốt chứ sao. Nếu chơi tennis giỏi có thể gia nhập bất cứ câu lạc bộ nào và gần gũi được với những người cần thiết. Bây giờ đúng là thời kỳ cho chúng nó học chơi. - Thế chúng nó học ở đâu? - Em nghĩ đến câu lạc bộ "Field". - Chúng mình đâu có phải là hội viên của câu lạc bộ "Field". - Em cho là chúng mình có thể làm hội viên được. số bạn cũ của em là hội viên của câu lạc bộ này. Họ có thể giới thiệu chúng ta. - Dẹp chuyện ấy . - Tại sao lại thế? - Tại vì chúng ta đủ tiền cáng đáng. cam đoan là chỉ riêng việc gia nhập cũng phải mất nghìn đôla rồi, rồi hàng năm lại phải nộp ít nhất là vài trăm. Chúng mình đâu có nhiều tiền đến thế. - Ta có tiền tiết kiệm. - Nhưng phải để học đánh tennis. Thôi nhé, chuyện ấy nữa, - vươn người về phía công tắc đèn. - Cái đó còn có ích cho lũ trẻ. Brody chống tay lên bàn. - Em này, chúng ta thuộc giới đánh tennis. Ở đấy chúng ta là người lạ. - Làm sao biết được? bao giờ chúng ta thử vào câu lạc bộ đâu. - Thôi, hãy gác chuyện này lại. - tắt đèn rồi lại giường, lật chăn ra và nằm vào với Ellen. - Với lại, - vừa tiếp vừa sục mũi vào cổ chị, - có môn thể thao khác hợp gu hơn. - Lũ trẻ còn chưa ngủ đâu. - Chúng nó xem vô tuyến. Bây giờ đến bom nổ, chúng nó cũng nghe tiếng nữa là. - hôn vào cổ chị và bắt đầu đưa tay xuống đùi chị. Ellen ngáp. Chị : - Em buồn ngủ quá. Em uống thuốc từ trước lúc về. Brody ngừng rờ tay. - Em uống làm quái gì? - Đêm hôm qua em khó ngủ, nên mới làm viên. - Em nên vứt những viên thuốc chết tiệt ấy , - hôn vào má chị. muốn hôn vào môi, nhưng đúng lúc ấy chị lại ngáp. - Xin lỗi, - chị . - Em sợ chẳng ra sao đâu. - Ra trò chứ. Chỉ đòi hỏi em giúp cho tí thôi. - Thôi, em mệt quá. Còn ... nếu muốn. Em cố gắng để ngủ thiếp . - Ấy , - Brody và lăn sang phần giường của mình. - thích mang tiếng hiếp cái xác hồn. - Làm gì mà quá lời thế? Brody đáp. nằm ngửa, nhìn chăm chăm lên trần. cảm thấy sức căng vẫn còn, nhưng thèm muốn qua và thay vào đó là nỗi đau ỉ. phút sau Ellen hỏi: - bạn của Harry Meadows tên là gì nhỉ? - Hooper. - Có phải David Hooper ? - , hình như tên ta là Matt. - từ cái dạo nào em có biết người tên là David Hooper. Em nhớ. - Chị kịp hết câu mi mắt ríu lại, và chị thở sâu chìm vào giấc ngủ.
6 Hôm thứ sáu, đường từ bệnh viện Southampton về nhà, Ellen ghé vào bưu điện. Ở Amity thư tín người ta đưa đến tận nhà. chung thư, điện khẩn phải được đưa đến bất cứ địa chỉ nào trong vòng bán kính dặm quanh trạm bưu điện. Nhưng thực tế ngay cả những bức điện khẩn (chỉ trừ những bức có ghi là do chính phủ liên bang gửi) người ta đều để ở bưu điện đợi người đến lấy. Bưu điện đặt ở ngôi nhà phố Teal, ngay cạnh phố Main. Ở đó có năm trăm hòm thư, trong số đó ba trăm bốn mươi hòm là do những người dân thường trú ở Amity thuê. trăm sáu mươi cái còn lại dành cho dân nghỉ, còn cụ thể cho ai còn tùy thuộc vào ý thích của nữ trạm trưởng bưu điện Minnie Eldridge. Những người bà ta có cảm tình được phép thuê hòm thư vào dịp hè. Những người bà ta có cảm tình đành phải đứng xếp hàng cạnh quầy của bà. Vì ai trong số những người vãng lai mùa hè có thể thuê hòm thư quanh năm được, nên những người nghỉ bao giờ biết là mùa nghỉ sang năm, khi họ tới đây vào tháng sáu, họ có hòm thư hay . Chẳng ai còn nghi hoặc gì chuyện Minnie Eldridge bước qua cái tuổi bảy chục rồi, nhưng bà ta có cách gì đó mà thuyết phục được các nhà chức trách ở Washington là bà còn chưa đạt đến cái tuổi bắt buộc con người ta về hưu. Bà ta nom bé và lọm khọm, nhưng lại khá khỏe và xử lý với những gói những hộp cáctông nhanh cũng gần bằng hai thanh niên làm cùng chỗ với bà. Bà bao giờ về quá khứ hay đời sống riêng của mình. Người ta chỉ biết rằng bà sinh ra đảo Nantucket và rời khỏi đó ngay sau khi bắt đầu đại chiến thế giới lần thứ nhất. Bà sống ở Amity lâu đến mức trong thị trấn này ai là biết bà. Minnie Eldridge coi mình những là dân gốc, mà còn là người am hiểu lịch sử thị trấn. Bà hay thích kể chuyện tại sao thị trấn này lại có tên là Amity, kể về Amity Hopewell, phụ nữ sống vào thế kỷ XVII và bị kết án tử hình về tội làm phù thủy; Minnie thấy khoan khoái khi có dịp bàn về những kiện lớn trong quá khứ của thị trấn: về vụ lính đổ bộ trong thời gian diễn ra cuộc chiến tranh giành độc lập (người định vòng qua sườn các đơn vị quân thuộc địa khởi nghĩa, nhưng bị lạc và cứ quanh quẩn vô tích ở vùng Long Island), về đám cháy năm 1823 mà tất cả các ngôi nhà, trừ nhà thờ, đều bị cháy, về vụ đắm chiếc tàu chở rượu lậu vào năm 1921 (rút cục người ta kéo được con tàu lên mặt nước, nhưng toàn bộ hàng hóa dỡ khỏi tàu cho để dễ kéo lên, cánh mà bay); về cơn bão năm 1938 và về vụ đổ bộ được loan tin rộng rãi báo chí (tuy hoàn toàn được xác nhận) của ba tên gián điệp Đức lên bãi tắm ven đường Scotch vào năm 1942. Ellen và Minnie tuyệt nhiên có cảm tình với nhau. Ellen cảm thấy Minnie mến chị. Minnie cảm thấy tự nhiên khi có mặt Ellen, vì biết xếp chị vào hạng nào xác định. Ellen thuộc đám dân nghỉ, cũng phải là dân sở tại. Quyền sử dụng thường kỳ hòm thư của chị có được là đồng thời với việc lấy chồng. Minnie chỉ có mình trong bưu điện và xem xét phân loại thư tín Ellen bước vào: - Chào bác Minnie, buổi sáng tốt lành. - Ellen lên tiếng. Minnie liếc nhìn đồng hồ treo tường phía quầy rồi sau đó mới đáp: - Chào , buổi trưa tốt lành. - Bác có tập tem thư tám mươi xu bán cho cháu chứ? - Ellen đặt lên quầy tờ năm đôla và ba tờ đôla. Minnie bỏ mấy lá thư vào các thùng, đặt đống còn lại sang bên rồi tiến lại quầy. Bà ta đưa cho Ellen bộ tem thư rồi quẳng tiền vào ngăn kéo. - Martin định làm gì với con cá mập ấy? - bà ta hỏi. - Cháu cũng . Chắc là người ta định bắt nó. - Ai có thể dùng lưỡi câu mà bắt được con Leviathan[17]? - Xin lỗi, bác gì ạ? - Sách Job ấy mà, - Minni đáp. - kẻ trần tục nào bắt được con cá ấy. - Sao bác lại nghĩ thế? - Số trời cho chúng ta bắt được nó chứ còn sao nữa. Cái ấy có thiên định. - Cái ấy là cái gì ạ? - Chuyện ấy rồi ta khắc biết. - Cháu hiểu, - Ellen cho tem vào túi xách. - Cũng có thể bác đúng. Cám ơn bác Minnie, - chị quay ra cửa. - Lời của tôi miễn nghi ngờ, - Minnie vừa nhìn theo Ellen vừa . Ellen ra phố Main, rẽ sang phải, qua cửa hàng bán quần áo mốt của phụ nữ và hiệu đồ cổ. Chị đứng lại ở cửa hàng đồ sắt và mở cửa. Nhưng có ai ra đáp lại tiếng chuông réo. Chị đợi chút, rồi gọi: - Chú Albert ơi! Ellen qua khung cửa mở toang dẫn vào tầng hầm. Tiếng chuyện của hai người đàn ông vọng đến tai chị. - Tôi lên đây, - Albert Morris cất giọng. - Thứ ấy tôi có cả hộp kia, - bác với người đàn ông bên cạnh. - cứ lục tìm , có lẽ thấy cái cần thôi. Morris xuất ở bậc dưới của thang rồi thong thả leo lên, cẩn thận từng bước , tay bác bám vào lan can. Bác qua cái ngưỡng lục tuần, và hai năm trước bác có bị cơn đau tim. - Vấu mỏ vịt, - bác vừa leo lên thang vừa . - Cái gì ạ? - Ellen hiểu. - Vấu mỏ vịt. Cái chàng kia cần thứ ấy. Chắc ta là thuyền trưởng tàu chở dầu nào đó bởi vì ta cứ tìm những vấu mỏ vịt kích thước to tướng. Còn chị cần gì nào? - Đầu bít cao su vòi nước trong bếp bị hỏng. Chú biết đấy, cái loại có phần tõe đôi ấy. Cháu cần chiếc mới. - Thế đơn giản quá rồi còn gì. Kia kìa. - Morris đưa Ellen lại giá. - bảo cái này phải ? - Bác lấy lên đầu bít cao su. - Vâng, đúng nó rồi. - Tám mươi xu. Cho chị nợ hay là trả tiền ngay đây? - Cháu trả tiền ngay. Cháu muốn chú phải viết lách vào sổ chỉ vì tám chục xu cỏn con ấy. - Tôi còn có khi phải cho nợ cả những khoản còn hơn ấy chứ, - Morris nhận định. - Tôi có thể kể cho hay nhiều chuyện lắm. Họ dọc căn nhà hàng hẹp tới quầy thu tiền và Morris vừa viết phiếu vừa : - Nhiều người lo lắng về cái chuyện cá mập ấy lắm. - Cháu biết. Có thể hiểu được họ. - Người ta cho rằng lại phải đóng cửa các bãi tắm thôi. - Nhưng mà cháu... - Theo cách nhìn của tôi đầu óc bọn người ấy chứa toàn rơm rạ cả. Tôi tin rằng Martin hành động đúng. - Cháu sung sướng được nghe chú thế, chú Albert ạ. - Có thể là chàng trai mới này giúp chúng ta ra khỏi thế bí. - Chàng trai nào ạ? - Chuyên gia về cá ở Massachusetts đến. - Ái chà. Cháu có nghe là ta ở thị trấn. - ta ở tận ngay nơi đây nữa cơ. Ellen đưa mắt nhìn xung quanh, nhưng trông thấy ai cả. - Ở đây là ở đâu? - Ở phía dưới, tầng hầm ấy. ta cần những chiếc vấu mỏ vịt. Ellen nghe có tiếng chân bước thang. Chị quay lại và trông thấy Hooper. niềm xao xuyến mãnh liệt bỗng ập tới, hệt như trước mặt chị ra người mà chị gặp bao năm. Chị quen ta, nhưng đồng thời trong ta lại có chút gì đó rất quen thuộc. - Tôi tìm thấy chúng rồi, - Hooper , tay cầm hai cái vấu mỏ vịt làm bằng thép gỉ. bước lại quầy, lịch mỉm cười với Ellen. - Những cái này vừa lắm. - vừa với bác Morris, vừa đặt món hàng lên quầy và đưa cho bác Morris hai mươi đôla. Ellen nhìn Hooper, cố nhớ xem ta gợi cho chị hình ảnh của người nào. Chị hy vọng bác Albert Morris giới thiệu họ với nhau, nhưng có vẻ như bác ta định làm điều đó. - Xin lỗi , - chị hướng tới Hooper, - tôi có điều này cần hỏi . Hooper nhìn sang chị và lại mỉm cười - nụ cười thân thiện dễ mến, nhờ có nó mà những nét gãy góc của khuôn mặt mềm dịu lại, còn đôi mắt màu xanh lơ nhạt sáng lên. - Chị cứ việc hỏi, - . - biết có họ hàng với David Hooper nhỉ? - Đấy là trai tôi. Chị có biết David? - Có, - Ellen đáp. - Đúng hơn là từng biết. có thời lâu lắm rồi ấy theo đuổi tôi. Tôi là Ellen Brody. Trước kia tôi tên là Ellen Shepherd. Tôi muốn vào cái thời ấy đấy. - Tất nhiên rồi. Tôi có nhớ chị. - có lẽ. - Tôi nhớ mà. Tôi đùa đâu. Tôi chứng minh cho chị xem. Để tôi nghĩ chút ... Mái tóc chị hồi đó như mái tóc tiểu đồng ấy. Và lúc nào chị cũng đeo vòng trang sức. Tôi còn nhớ vòng có cái hình tháp Eiffel lớn. Chị lại thường hay hát bài... tên bài hát là gì nhỉ? "Sibum" hay cái gì đó đại loại như vậy. Đúng chưa nào? Ellen phì cười. - Khiếp , cái trí nhớ của . Tôi quên bài hát ấy rồi. - Kỳ lạ lắm, có những chi tiết vụn vặt lại để lại ấn tượng như thế trong tuổi thiếu niên. Chị gặp gỡ với David bao lâu nhỉ... hai năm? - Hai mùa hè, - Ellen đáp. - Đấy là khoảng thời gian tuyệt diệu. - Chị có nhớ tôi ? - Cũng lờ mờ thôi. Tôi chỉ nhớ rằng David có đứa em trai. Chắc khi ấy chỉ lên chín lên mười gì đó. - Quãng tuổi ấy. David hơn tôi mười tuổi. Tôi còn nhớ là mọi người gọi tôi là Matt, cứ làm như tôi là người lớn ấy, - điều ấy khiến tôi thích lắm. Còn chị gọi tôi là Matthew. Chị bảo rằng Matthew nghe thanh tao hơn. Hình như tôi cũng mê chị. - thế ư? - Ellen đỏ mặt, còn bác Albert Morris phá lên cười. - Tôi mê tất cả các mà David vẫn gặp gỡ. - thể có chuyện ấy! Bác Morris đưa tiền trả lại cho Hooper, còn với Ellen: - Tôi lái xe ra cảng. Chở chị nhé? - Cám ơn. Tôi cũng . - Chị cảm ơn bác Morris rồi ra cửa. Hooper theo sau. - Vậy ra bây giờ là nhà bác học? - chị hỏi khi hai người ra ngoài phố. - Cũng tại số cả. Thoạt đầu tôi định chuyên về văn cơ. Nhưng sau có dự cua về sinh học hải dương, chẳng qua chỉ vì tò mò, thế mà mắc câu. - Đại dương lôi cuốn đến thế cơ à? - Vừa có lại vừa . Tôi luôn luôn say mê biển cả. Khi tôi mới mười hai mười ba tuổi, đối với tôi có khoan khoái nào hơn việc vớ lấy cái bị ra bãi tắm rồi nằm cát cả đêm, lắng nghe tiếng sóng vỗ và nghĩ xem chúng từ đâu đến và gặp bao nhiêu thứ đường . Còn cái lưỡi câu mà tôi mắc phải hồi học đại học là những con cá, còn nếu chính xác hơn là những con cá mập. Ellen phì cười: - Lại còn say mê được cá mập nữa kia à? Kinh quá! Cũng chả khác nào có cảm tình với chuột cống. - Nhiều người vẫn nghĩ thế, - Hooper nhận xét. - Nhưng những người ấy lầm. Ở cá mập có tất cả những gì có thể làm nhà khoa học ngây ngất. Chúng đẹp, trời ạ, chúng đẹp lắm! Cá mập là cơ thể nhạy tưởng tượng được và hoạt động nhịp nhàng đến lạ lùng. Chúng duyên dáng như loài chim và cũng bí vô cùng, như bất kỳ loài sinh vật nào trái đất. ai chúng sống được bao lâu và bị những bản năng nào - ngoài đói bụng - chi phối. Có hơn hai trăm rưởi loại cá mập, mà chúng khác nhau rệt lắm! Lắm khi nhà khoa học cả đời vắt óc để giải đáp điều bí của cá mập, sắp sửa đưa ra những luận cứ nào đó bỗng dưng kiện mới biến toàn bộ công việc trước kia của người đó thành con số . Suốt hai thiên kỷ nay con người cố sức tìm phương tiện có hiệu quả có thể làm cá mập sợ, nhưng chẳng tìm ra được cái gì cả. - im lặng nhìn Ellen và mỉm cười. - Xin lỗi. Tôi định giảng bài đâu. Chẳng qua tôi cũng hơi hâm hâm, chắc chị nhận ra điều đó. - Còn chắc nhận ra là trong vấn đề này tôi mít đặc. học ở trưởng Tổng hợp Yale? - Vâng. Còn ở đâu được nữa? Ngoài người chú tôi bị đuổi khỏi trường địa chất ở Andover, và chú ấy tốt nghiệp hoặc là ở Miami, hoặc là ở Ohio, còn tất cả nam giới gia đình chúng tôi trong suốt bốn thế hệ đều học ở trường Tổng hợp Yale. Sau đó tôi vào khoa nghiên cứu sinh của trường Tổng hợp Florida. Rồi hai năm nay tôi săn lùng cá mập khắp thế giới. - Ắt là thú vị lắm? - Thú thể tả được. Hệt như thả bợm rượu vào nhà máy rượu bia. Tôi nghiên cứu cá mập ở Biển Đỏ và lặn theo chúng ngoài bờ biển Australia. Càng tìm hiểu về chúng bao nhiêu, tôi càng vỡ lẽ ra rằng mình chẳng biết gì về chúng cả. - lặn theo chúng cơ à? Hooper gật đầu. - Chủ yếu là ở trong lồng nhưng cũng có khi có lồng. Tôi đoán được chị nghĩ gì. Nhiều người, như mẹ tôi chẳng hạn cho rằng tôi tìm cái chết. Nhưng khi biết việc mình làm, hầu như gây cho mình nguy hiểm gì. - Chắc có lẽ là chuyên gia về cá mập cỡ lớn nhất thế giới. - Tôi nghĩ như vậy, - Hooper bật cười, - nhưng tôi muốn trở nên như vậy. Tôi chỉ tham gia có mỗi đoàn thám hiểm, mà tôi sẵn sàng đổi lấy bất cứ cái gì để được tham gia. Đó là đoàn thám hiểm của Peter Gimbel. Họ ghi hết vào phim, đoàn thám hiểm như thế thực đáng mơ ước. Họ ở dưới nước với hai con cá mập trắng khổng lồ, cũng cùng loại với cái con ở đây. - Tôi lấy làm mừng vì tham gia vào đoàn thám hiểm ấy. Chắc muốn nhìn thế giới từ hàm con cá mập. Nào, hãy kể cho tôi nghe về David. ấy nay ra sao? - chung tốt đẹp cả. ấy làm môi giới buôn bán ở San Francisco. - chung? ngụ ý gì thế? - Chả là ấy lấy vợ lần thứ hai. Người vợ đầu có lẽ chị biết, là Patty Fremont. - Có chứ. Tôi thường đánh tennis với chị ấy. Chị ấy tiếp quản David từ tôi. Có