Sáu Cửa tiệm quan tài ở cửa tây, ông chủ họ Bạch, bản thân biết làm mộc, thuê hai phụ việc, còn mướn thêm hai vị sư phụ nghề mộc. Cửa hiệu gồm ba gian mặt tiền liên tiếp, gian bên trái để quan tài, gian bên phải là phòng kế toán, gian chính giữa dùng để tiếp đãi khách hàng, kinh doanh tương đối lớn, nhưng tiệm quan tài đâu có phải hiệu ăn, thể nào có những lúc đông như trẩy hội được. Tuy nhiên, bán quan tài có lợi nhuận cao, đặc biệt là khi có gia đình đông con nhiều cháu tới mua quan tài, khi ấy hét giá tiền bao nhiêu họ trả bấy nhiêu, chưa bao giờ trả giá. Tiệm quan tài có thể đóng cửa tháng, nhưng chỉ cần mở cửa lần là đủ ăn ba tháng. Sao khi lão chủ tiệm qua đời, con của ông ta là Bạch Tứ Hổ kế thừa gia sản, bao gồm khu nhà cấp bốn, cộng thêm việc kinh doanh tiệm quan tài. Nhưng Bạch Tứ Hổ biết đóng quan tài, chỉ biết đứng bên cạnh giám sát thợ mộc làm việc. là người biết ăn biết , nhu nhược hèn nhát. Bởi vậy lợi dụng biết xem sổ sách, đám phụ việc và sư phụ nghề mộc thông đồng với nhau bí mật bòn rút tiền, bán ra bao nhiêu quan tài cũng vẫn lỗ lã, việc buôn bán giảm sút từng ngày. Bạch Tứ Hổ buộc phải lần lượt bán từng gian phòng của khu nhà cấp bốn, chỉ chừa lại hai gian phòng xiêu vẹo. Hàng ngày, sinh hoạt cùng hai người phụ việc ở trong tiệm đằng trước, còn hai vị sư phụ ở gian phía sau. Vào buổi chiều ngày, đến khi làm xong quan tài chờ người đến lấy trời tối đen. Mọi người trong tiệm quan tài chuẩn bị ngủ chợt nghe thấy bên ngoài có người đập cửa. Đêm hôm khuya khoắt đập cửa rầm rầm, nếu là loại cửa hàng khác, phụ việc kiểu gì cũng nổi cáu, nhưng tiệm quan tài và tiệm bán thuốc có quy định, dù khách hàng tới trễ đến mấy cũng có vấn đề gì. Nửa đêm chạy đến tiệm quan tài và tiệm bán thuốc gõ cửa, trong nhà người đó chắc chắn có chuyện lớn liên quan đến sống chết. Cho nên khi nghe thấy tiếng gọi cửa, người phụ việc lập tức khoác tạm quần áo rời giường. cửa có khoét ô , mục đích là để phòng ngừa đạo phỉ, mở cửa chính, chỉ mở ô cửa đó ra để nhìn ra bên ngoài. Vừa ngó ra người phụ việc thấy bên ngoài cửa tiệm quan tài có người cầm đèn lồng trắng đứng chờ, bảo rằng trong nhà có người chết, nhờ tiệm mau chóng chuẩn bị quan tài, giờ giữa tam phục thiên, người chết để được lâu, cần dùng gấp, ngày mai đến lấy ngay. xong, người đó lẳng tiền đặt cọc vào trong rồi vội vàng chạy đến những nhà thân thích báo tang. Những người trong tiệm quan tài vừa thấy có người đến mua, ai còn được ngủ nữa, tất cả đều phải dậy làm việc. Sau khi thắp đèn trong tiệm, hai người thợ mộc lập tức chuẩn bị vật liệu để đóng quan tài, hai người phụ việc làm công việc phụ, tất cả cùng tất bật làm việc. Theo tục lệ xưa, nếu làm việc qua đêm, ông chủ phải cung cấp bữa điểm tâm, nhưng phải là bữa điểm tâm bình thường mà phải có cá có thịt, cơm rượu đế. Sau khi làm xong việc, thợ ăn no uống say rồi ngủ bù. Thấy mình chẳng có việc gì để làm, Bạch Tứ Hổ bèn chợ mua thức ăn. Lúc ấy qua canh bốn chưa đến canh năm, canh năm gà mới gáy, canh bốn là sau nửa đêm, trời vẫn còn chưa sáng. Gần con mương lớn ngoài cửa tây có cái chợ bán thức ăn. Vào đầu canh năm mới có nông dân đánh xe tới bán thức ăn, muốn mua đồ ăn sớm chỉ tới chỗ này mới có. Bạch Tứ Hổ ra khỏi nhà từ rất sớm, còn chưa đến chợ bán thức ăn trời đột nhiên nổi tiếng sấm, mưa to như trút, khiến ướt như chuột lột. vội vàng tìm chỗ tránh mưa. Vùng gần con mương lớn có mấy gia đình ở, chỉ có vài căn phòng cổ từ đời nhà Thanh còn tồn tại đến bấy giờ. Thấy cánh cửa gỗ căn phòng xiêu vẹo bên đường bên cạnh chỉ được buộc tạm bằng dây thừng, trong phòng tối ôm đèn đóm, chắc hẳn là phòng bỏ hoang, lập tức cởi dây thừng, mở cửa chui vào bên trong, nhưng đến khi muốn đóng cửa khép chặt lại được nữa. Bên ngoài gió táp mưa sa, nước mưa tạt đầy vào vào trong phòng qua khung cửa hỏng cánh. cánh cửa đúng ra là có khóa bằng đồng, nhưng biết kẻ nào nạy ra lấy mất, chỉ để lại hai lổ thủng. xuyên dây thừng qua hai cái lỗ, buộc chặt cánh cửa lại. Nhờ ánh chớp lọt qua cửa sổ, trông thấy trong nhà ngoài bốn bức vách chẳng còn cái gì, bụi đất phủ lớp dày, chỉ có cái giường đất. đành đặt mông ngồi xuống giường, nhắm mắt chờ ngớt mưa. Sau khoảng thời gian chừng ăn xong bữa cơm, toàn thân đột nhiên ớn lạnh, đồng thời còn nghe thấy tiếng bước chân ai đó lại lại ở trong nhà. mở choàng mắt ra nhìn, giật mình nhìn thấy người phụ nữ cúi gục đầu vòng quanh nhà. Bạch Tứ Hổ sợ hết vía. ngồi co ro giường gạch, miệng há hốc mắt mở trừng trừng, ngây dại dám động đậy. Người phụ nữ trong phòng đột nhiên tới trước mặt , đập vào mắt là gương mặt trắng bệch như tờ giấy, tóc dài, há mồm lưỡi thè ra ngoài. Trong khi Bạch Tứ Hổ luống cuống chân tay, đầu lưỡi người phụ nữ nhanh chóng quét tới, lập tức ngả sang bên cạnh né tránh, nhưng đầu lưỡi vẫn kịp liếm vào vành tai trái của . rú lên kinh sợ bỏ chạy, nhảy xuống giường định mở cửa chạy ra ngoài. Nhưng chẳng biết tại sao dây thừng buộc cửa thấm nước mưa, càng cởi càng chặt. Trong lúc quẫn bách mở được cửa, nhắm mắt nhắm mũi húc thẳng đầu vào cửa sổ, ôm theo cả cánh cửa bổ nhào ra bên ngoài, rồi ngất lịm. Lúc ấy sang canh năm, có người ngang qua cứu tỉnh lại, nhưng tai trái biến thành đống bầy nhầy máu thịt. Sau ngày mới biết, cách đó vài năm, có người phụ nữ thắt cổ chết trong căn nhà đó, căn phòng lụp xụp bị bỏ hoang từ lúc ấy, cho tới bấy giờ, cũng chẳn có ai dám dọn vào ở, đích thị là gặp quỷ thắt cổ rồi. Sau lần bị kinh hãi đó, đầu óc Bạch Tứ Hổ bắt đầu trở nên cực kỳ bình thường. lâu sau, tiệm quan tài phải đóng cửa, phụ việc lẫn thợ mộc của tiệm đường ai nấy . Nghe Bạch Tứ Hổ đổi sang làm nghề đồ tể, sau này bao giờ còn mở lại tiệm quan tài nữa. Mười mấy năm trước, trong lúc bán dê thập cẩm, Trang Bát Bối Nhi được hai người thợ mộc của tiệm quan tài cho biết, Bạch Tứ Hổ biết làm nghề mộc, còn vết bớt bên tai trái cũng có sẵn từ lúc mới sinh. Trang Bát Bối Nhi thích tán chuyện, có chuyện gì cũng kể ra tuốt tuột, nhớ ra cái gì là mang ra tán dóc hết với Quách sư phụ. Ông lão còn nghe hai vị sư phụ thợ mộc đó nhắc đến, bên ngoài có lời đồn bảo rằng bên trong khu nhà cũ của tiệm quan tài cất giấu của cải. Số của cải đó do tổ tiên Bạch chôn xuống, nhắn lại với đời sau, kể cả có bị chết đói, cũng được phép bán hai gian nhà giữa đó. Tính toán theo thời gian, năm Canh Tý (1900) phá hủy thành Thiên Tân, nhà họ Bạch mót gạch cũ dựng nhà, như vậy hai gian nhà đó được xây vào thời ông nội của Bạch Tứ Hổ, cho tới năm 1954 bấy giờ, cũng chỉ mới được khoảng năm mươi năm. Hơn nữa, khi chôn của cải lại tiến hành trong bí mật để lại di chúc, cho nên ai biết được số của cải đó là những gì, Bạch Tứ Hổ đương nhiên càng thể biết được. từng đào nền nhà sâu ba thước đất, nhưng chẳng tìm thấy bất cứ thứ gì. Bảy Tiệm quan tài của Bạch Tứ Hổ bị ăn cắp từ bên trong, thua lỗ sao tiếp tục kinh doanh được. Mặc dù đầu óc ngu dốt, nhưng vẫn ghi nhớ lời căn dặn của tổ tiên nên chịu bán hai gian nhà giữa. Tuy vậy, lật tung cả nhà lên mà vẫn thấy bất kỳ thứ gì. Hai gian phòng đó nằm ở ngõ hẻm kho lương, cách nhà ga phía bắc xa. Dù sao trước giải phóng ông lão mới ở cái vùng đó. Còn sau này thế nào, Trang Bát Bối Nhi chẳng hay biết chút gì. Người nói vô tâm, người nghe hữu ý, Quách sư phụ càng nghe càng cảm thấy Bạch Tứ Hổ chính là tên tội phạm mà ông ta truy tìm. Điểm thứ nhất, tuổi tác phù hợp; điểm thứ hai, tai trái có vết sẹo. Mặc dù kẻ này chưa từng làm thợ mộc, nhưng dù sao cũng từng mở tiệm quan tài. Bởi vậy mới , giao thiệp rộng cũng là loại tài nguyên. Nếu như quen biết Trang Bát Bối Nhi, ông lão làm sao có thể thoải mái nhắc tới những câu chuyện cũ Trần Chi Ma Lạn Cốc Tử* với ông ta, làm sao ông ta có thể biết được vết xanh bên tai trái tên tội phạm phải là cái bớt hay ngày trước chưa bao giờ từng làm thợ mộc. Hóa ra trước kia họ nhầm hướng hoàn toàn, chẳng trách hỏi cái gì người ta cũng biết. *Chuyện đầu đuôi, chuyện phiếm lúc trà dư tửu hậu Quách sư phụ cảm ơn Trang Bát Bối Nhi, đứng dậy ra về. Sáng sớm ngày hôm sau, ông ta và Đinh Mão về vùng lân cận phía bắc hỏi thăm chút, thực có kẻ Bạch Tứ Hổ như vậy. Hàng xóm xung quanh ai cũng bảo kẻ này là người trung thực, thường ngày rất ít khi ra khỏi nhà, ngoại trừ ăn mặn, mua rất nhiều muối hề có hành động gì khác thường. Sau khi xác minh xong, Quách sư phụ muốn đánh rắn động cỏ, trở về báo lạo với lão Lương, có kẻ ở ngõ hẻm kho lương ở khu nhà ga phía bắc tên là Bạch Tứ Hổ, rất có thể là thủ phạm cướp của giết người bằng búa thợ mộc. Tuy lão Lương tin tưởng Quách sư phụ, nhưng vấn đề này tương đối nan giải. Câu chuyện về "Kẻ cướp bằng búa thợ mộc" lưu truyền ở Thiên Tân vệ vài chục năm rồi, từ đầu đến cuối chí ít liên quan đến hai ba mươi mạng người, khiến cho lòng dân yên, ngay cả những khu vực đông người trong thành cứ đến khi trời tối, gần những chỗ vắng vẻ là ai dám tới. Nhưng tên thủ phạm tàn ác này gây án có quy luật, cho tới bấy giờ nạn nhân của ai sống sót, truy nã mười năm mà có kết quả. Muốn bắt trộm cướp phải có tang chứng, nếu có thể nào xông bừa vào nhà bắt người được. Nếu ông tìm ra hung khí búa thợ mộc dùng để đánh cướp, làm sao có thể nhận định là Bạch Tứ Hổ gây án? Mặc dù vậy, nếu chính quyền muốn điều tra nhân thân chẳng có gì là khó, chỉ cần mượn lý do điều tra hộ khẩu tới gõ cửa nhà Bạch Tứ Hổ, trước tiên tra xét nhân thân kẻ này chút. Trưa ngày hôm đó, chính quyền phái hai người tới nhà , vừa gõ cửa còn chưa kịp hỏi han gì Bạch Tứ Hổ đột ngột xô dạt hai người ra rồi bỏ chạy. Công an viên được phái tới nhận định kẻ này làm vậy là bởi có tật giật mình, người vội truy đuổi sát phía sau, còn người ở lại xem xét bên trong nhà. Khi nhìn thấy bài vị của Thần sông Quách Đắc Hữu ở trong phòng, ta cảm thấy kỳ quái khó hiểu, mang theo tâm trạng buồn bực tiếp tục xem xét. Vừa liếc qua giường gạch, ta thấy có người trắng tinh nằm đó, giống hệt như người tuyết, đến khi nhìn kỹ lại hóa ra là xác phụ nữ ướp trong muối tinh. Vụ án này có lẽ nghiêm trọng hơn dự tính, công an dân binh đội tuần phòng đều phải tham gia, điều động dưới bảy tám trăm người, chia thành mấy đường đuổi bắt kẻ trốn chạy Bạch Tứ Hổ. Tên này hết đường chạy trốn, cuối cùng bị bắt tại rãnh nước thải. Hơn hai mươi người lại lần mò dưới rãnh nước đó mất hai ngày mới tìm được cây búa thợ mộc mà Bạch Tứ Hổ ném xuống đó. Bằng chứng rành rành, hết đường chối cãi, khai ra trước giải phóng nhìn thấy búa thợ mộc tại hàng bán rong ở vỉa hè như thế nào, sinh ra ý tưởng đen tối ra sao, sau khi mua được cây búa giấu vào trong người, chọn những nơi nào để gây án. Có lần đánh gục phụ nữ ở tỉnh ngoài, thấy này tương đối có nhan sắc, bèn nhân dịp lúc trời tối đen mang người chết về nhà, ngày nào cũng ăn nằm với các xác đó, sau năm xác chết mang bầu. Kế đó xác chết bắt đầu xuất dấu hiệu phân hủy, sợ mùi xác chết bay ra khiến cho hàng xóm phát , bèn dùng muối để bảo quản. Nghe bên ngoài đồn đại Quách sư phụ muốn bắt mình, trong lúc bản thân cảm thấy kinh hoảng biết phải làm sao, xác bày cách cho, bảo làm miếng gỗ hương, viết bài vị Quách sư phụ lên , bái vài ngày là người này chắc chắn phải chết, ngờ tới chỉ vài ngày sau bị bắt về kết án. Lão Lương cho rằng lời khai đó vô cùng ma quái, có thể thấy được tư tưởng mê tín cắm rễ trong đầu Bạch Tứ Hổ, xác chết làm sao có thể sinh con, lại còn nghĩ kế cho nữa? Hơn nữa, lập bài vị thắp hương khấn vái là có thể khiến người khác bị chết, đời này làm gì có chuyện như vậy? Bị Bạch Tứ Hổ bổ vào gáy, chắc hẳn lúc ban đầu chỉ mới chết não còn trái tim vẫn còn đập, về sau cơ thể ta mang thai thai, rồi bắt đầu bốc mùi lúc ấy mới chết thực . Bởi vì Bạch Tứ Hổ chân tướng, cứ tưởng rằng trước khi mang về nhà này là xác chết. Theo dân gian, người chết não được là 'hoạt thi', những gì kể có lẽ là thực. Về phần Bạch Tứ Hổ bảo rằng mấy ngày hôm trước xác đột nhiên chuyện, nhất định là do chính bản thân tưởng tượng ra. Cuối cùng vụ án được khép lại, phê duyệt hồ sơ thế nào, định án ra sao đến nữa. Về phần xác trong nhà Bạch Tứ Hổ, liệu có phải thực mở miệng chuyện vào ngày tết Đoan ngọ, bày cách cho Bạch Tứ Hổ lập bài vị thắp hương để khấn vái làm cho Quách sư phụ chết hay ? Vậy tôi xin với ngài, xác bị muối tinh bao bọc kín mít, thể nào mở miệng chuyện được, nhưng Bạch Tứ Hổ cũng có nghe lầm. Ngài đừng có quên, trong ngôi nhà thừa kế lại ở ngõ hẻm kho lương của Bạch Tứ Hổ có cái gì, tại sao thử mọi biện pháp mà tìm được. thực tế, người chuyện với phải là cái xác mà là kẻ hoàn toàn khác. Nếu như đây chỉ câu truyện ngắn, vụ án "cướp bằng búa thợ mộc" tuyên cáo được phá, thủ phạm cúi đầu nhận tội và phải đền tội, đến đây câu chuyện của chúng ta coi như khép lại rồi. Nhưng câu chuyện về Thần sông lại mang tính dài kỳ, bên trong lại có tiền căn hậu quả của nó, phải đến phần về "Ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương" mới có thể phá giải được nút thắt lúc trước.
