Ba Ba em giật mình đánh thót, đánh bạo giơ đèn lên trước để chiếu sáng. Họ nhìn thấy ràng, cái đầu người đầm đìa máu vừa mới bị chặt xuống khỏi cổ, lăn lông lốc từ cầu thang xuống hầm mộ. Gương mặt của cái đầu người đó co giật hai cái, đôi mắt trợn lên rồi bất động. Trong lòng thừa hiểu, nhất định có kẻ vừa mới gây án tầng, ba người lập tức rút búa cán gỗ đàn ra, lao vọt lên cầu thang để chạy tới phòng khách. Ba người nhìn thấy thi thể đầu nằm mặt đất, bên cạnh có người ngồi, sắc mặt như tro tàn, còn có người phụ nữ nữa, ả ta chạy nhanh như làn khói đen, vèo cái lao vào trong góc tối tránh ánh đèn chiếu vào người. Đinh Mão nhanh tay lẹ mắt, vội đuổi theo nhưng lại chẳng thấy cái gì, giống y như gặp quỷ. Ba người quay đầu lại, nhìn kỹ kẻ ngồi dưới đất. Hóa ra chẳng phải ai đâu xa lạ, đó là gã thủy tặc Ngư Tứ Nhi vớt được xác đứa trẻ ở ngã ba sông. Trong lòng ba người đều thấy khó hiểu, cái tên trộm khó ưa này tại sao lại chạy đến nghĩa trang nhà họ Ngụy? Kẻ bị chặt đầu kia là ai? Quách sư phụ : "Ngư Tứ Nhi, mày thả lưới mắt đủ lắm rồi, bây giờ lại khơi khơi dám ra tay sát hại người khác, riêng việc này đủ cho quan tòa phán mày tội chết." Đinh Mão tiếp: "Khá lắm, thằng trộm khó ưa thả lưới mắt . Hàng năm dòng Hải Hà có nhiều người chết đuối như vậy, tại sao lại đến lượt mày chết đuối vậy, tao ngày nào cũng chờ vớt xác cho mày đấy." Lý Đại Lăng cũng biết Ngư Tứ Nhi, mắng: "Đồ vô lại đến mồ mả cũng tha, đồ thiếu đạo đức máu lạnh này, đến chỗ này ăn trộm được cái gì rồi?" Ngư Tứ Nhi sợ tới mức hồn vía lên mây, vừa nhìn thấy ba người, lập tức tỏ vẻ ăn năn cầu xin cầu xin tha thứ: "Ba vị đại gia, ba vị đại gia, cả ba vị còn lạ gì bản thân tôi, dù cho thêm hai lá gan nữa tôi cũng dám giết người đâu. Mọi người có nhìn thấy tôi sợ đến mức đái ra quần. . ." Trong lòng Quách sư phụ thừa hiểu Ngư Tứ Nhi tuyệt đối có gan giết người, bèn hỏi mọi việc cho ràng rồi mới đánh giá sau. Ông ta hỏi gã vì sao lại chạy đến nghĩa trang nhà họ Ngụy, người bị chặt mất đầu là ai, kẻ nào ra tay. Quách sư phụ vừa hỏi vừa dọa Ngư Tứ Nhi, nếu bảo Đinh Mão dùng búa chém chết gã. Ngư Tứ Nhi dám giấu diếm, hai năm mười mà khai báo. ra từ lúc thả lưới mắt dưới chân cầu cũ vớt được xác đứa bé, gã sợ tới mức dám bén mảng tới bờ sông nữa, trộm gà trộm chó khắp nơi sống qua ngày, sau đó kết bái em với gã du côn có biệt danh là 'Gà con'. Có câu cửa miệng: "Người có ngay có gian, gỗ có tốt có xấu", hai gã lưu manh này có chút phẩm chất gì là tốt đẹp, chuyên rình mò người khác hở ra cái gì là trộm cắp, bao giờ làm được việc gì tốt. Thiên Tân vệ gọi trứng gà là 'gà con', nhưng xét lại cho kỹ, đầu của cái tên du côn Gà con này bóng loáng, còn hơn cả trứng gà. Tên này hành xử ngang ngược, ngạo mạn coi ai ra cái gì, ăn mặc lố lăng, hai tay xăm trổ, ăn cơm bao giờ trả tiền. Nếu có ai dám tìm đòi tiền, kẻ này bẻ gãy ngón tay của người đó. Tuy nhiên chỉ là hạng mềm nắn rắn buông, hạng người chân chính lợi hại, kẻ này bao giờ dám trêu vào. Hai ngày trước, Gà con và Ngư Tứ Nhi dạo đường nhác thấy người đẩy cái xe bánh bán kẹo bọc đường. Người bán là người ngoại tỉnh hiền lành, có vẻ như mới vào thành lâu. nháy mắt Ngư Tứ Nhi, Ngư Tứ Nhi vội hấp tấp tách ra ngồi phệt xuống bên vệ đường, giả vờ làm người rỗi việc ngồi chơi. Gà con vừa vuốt cái đầu trọc của mình, vừa tiến lại gần cái xe bán kẹo bọc đường, hề câu mà chỉ nhìn chằm chằm vào người bán kẹo. Người bán kẹo nhận ra kẻ này là người dễ chọc, lại nghênh ngang, đầu cạo bóng loáng, đầu dán hai miếng cao, đầu nghiêng bên nọ ngả bên kia, mắt liếc ngang liếc dọc, huyệt Thái Dương gồ lên, quai hàm bạnh ra, toàn thân đầy xăm trổ, thấy ngay là du côn, vội vàng trưng ra gương mặt tươi cười hỏi: "Ngài có muốn ăn kẹo bọc đường ?" Gà con giống như mèo bị dẫm phải đuôi, hung tợn quát ầm lên: "Mày hỏi ngu bỏ con mẹ, ăn kẹo bọc đường đến đây ngó hay sao?" Người bán bánh dám đắc tội , vội : "Chỗ này có kẹo bọc đường, bánh gạo nếp nhân đậu, bánh táo rắc hạt kê vàng, ngài muốn ăn loại nào? Cần bao nhiêu cái?" Gà con thèm hỏi giá mà chỉ hỏi loại kẹo bọc đường nào dẻo. Nghe người bán trả lời gạo nếp là là gạo dẻo, nên loại kẹo này là dẻo nhất, há miệng đòi mua hai cân. Bán hàng rong phải trung thực, thể nào gian dối cân lạng, nếu bán được cho ai, mà cho dù gian dối cân lạng cũng dám gian dối cái hạng trọc đầu này, kẻ này ràng là đến kiếm chuyện. Người bán kẹo bọc đường cẩn thận ứng phó, cắt ra miếng bánh gạo nếp nhân đậu to, vừa mới hấp chín, vẫn còn nóng hôi hổi, cân lên hai cân ba tươi nhưng chỉ tính hai cân, sau đó lấy lá sen bọc lại kỹ lưỡng rồi mới cẩn thận từng li từng tí đưa cho Gà con . Gà con cầm lấy, trả tiền, mà cũng đâu có ý định trả tiền, tay cầm gói bánh, tay bóc lá sen, cau mày : "Tao bảo này, cái bánh này thiếu nguyên liệu rồi, mày cứ tự nhìn mà xem, tại sao lại chỉ có gạo nếp mà có nhân đậu? Thế này mà mày còn biết xấu hổ đòi tiền?" Người bán bánh kẹo oán thầm, chạy từ bên xe bên kia sang, thanh minh: "Ngài nhìn lại , nhân đậu đâu có ít đâu. . ." ta còn chưa dứt lời, Gà con úp cả cái bánh gạo nhân đậu nặng hơn hai cân còn nóng hôi hổi vào mặt người bán kẹo, tiện đà giật luôn cái cân trong tay ta. Người bán kẹo nhịn nổi nữa, ăn chùa trả tiền còn đánh người. Những người kiếm sống ngoài đời có kẻ nào là dễ bắt nạt. ta vuốt bánh mặt, xông lên định liều mạng. Gà con giật được cái cân là quay đầu bỏ chạy, người bán kẹo đuổi riết phía sau. Vẫn bàng quan ngồi nhìn, Ngư Tứ Nhi thấy người bán bánh chạy xa, bèn đứng dậy đẩy chiếc xe chạy mạch vào trong ngõ . Người bán kẹo đuổi kịp, đến khi trở về thấy cả xe bánh lẫn hộp tiền đều còn bóng dáng. Thường thường, hai thằng bại hoại Ngư Tứ Nhi và Gà con đều