lẽ đúng là như vậy đấy. - Họ sống với nhau ba năm, cho đến khi chị ta léng phéng với nhà kinh doanh cỡ bự, chủ ngôi nhà ở Antibes. Khi ấy David tìm cho mình khác. Bố ấy là người nắm cổ phần khống chế của hãng dầu lửa. khá là xinh xắn, nhưng ngu như bò ấy. Giá David có chút ít khôn ngoan lẽ ra đời nào lại chia tay với chị. Ellen bừng đỏ mặt và khẽ lên tiếng: - lịch duyệt quá. - Tôi nghiêm túc đấy. Giá ở địa vị ấy tôi hành động như vậy. - Thế ở địa vị hành động như thế nào? Rút cục nào chinh phục được ? - giờ chưa có nào. Tôi nghĩ chẳng qua các hiểu rằng họ bỏ lỡ những cơ hội như thế nào, - Hooper bật cười. - Chị hãy kể về mình . Thôi, cũng chả cần. Tôi thử đoán lấy. Ba con. Đúng nào? - Đúng. Tôi tưởng rằng điều đó biểu thế. - Ấy đâu. Tôi có ý vậy. Hoàn toàn biểu gì cả. Hoàn toàn . Chồng chị, để tôi đoán nhé, là luật gia. chị có căn hộ ở New York và có nhà ở Amity. Chắc là rất hạnh phúc. Tôi mừng cho chị. Ellen vừa lắc đầu vừa cười. - hẳn đâu. Tôi muốn là đoán được hết mọi thứ. Chồng tôi làm cảnh sát trưởng ở Amity. Mắt Hooper thoáng ngạc nhiên, chỉ trong khoảnh khắc. Vỗ tay lên trán, thốt lên: - Chà, tôi ngố ! Thế là Brody. Hay . Tôi mới làm quen với chồng chị chiều hôm qua. ấy có vẻ cũng cừ lắm đấy. Ellen có cảm tưởng bắt gặp chút mỉa mai trong giọng của Hooper, nhưng lại gạt ngay ý nghĩ ấy. "Chẳng có gì để mà tưởng tượng vô cớ cả." - định ở đây có lâu ? - chị hỏi. - Tôi . Nó còn tùy thuộc vào việc với con cá mập tiến triển đến đâu. Nếu con cá nó tôi cũng . - sống ở Woods Hole? - xa đấy lắm. Ở Hyannisport. Tôi tậu được ngôi nhà nho ngay bờ biển. Tôi thích ở cạnh nước. Nếu tôi ở cách bờ biển quá mười dặm là ở tôi lại bột phát cơn bệnh sợ gian bó kín. - chỉ sống có mình thôi à? - Vâng, có mình thôi. Chỉ có tôi, đống sách vở và bộ stereo mà tôi phải chi cọc tiền to. Này, chị có còn nhảy nữa ? - Tôi nhảy ấy à? - Vâng. Bây giờ tôi mới sực nhớ. David thường bảo rằng chị là người bạn nhảy cặp cừ nhất trong số tất cả những người từng nhảy với ấy. Chị đoạt giải thi có phải ? Dĩ vãng tựa như con chim bị nhốt lâu trong lồng và đột nhiên được thả ra ngoài tự do, kéo đến lượn quanh chị. Lòng chị se lại vì nỗi buồn. Chị đáp: - Vâng, đó là cuộc thi biểu diễn điệu samba[18]. Ở "Beach Club". Nhưng tôi nhớ nữa. , tôi chẳng còn nhảy nữa. Martin nhảy, mà nếu có nhảy chăng nữa, bây giờ tôi nghĩ là người ta còn chơi điệu nhạc ấy nữa. - Tiếc quá. David là chị nhảy tuyệt lắm. - Đấy là buổi khiêu vũ kỳ thú. - Ellen , chị chìm đắm trong ký ức để tái lại trong trí nhớ những chi tiết nhất. - Nhạc Jazz của Lester Lanin. "Beach Club" được trang hoàng bằng những quả chuông làm từ giấy bạc và những quả bóng bay. David mặc chiếc áo vét đỏ ưa thích của mình. - Bây giờ cái áo ấy tôi giữ, - Hooper . - ấy trao lại cho tôi mặc. - Hồi đó người ta chơi những bài hay . David nhảy điệu tuxtép[19] đạt lắm. Làm bạn nhảy với ấy trong điệu tuxtép phải là đơn giản, nhưng ấy thích vanxơ, ấy bảo rằng vanxơ chóng mặt lắm. Hồi ấy ai cũng rám nắng, hình như cả mùa hè có lấy giọt mưa nào. Tôi còn nhớ buổi tối hôm ấy tôi mặc cái áo dài màu vàng, rất hợp với làn da bắt nắng của tôi. Có tiến hành hai cuộc thi: đằng là thi nhảy saclơxtơn[20], cặp Susie Kendall và Chip Forgaty giật giải. đằng samba. Người ta nổi điệu "Braxin" ở mãi tận cuối, chúng tôi nhảy như thể toàn bộ đời mình tùy thuộc vào đó. Tôi tưởng khi điệu nhảy kết thúc tôi sụn xuống. có biết giải thưởng chúng tôi giành được là cái gì ? lon gà hộp. Hộp ấy để ở phòng tôi cho mãi đến khi nó trương phình lên rồi bố tôi bắt ném nó . - Ellen mỉm cười. - Dạo đó vui vẻ . Tôi vẫn phải cố gắng đừng nghĩ đến nó nhiều quá. - Tạo sao vậy? - Chúng ta vô tình luôn luôn tô hồng quá khứ. Rồi sau đó, trong tương lai, chúng ta lại nghĩ về tại y như thế. Khi người ta hay hồi tưởng lại những nỗi vui sướng qua trong lòng trở nên buồn bã. Bắt đầu nảy ra cái cảm tưởng là bao giờ còn có thể tốt đẹp đến như trước kia nữa. - Ấy thế mà tôi lại nghĩ về quá khứ. - thế ư? Tại sao vậy? - Chẳng qua nó chẳng lấy gì làm tuyệt diệu cho lắm, chỉ có thế thôi. David là con cả. Còn chuyện sinh tôi ra đời cha mẹ phải suy nghĩ trước đó chút. Theo tôi hiểu bố mẹ tôi muốn bằng cách ấy củng cố mối quan hệ gia đình. Nhưng tôi thể giúp họ việc đó được. khá tồi tệ, khi đáp ứng được hy vọng chủ yếu nhất. Khi cha mẹ tôi bỏ nhau David hai mươi tuổi. Còn tôi chưa đủ mười tuổi. Thủ tục ly dị cũng dễ dàng. Mà cả mấy năm trước đấy cũng chẳng êm thấm gì. chuyện tầm thường, ít có điều gì vui trong đó. Có thể là tôi hơi cường điệu. Nhưng dù thế này hay thế khác tôi vẫn mong chờ nhiều ở tương lai. Tôi ít khi ngoảnh lại quá khứ làm gì. - Có thể như thế đúng hơn. - Tôi . Có lẽ giá tôi có dĩ vãng hạnh phúc tôi sống chủ yếu với nó. Nhưng mà... chuyện ấy thế là đủ. Tôi phải ra cảng đây. Hay là để tôi chở chị đâu đó? - , cảm ơn . Ô tô của tôi đỗ ở bên kia phố mà. - Thôi được. Chị biết ... - Hooper chìa tay ra. - quả là tuyệt vời khi được gặp lại chị, và tôi hy vọng còn được trông thấy chị trước khi rời khỏi nơi đây. - Tôi cũng mong muốn như vậy. - Ellen đáp, tay chị nắm chặt tay Hooper. Chắc tôi chẳng dám chắc rằng có thể rủ chị ra sân chơi tennis được đâu nhỉ? Ellen cất tiếng cười. - Ra sân tennis? Tôi chẳng còn nhớ cầm vợt tennis lần cuối cùng là khi nào nữa rồi. Dù sao cũng cảm ơn có lời mời. - dám. Hẹn gặp lại nhé. - Hooper quay và rảo bước vỉa hè tới chiếc xe "Ford" màu xanh lá cây. Ellen đứng nhìn Hooper nổ máy và lách xe từ bãi đậu ra phố. Khi cho xe ngang qua, chị giơ tay lên vẫy cách rụt rè thiếu tự tin. Hooper thò tay trái ra ngoài cửa sổ xe vẫy lại. Sau đó ngoặt khuất vào góc phố. nỗi buồn day dứt, khủng khiếp ập đến Ellen. ràng hơn bao giờ hết, chị bỗng hiểu ra rằng quãng đời tốt đẹp nhất của mình - cái phần tươi sáng và sung sướng chìm vào dĩ vãng. Nhận thức được điều ấy, Ellen cảm thấy có lỗi: như vậy có nghĩa rằng chị phải là người mẹ hiền, người vợ hiền. Chị căm ghét cuộc đời của mình, chị căm ghét bản thân vì có cái nỗi căm ghét ấy. Chị bỗng thấy gợi lên câu hát mà Billy chơi bộ stereo: "Em sẵn lòng đổi tất cả những ngày mai của mình chỉ để lấy ngày hôm qua". Chị có dám đồng ý đánh đổi như thế ? Ellen ngẫm nghĩ. Nhưng suy tư giờ còn tích gì nữa? Những cái ngày hôm qua ấy bay vèo rồi. Chẳng thể lấy lại được cảm tưởng hạnh phúc nào của quá khứ nữa, chúng phóng ngày xa về nơi có lối trở lại. Chị lại nhớ đến khuôn mặt tươi cười của Hooper. Hãy quên ta , chị tự nhủ. Tất cả những cái đó là trò ngốc nghếch. , - là tự hạ mình. Ellen bước qua phố và ngồi vào ôtô. Khi ra đến đường cái, chị nhìn thấy Larry Vaughan đứng trong góc phố. "Trời, - chị kinh ngạc nghĩ, - cái ta nghĩ trong lòng ở ông ta nó lên mặt".
7 Những ngày nghỉ tĩnh tại và êm đềm như thế này chỉ có vào cuối thu. Hai ngày nay các bãi tắm đóng cửa, cảnh sát tuần từ sáng sớm đến tối mịt. Amity gần như có sống. Hooper phóng dọc bờ biển chiếc canô của Ben Gardner nhưng tất cả những gì bắt gặp trong nước chỉ là vài đàn cá con và đàn rắn đẻn lớn. Ngày chủ nhật bám bờ biển East Hampton - các bãi tắm đầy người, vì cho rằng cá mập có nhiều khả năng xuất hơn cả ở nơi nào có người tắm. Cho tới chiều tuyên bố với Brody rằng cá mập, xét theo mọi chiều hướng, lặn xuống sâu rồi. - Tại sao lại nghĩ thế? - Brody hỏi. - có vẻ gì là nó ở đây cả, - Hooper trả lời - Quanh đây có nhiều cá các loại. Nếu như gần đây có cá mập trắng lớn, các loài cá khác phải biến rồi. Dẫu sao các thợ lặn vẫn thường khẳng định khi có cá mập trắng ở đâu đó cạnh đấy là trong nước dường như chết lặng cả. - chưa thuyết phục được tôi, - Brody . - Hay ít ra là chưa thuyết phục được đến mức cho mở các bãi tắm. Brody biết rằng sau những ngày yên ả có tai biến gì lại bị áp lực từ phía Vaughan. Các nhân viên bán bất động sản, các chủ hiệu thể nào cũng đòi hỏi mở cửa các bãi tắm. Thậm chí mong muốn Hooper phát được cá mập. Như thế còn nhẽ. Chứ bây giờ chỉ có dữ kiện về vắng mặt của con cá, mà đối với đầu óc người cảnh sát cái đó lên gì nhiều. Trưa thứ hai Brody ngồi trong phòng làm việc của mình, Bixby bước vào và rằng Ellen gọi điện tới. - Xin lỗi, em lại quấy rầy , - chị - Nhưng em muốn hỏi ý kiến . Ta mời khách tới dự bữa tối được chứ? xem thế nào? - Nhân dịp gì vậy? - Thích thế thôi, chẳng nhân dịp gì cả. từ đời thuở nào rồi ta chưa tổ chức. Em cũng chẳng nhớ lần cuối cùng là từ khi nào. - cũng chẳng nhớ, - Brody , đó là dối. nhớ rất bữa tiệc cuối cùng của họ: ba năm trước Ellen nảy ra ý định khôi phục các mối liên lạc với tầng lớp đến nghỉ hè. Chị mời ba đôi nghỉ mát đến. Tất cả đều là những con người khá dễ chịu, nhưng câu chuyện vẫn chẳng ăn nhập đâu vào đâu, và ai cũng cảm thấy khó xử. Brody và khách khứa uổng công tìm những đề tài chung. Sau đó khách bắt đầu chuyện chủ yếu với nhau, tuy quên lôi cuốn Ellen vào chuyện cách lịch , mỗi khi chị thốt lên câu gì đại loại: "À, tôi có nhớ ấy!" Ellen lại bị xao xuyến, kích động. Sau khi khách khứa ra về, Ellen vừa rửa bát đĩa, vừa hai lần hỏi Brody: "Bữa ăn tuyệt đấy chứ, có phải ?" Sau đó chị vào buồng tắm đóng cửa lại và khóc hồi lâu. - Vậy thấy thế nào? - Ellen hỏi. - Chẳng biết nữa. Nếu như em thích có thể tổ chức. Thế em định mời ai? - Trước hết, em tính nên mời Matt Hooper. - Để làm gì? ấy dùng bữa ở khách sạn "Biểu trưng của Abelard". Khoản ấy nằm trong tiền thuê buồng rồi. - Vấn đề đâu phải ở chỗ ấy, Martin? Ở đây ấy chẳng có bạn bè, người quen kẻ thuộc gì. Với lại ấy giỏi giang lắm. - Làm sao em biết? cứ tưởng em quen ta. - Em chưa với à? Em tình cờ gặp ấy ở cửa hàng chú Albert Morris hôm thứ sáu. Em cứ đinh ninh rằng kể cho nghe rồi. - Chưa. Nhưng cũng chẳng quan trọng. - Hóa ra ta là em của Hooper, người mà em có dạo quen. ta nhớ nhiều chuyện về em hơn em nhớ ta. Tuy rằng ta trẻ hơn nhiều. - Hừm. Em dự định khi nào tổ chức liên hoan? - Có lẽ tối mai? Em nghĩ rằng chúng mình giải khuây cách dễ chịu với đám bạn bè nho . Vài đôi thôi. Có lẽ, tất cả độ sáu đến tám người. - Ừ, nhưng em mời ngày mai kia à. Em có chắc rằng tập hợp được đủ ? - Tất nhiên. Tuần này cũng chẳng có gì vướng mắc lắm. Họa chăng chỉ có ai đó hẹn chơi bài britgiơ vào buổi tối. - Em muốn những người vãng lai ấy à? - Brody hỏi. - Vâng. Matt chắc cảm thấy thoải mái với họ. Ý kiến của về vợ chồng Baxter thế nào? Họ cũng là những người dễ chịu đấy chứ? - biết họ ít lắm. - , biết đấy, nỡm ạ. Clem và Cici Baxter ấy mà. Họ thời con của chị ấy là Davenport. Họ sang ở đường Scotch ấy mà. chồng giờ nghỉ phép. Em gặp sáng nay ngoài phố, ấy bảo em thế. - Được. Cứ mời nếu em muốn. - Còn mời ai nữa ? - Ai mà có thể chuyện trò được ấy. Có lẽ mời gia đình Meadows? - Hooper quen Harry rồi. - ta chưa biết Dorothy. Mà chị này chuyện trò khá rôm rả đấy. - Được rồi. - Ellen . - Có lẽ ít sắc thái địa phương cũng chẳng hại gì. Với lại Harry lúc nào cũng biết đủ thứ. - nghĩ đến chuyện sắc thái địa phương, - Brody sẵng giọng. - Họ là bạn của chúng ta. - Dĩ nhiên rồi. Em có định điều gì xấu đâu. - Nếu em cần sắc thái địa phương, em tìm thấy nó ở nửa kia của cái giường ngủ trong gia đình. - Em là em điều gì xấu cả mà. - Em nghĩ đến nào chưa? - Brody hỏi. - cho là phải mời thiếu nữ xinh xắn nào đó để giới thiệu cho Hooper. thoáng qua , Ellen mới trả lời: - Nếu cho là cần. - chung thế nào cũng được. Chẳng qua nghĩ là ta thấy hứng thú được chuyện với cùng lứa. - ta cũng còn trẻ lắm nữa đâu, Martin ạ. Mà chúng ta già lắm đâu. Thôi được rồi. Em nghĩ xem ai có thể làm ta thích được. - Thôi, đến chiều nhé. - Brody rồi ngắt điện thoại. Tâm trạng rất vui. Bữa tiệc hứa hẹn điều gì tốt cả. lờ mờ cảm thấy, và càng nghĩ đến càng tin chắc rằng Ellen quyết thực mưu toan mới nhằm trở về với thế giới trước kia của mình, và lần này chị muốn quay lại đó với giúp đỡ của Hooper. Ngày hôm sau Brody về nhà lúc quá năm giờ. Trong phòng ăn Ellen sắp sửa bàn ăn. Brody hôn vào má chị và : - Chà chà, lâu chưa nhìn bộ đồ ăn bằng bạc này rồi. - Bộ đồ ăn bằng bạc này là do bố mẹ Ellen cho hôm cưới. - Em đánh sạch nó mất mấy tiếng đồng hồ đấy. - Nhìn này! - Brody cầm từ bàn lên chiếc cốc nom giống như bông hoa tuylíp. - Em kiếm chỗ cốc này ở đâu ra đây? - Em mua đấy. - Giá bao nhiêu? - Brody đặt chiếc cốc lên bàn. - Cũng đắt đâu, - chị vừa , vừa trải khăn rải bàn và cẩn thận đặt đĩa cho món xalát và đĩa cho món nóng. - Bao nhiêu? - Mười hai đôla. Nhưng mà được cả tá cốc ấy. - Khi em mời mọc khách khứa em tính đến tiền nong nhỉ. - Nhà ta chẳng có cốc tách nào ra hồn để uống rượu cả, - chị thanh minh. - Có dăm cái cốc mà mấy tháng trước cũng vỡ rồi, cái hồi thằng Sean làm đổ tủ buýpphê ấy. Brody nhìn khắp lượt bàn ăn: - Em sắp cho sáu người ăn? - hỏi. - Có chuyện gì vậy? - Vợ chồng Baxter đến được. Cici gọi điện . Clem phải vào thành phố có việc gì đó, nên Cici quyết định cùng với chồng. Họ ngủ lại ở đấy, - trong giọng của chị có vui vẻ giả tạo, thản nhiên gượng gạo. - Ra thế đấy, chán nhỉ. - Thực tế điều ấy chẳng làm buồn chán chút nào. - Thế em kiếm được nàng hoa khôi nào cho Hooper chưa? - Có Daisy Wicker. ấy làm ở "Bibelot"[21] của Gibby. dễ chịu. - Lúc nào mọi người đến? - Vợ chồng Meadows và Daisy bảy rưỡi. Còn Matthew em mời đến lúc bảy giờ. - cứ nghĩ rằng tên ta là Matt. - Đấy là em gọi đùa hồi ấy còn , ấy cũng nhắc em nhớ chuyện đó. Em mời ấy đến sớm hơn để có thể chơi với lũ trẻ. Chắc ấy thấy vui thú. Brody nhìn đồng hồ. - Nếu khách bảy rưỡi mới đến, ta chưa thể ngồi vào ăn ngay được, chắc phải tám rưỡi chín giờ. Thế chết đói mất. Có lẽ phải chén cái gì . - đoạn xuống bếp. - Đừng có chén kễnh bụng nhé. Hôm nay em làm bữa ngon lắm. - Em nấu món gì? - Đây gọi là món cừu áp chảo[22]. Chắc là em đến nỗi rán già quá. - Thơm lắm, - Brody nhận xét. - Còn cái thứ hỗn tạp hổ lốn ở cạnh bồn rửa ấy là cái gì? Đổ nó mà rửa nồi nhé. - Cái thứ hổ lốn nào? - Ellen từ phòng ăn hỏi vọng xuống. - Cái đống trong nồi ấy mà. - Trời đất ơi! - chị kêu lên và vội vã xuống bếp. - Ai lại đổ , - chị nhìn thấy ngay nụ cười gương mặt Brody. - vô ý vô tứ , - chị đập tay lên vai . - Đây là món gazpacho[23]. Súp đấy. - Em cho là ăn được à? - Brody trêu. - Nó nhờn nhờn