Tám Hai năm tiếp theo, đầu đường cuối ngõ bàn tán xôn xao, câu chuyện chỉ xoay quanh việc Quách sư phụ phá liền ba vụ án ly kỳ "Trạm điện đài ngầm dưới sông, bom người, đánh cướp bằng búa thợ mộc", trong đó thiếu những tình tiết nghe nhầm đồn bậy. Thí dụ như vụ án "Bom người", thực ra chỉ là dùng xác chó để vận chuyển lậu nhựa túc, nhưng truyền qua miệng nhiều người, chẳng hiểu tại sao lại biến thành dấu thuốc nổ trong bụng xác trẻ con, quả là tam sao thất bản, người ta đồn đại càng ngày càng ly kỳ. Bản thân vụ án "cướp bằng búa thợ mộc" kỳ quái rồi, Bạch Tứ Hổ ru rú trong nhà, tuyệt ai có thể nghĩ ra hung thủ lại là . Nhưng chẳng hiểu do ma xui quỷ khiến thế nào mới tìm Quách sư phụ, cho nên mới đáng chết, chết ai thương tiếc. Tên Bạch Tứ Hổ này hành xử như ma quỷ, giết chết từ tỉnh ngoài đến rồi mang xác về nhà coi như vợ của mình. Nghe , xác chết đó còn sinh cho đứa con. Câu chuyện về vợ cương thi con quái trong căn nhà bị ma ám trong ngõ hẻm kho lương được dân chúng đồn ầm lên, hai gian phòng đó bị đóng cửa. Ai cũng bảo đó là căn nhà ma, các hộ gia đình quanh đó cứ nghĩ đến mấy năm nay ở canh cái xác phụ nữ được bảo quản bằng rất nhiều muối, lâu ngày muối còn kết tinh thành kén trắng, có ai mà chẳng sợ hết hồn? Cho nên tất cả đều dọn nhà nơi khác. Số hộ gia đình sống ở ngõ hẻm kho lương vốn dĩ nhiều lắm, sau vụ án kinh hoàng đó, còn tới nửa. Trước đây, địa danh được đặt rất bừa bãi. Trước đó, ngõ hẻm kho lương từng có kho lương thực của nhà nước, bởi vậy mới được gọi bằng cái tên này, tên đầy đủ của nó là ngõ hẻm kho chứa lương thực, nằm cạnh nhà ga phía bắc, liền kề với "Ninh viên". Ninh viên là khu vườn trồng cây được xây dựng vào những năm cuối triều Thanh, bên trong có hồ nhân tạo. Vào năm 1931 của thời kỳ hai mươi năm dân quốc, nó được đổi tên thành công viên Bắc Ninh. Đến tận thập kỷ năm mươi sáu mươi, mọi người vẫn quen gọi nó theo tên cũ là "Ninh viên". Nhà của Bạch Tứ Hổ nằm ở ngõ hẻm kho lương sát Ninh viên ở khu vực nhà ga phía bắc, sau khi bị bắt rồi xử bắn, bất động sản bị sung công, cửa dán giấy niêm phong, những gia đình ở xung quanh cũng chẳng còn lại mấy hộ. Về sau, công viên Bắc Ninh mở rộng hồ, phá hủy khá nhiều những căn nhà cổ. Khi ấy, hai gian phòng của Bạch Tứ Hổ cũng bị dỡ bỏ. Chuyện này ngọn ngành sau, tạm thời để đấy nhắc tới. trong nhà Bạch Tứ Hổ chết dưới mười năm trước. Trước giải phóng, người ở nơi khác chạy nạn đến đó rất nhiều, chiến tranh loạn lạc, bởi vậy điều tra ra được thân phận. Tử thi đưa hoả táng, căn nhà ở ngõ hẻm kho lương bị dán giấy niêm phong, vụ án này coi như đến hồi kết. Nhưng ngoài xã hội, rất nhiều người chân tướng, bởi vậy lời đồn tiếp tục nổi lên ở khắp nơi, mỗi người kiểu. Quách sư phụ dám kể công, vụ án này thực phải do mình ông ta phá, mà cũng chẳng tới phiên ông ta lập công. Cuối tháng sáu năm 1954 xử bắn Bạch Tứ Hổ, trị an xã hội ngày càng vào nề nếp. Nhưng vận khí Quách sư phụ vẫn thể bảo là tốt, cũng thể đánh giá là xấu. Thời gian trôi qua ngày từng, chỉ trong chớp mắt đến năm 1957, trời mưa to mấy trận, mực nước Hải Hà đột ngột dâng cao. Tới mùa hè năm 1958, khí hậu biến đổi khác thường, liên tục mấy tháng có mưa xuống. Cái nóng mùa hè oi bức, nhiều người nhảy xuống sông bơi lội, liên tiếp xảy ra chết đuối. Có ngày, Quách sư phụ phải vớt xác chết trôi sông, sau khi xong việc về đến nhà, do quá mệt mỏi nên ông ta lăn ra ngủ từ rất sớm. Nửa đêm nghe thấy gian ngoài có tiếng động, ông ta cho rằng có trộm vào nhà bèn đeo giày chạy ra xem sao. Gian ngoài thấy có người, nhưng đến khi ông ta ngẩng đầu lên, nhìn đến bức tranh ông táo tường lò, ông ta chợt rùng mình đổ mồ hôi lặng ngắt toàn thân. Khuôn mặt ông táo và bà táo trong bức tranh biến đổi. Sờ sờ ra đó là hai gương mặt quái dị, bốn tròng mắt đen bóng đảo loạn xạ. Quách sư phụ cầm giầy lên ném thẳng vào, chợt thấy hai con vật lông xanh xám nhảy từ mặt bếp lò xuống đất, chui qua khe cửa bên dưới chạy mất. ra là hai con hồ ly trưởng thành vừa trèo lên bếp lò ngồi. Quách sư phụ xem xét bức tranh ông táo bị giầy ném vào, thấy lưu lại dấu vết, vội vàng xoa bàn tay lau vết giầy . Nào ngờ bức tranh dán tường nhiều năm, giấy mủn lắm rồi, ông ta vừa mới xoa cái, bức tranh rách ra luôn, còn khả năng khôi phục lại nguyên trạng. Mấy năm trước, lúc ăn dê thập cẩm ở quán hàng của Trang Bát Bối Nhi, ông ta dùng que cời than đâm trúng con hồ ly con. Rốt cục có phải bọn chúng đến trả thù hay , thực thể nào truy xét ra được. Nhưng dù thế nào thế phong thủy lò bát tiên cũng bị phá mất, chỉ sợ phải là dấu hiệu báo điềm lành. Nhưng bất kể ra sao, ông ta cũng tài nào đoán trước được, vật trong "Ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương" rục rịch muốn chui ra. Chương 16: Mộ Hải Trương Ngũ Con sông được nhắc đến nhiều nhất trong "Hà thần" là Hải Hà, được xếp vào hàng ngũ những con sông dài. Bắt đầu từ cầu Kim Cương cho đến khi đổ ra biển ở cửa Đại , toàn bộ con sông trải dài bảy mươi ba cây số, nhưng lưu vực của dòng Hải Hà lại rất rộng, bao gồm năm nhánh sông chính, theo thứ tự là "sông Bắc Tam, sông Vĩnh Định, sông Đại Thanh, sông Tử Nha và sông đào Chương Vệ Nam". Năm nhánh sông chính lại chia ra thành hơn ba trăm con sông , trải khắp toàn bộ vùng Hoa Bắc với hình thù giống như cái quạt, Hải Hà của Thiên Tân vệ có thể coi là cán quạt, bởi đến khu vực này con sông đột ngột thu hẹp lại. Địa hình của khu vực này là tây bắc cao, đông nam thấp, bắc có Yên Sơn, tây có Thái Hành sơn, đông nam là bình nguyên rộng lớn. Con sông bắt nguồn từ cao nguyên, xói mòn đất bazan, cuốn theo lượng lớn bùn cát chảy đến Hải Hà, khiến lòng sông đầy dần lên theo từng năm. Ứng theo đó, nước lũ chảy xuôi xuống hạ du được, cho nên thường xuyên xảy ra lũ lụt. Mỗi lần lũ định kỳ vào mùa hạ, nước sông cuồn cuộn chảy xiết, lần nào thế nước lũ tràn về cũng mãnh liệt đầy hung dữ. Căn cứ vào sách vở ghi lại, từ khi lập vệ dựng thành Thiên Tân vào triều Minh cho đến nay, lưu vực Hải Hà phát sinh ba trăm tám mươi bảy lần thiên tai lũ lụt nghiêm trọng, thành Thiên Tân bị nước lũ ngập lụt hơn bảy trăm lần, nhà cửa của quân dân bị hư hại vì hứng chịu nhiều trận lũ lụt. Sau giải phóng, Mao Chủ Tịch từng đưa ra chỉ thị, nhất định phải trị tận gốc thủy tai của Hải Hà. Bởi vậy, mỗi lần đến thời hạn cố định, người ta phải nạo vét bùn đất cho dòng Hải Hà, đồng thời đào mương máng phân lũ. Câu chuyện đến năm 1958. Năm đó, người chết đuối rất nhiều, bởi vì tình hình hạn hán nghiêm trọng, thời tiết nóng như thiêu như đốt, số người muốn tắm mát, xuống sông bơi lặn nhiều hơn những năm trước cả vài lần. Vào tháng nóng nhất của mùa hè, kể cả người biết bơi cũng chịu đựng nổi phải nhảy xuống sông tắm. Bởi vì thiên tai hạn hán, mực nước xuống thấp đến mức lộ ra cả bùn đất và rong rêu dưới đáy sông. Người xuống sông tắm rất dễ bị bùn lầy hút chặt, hoặc bị rong rêu cuốn lấy, càng giãy càng bị cuốn chặt, dù bơi giỏi đến mấy cũng thể thoát chết. Bức họa ông táo nhà Quách sư phụ bị hủy, theo cách của Trương Bán Tiên đó là phá phong thuỷ, phải hứng chịu vận rủi. Nhưng ông ta bận rộn cả ngày vớt xác trôi sông, lấy đâu ra thời gian mà lo với lắng. Ngày hôm sau, lão Lương tìm tới Quách sư phụ, bảo rằng tất cả các ngành các chi đội đều phải cử người tham gia công việc trị thuỷ, nạo vét mương máng chống hạn phòng chống lũ lụt. Ông này quyết định cử Quách sư phụ và Đinh Mão tham gia lao động. Từ lúc ấy trở , ngày nào hai người họ cũng phải nạo vét sông cái. Nạo vét sông là việc cực nhọc nhất, đặc biệt là vào mùa hạ trời oi bức mưa, trời nắng như đổ lửa, mặt trời chói chang chiếu thẳng xuống đỉnh đầu. Khi nạo vét dưới mương máng, ánh nắng chiếu xuống, lớp bùn lầy biến thành màu xanh lục, thối thở nổi. Quách sư phụ những chỉ nạo vét con sông cái, mà đến lúc có người chết đuối dưới sông, ông ta còn phải đảm nhận công việc vớt tử thi cùng với Đinh Mão. Công việc chống lũ chủ yếu là nhân lúc vào mùa nước cạn, nạo vét bùn lắng dưới đáy sông, khơi thông dòng chảy, để đến lúc gặp phải mưa to, lũ lụt đến mức tràn thẳng vào nội thành. Đoạn sông mà Quách sư phụ và Đinh Mão nạo vét nằm ở vùng ngoại thành phía tây bắc. Nơi đó là vùng xanh tươi, phủ đầy những vườn cây rộng lớn, xa lắm về phía tây là "Đắc thắng khẩu", ngày xưa gọi là Tiểu Sao Khẩu. Vào thời Hàm Phong nhà Thanh, Lâm Phượng Tường Lý Khai Phóng chỉ huy quân Thái Bình Thiên Quốc bắc phạt, đánh tới Tiểu sao khẩu, chuẩn bị qua sông đột nhiên bị dân đoàn* phục kích, thất bại tan tác, bởi vậy triều đình mới ban cho cái tên "Đắc thắng khẩu" . *Tổ chức vũ trang ở địa phương của bọn cường hào địa chủ Trung Quốc thời xưa Khí trời oi bức, hai nhóm người luân phiên nạo vét sông cái. Giữa trưa ngày hôm ấy, đến phiên Quách sư phụ nghỉ trưa, những công nhân trị thuỷ xúm lại vây quanh bắt ông ta kể chuyện ma dưới sông và biển. Quách sư phụ dám kể chuyện liên quan đến quỷ thần, sợ lỡ lời sai cái gì, lại phải hứng chịu cơn giận của lão Lương. Ông ta chợt nhớ ra, về phía tây là "Đắc thắng khẩu", lại nghe nơi đây có mộ của Hải Trương Ngũ, bèn kể về những tích chuyện ngắn về kẻ này. Vào những năm cuối nhà Thanh, Hải Trương Ngũ là tên trùm lưu manh khét tiếng của Thiên Tân vệ, xuất thân nghèo khổ, làm giàu bằng cách khống chế việc buôn bán muối. Thiên Tân làm ra muối, bởi vậy vào thời nhà Thanh, tất cả những người giàu có nhất trong nội thành đều là thương nhân buôn muối, từ đó có thể suy đoán ra, Hải Trương Ngũ phải giàu đến mức nứt đố đổ vách. Vào cái năm quân Thái Bình bắc phạt đánh tới thành Thiên Tân, bỏ tiền tổ chức lực lượng dân đoàn, mai phục tại Tiểu sao khẩu, dùng hoả lực đồng loạt tấn công. Quân Thái Bình ngã rạp từng mảng dưới họng súng kíp của dân đoàn, binh bại như núi đổ, cuối cùng bị quân kỵ mã của Tăng Cách Lâm Thấm** tiêu diệt. Bởi vậy, Hải Trương Ngũ được triều đình khen thưởng, phong tặng cho hàm võ quan tam phẩm. Hải Trương Ngũ là tư thương buôn muối xuất thân từ lưu manh. Đừng thấy có mũ miện lông công mà lầm, chữ bẻ đôi cũng biết, đòn gánh đặt ngang mặt đất cũng đọc ra được là chữ nhất. Có lần, vị khâm sai đại thần xuống thị sát, Hải Trương Ngũ đứng ra tiếp đãi, hàn huyên với vị khâm sai đại nhân. Sau khi thảo luận xong việc công, vì muốn xóa ngăn cách, kéo gần quan hệ giữa thượng cấp và hạ cấp, Hải Trương Ngũ hỏi khâm sai đại thần có mấy người con. Khâm sai đại thần bảo rằng có hai khuyển tử, xong quay sang hỏi chuyện nhà Hải Trương Ngũ. Hải Trương Ngũ thầm nghĩ: "Chức quan lớn như vậy mà khâm sai đại nhân còn gọi công tử trong nhà là khuyển tử, theo chức võ quan Tam phẩm của mình nên gọi như thế nào mới phải? Tóm lại, con cái của ta bất kể thế nào cũng thể đánh đồng với công tử nhà khâm sai đại nhân được." Nghĩ vậy, lập tức cúi người đáp: "Khiến đại nhân chê cười rồi, trong nhà hạ quan chỉ có tinh trùng lên não." **Tăng Cách Lâm Thấm (1811-1865), tiếng Mông Cổ: Sengge Rinchen, là người tộc Bác Nhĩ Tể Cát Đặc của Mông Cổ, danh tướng cuối thời Mãn Thanh. Thời Hàm Phong và Thuận Trị, khi tham gia chiến đấu với quân Thái Bình Thiên Quốc và liên quân Pháp, ông lập được nhiều công lớn. Nghe kể xong, đám công nhân trị thuỷ con sông cái phá ra cười. định nài nỉ Quách sư phụ kể thêm tích chuyện nữa, họ chợt nghe thấy những người nạo vét bùn dưới sông trở nên huyên náo, bởi sau khi xúc hết lớp bùn, bên dưới xuất quái vật. Hai Năm 1958, Thiên Tân vệ xảy ra hai kiện lớn, là đua nhau luyện sắt thép theo phong trào, hai là nạo vét sông cái chống hạn phòng lũ, công việc chủ yếu là nạo vét hết lớp phù sa lắng . Khi ấy thực đào lên được ít đồ vật, bởi vì lớp bùn lắng dưới sông tích tụ qua nhiều năm, chôn vùi những nghĩa địa hoặc thôn làng ở ven sông xuống dưới, bởi vậy mới đào được những đồ vật có niên đại vài trăm năm. Đến giờ, khi nhắc đến chuyện năm đó, số ít người cao tuổi vẫn còn ấn tượng, cho dù được tận mắt nhìn thấy cũng từng được nghe kể lại. Những việc thực đáng kinh ngạc đáng khiếp sợ, tổng cộng chỉ xảy ra bốn lần, việc mà Quách sư phó và Đinh Mão được chứng kiến là lần thứ tư. Người ta tiến hành nạo vét phù sa ở kênh mương ngoài thành để phòng chống lũ lụt ở hơn mười nơi, bốn việc đó đồng thời xảy ra ở cùng địa điểm. việc kỳ lạ đầu tiên xảy ra sông Tử Nha. Năm đó, khi nạo vét sông cái, người ta chỉ làm vào ban ngày, đào hết bùn lắng lên, xúc lên xe cút kít mang đổ. Bên bờ sông dựng cái rạp lớn, những người công nhân trị thuỷ nhà ở xa ở lại qua đêm trong cái rạp đó. Mùa hè oi bức, rất nhiều muỗi, nhưng công việc nạo vét sông quá cực nhọc, toàn bộ đám công nhân trị thủy vừa nằm xuống lăn ra ngủ ngay. Đến lúc ấy, bên ngoài rạp bỗng xuất sáu đứa bé mặt đồ đen, độ tuổi xấp xỉ nhau. Chúng đẩy cửa rạp ra, sau đó câu mà toàn bộ đám công nhân trị thuỷ hiểu tí gì "Huynh đệ chúng ta vẫn luôn ở cùng chỗ, đừng để họ tách chúng ta ra". Lúc ấy có ai hiểu được câu đó có ý gì, cũng chẳng biết sáu đứa bé đó từ đâu mà đến, định truy hỏi thấy cửa rạp đóng chặt lại rồi, kịp nhìn thấy sáu đứa bé về phía nào. Những người công nhân trị thủy cứ ngỡ mình nằm mơ. Ngày hôm sau tiếp tục nạo vét khơi dòng, trong lúc tiến hành công việc họ đào được sáu con mèo đúc bằng sắt rất lớn dưới lớp bùn, han rỉ toàn bộ, nhìn ra được hoa văn ra sao, hình dáng giống loài như mèo, biết là vật chìm xuống sông thuộc về triều đại nào. Khi đó, hiến đồng hiến sắt cho quốc gia là việc quang vinh, khi đường nhặt được cây đinh sắt cũng quên nộp lên , bởi vậy sáu con mèo sắt bị mang nấu chảy ra. Những người công nhân trị thuỷ đa phần là người có xuất thân thấp hèn làm công việc chân tay, những người này rất mê tín, tin rằng sáu đứa bé ngày hôm đó là do sáu con mèo sắt ở đáy sông biến thành người. Đồ cổ sinh ra linh khí, nếu bị hủy mang lại tai họa, họ bèn thầm thắp hương cầu khấn, nhưng từ đó về sau vẫn hề có việc gì lạ phát sinh. Lần thứ hai xảy ra bên ngoài cửa tây. Thời xưa, Thiên Tân vệ có bốn cửa thành, theo thứ tự là "Củng Bắc Môn, Trấn Đông Môn, An Tây Môn, Định Nam Môn". Năm Canh Tý (1900) toàn bộ tường thành cửa thành bị phá dỡ, nhưng mọi người vẫn tiếp tục gọi theo tên cũ. Bên ngoài cửa tây có con sông bảo vệ thành, có thời từng là chiến hào. Khi người ta nạo vét bùn lắng ở đó đào được ngôi mộ cổ, bên trong có quan tài, chỉ có cái huyệt rất chật hẹp. Bên dưới huyệt có cái xác khô quắt, quần áo vẫn chưa hoàn toàn mục nát, kín mít từ đầu đến chân. Trong vài năm nạo vét sông khi ấy, số mộ mà người ta đào ra dưới vào trăm, nhưng chỉ có ngôi mộ này là đáng sợ. Gương mặt của cái xác khô quắt đó lõm vào trong, cũng có thể là có mặt, bởi phần mặt từ hàm dưới đến lông mày chỉ là lỗ thủng bằng cỡ nắm tay. Nước tù đọng dưới ngôi mộ vàng úa, tanh hôi khó ngửi. Sau đó ai biết cái xác ướp cổ đó bị mang đâu. việc này làm dấy lên ít lời đồn, nhưng tất cả đều đáng tin. Lần thứ ba là tại cầu nổi Diêu Oa. Khi còn là mặt đất bằng, vào thời nhà Thanh nơi đây từng là nha môn Tổng đốc Trực Lệ. Khi nạo vét phù sa, người ta đào ra được con rắn kỳ dị dài hơn thước, to cỡ cẳng tay, toàn thân đỏ rực, đầu có cái mào thịt. Điều kỳ quái nhất là con rắn này biết , há miệng ra là có thể phát ra tiếng người. Có người công nhân trị thủy bạo gan, vung xẻng đập chết con rắn đó, máu nó văng vào người những người đứng xung quanh, vừa tiếp xúc làm da thịt thối rữa biến thành mủ, bởi vậy chết mất tầm hai ba người. Sau này xuất lời đồn bảo rằng, con vật nửa rồng nửa rắn đó là mầm gây tai họa, phải ăn đào mới tránh được nạn, khiến cho dạo cháy hàng tìm đâu ra đào mà mua. Lần thứ tư có có mặt của Quách sư phụ, xảy ra ngay tại nơi mà họ nạo vét con sông cái, lần đó là kỳ quái nhất. Khi nạo vét sông, họ đào được hai cái bàn đá xanh, mặt bàn lớn xấp xỉ với bàn bát tiên, dày đến vài thước, được mô phỏng theo hình dạng của loại động vật nào đó, khắc chìm hoa văn hình sóng nước. Nếu có phiến đá, phía dưới chắc chắn có thứ gì đó. Khi nạo vét bùn ở đáy sông đào lên phiến đá, mặt ngoài có khắc hình hoa văn bia bị mờ, hình như là ba chữ "Trương Cẩm Văn", còn có đầy đủ cả năm nào tháng bao nhiêu. Lúc mới đầu, họ cứ tưởng đó là mộ Hải Trương Ngũ. Tên của Hải Trương Ngũ là Trương Cẩm Văn, là trùm buôn lậu muối xuất thân từ du côn lưu manh vào những năm cuối triều Thanh. Khi còn bé, theo mẹ ăn xin mà sống, sau khi lang bạt qua Quan Đông, lúc trở lại Thiên Tân vệ trở thành kẻ bảo kê đường buôn muối. Người khác muốn vận chuyển muối phải trả phí bảo vệ cho , trả tiền là bị "đao trắng vào đao đỏ rút ra", dựng nghiệp bằng hai bàn tay trắng khống chế việc buôn muối, cứ thế mà phát tài. Vào thời Hàm Phong, Hải Trương Ngũ bỏ tiền tổ chức dân đoàn đánh quân Thái Bình lập công, triều đình phong cho danh hiệu quan Tam phẩm. Ở Thiên Tân Vệ, thanh danh Hải Trương Ngũ cực kỳ xấu, nhất là có công danh, là võ quan ít ra ngươi cũng phải xuất thân từ võ cử mới được người kính trọng. trắng ra, công danh chính là văn bằng. Thời xã hội phong kiến, người có công danh có đặc quyền cực lớn. Nếu ai có công danh, thân phận địa vị người đó thoát ra khỏi phạm trù dân chúng bình thường. Ví dụ như cùng phạm vào vương pháp, mặc dù cũng bị đưa lên công đường chịu thẩm vấn, nhưng nếu bản thân có công danh, phạm nhân gặp quan huyện cần phải quỳ xuống, phạm tội cũng bị đánh đòn. Muốn đánh đòn trước hết phải tước công danh . Hải Trương Ngũ là hạng người du côn vô lại ăn chùa cướp trắng kiêng nể gì ai, nhưng lại làm quan đến chức to, bởi vậy ai cũng coi thường . xuất thân bần hàn, hầu như là mù chữ, đầy mưu mô xảo quyệt, mỗi lần ghi sớ dâng triều đình là lại nhờ sư gia viết thay. Nhưng như vậy chưa đáng là cái gì, chủ yếu là vào năm Hàm Phong thứ tám, lúc liên quân Pháp đến đánh chiếm, kẻ này từng làm tay sai cho liên quân. Từ lúc ấy thanh danh thể tồi tệ hơn được nữa, dân chúng ai là mắng chửi . Nghe sau khi chết, Hải Trương Ngũ được chôn bên ngoài cửa tây. Đám đông cảm thấy có khả năng đây là mộ Hải Trương Ngũ, đào cũng đào lên rồi, huống chi quan hàm của Hải Trương Ngũ , lại còn là tư thương buôn muối, trong nhà vàng bạc thực chất cao như núi, trong mộ có lẽ có vài đồ tốt, thừa dịp hỗn loạn lấy hai thứ, chẳng phải là bỗng dưng kiếm được món hời hay sao. Bởi có cùng ý nghĩ này, người nào người nấy hùng hục đào bới, toàn thân lấm lem bùn đất. Có ai ngờ, khi đào phiến đá đầy bùn đất lên họ mới phát ra, đó căn bản phải huyệt mộ. Hơn nữa, những vật chui từ trong ra còn khiến cho toàn bộ những người công nhân trị thuỷ kinh hồn bạt vía.
Ba Đám công nhân trị thuỷ xúm vào nạy phiến đá ra, phát ra tiếng động vang vọng khắp bốn phía, những người nghỉ luân phiên gần đó cũng kéo hết đến xem, Quách sư phụ và Đinh Mão chen lên đằng trước. Ngay dưới phiến đá là cái động lớn, vách động rắn như đá, tối om biết sâu bao nhiêu, có nhiều khả năng là mộ Hải Trương Ngũ, bởi ngôi mộ này giống với bất cứ ngôi mộ nào khác. Có hai công nhân trị thủy to gan lớn mật muốn xuống dưới, bảo người khác tìm dây thừng. Dây thừng còn chưa tìm được, mọi người chợt nghe thấy bên dưới có tiếng động vang lên, giống như tiếng loạt thân cây cao lương bị bẻ gãy cùng lúc. Đám công nhân trị thuỷ người nào người nấy giật mình kinh hãi, hai người có ý định xuống dưới lúc này cũng rụt vòi lại. thanh đó giống hệt như tiếng thủy triều lên, bắt đầu từ dưới sâu rồi càng lúc càng lên cao dần. Mọi người biến sắc mặt, cảm giác trong động có vật gì đó sắp ra, chợt nhớ tới ngày xưa có truyền thuyết rằng Long Ngũ Gia trói Hạn ma Đại tiên lại rồi ném xuống cái giếng cổ, cái giếng đó cũng nằm ở bên ngoài cửa tây. Chẳng lẽ khi nạo vét sông cái moi ra được Hạn ma Đại tiên hay sao? Đám công nhân trị thuỷ sợ hết hồn, tất cả đều tự chủ được giật lùi về phía sau. Đinh Mão to gan lớn mật, vẫn còn muốn xông lên phía trước quan sát, nhưng bị Quách sư phụ túm chặt kéo lùi lại. Đúng lúc ấy, từ trong động có bầy chuồn chuồn đuôi vàng chi chít bay ra, số lượng nhiều vô kể, vỗ cánh vù vù, giống như đám mây vàng, rợp trời loạn xạ lượn vòng quanh. Những người đứng nhìn nổi da gà toàn thân. Hình dáng những con chuồn chuồn đuôi vàng đó rất quái lạ, chỉ có cặp cánh, đầu to đuôi , bay cao lắm, chỉ trong chớp mắt tản ra khắp nơi, cắm đầu cắm đuôi rơi xuống đồng ruộng gần đó. Tất cả đám trẻ con chơi đùa gần đó lao tới bắt, còn mang cả chim tước tới mổ chuồn chuồn. Còn đám người nạo vét sông cái lại ngây người ra cả đám, cả đời họ chưa từng thấy nhiều chuồn chuồn đuôi vàng như vậy. Cái động lớn dưới đáy bùn tại sao lại có chuồn chuồn? Giữa trưa đào được cái động lớn, buổi chiều có người đến tìm Quách sư phó và Đinh Mão. Có cậu học trò xuống sông Tử Nha bơi bị bùn nhão rong rêu ở đáy sông hút chặt nên chết đuối, tìm thấy xác, nhờ họ chạy sang đó hỗ trợ. Hai người vội vàng chạy . tới chuyện Quách sư phụ tới sông Tử Nha tìm xác ra sao, giờ chỉ đến đám công nhân trị thủy. Họ đứng quây tròn xung quanh cái động bàn tán xôn xao. Có người mê tín bảo, chuồn chuồn là hóa thân của Hạn ma Đại tiên, người nào đụng tới chết, cho bọn bắt chúng, chẳng trách năm nay hạn hán lại khốc liệt như vậy, chẳng biết chừng Hạn ma Đại tiên còn sắp thân cũng nên. Người khác lại bảo, long mạch của con sông biến chất, phải là điềm tốt. Đủ mọi cách khiến cho lòng người hoang mang. Đến khi chiều đến, trong động còn chuồn chuồn bay ra nữa, nhưng ai dám xuống, công việc đình trệ cho đến lúc chạng vạng tối. Trời vừa tối thể nào tiếp tục làm việc được nữa, bởi thực sợ gặp chuyện may, đám công nhân trị thuỷ trước hết đậy phiến đá lại, nếu như ngày mai tiếp tục nạo vét, cửa động nhất định càng đào càng rộng, có trời mới biết bên trong còn có vật gì nữa. Sắc trời dần tối, chỉ còn ba người ở lại cái rạp lớn để gác đêm, cuốc xẻng và xe cút kít dùng để phục vụ công việc nạo vét sông vứt ngổn ngang khắp nơi, những người còn lại đều ra về. Mùa hạ trời sáng sớm, tối muộn. Lúc ấy là tầm tám giờ tối, ba người ở lại chẳng có việc gì để làm. Trước giải phóng, ba người họ lang bạt khắp nơi làm công việc chân tay, kết nghĩa làm em, gọi nhau là lão đại lão nhị và lão tam. Lão đại là người trầm lớn mật, lão nhị lắm mưu ma chước quỷ, lão tam tay chân sạch , trộm cắp móc túi. Người họp theo bầy, ngưu tầm ngưu mã tầm mã, ba người bọn chúng táo tợn ăn trộm ăn cướp chẳng khác gì đám lưu manh, làm được việc gì tốt. Những