dùng phương thức bẩn thỉu này để trộm cướp. Ngày hôm đó cướp xe bánh bỏ chạy, đợi lúc hội họp lại, được bao nhiêu tiền, hai thằng chia nhau. Hôm ấy, chẳng hiểu do ma xui quỷ khiến thế nào, Ngư Tứ Nhi hoảng hốt chạy bừa, dốc sức đẩy chiếc xe chạy mạch đến cuối ngõ cụt, thẳng tay vứt nó lại, lấy sạch tiền trong hộp nhét vào trong ngực áo. Nhưng bán kẹo bọc đường có được mấy hào chứ, chỉ là nắm vài đồng tiền xu trinh. Ngư Tứ Nhi cam lòng, khi lộn trở ra nhìn thấy dãy phòng mặt tiền trong ngõ hẻm, trong số đó có căn phòng khóa cửa nhưng cửa sổ tầng cùng lại đóng chặt. Y là kẻ cắp chuyên nghiệp, chỉ cần nhìn cái là biết có thể lọt vào. Thừa dịp có người, y cạy cửa sổ tầng rồi lẻn vào. Còn chưa kịp ra tay, y chợt nghe bên ngoài phòng vang lên tiếng mở khóa, ràng là chủ nhà về nhà. Ngư Tứ Nhi thầm rủa may. Nhưng gan ăn trộm của y , cũng có chút lanh trí của kẻ trộm cắp, y thừa hiểu nếu để cho người ta bắt tại trận ít nhất bị dần cho mềm xương, khéo còn phải vào nhà lao ngồi chơi. Trong đầu lóe ra cách, y lách mình trốn vào trong tủ quần áo, lén lút quan sát tình hình bên ngoài, chỉ chực có cơ hội thuận lợi là chuồn . Nhưng y tuyệt đối thể tưởng tượng được, cảnh tượng mà y nhìn thấy sau khi trời tối thiếu chút nữa làm bản thân chết khiếp vì sợ. Bốn Những người ở trong căn phòng đó là cặp vợ chồng son, kết hôn chưa được năm. Người chồng buôn bán ở nước ngoài, để lại vợ mang bầu ở nhà mình, bởi yên tâm nên thuê người vú già về chăm sóc. Mùa hè tiết trời nóng bức, cửa sổ tầng cùng đóng kỹ. Ngày hôm ấy, vợ cùng người vú già ra ngoài dạo chợ, mua xong đồ ăn là trở về, đâu có nghĩ đến chỉ trong chốc lát ấy có người lẻn vào nhà. Người được thuê đến chăm sóc vợ tên là Vương tẩu, chạy nạn từ Sơn Đông đến, tính cách đáng tin cậy, được giao cho quán xuyến những công việc mua thức ăn nấu cơm, buổi tối ngủ ở gian ngoài, đồng thời làm bạn với vợ luôn. Hai người về đến nhà, nấu cơm lên ăn xong, vợ mang thai tháng thứ bảy thứ tám, bụng nhô cao, thân thể trở nên nặng nề, chịu được ngồi lâu, ăn xong tắm rửa lên giường nằm. Vương tẩu kéo cái ghế lại ngồi ở bên cạnh giường, bàn có khay đồ đan, bà ta vừa buôn chuyện giải buồn cho vợ vừa luôn tay thêu thùa may vá. Ngư Tứ Nhi suy tính đợi đến khi Vương tẩu và vợ đều lên giường ngủ, y rón rén chuồn . Nhưng có ngờ đâu được, hai người này buôn chuyện tào lao cho đến lúc trời tối đen mà vẫn còn chưa chịu ngủ, khiến cho y cực kỳ sốt ruột. Trốn trong tủ quần áo lén lút canh chừng bên ngoài, hai chân đều cứng đờ lại rồi, khó chịu sao tả xiết, trong lòng hối hận khỏi phải bàn, hối hận vì nổi lên ý nghĩ gian tà, nếu đến mức bị người ta cầm chân trong phòng ra được. Hai người phụ nữ chủ nhà và giúp việc này, thực ra y quan tâm, mà chỉ sợ may lộ ra, kinh động đến hàng xóm láng giềng. Y trốn trong tủ quần áo dám thở mạnh đến cái, chỉ mong chờ hai người phụ nữ này mau chóng ngủ, chả hiểu lấy đâu ra lắm chuyện mà buôn đến thế? chuyện đến tầm giữa canh hai và canh ba, vợ mệt mỏi, lúc ấy mới nằm xuống ngủ. Vương tẩu vẫn ngồi dưới đèn, cố thêu nốt món đồ làm dở. Ở ngay cửa phòng đặt cái chăn trải sàn, bởi vì phụ nữ có thai hành động tiện, buổi tối tiểu đêm hoặc có chuyện gì, ta có thể thức dậy bất cứ lúc nào, có sẵn chăn đệm ở đó nằm ngủ luôn. Ngư Tứ Nhi thừa hiểu lúc ấy vẫn chưa thể ra, bởi vì hai người vừa mới nằm xuống, còn chưa ngủ say, đành phải đau khổ chịu đựng. Lại đợi thêm lúc lâu nữa, nhận thấy Vương tẩu và vợ đều ngủ sâu rồi, y nắn bóp hai cái đùi tê cứng, vừa mới định đẩy cửa tủ quần áo ra ngoài chợt nghe thấy cửa sổ gian ngoài chợt rít lên tiếng két rất . Ngư Tứ Nhi làm nghề gì chứ, y là kẻ chuyên môn lẻn vào nhà người khác trộm cắp. Y nhận thấy tiếng động đó khác thường, giống như có trộm thử thăm dò đẩy cánh cửa sổ đó từ bên ngoài, nhưng sợ đánh thức người ngủ trong phòng nên dám mạnh tay, chỉ từ từ nhàng mà đẩy cánh cửa sổ. Ngư Tứ Nhi thầm than khổ, tự nhủ may, đen đủi đến thế là cùng, biết là kẻ trộm từ đâu nhảy ra nữa? Buổi chiều về đến nhà, lúc nấu cơm Vương tẩu phát ra cửa sổ vẫn chưa đóng kín, sợ có trộm lẻn vào nên vội vã chốt chặt lại rồi. Ngư Tứ Nhi tận mắt nhìn thấy quá trình đó, đến lúc ấy nghe thấy tên trộm ngoài cửa sổ đẩy vài cái. Thấy đẩy ra được, kẻ đó lập tức lật mái nhà lên, động tác nhàng đến mức thần kỳ, Ngư Tứ Nhi phải căng tai lên mới nghe thấy được, còn hai người ngủ trong phòng phát giác ra bất cứ điều gì. Chỉ chốc sau, bóng đen nhảy từ nóc nhà xuống, rơi xuống mặt sàn nhàng như chiếc lá cây, phát ra tiếng động nào. Ngư Tứ Nhi thầm nhủ trong lòng: "Khinh công tốt con mẹ nó ! Từ khi xử bắn Hoạt Ly Miêu, chưa từng nghe Thiên Tân vệ còn có phi tặc lợi hại như thế, kẻ này ở đâu đến đây vậy?" Y nín thở, trợn trừng mắt quan sát bên ngoài tủ quần áo, nhưng đèn trong phòng tắt, chỉ có thể nhìn thấy bóng hình đen thui, thể hình rất lớn, hai đầu vai nhô cao, hai cánh tay rất dài còn những chi tiết khác đều nhìn . Bóng đen đó rón ra rón rén đến cạnh giường, nhìn chằm chằm vào người vợ nằm ngủ. Ngư Tứ Nhi cứ tưởng đó là tên hái hoa dâm tặc. Lúc bấy giờ, trăng chợt ló ra khỏi mây, ánh trăng xuyên qua lỗ thủng nóc nhà giúp y nhìn thấy trong phòng có người, toàn thân bao bọc kín mít, đầu đội cái khăn trùm đầu. Khi kẻ đó xoay người lại, lộ ra gương mặt khỉ giống hệt như Thiên Lôi, đôi mắt rực sáng vẻ ma quái, khiến cho Ngư Tứ Nhi sợ đến mức mặt vàng như đất, bịt kín miệng của mình, cố gắng nhịn lại tiếng thét kinh hãi sắp ra khỏi miệng. ràng đó là con khỉ ngựa khổng lồ toàn thân lông lá, ăn mặc giống hệt như người phụ nữ. Hành tích của nó ma quái, nửa đêm đột nhập vào nhà người ta bằng đường nóc nhà, cởi quần rướn mông phụt ra làn khói xanh. Ngư Tứ Nhi trốn ở trong tủ quần áo, đù bịt kín miệng mũi những vẫn ngửi thấy mùi tanh tưởi, nồng nặc đến mức váng đầu mắt tối sầm, thiếu chút là hôn mê. Còn hai người ngủ trong phòng đều bị bất tỉnh vì ngạt thở, dù sét đánh bên tai cũng thể tỉnh lại. Con khỉ ngựa khổng lồ thong dong điềm tĩnh kéo quần lên, lén lén lút lút đến bên cạnh giường, vươn bàn tay lông lá ra moi móc ở giữa hai chân của người phụ nữ mang thai. Năm Ngư Tứ Nhi quả thực thể tin được vào mắt của mình nữa, đánh chết y cũng đoán ra được con khỉ ngựa này định làm gì, ở chỗ đó có thể moi móc ra cái gì chứ, đào cái con b cũng có á? Lúc bấy giờ y thấy con khỉ ngựa lôi từ giữa hai chân vợ ra thai nhi đầm đìa máu. đến tháng thứ tám chín, thai nhi thành hình rồi. Khi bị moi ra, hai cái chân xíu vẫn còn động đậy. Con khỉ ngựa giơ cái thai nhi lên cọ cọ lại lên mặt, giống như moi ra được bảo bối vậy, thích đến mức quên hết cả xung quanh. Sau khi chơi đùa lúc, nó bắt đầu há miệng mút thỏa thích, thích chí còn hơn cả mút kem, phát ra tiếng "chùn chụt" liên hồi. Chỉ lát sau, cái thai nhi khô quắt thịt da, còn nhúc nhích nữa. Nó nhét cái xác thai nhi vào trong lồng ngực, phóng lên mái nhà, lẩn vào bóng đêm tối mò. Trong phòng giống như chưa từng có chuyện gì phát sinh, Vương tẩu vẫn cứ ngủ mê mệt tỉnh, còn vợ trong lúc hay biết gì biến thành cái xác. Ngư Tứ Nhi kinh sợ. Nếu phải gã ăn trộm thành, trốn ở trong tủ quần áo ra ngoài được, nhờ vào ánh trăng nhìn thấy ràng, nào ai biết được vợ này chết như thế nào, con khỉ ngựa kia rốt cục là quái ở đâu? Y cũng định báo quan, nhưng việc hoang đường như vậy nhất định có ai tin tưởng. Huống hồ y vào nhà người ta ăn trộm, nhà này lại xảy ra án mạng, liệu cơ quan điều tra có bắt y gánh tội thay hay ? Phạm tội liên quan đến tính mạng con người tránh khỏi bị áp giải ra pháp trường Tiểu Lưu trang ăn kẹo đồng, chết thành quỷ oan khuất. Ngư Tứ Nhi dám ở lại trong phòng nữa, lặng lẽ tiếng động chuồn ra ngoài, chạy mạch về nhà. Đến ngày hôm sau, khi gặp Gà con, hai người ăn chia tiền bạc sòng phẳng xong, Ngư Tứ Nhi kể lại câu chuyện mình nhìn thấy vào đêm qua, cứ tưởng rằng Gà con tin, ai ngờ cũng từng nhìn thấy con khỉ ngựa kia. Gà con kể lại cho Ngư Tứ Nhi, trước đó thời gian ngắn, được xem màn ảo thuật với bản lĩnh siêu phàm ở chợ buôn bán lừa ngựa, có khả năng giữa ban ngày ban mặt ngay trước mặt mọi người diễn được màn ảo thuật "Vạn người biến thành quỷ". Cửu Hà Hạ Sáo là đầu mối thuỷ bộ, thương nhân tập trung, tụ tập đủ mọi hạng người, ảo thuật diễn xiếc mãi võ vô số kể, chẳng có cái gì mà dân chúng chưa từng xem qua. Lấy màn ảo thuật "Vạn người biến thành quỷ" này ra làm ví dụ, thông thường là diễn vào lúc nửa đêm có ánh trăng, những người hiếu kỳ đứng xem quây lại thành vòng tròn, màn ảo thuật diễn ở chính giữa. Trước khi diễn, người diễn xiếc mào đầu đoạn, ví dụ như: "Ở nhà dựa vào cha mẹ ra ngoài nhờ vả bằng hữu, tới vùng đất trù phú này định thể tài vặt trước mặt liệt vị, có tiền lập sân khấu, tiền đành phiền chư vị đứng xem tôi biểu diễn màn xiếc tổ truyền", sau đó châm cây nến. Ánh nến vừa chiếu ra, gương mặt tất cả mọi người đều tái . Trong lúc nhất thời, bầu khí trở nên vô cùng u khiến cho người xem phải sợ hãi. Màn ảo thuật nổi danh này có tên là "Vạn người biến thành quỷ" . Màn ảo thuật cổ xưa này còn được gọi là thuật ảo giác, tất cả đều là giả, nhưng mọi người thể nhìn ra chỗ giả trong đó, nếu làm gì còn nổi tiếng đến thế. Dân bản xứ xem những màn biễu diễn như thế này rất nhiều lần, ngay cả trẻ con cũng biết đến màn ảo thuật với ngọn nến nổi danh này. Người ta sử dụng ngọn nến có tính chất đặc biệt, khi đốt lên chẳng khác gì ma trơi, đừng chiếu vào mặt người, ngay cả chiếu vào cục gạch cũng chỉ là màu xám ngắt. Nhưng nghe màn ảo thuật "Vạn người biến thành quỷ" này thất truyền cả mấy trăm năm, cách diễn của những người làm xiếc rong giờ hoàn toàn khác xưa, cách diễn xưa còn ai nhìn thấy nữa rồi. Gà con tình cờ gặp biểu diễn ảo thuật ở chợ buôn bán lừa ngựa. Chợ buôn bán lừa ngựa là khu đất trống cách vùng trũng ở phía nam xa. Mùng chín hàng tháng, nơi này lại tổ chức phiên chợ buôn bán các loại gia súc như la ngựa. Lần đó, ăn trộm được con lừa, lôi đến chợ buôn bán lừa ngựa, khi thu tiền xong nhìn thấy có ảo thuật bèn hiếu kỳ xem. Chỉ mất có mấy đồng bạc lẻ ai ngờ lại được xem màn ảo thuật với thủ đoạn cao siêu như vậy. Giữa ban ngày ban mặt, lại trong tầm mắt của cả đám đông đứng xung quanh xem, nhưng thân hình ảo thuật gia vẫn biến mất rước chứng kiến của tất cả. ai nhìn ra người đó biến mất bằng cách nào. Có người hiểu biết bảo, đây mới là màn ảo thuật cổ xưa "Vạn người biến thành quỷ" thất truyền nhiều năm . Biểu diễn xong màn "Vạn người biến thành quỷ", ảo thuật gia chắp tay thi lễ xung quanh rồi cầm cái cái chiêng đồng xin tiền thưởng. Những người đến chợ buôn bán lừa ngựa buôn bán gia súc thiếu những ông chủ bản địa, còn có cả những thương nhân buôn bán gia súc lớn đến từ tỉnh ngoài, tất cả đều là người có tiền. Mọi người chỉ chờ ảo thuật gia bộc lộ tài năng, nếu như màn biểu diễn hấp dẫn họ tiếc tiền ban thưởng. Ảo thuật gia cũng là kẻ tham tiền, lại diễn màn ảo thuật bí hơn nữa tên là "Hái đào trong tranh". Màn ảo thuật cổ "Vạn người biến thành quỷ" ít ra còn có người từng được xem, nhưng với màn "Hái đào trong tranh" đến cái tên cũng cũng chưa từng nghe thấy. Ngày hôm đó, toàn bộ những người vây quanh coi như được mở rộng tầm mắt. Chỉ thấy ảo thuật gia dắt con khỉ ngựa ra, rồi lại lấy ra bức tranh cuộn cổ, mở bức tranh cho mọi người xem. Trong tranh có vẽ cây đào, nó kết trái được quả bàn đào lớn chín mọng, giấy của bức tranh ố vàng. Đến khi mọi người đứng xem nhìn ràng, ảo thuật gia vẫy tay cái, con