thế nào ấy. - Nó phải như thế mới đúng, ngốc ạ. Brody lắc đầu. - Ông bạn Hooper chắc tiếc là ăn ở khách sạn "Abelard". - chỉ được cái phá quấy, - chị kêu lên. - Cứ thử ăn rồi năng với giọng khác. - Cũng có thể. Nếu còn sống được đến lúc ấy, - Brody cười và bước lại chỗ tủ lạnh. lục tủ lạnh tìm ít giò và pho mát. mở lon bia rồi vào phòng ăn. - Có lẽ nghe tin thời , xong rồi tắm và thay quần áo. - Em giải vải lót giường sạch cho rồi đấy. Cạo râu được rồi. Mới chiều mà râu ria lởm chởm lên... - Thánh đế ơi, hoàng thân Philip hay Jackie Onassis đến dự chiêu đãi? - em cốt muốn cho nom chỉnh tề thôi chứ có gì đâu. Quãng bảy giờ có tiếng chuông vang lên. Brody ra mở cửa. người là chiếc áo sơ mi xanh lơ bằng vải bông, chiếc quần xanh sẫm có mác và đôi giầy đen bằng da Cordova. Tự cũng thấy bằng lòng với chính mình. "Oách rồi" - Ellen lên tiếng. Nhưng khi Brody mở cửa cho Hooper, bỗng cảm thấy mình gần như kẻ khố rách áo ôm. Hooper mặc quần bò ống loe màu xanh sẫm, đôi giày đúng mốt và chiếc áo đỏ có hình cá sấu ngực. Đám thanh niên con nhà giàu ở Amity vẫn mặc như vậy. - Chào , - Brody . - Vào . - Chào , - Hooper đáp. ta chìa tay ra và Brody bắt tay. Ellen ra khỏi bếp. Chị mặc váy dài bằng vải batit, đôi giày buổi tối và chiếc áo cánh lụa màu xanh lơ. cổ có chuỗi ngọc - quà cưới của Brody. - Matthew, - chị , - đến, tôi mừng quá. - Tôi cũng vui sướng vì chị mời tôi, - Hooper vừa trả lời, vừa bắt tay Ellen. - Xin lỗi là tôi ăn mặc như thế này. Tôi chẳng mang gì theo người cả, ngoài bộ quần áo làm việc. Nhưng đều sạch cả đấy, - tôi xin cam đoan như vậy. - Chỉ vớ vẩn nào. Nom chúa lắm. Màu đỏ rất hợp với nước da rám nắng và mái tóc của . Hooper bật cười và quay về phía Brody: - Xin phép , tôi muốn tặng chị ấy món quà. - Ý quà cáp gì thế? - Brody hỏi, mà trong bụng nghĩ thầm: "Quà kiếc gì thế nhỉ? cái hôn? Hộp kẹo sôcôla?" - À quà vặt vãnh thôi mà. Chẳng có gì đặc biệt đâu. - cứ việc tặng, - Brody , tuy vẫn chưa hiểu cần phải xin phép làm gì. - Xin tặng bà chủ, để tỏ dấu hiệu xin lỗi vì bộ trang phục thích hợp người tôi. Ellen cười hì hì và cẩn thận cầm lấy cái gói. Hóa ra bên trong là vật nửa như đồ trang sức để đeo, nửa như ngọc bội. - Tuyệt mỹ , - chị thốt lên. - Cái gì vậy? - Răng cá mập, - Hooper trả lời. - Răng cá mập hổ, nếu chính xác hơn. Viền bạc đấy. - kiếm nó ở đâu ra? - Ở Macao. Tôi có ngang qua nơi ấy hai năm trước nhân có việc. Ở cái phố ngoại ô có cửa hiệu nho có người Trung Quốc bé ngồi bên trong, ông ta cả đời đánh bóng răng cá mập và cho nó vào những cái vỏ bằng bạc. Thế là tôi cưỡng nổi. - Macao, - Ellen nhắc lại. - Chả tôi có tìm được Macao bản đồ . Ở đấy chắc là kỳ thú lắm. - Nó cũng xa Hồng Kông là bao, - Brody nhận xét. - Đúng đấy, - Hooper . - Với lại, có điều mê tín như thế này: nếu có răng cá mập bên mình, cá mập động đến ta. Trong những hoàn cảnh nay tôi nghĩ rằng nó có thể có ích. - Hẳn thế, - Ellen . - cũng có cái như thế chứ? - Có, - Hooper đáp, - nhưng tôi biết cách mang nó bên người. Tôi thích có cái gì đó lủng lẳng cổ, còn nếu đút nó vào túi quần, còn bất tiện gấp đôi. Thứ nhất nó có thể cắm vào chân, thứ hai là trong quần có thể sinh ra lỗ thủng. Nó cũng chả khác nào mang dao díp mở lưỡi trong túi. Vì thế nên tính thực tiễn thắng mê tín trong tôi, ít nhất là trong khi còn ở cạn. Ellen phá lên cười rồi quay lại Brody: - Martin, em có thể nhờ chút việc được ? lên gác mang xuống cho em chiếc dây chuyền bạc manh mảnh trong hộp đựng đồ nữ trang ấy, nhé. Em đeo cái răng cá mập mà Matthew tặng ngay bây giờ. - Chị quay về phía Hooper: - Tôi nghĩ là vào bữa ăn ta chẳng phải nhắc đến cá mập nữa. Brody lên thang Ellen lại cầu: - Còn việc nữa, Martin, bảo lũ trẻ con xuống nữa nhé. Brody lên gác và ngoặt vào hành lang, tai còn nghe thấy tiếng Ellen: - Gặp lại thế này dễ chịu quá. Brody vào phòng ngủ, ngồi xuống mép giường. thở sâu, khi nắm tay phải thành nắm đấm, khi duỗi ra. muốn kìm nén cơn thịnh nộ và bàng hoàng, nhưng đạt kết quả mấy. có cảm tưởng là kẻ được trang bị bằng loại khí giới khác thường vô hình, xâm nhập vào nhà , mà , Brody, thể đối phó được: vẻ ngoài hấp dẫn, trẻ trung và điều chủ yếu là ta thuộc về cái thế giới mà Ellen, tin chắc như vậy, bao giờ thôi nhớ nhung. Nếu như lúc đầu tưởng rằng Ellen định sử dụng Hooper để gây ấn tượng đối với những người nghỉ khác, bây giờ hiểu rằng vợ muốn tự mình gây ấn tượng đối với chính Hooper. Nhưng để làm gì? Có thể nhầm. Xét cho cùng, Ellen và Hooper quen nhau từ lâu. Có nhẽ, tưởng tượng ra chẳng biết đến đâu, trong khi hai người bạn chỉ muốn khôi phục lại mối giao tiếp. Bạn bè ư? Trời đất ơi, Hooper ắt phải trẻ hơn Ellen quãng chục tuổi. Vậy ngày ấy làm sao họ có thể là bạn là bè gì được? Người quen ư? Vị tất đúng. Thế tại sao ấy lại phải gắng gượng ra vẻ mệnh phụ thượng lưu. "Cái đó làm giảm phẩm giá ta, - Brody nghĩ, - và làm giảm phẩm giá của cả mình nữa, bởi vì với cái trò ấy ta có thể gạch bỏ toàn bộ cuộc sống chung của hai người". - Mặc mẹ tất cả những thứ đó, - thốt lên thành lời. đứng dậy, kéo ngăn kéo tủ com-mốt và bắt đầu lục lọi tới lúc tìm thấy hộp nữ trang của Ellen. Lôi dây chuyền bạc ra, đóng ngăn kéo lại và bước ra hành lang. Nhòm vào phòng lũ trẻ, bảo: "Này, toàn đội, tiến" - rồi xuống thang. Ellen và Hooper ngồi ở hai góc đivăng. Khi Brody bước vào phòng khách, nghe thấy lời Ellen. - Có lẽ, bây giờ thích tôi gọi là Matthew? Hooper cười đáp: - Tôi phản đối. Nó gợi đến những hồi niệm. Cho dù có lời hôm nọ của tôi, việc ấy chẳng có gì xấu cả. "Hôm nọ à? - Brody nghĩ bụng. - Ở cửa hàng đồ sắt mình thừa biết đấy là câu chuyện gì". - Đây, - vừa vừa trao cho Ellen dây chuyền. - Cám ơn, - chị đáp, rồi tháo chuỗi ngọc ra khỏi cổ và quẳng nó lên bàn. - Matthew này, giờ chỉ cho tôi cách đeo nó . Brody lấy chuỗi ngọc bỏ vào túi. Lũ trẻ túm tụm kéo xuống chỉnh tề trong bộ quần áo thể thao. Ellen đeo dây chuyền vào cổ, mỉm cười với Hooper và : - Lại đây, các con. Tới làm quen với chú Hooper nhé. Đây là Billy Brody. Thằng Billy mười bốn. - Billy nắm tay chào Hooper. - Còn đây là Martin - con. Cháu mười hai. Đây là Sean, cháu lên chín... gần lên chín. Chú Hooper là nhà hải dương học. - Nếu chính xác hơn là nhà ngư học, - Hooper lên tiếng. - Thế là cái gì ạ? - Martin - con hỏi. - Nhà động vật học, chuyên gia về cá. - Nhà động vật học là gì ạ? - thằng Sean hỏi. - Cháu biết rồi, - Billy đáp. - Đấy là người nghiên cứu động vật. - Đúng rồi, - Hooper trả lời. - Cừ lắm. - Chú định bắt con cá mập ấy ạ? - Martin - con hỏi. - Chú muốn tìm thấy nó. Nhưng có được . Có thể nó bơi rồi. - Thế chú bắt được con cá mập nào chưa? - Rồi, nhưng to như con cá này. - Cá mập có đẻ trứng ạ? - Sean hỏi. - Chàng trai ạ, đây là câu hỏi xác đáng và rất rắc rối. Phải, số loài cá mập có đẻ trứng, nhưng giống gà đẻ đâu. Ellen chen vào: - Đừng bắt tội chú Hooper, các con, - chị quay về phía chồng. - Martin, hay là ta uống cái gì đó? - Sẵn lòng, - Brody . - Nhưng cái gì mới được chứ? - Rượu gin pha nước giải khát[24] là tôi rất ưng, - Hooper . - Thế còn em, Ellen? - Để nghĩ tí . Có lẽ ít rượu vécmút pha đá. - Mẹ ơi, - Billy lên tiếng, - mẹ có cái gì ở cổ thế? - Răng cá mập, con ạ. Chú Hooper đây tặng mẹ đấy. - Chà! Cực kỳ . Cho con xem với nhé. Brody xuống bếp. Rượu để trong tủ gắn phía bồn rửa. Cánh cửa bị kẹt. lấy sức kéo quai cửa bằng kim loại, rốt cuộc nó nằm lại tay. Theo phản xạ máy móc ném nó vào thùng rác, lấy tuốcnơvít ra nậy cửa tủ. Rượu vécmút. Nó ở trong cái chai khỉ gió nào nhỉ? Họ chưa bao giờ uống vécmút pha đá. Nếu Ellen có uống cũng chỉ hãn hữu, mà thường lại là uýt-xki, hòa thêm ít nước chanh gừng. À, đây rồi, cái chai xanh. Tít tận trong góc. Brody thộp lấy cái chai, vặn nút và ngửi ngửi hít hít. Mùi hệt như mùi rượu hoa quả rẻ tiền mà bất cứ kẻ nát rượu nào cũng mua với giá sáu mươi chín xu pin.[25] Brody pha rượu, hòa uýt-xki với nước chanh gừng cho mình. toan lấy chiếc cốc con làm định mức như thường lệ, nhưng lại đổi ý và rót gần phần ba cốc. đổ nốt nước chanh lên, thả vài cục nước đá và với tay lấy hai cái cốc khác. Mang ba cốc bằng tay được, chỉ cần thả ngón tay vào chiếc cốc trong số đó. làm như vậy. Billy và Martin ngồi đivăng cùng với Ellen và Hooper. Thằng Sean ngồi sàn. Brody nghe thấy Hooper chuyện gì đó về lợn con, còn thằng Martin thốt lên: - ạ? - Đây này, - Brody vừa vừa chìa cốc cho Ellen - đúng chiếc cốc có ngón tay của ở trong. - Kiểu này chẳng thể nào được tiền puốcboa đâu, - Ellen nhận xét. - May mà chọn nghề hầu bàn. Brody nhìn vợ, nghĩ cách trả miếng, và tìm được câu sau đây: - Xin lỗi nữ công tước. - Đoạn đưa cốc khác cho Hooper và hỏi. - Ông đặt món này chứ gì? - Tuyệt quá. Cám ơn . - Matt kể chuyện con cá mập ấy bắt được ấy, - Ellen tiếp tục. - Trong bụng nó người ta thấy gần như nguyên cả con lợn con. - Thế cơ à? - Brody vừa thốt ra lời, vừa ngồi xuống chiếc ghế đối diện với đivăng. - Chưa phải thế là hết đâu, bố ạ, - thằng Martin góp chuyện. - Trong ấy còn có cuộn giấy dầu. - Cả xương người nữa, - thằng Sean đế vào. - Chú bảo là nó giống như xương người, - Hooper vội đáp - Khó xác định được ngay. Có thể đó là xương sườn bò cũng nên. - Tôi tưởng các nhà khoa học các dễ xác định những thứ như vậy lắm chứ, - Brody nhận xét. - phải lúc nào cũng dễ, - Hooper trả lời. - Nhất là nếu đó chỉ là phần xương giống mẩu xương sườn. Brody làm ngụm lớn uýt-xki. - Bố này, - Billy . - Bố có biết chuyện cá heo giết cá mập ra làm sao ? - Dùng súng săn à? - Ơ kìa, bố chỉ hay tếu. Nó dùng mũi quật vào cá mập cho đến khi cá mập chết mới thôi. Chú Hooper bảo thế. - Chúa , - Brody và uống cạn cốc. - Tôi pha lần nữa. Còn ai muốn uống nữa ? - Nhưng mà ngày mai lại làm rồi phải ? - Ellen hỏi. - có sao? Đâu phải ngày nào ta cũng tổ chức những tối liên hoan thịnh soạn thế này. Brody bước xuống bếp, nhưng dừng chân vì có tiếng chuông gọi cửa. ra mở cửa và trông thấy Dorothy Meadows, người mảnh mai bé, trong bộ áo dài xưa nay, màu xanh thẫm và có xâu ngọc cổ. Sau lưng chị là nào đó - Brody đoán đó là Daisy Wicker - dáng cao, cân đối, có mái tóc thẳng và dài. ta mặc quần tây và đôi xăngđan. gương mặt có chút mỹ trang nào. Đằng sau Daisy Wicker thấy thấp thoáng hình dáng Harry Meadows, ông ta ai nhầm vào đâu được. Brody cất tiếng: - Ấy thế, rốt cuộc các vị đến. Xin mời vào. - Chào Martin, - Dorothy Meadows nhanh miệng. - Chúng tôi gặp Wicker ngay trước cửa nhà . - Em bộ mà, - Daisy Wicker lên tiếng. - thế thư thái trong người lắm. - Tốt lắm, tốt lắm. Xin mời vào cả . Tôi là Martin Brody. - Em có biết, có lần trông thấy chiếc xe ô tô. Chắc công việc của thú vị lắm. Brody phì cười: - Tôi kể hết cho nghe, nếu câu chuyện làm ríu mắt lại. Brody dẫn Daisy Wicker và vợ chồng Meadows vào phòng khách, dành cho Ellen vai trò giới thiệu họ với Hooper, còn bản thân nhận sửa soạn các món rượu theo cầu: uýt-xki pha đá cho Harry, nước xôđa với mẩu vỏ chanh cho Dorothy và gin pha nước giải khát cho Daisy. lại rót cho mình, và trong khi pha rượu, nhấm nháp ít cốc rượu của mình. Trước khi quay lên phòng khách, thoải mái rót ồng ộc uýt-xki và ít nước chanh vào cốc của . Trước tiên bưng đồ uống lên cho Dorothy và Daisy sau đó trở lại bếp lấy đồ uống cho chính mình và cho Meadows. làm ngụm lớn cuối cùng trước khi lên nhập hội với mọi người thấy Ellen bước vào phòng bếp. Chị hỏi: - có uống quá nhiều đấy? - cảm thấy trong người tỉnh táo lắm, - đáp. - Đừng lo cho . - vừa rồi được lịch duyệt cho lắm. - Chả có lẽ? cảm thấy mình có duyên lắm mà. - Em thấy như vậy. mỉm cười với chị rồi đáp: - Toàn chuyện vặt ấy mà. - Nhưng rồi bỗng hiểu ngay là chị có lý: nên uống nữa. vào phòng khách. Lũ trẻ lên gác. Dorothy Meadows, chĩnh chện đivăng bên cạnh Hooper, hỏi han ta về công việc ở Woods Hole. Meadows ngồi đối diện, im lặng nghe. Daisy Wicker đứng mình ở đầu kia căn phòng cạnh lò sưởi, môi đậu nụ cười mỉm. Brody đưa cốc cho Meadows rồi tiến về phía Daisy. - mỉm cười gì thế? - hỏi. - Em cười ấy à? Em đâu có để ý. - Chắc là nhớ tới chuyện gì đó ngộ nghĩnh? - . Chẳng qua em thấy thú vị. Em chưa bao giờ vào nhà cảnh sát cả. - Thế tưởng phải trông thấy cái gì? Song sắt cửa sổ hả? Hay là người gác ngoài cửa? - , , chẳng qua thấy ngồ ngộ. - Thế đến kết luận gì rồi? căn nhà bình thường như nhà của bất kỳ người nào khác có phải thế ? - Vâng, có lẽ... về mặt nào đó. - Thế ý định gì? - , chẳng có gì đặc biệt đâu ạ. ta nhấp cốc rượu chút rồi hỏi: - có thích làm cảnh sát ? Brody thể dò biết được trong câu hỏi của ta có thù địch hay . đáp: - Có. Đó là công việc tốt, trong đó mang ý nghĩa nhất định nào đó. - Ý nghĩa nào vậy? - Ra biết à? - hỏi, giọng hơi phật ý. - Giữ gìn trật tự an ninh. - có cảm thấy thái độ xa lạ ? - Việc đếch gì tôi phải cảm thấy thái độ xa lạ? Xa lạ với ai? - Với mọi người ấy. Em muốn rằng ý nghĩ chính của đời là cho mọi người biết cái gì họ được làm. Chả lẽ điều ấy khiến cảm thấy mình giống với mọi người? Thoạt đầu Brody nghĩ rằng bị chọc ghẹo, nhưng hề mỉm cười, cũng hề giễu cợt và hề đưa mắt nơi khác. : - , tôi cảm thấy mình " giống với mọi người". Tôi hiểu tại sao tôi phải có mặc cảm ấy, mà có, giả dụ như tại vì đứng bán ở cái quầy, gọi là quầy gì nhỉ, bisơ... - "Bibelot". - À thế buôn bán gì ở đó nhỉ? - Chúng em bán quá khứ cho mọi người. Điều ấy an ủi họ ghê lắm. - Bán quá khứ nghĩa là thế nào? - Chúng em bán những đồ vật cổ. Đến mua là những người căm ghét cái tại của họ và chỉ lấy được tự tin khi quay về với dĩ vãng của mình. Của mình hoặc là của người. Họ mua những đồ vật cổ, cũng coi như thế là trở về với quá khứ. Xin cuộc với là cái ấy cũng quan trọng lắm. - Cái gì? Quá khứ ấy à? - , việc lấy được tự tin ấy. Chẳng lẽ đấy phải là cái chủ yếu nhất trong nghề cảnh sát hay sao? Brody liếc nhìn đầu kia căn phòng và trông thấy chiếc cốc rỗng của Meadows. - Xin lỗi, tôi phải bày tỏ chu đáo với người bạn của tôi . - Tất nhiên rồi. chuyện với thích . Brody đem cốc của Meadows và của xuống bếp. Ellen chất bánh lương khô ngô hình que vào đầy liễn. - Em đào chỗ quái nào ra nàng này thế? - Brody hỏi. - Ai cơ? Daisy ấy à? Em với rằng ấy làm ở "Bibelot". - bao