công nhân trị thuỷ còn lại về hết, bọn chúng ăn cơm xong, ngồi canh chừng giữa vùng trũng hoang vắng. Chúng đốt giấy bản để đuổi muỗi, quanh đó bóng người, trong khung cảnh mây đen trăng mờ, chợt nảy sinh ý tưởng tham lam đen tối. Lão đại lên tiếng: "Hai người các chú thử coi, dưới cái động lớn ở đáy sông có cái gì?" Lão Tam : "Có lẽ nào là Hạn ma Đại tiên?" Lão Nhị bảo: "Ngu dân hươu vượn, làm gì có chuyện như vậy. tấm bia đá có khắc cái tên Trương Cẩm Văn, tôi thấy nhất định là mộ Hải Trương Ngũ." Lão đại tán đồng: "Lão Nhị rất đúng, phiến đá dưới lớp bùn là cửa mộ, phía dưới là quan tài của Hải Trương Ngũ." Lão Tam thắc mắc: "Nhưng tại sao bên trong mộ lại có nhiều chuồn chuồn bay ra như vậy?" Lão Nhị gắt lên: "Chú đúng là thùng cơm vô tích , đó là bảo khí trong mộ biến thành." Lão Tam : "Đại ca nhị ca, tôi hiểu rồi, theo ý trong cách chuyện của hai ông , là định. . ." Lão đại cắt ngang: "Định làm cái gì, còn phải ra nữa hay sao! Bản thân Hải Trương Ngũ là trùm buôn lậu muối, có công đánh bại quân Thái Bình, được phong làm mệnh quan triều đình, thứ có nhiều nhất chính là tiền, đồ tùy táng trong mộ của y toàn là đồ tốt." Lão Nhị : "Nếu ngày mai tiếp tục đào, số châu báu chôn cùng Hải Trương Ngũ tìm được bị hiến toàn bộ, nhưng bây giờ chỉ có ba người chúng ta, chẳng bằng xuống dưới lấy trước vài món, tận dụng lần này còn cơ hội nữa đâu." Lão đại và lão tam đồng loạt gật đầu: "Người có thu nhập ngoài luồng giàu, ngựa ăn cỏ đêm béo, có ai nguyện ý nghèo cả đời đâu, thời cơ tới trước mặt, nếu vẫn có gan ra tay, vậy khốn cùng suốt kiếp cũng là đáng đời, có chết đói cũng chẳng ai thương tiếc." Toàn bộ dân chúng Thiên Tân vệ, ai ai cũng biết, trùm lưu manh Hải Trương Ngũ nhờ khống chế việc buôn bán muối mà giàu có. Xã hội xưa, thuế muối rất nặng, nhưng nhà nào mà chẳng phải ăn muối, có ai là ngoại lệ. Muối lại được lấy từ biển, buôn muối là hình thức mua bán cần vốn. Đối với các ngành các nghề khác, khi thực bất cứ vụ mua bán nào cũng là hình thức "bỏ vốn kiếm lời", chỉ có thương nhân buôn muối là phải bỏ vốn nhưng vẫn có lời, cho nên tất cả những người giàu nứt đố đổ vách thời Thanh mạt đều là thương nhân buôn muối, Hải Trương Ngũ lại là kẻ đứng đầu trong số đó. Vào năm quân Thái Bình Bắc phạt, thế như chẻ tre thẳng tiến, chẳng mấy chốc đánh tận tới Thiên Tân vệ. Tri huyện Tạ Tử Trừng có binh có lương, quẫn bách đến độ muốn treo cổ tự vẫn, may nhờ có Hải Trương Ngũ bỏ tiền, chiêu mộ bốn ngàn quân chính quy, mua thêm súng đạn, khi trận chiến ở Sao Trực Khẩu kết thúc, đánh tan quân Thái Bình. quả thực còn lắm tiền hơn cả triều đình. Vàng bạc châu báu trong mộ của , có ai mà mờ mắt động lòng? Ba người bàn nhau kỹ càng, quyết định xuống dưới động khai quật quan tài của Hải Trương Ngũ. Bởi vậy bọn chúng lập tức chọn đồ mang theo, nhét đèn lồng thấm nước vào lồng ngực, bó mấy cây đuốc, cầm theo cuốc xẻng nạo vét sông chuyên dụng và dây thừng. Nhân lúc trời có trăng, chúng lần mò đến chỗ phiến đá dưới đáy sông, xem thời gian vừa đúng tầm giữa canh ba. Sau nửa đêm chính là thời gian thích hợp để đào trộm mộ. Bốn Trùm buôn lậu muối thời nhà Thanh Hải Trương Ngũ, tên là Trương Cẩm Văn, là con thứ năm trong gia đình, thuở bé bị mang cho Hải đại nhân quản lý ngành muối làm con nuôi, được triều đình phong thưởng. Ở trước mặt, mọi người tôn kính gọi là Ngũ Gia, nhưng sau lưng khinh bỉ gọi là Hải Trương Ngũ*. Vào thời Hàm Phong, kẻ này dựng nghiệp bằng hai bàn tay trắng, từng đánh bại quân Thái Bình thủ vững Đại Khẩu, chết vào những năm cuối thời Quang Tự. Lần nạo vét sông với quy mô lớn vào năm 1958, cách lúc chết chỉ tầm năm mươi năm. Vào những năm cuối nhà Thanh, xã hội loạn lạc, dân trộm mộ hoành hành ngang ngược, quan trộm dân trộm, cấm mãi vẫn tái diễn. Bản thân Hải Trương Ngũ giàu kếch xù, cho nên để phòng ngừa bị người ta trộm mộ sau khi chết, việc hạ táng được tiến hành trong bí mật. Cho đến bấy giờ, vẫn có ai biết phần mộ Hải Trương Ngũ nằm ở đâu. Năm ấy, khi nạo vét sông cái ở ngoài cửa tây, người ta đào được phiến đá có khắc tên Hải Trương Ngũ ở bên , chặn cửa cửa vào cái động lớn dưới đáy sông, ba tên lưu manh nghèo kiết xác xuất thân từ đầu đường xó chợ cho rằng phía dưới có quan tài của Hải Trương Ngũ, trong đầu nảy sinh ý định đào trộm mộ. *Người Trung Quốc ghép họ bố đẻ và bố nuôi của ông ta lại để gọi mang hàm ý khinh miệt giống như người Việt chúng ta hay chửi là 'đồ năm cha ba mẹ'. Gặp phải hạn hán nghiêm trọng, lòng sông cạn nước, trong những bãi cỏ hoang có lấy tiếng ếch hay côn trùng kêu, bốn bề tối đen như mực. Đáng lẽ ra, ít nhất phải có người ở lại để tiếp viện, hai người còn lại xuống dưới khai quật quan tài chiếm đoạt báu vật. Nhưng ba kẻ này nghi ngờ lẫn nhau, vì tiền bạc em ruột thịt còn cạn tình hết nghĩa với nhau, huống chi chỉ là em kết nghĩa. Bởi vậy sau khi bàn bạc thống nhất, ba người bọn chúng quyết định cùng nhau xuống dưới, tìm được bảo vật chia làm ba phần đều nhau, mỗi người được phần. Lúc ban ngày, tảng đá lớn chắn cửa động bị đào lên lần, bấy giờ đẩy ra rất dễ dàng. Bọn chúng uống vài ngụm rượu để tăng thêm lòng dũng cảm, lão đại cầm bó đuốc chiếu sáng, đồng thời để phòng ngừa dưới đáy sông có rắn, lão nhị cõng theo bao tải đựng vật dụng, lão tam cầm xẻng chuyên dụng để nạy quan tài. Chúng tìm ba sợi dây thừng dài, đầu buộc chặt vào gốc cây lớn bên bờ sông, đầu kia thả xuống dưới động. Sau khi thả hết chiều dài sợi dây, hình như mới xấp xỉ chạm đáy, ba người cùng nhau bám dây thừng tụt xuống dưới. ràng là cái động lớn này dựng đứng, vừa sâu vừa rộng. Bên ngoài trời vô cùng oi bức, nhưng vào bên trong khí lạnh ập tới, bởi vậy khi vừa chui xuống, bọn chúng hẹn mà chợt cùng nhau rùng mình, toàn thân nổi hết cả gai ốc. Cái động thẳng đứng dưới đáy sông, càng xuống sâu lòng động lại càng rộng. ra kể cũng lạ, trong động có cây cột đá đồ sộ, được chạm trổ tỉ mỉ, cao hơn hai trượng, chóp đáy rộng. Trong động tối đen như mực, nhìn thấy cuối cùng, chỉ có vô số trận gió lạnh u đập vào người, nền động vô cùng lầy lội. Bọn chúng phán đoán bên trong cây cột đá dưới đáy sông chứa thi thể Hải Trương Ngũ, chắc hẳn là loại quách được đục từ đá nguyên khối, lớn ngoài sức tưởng tượng. Chúng dùng tay xoa xạch lớp bùn đất bám bên ngoài, nhờ ánh đuốc để quan sát tìm hiểu lúc lâu, nhưng nhìn thế nào cũng giống cái quan tài, mà có vẻ giống như cái tháp bằng đá trắng được hạ táng dưới đáy sông. Cái tháp gồm năm tầng, được tạc bằng đá trắng nguyên khối, đặc ruột. Cái bệ tám cạnh dưới chân được khảm tám cái gương lớn bằng đồng lạnh như băng, sau khi lau sạch bùn đất, tấm gương đồng vẫn có thể soi mặt người, nửa số gương rơi xuống bùn. Ba người bọn chúng, mỗi đứa theo đuổi ý nghĩ của riêng mình. Dù có kiến thức, nhưng bọn chúng vẫn có thể nhìn ra, đây phải là quan tài của Hải Trương Ngũ. Nhắc đến Hải Trương Ngũ là liên tưởng ngay đến tư thương buôn muối xuất thân từ lưu manh. kẻ ăn mày thối tha ngoi lên từ tầng lớp bần cùng, khống chế thị phần lớn của việc buôn muối, được phong làm mệnh quan triều đình, kẻ có năng lực như thế làm sao có thể là hạng người bình thường. Dù xét về mặt tâm trí hay là gan dạ sáng suốt, luôn là nhân vật đẳng cấp hàng đầu. riêng gì năng lực giỏi nắm bắt yếu điểm của kẻ khác, ngay cả việc buôn bán cũng có khả năng hơn người, gặp khó khăn chùn bước, chỉ cần có cơ hội là lập tức nắm bắt dốc sức liều mạng bò lên bên. Nhưng cho dù bản lĩnh cao đến đâu, cũng phải là tăng nhân xuất gia, cần phải đặt tòa tháp đá ngay trong mộ của mình, huống hồ đó còn là bảo tháp có bệ tám mặt. Bọn chúng chợt liên tưởng tới Tháp trấn . Khu vực hạ lưu chín sông của Thiên Tân vệ, từ xưa đến nay lũ lụt liên miên. Theo truyện cổ, Thanh Xà Bạch Xà lừa Hứa Tiên, bởi vậy bị hòa thượng Pháp Hải giam dưới chân tháp Lôi Phong. Kể từ đó, truyền thuyết về bảo tháp trấn in đậm trong lòng mọi người. Bạch xà trong câu chuyện cổ Bạch xà Thanh xà hề giống như hình tượng Bạch Nương Tử trong kịch truyền hình cận đại của Hồng Kông. Trong kịch truyền hình Hồng Kông, Bạch nương tử được tô điểm thành thân của cái đẹp. Trong truyện cổ, ả chính là quái, dùng sắc đẹp mê hoặc chính nhân quân tử, toàn bộ tiền ả mang cho Hứa Tiên đều lấy trộm từ quốc khố, lại dâng nước muốn nhấn chìm Kim Sơn, làm chết đuối vô số quân dân, bị giam dưới chân tháp cũng coi như trừng phạt đúng tội. Bởi vậy có thể , phong tục dựng Tháp trấn hình thành từ thời xưa. Vào cuối thời nhà Thanh, để làm việc thiện tích đức, thương nhân bỏ tiền dựng tháp, nhằm mục đích trấn trừ tà, còn dùng để chôn cất những thi hài vô chủ. Người dân Thiên Tân vệ ai là biết tới Tháp trấn và Tháp dưỡng cốt. Ban ngày đào được phiến đá có khắc tên Hải Trương Ngũ ở bên , bởi vì năm xưa Hải Trương Ngũ bỏ tiền dựng Tháp trấn khảm Kính bát quái, chôn dưới lòng sông để ngăn chặn cái ác. Mặc dù nhận ra đây phải là quan tài của Hải Trương Ngũ, nhưng lão đại và lão nhị vẫn chưa chịu từ bỏ ý định, cầm bó đuốc tìm tòi khắp mọi nơi, nhưng ngoài mùi cá chết nồng nặc trong động chẳng còn thứ gì nữa. Lão tam : "Ca ca này, chẳng biết dưới chân tháp trấn có thứ quỷ quái gì nữa, thể kinh động đến được, chúng ta mau ra ngoài thôi, đừng liều lĩnh chẳng có gì tốt lành đâu." Lão nhị bảo: "Lão Tam ngươi cả đời này làm nên cơm cháo gì, 'mẹ cu tèo đưa thanh cài cửa -- nạy cái này lên'**." Lão đại : "Lão Nhị, tôi cũng ngờ tới bên dưới này lại là Tháp trấn , phải mộ Hải Trương Ngũ, có thứ gì đáng giá, bằng ta rút về ?" Lão nhị đáp: "Đại ca, chúng ta mạo hiểm xuống đáy sông chuyến, cũng thể nào tay mà quay về, tốt nhất là cứ nạy hết số gương đồng này ra." Lão đại : "Ừ. . . Mấy cái gương đồng lớn này dưới trăm cân, cho dù nạy ra để hiến cho quốc gia, thể thiếu được phần công lao của huynh đệ chúng ta. Lợi ích bày sẵn ra trước mặt, thể để cho người khác chiếm mất." Lão Tam hùa theo: "Đúng đúng. . . Vẫn là hai giỏi nghĩ cách, đừng có nghe đệ gàn, đệ đúng là 'mẹ cu tèo khóc than con -- chết lâu rồi'**." Lão đại : "Mau ra tay, tránh dây dưa đến hừng đông, thế này đúng là 'mẹ cu tèo ngồi bóc tỏi -- chậm quá thể'**." **Đây là cách hát bình thư tướng thanh theo lối ví của riêng người Thiên Tân, có đoạn ngắt ở giữa để người khác phỏng đoán. Phần trước là câu mượn cớ, ví von; phần sau là câu mục đích. Cách hát này chủ yếu dùng để thể hoàn cảnh đặc thù hoặc tâm trạng của người nào đó. Nguyên văn tên mụ đứa trẻ là "Nhị Cá" tôi chuyển thành "Cu Tèo'' cho phù hợp (DG). Trong khi chúng chuyện, chẳng biết có trận gió u từ đâu quét qua, bó đuốc tay ba người đột ngột đồng loạt tắt ngấm. Khi còn đuốc chiếu sáng bọn chúng vẫn còn giữ lại được phần nào gan ăn cắp. Ngay khi bó đuốc vụt tắt, trước mắt tối sầm nhìn bàn tay, chúng chợt cảm thấy lông tóc toàn thân dựng đứng. Lão đại vội vàng lần tìm diêm, đánh lên thắp lại bó đuốc. Cứ mỗi lần lửa vừa thắp sáng là trận gió u lại nổi lên, bó đuốc liên tục bị thổi tắt ngấm. Y liên tiếp châm đuốc mấy lần, nhưng cứ châm lần nào là tắt lần đó.