khỉ ngựa đứng bật dậy, thẳng tới bức tranh. Mọi người hoa mắt cái, trong sân diễn còn bóng dáng của con khỉ ngựa. Mọi người đều tấm tắc cảm thấy kỳ lạ, con khỉ ngựa kia biến đâu? Đến khi nhìn vào bức tranh cổ thấy có thêm con khỉ ngựa ở bên trong. Ảo thuật gia vung bức họa cái, con khỉ ngựa lại xuất ở chỗ cũ, tay cầm quả bàn đào há to miệng gặm từng miếng lớn. Bức tranh vẫn là bức tranh cũ, nhưng quả bàn đào cây trong bức tranh còn thấy đâu nữa. Toàn bộ những người hiếu kỳ đứng xem đều mắt tròn mắt dẹt, rất lâu sau mới hồi phục được tinh thần, cất tiếng khen hay như sấm nổ, thi nhau thưởng tiền. Gà con chen vào trong đám người xem náo nhiệt, nhìn thấy thế thèm rỏ dãi. ngờ diễn ảo thuật lại có thể kiếm được nhiều tiền như vậy, chẳng mấy chốc kiếm được mấy đồng. Tại sao mấy đồng được gọi là nhiều? Vào thời Dân quốc mọi thứ đều rất rẻ, đồng có thể mua được túi bột mỳ tầm bốn năm mươi cân, đủ cho gia đình ăn trong tháng. Gà con nảy sinh ý nghĩ đen tối, định đánh cướp số tiền đó của ảo thuật gia, tốt nhất là còn có thể buộc người này khai ra chân tướng bí mật của mấy màn ảo thuật đó. Nếu học được khả năng này, sau này chẳng phải ngày ngày được nhắm sơn hào hải vị hay sao. Sau khi phiên chợ tan, bám riết theo sau ảo thuật gia. Khi tới trước căn nhà bị ma ám ở ngã tư đường nghĩa trang nhà họ Ngụy, người khỉ ở phía trước đột nhiên biến mất. Gà con từng sống ở khu vực này, thừa biết căn nhà bị ma ám ở ngã tư đường nghĩa trang nhà họ Ngụy có nhiều căn phòng bí mật. Năm xưa, nguyên nhân chủ yếu mà vị hội chủ mua lại căn nhà bị ma ám này là vì bí mật buôn thuốc phiện đen, nhằm dễ dàng tiến hành những giao dịch ngầm thể để lộ ra ngoài ánh sáng trong những căn phòng bí mật. Về sau, nhà năm người chết bất đắc kỳ tử trong nhà, kể từ đó ai còn dám ở nữa, ngôi nhà bị bỏ hoang từ đó đến giờ. Ảo thuật gia chắc chắn là chui qua địa đạo vào trong nhà, nhưng diễn ảo thuật kiếm được ít tiền, tại sao kẻ này lại phải ở trong ngôi nhà bị ma ám?
Sáu Gà con sợ đơn sợ kép, chỉ dám đứng canh ở phía đối diện bên kia đường cái nhìn chằm chằm vào ngôi nhà hoang. Đến đêm, nhìn thấy con khỉ ngựa ra khỏi nhà, mặc quần áo của con người, hành tung lén lén lút lút, vào thành biết để làm cái gì. Mỗi lần ảo thuật gia ra ngoài kiếm tiền đều theo hướng vùng đất trũng phía nam, mà vào thành. Chẳng ai ngờ, Ngư Tứ Nhi lại bất chợt bắt gặp con khỉ ngựa đó. Hai thằng kể lại chuyện của mình xong, cảm thấy tên ảo thuật gia này phải hạng tốt đẹp gì, ngày mai mỗi thằng xách con dao phay, cầm theo đèn bão, chui vào trong nhà tóm lấy tên ảo thuật gia, trấn lột lấy mớ tiền tài, đồng thời còn bắt khai ra chân tướng của màn ảo thuật vạn người biến thành quỷ và hái đào trong tranh ra. Bình thường, Gà con luôn thích chọc ngoáy vào yếu điểm của người khác, cho rằng cái tên ảo thuật gia này có tật giật mình, dám phản kháng lại hai thằng bọn chúng. Còn con khỉ ngựa kia dù có bản lĩnh đến thế nào cũng chỉ là con súc sinh mà thôi. Trước nay Ngư Tứ Nhi cứ dính đến trộm cướp là coi trời bằng vung, giờ lại có tên lưu manh Gà con cầm đầu, đương nhiên là có nửa câu phản đối. Ngày hôm đó, khi chúng ra khỏi nhà, đến giữa đường trời nổi mưa giông. Hai thằng đội mưa chạy vào ngôi nhà bị ma ám, vừa mới vào trong nhìn thấy con khỉ ngựa ngồi chồm hỗm ngay trước mặt, hai mắt nó nhìn chằm chằm vào cái nắp phần mộ mở tung. Thấy có kẻ lạ đột nhập, nó lập tức nổi khùng tấn công. Dao phay còn chưa kịp rút ra, Gà con bị con khỉ ngựa vung tay cắt đứt đầu. Ngư Tứ Nhi sợ mất hồn, ngồi phệt xuống đất, cho rằng hôm nay phải về chầu tổ tiên. ngờ tới, khi cái đầu Gà con lăn xuống hầm mộ, ba người Quách sư phụ nghe được động tĩnh, vội chạy lên . Con khỉ thấy đối phương nhiều người, lập tức trốn mất dạng. Nghe Ngư Tứ Nhi xong, mấy người Quách sư phụ đều kinh sợ. Tên ảo thuật giá tám chín phần mười là Liên Hóa Thanh, bởi kẻ này từng bái người dạy xiếc khỉ làm thầy, đồng thời còn dắt theo con khỉ. trốn ở trong nghĩa trang nhà họ Ngụy dám vào thành. Bên ngoài mưa to gió lớn, đường ngập nước, người khỉ nhất định vẫn còn ở trong căn nhà bị ma ám này, giờ đúng là lúc nên lùng bắt y. Lý Đại Lăng : "Ông có nghe thấy Ngư Tứ Nhi gì , kẻ này biết sử dụng tà sống, chỉ với mấy người chúng ta liệu có đối phó được ?" Quách sư phụ thuật và ảo thuật cũng chẳng có gì khác nhau, cả hai đều là thuật đánh lừa thị giác, còn gọi là thuật gây ảo giác. Nghe lớp người già , vào những năm cuối triều Thanh, Thiên Tân vệ xuất vị tiên , có khả năng triệu vời thần. Bà ta chỉ cần châm ngọn nến, quỷ thần đến tức . Bà ta dẫn theo hai đồng tử, cả hai đều là đàn ông cường tráng. Năm canh tý (1900), quân đồng minh tám nước đến xâm chiếm, vị tiên này tuyên bố thỉnh thiên binh thiên tướng xuống nghênh địch. Bà ta dẫn theo hai tên đồng tử hơn 30 tuổi, cầm kiếm gỗ lên cổng thành làm phép. Thiên binh thiên tướng còn chưa thấy đâu, ba người bọn họ bị đạn pháo của người phương tây bắn tan xác. ra, vị tiên đốt ngọn nến còn được gọi là đèn cầy triệu , chỉ là màn ảo thuật đánh lừa tai mắt thiên hạ mà thôi. Có lẽ "Vạn người biến thành quỷ, hái đào trong tranh, ngũ quỷ chuyển thi" xuất xứ từ thuật Ma Cổ Đạo cũng chẳng khác gì cái này. Đinh Mão hỏi: "Ngũ quỷ chuyển thi là loại pháp gì thế?" Quách sư phụ nghe Ngô Lão Hiển từng , ngũ quỷ chuyển thi là trận pháp của Ma Cổ Đạo để khai quật quan tài, ăn cắp đồ quý. Về phần những trận pháp bàng môn tả đạo, từ thời Thanh mạt cho đến nay dần im hơi lặng tiếng để lại dấu vết. Nhưng vẫn là câu kia, thời buổi này đâu còn như xưa, tại sao lại gọi là "Ngũ quỷ chuyển thi" ? Ngũ quỷ chính là năm xác chết. Tương truyền, trước kia có kẻ trộm mộ khai quật mộ giữa ban ngày, nhưng cho dù dùng hết mọi