giờ em chuyện với ta chưa? - Có ít nhiều. Theo em nghĩ ấy rất xinh, lại cũng ngốc. - ta kênh kiệu lắm. Những kẻ như thế mà ngoác họng ra ở đồn cảnh sát bọn cho biết tay liền. rót cho Meadows trước, rồi đến lượt . Ngước mắt lên, thấy Ellen nhìn chăm chăm vào tận mặt . - làm sao thế? - chị hỏi. - thích khách khứa cứ lăng mạ ngay trong ngôi nhà của . - Em xin , Martin. Em tin rằng ấy muốn lăng mạ đâu. Chắc là ấy chẳng qua chỉ những điều ấy nghĩ, cái đó giờ được chuộng mà, biết đấy. - Báo trước cho em biết rằng nếu ta còn điều gì đại loại như thế này là buộc phải ra khỏi nơi đây ngay lập tức. cầm hai cái cốc và tiến ra phía cửa, Ellen gọi lại: - Martin... - Brody đứng lại - Em van ... Hãy vì em. - Thôi đừng lo. Mọi chuyện đều tốt đẹp. rót đầy các cốc của Hooper và Daisy Wicker, nhưng rót thêm cho mình. Sau đó, ngồi xuống đivăng, vừa nhấm nháp uýt-xki vừa nghe câu chuyện dài dòng nào đó mà Meadows kể cho Daisy. Brody cảm thấy trong người hề gì, thậm chí còn sung sức nữa là khác, và biết rằng nếu từ giờ đến bữa ăn tối uống nữa, đâu vào đấy cả. Đến tám rưỡi Ellen bưng từ dưới bếp lên bát đĩa để đựng súp và bày ra bàn. Chị : - Martin, mở rượu nhé, để em mời khách vào. - Rượu à? - Ở dưới bếp có ba chai. Rượu trắng ở trong tủ lạnh, còn rượu đỏ giá. Mở luôn lượt nhé. Rượu đỏ phải để cho nó "thở" lúc. - Tất nhiên là phải để thế rồi, - Brody vừa đứng dậy vừa . - Có ai lại phải để cho nó thở? - À, mà cái tire-bouchon ở giá cạnh các chai ấy nhé. - Cái gì? - Tire-bouchon, cái vặn nút chai ấy mà, - Daisy Wicker . Brody thấy thỏa mãn khi thấy Ellen đỏ mặt. Điều ấy giúp khắc phục được lúng túng của riêng mình. tìm thấy cái vặn nút chai và ra tay mở mấy chai rượu đỏ. cái nút cẩn thận lôi được ra nhưng nút khác vỡ vụn ra, mảnh chui vào trong chai. Sau đó lấy rượu trắng trong tủ lạnh và trong lúc hí hoáy mở nó, vẫn cố phát tên rượu "Montrachet". Sau khi cảm thấy đạt được phát chấp nhận được, lấy khăn bếp lau khô chai và mang nó lên phòng ăn. Ellen ngồi ở cuối bàn, Hooper ở bên trái chị, Meadows bên phải. Cạnh ông ta là Daisy Wicker, còn đối diện với Daisy là Dorothy Meadows. Chỗ ngồi của Brody ở đầu bàn phía xa. Brody đứng bên phải đến tay trái chắp sau lưng, bắt đầu rót rượu đầy các cốc. - Cốc "Mount Rachet". - cất giọng. - Năm rất tốt, 1970. Tôi còn nhớ kỹ lắm. - Thôi đủ rồi, - Ellen vừa vừa khẽ nâng cổ chai lên.- Đừng rót đầy đến tận miệng. - Xin lỗi, - Brody đáp và rót cho Meadows. Rót xong rượu, ngồi vào chỗ của mình. nhìn đĩa súp đặt trước mặt, rồi trộm liếc sang khách khứa - quả thực mọi người đều ăn súp, vậy là đâu phải chuyện vớ vẩn. bèn cầm lấy thìa múc súp. Súp lạnh, chẳng giống súp tí nào, nhưng hoàn toàn ăn được. - Em thích gazpacho, - Daisy lên tiếng, - nhưng làm món này công phu lắm nên em hay nấu. - M-m-m-m, - Brody hầm hừ khi múc thìa thứ hai. - thường ăn món này chứ? - , hay ăn lắm... - bao giờ thử M và G chưa? - , tôi dám khoe mẽ. - nên thử. Với lại, chắc là cảm thấy thích thú đâu, vì nó trái luật pháp. - Chị muốn cái ấy trái luật pháp à? Thế là thế nào? Cái ấy là cái gì? - Marijuana và gazpacho. Đáng lẽ cho gia vị thay bằng cách rắc ít marijuana lên . Sau đó hút tí, ăn tí, hút tí, lại ăn tí. Kích thích ghê lắm. Cả phút trôi qua rồi Brody mới hiểu ta cái gì, và ngay cả lúc hiểu, cũng trả lời ngay. nghiêng đĩa về phía mình, ăn hết chỗ súp, làm hơi hết chỗ rượu rồi lấy khăn ăn lau miệng. Thoạt tiên nhìn Daisy, ta mỉm cười với , sau đó sang Ellen, lúc này vừa mỉm cười vừa nghe Hooper . - Đúng như thế đấy, - Daisy . Brody quyết nén lòng để khỏi làm Ellen mất vui. : - Thấy , tôi ... - Xin cuộc nào, Matt thử rồi. - Có thể là ấy thử rồi. Nhưng tôi hiểu thế nào là... - Matt này, xin lỗi nhé, - Daisy to. Tiếng chuyện ở đầu bên đằng kia bặt . - Em tò mò muốn hỏi xem thử M và G bao giờ chưa? À, chị Brody ạ, món gazpacho này cực kỳ lắm. - Cám ơn cứ khen, - Ellen đáp. - Nhưng M và G là cái gì cơ chứ? - Tôi thử lần rồi, - Hooper lên tiếng, - Nhưng chưa bao giờ tôi say mê thực cái đó cả. - phải cho tôi hay, cái đó là cái gì? - Ellen cầu. - Thôi để Matt cho chị biết, - Daisy trả lời. Brody đứng dậy và bắt đầu thu các đĩa súp lại. Khi xuống tới bếp, cảm thấy hơi buồn nôn và chóng mặt, trán túa mồ hôi. Nhưng khi đặt chồng đĩa vào bồn rửa cơn buồn nôn qua , đầu cũng còn quay cuồng nữa. Ellen xuống bếp theo sau và buộc tạp dề quanh eo lưng. - Em cần có tay giúp, phải thái thịt bây giờ, - chị . - Thái thái, - Brody đáp và tìm con dao và chiếc đĩa trong tủ. - Này, thế em nghĩ gì về cái đó? - Về cái gì cơ? - Về cái M và G ấy mà? Hooper với em nó là cái gì chưa? - Rồi. Kể cũng hay hay đấy chứ nhỉ? Phải thừa nhận rằng cái này ngon. - Làm sao em biết được? - Chẳng ai biết đàn bà chúng tôi làm gì, khi chúng tôi cùng nhau tụ tập ở quân y viện cả. Này, thái , - chị lấy cái dĩa chạc hai xiên miếng thịt cừu đặt lên thớt. - Thái như làm bít tết ấy, những lát dày độ ba phần tư insơ. - Cái con Wicker quỷ quái ấy kể cũng đúng, - Brody suy nghĩ khi đưa lưỡi dao lên miếng thịt: quả thực mình cảm thấy xa lạ. Cắt được miếng thịt, Brody lại lên tiếng: - Này em, hình như em bảo rằng cái này là thịt cừu phải ? - Phải rồi, thịt cừu đấy. - Rán còn chưa kỹ này. Em nhìn mà xem. - giơ mẩu thịt cắt, hãy còn hồng hồng, ở chính giữa gần như có màu đỏ. - Ấy nó phải như thế đấy. - , nếu cái này là thịt cừu, phải được như thế. Thịt cừu phải rán kỹ, rán cho ra rán. - Martin, hãy tin em đây này. Làm món thịt cừu áp chảo là phải như thế. Xin bảo đảm với như vậy. Brody cao giọng: - Tôi muốn ăn thịt cừu sống. - Suỵt suỵt! Lạy Chúa, khe khẽ chứ. Brody thào, giọng khàn khàn: - Hãy đặt miếng thịt khỉ gió này lên chảo lại, cho nó đủ chín . - Nó rán xong rồi. Nếu muốn ăn thôi, chứ em dọn ra đúng như thế. - Thế mà thái lấy, - Brody quẳng dao và dĩa lên thớt, lấy hai chai rượu đỏ rồi bước ra khỏi bếp. - Phải đợi tí vậy, - với khách khứa khi lại bàn ăn, - đầu bếp còn thết chúng ta thịt cừu nữa. ấy muốn bưng cừu sống lên, nhưng sợ nó cắn mất chân ấy. - Brody giơ cao chai rượu lên phía mấy cốc rượu cạn. - Tôi hiểu tại sao lại đổ rượu đỏ vào đúng những cốc chứa rượu trắng được nhỉ? - Các vị ngon của rượu hòa hợp với nhau, - Meadows đáp. - Ông muốn rằng vì thế mà nó phình lên à? - Brody rót đầy sáu cốc rượu rồi mới ngồi xuống. làm hớp . - Ngon, - rồi làm tiếp hớp nữa. Rồi lại rót đầy cốc. Ellen bưng thớt thịt làm xong ra khỏi bếp. Chị đặt nó lên chạn cạnh chồng đĩa. Rồi lại xuống bếp và trở lên, tay mang hai đĩa pha các phụ gia. - Chắc các vị thích thịt, - chị . - Đây là lần đầu tiên tôi chế món này theo đơn dạy. - Món gì vậy? - Dorothy Meadows hỏi. - Mùi nức mũi quá. - Món cừu áp chảo, trộn với nước chấm. - Thế kia à? Nước chấm có những gì? - Có gừng, tương và nhiều thứ khác nữa. - Chị đặt vào các đĩa những miếng thịt cừu, măng tây, bí trắng và đưa cho Meadows, Meadows đặt đĩa xuống bàn. Khi Ellen ngồi đâu vào đấy, Hooper nâng cốc lên, : - Tôi xin nâng cốc mừng chị đầu bếp. Mọi người đều nâng cốc. Brody : - Chúc thành công. Meadows bỏ miếng thịt vào mồm, nhai nhai thưởng thức. - Chúa thằn lằn! - ông thốt lên, - Như món thịt philê nhuần nhuyễn nhất ấy, còn ngon hơn là khác. Chà, thơm phưng phức! - Được nghe những lời ấy ở hân hạnh quá! - Ellen đáp. - Ngon hết chỗ , - Dorothy xác nhận. - Chị chỉ cho tôi cách làm nhé? Từ nay trở thể nào Harry nhà tôi chẳng đòi tôi cũng làm món ăn như thế này ít nhất là mỗi tuần lần. - Thế ấy có mà phải cướp nhà băng trước , - Brody đế vào. - Nhưng mà ngon dễ sợ, Martin ạ, có thấy thế ? Brody đáp. đưa miếng thịt vào mồm và bỗng lại cảm thấy còn buồn nôn. Mồ hôi lại túa ra trán. có cảm giác như thể có người nào khác điều khiển thân thể mình và chủ động được những cử động của mình. Cái dĩa trở nên nặng trình trịch, đâm sợ: nhỡ nó trượt khỏi những ngón tay và rơi đánh cách xuống bàn. siết chặt nó trong nắm tay. Brody biết rằng nếu lúc này mở miệng cái lưỡi tuân theo nữa. Ắt là tại rượu. Hết sức cẩn trọng, phòng xa, vươn người về phía trước và đẩy cốc rượu . Những ngón tay trượt mặt bàn trải khăn, cố hất đổ cốc rượu. Sau đó ngả người ra lưng ghế và hít thở sâu. Mắt mờ tối. cố gắng chỉ nhìn lên bức tranh treo đầu Ellen, nhưng Ellen trò chuyện với Hooper, điều ấy khiến mất tập trung. Lần nào cũng vậy, hễ quay sang với ta là Ellen lại chạm vào tay ta nhàng mà Brody tưởng chừng như họ có những bí mật riêng của hai người. nghe mọi người chuyện trò gì bên bàn ăn. Câu cuối cùng lọt đến thính giác là " nghĩ thế à?". Câu ấy được ra vào lúc nào? Ai ? . dòm sang Meadows, người chuyện với Daisy. Sau đó nhìn sang Dorothy rồi cất giọng gần như thành tiếng. - Vâng. - gì thế, Martin? - Dorothy nhìn . - cái gì thế? thể mở miệng được. muốn đứng dậy xuống bếp. Thế nhỡ đôi chân nó phản lại , nghĩ, chỉ có thể lần được xuống đấy nếu có cái gì để vịn. Hãy cho ung dung, tự nhủ thầm. qua hết. Và thế là nó qua. Đầu bắt đầu rạng dần lên. Ellen lại động vào tay Hooper. Cứ câu gì đó là lại động vào, cứ là động tay. - Phù, nóng quá, - , đứng lên và bước cẩn thận, nhưng chắc chắn, về phía cửa sổ mở toang nó ra, sau đó tì tay lên bậu cửa, mặt áp vào tấm lưới. - buổi tối kỳ diệu, - , đoạn thẳng người lên. - Có lẽ tôi uống cốc nước mới được. - vào bếp, lắc lắc đầu. Rót cốc nước đầy và uống cạn tận đáy, rồi lại rót đầy và lại uống hết. làm vài động tác hít sâu, rồi quay lên phòng ăn ngồi vào chỗ. nhìn đĩa thức ăn. Kìm cơn rùng mình, mỉm cười với Dorothy. - Vị nào xơi thịt cừu nữa ? - Ellen hỏi. - Ở đây còn nhiều. - Ấy, ấy! - Meadows thốt lên. - Đầu tiên chị hãy xúc cho những người khác . Chứ trao chỗ ấy cho tôi chẳng ai còn có phần nữa. - Này, ông bảo gì ngày mai đây? - Brody lên tiếng. - Cái gì? Brody hạ giọng và vẻ trịnh trọng: - thể tưởng tượng nổi, nhưng mình tôi xơi cả món thịt cừu đấy. Meadows và Dorothy phì cười, còn Hooper theo giọng bè cao có hát đuổi: - , Ralph ơi, đấy là tôi ăn đấy. - Bây giờ đến Ellen cũng phải phá lên cười. Buổi liên hoan ràng là thành công. Đến món tráng miệng, lúc kem cà phê pha rượu mùi được bưng ra Brody cảm thấy tỉnh táo. ăn liền hai cốc kem, khoan khoái tán chuyện với Dorothy. Sau đó, miệng nở nụ cười, bắt đầu lắng nghe Daisy kể chuyện ngày lễ Tạ ơn lần trước, khi bỏ marijuana vào thịt gà tây làm gia vị ra sao. kể: - Em lo sốt vó lên khi có bà thím chồng gọi điện thoại đến và hẹn đến chơi nhà em vào bữa tối. Con gà làm rồi, cho marijuana rồi. - Rồi sau sao? - Brody hỏi. - Em cho bà thím miếng thịt gà có gia vị, nhưng thím muốn miếng có gia vị cơ. Thế là em đánh liều muốn ra sao ra, cứ xúc cho thím thìa gia vị to. - Rồi sao nữa? - Đến cuối bữa ăn thím ấy cười khanh khách như trẻ con. Còn nổi hứng muốn nhảy nữa. - May là có tôi ở đấy. Chứ tôi bắt về tội phá hoại nền tảng đạo đức của bà già chưa chồng. Cà phê uống ngoài phòng khách, Brody đề nghị uống thứ gì mạnh hơn, nhưng trừ Meadows, còn ai nấy đều từ chối. - Chỉ ly cônhắc bé tí thôi, - ông ta . đưa mắt sang Ellen như muốn hỏi có cônhắc . Ellen bèn lên tiếng: - Hình như trong chạn ấy. Brody rót cho Meadows rồi nghĩ biết có nên rót cho mình . Nhưng kiềm chế được. Đừng có liều, quyết định trong bụng. Chỉ sau mười giờ chút là Meadows bắt đầu ngáp. - Dorothy này, có lẽ đến lúc chúng mình nhổ neo rồi, - ông ta . - khó mà thực được nghĩa vụ công dân của mình, nếu nán lại đây muộn quá. - Em cũng phải về đây, - Daisy lên tiếng. - Tám giờ mai phải có mặt ở nơi làm việc. Chẳng thể là dạo này hàng họ bán chạy được nhiều. - Đâu phải chỉ có chỗ mới thế, bạn thân mến ạ, - Meadows . - Em biết. Nhưng làm việc ở cửa hàng ký gửi cảm thấy chuyện đó sâu sắc hơn. - Thôi ta cũng hy vọng là thời buổi tồi tệ nhất qua rồi. Nếu như tôi hiểu đúng lời của vị chuyên gia của chúng ta đây, nhiều phần chắc là con Leviathan này bỏ rồi. - Meadows đứng dậy. - Đấy chỉ là giả định của tôi thôi, - Hooper trả lời. ta cũng đứng dậy. - Tôi đến lúc phải về. - Ấy, đừng vội! - Ellen thốt ra. Trong lời của chị có hưởng lời van nài tuyệt vọng. Chị thấy lúng túng bèn thêm: - Mới có mười giờ. - Tôi hiểu, - Hooper đáp. - Nhưng nếu ngày mai thời tiết khả dĩ được là tôi muốn dậy sớm chút và ra biển. Hơn nữa tôi có ô tô, tôi có thể đưa Daisy về nhà. - Thế tuyệt. - Daisy ngay, giọng ta luôn luôn bằng phẳng, có gì khởi sắc. - chị Meadows chở ấy cũng được, - Ellen bàn góp. - Đúng, - Hooper đáp. - Nhưng thực tình tôi phải về để ngày mai dậy sớm. Dù sao nữa cũng xin cám ơn chị. Họ chia tay nhau ngoài cửa - những lời cảm tạ, những câu xã giao thông thường. Hooper ra về cuối cùng và khi ta chia tay cho Ellen chị kéo bàn tay ấy vào hai tay mình và : - Cám ơn rất nhiều về món quà răng cá mập. - Có gì đâu. Tôi lấy làm sung sướng vì chị thích món quà ấy. - Còn cám ơn chiều lũ trẻ nữa. Chúng nó khao khát được làm quen với lắm. - Tôi cũng thấy rất dễ chịu khi bắt quen với các cháu. Có lẽ, đó cũng là bàn tay của số phận. Hình như tôi cũng bằng tuổi cháu Sean khi lần đầu tiên trông thấy chị. Chị hầu như thay đổi gì cả. - Mà dĩ nhiên là thay đổi. - Tôi hy vọng là như vậy. tôi hề muốn cứ ở cái tuổi lên chín suốt cả đời làm gì. - Chúng tôi còn gặp lại trước khi khỏi đây chứ nhỉ? - Hẳn là như vậy. - Thế hay lắm, - chị thả tay Hooper ra. ta chóng vánh chúc Brody ngủ ngon rồi bước lại chiếc ôtô. Ellen đứng ở cửa cho mãi tới khi chiếc ô tô cuối cùng lăn bánh ra đường cái. Chị tắt đèn bậc tam cấp, rồi lời, quay vào thu dọn cốc tách và gạt tàn bàn. Brody mang chồng đĩa ăn tráng miệng xuống bếp và thả chúng vào bồn rửa. - Chà, mọi việc diễn ra tốt đẹp cả. - Brody như vô tình mà ngụ ý gì. - Nhưng chỉ có điều trong đó có phần công nào của cả, - Ellen nặng lời đáp lại. - Cái gì? - cư xử phát gớm. - ? - hết sức ngạc nhiên vì điệu đay nghiến trong giọng vợ. - cũng có hơi khó chịu trong người chốc lát nào đó, nhưng nghĩ là... - Cả buổi liên hoan từ đầu đến cuối xấu thói phát khiếp. - nhảm! - đừng có làm lũ trẻ thức dậy. - Tôi đếch cần biết. Tôi cho phép đay đả tôi, coi tôi như cục cứt được. Ellen cay đắng mỉm cười. - thấy chưa? Lại y sì cái thói của mình. - Thế nào là "y sì cái thói của mình"? muốn hoạnh cái gì? - Em muốn chuyện ấy nữa. - Ái chà, ra thế cơ đấy? muốn chuyện ấy? Nghe này... Thôi được, đúng lắm về chuyện cái chỗ thịt chết tiệt ấy. Lẽ ra nên nổi nóng. Xin lỗi. Bây giờ… - Em là em muốn chuyện ấy nữa! Brody chỉ chực nổ tung ra nhưng kìm lại. tỉnh rượu đến mức hiểu rằng ngoài những nghi ngờ mơ hồ ra, có cơ sở để mà kết tội, vả lại Ellen cũng sắp bật khóc lên rồi. Nước mắt ấy tuôn ra dù là vào phút giây vui mừng hay giận dữ cũng đều làm nao núng. Vì thế chỉ : - Thôi được, xin lỗi em tất cả. - ra khỏi bếp và bước lên cầu thang. Trong phòng ngủ, khi cởi mớ quần áo ra, chợt nhận ra rằng tất cả những cau có khó chịu kia, tất cả những tai ương của là tại con cá, tại con vật ngu xuẩn nào đó mà thậm chí chưa nhìn thấy bao giờ. phi lý ấy gợi ra ở nụ cười. nằm vật ra giường và gần như đầu chỉ vừa chạm gối thiếp giấc ngủ say.