Năm Trong lòng ba tên lưu manh phát lạnh. Tại sao cứ đốt đuốc lên là gió u lại thổi tới, còn gì ma quái hơn nữa? Ba em bọn chúng hãi hùng khiếp vía, chẳng còn nhớ gì tới việc cạy gương đồng ra nữa, chỉ muốn mau mau ra khỏi đây, thế nhưng trước mặt tối om, mò loạn cả lên mà tìm thấy sợi dây thừng đâu. Lão tam tìm thấy dây thừng, vội la lên: "Đại ca, châm đuốc lần nữa , có ánh sáng chúng ta mới leo lên được!" Lão đại moi diêm ra, vừa chạm vào bao diêm trong lòng lạnh ngắt, chỉ còn lại cây cuối cùng, nếu như đốt đuốc lên lại bị trận gió u kia thổi tắt biết phải làm sao? Lão nhị bảo: "Đừng đốt đuốc vội, chẳng phải còn cái đèn lồng thấm nước ư, đèn lồng đó có thể thông khí, chỉ cần có chút ánh sáng dễ dàng tìm thấy dây thừng." Lão đại : "Đúng vậy, chú thấy đấy, tôi hoảng sợ đến hồ đồ rồi, chẳng phải là có mang theo đèn lồng thấm nước hay sao!" Y thò tay vào trong lồng ngực lấy cây đèn lồng thấm nước ra, run rẩy cắm nến vào. Ba người xúm lại chỗ, ngậm chặt miệng nín thở, khum tay che gió, trong đầu thầm niệm Phật, ngọn đèn lồng ngàn vạn lần đừng làm tắt. Hết Tây Thiên Phật tổ Thái Thượng Lão Quân Ngọc Hoàng Đại Đế lại đến Thổ Thần Long Vương, cứ nhớ tới vị thần phật nào là chúng lôi ra cầu khấn cho bằng sạch. Tay run lẩy bẩy, lão đại lập cập đánh cây diêm cuối cùng, thắp sáng ngọn đèn lồng thấm nước. Ngọn đèn lồng sáng lên bị tắt ngấm ngay tức , ba người thở phào hơi, vừa cầm đèn lồng quay người lại sợ tới mức lão đại thiếu chút nữa tuột tay ném văng cây đèn lồng . Bó đuốc cứ châm lên là lập tức tắt ngấm, ba em bọn chúng quay sang đốt đèn lồng, lập tức làm sáng lên mấy khuôn mặt người trắng bệch như tờ giấy, chẳng thể hiểu nổi những người này ra từ chỗ nào. Đèn lồng thấm nước thực ra là loại đèn lồng đơn giản, được làm bằng cách dùng giấy nến dán lên ba thanh nan trúc uốn tròn, chính giữa cắm ngọn nến, lúc treo ở nhà xí của cái rạp lớn giành cho công nhân trị thuỷ còn tạm đủ chiếu sáng vào ban đêm, bởi ánh sáng của nó rất yếu. Giờ ở giữa cái động đen kịt đáy sông này, tầm chiếu sáng của nó càng bị thu hẹp. Dưới ánh đèn lồng, y lờ mờ nhìn thấy trước mặt có mấy người, trong bóng tối hình như vẫn còn nữa. Tất cả những người đó đều ngây ngây ngô ngô, mặt trắng bệch có chút máu, quần áo tả tơi, có thậm chí có kẻ còn mặc gì cả, cơ thể gầy đến mức chỉ còn da bọc xương, đủ mọi lứa tuổi, đa phần là đàn ông, người tuổi nhất chỉ tầm mười mấy, đờ đẫn nhìn ba người bọn chúng chằm chằm, lời. Tâm trí ba em bọn chúng chết lặng, dưới đáy sông sao lại có những người này? Xưa kia, có cách mê tín, ma quỷ có bóng dưới ánh đèn. Bọn chúng cố giơ đèn lồng phía trước để chiếu sáng rộng hơn, những gương mặt trắng bệch trước mắt vẫn có biểu gì, giống hệt như ảo ảnh, lại vừa giống như chỉ có mỗi cái đầu. Trong động tối đen, trợn mắt hết cỡ cũng nhìn lắm, nhưng bọn chúng khằng định đó phải là quỷ, bởi nếu là hồn chết oan, ba người chết từ lâu rồi. Lão đại lấy hết dũng cảm lên tiếng hỏi những những người kia từ đâu đến, tại sao lại sống ở dưới cái động dưới đáy sông? Nhưng sắc mặt những người đó vẫn đờ đẫn, ai hé răng phát ra thanh nào. Khi nhìn thấy ánh đèn, họ càng lúc càng xúm lại gần, văng vẳng vang lên tiếng khóc thút thít ai oán. Lão đại thầm nghĩ: "Trong động có nhiều người như vậy, có lẽ nào là những công nhân trị thuỷ ở nơi khác bị lạc dưới chỗ này, có đèn nên tìm thấy đường ra, định theo chúng ta ra ngoài? Xem ra bị nhốt ở dưới đáy sông lâu lắm rồi, chắc là sống sót nhờ ăn cá chết?" Y chỉ hy vọng suy đoán này của mình là đúng. Trong lúc y vẫn chưa quyết định được nên làm thế nào, nhóm người kia tiến đến ngay trước mặt rồi. Ba tên lưu mạnh bọn chúng có biện pháp gì, có thể đuổi người ta được hay sao? Ba người ngươi nhìn ta, ta nhìn ngươi, cảm giác trận gió u vẫn luôn lượn lờ bên cạnh mình, mắt thấy đèn lồng chống thấm nước sắp tắt đến nơi, trong lòng giống như bị tảng đá nghìn cân đè nặng -- tâm trạng bất ổn, tự chủ lùi lại phía sau. Lão đại cầm đèn lồng thấm nước quay người, hoảng loạn tìm loạn sợi dây thừng bọn chúng thả xuống. ra, sợi dây thừng ở ngay gần chúng, chỉ cần thò tay ra là có thể với tới. Nhưng do vừa rồi rơi vào cảnh tối lửa tắt đèn, trong lòng hốt hoảng sao mò thấy được. thấy cây cỏ cứu mạng, y vững tâm hơn phần nào, nhưng lão nhị và lão Tam ở bên cạnh lại cứ như đột nhiên bị rắn cắn vậy, toàn thân run lẩy bẩy. Lão đại là kẻ trầm lớn mật, người trầm thường bạo gan. Trong lòng y cảm thấy kỳ quái, hai người em này bị làm sao vậy, có sợ cũng nên sợ những người đứng đằng sau kia chứ, trước mặt chẳng phải chỉ có tòa tháp hay sao, lẽ nào nhìn thấy cái gì? Y vừa đưa mắt nhìn vào gương đồng ở dưới chân tháp, tóc tai dựng đứng, hồn vía thiếu chút nữa lìa khỏi xác. ra trong tấm gương đồng chỉ có ba em bọn chúng, còn những người bám theo phía sau, có kẻ nào lên đó. Ba em bọn chúng lập tức nhận ra, những kẻ ở sau lưng phải là người, tất cả đều là hồn dã quỷ. Ba tên sợ tới mức mặt xanh nanh vàng, thầm tìm cách chạy trốn. Nào ngờ, đám quỷ đói ở sau lưng vươn tay ra, tóm chặt lấy bọn chúng kéo về phía sau. Lâm vào thời khắc sống chết, phận ai nấy lo, lão đại dốc hết sức bình sinh giãy giụa. Vừa với được sợi dây thừng, hoàn toàn bỏ mặc hai người em của mình. Y quẳng cái đèn lồng thấm nước , hai tay túm lấy dây thừng, hai chân đạp vào tòa tháp đá lấy đà, leo lên cửa động. Ngày hôm sau, khi đám công nhân trị thủy đến làm việc nhìn thấy lão đại nằm giữa vũng bùn, chỉ khác với người chết là còn hơi thở mong manh, vội vàng cứu tỉnh hỏi xem xảy ra chuyện gì, hai người gác đêm còn lại đâu rồi? Sau khi trải qua cơn kinh hãi, hơn nữa còn có người mất mạng, lão đại thể nào giấu diếm khai báo, hai năm mười khai ra sạch sành sanh. Y rằng, do lầm tưởng đây là mộ Hải Trương Ngũ, bản thân bèn cùng với hai người em xuống dưới định kiếm chác, nào ngờ dưới sông chỉ có Tháp trấn . Sáu Năm 1958, khi nạo vét sông cái, người ta tìm được cái Tháp trấn , trả giá bằng tính mạng của hai người. Đương nhiên lời đồn ngoài đường nổi lên phải là ít. Năm ấy, tình hình hạn hán nghiêm trọng, lúc đào sông phát ra cái động lớn, bên trong có mấy vạn con chuồn chuồn bay ra, mọi người đều thống nhất cho rằng, đó là dấu hiệu báo trước có thảm họa, lúc có động đất, lúc lại bảo xảy ra lũ lụt. Ba tên công nhân trị thuỷ nổi lòng tham, nhân dịp lúc trời tối đen lẻn vào động tìm mộ Hải Trương Ngũ, kết quả có hai người xuống dưới bao giờ lên nữa. Kẻ trốn được ra bảo rằng bên dưới có quỷ, hai người kia chết cả dưới động rồi, còn bảo rằng dưới đó có Tháp trấn do Hải Trương Ngũ chôn xuống. Vào thời kỳ ấy, xảy ra chết người thực phải là chuyện , sống phải thấy người, chết phải thấy xác, nhưng làm gì có ai dám xuống dưới nữa. còn cách nào đành mời Quách sư phụ tới, nhờ ông ta dẫn người xuống dưới thám hiểm. Quách sư phụ là người kiếm cơm bằng công việc này, nên phải đứng ra lãnh trách nhiệm. Ông ta và mấy người Đinh Mão mang theo đèn pin, xuống dưới cái động lớn ở đáy sông. Sau khi xem xét đúng là có tòa tháp, còn hai tên công nhân trị thuỷ nằm giữa vũng bùn, mặt mũi tím tái, giống như bị ngạt thở mà chết. Họ bèn buộc xác chúng vào dây thừng để kéo lên . Giữa ban ngày ban mặt, phát thấy quỷ. Quách sư phụ vớt xác trôi sông trông nghĩa trang, xưa nay chưa bao giờ biết sợ là gì, nhưng riêng lần này ông ta lại cảm thấy sởn hết cả gai ốc, tại sao vậy? ra dưỡi vũng bùn ở đáy động có ít tử thi, giống như được bọc trong lớp kén trắng muốt. Mặc dù làm việc ở đội vớt xác nhiều năm như vậy, nhưng đây mới là lần đầu tiền Quách sư phụ và Đinh Mão nhìn thấy nhiều người chết đến thế. Dù đào lên được rất nhiều tử thi, nhưng lại thể lập án, bởi vì những người đó chết từ ít nhất bảy tám chục năm trước. Thời gian dài như vậy, qua mấy đời người, dù điều tra thế nào cũng ra manh mối. Nhà nước có luật lệ của riêng mình, căn cứ vào những hồ sơ cũ được lưu lại của đội tuần sông, chỗ đào sông đó xưa kia có cái động lớn, thông với con sông ngầm bên dưới, là mắt sông trong truyền thuyết dân gian. ra, mắt sông đến mức ly kỳ như trong truyền thuyết, mà chỉ là cái động tiếp nối giữa con sông mặt đất và con sông ngầm dưới lòng đất, nhưng cực kỳ nguy hiểm. Thông thường, mỗi khi dòng sông hình thành xoáy nước, người bị hút vào đó đừng có mong trở ra. Những người bơi lặn bị chết đuối cùng với những xác chết trôi từ thượng du xuống đều bị xoáy nước hút xuống dưới con sông ngầm. Vùng đất nơi này bị nhiễm mặn, muối hòa tan trong nước của dòng sông ngầm. Người và cá chết lọt vào trong động ngập trong bùn, bị muối hòa tan trong nước kết tinh lại bao phủ kín toàn thân, vĩnh viễn giữ nguyên dáng vẻ như vừa mới chết lâu, bao nhiêu năm trôi qua cũng thay đổi. Năm ấy xảy ra hạn hán nghiêm trọng, mạch nước ngầm khô kiệt, đám côn trung bay từ cái động lớn dưới đáy sông ra ràng là sinh vật phù du chuyên sống ở những huyệt động ẩm ướt, hoàn toàn phải là chuồn chuồn. Chuồn chuồn có hai đôi cánh, còn sinh vật phù du chỉ có cặp cánh, đuôi dài. Ba tên công nhân trị thuỷ xuống dưới trộm mộ, trong động nồng nặc khí phân hủy, đủ dưỡng khí cho nên cây đuốc cứ châm lần nào là tắt lần đó. Hai trong số ba người ngạt thở vì khí phân hủy chết dưới động. Kẻ sống sót chỉ là bởi phước lớn mạng lớn, nhưng sau khi xuống động ngầm yếm khí dưới lòng đất, cũng bởi vì thiếu ôxi lên não, tâm thần trở nên hoảng hốt, hoa mắt tưởng rằng mình gặp quỷ. Người ta dùng các giải thích này để dẹp hết những lời đồn nhảm nhí, giúp cho mọi người bị mê hoặc bởi những lời đồn đó. Trước kia quan phủ thường dùng tượng thú bằng sắt hoặc phiến đá để chặn mắt sông. tảng đá dưới đáy sông có khắc tên Hải Trương Ngũ, cho nên chắc chắn là kẻ này là người chôn cái tháp ở bên dưới. Bên trong 'Địa phương chí' ghi lại thông tin đầy đủ ràng về những người trước kia tương đối có thân phận có địa vị nguyện ý tích đức làm việc thiện, sửa cầu làm đường, xây tháp dựng miếu, thu nhặt xác chết vô chủ. Họ được cả xã hội công nhận là người làm việc thiện. Đến khi có tiền có địa vị, thứ người con người ta khao khát nhất chính là danh vọng. Tiền và địa vị dễ gì mà có được, danh vọng tốt lại càng khó mà có hơn. Loại người như Hải Trương Ngũ có công danh, là lưu manh vô lại dựng nghiệp bằng hai bàn tay trắng, cho nên lúc nào cũng cảm thấy vô cùng tự ti, luôn muốn gây dựng lên danh vọng. Theo tương truyền, vào thời Hàm Phong, Hải Trương Ngũ tổ chức dân đoàn đánh bại quân Thái Bình, triều đình phong thưởng cho quan hàm Tam phẩm, nếu so sánh với giờ tương đương với sĩ quan quân đội cấp trung đoàn. Ngay sau đó, đất Hà Nam Sơn Đông lại bị Niệp quân tàn phá, cách hai vùng Kinh Tân hai xa, triều đình hạ chỉ ra lệnh phòng thủ thành phố vững vàng, phải tu sửa pháo đài, nhưng muốn tu sửa pháo đài phải có tiền mới làm được chứ. Mấy năm liên tục chiến tranh loạn lạc, quan phủ và dân chúng đều có lấy xu, có màu mè gì mà kiếm chác. Từ quan viên cho tới dân chúng, nghe thấy phải bỏ tiền cá nhân làm việc công, toàn bộ đều bỏ trốn sạch. Nghe thấy có chỉ như vậy, riêng Hải Trương Ngũ lại chịu đứng ra đảm nhiệm, còn tuyên bố xanh rờn đó chỉ là chuyện nhít, tình nguyện bỏ ra số tiền đó giúp triều đình phân ưu. Năm ấy đồng thời xảy ra lũ lụt, chỉ tu sửa gia cố pháo đài phòng thủ thành phố, còn công đôi việc dựng tháp lấp mắt sông. Số tiền đó thực phải là ít, nhưng Hải Trương Ngũ là kẻ leo lên từ đáy xã hội, dù bạc chảy vào túi như nước, nhưng tuyệt tự móc tiền túi. khống chế việc buôn muối, lấy cớ chiến tranh và lũ lụt tàn phá vận chuyển tiện, khắp nơi cung đủ cầu, tăng thuế muối lên gấp ba. Trong lòng thừa hiểu, thương nhân buôn muối kiếm được lợi nhuận rất cao, cho dù mình có sử dụng công phu sư tử ngoạm tăng thuế muối lên vài lần, đám thương nhân kia cũng dám phản đối. Quả nhiên kiếm được khoản tiền lớn, chỉ cần dùng non nửa số tiền đó đủ để tu sửa pháo đài gia cố tường thành, lại xin dựng ngọn Tháp trấn để trừ tà trấn , chôn xuống đáy sông ngăn chặn mắt sông. Hơn phân nửa ngân lượng còn lại, toàn bộ đều chui vào túi tiền của Hải Trương Ngũ. Năm 1958, khi nạo vét phù sa phòng lụt, người ta đào lên được đúng ngọn tháp này. Đến giữa thập niên chín mươi, khoảng năm chín bảy chín tám gì đó, khi xây dựng nhà bên ngoài cửa tây, người ta tình cờ đào trúng phần mộ của Hải Trương Ngũ. Nghe , quan tài của hóa ra cũng lớn lắm, tử thi bên trong vẫn chưa phân hủy. Người chết mặc trang phục và đeo giày quan lại rất giống cương thi thời nhà Thanh trong phim ảnh Hồng Kông. Trong hòm quan tài còn chôn theo cả chén đũa bằng vàng. Những vật tùy táng bị dân công và quần chúng hiếu kỳ đến xem giành giật nhau lấy mất. Từ đó, chén đũa bằng vàng bị thất lạc, thể nộp hết lên . Đó là chuyện ngoài lề, cuốn sách này chỉ sơ qua, sâu vào chi tiết. Chúng ta đến vụ hạn hán khốc liệt năm 1958, khi nạo vét sông cái tìm được Tháp trấn chôn dưới đáy, vật này hóa ra lại có liên quan đến ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương. Vào buổi chiều cái ngày tìm được thi thể hai công nhân trị thuỷ, Trương Bán Tiên vội tới chỗ Quách sư phụ bói cho ông ta quẻ. ta căn dặn Quách sư phụ phải cẩn thận hơn nữa, phong thủy lò bát tiên của nhà họ Quách bị phá, coi chừng gặp phải vận rủi, quẻ hung tại bắc, có lẽ căn nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương gây bất lợi cho Quách sư phụ. "Căn nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương" là tên gọi ngôi nhà của tên ăn cướp bằng búa thợ mộc Bạch Tứ Hổ. Sau khi Bạch Tứ Hổ bị xử bắn, hai gian phòng đó bị dán giấy niêm phong bỏ nhiều năm. Căn phòng đó là do tổ tiên nhà họ Bạch xây dựng nên bằng những viên gạch cổ mót về khi phá thành Thiên Tân vào cuối thời nhà Thanh. Trong phòng chôn dấu vật gì đó. khi vậy này xuất , chắc chắn mực nước Hải Hà tràn đê, khi đó Thiên Tân vệ chắc chắn gặp phải lũ lụt nghiêm trọng. Nghe , Bạch Tứ Hổ coi cái xác phụ nữ như vợ của mình, cả ngày trốn trong nhà tâm với người chết. Nhưng ra, phải là đầu óc bình thường, mà bởi trong căn nhà đó quả có vật gì đó biết . Tuy nhiên, vật đó phải là xác người phụ nữ giường gạch, mà là vật tổ tiên Bạch Tứ Hổ dấu ở trong nhà. Mặc dầu vậy, rốt cục là bên trong ngôi nhà bị ma ám đó có vật gì, Trương Bán Tiên suy tính ra. Quách sư phụ nghĩ thầm: "Mấy năm trước truy bắt Bạch Tứ Hổ, ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương bị người ta lật tung lên dưới mười mấy lần, hai gian phòng từ xuống dưới từ trong ra ngoài bỏ sót tấc nào, nhưng đâu có tìm ra cái gì?" Vì vậy, ông ta tránh khỏi nghi ngờ, chẳng hiểu Trương Bán Tiên có phán chuẩn hay . Năm 1958 phát sinh hạn hán nghiêm trọng, theo thường lệ, cứ năm hạn đến năm sau quá nửa là phát sinh hồng thủy úng lụt. Hạn hán nghiêm trọng như thế, hồng thủy năm sau e rằng . Mặc dù làm cho hai người mất mạng, nhưng công việc nạo vét sông phòng lụt thể dừng lại, mà vẫn phải tiếp tục tiến hành. Sau khi nạo vét thêm nửa tháng nữa, mọi người sắp đào đến đáy cái động lớn ở đáy sông, nhưng đào đến khi làm nửa ngọn Tháp trấn lộ ra ngoài, công việc bắt buộc phải dừng lại. Bởi vì lúc ấy xảy ra việc kỳ lạ khiến người nghe phải kinh sợ, thậm chí tận đến hôm nay số người cao tuổi vẫn còn nhớ như in. Nội dung câu chuyện mà họ kể lại đại khái như nhau, chi tiết bên trong quá nhiều khác biệt. Nhưng bất kể nội dung như thế nào, mọi người đều nhắc đến "phần mộ số hai trăm linh chín". Vào thập niên năm mươi sáu mươi, chỉ cần nhắc đến cụm từ "phần mộ số hai trăm linh chín" là có thể dọa cho trẻ con dám khóc đêm. Qua đó có thể thấy được, câu chuyện này đáng sợ đến thế nào. Nếu như có đứa trẻ nào nghe lời, người lớn thường đe nó: "Mày còn nghịch nữa, coi chừng tao ném xuống phần mộ số hai trăm lẻ chín!". Bảy từ này nghiễm nhiên trở thành danh từ làm cho con người ta sởn hết cả gai ốc. việc đó vừa xảy ra, công việc nạo vét sông cái ở Thiên Tân vệ năm 1958 phải dừng hẳn lại. Chương 17: Hành Thủy Đan cướp đoạt bảo vật Trước khi đến "phần mộ số hai trăm linh chín", phải nhắc đến câu chuyện "Hành Thủy Đan cướp đoạt bảo vật", bởi vì câu chuyện này cũng có quan hệ đến ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương, hơn nữa còn xảy ra trước câu chuyện "phần mộ số hai trăm lẻ chín". Lại nói tiếp đến trận hạn hán khủng khiếp năm 1958, kỳ lạ nhất là cả mùa hè mưa, công việc nạo vét bùn lấy tính mạng của hai người. Cùng ngày hôm đó, Quách sư phụ tất bật làm xong công việc trời chạng vạng tối. Ông ta cùng với Đinh Mão đạp xe về nhà. đường về, hai người nhắc đến chuyện buổi chiều gặp Trương Bán Tiên, nghe ta bên trong ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương có bảo vật do tổ tiên nhà họ Bạch chôn dấu. Nhưng hai gian phòng lụp xụp đó chỉ có bốn vách tường trống trơn, mấy năm trước, lúc đuổi bắt Bạch Tứ Hổ họ từng đào sâu ba thước đất, lục soát khắp mọi xó xỉnh, cũng thấy có đồ vật thần kỳ nào, xem ra câu chuyện này đáng tin. người nói vô tâm, người nghe hữu ý. Trong lúc vừa đạp xe vừa thảo luận về căn nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương, Quách sư phụ và Đinh Mão bỗng nhiên phát ra có người bám theo sau. Hai người quay đầu lại, thấy người kia cũng đạp chiếc xe đạp, là người bán bánh hấp Dương Thôn. Người bán rong bánh hấp Dương Thôn đó tà tà theo sát phía sau hai người họ. Thấy họ quay đầu lại, người này vội vàng lớn tiếng rao to: "Ai mua bánh hấp nóng hổi đây, bánh hấp Dương Thôn vừa mới ra lò đây. Hai vị có mua bánh hấp ?" Đinh Mão bận việc cả ngày, đói ngấu chưa có hột cơm nào vào bụng. Nghe thấy người bán hàng rong đó mời chào, gã lập tức dừng lại định mua mấy cái bánh hấp. Quách sư phụ bảo: "Trời nóng thế này, lại có nước uống, ăn bánh hấp làm gì. Chị dâu cậu làm mì sợi ở nhà, chúng ta về ăn cơm thôi." Đinh Mão : "Em đói đến mức da bụng dính vào lưng rồi, tốt nhất là cứ nhồi tạm hai cái bánh hấp ." Thấy hai người họ dừng lại, người bán hàng rong vội vàng lấy bánh hấp ra, gói kỹ bằng lá sen rồi mới đưa cho họ. Quách sư phụ vừa cầm vào tay cảm thấy đúng, bèn hỏi người bán hàng rong: "Chẳng phải bánh hấp vừa mới ra lò sao, tại sao lại nguội lạnh thế này?" Người bán hàng rong : "Bánh hấp nguội ăn cũng ngon mà, vào ngày nóng như đổ lửa thế này, làm gì có ai muốn ăn bánh hấp nóng chứ?" Bánh hấp Dương Thôn là loại bánh đặc trưng của riêng Dương Thôn Thiên Tân. Trước kia, toàn bộ những người vào thành bán bánh hấp đều là dân Dương Thôn, phần lớn là nông dân trai tráng, ăn ngay , tác phong nhanh nhẹn, khiến cho người mua cảm thấy tin tưởng. Bánh hấp thường là loại nóng hổi vừa mới ra lò, bên trong có nhân đậu, rắc thêm mấy sợi tơ màu xanh đỏ. Mặc dù còn có cả loại bánh hấp nguội nhân, nhưng tuyệt có ai nhầm lẫn bánh nguội thành bánh nóng được. Giữa đường tình cờ gặp cái tên bán rong này, nghe giọng thấy phải là người Dương Thôn, cách chuyện cũng thiếu trung thực. Quách sư phụ và Đinh Mão là người ăn cơm công môn, mắt sắc tai thính, vừa nghe câu trả lời của phát ra kẻ này phải người tốt, chí ít ra là . Người bán hàng rong : "Hai vị đừng quá đa nghi, tôi có thói quen rao lớn tiếng, hôm nay bán loại bánh hấp nguội, quen mồm cứ rao thành bánh hấp nóng." Quách sư phụ quan sát kỹ người bán rong bánh hấp Dương Thôn đó lượt, rồi mới hỏi : " là ngươi Dương Thôn?" Người bán hàng rong đáp: "Tôi là người sinh ra và lớn lên ở Dương Thôn, nhà tôi bao nhiêu đời nay đều bán bánh hấp. Các vị cứ nếm thử biết tài nghệ của tôi, ăn miếng có lẽ cả đời quên ấy chứ." Quách sư phụ lại hỏi: " họ Đỗ hả?" Người bán hàng rong : "Rốt cục là các vị có mua bánh hấp hay , tại sao lại cứ hỏi giống như là điều tra hộ khẩu thế?" Quách sư phụ : " cũng đừng quá đa nghi, nhà làm bánh hấp gia truyền chính tông ở Dương Thôn là nhà họ Đỗ, bánh của những nhà khác kém ngon hơn chút, cho nên tôi mới hỏi họ gì. Hai em chúng tôi rất kén ăn, chỉ ăn mỗi bánh hấp Dương Thôn nhà họ Đỗ thôi." Nghe vậy, người bán hàng rong bình tĩnh lại, bảo: "Tôi họ Đỗ, là con cháu dòng chính của nhà họ Đỗ làm bánh hấp, hai người các vị mua mấy cái bánh hấp mang về chứ?" Quách sư phụ nhận ra, kẻ bán bánh hấp này miệng lưỡi trơn tru, cứ mở miệng ra là dối như cháo chảy. Kẻ này tuyên bố mình là dòng chính của nhà họ Đỗ làm bánh hấp Dương Thôn, như vậy có lẽ lừa gạt được người khác, chứ thể qua mặt được Quách sư phụ. đến đây tôi lại phải nhắc tới đôi câu ngoài lề, thêm chút thông tin về loại bánh hấp Dương Thôn này. Nghe , vào thời kỳ đầu nhà Minh, có người tên Đỗ Thiệu Hưng đến phương bắc an cư lạc nghiệp, định cư tại Dương Thôn bán bánh hấp. Dương Thôn nằm ở ngay cạnh sông đào. Khi ấy, lương thực được vận chuyển từ phía nam lên phía bắc, số lượng dân phu làm công việc vận chuyển theo đường thủy lên đến mấy vạn người, lần vận chuyển nào cũng phải dừng chân nghỉ trọ tại Dương Thôn, bởi vậy quán cơm bình dân nhà hàng ở nơi này mọc lên san sát. Hầu hết dân phu làm công việc vận chuyển đường thủy là người phương nam, thích ăn gạo. Để chiều theo khẩu vị của dân phu, Đỗ gia dùng gạo xay nhuyễn trộn với đường trắng hấp lên thành bánh hấp, dần dần gây dựng nên thương hiệu bánh hấp Dương Thôn. Vào năm kênh đào Panama thông tàu thuyền, người ta tổ chức hội chợ ẩm thực quốc tế, giới thiệu các món ăn đặc trưng từng vùng miền của các quốc gia. Khi ấy, bánh hấp Dương Thôn được cử dự thi và giành được huy chương. Từ đó về sau, món ăn này vang danh bốn biển. Sau khi quân Nhật chiếm lĩnh Bình Tân, gạo trở thành quân lương, dân chúng chỉ được trồng mà được ăn. Ai dám ăn gạo, may bị bọn lính Nhật phát ra, cần nhiều lời, tặng cho nhát lưỡi lê. Nguyên liệu chính của Bánh hấp Dương Thôn là gạo xay nhuyễn, quân Nhật cho dùng gạo, người ta còn cách nào khác đành phải thay thế bằng bột ngô, coi như xứng với bốn chữ 'hữu danh vô thực'. Sau giải phóng, người ta lại khôi phục phương pháp làm bánh truyền thống, chuyên dùng loại gạo Tiểu Trạm thượng đẳng, ngâm nước cho nở rồi hong khô, nghiền thành bột mịn, sàng lọc kỹ lưỡng, cho thêm đường vào nhào kỹ, dùng dao cắt thành từng miếng , cho vào xửng hấp chín, vậy là ra thành phẩm bánh hấp. Bánh hấp mềm dẻo mịn, trong suốt ngon miệng. Sau này, chỉ có bánh hấp nhà họ Đỗ, mà còn có cả bánh hấp Chi Lan Trai. Nhà họ Đỗ chuyên làm bánh hấp nóng nhân đậu, Chi Lan Trai chủ yếu làm bánh hấp nguội. Ở Thiên Tân vệ, bánh hấp Dương Thôn là món ăn vặt phổ biến, Quách sư phụ và Đinh Mão từng nếm thử, sao lại phân biệt được hai loại bánh này. Tên bán hàng rong ràng là bán bánh hấp Chi Lan Trai, nhưng lại bảo là bánh hấp nhà họ Đỗ, nhân dịp trời tối đen nhìn đánh lừa người khác, kẻ này làm vậy chẳng phải là muốn lừa đảo hay sao?