cách cũng thể mở được nắp quan tài, đó là bởi cương thi trong quan tài muốn trốn kiếp số thiên lôi địa hỏa. Nếu gặp phải tình huống này, có hai biện pháp. là bày trận ngũ quỷ chuyển thi, hai là niệm chú mở quan. Đến giờ còn ai tin tưởng vào những trò lừa thần gạt quỷ này nữa, nhưng vào thời ấy thực có ít người tin tưởng. Lý Đại Lăng an lòng, xốc cổ Ngư Tứ Nhi nhũn như gà con bị cắt tiết theo sau Quách sư phụ. Đinh Mão đóng cửa nhà lại. Bốn người lục soát khắp nơi tìm cửa ngầm, phát ra cái lò sưởi xây ngầm trong tường có vấn đề, bởi nó được xây giống hệt như vách tường. Nếu như trước đó biết trong nhà có đường ngầm, chẳng có ai tìm ra được. Họ đẩy cửa ngầm ra, bên trong tối om. Đúng vào lúc họ ngó vào trong xem xét, con khỉ ngựa đột nhiên nhảy vọt ra, vung bàn tay ma của nó lên, chụp thẳng vào mặt Ngư Tứ Nhi. Ngư Tứ Nhi sợ mất hồn tránh kịp, nửa khuôn mặt bị nó chém phăng. Y hét thảm tiếng đổ sập xuống đất, hai chân co giật mấy cái, ràng là sống nổi. Mấy người Quách sư phụ giật mình kinh hoảng, chỉ trong thời gian ngắn như vậy có hai kẻ mất mạng, vội vàng lôi cây búa cán gỗ đàn ra, nhè vào đầu con khỉ ngựa mà chém. Con khỉ ngựa vô cùng nhanh nhẹn, nó cúi phắt người vểnh đít lên né tránh búa. Nó nhanh nhưng Đinh Mão còn nhanh hơn, gã vung chân đá phát vào mông con khỉ. Con khỉ ngựa rú lên tiếng quái dị, miệng phun ra bọt máu. Lý Đại Lăng thừa cơ tiến lên, bổ nhát búa vào đầu con khỉ, cho nó cơ hội trở mình, tiếp theo lại bổ thêm vài nhát, nhát nào cũng dốc hết sức bình sanh. Tuy con khỉ ngựa gian trá có linh tính, nhưng dù sao cũng chỉ là thân thể máu thịt. Sau khi bị bổ mấy nhát búa, nó biến thành đống máu thịt bầy nhầy, óc vỡ toang, mất mạng ngay tại chỗ. Đinh Mão đạp vào xác con khỉ cái, chửi: "Hôm nay xem như mày gặp báo ứng." Lý Đại Lăng kêu ầm lên: "Đừng để Liên Hóa Thanh chạy, vào bắt người trước !" Gã cứ tưởng con khỉ ngựa rất khó đối phó, nhưng xem ra cũng chịu nổi búa chém, vậy còn gì đáng phải sợ nữa. Lúc bấy giờ, gã cầm theo cây đèn thủy nguyệt, miệng chửi mắng thậm tệ, lôi cả mười tám đời tổ tông Liên Hóa Thanh ra mà rủa, tiếng chửi tục tĩu vang vọng khắp đường hầm trong ngôi nhà ma. Quách sư phụ sợ gã có sơ xuất, dám nghĩ ngợi gì nữa, vội nhặt cây đèn bão của Ngư Tứ Nhi lên rồi lôi Đinh Mão chạy theo sau, nhưng lại ngờ tới kẻ chờ họ ở bên trong là nhà năm người chết ở trong ngôi nhà bị ma ám. Bảy Ba em chui vào trong quan sát, đường hầm thông với tất cả các tầng. Tầng hầm ngập trong nước, tầng tầng hai là hành lang với khoảng chật hẹp, tầng ba có gian phòng. Ngôi nhà ở ngã tư đường nghĩa trang nhà họ Ngụy này có hai tầng, đứng ở bên ngoài thấy có gì khác lạ, chỉ đến khi thông qua đường hầm chui vào trong nhà mới thấy có các đường rẽ khác thông lên tận mái nhà. khí trong phòng sặc mùi ẩm ướt và mục nát. Ba người leo lên tầng, mang theo đèn thủy nguyệt chiếu sáng để lục soát khắp nơi. Đập vào mắt chỉ là bốn bức tường quét vôi, bên ngoài tường mốc meo cả rồi, cũng có cả chăn nệm quần áo, nhưng ngoại trừ ba người họ ra, trong phòng làm gì còn có ai khác. Ba người cho rằng Liên Hóa Thanh trốn ở trong phòng, nhưng nào ngờ trong đó lại có ai. Họ lục soát hết toàn bộ lần nữa, nhưng còn lối bí mật nào nữa, có lẽ Liên Hóa Thanh chạy trốn mất rồi, kẻ này gian ngoan khỏi phải bàn. Lúc này mà còn bắt được , sau này dễ kiếm được cơ hội khác. Lý Đại Lăng nóng nảy dậm chân hậm hực, tiền thưởng sắp đến tay còn vuột mất. Đinh Mão bảo ngôi nhà ma ở nghĩa trang nhà họ Ngụy thay đổi vài đời chủ nhà, thời gian mỗi gia đình lưu trú lại dài, vài chục năm chưa được coi là quá lâu, nhưng ngôi mộ phía dưới lại được cải tạo thành hầm ngầm. Ngã tư đường có ít người treo cổ, khẳng định là an lành. Thông thường mỗi khi phải ngang qua đây, mọi người đều vòng qua, trong nhà lại có lối bí mật, Liên Hóa Thanh muốn tìm nơi để núp, còn nơi đâu thích hợp hơn so với nghĩa trang nhà họ Ngụy nữa. Lúc này, mặc dù chạy thoát, nhưng chắc chắn phải để lại dấu vết nào đó. Trong khi chuyện, sống lưng đột nhiên lạnh rợn cả người, ba người quay đầu lại nhìn, vừa mới nhìn họ sợ tới mức thiếu chút nữa đứng tim. Kể ra cũng lạ, tường lên năm cái bóng đen, mơ mơ hồ hồ nhìn là ai, tuy nhiên xác thực là có người đứng trước cái đèn, in bóng mình lên tường, nhưng trong phòng ràng là có năm người này. Đinh Mão cố lấy dũng khí, đưa tay sờ lên tường. Bức tường gạch kín mít lạnh như băng, ngoài mặt tường có bất cứ thứ gì khác lạ, nhưng năm cái bóng người kia càng lúc lại càng . Ba người họ cầm theo chiếc đèn thủy nguyệt, đứng đối mặt với vách tường nên bóng của họ hắt ra phía sau, hiểu nổi năm bóng đen vách tường xuất phát từ chỗ nào. Quách sư phụ lên tiếng: "Nhìn có vài phần quen mắt, hình như là gặp ở đâu. . ." Đinh Mão : "Là bức vẽ nhà năm người ở trong phòng khách, năm cái bóng vách tường có hình dáng giống như những người trong bức vẽ." Lý Đại Lăng: "Liệu có phải những người chết trong ngôi nhà bị ma ám này hồn lên ? Nếu vô duyên vô cớ tại làm sao vách tường lại lên năm bóng ma như thế?" Quách sư phụ thầm cảm thấy việc này kỳ quái. Ông ta chợt nhớ tới cây đèn cây triệu của vị tiên , bèn bảo: "Cây đèn thủy nguyệt là vật trong ngôi nhà ma này, có lẽ bị người động chân động tay, cũng có thể là tường đồ quét mực nước, bình thường thấy gì, đến khi chiếu đèn vào mới thấy hình ảnh ra." Lý Đại Lăng thốt lên: "Tôi cứ tưởng là thế nào, hóa ra chỉ là thủ đoạn hù dọa lũ trẻ lên ba." Đinh Mão : "Nhị ca có lý, dù sao đánh người quyền, cũng phải phòng người ta đá cước. Chúng ta ở ngoài sáng, Liên Hóa Thanh ở trong tối, mọi việc nên cẩn thận, đừng có rơi vào bẫy của kẻ khác." Quách sư phụ bảo Lý Đại Lăng tắt cây đèn kia , chỉ dùng cây đèn bão của Ngư Tứ Nhi mang từ bên ngoài vào để chiếu sáng. Lý Đại Lăng thuận theo tắt đèn . Ba em nhờ vào ánh sáng mờ ảo của cây đèn bão, ngẩng đầu lên nhìn lại vách tường xem sao, năm cái bóng đen vẫn còn sờ sờ ở đó. Đinh Mão tin hình ảnh ma quỉ đó, vung cây búa cán gỗ đàn lên, bổ nhát lên vách tường. Dù tạo ra vết búa tường nhưng mấy cái bóng đó vẫn suy chuyển, càng nhìn càng thấy giống , giống như thực có năm người còn sống đứng trước cây đèn vậy. Trong lòng ba người kinh sợ, dám thở, đứng nguyên tại chỗ nhìn chớp mắt, nhất thời dám vọng động. Lại chờ thêm giây lát, vẫn nhìn ra chỗ kỳ quái, nhưng bóng hình hai vợ chồng cộng với hai đứa con con trai vách tường càng lúc càng hơn, quả thực sống động y như . Quách sư phụ chợt phát bóng người tường còn giống như lúc ban đầu, quay sang hỏi Đinh Mão và Lý Đại Lăng, nhưng hai người lại chẳng nhận ra điều đó. Quách sư phụ cho rằng mình nhìn nhầm. Trong lòng nổi lên kinh sợ, Lý Đại Lăng bèn : "Bên trong ngôi nhà ma này an lành, theo tôi thấy có lẽ chúng ta cứ quay về , sau đó mời đạo sĩ Thiên Sư mang theo phù chú, lúc ấy quay lại cũng muộn." Trong khi trao đổi vài câu, tầm mắt ba người vô tình chuyển lên chỗ vách tường, nhưng nào còn thấy bóng ma của nhà năm người đâu nữa. Họ đột nhiên cảm thấy có bàn tay lạnh như ma tóm vào cổ, bèn đưa tay lên cổ lần mò, nhưng chạm vào cái gì. Họ xoay đầu lại nhìn, ngờ mấy bóng ma kia chuyển ra phía sau lưng mình từ lúc nào, thò tay tóm vào mấy cái bóng in mặt đất của ba người. Lúc bấy giờ, cây đèn bão chuyển động, nhưng cái bóng của họ lại vẫn bị năm bóng quỷ kia tóm chặt bất động. Ba người đều giật mình kinh hoàng, trong lúc hoảng loạn ném bừa búa ra. Nhưng khi cây búa đánh trúng vào bóng ma mặt đất, họ lại cảm thấy bàn tay bóp cổ mình càng lúc càng chặt hơn, tài nào thở được, chẳng mấy chốc phải chết trong ngôi nhà bị ma ám ở nghĩa trang nhà họ Ngụy. Tám Lúc đối mặt với cái chết, Quách sư phụ đột nhiên phát ra cây đèn bão này cũng thể thắp lên, cần biết trong phòng có vật gì, chỉ cần có vật chiếu sáng là có khả năng thi triển tà pháp giết người. Ông ta buông tay, thả cái chén đèn bão xuống. Tầm mắt trở nên tối sầm, bàn tay bóp cổ ba người lập tức lỏng ra. Ba người kinh hoàng sao trấn tĩnh lại được, mắt nhìn thấy gì, chỉ có tiếng thở hổn hển, may mà cái khó ló cái khôn, nhặt lại được tính mạng. Lúc ấy, Quách sư phụ linh cảm trước mặt còn có người khác. ra kể cũng lạ, vừa rồi thắp đèn nhìn thấy, nhưng đến lúc trong phòng tối đen xòe bàn tay ra trước mặt nhìn thấy năm ngón, kẻ nọ mới thừa cơ tối om lại gần, chẳng hiểu là định làm gì. Quách sư phụ cảm thấy kẻ này lai giả bất thiện, trong hoàn cảnh tối lửa tắt đèn nhìn thấy cái gì, làm sao dám để đối phương lại gần, nhưng cây búa mang theo ném xuống đất, chỉ với hai bàn tay ứng phó bằng cách nào. Ông ta vừa mới lần mò trong ngực áo chạm tay vào viên gạch lấy dưới hầm mộ, vội lôi nó ra nhè vào kẻ nọ mà giáng xuống, chẳng ngờ cú đánh trúng ngay vào đầu . Chỉ nghe đối phương hự lên tiếng đau đớn, rồi đổ sập xuống đất. Đinh Mão nghe thấy có chuyện, vội đánh diêm lên. Hai mắt ba người sáng lòa, đập vào mắt là gã đàn ông nằm vật mặt đất, bàn tay vẫn nắm chặt cây chủy thủ, mặc áo gai đầu đội mũ quả dưa, khoác cái áo trấn thủ màu đen, mặt có dán cao dán, nhận ra là ai. Họ bèn giật lá cao dán xuống, nhìn thấy kẻ tầm 20 tuổi, khuôn mặt tuấn, hai cái chân mày giao nhau, là kiểu Nhất Tự Mi hiếm có, chẳng phải Liên Hóa Thanh còn có thể là ai. Hóa ra Liên Hóa Thanh trốn ở trong ngôi nhà ma, phát ra có người lẻn vào trong, ỷ vào có tà thuật đánh lừa tai mắt người khác, chất là cùng loại với thuật thôi miên của ngoại quốc, nhưng xưa kia bị người ta liệt vào pháp. Bởi vậy dù có người lẻn vào nhưng cũng sợ, chỉ là đêm lắm có ngày gặp ma, chết cũng là đáng đời. Nhưng nguyên nhân chính dồn vào chỗ chết là để cho Quách sư phụ phát ra thể đốt đèn ở trong căn phòng này, cứ có ánh sáng là gặp quỷ. Đến khi trong phòng nhìn thấy cái gì nữa, Liên Hóa Thanh thấy tình huống ổn, định nương theo bóng tối tiếp cận dùng đao chọc chết tươi ba người này, nào ngờ lại bị Quách Nhị gia dùng viên gạch đập phát trúng đỉnh đầu. Ba em kéo từ căn gác lửng lên tầng , sờ vào mũi còn hơi thở, bị cú đập bằng gạch đánh chết tươi. Căn cứ vào cách thuyết tướng số, lông mày giao nhau kèm với mắt có hai con ngươi thuộc về tướng quân thần xung khắc, là tướng mạo tiểu quỷ đoản mệnh, nhưng khi ba người đứng nhìn xác Liên Hóa Thanh trong quan tài dưới hầm mộ lại cảm thấy vô cùng thất lạc. Đinh Mão và Lý Đại Lăng cứ chắc mẩm rằng khi bắt được Liên Hóa Thanh giao cho quan phủ trị tội. Căn cứ vào những án mà kẻ này phạm vào, tránh khỏi số mệnh ăn kẹo đồng. Thời dân quốc có hình phạt chém đầu, nếu bị tử hình chỉ có xử bắn, áp giải ra pháp trường bên ngoài cửa tây hành quyết, bị xử bắn được gọi là "Ăn kẹo đồng". Sau đó ba em báo công nhận phần thưởng, tên tuổi vang xa thành bảng hiệu, nhưng họ ngờ tói Liên Hóa Thanh lại chết vớ vẩn như vậy. Nhưng dù là còn sống hay chết, họ cũng phải mang thi thể về mới đưa ra được câu trả lời thỏa đáng. Trong khi ba người trao đổi với nhau, mưa vẫn rơi ngừng, nước lũ tràn vào trong nhà. Trái tim ba em như sắp nhảy ra ngoài lồng ngực, mắt thấy nước ngập càng lúc càng sâu, cái hầm mộ và xác chết dưới tầng đều bị nước lũ nhấn chìm, thể leo lên tầng hai. Vừa mới ngó ra bên ngoài nhìn cái, trái tim ba người trầm xuống. Mưa như trút nước chắn hết tầm nhìn, tấm bia đá đối diện nghĩa trang nhà họ Ngụy hoàn toàn mù mịt trong mưa, thậm chí ngay cả phía bên kia đường cũng nhìn thấy, khắp nơi nước chảy thành sông. Trước kia, lúc xảy ra thiên tai nghiêm trọng nhất, mưa lớn như vậy đến nửa đêm mà vẫn còn chưa đến mức xảy ra lũ lụt. Nhưng vị trí nghĩa trang nhà họ Ngụy nằm ở dưới thấp, toàn bộ nước mưa xối xuống nội thành đều đổ dồn về chỗ này. Có dạo người ta dỡ bỏ khu nhà cấp bốn bên kia, cho nên mấy căn nhà tầng bên này cũng chẳng còn ai ở. Mặc dù chưa bị phá bỏ, nhưng toàn bộ điện nước bị cắt hết, cống rãnh thoát nước trước kia cũng bị tắc nghẽn, nên mỗi khi gặp mưa to những nơi khác còn chưa bị làm sao nghĩa trang nhà họ Ngụy chìm dưới nước rồi. Lúc bấy giờ, nước ngập quá nửa căn nhà, đường cái sớm biến thành biển nước mênh mông. Năm xưa có vài khu dân cư được gọi là hố sâu tam cấp. Tam cấp mang hàm nghĩa là ba tầng, bởi vì nhà ở cũ nát, trong khi đó phòng ốc lại ngừng lún xuống, mặt đường ngừng nâng cao; Tầng thứ nhất là mặt đường cái cao hơn ngõ hẻm, tầng thứ hai là mặt ngõ hẻm cao hơn mặt sân, mặt sân lại cao hơn nền phòng ở, đây là tầng thứ ba. Tầng nọ thấp hơn tầng kia kế tiếp nhau, cuối cùng nền phòng ở là thấp nhất, trời chỉ cần mưa lớn hơn bình thường chút là mỗi nhà được tham dự trận đánh thủy tinh dâng nước đánh sơn tinh rồi, toàn bộ cả nhà từ già đến trẻ cầm xô chậu rửa mặt tát nước trong nhà ra ngoài, trẻ con hai ba tuổi được thả ngồi trong chậu gỗ, trong phòng có cái gì nổi được đều biến thành du thuyền, cuộc sống khổ sao tả xiết. Những người ở khu đó sợ nhất mùa mưa, bởi vì phòng ở nằm trong vùng trũng, trong phòng ẩm ướt, khả năng thông gió lại kém, đặc biệt là vào mùa hạ, những ngày trời oi bức người ta khó mà thở nổi, những ngày mưa dầm tám chín phần mười nước chảy vào đầy nhà, lúc nào cũng phải chuẩn bị sẵn đống xô chậu để mà tát nước. Chính bởi vậy mà đồ gia dụng của rất nhiều nhà mủn nát ngâm trong nước lâu ngày. Trước kia, khi nghĩa trang nhà họ Ngụy còn chưa bị san phẳng, loạt nhà cấp bốn là điển hình của hố sâu tứ cấp, bởi vì mặt bằng khu bên ngoài cao hơn vùng trũng phía nam cấp, do đó mới gọi là "Hố sâu tứ cấp"; Còn người dân quen gọi là rốn nghèo, để miêu tả sinh động toàn bộ những người ở khu nghĩa trang nhà họ Ngụy đều là dân cùng khổ, nhưng chỉ cần có ai vượt ra khỏi cái vùng trũng này chắc chắn giàu có. Sau này phòng ốc bị san phẳng toàn bộ, những địa danh như vùng trũng phía nam lầy lội, hố sâu tứ cấp kể cả nghĩa trang nhà họ Ngụy đều vĩnh viễn trở thành lịch sử. Nhưng nội thành vẫn còn lại vài khu dân cư được gọi là hố sâu tam cấp, chúng còn tồn tại mãi đến cuối những năm tám mươi, trải qua mấy lần cải tạo nhà cửa với quy mô lớn mới dần được cải thiện. Có thể nghĩ ra, khi ấy mấy người Quách sư phụ mang theo xác Liên Hóa Thanh, muốn chạy cũng có cách nào chạy nổi, bởi đường cái ngập đến ngang lưng, nước lũ mấp mé chạm tới đỉnh tấm bia đá ở đầu đường. Cũng còn may là dù dòng nước lũ rất lớn nhưng vẫn còn chưa đến mức nhấn chìm được tòa nhà. Chỉ cần trời ngớt mưa, nước lũ rút rất nhanh. Tuy nhiên, xem chừng trận mưa này kiểu gì cũng phải kéo dài đến nửa đêm mới tạnh. Ba người nhìn xác Liên Hóa Thanh mà rối bời, ban ngày có vấn đề gì, nhưng bấy giờ trời tối đen dù có thắp đèn cũng chẳng có tác dụng, ai dám đảm bảo là có vấn đề gì bất ngờ xảy ra?
Chín Đúng lúc biết làm sao, ba người nhìn thấy xa xa có mấy chiếc thuyền chèo tới. ra bên trong khu nhà cấp bốn ở nghĩa trang nhà họ Ngụy vẫn còn số dân chạy nạn từ nơi khác đến và mấy người nhặt ve chai ở, số lượng nhiều lắm, hơn nữa mỗi người còn ở nơi. Những cư dân này đều dọn vào ở sau thời điểm xảy ra lũ lụt năm trước, biết nơi đây chỉ cần mưa to chút là bị ngập. Khi nước dâng lên khắp nơi, định chạy còn kịp rồi, đành phải trèo lên mái nhà tránh lũ. Trong nội thành có đội tuần sông của cảnh sát đường thủy, họ chèo những chiếc thuyền này qua bên đây cứu người, đưa những người trong vùng ngập lụt lên chỗ cao. Khu phía bắc ngã tư đường nghĩa trang nhà họ Ngụy vẫn chưa ngập sâu như bên này, ba người họ vội vàng bơi qua đó. Đội tuần sông cảnh sát đường thủ quen biết ba người, chèo thuyền lại gần đón, dù hiểu vì sao họ lại còn lôi theo cả người chết, nhưng cũng chẳng lắm chuyện quan tâm hỏi han, cho họ mượn cái thuyền , lôi cả người sống lẫn người chết lên rồi chèo theo hướng tấm bia đá quay ngược trở về. Tấm bia đá lưng thú bị nước lũ nhấn chìm. Giữa trời mưa mịt mù, tấm bia cổ chỉ còn là cái bóng đen khổng lồ in hình mặt nước, khiến cho mọi người cảm thấy điềm xấu vô cùng. Lúc bấy giờ, khu đất trũng phía nam thành phố còn có dòng sông nào chảy qua nữa rồi. Tương truyền, rất nhiều năm trước kia nơi đây có con sông cổ, ai biết được sau đó xảy ra chuyện gì. Mấy đời tổ tiên Quách sư phụ dù đều sinh ra và lớn lên ở nơi này, nhưng cũng chưa bao giờ nghe có con sông lớn nào chảy qua vùng đất trũng. Ngoại trừ những thầy xem phong thuỷ có thể nhìn ra nơi này trước kia từng có sông chảy qua, kể cả những người lớn tuổi đến mấy cũng biết về điều này. Về phần con thú cõng bia trấn sông cụt đầu này, người ta bảo đó là con bị hí, nhưng cũng chỉ là quan điểm chủ quan có căn cứ. Rồng sinh chín đứa con phải là rồng, phân biệt thành chín loại động vật khác nhau, trong số đó có con gọi là bị hí, sức khỏe vô biên, sống rất lâu, có sức chịu đựng tốt, chuyên cõng bia cho các bậc đế vương. Nhưng thực tế con thú cõng bia đá trấn trừ tà thuộc loài vật gì, bởi vì đầu nó bị gãy, thể nào truy nguyên ra được. Thời cổ, người ta lập bia với mục đích để cho hậu nhân biết được, nơi đây từng xảy ra việc lớn nào đó. Nhưng chữ khắc tấm bia đá này phải hứng gió dầm mưa dãi nắng, lại trải qua biết bao nhiêu năm tháng, còn ai có thể đọc được nội dung của nó nữa. Chỉ mỗi Trương Bán Tiên có , tấm bia đá được lập cách đó ít nhất là mấy trăm năm, khi mà nơi này vẫn còn con sông, qua hình dạng có thể phán đoán là bia do quan phủ lập. Bởi vì nó chặn nhánh sông chảy sang vùng đất