8 Brody tỉnh dậy bất thình lình, như bị cú thúc, và linh cảm thấy có điều chẳng lành. vươn nhanh tay ra cốt để chạm vào Ellen. Nhưng giường có Ellen. hơi nhổm dậy, trông thấy chị ngồi ghế bên cửa sổ. Mưa quất vào cửa kính và nghe thấy tiếng gió rít tán lá cây. - ngày xấu trời khiếp nhỉ? - . Chị chẳng đáp lại, mà vẫn chăm chú nhìn những giọt nước chảy theo mặt kính. - Sao em dậy sớm thế? - Chả ngủ được gì cả. Brody ngáp. - chẳng thể được như thế về mình. - Thế có gì mà ngạc nhiên. - Gớm. Em lại y sì ý mình rồi. Ellen lắc đầu. - Đâu phải. Xin lỗi . Em thế thôi chứ đâu có ý gì. - Giọng chị buồn bã, u sầu. - Chuyện gì thế? - Chả có chuyện gì cả. - Thôi được, tùy em. Brody xuống khỏi thường và vào buồng tắm. cạo râu, mặc quần áo rồi xuống bếp. Lũ trẻ ăn sáng xong, Ellen rán trứng cho chồng. - Các con định làm gì vào cái ngày u này? - hỏi. - Lau chùi lưỡi hái ạ, - Billy đáp. Mùa hè nó giúp việc chỗ bác làm vườn của địa phương. - Con chúa ghét những ngày mưa! - Thế còn các con? - Brody quay về phía Martin và Sean. - Martin đến câu lạc bộ dành cho nam thiếu niên, - Ellen , - còn thằng Sean cả ngày ở bên nhà Santos. - Thế còn em? - Cả ngày em ở bệnh viện. May quá, nhắc em mới nhớ: trưa em về ăn đâu. có thể tự ra ăn ngoài thị trấn đuợc chứ? - Tất nhiên. biết là thứ tư hàng tuần em làm việc cả ngày. - Ấy, thường xuyên đâu. Nhưng bạn bị ốm, em hứa làm thay. - Ra thế cơ à? - Em về vào bữa tối. - Thế hay lắm. - À, hay là tiện đường làm đưa Sean và Martin nhé? Em muốn mua bán chút đường đến bệnh viện. - Được thôi. - Khi về em đón chúng nó. Brody và hai đưa trước tiên. Sau đó đến Billy, nó trùm lên đầu cái áo mưa, rồi lên xe đạp . Ellen nhìn đồng hồ treo tường trong bếp. Còn vài phút nữa là tới tám giờ. Quá sớm chăng? Có thể lắm. Nhưng phải đến gặp ấy ở khách sạn, nhỡ ấy đâu mất, lại lỡ dịp. Chị duỗi tay phải về phía trước, cố gắng run ở đầu ngón tay, nhưng đạt lắm. Chị tự cười hồi hộp của mình. "Mi chẳng thích hợp với vai trò kẻ phóng đãng cho lắm", - chị thầm. Lên tới phòng ngủ, chị ngồi xuống giường lấy cuốn danh bạ điện thoại màu xanh lá cây ra. Tìm thấy số điện thoại của khách sạn "Biểu trưng của Abelard", chị đặt tay lên máy, do dự giây, sau đó nhắc ống khỏi giá đỡ và quay số. - "Biểu trưng của Abelard" đây. - Xin cho số máy của ông Hooper. Matt Hooper. - Đợi phút nhé... Hooper... Vâng, xin mời chị. Bốn năm. Tôi nối dây. Ellen nghe thấy điện thoại réo lần rồi lần thứ hai. Chị nghe thấy tiếng đập của trái tim mình và nhìn thấy mạch đập phập phồng nơi cổ tay phải. "Hãy đặt máy xuống. - chị tự nhủ bản thân. - Đặt xuống. Hãy còn chưa muộn." - A lô? - giọng của Hooper vang lên. Ôi, Thượng đế nhân ái ơi, chị nghĩ, nhỡ đâu Daisy Wicker ở trong phòng ta sao? - Alô? Ellen nuốt đánh ực cái. - Xin chào. Tôi đây... Tôi muốn là Ellen đây. - Ồ, chào chị. - Chắc tôi làm lỡ giấc ngủ của chứ? - đâu. Tôi chuẩn bị xuống ăn sáng. - Vậy à? Ngày hôm nay trời chán quá nhỉ, có thấy thế ? - Có. Nhưng tôi lấy thế làm buồn bã gì cho lắm. Hôm nay tôi được ngủ thả cửa, thế đối với tôi là điều xa xỉ. - Hôm nay, ... phải làm việc à? - Tôi . Cũng băn khoăn chuyện ấy. Lên canô thời tiết này ít trông mong gì có kết quả. Ellen lặng im, đầu chị quay cuồng, ý nghĩ lộn xộn. "Nào, can đảm lên, - chị tự khích lệ. - Cứ hỏi ta ". - Tôi nghĩ... - ", hãy cẩn thận. Đừng có ngay tức ". - Tôi muốn cám ơn về cái bùa tuyệt diệu. - Có gì đâu. Tôi mừng vì thấy chị thích nó. Nhưng tôi mới là người phải cám ơn chị. Bữa liên hoan thú thế. - Tôi... chúng tôi cũng vui mừng. Tôi mừng, vì đến. Cũng giống như hồi xưa ấy. - Vâng. " đến lúc rồi đây, - chị bụng bảo dạ. - Can đảm lên". - có biết tôi vừa nảy ra ý nghĩ gì ? Nếu hôm nay phải sửa soạn làm việc, tôi muốn là nếu hôm nay thể lên tàu ra biển được, tôi nghĩ, hay là... nếu phản đối... nếu rảnh, chúng ta có thể cùng nhau ăn trưa. - Ăn trưa? - Vâng. hiểu , nếu có những việc khác, tôi nghĩ là chúng ta có thể ăn trưa. - Chúng ta? Chị muốn chị, ấy và tôi? - , chỉ có với tôi thôi. Martin thường ăn trưa ngay trong phòng làm việc ở cơ quan. Nhưng tôi muốn phá chương trình của . Dĩ nhiên, nếu bận nhiều việc... - , . Tôi đồng ý. Rất sẵn sàng. Chị muốn ăn ở đâu vậy? - Có tiệm ăn rất khá ở Sag Harbor. Tiệm "Banner". vào đấy chưa? Trong thâm tâm chị mong ta chưa vào. Chị cũng chưa vào, có nghĩa là ở đó ai biết chị cả. Nhưng chị có nghe đấy là hiệu rất cừ. nhạc nhàng, ánh sáng mờ dịu. - , tôi chưa bao giờ vào đấy cả, - Hooper đáp. - Nhưng ở Sag Harbor? Liệu có quá xa ? - , xa đâu, chỉ xe mất cả thảy mười lăm hai mươi phút thôi. Tôi có thể gặp mặt ở đó, giờ nào thấy tiện. - Bất kỳ lúc nào đối với tôi cũng đều được cả. - Thế mười hai rưỡi nhé. - Tốt thôi, mười hai rưỡi. Tạm biệt. Ellen ngắt máy. Tay chị vẫn còn run, nhưng nỗi hân hoan khác thường bao trùm lấy chị. Mọi xúc cảm của chị dường như được thức tỉnh, sắc bén hơn. Chị khoan khoái hít vào hương vị bốn xung quanh. Mọi thanh bé nhất trong nhà - tiếng ken két, tiếng sột soạt, tiếng gõ đều vang lên trong tai chị như ban nhạc giao hưởng. ham muốn lâu nay chị chưa trải qua, bừng lên trong chị như thế làn sóng ấm áp nào đó xô vào chị, vừa dễ chịu lại vừa dễ chịu. Chị bước vào phòng tắm vặn vòi sen. Chị cạo chân và nách. Chị hối tiếc là mua lấy trong các loại bầu chất khử mùi dành riêng cho phụ nữ mà người ta vẫn quảng cáo om sòm, vì thế chị bèn phun nước hoa khắp mình. Trong phòng ngủ có tấm gương lớn soi toàn thân. Chị đứng trước gương chăm chú ngắm mình. Chị vẫn còn nhan sắc hay ? Chị còn có thể khiến người ta chú ý, say mê nữa ? Chị vẫn chuyên tập thể dục để giữ gìn thân hình, giữ gìn duyên dáng, tươi trẻ. Chị thể để cho ý nghĩ là người ta có thể chối bỏ chị lọt vào đầu được. Ellen tự cảm thấy thích mình. Nếp nhăn cổ còn ít, nhìn kỹ lắm mới thấy. Gương mặt sạch mịn màng. Vẫn trơn lông đỏ da, mắt có quầng. Chị đứng thẳng người, thán phục hình thể bộ ngực mình. Eo mảnh, bụng thon là phần thưởng của bao nhiêu giờ luyện tập thân thể sau mỗi lần sinh nở. Điều duy nhất chưa đuợc ưng lắm, chị nghĩ sau khi ngắm kỹ bản thân cách có phê phán, đó là bộ đùi, dù có giàu tưởng tượng đến đâu chăng nữa cũng khó có thể gọi đấy là bộ đùi con . Nó chứng tỏ đời làm mẹ. Đó là bộ đùi của bà mẹ gia đình, như Brody có lần nhận xét. Sực nghĩ đến đấy, chị bỗng cảm thấy lương tâm bứt rứt, nhưng nó trôi qua ngay. Chân chị dài và cân đối, mặc dù bộ đùi khá mập. Bàn chân và mắt cá lý tưởng, những móng chân cắt tỉa cẩn thận có thể khiến kẻ khe khắt nhất trong việc đánh giá đôi chân cũng phải trầm trồ. Chị khoác bộ đồng phục bệnh viện lên người. Từ dưới đáy tủ, chị lấy ra gói nilông, xếp vào đó chiếc xilíp rất mảnh, xu chiêng, đôi giày gót thấp, bầu khử mùi, lọ nhựa đựng phấn thơm, bàn chải đánh răng, ống thuốc đánh răng và cùng là chiếc áo dài lụa màu tím nhạt được gấp cẩn thận. Chị mang bao nilông theo người ra gara, quẳng nó lên ghế sau của chiếc "Volkswagen", phóng lên đường, bon về bệnh viện Southampton. xe làm chị mỏi mệt, chị cảm thấy thân thể rã rời. Cả đêm hôm qua chị có ngủ đâu. Đầu tiên chị lên giường nằm, sau đó ra ngồi bên cửa sổ, lòng cồm cộm những tình cảm mâu thuẫn nhau nhất: những xúc cảm mãnh liệt và cắn rứt lương tâm, ham muốn và ăn năn. Chị cái kế hoạch cuồng dại, mạo hiểm này nảy ra như thế nào. Chị cố gắng xua đuổi những ý nghĩ ấy và đồng thời lại cứ hay nghĩ đến nó, ngay từ cái hôm lần đầu tiên chị gặp Hooper. Chị tự thuyết phục rằng trò này cũng đáng bỏ công sức vào, tuy hoàn toàn hiểu rằng để đạt đến cái gì. Chị chỉ biết rằng đời chị phải có cái gì đó, ít ra là cái gì đó, thay đổi. Chị thèm được cảm thấy, lại cảm thấy mình được người ta thèm muốn. Được thèm muốn chỉ đối với chồng, chỗ này chị thiếu, mà còn đối với ai đó trong số người mà chị coi là ngang bằng với mình hơn, ai đó thuộc tầng lớp mà lâu nay chị vẫn tự xếp mình vào. Chị hiểu rằng chị cần cái lay động mạnh, nếu có cái gì đó chết trong lòng. Dĩ nhiên, thể tái tạo lại quá khứ. Còn nếu gợi nó về trong tâm tưởng để cảm được nó bằng tâm hồn và thể xác, có sao? Chị khát khao muốn được quay về với dĩ vãng dù chỉ trong thời gian ngắn ngủi, mà giúp chị làm được việc đó chỉ có thể là Matt Hooper. Ý tưởng về tình chưa lần nào đến trong đầu chị. Chị cũng hề tính đến những mối quan hệ sâu sắc, bền vững với Hooper. Chị chỉ hy vọng rằng việc thực kế hoạch của chị tái sinh cho cuộc đời chị. Ellen hài lòng vì ở bệnh viện người ta giao cho chị công việc đòi hỏi ở chị chú tâm và biết chuyện với mọi người, điều ấy kéo chị khỏi những ý nghĩ riêng tư. Ellen và phụ nữ nữa đổi khăn lót giường cho các bệnh nhân già, mà đối với nhiều người trong số đó bệnh viện trở thành gần như là nhà, đối với vài người đó là chỗ nương náu cuối cùng. Chị cố gắng nhớ tên tuổi con cháu họ sống ở các thành phố xa, nghĩ ra các tình huống khác nhau và những người kia thể viết thư cho bố mẹ được. Chị làm ra vẻ nhớ nội dung các vở kịch truyền hình mà họ đến, bàn luận với họ, tại sao nhân vật nào đó trong vở kịch lại bỏ vợ vì nàng phiêu lưu nào đó, mặc dù ngay điều rằng nàng ấy là kẻ phiêu lưu. Tới mười giờ bốn lăm Ellen với người phụ nữ luống tuổi trong nhóm rằng chị thấy trong người khó ở. Cái chỗ tuyến giáp trạng lại trở chứng đây, thêm vào đó lại đến kỳ kinh nguyệt. Chị muốn nằm nghỉ chút trong phòng dành cho nhân viên. Còn nếu như lát nữa cảm thấy khá hơn đến phải về nhà thôi. Tóm lại, nếu đến quãng rưỡi mà chị quay ra làm việc có nghĩa là chị về nhà rồi. Sau bấy nhiêu lời phân bua, chị hy vọng là chẳng ai còn tìm chị làm gì nữa. Chị vào phòng nghỉ, đếm cho đến hai mươi và khẽ mở hé cửa dòm xem có ai ngoài hành lang . Ngoài hành lang chẳng có ai. Đa số nhân viên ở trong quán điểm tâm giải khát ở đầu kia của ngôi nhà. Chị lẻn ra hành lang, khẽ khàng đóng cửa lại sau lưng, quặt nhanh qua lối cửa bên sườn để ra khỏi bệnh viện, ngay ra bãi để ôtô. Khi xe chạy gần đến Sag Harbor, chị đỗ lại bên trạm tiếp xăng. Khi thùng xăng đầy, tiền trả, chị mới hỏi xin phép vào nhà vệ sinh phụ nữ. Người nhân viên đưa chị chìa khóa. Chị vòng qua cây xăng và đến cửa nhà vệ sinh đứng lại. Mở khóa xong, nhưng đáng lẽ vào, chị lại trao chìa khóa cho người nhân viên trạm xăng và quay ra xe lấy gói nilông rồi mới vào buồng vệ sinh, cài phía trong cửa lại. Sau đó chị cởi quần áo ra, đứng chân đất xuống sàn lạnh. Nhìn vào gương gắn ở phía bồn rửa chị chợt hiểu rằng chị dấn vào cuộc phiêu lưu mạo hiểm đến mức nào. Chị vảy bầu chất khử mùi lên nách, xuống chân. Chị lôi cái xilíp trong gói nilông ra mặc vào, rắc ít phấn vào từng bầu xu chiêng rồi cài lên. Lấy tiếp chiếc áo dài trong túi ra, chị rũ áo, vuốt phẳng các nếp nhàu rồi chui đầu qua. Rắc phấn lên từng chiếc dép, lấy khăn giấy lau hai lòng bàn chân, sau đó chị dép vào. Rồi đánh răng và chải tóc, rồi dúi bộ đồng phục bệnh viện vào túi nilông, xong đâu đấy chị mở cửa, nhìn lượt tứ phía. Thấy ở cây xăng có ai, chị mới bước ra, ném bao nilông xuống ghế sau và ngồi vào tay lái. Khi rời trạm tiếp xăng, Ellen cúi rạp người xuống: nhỡ đâu người nhân viên để ý rằng chị thay quần áo. Lúc mười hai giờ mười lăm chị tới "Banner", tiệm ăn bên bờ biển Sag Harbor, nổi tiếng về bít tết và các món hải sản. Bãi để xe ở phía sau tiệm. Điều ấy khiến Ellen hởi dạ. Chị muốn nhỡ có người quen nào nhìn thấy ôtô của chị. Ellen chọn "Banner", vì nó nổi tiếng là tiệm ăn tối thời thượng, nơi các ông chủ thuyền buồm và khách nghỉ thích tiêu giờ buổi tối, như vậy tức là ban ngày ít người lai vãng. Vả lại tiệm này đắt nên dân Amity - đám viên chức, chủ các hiệu tạp hóa - vị tất đến đây ăn trưa. Ellen nhòm vào ví. Chị có gần năm mươi đô la - số tiền chị với Brody để dành ở nhà phòng khi bất trắc. Ellen cố nhớ: hai mươi đôla, năm đôla, hai tờ mười đôla và ba tờ đôla. Sau này chị đặt đúng những loại tiền ấy vào cái lon cà phê đặt trong chiếc tủ dưới bếp. Ellen để ý thấy có hai chiếc xe nữa ở bãi đỗ: chiếc "Chevrolet Vega" và chiếc xe lớn hơn màu nâu nhạt. Ellen sực nhớ rằng xe của Hooper màu xanh lá cây và có tên đặt theo tên loài động vật nào đó. Chị ra khỏi xe và rảo bước về phía tiệm ăn. Chị giơ cao tay che đầu khỏi những hạt mưa lất phất. Trong nhà khá tối, nhưng vì ngày hôm đó trời u nên con mắt chóng quen với thứ ánh sáng lờ mờ. Tiệm ăn chỉ có phòng: bên tay phải Ellen là bar, bên trái kéo dãy tám ngăn, và ở giữa có khoảng hai chục chiếc bàn . Các bức tường bằng gỗ sẫm màu có trang trí những tấm bích chương quảng cáo các trận đấu bò và các bộ phim. người đàn ông và người đàn bà - tuổi chừng ba mươi theo dự đoán của Ellen, - uống gì đó ở chiếc bàn con cạnh cửa sổ. Chủ tiệm là người còn trẻ có bộ râu để kiểu Van Dyck[26], áo sơ mi cài tít lên , ngồi sau quầy thu tiền đọc tờ "Tin tức hàng ngày New York". Ngoài ra trong tiệm chẳng còn ai. Ellen nhìn đồng hồ. gần mười hai rưỡi. - Chào chị. Chị thích dùng gì nào? - chủ tiệm nhìn Ellen hỏi. Chị tiến lại quầy. - Vâng... vâng. Nhưng mà gượm chút . Trước tiên tôi muốn... ông làm ơn chỉ giúp nhà vệ sinh nữ ở đâu ạ? - Vòng sau quầy rẽ sang phải. Rồi xuống cầu thang, cửa đầu tiên bên trái. - Cám ơn. Ellen lướt nhanh bên quầy, quay về phía bên phải và vào nhà vệ sinh. Chị dừng lại trước gương, chìa tay phải ra. Cánh tay run run, Ellen phải nắm tay lại. Bình tĩnh lại nào, chị ra lệnh cho mình. Chị phải bình tĩnh, nếu chả đến đây làm