Hai Tên bán bánh hấp Dương Thôn rong thực ra mang họ Ô, có biệt hiệu là "Đại Ô Đậu". Ô đậu có nghĩa là đậu đen, mà là loại đặc sản đậu tằm của riêng Thiên Tân luộc chín. Sau khi đậu tằm được đun sôi, người ta vội vớt ra khỏi nồi, mà dùng cái nắp gỗ chuẩn bị sẵn úp kín thời gian ngắn, ủ cho đậu tằm nhừ tướp ngon miệng, xưa gọi là đậu ủ, người dân gốc Thiên Tân chuyên nhịu, bởi vậy phát thành đậu đen, nhưng thực tế là đậu tằm. Kẻ này có biệt danh là ô đậu, qua đó có thể thấy phải là hạng đứng đắn lắm, tướng mạo trước gáo sau thìa*, trán dô hẳn ra đằng trước, gáy lõm sâu vào bên trong, mặt dài cằm vểnh, đầu có hình dạng y như hạt đậu đen, còn có biệt hiệu khác là "Hành Thủy Đan". *Cách miêu tả tướng mạo của Thiên Tân, dùng để chỉ những người trán dô gáy hõm Vào thời xã hội cũ, bến tàu thuỷ bộ Thiên Tân vệ hoạt động nhộn nhịp, phường hội mọc lên san sát như cây rừng, người bốn phương tám hướng đổ về, nuôi sống rất nhiều kẻ biếng nhác chịu làm việc đàng hoàng, Đại Ô Đậu chính là người trong số đó. vừa tham ăn vừa lười nhác, phương châm sống của hắn là: "Tham ăn do mệnh, lười nhác tại số, tham ăn lười nhác là tốt số", bởi vậy chịu làm việc nặng nhọc, chỉ dựa vào miệng lưỡi trơn tru kiếm cơm. Gáy lõm hẳn vào trong, nhưng phải là dị tật bẩm sinh, mà nguyên nhân thực là do bị người khác đánh, bởi vì bán "Hành Thủy Đan". Thiên Tân vệ có ít người bán Hành Thuỷ Đan, đó là những kẻ bịp bợm chuyên lừa đảo người khác. Nghe , trước kia có đạo sĩ bán rong loại thuốc nam, tự đặt cho nó cái tên rất kêu là tiên dược Hành Thủy Đan. Tại sao lại gọi là Hành Thủy Đan? Chỉ cần ăn viên thuốc này của y là có thể lại mặt nước, vượt sông giống như đất bằng. Ban đầu ai tin, đừng thấy mọi người hay nhắc đến thần ma đạo sĩ mà lầm, sờ sờ bày ra trước mặt cũng chưa chắc tin hẳn, ai cũng cho rằng đạo sĩ này khoác lác. Lấy đâu ra tiên đan thần dược có thể giúp cho con người ta qua sông như đất bằng? Đạo sĩ khẳng định như đinh đóng cột, lại còn dám viết giấy biên nhận, ăn xong Hành Thủy Đan của y, nếu trăm ngày sau thể mặt sông như đất bằng, y chấp nhận bồi thường tiền gấp mười lần. Có kẻ hay chuyện vừa nghe thấy vậy, cảm thấy có chỗ tốt dại gì mà chiếm, lập tức đồng ý bỏ tiền ra mua Hành Thủy Đan của y, nhưng vừa nghe thấy giá biết móc đâu ra đủ tiền mà trả. Đạo sĩ bảo, tiên đan há có thể là vật tầm thường, viên Hành Thủy Đan ra giá trăm lượng bạc ròng, phải ông chủ lớn thể mua nổi. Câu chuyện này lan ra, có người thực có tiền tìm đến mua, mua được tiên đan là ăn vào luôn. Qua trăm ngày, ông này vừa mới đến bờ sông vỡ lẽ ra mình bị lừa. Bởi vì sau trăm ngày, trời chuyển rét đậm, mặt sông hoàn toàn đóng băng, thế này chẳng phải là như đất bằng sao? Tuy có giấy tờ làm chứng nhưng thể cãi lý lại được, đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt. Trước đây, những kẻ sử dụng mánh lới lừa tiền khiến cho người khác phải ngậm bồ hòn làm ngọt được gọi là Hành Thủy Đan. Đại Ô Đậu dùng mánh khóe này để kiếm cơm, hãm hại lừa gạt có chuyện xấu gì là làm. Trong vòng mấy năm đó, bị người ta đánh ít lần. trong những lần đó, gáy bị người ta đập cho cú như trời giáng lõm hẳn vào trong, thiếu chút nữa là đời nhà ma, đến nay vẫn lần ra được là đòn đánh dã man của kẻ nào. Mụ vợ Đại Ô Đậu cũng chẳng phải kẻ tốt lành gì, há mồm ra là hót còn hay hơn cả , trước kia chuyên môn mai mối hôn cho người ta, nhưng chịu làm mai cho tử tế, mà lại gây ra ít vụ lừa đảo thất đức. Ví dụ như nghe nhà phú hộ nào đó có con sắp ba mươi rồi mà vẫn chưa gả được cho ai, Đại Ô Đậu nảy sinh ý định mờ ám, bảo vợ mình tới đó mai mối hôn nhân cho nhà đó kiếm mấy đồng tiêu xài. Ngài nên nhớ, vào thời ấy, phụ nữ ba mươi tuổi mà vẫn chưa xuất giá là lỡ rồi. Nhà mẹ đẻ nàng đó lại có tiền, nếu như có duyên cớ gì, sao lại thể tìm được tấm chồng, bên trong nhất định là có khúc mắc. Nhưng kể cả đó có xấu đến ma chê quỷ hờn, qua lời giới thiệu của bà mai, cũng có thể biến thành Lâm Đại Ngọc. Người ta có câu "Chỉ cần qua mồm bà mối, sóng lăn tăn cũng có thể biến thành sóng thần**", câu này sai chút nào. Mụ vợ Đại Ô Đậu rất giỏi lừa gạt. Trước tiên, ả tìm chàng gánh nước thuê, vào nhà người ta ngồi đàng hoàng, khách sáo mấy câu rồi mớm lời: "Chú em đâu còn ít tuổi nữa, tại sao vẫn chưa lập gia đình, hay là để bà chị dâu này mai mối cho vợ. Chú có cầu gì ?" ** tấc lên đến giời. chàng gánh nước thuê đáp: "Chị dâu à, dù tôi chỉ là người bán sức kiếm cơm nhưng cầu lại rất cao, muốn kết hôn với tốt, thà rằng cả đời làm lưu manh, cũng muốn kết hôn với quả phụ, phải hoàng hoa khuê nữ tôi nhất định cưới." Mụ vợ Đại Ô Đậu lại bảo: "Chú thử ra ngoài hỏi thăm chút, xem cách làm người của chị dâu chú ra sao, là , hai là hai, từ trước đến nay chưa từng có câu điêu ngoa gian dối nào, trăm phần trăm là hoàng hoa khuê nữ." chàng gánh nước mừng rơn, vội hỏi: " nương cao sang hoàng hoa khuê nữ có thể nào để mắt đến kẻ cu li nghèo kiết xác như tôi chứ? phải tệ đến mức chó chê mèo mửa đấy chứ? Tôi xin nhấn mạnh trước, đứng đắn chính chuyên tôi cũng cưới." Mụ vợ Đại Ô Đậu : "Giờ bà chị dâu này xin cam đoan với chú, chú cứ yên trăm hai mươi cái tâm . Thực là hoàng hoa khuê nữ của gia đình giàu có, tính tình đoan chính thế nào khỏi cần phải bàn, chỉ tiếc. . . chỉ tiếc là miệng quá kín đáo. . ." Nghe bảo đó kín miệng, chàng gánh nước thuê coi đó là khuyết điểm gì quá lớn. Phụ nữ ấy à, có mấy người chua ngoa lắm lời cơ chứ. Bởi vậy chàng lập tức đồng ý, bỏ tiền nhờ mụ vợ Đại Ô Đậu đến nhà cầu hôn. Mụ vợ Đại Ô Đậu là kẻ lừa gạt thành tinh. Bên phía chàng gánh nước thuê quyết định xong, mụ bèn đến nhà phú hộ bàn đến chuyện hôn nhân của con nhà người ta, bảo rằng có chàng trai gánh nước thuê, tốt tính thế nào, tướng mạo đường đường ra sao, chỉ đáng tiếc là dưới mắt thiếu thốn chút. Phú hộ xiêu lòng trước lời rào đón của mụ vợ Đại Ô Đậu. Tuy rằng hai nhà giàu nghèo, môn đăng hộ đối, nhưng con mình lớn tuổi, gả được chung cũng phải việc hay ho gì. Nghe chàng kia dưới mắt thiếu thốn chút, đương nhiên là muốn ám chỉ thiếu tiền rồi, việc đó dễ giải quyết thôi. Lão phú hộ đồng ý bỏ ra khoản tiền giúp đỡ con rể tương lai cục mịch, mau chóng đưa con về nhà chồng, coi như giải quyết được mối tâm đè nặng trong lòng. Bởi vậy hai bên quyết định đính hôn, chọn ngày hoàng đạo bái đường. Khi chú rể tân nương vào động phòng, chú rể vạch khăn dâu của tân nương tử ra, hai vợ chồng vừa mới nhìn thấy mặt nhau, cả hai trợn tròn mắt chết sững. Tại sao lại như vậy? Tân nương tử là người bị sứt môi, theo cách bây giờ chính là hở hàm ếch, người ta thương tình bảo là "Miệng kín", nhìn đến ngũ quan của chú rể cũng chẳng tốt hơn là bao, thiếu hẳn cái mũi, nhưng dù thế nào cũng thể bảo rằng "Dưới mắt thiếu thốn chút" được. Người hai nhà lôi bà mối là mụ vợ Đại Ô Đậu ra chửi ầm lên chặp, mắng tám đời nhà thị có đức. Nhưng mụ vợ Đại Ô Đầu đâu có quan tâm gì đến hai vợ chồng đó sau này sống với nhau như thế nào, lừa tiền vào tay chạy mất dạng từ bao giờ. Sau đó ả hết qua bên đông lại sang bên tây làm mai mối hôn nhân. Trước giải phóng, hai vợ chồng bọn chúng họ sử dụng mánh khóe lừa đảo này để kiếm ăn, cuộc sống có thể coi là tệ, chỉ là bị người ta ghi hận. Từ khi đất nước thành lập năm 1949 cho đến bấy giờ, nghề mai mối hôn nhân coi như hết đường làm ăn, Thiên Tân vệ cũng chẳng còn là bến tàu giang hồ như dưới thời xã hội cũ. Kỹ nữ hoàn lương, quán thuốc đóng cửa, rắn rít địa phương và lưu manh vô lại hoành hành thời, nếu phải bị tống giam cũng bị đưa cải tạo, trật tự trị an xã hội càng ngày càng ổn định. Dạo ấy còn giống như lúc trước, bỏ sức ra làm việc được, ngay cả tên thầy bói Trương Bán Tiên cũng còn phải đạp xích lô nữa là. Đôi vợ chồng Đại Ô Đậu đâu có biết làm cái gì, hơn nữa lại còn vừa tham ăn vừa lười nhác, thường ngày buộc phải thực vài phi vụ trộm vặt móc túi. Có ngày, Đại Ô Đậu trông thấy người bán bánh hấp Dương Thôn để xe ở ven đường để vào nhà vệ sinh. Nhân cơ hội đó, đẩy xe bánh hấp bỏ chạy. Thế nhưng, bánh hấp thể mang về nhà, thỉnh thoảng ăn vài ba miếng còn thấy ngon, ăn nhiều quá ngán đến tận cổ. Nam ngọt bắc mặn đông cay tây chua, người phương bắc quen ăn đồ ngọt. Vừa khéo giữa đường gặp Quách sư phụ và Đinh Mão, Đại Ô Đậu định nhân cơ hội trời tối đen, lớn tiếng rao bán số bánh hấp trộm được, kiếm vài đồng rồi về nhà. Nhưng đâu có ngờ, Quách sư phụ là công an đường thủy, chỉ hỏi khó mấy câu làm lòi đuôi. Đại Ô Đậu là kẻ cắp chuyên nghiệp, chuyện đến giữa chừng phát ra tình hình hay, thẳng tay vứt lại xe bánh hấp, cũng chẳng thèm quan sát chui ngay vào con hẻm gần đó. Kết quả, ngã xuống khe nước lớn, đổ máu rách toạc da đầu, cũng còn may là trời tối đen bị người ta đuổi kịp. thầm rủa: "Ngày hôm nay đúng là bị vận đen ám vào người, vất vả lắm mới trộm được xe bánh hấp, ngờ đâu lại chạm trán với hai tên Tang môn thần***, may mà nhanh chân bị người ta bắt được. Nhưng tay trở về biết với vợ như thế nào đây?" chợt nhớ lại, trong lúc bàn chuyện về ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương trong khi đường, hai người kia có bên trong nhà đó có chôn bảo vật, nhiều năm trôi qua mà vẫn ai có thể tìm ra được. Nghe , lúc trước, khi truy bắt kẻ cướp nguy hiểm chuyên dùng búa thợ mộc, người ta phát ra cái xác phụ nữ trong căn nhà đó, rốt cuộc là ngôi nhà bị ma ám chôn dấu bảo vật, hay chỉ là câu chuyện hoang đường về ngôi nhà bị ma ám? ***Thần cai quản về tang Ba Thời xưa có quan niệm mê tín "Bảo vật nhận chủ", bởi vậy Đại Ô Đậu thầm nghĩ: " có lửa làm sao có khói, ai cũng bảo ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương chôn dấu bảo vật, vậy nhất định trong ngôi nhà đó có nhiều của cải. Người khác tìm thấy, chưa hẳn là ta cũng thể tìm thấy, sao thử thời vận phen?" lại sợ trong ngôi nhà bị ma ám đó có quỷ, dâng cái mạng mình cho chúng chẳng phải là lỗ vốn hay sao. Trong lúc nhất thời, phân vân quyết định được. Huống hồ, cú ngã xuống khe nước vừa rồi , dường như bị vẹo cả xương sống rồi, quyết định tới nhà Tô lang trung dán thuốc trước . Thiên Tân vệ có hai danh y họ Tô. Mặc dù cùng họ Tô, nhưng người có danh tiếng, còn người kia lại có tai tiếng. Vị Tô đại phu có danh tiếng là người kế thừa gia tộc hành nghề trung y nhiều đời, chuyên trị thương tật do té ngã, đặc biệt là thuốc viên đặc trị trật khớp. Vào cuối thời nhà Thanh, cha ông ông này từng theo học khoa chỉnh hình của người Pháp, kỹ thuật nối xương cao siêu đến mức thần kỳ. Trật khớp dùng thuốc viên đặc trị, còn gãy xương dùng đến kỹ thuật kia. Hai tuyệt chiêu đó của nhà họ Tô gia chỉ đời đời truyền riêng cho con cháu trong nhà. Vào cuối thời nhà Thanh, Thiên Tân vệ đầy rẫy lưu manh ngoài đường. Mỗi khi lưu manh nổi máu yêng hùng, phạm án bị bắt giải lên công đường. Nhưng bất kể quan phủ dùng hình như thế nào, đám lưu manh cũng dám rên lấy tiếng, bởi khi nhận tội, sau này đường lăn lộn nữa. Hình phạt nặng công đường há có phải trò đùa. cần đến hình phạt khác, chỉ riêng việc đánh bằng roi cũng đủ khả năng lấy mạng con người ta rồi. Năm mươi cây gậy gỗ nặng giáng xuống, tránh sao được da tróc thịt bong gãy xương đứt gân, toàn thân nhừ xương mềm oặt, đặt lên cáng vải mềm khênh đến nhà Tô đại phu, nhờ ông này nối lại từng đoạn xương bị gãy nát của toàn thân, đảm bảo xương cốt hình dạng của ngươi trước khi nhận hình phạt công đường như thế nào, trăm ngày sau vẫn là như thế. Tô đại phu người ta dám lớn tiếng tuyên bố đến thế, bởi vì ông này thực có bản lãnh làm được điều đó. Bắt đầu từ thời Thanh mạt, nhà này bắt đầu gây dựng nên tên hiệu. Cho tới tận hôm nay, mỗi khi phải bó xương chỉnh hình, mọi người vẫn tranh nhau tới những bệnh xá treo biển hiệu Tô đại phu. cần biết đó có phải là đời sau của nhà họ Tô gia hay , chỉ cần mang họ Tô, những người đó cảm thấy trình độ bệnh xá này nhất định tương xứng với cái tên đó. Về phần vị danh y tai tiếng kia, người này cũng nổi tiếng chả kém, nhắc đến tên y là ai cũng biết. Để cho dễ phân biệt, người ta gọi y là Tô lang trung. Tô lang trung là người hành nghề y chuyên rong hoặc đến những hội chợ phiên bán thuốc nam. Trước giải phóng, y thường treo biển bày bàn bên lề đường, bán miếng dán thuốc cao. Từ bong gân trật xương phong thấp cảm lạnh, cho đến đau đầu sốt cao thổ tả, bất kể là bệnh gì, cứ đến chỗ Tô lang trung là đều được trị bằng cách dán thuốc cao. Nhìn, nghe, hỏi, sờ***, bắt mạch, xem lưỡi, toàn bộ những phương pháp chẩn bệnh đó y thông môn nào, cũng chẳng thèm ghi đơn thuốc, cứ dán thuốc cao là xong chuyện. ***Bốn phương pháp chẩn bệnh của đông y Thời ấy có câu thế này: "Dán thuốc của Tô lang trung -- tự chuốc lấy phiền phức". Bởi vì thuốc cao dán của Tô lang trung được nấu đủ lửa, do y được chân truyền, chung khả năng nắm bắt và điều chỉnh thực được tốt. Mặc dù hẳn là non tay, nhưng thuốc dán của y có đủ độ dính cần thiết. Trước giải phóng, có người bị xơ cứng cổ, đến chỗ y mua miếng thuốc dán, bóc ra dán lên chỗ đốt sống cổ. Về đến nhà, đêm ngủ chợt giật mình tỉnh giấc, người này vừa mới sờ ra sau cổ tay dính đầy thuốc dán, vừa đen lại vừa nhớp nhúa, vậy là nổi giận đùng đùng chạy đến nhà Tô lang trung chất vấn. Tô lang trung cả vú lấp miệng em bảo rằng nhà ngươi bệnh nặng, miếng thuốc dán hơi trị được hết bệnh, phải đổi thành miếng lớn hơn, khiến cho người nọ lại phải bỏ tiền mua miếng khác, vẫn tiếp tục dán vào chỗ đốt