gì. Biết bao nhiêu công phu thành công cốc. Ellen cảm thấy mồ hôi túa ra, bèn thò tay vào trong áo sờ thử nách, thấy vẫn khô. Sau đó chị chải đầu, nhìn kỹ hai hàm răng. Chị sực nhớ rằng có chàng trai khi đến chỗ hẹn bảo chị rằng: " cái gì làm mình kinh tởm hơn là bựa thức ăn ở răng các ". Chị nhìn đồng hồ: còn hai mươi lăm phút nữa là đầy giờ. Ellen quay vào tiệm và nhìn ngắm căn phòng. Cũng vẫn cặp lúc nãy, vẫn người chủ tiệm và phục vụ, ta đứng bên quầy cuốn khăn bàn. - Chào chị. Chị muốn dùng gì ạ? - phục vụ hỏi khi trông thấy Ellen. - Vâng. Tôi muốn bàn, chị ạ. Và bữa ăn trưa. - Cho mình chị? - . Cho hai người. - Được, - phục vụ . ta đặt khăn xuống, lấy cuốn sổ và cùng Ellen tiến đến cái bàn giữa phòng. - Cái bàn này chị ưng ý chứ? - . Kể ra ở đây cũng đến nỗi. Nhưng tôi thích ngồi ở ngăn trong góc kia hơn, nếu chị phản đối. - Xin mời, - phục vụ đáp, - bất cứ chỗ nào mà chị thích. Cũng đâu có nhiều khách lắm mà sợ. ta dẫn Ellen đến bàn. Ellen ngồi quay lưng ra cửa, Hooper tìm được chị. Nếu ta đến. - Chị uống chút gì nhé? - Vâng. Rượu gin pha nước giải khát. Khi phục vụ rồi, Ellen mỉm cười mình. Đây là lần đầu tiên kể từ khi lấy chồng chị uống rượu vào buổi trưa. phục vụ mang rượu gin pha tới, Ellen uống hơi hết nửa cốc. Chị rất muốn cảm thấy cái hơi ấm thư giãn của rượu. Ellen sốt ruột hết nhìn ra cửa lại nhìn đồng hồ. ấy đến đâu, chị nghĩ. Sắp giờ kém mười lăm rồi. ta lại nhát gan rồi. Sợ Martin. Hay là sợ mình cũng nên. Làm sao đây nếu ta đến? Có lẽ, mình ăn trưa rồi quay lại nơi làm việc. Dù sao ta cũng phải đến! ta thể cư xử như thế với mình được. - Xin chào! Ellen giật mình vì bất ngờ. Chị hơi nhổm lên và thốt ra: - Ối! - Hoàn toàn muốn hù chị tí nào, - Hooper vui ngồi bên phía đối diện. - Xin thứ lỗi vì bị muộn. Xe hết xăng, mà chỗ trạm tiếp xăng lại như trêu ngươi, đầy những ô tô. Đường cũng chật ních. Nhưng thể lấy đấy để biện bạch được. Đáng lẽ phải sớm hơn. Vậy tôi xin lỗi nhé, lạy Chúa. - Hooper nhìn thẳng vào mắt chị mỉm cười. Chị nhìn vào cốc của mình. - Thôi, khỏi phải xin lỗi. Bản thân tôi cũng đến muộn. phục vụ đến. hỏi Hooper: - Uống cái gì đó nhé? Hooper nhìn cốc của Ellen rồi đáp: - Tất nhiên rồi. Cho rượu gin pha nhé. - Tôi cũng thế, - Ellen . - Cốc của tôi gần hết rồi. - Tôi thường uống rượu vào bữa ăn trưa, - Hooper lên tiếng, khi phục vụ khỏi. - Tôi cũng thế. - Áng chừng sau độ ba cốc là tôi bắt đầu huyên thuyên. chung chưa bao giờ tôi biết uống cho ra trò cả. Ellen gật đầu: - Với tôi cũng hệt như vậy. Tôi trở nên... - Bị rượu kích thích? Ấy, tôi cũng thế. - ư? Tôi thể hình dung được là lại bị kích thích. Tôi cứ nghĩ rằng các nhà khoa học bao giờ mất điềm tĩnh. Hooper mỉm cười, như kịch: - Thưa quý bà, có thể chúng tôi có duyên nợ với các ống nghiệm. Nhưng dưới vỏ bọc lạnh lùng, trong chúng tôi đập những trái tim của những con người xô bồ nhất, phóng túng nhất thế giới. Ellen cười khanh khách. phục vụ mang những cốc rượu đầy tới và đặt lên mép bàn hai tấm thực đơn. Hai người chuyện - đúng hơn là hàn huyên sôi nổi về thuở năm xưa, về những người quen chung của cả hai, về chuyện bây giờ con người ta đam mê thứ gì, về nghề của Hooper, về những cao vọng của . Họ đả động lời nào đến cá mập, đến Brody, đến những đứa con của Ellen. Câu chuyện cởi mở giữ kẽ rất hợp với người phụ nữ trẻ. Cốc rượu thứ hai làm lưỡi Ellen linh động hẳn lên, và chị cảm thấy hạnh phúc và tin tưởng. Ellen muốn Hooper gọi cho mình thêm rượu gin nữa, nhưng biết rằng chưa chắc ta dám. Chị bèn cầm lấy thực đơn, hy vọng làm phục vụ chú ý rồi thốt ra: - Xem xem ở đây có thứ gì ngon nào. Hooper cầm tờ thực đơn thứ hai lên nghiên cứu, và phút sau phục vụ tới bàn họ ngồi. - Chị chọn được chưa? - Chưa, - Ellen trả lời. - Trong thực đơn cái gì cũng có vẻ ngon cả. chọn được chưa, Matthew? - Gần như được rồi. - Hay là ta tạm gọi thêm mỗi người cốc rượu nữa. - Hai cốc ạ? - phục vụ . Hooper có vẻ do dự. Sau đó mới gật đầu: - Dĩ nhiên rồi. dịp thế này kia mà. Họ ngồi im lặng xem thực đơn. Thực tình mà ba cốc đối với Ellen là khá nhiều, mà chị lại muốn đầu óc tỉnh táo, cái lưỡi khua luyên thuyên. Rượu vẫn được coi là kích thích ham muốn, nhưng lại cản trở thực ham muốn. Tuy nhiên, chị nghĩ, điều đó chỉ quan hệ đến đàn ông. Mình chả phải lo. Còn Matthew ra làm sao? Giả sử là ta thể... Mình có thể giúp gì được nhỉ? Dào, chuyện ngớ ngẩn. ta mới uống có hai cốc. Đâu phải năm, phải sáu bảy cốc mà làm người đàn ông phải hổ nhục trước người đàn bà. Vả lại có bị nỗi sợ dồn thêm mới đến nước ấy. Có lẽ Matthew sợ? Chị rời mắt khỏi thực đơn, liếc trộm Hooper. Chẳng có vẻ gì là ta hồi hộp cả. Có vẻ còn ít nhiều trầm ngâm là khác. - Có cái gì đó được như ý phải ? - chị hỏi. Hooper ngước mắt lên. - Cái gì là cái gì? - chau mày. Nom có vẻ đãng trí. - Chẳng có gì đặc biệt đâu. Chẳng qua tôi thấy trong thực đơn cái món mào biển, hay là người ta gọi ra như thế. Chắc đó chỉ là cá bơn do máy cắt làm bánh. phục vụ mang cốc đến và hỏi: - Chị chọn được chưa ạ? - Rồi, - Ellen đáp. - Cho tôi món xalát với tôm và gà om nhé. - Chị muốn thêm gì vào xalát ? Có gia vị Pháp, phomát Roquefort, "Thousand Island", dầu thực vật và dấm. - Chị làm ơn cho Roquefort. - Đây có đúng là mào biển đánh ở vịnh lên ? - Hooper hỏi. - Chắc thế, - phục vụ trả lời. - Nếu như trong thực đơn ghi như vậy. - Được thế cho tôi mào biển và gia vị Pháp cho xalát. - Có cần ít aperitif[27] ? - , - Hooper vừa cầm cốc lên vừa . - Thế cũng đủ rồi. Mấy phút sau phục vụ đem xalát tôm cho Ellen. - có biết tôi thèm gì ? - Ellen đưa đẩy khi phục vụ khỏi. - chút rượu vang nào đó. - ý kiến hay, - Hooper nhìn sang chị và . - Nhưng chị nhớ cho là tôi nhắc đến việc bị rượu kích thích. Tôi dám bảo đảm cho mình đâu. - Tôi thế nào chả thế. - những lời này Ellen cảm thấy mình đỏ mặt. - Thế được, nhưng cũng nên kiểm tra lại túi tiền của mình cái . - Hooper thò tay vào túi tìm tờ giấy bạc. - Chả cần đâu. Tôi thết mà. - Chuyện vớ vẩn. Ai lại thế bao giờ. - , đấy. Tôi mời ăn trưa đấy chứ. Ellen bối rối. Chị ngờ là Hooper lại cứ khăng khăng đòi trả tiền. Ellen muốn làm phiền ta vì bắt ta phải trả tiền. Mặt khác chị cũng muốn làm phật ý vì các kiểu lo toan bề của mình, chỉ sợ chạm đến lòng tự ái đàn ông. - Tôi biết, - . - Nhưng cứ coi như tôi mời chị. ta gắng muốn đạt được những ưu thế nào đó cho bản thân? Ellen dám chắc. Nếu chắc chị sẵn sàng đồng ý, nhưng còn nếu như ta chỉ tỏ ra lịch mà thôi... - quý hóa quá, nhưng... - Tôi nghiêm túc đấy. Chị cúi mặt xuống, nghịch nghịch con tôm duy nhất còn sót lại đĩa. - Ấy thế nhưng mà... - Xin đa tạ quan tâm săn sóc, nhưng cái đó thành vấn đề. David chưa bao giờ kể về ông nội của chúng tôi cho chị nghe à? - , theo như tôi nhớ. Thế sao? - Cụ già Matt được người ta ưa lắm vì nổi tiếng là kẻ cướp có nghệ. Nếu như ông tôi còn sống bây giờ có lẽ đến cũng phải dẫn đầu đơn vị săn lùng "thủ cấp" ông tôi. Nhưng cụ mất, nên giờ tôi chỉ phải băn khoăn về việc có nên giữ đống tiền tôi thừa hưởng được hay là tiêu xài nó. Vấn đề đâu có phải là khó giải quyết. Tôi cho là mình cũng biết cách tiêu tiền kém bất cứ ai khác. - David cũng giàu chứ? - Vâng. Chỉ có điều làm tôi thắc mắc. ấy có đủ tiền để dưỡng mình và nuôi bao nhiêu vợ cho đến hết đời cũng được. Thế mà hiểu tại sao ấy lại mê ả trống rỗng, giờ là vợ thứ hai của ấy? Chỉ vì ả có nhiều tiền hơn tôi ư? Tôi chịu hiểu. Quả thực như thiên hạ vẫn ngưu tầm ngưu, mã tầm mã[28]. - Ông của làm nghề gì? - Làm nghề đường sắt và hầm mỏ. Đấy là mặt hợp pháp. Thực chất ông tôi là nhà triệu phú ăn cướp. có thời phần lớn Denver là của ông tôi. Ông có cả khu phố "lầu xanh". - Mánh ấy chắc lời lãi lắm. - Cũng chẳng lời lãi lắm như chị tưởng đâu, - Hooper phá lên cười. - Theo chỗ tôi biết, ông tôi ưa lối trả bằng " vật" kia. " câu bóng gió khá ràng, - Ellen nghĩ. - Mình trả lời sao đây?" - Cái chuyện ấy chắc là học trò nào mà chả mơ, - chị lả lơi cất tiếng. - Chuyện gì cơ? - À... chuyện làm thứ giang hồ ấy mà. Thích được ngủ với nhiều đàn ông. - Chị cũng từng mơ như thế à? Ellen phì cười, cố giấu sắc hồng nổi lên má. Chị : - Tôi nhớ chính xác, nhưng theo tôi, chúng ta ai mà chả mơ cái gì đó. Hooper mỉm cười, ngả lưng ra ghế và gọi phục vụ. - Mang cho chúng tôi chai "Chablis" lạnh ấy nhé, - . có cái gì đó thay đổi, Ellen nghĩ bụng. Kể cũng hay, vậy là ta hưởng ứng khêu gợi của chị, như con đực đánh hơi thấy mùi con cái? Dù có thế nào chăng nữa, ta chuyển sang tấn công. Chị chỉ còn cách làm ta thất vọng. Món ăn nóng được bưng đến và phút sau là rượu vang. Món cá biển mà Hooper đặt cỡ bằng viên kẹo dêphia. - Cá bơn đấy, - khi phục vụ . - Tôi biết ngay mà. - Làm thế nào mà đoán ra? - Ellen cất tiếng hỏi, nhưng rồi thấy hối ngay vì đặt ra câu hỏi ấy. Chị muốn câu chuyện chuyển sang hướng khác. - Thứ nhất là các miếng quá to. Mép bằng quá. ràng là cắt bằng máy. - có thể thôi lấy đĩa này. Trong thâm tâm Ellen mong Matthew rủa phục vụ, làm mất khí vui vẻ giữa họ. - Có thể chứ, - Hooper đồng ý, rồi mỉm cười với Ellen. - Nhưng bây giờ tôi muốn. - lót rượu cho Ellen, sau đó rót cho mình và lời nâng cốc. - Chúc cho những mơ ước, - . - Hãy kể cho tôi chị ước mơ gì nào. - Đôi mắt Hooper sáng, màu xanh lơ nhạt, môi hơi hé thành nụ cười. Ellen cười thích thú: - chẳng thấy thú vị đâu. Toàn những chuyện tầm thường vặt vãnh cả. - có lẽ. chị cứ kể xem nào. ta đề nghị, nhưng tỏ ra nì nèo, khiến Ellen cảm thấy cái trò chị khơi lên cần phải được tiếp tục. - biết , - chị . luồng nhiệt ấm tỏa ra khắp bụng, còn cổ chị nóng ran. - Tôi mơ ước đủ thứ trò tếu vô thưởng vô phạt. Họ cùng cười. Khi tiếng cười lắng , Ellen lại sốt sắng thêm vào: - Chúng ta cùng tưởng tượng với nhau chút nhé. - Được rồi. Bắt đầu từ cái gì nào? - làm gì với tôi, nếu như chúng mình... hiểu chứ? - câu hỏi rất lý thú, - với vẻ nghiêm túc gượng gạo, Hooper . - Tuy nhiên, trước khi "cái gì", phải giải quyết cái câu "ở đâu". Tôi cho rằng buồng khách sạn của tôi luôn luôn thuộc toàn quyền sử dụng của chúng ta. - Nguy hiểm lắm. Ở khách sạn ấy ai cũng biết tôi cả. Mà chung ở Amity quá mạo hiểm. - Thế ở chỗ chị? - Ối giời, được. Nhỡ có đứa trẻ nào về nhà. Vả lại... - Tôi hiểu. nên làm vấy bẩn chỗ chăn gối vợ chồng. Thế ở đâu bây giờ? - đường từ đây đến Montauk thể nào cũng phải có các môten[29]. Ở nơi nào đó gần Orient Point lại càng hay. - Có lý lắm. Mà thậm chí nếu có môten, lúc nào cũng sẵn cái ôtô đấy. - Ngay giữa thanh thiên bạch nhật ấy à? quả là có trí tưởng tượng mãnh liệt. - Tưởng tượng ra cái gì mà chả được... Chúng ta cố gắng tìm ra môten, nơi nào mà các buồng ở riêng nhà hoặc cách tường dày ấy. - Để làm gì? - Để cách . Tường môten mỏng như tờ giấy. Cốt ta khỏi lo lắng rằng ở phòng bên cạnh có gã bán giầy nào đó rỗi hơi muốn ghé tai sát tường để nghe trộm. - Thế nếu ta tìm được môten như thế. - tìm được, - Hooper quả quyết. - Tôi rồi: tưởng tượng ra cái gì mà chả được. "Tại sao lúc nào ta cũng lặp lặp lại câu ấy?" Ellen thầm nghĩ. "Vị tất ta chỉ múa lưỡi và tưởng tượng thôi, ắt là muốn cả thực nữa cơ đấy". Chị dò thêm, cốt tiếp tục mạch chuyện. - Chúng ta đăng ký với khách sạn tên họ gì nào? - Ừ nhỉ. Quên mất. Tôi hình dung được là vào thời đại ngày nay còn có ai để ý đến cái đó. Nhưng dầu sao chị cũng đúng: phải bịa ra tên họ nào đấy: biết đâu, nhỡ đụng phải lão chủ khách sạn cổ hủ sao. Gọi là ông bà Al Kinsey[30] chị thấy thế nào? Có thể bảo chúng tôi công tác, chuyến nghiên cứu khoa học dài. - Và thêm là ta gửi bản sao báo cáo của chúng ta có kèm theo chữ ký. - Và lời đề tặng nữa chứ? Cả hai cùng rộ lên cười. - Thế sau khi họ ghi ta vào danh sách rồi? - Chúng ta lại buồng mình, xem xét. Kiểm tra xem có ai ở các phòng bên cạnh , trong trường hợp họ cho chúng ta ngôi nhà riêng biệt, rồi mới vào. phục vụ tiến lại bàn họ, nên cả hai cùng ngả người ra ghế, ngừng tán chuyện phiếm. - Có cần gì thêm nữa ạ? - , - Hooper đáp. - Chị cho phiếu tính tiền nhé. Ellen cứ nghĩ rằng phục vụ quay về quầy để ghi phiếu, nhưng ta lại đứng ngay cạnh bàn họ, chóng vánh ghi ghi chép chép. Ellen xích người ra mép ngoài ghế rồi đứng dậy. - Xin lỗi. Phải rắc phấn lên mũi chút trước khi . - Lúc nào cũng cứ trò ấy, - Hooper vừa vừa mỉm cười. - thế à? - phục vụ né người cho Ellen qua và hỏi. - Thử nghĩ mà xem, chuyện lấy vợ lấy chồng biến đổi con người ta đến như thế đấy. Em chẳng thích có ai để ý những thói quen của mình tỉ mỉ đến thế. * Ellen về đến nhà gần năm rưỡi. Chị vào buồng tắm xả nước. Cởi hết quần áo và dúi vào trong giỏ lẫn với chỗ quần áo lót bẩn khác, Ellen tiến lại gương và ngắm kỹ cái cổ, khuôn mặt. còn dấu vết nào. Tắm xong, chị thoa phấn, đánh răng và súc miệng bằng rượu thuốc chữa sâu răng. Rồi vào phòng ngủ, mặc chiếc xilip sạch và cái áo ngủ vào, hốt chăn ra để chui lên giường. Chị nhắm mắt, cứ nghĩ rằng chợp mắt ngay. Nhưng mãi xua đuổi được những ký ức ken chật trong đầu. Cuộc trăng hoa đầu tiên vẫn tiếp tục gây xao xuyến cho chị thanh thản. Cuối cùng cái mệt cũng thắng, và chị thiếp . Hình như có giọng của ai đó đánh thức chị. - Em này, khỏe đấy chứ? Ellen mở mắt ra và trông thấy Brody ngồi bên mép giường. Ellen ngáp. - Mấy giờ rồi? - Gần sáu giờ. - Thôi chết. Lẽ ra em phải đón thằng Sean. Phillys Santos chắc là phải lồng lộn lên. - đưa nó về rồi. nghĩ thế là tốt hơn cả, vì thể nào liên lạc được với em qua điện thoại. - gọi điện cho em à? - Gọi mấy lần rồi. Lúc gần hai giờ gọi đến bệnh viện người ta bảo hình như em về nhà rồi. - Đúng đấy. Em về rồi. Khó ở kinh khủng Mấy viên thuốc chữa chỗ tuyến giáp cũng chẳng ăn thua gì. Thế nên em mới về nhà. - Sau đó có gọi điện về nhà. - Giời ạ, chắc là có chuyện gì? - Chả có gì đặc biệt cả. Chẳng qua quyết định xin lỗi em vì tối hôm trước thô lỗ với em. Trong khoảnh khắc Ellen thấy lương tâm bứt rứt. - chu đáo quá, mà chớ phiền muộn làm gì. Em quên chuyện ấy rồi. Brody im lặng đợi xem Ellen còn gì nữa, nhưng Ellen chẳng thêm lời nào, lúc ấy mới nêu câu hỏi: - Thế nhưng em đâu nhỉ? - Em bảo với là ở đây mà! - Lời vang lên gay gắt hơn là chị muốn. - Em về nhà rồi lên giường cho tới lúc về đấy. - Thế mà em nghe thấy tiếng chuông điện thoại? Nó ở ngay cạnh em thôi mà. - Brody chỉ cái bàn con ở phía bên kia giường. - , em... - chị muốn trả lời là tắt điện thoại rồi, nhưng kịp thời nhớ ra là máy điện thoại này thể tắt được. - Em uống thuốc ngủ, cho nên ngay cả tiếng la của những kẻ bị đày xuống địa ngục cũng chẳng thể đánh thức em được nữa là. Brody lắc đầu: - vứt chỗ thuốc chết tiệt ấy vào nhà xí. Em đâm nghiện rồi. Brody đứng dậy vào nhà tắm. - Hooper có gọi điện đến ? - Brody hỏi vọng lên. Ellen ngẫm nghĩ chừng phút xem nên trả lời thế nào, rồi : - Có gọi điện sáng nay, cám ơn về bữa ăn. Mà sao hả ? - muốn tìm ấy mà được. Quãng giữa trưa và mấy lần trong ngày. Ở khách sạn người ta bảo là biết Hooper ở đâu. ta gọi điện lúc nào? - Ngay sau khi làm. - ta là sửa soạn làm gì à? - ta ... là chắc làm việc tàu, hình như là thế. Quả thực, em cũng nhớ chính xác. - Thế à? Lạ nhỉ. - Cái gì lạ cơ? - phóng ra cảng đường về nhà. Giám đốc cảng là trông thấy Hooper cả ngày hôm nay. - Có thể Hooper đổi ý. - Chắc là ta giải trí ở đâu đó với Daisy Wicker.