sống cổ. Đến đêm người này lại giật mình tỉnh giấc, sờ vào chỗ thuốc dán thấy đâu. Hóa ra miếng thuốc dán đủ độ dính, đến đêm dịch chuyển, chạy từ cổ xuống mông, rửa mãi mà sạch. Người nọ ôm đầy bụng tức giận, lại tiếp tục tới nhà Tô lang trung, cầu y trả lại tiền. Tô lang trung bảy lần chịu, tám lần cam lòng, trăm hai mươi lần muốn, bèn gân cổ lên bảo, vậy chẳng phải điều đó chứng tỏ nguồn gốc căn bệnh của ngươi phải ờ cổ mà là ở mông hay sao? Thuốc dán nhà hộ Tô của y có linh tính, có khả năng tự tìm được nguồn gốc căn bệnh, cho nên nó tự chạy xuống mông, có lý nào lại phải trả lại tiền? Chuyện này vỡ lở ra rồi trở thành câu chuyện tiếu lâm, bởi vậy mới có câu châm biếm "Dán thuốc của Tô lang trung -- tự chuốc lấy phiền phức" như ở . Sau này, cấu đó trở thành câu cửa miệng để ám chỉ đến việc tự chuốc khổ vào thân hoặc tự mình làm bản thân điên đầu. Đại Ô Đậu leo lên bờ con mương, nhận thấy này cách nhà Tô lang trung xa, bèn chạy đến đó gõ cửa mua thuốc dán. Tô lang trung là kẻ có tiếng tốt lành gì, nhưng hẳn là kẻ bất tài, bởi dẫu sao y cũng nấu cao dán cả nửa đời người. Cho dù phải là linh đan diệu dược, nhưng ít nhiều cũng có chút tác dụng. Y dán thuốc cao cho Đại Ô Đậu xong là ngửa tay đòi tiền. Đại Ô Đậu giở trò vô lại, phủi tay trợn mắt, chịu trả xu. Trước kia, Tô lang trung cũng từng lăn lộn ngoài giang hồ, hạng người lưu manh vô lại nào mà chưa từng gặp qua, thể nào nuốt trôi cục tức này, trả tiền đừng hòng mà được, tay níu chặt Đại Ô Đậu chịu buông tha, tay cởi giày đánh loạn xạ lên mặt . Đại Ô Đậu có tật giật mình, chỉ sợ ầm ĩ lên kéo người khác đến, cuống cuồng xô Tô lang trung ra, tông cửa xông ra ngoài. Nào ngờ Thái Dương của Tô lang trung đập thẳng vào góc mặt bàn, ô hô ai tai ngay tức . Vị lang trung nấu cao dán bán thuốc dạo ngoài đường có ngờ đâu mình lăn đùng ra chết oan chết uổng thế này. Đại Ô Đậu hề hay biết, cú đẩy đó lấy mạng Tô lang trung. Vừa mới thấy đối phương vỡ đầu chảy máu, y vội vội vàng vàng đẩy tung cửa vọt ra bên ngoài, tai vẫn còn kịp nghe thấy trong nhà họ Tô vang lên tiếng vợ kêu con khóc. Y lo sợ bị người khác đuổi theo đánh mình, guồng chân hết tốc lực mà chạy. Lúc bấy giờ, lưng được dán thuốc cao, y chạy được đoạn cảm thấy còn đau nữa. là kẻ tham tiền ăn vào máu, trong đầu chợt thay đổi ý định, thế là chạy thẳng đến ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương. Ngõ hẻm đó nằm ở gần khu vực nhà ga phía bắc, nhà ga phía bắc lại ở ngay cạnh công viên Bắc Ninh. Cuối thờ nhà Thanh, công viên này vẫn còn là vùng nước thải, dân cư thưa thớt, Viên Thế Khải cho tiến hành đào hồ tạo công viên khởi công xây dựng nhà ga. Tới thập niên năm mươi, quanh đó có ít cư dân. Nhà ga phía bắc là cái ga tàu hỏa. Để thuận tiện cho việc vận chuyển hàng hóa, đường cái trước mặt nhà ga được mở rộng thênh thang, trải nhựa đường. Trước năm 1949, những gia đình ở khu vực nhà ga phía bắc, phần lớn là người nghèo sống nhờ vào ngành đường sắt. Người có sức khỏe bốc vác hàng lên tàu, trẻ con và đám đàn bà con dọc theo đường sắt nhặt than xỉ rơi từ đầu xe lửa xuống, còn cách kiếm cơm nữa là bốc dỡ kho hàng. Nếu như có thể làm công nhân đường sắt, cả nhà già trẻ quanh năm suốt tháng được ăn ngũ cốc, coi như có nghề nghiệp ổn định. Thời bấy giờ, khắp nơi kết bè kéo cánh, lập đảng tạo phái, người nằm trong tổ chức đừng có mong mon men lại gần. Cho dù chỉ nhặt than rơi đường tàu, quen biết ai đừng hòng mà chen chân vào được. Tình trạng tẩy chay người ngoài rất nghiêm trọng, phát sinh vô số lần tranh giành. Kể từ lúc thành lập đất nước năm 1949 cho tới bấy giờ, nhà ga phía bắc đồng thời đóng vai trò là nhà ga vận chuyển khách lẫn vận chuyển hàng hóa, chỉ có những đoàn tàu chở khách ngược xuôi nam bắc, mà hàng ngày còn có những đoàn tàu vận chuyển hàng hóa ra vào. Trước cửa nhà ga đông nghịt người, giao thông nhộn nhịp. Câu chuyện của chúng ta đến mùa hè năm 1958. Vào giữa mùa hè, nắng nóng khô hạn. Ban ngày vừa oi bức vừa nóng, hầm hập như trong cái nồi hơi. Cái hồ trong Ninh viên cũng cạn nước, chẳng còn mấy người chèo thuyền du ngoạn. Sau khi trời tối, cái nóng dịu chút. Những người ở quanh đó ai mà chẳng muốn tìm chỗ mát mẻ, thế là người lớn lẫn trẻ con đổ xô ra vỉa hè hóng mát, vừa mát mẻ vừa tiết kiệm điện. Nhưng chẳng có ai dại gì tới ngõ hẻm kho lương cả, có chăng chỉ là những kẻ mù lòa. Bốn Ngôi nhà cổ nào mà chẳng từng có người chết, nhưng nguyên nhân chết của người đó phải là đột tử mới được gọi là nhà bị ma ám. Lúc mới giải phóng, cơ quan công an phá án và bắt giam hung thủ của vụ án ăn cướp bằng búa thợ mộc, trong nhà của kẻ cướp nguy hiểm Bạch Tứ Hổ tìm thấy cái xác phụ nữ. Kể từ ngày hôm đó, câu chuyện về ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương lan truyền ra với tốc độ chóng mặt. Nhưng hộ gia đình quanh đó trước kia biết sao, nhưng sau khi phát ra cái xác đó, họ càng nghĩ càng thấy sợ. Nhà nào có khả năng dọn được chần chừ lấy giây. Cộng thêm việc Ninh viên được mở rộng, người ta lại phá dỡ thêm bộ phận nhà dân. Bởi vậy, đến năm 1958, trong ngõ hẻm này chẳng còn lại mấy hộ gia đình sinh sống. Ngôi nhà hai gian của Bạch Tứ Hổ là ngôi nhà mang số bảy mươi hai ngõ hẻm kho lương, nhìn về hướng tây, ngay sau lưng là cái hồ của công viên Bắc Ninh. Vào thập niên năm mươi sáu mươi, cái hồ trong Ninh viên rộng lớn như nay, trong công viên cũng chưa có ngọn tháp trắng. Cứ đến đêm là công viên tối om om, tương đối hoang vắng. Đại Ô Đậu từng nghe người ta đến ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương từ lâu. Sau khi xử bắn Bạch Tứ Hổ, hai gian phòng đó bị dán giấy niêm phong, nhiều năm rồi mà vẫn có người ở. Bởi dãi nắng dầm mưa, giấy niêm phong tróc ra từng mảng từ bao giờ. Tìm đến nơi là lẻn được vào trong nhà mà chẳng tốn mấy sức lực. Trong nhà, ngoài bốn bức vách chẳng còn cái gì, có đèn chiếu sáng. ăn trộm, làm sao dám đốt đèn. Nhờ ánh trăng lọt qua cửa sổ mất cánh, lờ mờ nhìn thấy mọi vật. Trong nhà, ngoại trừ tiếng tim đập thình thịch của chính có tiếng động nào. Trước khi vào trong nhà, đầu óc hoàn toàn bị ý nghĩ chiếm đoạt bảo vật phát tài chiếm cứ, nhưng đến khi vào trong đóng cửa phòng lại, chỉ có mình trong bóng tối, lông tóc toàn thân bất chợt dựng đứng. bèn ư ử ngâm nga đoạn dân ca để tăng thêm lòng dũng cảm để tiếp tục trộm cắp: "Uống no gió đông tây nam bắc, đói đến mức ăn sạch cả rễ cỏ; phiêu bạt ngang qua ngôi mộ, gặp quả phụ vừa mắt ; lôi lôi kéo kéo về đến nhà, quả phụ đưa cho hai cái bánh nướng, ăn xong bánh nướng đứng ngây cả người. . ." Vụ án Bạch Tứ Hổ hung hãn dùng búa thợ mộc ăn cướp năm ấy được bàn tán khắp đầu đường cuối ngõ. Mọi người kể rành rẽ Bạch Tứ Hổ mang cái xác về nhà coi như vợ, hàng ngày trốn biệt trong phòng tâm với người chết ra sao; Sợ láng giềng láng giềng phát ra mùi thối, còng cõng từng túi muối về nhà để ướp xác như thế nào. Bởi thế cho nên ngõ hẻm kho lương đặc biệt có nhiều dơi. Khi ấy, người ta cho rằng chuột ăn nhiều muối ăn là có thể biến thành dơi, toàn bộ dơi trong ngõ hẻm đều là chuột nhà Bạch Tứ Hổ biến hình, bởi vì trong nhà muối chất đầy đến nóc. Quả thực là nghe cứ như chuyện vậy! Người nào người nấy cứ như mình tận mắt nhìn thấy. Nhưng những câu truyện đồn thổi ngoài đường chỉ thoảng qua như làn gió. Bản án bị phá năm 1945, đến năm 1958 chẳng còn mấy người nhắc đến nữa. Nghe Quách sư phụ và Đinh Mão chuyện trong ngôi nhà bị ma ám có chôn dấu bảo vật, Đại Ô Đậu nảy sinh lòng tham. ngâm nga vài câu để tăng thêm lòng dũng cảm, cắn răng kiên trì lục lọi khắp nơi trong nhà với tâm lý cầu may, hòng kiếm cho bằng được tiền của phi nghĩa. Vào thời xã hội cũ, Thiên Tân vệ có tác phong rất lệch lạc. Rất nhiều người ham ăn biếng làm, trong đầu lúc nào cũng chỉ quan tâm đến từ 'quậy', bản thân có lý tưởng gì đành, thế còn coi thường những người trung thực dốc sức làm việc, coi việc đầu cơ trục lợi như loại bản lĩnh. Đại Ô Đậu cũng nằm ngoại lệ. Sau giải phóng, vẫn theo tác phong lệch lạc của thời trước, chịu ép vào mình vào khuôn khổ, vẫn cố tình đến ngôi nhà bị ma ám cướp đoạt bảo vật. Ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương này, ban đầu là do lão chưởng quầy của tiệm quan tài nhà họ Bạch nhặt gạch xây dựng lên vào cuối thời nhà Thanh. Nghe , trong nhà cất giấu vật gì đó. Thời xưa, những gia đình giàu có thường làm thế này, có tiền chịu gửi trong các ngân hiệu*, lúc nào yên tâm, mà thường thường bí mật đào hố trong nhà để chôn dấu vàng bạc hoặc vài đồ quý giá, phòng khi sau này có việc cần dùng gấp. Cuộc đời ngắn ngủi, thời gian thấm thoắt như thoi đưa, những ngôi nhà chôn dấu bảo vật đương nhiên qua vài lần đổi chủ. Kết quả, có lần nào đó, người có phúc duyên vô tình đào được bảo tàng phát tài, tượng giàu có chỉ sau đêm như thế xảy ra ít. Đại Ô Đậu lúc nào cũng mơ mộng hão huyền mình có lần được như vậy. Hy vọng của nửa phần đời còn lại của hoàn toàn ký thác vào ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương. Giờ phút đó, chữ 'tham' choán hết tâm trí, chữ 'sợ' bị ném lên tận chín tầng mây. * loại hình thái sơ khai của ngân hàng rón ra rón rén, sờ lần theo vách tường lục soát lượt, còn cẩn thận tỉ mẩn hơn cả lúc bả hồ quét sơn lót. Hai gian phòng được xây hoàn toàn bằng gạch xây thành, mặt ngoài trát vữa. Có vài chỗ, vách tường tróc hẳn ra, vừa sờ tay vào cảm nhận được lớp gạch cổ lạnh như băng ở bên trong. Gõ tay vào là biết ngay bức tường có khoảng trống bí mật ở bên giữa. hết sờ lần toàn bộ bốn vách tường, lại lần tìm mặt đất. Nền nhà được lát gạch theo kiểu Hải Mãn, có nhiều chỗ lung lay. Dưới lớp gạch là nền đất, chẳng có gì khác ngoài gạch vụn lẫn bùn đất. Mướt mồ hôi phen, đến bát vỡ cũng tìm thấy lấy cái, dựa lưng vào tường, mệt nhọc phù phù thở hổn hển. Vừa mới định há miệng chửi đổng để cho hả giận, chợt nghe thấy đỉnh đầu vang lên tiếng "Lộp bộp". Ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương được xây cùng kiểu với đại đa số những ngôi nhà cổ khác, bốn bức tường gạch, mái có rầm nóc, diện tích lớn, có xà trụ, nóc nhà lợp ngói, cùng là tấm lợp che mưa. Nhưng nếu đứng nhìn từ bên dưới lên, người ta nhìn thấy xà nhà, bởi vì những căn nhà được xây vào thời kỳ trước bắt buộc phải dán trần, nếu dán ở yên lành. Bốn vách tường quét vôi trắng, theo quan niệm 'Tứ bạch lạc địa' của các cụ, còn bắt buộc phải dán trần nhà bằng loại giấy dày để phòng ngừa tro bụi rơi xuống. Chẳng tới nửa năm, lớp giấy dán trần nhà bị ẩm mốc ố vàng, đến lúc đó lại dán đè lên lớp khác. Ngôi nhà của dân chúng bình thường nào cũng được trang trí theo cách này. Nhờ ánh trăng, Đại Ô Đậu ngẩng đầu lên quan sát, nghe tiếng động có vẻ giống như chuột chạy mái nhà. Khi ấy, chuột rất nhiều. Chúng thường chạy tới chạy lui xà nhà, thỉnh thoảng may rơi xuống lớp giấy dán trần, mỗi lần như vậy phát ra tiếng động "Lộp bộp". Ngã chết, chúng lại vật lộn trở mình chạy tiếp. Mỗi khi đêm khuya thanh vắng, trong những ngôi nhà cấp bốn thường xuyên nghe thấy tiếng động như thế này. Đôi khi còn có hai con chuột đánh nhau, ngã lăn lộn trần nhà như muốn trêu ngươi, quấy phá đến mức con người ta sao ngủ yên được. Thậm chí có cả những con chuột to đùng, hành động chậm chạp nặng nề, ngã xuống làm thủ cả lớp giấy dán trần, rơi tọt vào nồi canh đun sôi bếp. Việc này xảy ra thường xuyên ai còn thấy lạ. Người nấu ăn nhìn thấy còn tốt, cùng lắm đổ ăn nữa. Nếu trông thấy, vậy cả nhà được thưởng thức món canh chuột rồi. Trước kia, rất hiếm khi con người bị đám chuột quấy phá. Nghe thấy tiếng chuột náo loạn nóc nhà, Đại Ô Đậu thèm để tới. Nhưng đột nhiên ngẩn người ra lúc. chợt có ý nghĩ, chẳng lẽ đồ vật được giấu trong ngôi nhà bị ma ám ở ngõ hẻm kho lương lại ở nóc nhà?