9 Sáng thứ năm, qua điện thoại người ta gọi Brody đến chỗ Vaughan dự cuộc họp của hội đồng thị chính. đoán ra vì lẽ gì mà các quan phụ mẫu của thị trấn tụ họp nhau lại: ngày kia là ngày bốn tháng bảy, Ngày Độc lập nên người ta muốn gắn việc mở cửa bãi tắm vào ngày lễ này. Trước khi rời trạm cảnh sát để sang bên tòa thị chính, Brody suy tính kỹ, cân nhắc tất cả những "thuận" và "chống". hiểu rằng phản đối của bị điều khiển bởi linh giác, tính cẩn thận và cảm giác có lỗi lúc nào để yên. Nhưng tin rằng mình đúng. Việc mở cửa các bãi tắm thể nào giải quyết được các vấn đề của Amity. Hóa ra, mọi người như bị lôi cuốn vào canh bạc nào đó mà cả dân địa phương lẫn bản thân Brody thể trông mong gì vào thắng cuộc. ai biết đích xác là cá mập chưa. Những kẻ tham gia trò chơi nguy hiểm này chỉ hy vọng gỡ hòa. Nhưng chẳng chóng chầy, Brody tin như vậy, họ thất bại. Tòa thị chính ở ngã tư phố Main và Water. Nó như cái đòn gánh lồng vào chữ "T" do hai phố tạo nên. Đó là dinh cơ bề thế với hai hàng cột ở lối vào, xây theo phong cách đặc trưng của cuối thế kỷ XVIII, bằng gạch đỏ viền trắng. bãi cỏ trước tòa nhà có khẩu lựu pháo của thời chiến tranh thế giới lần thứ hai, - đài kỷ niệm cho những người dân địa phương tham gia chiến tranh. Tòa nhà do ông chủ nhà băng đầu tư tặng thị trấn vào cuối những năm hai mươi. hiểu sao ông ta đinh ninh rằng có ngày Amity trở nên trung tâm thương mại của miền đông đảo Long Island. Ông ta cho rằng các quan phụ mẫu của thành phố phải hội họp trong chốn nhà cao cửa rộng, chứ phải trong những chỗ chui rúc, ngột ngạt ở tầng của tiệm ăn "Cối xay", nơi trước kia là chỗ định đoạt số phận của thị trấn Amity. (Tháng hai năm 1930 ông chủ nhà băng dở dở ương ương này, kẻ biết đoán trước chỉ tương lai của Amity, mà cả tương lai của bản thân, toan lấy lại ngôi nhà từ tay chính quyền thị trấn bằng cách khẳng định rằng dường như ông ta chỉ mượn để sử dụng tạm thời thôi, nhưng chẳng ăn thua gì). Các phòng làm việc của tòa thị sảnh cũng lộng lẫy tưởng tượng nổi, như chính bản thân ngôi nhà. Những phòng thênh thang, trần cao, đèn chùm phức tạp, chẳng phòng nào giống phòng nào. muốn sửa đổi lại bên trong ngôi nhà, dựng các vách ngăn khắp mọi chỗ, nên các bậc cha mẹ của dân thị trấn cứ thế mà nhét thêm vào các buồng ngày càng nhiều nhân viên. Chỉ có mỗi mình ông thị trưởng là thực thi những trách nhiệm hóc búa của mình trong cảnh đơn bề thế. Phòng làm việc của Vaughan nằm tầng hai trong góc tòa thị sảnh, cửa sổ trông ra hướng đông nam, từ đó mở ra cảnh đẹp tuyệt vời của thị trấn và Đại Tây Dương, nổi lên ở phía xa xa. thư ký của ông thị trưởng, Janet Summer, xinh đẹp độ xuân sắc, ngồi sau bàn bên lối vào phòng làm việc. Brody ít có dịp gặp nhưng có cảm tình của bậc cha chú đối với và thể hiểu tại sao ấy hai mươi sáu xuân xanh rồi mà vẫn chưa lấy chồng. Trước khi vào gặp Vaughan, Brody bao giờ cũng thăm hỏi về chuyện đương của thư ký. Nhưng hôm nay chỉ hỏi: - Mọi người tập hợp đủ bộ rồi chứ? - Đủ tất cả những ai được mời đấy ạ. Brody tiến vào phía phòng làm việc của Vaughan Janet gọi dừng lại: - Thậm chí chú chẳng muốn hỏi dạo này cháu hẹn hò gặp gỡ với ai nữa? - Tất nhiên là chú muốn chứ, - Brody đáp sau khi dừng lại, đoạn mỉm cười. - Xin lỗi nhé. Hôm nay mọi cái trong đầu chú cứ lung tung cả lên. Vậy ấy là ai? - Chẳng là ai cả. Cháu nghỉ giải lao. Nhưng cháu xin thú thực với chú điều này. - hạ giọng và dấn người về phía trước. - Cháu thấy thích bắt bồ với Hooper. - ấy ở trong này à? Janet gật đầu. - Hay nhỉ, người ta bầu ta vào tòa thị chính bao giờ thế? - Cháu biết, - thư ký đáp. - Nhưng quả thực ấy có duyên ra phết… - Tiếc là ta lại có nơi có chốn rồi, Jan ạ. - Ai thế? - Daisy Wicker. Janet phá lên cười. - Có gì buồn cười đâu nhỉ? Chú tưởng lòng cháu tan nát mới phải chứ. - Thế ra chú biết gì về Daisy à? - Có lẽ là . Janet lại hạ giọng: - ta dở hơi lắm. Chỉ thích tụ tập với đám các bà thôi. - Ra thế, - Brody . - Xem ra công việc của cháu cũng lý thú đấy chứ, Jan nhỉ? Vừa bước vào phòng làm việc của thị trưởng, Brody vừa băn khoăn tự hỏi: "Thế cũng tốt, nhưng hôm qua Hooper ở đâu được nhỉ, mẹ kiếp?" Bước qua ngưỡng cửa, Brody hiểu ngay rằng phải chiến đấu trong cảnh đơn độc. Tất cả các ủy viên tòa thị chính đều là bạn bè lâu năm và là đồng minh của Vaughan. Tony Catsoulis, cai thầu, nom giống vòi cứu hỏa; Ned Thatcher, lão già khô héo - ba thế hệ này họ nhà Thatcher cai quản khách sạn "Biểu trưng của Abelard"; Paul Conover, chủ cửa hàng bán rượu ở Amity, và Rare Lopez (họ của bản thân ta phát là "Lâupx", chàng gốc Bồ Đào Nha da ngăm đen, có máu hùng biện, được người da đen bầu vào hội đồng bảo vệ cho các quyền lợi của họ. Bốn ủy viên tòa thị chính ngồi sau cái bàn để tạp chí ở đầu của căn phòng lớn. Vaughan ngồi đối diện sau bàn giấy. Hooper đứng bên cửa sổ trông ra hướng nam và nhìn đại dương. - Albert Morris đâu? - Brody hỏi Vaughan, sau khi chào chiếu lệ những người khác. - ấy thể đến được, - Vaughan đáp. - Hình như bị ốm phải. - Thế còn Fred Potter? - Cũng thế. Chắc là trong người có loại virút nào đó hoành hành, - Vaughan đứng dậy. - Nào, bây giờ mọi người đủ rồi. Cậu hãy lấy cái ghế ra đặt vào cạnh bàn để tạp chí ấy. "Trời ơi, nom ông ta khủng khiếp quá!", Brody vừa quan sát Vaughan vừa nghĩ. Vaughan tiến lại từ đầu kia căn phòng và mang chiếc ghế có thành tựa thẳng, mắt ông ta sâu xuống và tối sầm lại. Da nhuốm màu vàng vàng của nước dầm lòng đỏ trứng. Hoặc là ông ta vừa mới ở chỗ túy lúy về, hoặc là thiếu ngủ cả tháng trời, Brody nghĩ bụng. Khi mọi người ngồi yên chỗ, Vaughan mới vào đề: - Tất cả các vị biết vì sao chúng ta họp lại ở đây. Tôi nghĩ rằng chỉ có người trong chúng ta còn nghi ngờ việc chúng ta phải làm. - Ông muốn ám chỉ tôi phải ? - Brody hỏi. Vaughan gật đầu. - Chúng ta xem xét vấn đề này theo quan điểm chung của chúng ta, Martin ạ. Thị trấn chết. Đầy những người thất nghiệp. Các cửa hàng dự định mở cửa, mở cửa được. có ai thuê nhà ở, chứ chưa đến chuyện mua. Các bãi tắm vắng tanh, mỗi ngày chúng ta lại đóng thêm cái đinh vào cỗ quan tài của bản thân. Chúng ta tự bóp chết mình khi tuyên bố rằng hiểm họa đe dọa thị trấn, chúng ta cứ rằng hãy tránh cho xa thị trấn. Và người ta nghe theo những lời ấy. - Larry này, giả sử ông cứ mở các bãi tắm vào ngày lễ, - Brody lên tiếng, - và nhỡ ra có ai đó bị chết nữa? - Đó là mạo hiểm chính đáng, nên tôi cho rằng, tất cả chúng ta đều như vậy, - chúng ta nên đánh liều. - Nhưng tại sao mới được chứ? - Ông Hooper? - Vaughan quay về phía nhà ngư học. - Có vài lý do, - Hooper : - trước hết là cả tuần nay ai nhìn thấy cá mập đâu cả. - có ai tắm đâu. - Đúng, nhưng tôi canô để tìm cá mập hàng ngày, chỉ trừ có hôm. - Chính tôi cũng muốn hỏi. Hôm qua ở đâu? - Hôm qua trời mưa, - Hooper đáp. - có nhớ ? - Ừ, thế nhưng làm gì? - Tôi chẳng qua... - Hooper chậm lại, sau đó tiếp tục: - Tôi nghiên cứu các mẫu cá. Đọc sách nữa. - Ở đâu? Trong phòng khách sạn à? - Cũng có lúc ở đấy. Thú thực, muốn gì ở tôi nào? - Tôi gọi điện đến khách sạn ở. Người ta bảo rằng vắng mặt cả buổi chiều hôm qua. - Vậy là tôi ra khỏi khách sạn - Hooper bực bội . - Tôi đâu có nhất thiết cứ năm phút phải báo cáo trình diện với , có phải thế ? - nhất thiết. Nhưng đến đây để làm việc, chứ phải để chơi rông ở các câu lạc bộ ngoại ô mà có thời vẫn lai vãng. - Thưa ông, ông nghe này, tôi nhận được đồng xu nào của ông. Và tôi có thể làm bất cứ điều gì tôi thấy hứng! - Thôi , - Vaughan xen vào, - thế là đủ lắm rồi. - Dù thế nào chăng nữa, - Hooper tiếp tục. - tôi cũng nhận thấy những vết tích nào của cá mập. dấu hiệu nào. Mà nước ấm lên từng ngày. Nhiệt độ sắp lên tới bảy mươi độ[31] rồi. Tuy bao giờ chả có ngoại lệ, nhưng thông thường loài cá mập trắng lớn ưa nước lạnh hơn. - Thế cho nên nghĩ rằng vị khách của chúng ta bỏ về phía bắc rồi chứ gì? - Hoặc là xuống dưới sâu, ở đó lạnh hơn. Nó cũng có thể về phía nam. Khó mà tiên liệu trước được loài thú vật ấy xử ra sao? - Ấy đấy, - Brody nhận xét. - Khó mà tiên liệu được. Nghĩa là mọi điều chỉ là giả định. - Martin, việc này làm sao có thể khẳng định chắc chắn được? - Vaughan đỡ lời. - Ông hãy câu đó với Christine Watkins, hoặc với người mẹ của cậu bé chết ấy. - Tôi biết, tôi biết, - Vaughan sốt ruột ngắt lời. - Nhưng chúng ta phải có biện pháp gì đó chứ. Chúng ta thể ngồi khoanh tay đợi ông trời được. Trời viết cho chúng ta biết rằng "Cá mập rồi". Phải cân nhắc các dữ kiện và phải quyết. Brody gật đầu. - Tôi hiểu. Nào, nhà thông thái của chúng ta còn gì nữa nào? - làm sao thế? - Hooper ngạc nhiên. - Chẳng qua người ta cầu tôi chia sẻ những suy nghĩ của mình. - Phải, phải. - Brody đáp. - Dĩ nhiên rồi. Sao nữa nào? - Chẳng có gì mới cả. có căn cứ nào để cho rằng cá mập vẫn còn ở đây. Tôi trông thấy nó. Lực lượng phòng vệ bờ biển cũng thế. Dưới đáy đại dương tất cả vẫn như trước. Rác thải người ta đổ từ các xà lan xuống biển nữa. Những con cá vẫn sinh sống như bình thường. Ở đây khó có cái gì hấp dẫn vị khách của chúng ta. - Nhưng trước kia ở đây có bao giờ có cá mập đâu phải ? Thế mà xuất con. - Đúng. Tôi thể giải thích được điều này. Và tôi cũng tin rằng có ai giải thích nổi. - muốn đó là ý trời? - Có thể như thế. - Và chúng ta bất lực trước ý trời, đúng , Larry? - Tôi hiểu cậu định ngụ ý gì, Martin ạ, - Vaughan . - Chúng ta phải quyết. Theo cách nhìn của tôi chỉ có cách. - Vậy là quyết, - Brody lên tiếng. - Có thể coi là như vậy. - Thế nhỡ lại có nạn nhân? Lần này ai gánh lấy trách nhiệm? Ai đứng ra tiếp chuyện với chồng, với mẹ, với vợ những người bị cá mập xé xác; ai với họ rằng: đấy là chẳng qua chúng tôi chơi trò được ăn cả, ngã về và bị thua? - Đừng có bi quan như thế Martin. Khi nào đến lúc - nếu như nó đến, mà tôi bảo đảm rằng chẳng xảy ra chuyện gì, - khi ấy ta quyết định. - Nhưng ông biết , tôi ớn bỏ mẹ lên việc người ta trát bùn lên mặt tôi vì lỗi của ông. - Gượm , Martin. - Câu nghiêm túc đấy. Nếu ông muốn mở các bãi tắm, hãy đứng ra hứng trách nhiệm . - chuyện gì thế? - Tôi chuyện rằng chừng nào ở đây tôi còn làm cảnh sát trưởng và chịu trách nhiệm về an toàn của mọi người, các bãi tắm mở cửa. - Tôi bảo cái này này, Martin ạ, - Vaughan lên giọng. - Nếu vào ngày lễ các bãi tắm vẫn người làm sếp cảnh sát lâu đâu. Đây phải là tôi đe dọa . Chẳng qua tôi báo trước cho thế thôi. Vào mùa hè này chúng ta còn có thể có cách xoay sở. Nhưng cần phải tuyên bố với mọi người rằng ở đây an toàn. Còn nếu cứ cấm mở cửa các bãi tắm, chỉ hai mươi phút sau khi ngoài thị trấn người ta hay tin, người ta phỉ nhổ , người ta đổ hắc ín vào mặt . Rồi tống khỏi nơi đây. Các vị có đồng ý với tôi nào? - Dĩ nhiên rồi, - Catsoulis . - Ngay tôi đây cũng góp tay quẳng ta . - Các cử tri của tôi ngồi chẳng có việc làm - Lopez . - Nếu họ có công ăn việc làm họ tống khứ ra khỏi cơ quan chính quyền. - Các ông có thể loại bỏ tôi lúc nào tùy các ông, - Brody giọng cương quyết. bàn Vaughan chuông điện thoại nội bộ reo. Ông ta đứng dậy, điệu bộ cau có về phía đầu kia căn phòng và nhấc điện thoại lên. - Tôi cầu được quấy rầy chúng tôi cơ mà, - viên thị trưởng sẵng giọng. phút im lặng tiếp theo. - Đây là gọi cho đây, - Vaughan quay về phía Brody. - Janet là gấp. Có thể chuyện ở đây hoặc ở phòng ngoài. - Tôi ra phòng ngoài, - Brody đáp. băn khoăn hiểu có biến cố gì mà người ta phải lôi ra khỏi cuộc họp của hội đồng thị chính. Lại cá mập chăng? bước ra khỏi phòng họp và đóng cửa lại sau lưng. Janet chìa cho ống thoại, nhưng trước khi kịp ấn nút sáng đèn, Brody hỏi: - tôi hay, Larry gọi điện cho Albert Morris và Fred Potter sáng nay chưa? Janet đưa mắt lảng . - Cháu được lệnh cho ai biết cả. - Hãy trả lời chú , Janet. Chú cần phải biết. - Thế chú phải ngỏ lời hộ cháu với cái đẹp trai bây giờ họp trong phòng ấy cơ. - Xong ngay. - gọi, chú ạ. Cả thảy cháu chỉ gọi điện cho bốn người giờ ngồi với Vaughan thôi. - ấn nút . Janet ấn nút và Brody lên tiếng: - Brody đây. Vaughan ở trong phòng họp thấy đèn hiệu tắt, bèn cẩn thận bỏ ngón tay khỏi cần và lấy lòng bàn tay che che ống nghe. Ông ta đưa mắt khắp những người có mặt xem có ai lên án hành động của mình . Nhưng mọi người đều ngoảnh mặt , ngay cả Hooper cũng cho rằng càng ít can thiệp vào công việc của chính quyền địa phương của Amity càng tốt. - Harry đây, Martin ạ. - Trong điện thoại vang lên giọng của Meadows. -Tôi biết ông ở chỗ hội đồng và chẳng có giờ. Cho nên hãy nghe tôi đây, ngắn thôi. Larry Vaughan nợ nần ngập đến tai. - đời nào! - Tôi bảo là ông hãy nghe tôi mà lại! Việc ông ta nợ còn chưa có nghĩa gì cả. Quan trọng là việc ông trả nợ ai kia. lâu rồi, có lẽ quãng hăm lăm năm trước, trước khi Larry rủng rỉnh có tiền, vợ ông ta ốm. Tôi quên nhớ bà ấy đoạn trường ra sao, chỉ biết bà ấy ốm nặng. Mà chữa bệnh lại tốn tiền. Tôi nhớ , nhưng hình như Larry khi đó có rằng người bạn giúp ông ta, cho vay tiền, thế là Vaughan thoát nạn. Chắc là vài nghìn đôla gì đó. Larry tên người cho vay cho tôi biết. Đáng lẽ tôi cũng bỏ ngoài tai chuyện ông ta , nhưng Larry lại bảo rằng con người ấy sẵn lòng giúp đỡ nhiều người trong hoạn nạn. Hồi ấy tôi còn trẻ và cũng túng thiếu. Vì thế tôi mới ghi tên người bạn của Larry lại và nhét tờ giấy vào ngăn kéo bàn. Tôi chẳng bao giờ nảy ra cái ý nghĩ nhòm lại tờ giấy cái, cho mãi đến khi ông hỏi tôi. Bạn của Larry tên là Tino Russo. - thẳng vào đề , Harry. - Được rồi, được rồi. Giờ ta vào đề. Hai tháng trước, tức là còn trước khi có chuyện cá mập ấy, ra đời hãng có tên là "Caskata Estates". Lúc đầu hãng chưa có bất động sản. Việc kinh doanh đầu tiên của nó là mua ruộng khoai tây rộng ở phía bắc đường Scotch chút. Mùa hè thị trấn gặp vận đen, thế là "Caskata" nhân lên số tài sản tậu được. Mọi cái được làm hoàn toàn công khai. Hãng này ràng dựa vào vốn tiền mặt của kẻ nào đó và lợi dụng tình hình đình đốn nay, mua rẻ các bất động sản gần như được . Khi báo chí chỉ vừa mới xuất những tin đầu tiên về cá mập "Caskata" triển khai hết sức lực. Giá cả càng hạ nó càng tậu hăng. Cứ lẳng lặng như thế. Giá cả bây giờ cũng chỉ như hồi chiến tranh, nên "Caskata" vẫn tiếp tục mua thêm. Nhưng nó thích trả tiền mặt. Thường nó xuất ra các phiếu cam kết nợ ngắn hạn do Larry Vaughan ký. Ông ta được coi là chủ tịch hãng. Còn phó chủ tịch đồng thời là người chủ thực lại là Tino Russo, người mà tờ "Times" nhiều năm coi là nhân vật thứ hai của trong năm bè đảng maphia New York. Brody rít qua kẽ răng: - Thế mà đồ chó đẻ ấy rên lên rằng công việc chạy gì cả. Tôi vẫn chưa hiểu tại sao người ta bắt lão ấy thúc chúng ta mở các bãi tắm. - Chính xác tôi chưa biết. Hơn nữa, tôi ngờ rằng bọn cùng hãng ép Larry như trước kia. Có lẽ ông ta như thế trong cơn thất vọng. Tôi nghĩ rằng Larry lâm vào thế bí. Ông ta đủ sức mua gì nữa, dù là với giá rẻ. Điều duy nhất có thể cứu ông ta khỏi bị phá sản là làm sao cho giá cả thị trường tăng vọt lên. Lúc ấy ông ta mới có thể bán số bất động sản tậu được theo cách có lợi. Cũng có thể Russo thu phần lợi nhuận chủ yếu - cái đó còn tùy thuộc ở thỏa thuận giữa bọn họ với nhau. Nếu giá nhà vẫn tiếp tục hạ, cách khác, nếu các bãi tắm vẫn đóng cửa Vaughan phải lấy tiền riêng ra trả cho các phiếu nợ. Mà tiền ông ta xoay đâu ra. Theo tôi, ông ta nay phải trả những khoản nợ đến kỳ, chắc phải nửa triệu. Ông ta thua thiệt nhiều vô kể, còn các bất động sản hoặc là lại về tay các chủ cũ, hoặc là về tay Russo, nếu ta kiếm được tiền mặt. Nhưng chắc gì Russo dám liều. Giá bất động sản mà còn hạ nữa có ngày trùm maphia cũng chìm xuống đáy cùng với Vaughan. Tôi cho rằng Russo còn hy vọng thu được món lãi to, nhưng chỉ thu được với điều kiện Vaughan xoay sở để mở được các bãi tắm. Trong trường hợp này, nếu có gì bất trắc và nếu có những nạn nhân mới bất động sản mau chóng lên giá và Vaughan bán được thành công tất cả những gì mua. Russo nhận được phần của - nửa hay bao nhiêu tôi biết, - và "Caskata" ngừng tồn tại. Vaughan có đủ tiền để ứng phó với những khó khăn về tài chính và bị phá sản. Còn nếu như có ai đó chết vì cá mập nữa, chỉ có Vaughan bị liểng xiểng. Theo trí xét đoán của tôi đến đồng năm xu Russo cũng bỏ vào công ty này đâu. Tất cả số này... - là đồ dối trá vô lương tâm, Meadows ạ - bỗng nhiên vang lên trong máy giọng chói tai của Vaughan. - Hễ mà cho in lấy lời trong câu chuyện nhảm nhí này tôi lôi ra tòa cho đến chết mới thôi! - Có tiếng ngắt máy, Vaughan hạ ống điện thoại xuống. - đứng đắn của các vị đại diện chính quyền mà chúng ta bầu lên là như thế đấy, - Meadows nhận xét. - Ông làm gì, hả Harry? Ông muốn đưa lên báo chuyện gì ? - , ít, ra chưa phải lúc này. Tôi có cứ liệu nào hết. Ông cũng biết như tôi là bọn maphia ngày càng nhúng sâu hơn vào các công việc ở Long Island, - vào ngành xây dựng, vào các tiệm ăn, cái gì cũng có. Nhưng đố chỉ được tay day được trán bọn chúng đấy. Theo tôi, Vaughan chưa chắc làm điều gì phạm pháp theo nghĩa chặt chẽ của từ này. Vài ngày nữa, tìm kiếm lục lọi thêm tôi có thể thu thập được những cứ liệu khẳng định rằng ông ta có liên hệ với maphia. Tôi muốn đến những cứ liệu thể bác bỏ được ấy nếu quả thực Vaughan muốn lôi nhau ra tòa. - Theo tôi, ông có đủ chứng cứ. - Tôi biết nhiều thứ nhưng chưa có minh chứng. có tài liệu, dù chỉ là những bản sao. Tôi chỉ mới trông thấy những tài liệu ấy. - Ông có nghĩ rằng có kẻ nào đó trong hội đồng thị chính cũng liên can đến chuyện này ? Tại phiên họp, Larry hướng mọi người chống lại tôi. - . Ông muốn đến Catsoulis và Conover chứ gì? Bọn họ chỉ là bạn cũ của Larry thôi, cả hai đều mang ơn ông ta. Thatcher quá già và nhát gan chẳng dám ho he chống lại thị trưởng. Lopez nằm ngoài nghi ngờ. Ông ta chỉ chăm lo sao cho cử tri của ông ta có việc làm. - Hooper có biết gì ? ta cũng cứ nằng nặc đòi tôi mở các bãi tắm. - , tôi hầu như chắc chắn rằng ta biết gì cả. Chính tôi cũng mới dò ra việc này mấy phút trước đây, tuy nhiều cái còn chưa ràng. - Theo ông tôi nên làm gì? Có thể từ chức cũng được. Tôi đến chuyện ấy với họ trước khi bàn với ông. - Ấy chết, đừng làm vậy. Trước hết chúng tôi cần ông. Nếu ông , Russo thông đồng với Vaughan để đặt người của họ vào. Có thể ông tưởng rằng cấp dưới của ông là những người mua chuộc được, nhưng tôi xin cuộc là Russo tìm được cảnh sát đánh đổi trách nhiệm phục vụ lấy vài đồng đôla hay chỉ cốt lên làm cảnh sát trưởng. - Thế tôi phải làm gì? - Ở địa vị ông tôi đồng ý với Vaughan. - Trời ơi, Harry, chính bọn họ mong được như vậy. Khi ấy tôi có thể ung dung ngồi lại cương vị của mình. - Ông rằng địch thủ của ông có những cơ sở xác đáng để mở cửa các bãi tắm. Tôi nghĩ là Hooper đúng. Sớm hay muộn rồi ông cũng phải chịu nhún lão thị trưởng, ngay cả trong trường hợp chúng ta bao giờ tìm ra cá mập. Cho nên chẳng thà xuống lệnh ngay bây giờ. - Thế là cho phép bọn bợm ấy hốt tiền rồi tẩu à? - Thế ông làm gì được bây giờ nào? Nếu ông cứ khăng khăng để các bãi tắm đóng cửa, Vaughan tìm được cách qua mặt ông để mở các bãi tắm. Lúc ấy ông chung chẳng đem lại tích gì cho ai cả. cho người nào. Ít ra, nếu ông phục tùng lão thị trưởng và nếu xảy ra chuyện gì, dân thị trấn mới có cơ khấm khá lên được. Sau đó, để lúc nào đó ta mới xỉa Vaughan cú. Tôi chưa xỉa như thế nào, nhưng chắc chắn là xỉa được. - khỉ, - Brody . - Thôi được, tôi phải nghĩ , Harry ạ. Dù sao chuyện bãi tắm ấy tôi xử xự theo cách của mình. Cám ơn ông. - treo máy rồi quay về phòng Vaughan. Vaughan đứng cạnh cửa sổ trông ra hướng nam và quay lưng ra cửa ra vào. - Cuộc họp kết thúc, - Vaughan khi Brody bước vào phòng. - Kết thúc là thế nào? - Catsoulis phản đối, - chúng ta còn chưa quyết tí nào cả. - Chấm hết, Tony ạ! - Vaughan quay lại phía ông này và . - Đừng quấy rầy tôi. Mọi việc như chúng ta thỏa thuận. Để tôi bàn soạn với Brody. Được chứ? Bây giờ mọi người ra về thôi. Hooper và bốn ủy viên hội đồng thị chính rời phòng làm việc của Vaughan. Brody quan sát Vaughan tiễn chân họ ra. sếp ngành cảnh sát vừa thương vừa khinh thị trưởng, Vaughan đóng cửa, tiến lại đivăng và nặng nề đặt mình xuống. Ông ta chống khuỷu tay lên đầu gối và bắt đầu lấy các đầu ngón tay xoa xoa thái dương. - Chúng ta là bạn của nhau, Martin ạ, - Vaughan cất tiếng. - Hy vọng là chúng ta vẫn là bạn. - Meadows thế có ? - Tôi điều gì. Tôi thể được. Chẳng qua có người từng giúp tôi nên bây giờ muốn tôi đền đáp lại. - cách khác tức là Meadows đúng. Vaughan nhìn Brody, mắt ông ta đỏ và ươn ướt. - Xin thề với cậu, Martin ạ, là giá tôi biết mọi quá xa thế này tôi bao giờ dấn mình vào. - Ông nợ ta bao nhiêu? - Đầu tiên tôi vay mười nghìn. hai lần tôi toan trả, từ lâu rồi kia, nhưng Tino và bạn bè ông ta chẳng muốn lấy tí nào. Họ cứ nhắc nhắc lại rằng họ biếu tôi, đừng để tâm đến chuyện vặt ấy làm gì. Thế nhưng cho đến giờ họ vẫn chưa trả lại cho tôi cuốn sổ ghi nợ. Mấy tháng trước họ có đến gặp tôi, tôi xin đưa cho họ trăm ngàn. Họ tuyên bố rằng thế hãy còn ít. Tiền họ cần. Họ cầu tôi đầu tư số tiền ấy vào phi vụ. Tất cả chúng ta đều được phần, họ bảo thế. - Thế ông vung ra bao nhiêu? - Có trời mà biết được. Tôi vung ra đến đồng xu cuối cùng. Còn hơn thế nữa. Hình như quãng triệu đôla. - Vaughan thở dài. - Cậu cứu giúp tôi chứ, Martin? - Tôi chỉ có ràng buộc với ông công tố hạt. Nếu ông khai ra, có thể làm lũ bạn của ông vào tù về tội cho vay ăn lãi được. - Bọn nó giết tôi trước khi tôi từ chỗ ông công tố về đến nhà mất. Eleanor phải ăn mày mất. Tôi mong đợi ở cậu giúp đỡ như thế, Martin ơi. - Tôi biết. - Brody ngạo nghễ nhìn Vaughan, con thú bị thương và bị dồn đến nước cùng, và bỗng cảm thấy thương hại viên thị trưởng. nghi ngờ biết mình hành động có đúng , khi cứ nhất quyết muốn mở các bãi tắm. Cái gì tác động đến - cảm giác về lỗi lầm của mình hay nỗi sợ cuộc tấn công mới của cá mập? Có thực chăm lo đến những người dân thị trấn hay chẳng qua chỉ muốn yên thân, từ chối mạo hiểm? - Tôi với ông như thế này, Larry ạ. Tôi mở các bãi tắm. Nhưng phải để giúp ông, bởi vì nếu tôi cứ chịu đằng nào ông cũng phế tôi và hành động theo ý mình. Cứ để cho mọi người ra tắm, có thể trước kia tôi nhầm. - Cám ơn Martin. Tôi đánh giá cao chân thành của cậu. - Còn chưa phải hết đâu. Tôi là mở cửa các bãi tắm. Nhưng tôi chăng người của tôi ra, Hooper tuần canô. Và bất cứ ai ra biển cũng được biết đến những mối nguy hiểm. - Cậu đừng có làm bừa! - Vaughan thốt lên. - Chẳng thà cho ai ra còn hơn. - Tôi dám làm, ông Larry ạ, tôi làm đúng như vậy. - Thôi được Martin ạ, - Vaughan đứng dậy. - Cậu cho tôi nhiều quyền lựa chọn cho lắm. Nếu tôi phế cậu chắc ở địa vị thường dân cậu chạy ra bãi tắm, ngang dọc khắp các chỗ mà kêu lên: "Cá mập!" Thôi đành thế. Nhưng cậu nên biết điều tí, Martin ạ, nếu vì tôi hãy vì thị trấn. Brody ra khỏi phòng làm việc của Vaughan. Vừa xuống cầu thang, vừa xem đồng hồ. quá giờ rồi, thấy thèm ăn. dọc phố Water đến quán điểm tâm duy nhất ở Amity. Quán này thuộc về Paul Loeffler, bạn đồng học với Brody hồi ở trường trung học. Brody mở cánh cửa ra vào bằng kính và nghe thấy tiếng Loeffler: "... tựa như đồ độc tài đáng nguyền rủa ấy, nếu muốn nghe tôi thẳng. Chẳng hiểu cần gì". Trông thấy Brody, Loeffler đỏ mặt. có thời ta là cậu thiếu niên gầy gò nhưng từ sau khi cai quản công việc của bố để lại, ta trụ vững được trước con quỷ lòng là tham ăn tục uống - lúc nào trước mặt ta cũng lủng lẳng đủ thứ bánh kẹo - nên bây giờ nom ta như quả lê. Brody mỉm cười. - Cậu tớ đấy à? Paulie? - Sao cậu lại nghĩ thế? - Loeffler đáp mà mặt càng đỏ lựng lên. - Chẳng sao cả. Chỉ vui thế thôi. Nếu cậu cho tớ bánh xanđuých - bánh mì đen với miếng giăm bông và pho mát Thụy Sĩ, thêm ít mù tạt nữa, - tớ báo cho cậu cái tin dễ chịu. - Hay nhỉ, có thể có tin gì được? - Loeffler sửa soạn bánh xanđuých. - Tớ sắp mở các bãi tắm vào ngày lễ. - Thế tớ mừng. - Bán chạy à? - Ế ẩm cả. - Cậu bao giờ chả ế. - Có đâu như bây giờ. Nếu sắp tới tình hình thay đổi theo chiều hướng tốt hơn, vì tớ mà bùng ra những hỗn loạn chủng tộc. - Cậu cái gì tớ hiểu. - Tôi phải lấy hai cậu bé làm chân loong toong trong mùa hè. cam kết. Nhưng tớ đủ tiền thuê cả hai. Chưa đến chuyện thuê cả hai bây giờ chẳng có việc gì để làm. Vì thế tạm thời tớ chỉ dám nhận . đứa người da trắng, đứa kia da đen. - Thế cậu thuê đứa nào? - Đứa da đen. Nó cần hơn. Lạy trời cho đứa thứ hai phải là dân Do Thái. * Brody về đến nhà vào lúc quá năm giờ. Khi xe hơi của vào phố nhà cửa mở ra và Ellen chạy ra đón . Chị giàn giụa nước mắt và bị kích động vì chuyện gì đó. - Có chuyện gì thế? - Brody hỏi. - Lạy Chúa, về. Em gọi điện cho đến chỗ làm nhưng về rồi. Lại đây. Mau lên. Chị nắm lấy tay chồng kéo ngang qua cửa đến chỗ để những thùng rác. - Nó đây, - chị vừa chỉ vào thùng rác vừa kêu lên. - Xem ... Brody mở nắp thùng rác. Phía bọc rác lổn nhổn là con mèo của thằng Sean, - con mèo đực khỏe mạnh, mũm mĩm tên gọi là Frisky[32]. Đầu con mèo ngoẹo , cặp mắt vàng khè nhìn về phía sau. - Mẹ kiếp, sao lại thế này? - Brody hỏi. - Ô tô chẹt à? - , người giết đấy. - Ellen nức nở. - thằng du côn nào đó giết con mèo. Thằng Sean đứng ngay đấy lúc xảy ra chuyện. Bất thình lình từ chiếc ôtô cạnh lề đường có gã đàn ông chui ra. Thằng ấy tóm lấy con mèo và ra sức vặn đầu mèo cho đến khi gãy cổ. Thằng Sean là nó kêu răng rắc. Sau đó thằng du côn ấy quẳng con mèo xuống rãnh, rồi ngồi lên ôtô tếch thẳng. - Thằng ấy nó có gì ? - biết. Thằng Sean ở nhà. Nó phát rồ phát dại lên, em hiểu lắm. Vậy là có chuyện gì xảy ra thế, Martin? Brody đóng nắp thùng rác đánh sầm tiếng. - Đồ chó đẻ! - chửi. Cổ họng nghẹn lại. nghiến răng đến nỗi gò má nổi cứng lên. - Ta về nhà thôi. Năm phút sau từ lối cửa thông ra sân thấy Brody cả quyết bước ra. lật tung nắp thùng rác, ném nắp vào xó. Rồi cúi xuống lôi xác con mèo lên. Cầm lại chỗ chiếc xe hơi, quẳng qua cửa sổ xe để ngỏ và ngồi vào sau tay lái. phóng xe ra đường và chiếc xe, sau tiếng phanh rít ken két, chồm về phía trước. Bon được khoảng trăm yát, Brody giận dữ bóp còi. Mấy phút sau đến nhà Vaughan - dinh thự lớn bằng đá theo kiểu Tudor[33] trông ra đường Sprain, gần đường Scotch. ra khỏi xe, tay cầm chân sau của con mèo chết, leo lên cầu thang bấm chuông. Brody thầm mong là gặp Eleanor. Cửa mở, Vaughan lên tiếng: - A, chào Martin. Tôi... Brody cầm con mèo dúi vào tận mặt viên thị trưởng. - Ông thử xem nào. Đồ xỏ lá. Vaughan tròn xoe mắt. - Chuyện gì vậy? Tôi hiểu cậu cái gì? - kẻ trong đám bạn bè của ông thực đấy. Ngay cạnh nhà tôi, trước mặt con trai tôi. Chúng nó giết con mèo của tôi. Ông xúi chúng nó hả? - Bình tĩnh nào, Martin. - Có vẻ như Vaughan thực sửng sốt. - Có bao giờ tôi lại hành động như thế. bao giờ! Brody hạ con mèo xuống và hỏi: - Ông gọi điện cho đám bạn bè của ông sau khi tôi ra về? - Ừ... có. Nhưng chỉ để bảo rằng ngày mai các bãi tắm mở. - Chỉ có thế thôi? - Phải. Thế sao? - Ông dối cách vô liêm sỉ! - Brody ném con mèo vào ngực Vaughan, con mèo rơi xuống đất. - Ông có biết cái thằng đê tiện vặn cổ con mèo gì ? Ông có biết nó quát cái gì với thằng bé tám tuổi nhà tôi ? - . Tất nhiên là biết rồi. Làm thế nào tôi biết được? - Nó cũng hệt như ông. Nó : "Hãy bảo với bố mày là nên biết điều tí". Brody quay người xuống thang gác, bỏ lại Vaughan đứng cạnh đống xương và lông ra hình thù gì.