trũng phía nam cho nên tích tụ ít khí. Toàn bộ phong thủy của nghĩa trang nhà họ Ngụy bị nó phá hỏng, bởi vậy nên nơi này tà ma, phong thuỷ tốt. Mấy người Quách sư phụ leo lên thuyền . Qua màn mưa mịt mù, ông ta lờ mờ nhìn thấy tấm bia đá ở ngã tư đường, chợt thất thần trong chốc lát, tránh khỏi nhớ lại những chuyện qua, thầm suy nghĩ: "Trương Bán Tiên chẳng qua chỉ là kẻ xem bói toán kiếm cơm gia truyền được mấy đời, lúc trước có đề cập đến việc nghĩa trang nhà họ Ngụy đuổi bắt Liên Hóa Thanh của chúng ta, bảo chuyến này là có mà có về, cuối cùng phải là chẳng có chuyện gì xảy ra hay sao?" Trong lúc ông ta thầm suy nghĩ, chợt nghe thấy Lý Đại Lăng : "Hôm nay mang xác Liên Hóa Thanh về, cả chùm những vụ án như dìm xác ngã ba sông, dấu xác trong hộp sắt ở miếu thổ địa, xác chết co lại ở nghĩa trang nhà họ Ngụy, coi như bị chúng ta phá toàn bộ. Quách nhị ca à, sau này những việc này đồn ra ngoài còn gì hay hơn nữa, phải Thần sông còn ai là Thần sông." Quách sư phụ nghe thấy Lý Đại Lăng mấy câu đó, trong lòng chợt run lên: "Hỏng mất, ngàn vạn lần đừng có đề cập đến Thần sông, gọi theo cách này thực là may." Quách sư phụ tâm bảo Lý Đại Lăng đừng có như vậy, nhưng ra trễ. Ông ta cúi xuống nhìn xác Liên Hóa Thanh cái, thấy ngay cái thi thể cứng đờ đó ngó lại mình. Liên Hóa Thanh bẩm sinh có tướng ma, mắt có hai con ngươi. đôi mắt như vậy, nếu người khác nhìn vào giống như thấy hai cái lỗ thủng sâu hoắm vô cùng đáng sợ. Quách sư phụ nghe người chết biến thành thi là điểu chỉ xảy ra vào đêm khuya, nhưng lúc bấy giờ trời vẫn còn sáng, vậy mà cặp mắt ma quái của Liên Hóa Thanh biết mở ra từ lúc nào. Trong lúc kinh sợ, ông ta đột nhiên cảm thấy thân thể mình chấn động mạnh cái, ba người họ cùng với xác chết nối tiếp nhau rơi xuống nước. Nước lũ mênh mông ngập đến nửa phòng của khu nhà cấp bốn. Kỹ năng bơi lội của Thần sông Quách Đắc Hữu khỏi phải bàn, vừa rơi xuống nước ông ta bình tĩnh lại được ngay, nín thở, đạp mạnh hai chân cái để trồi lên mặt nước, nhưng vẫn kịp nhận ra mực nước lũ sâu hơn mình dự đoán, hơn nữa còn lạnh thấu xương. Trong lúc kinh hãi, ông ta kịp nghĩ ngợi nhiều, vội hợp sức với Đinh Mão hai người túm lấy Lý Đại Lăng biết bơi, ba người vật lộn bò lên bờ. Khi đưa mắt quan sát xung quanh, trong con mưa mịt mù, họ lờ mờ nhìn thấy tấm bia đá đứng sừng sững cách đó xa, Liên Hóa Thanh nằm úp sấp mặt xuống đất ngay dưới chân tấm bia đó, còn đường xá và khu nhà ở nghĩa trang nhà họ Ngụy chẳng thấy đâu nữa, xung quanh tấm bia đá chỉ là vùng đất hoang vu rộng lớn. Tại sao quyển sách này của tôi lại có tên là "Thần sông -- quỷ thủy quái đàm", bởi vì bên trong đến cái con sông từng chảy qua khu đất trũng phía nam. Nếu có con sông này, sao còn có thể gọi là quỷ thủy quái đàm? Chương 10: Bắt ở thôn Chó Dữ (nửa chương đầu) Trở lại chuyện chính. Ngày hôm đó, sau trận mưa lớn, nước nhấn chìm nghĩa trang nhà họ Ngụy, tấm bia đá ở ngã tư đường cũng ngập nửa dưới nước. Mấy người Quách sư phụ lẫn Liên Hóa Thanh cùng nhau rơi xuống nước, vất vả lắm mới leo được lên cạn. Khi lên được lên cạn, họ vẫn nhìn thấy tấm bia đá lưng con thú cụt đầu, nhưng toàn bộ phòng ốc đường xá ở khu nghĩa trang nhà họ Ngụy còn nhìn thấy đâu nữa, bốn xung quanh chỉ là vùng trũng hoang vu chìm trong mưa nhìn thấy biên giới. Sau lưng có con sông, nước sông chảy cuồn cuộn, nhìn thấy tận cùng. Kể ra cũng quái lạ, tại sao lại trôi tận đến đây? Nơi này có phải là ngã tư đường nghĩa trang nhà họ Ngụy vậy? Cả ba người đều ngây người ra, lẽ nào đến phủ? Nhưng nhìn lại lại giống, kia ràng là tấm bia đá ở ngã tư đường nghĩa trang nhà họ Ngụy. Bọn họ nhìn thấy Liên Hóa Thanh vẫn còn nằm bên cạnh tấm bia đá, lúc trước vẫn còn nhìn thấy xác chết này trợn mắt, tại sao bây giờ lại nằm bất động rồi? đến nước này, họ đành phải cắn răng lội nước đến gần để quan sát. Họ bỗng thấy xác chết đó đột nhiên vùng dậy. Người này vừa mới chết nhưng thân thể cứng như gỗ mục, sắc mặt xám xịt, thân thể và tay chân thẳng đuỗn, móng tay đột nhiên dài ra nửa tấc, thân hình thẳng tắp nhảy dựng lên khỏi mặt đất. Quách sư phụ nhớ nổi mình vớt bao nhiêu xác chết trôi sông, hàng ngày trông coi nghĩa trang, nhìn thấy người chết như cơm bữa. Những chuyện ma tà quỷ quái, ông ta cũng biết ít. Nghe , cương thi đại khái bao gồm bốn loại: thi thể của người chết sau khi đắc đạo lưu lại được gọi là Di thuế, chẳng những phân hủy mà còn có mùi thơm khác lạ; Đây là loại thứ nhất. Những xác ướp cổ đào được trong các ngôi mộ cổ, dù chết cả mấy trăm năm, nhưng màu sắc quần áo vẫn còn như mới, gương mặt giống như còn sống, nguyên nhân là do bị cách ly với khí; Vừa gặp khí, màu sắc của quần áo nhanh chóng mất màu, lấy tay đụng cái thấy nát vụn giống như tro tàn của giấy; Sau đó, da thịt thân thể cũng biến thành khô quắt; Đây là loại thứ hai. Loại thứ ba là xác khô, phần lớn là do nước trong cơ thể bay hơi khô quắt lại. Còn loại thứ tư chính là Hành thi theo quan niệm của dân gian; Còn trong sách xưa, nó được gọi là Tẩu Ảnh, tóc và móng tay dài hơn rất nhiều so với người bình thường. Điều đó chứng tỏ, sau khi chết tóc và móng tay vẫn còn tiếp tục mọc dài ra. Nghe , loại cương thi này có đạo hạnh, bên đêm có thể ra ngoài hoạt động. Những câu chuyện liên quan đến cương thi có rất nhiều. Chỉ cần là người sinh ra trước vài năm, có chút kiến thức đều có thể kể ra ít chuyện. Tuy nhiên, phần lớn mọi người đều chỉ được nghe kể lại mà chưa từng nhìn thấy bao giờ, mấy người Quách sư phụ cũng chưa từng nhìn thấy Hành thi. Hành thi tấn công người khi nổ ra trận chiến tranh việc làm của phu khuân vác ở nhà ga Lão Long Đầu vô cùng ma tà quái dị thực ra chỉ là câu chuyện đồn đại, những người kể lại đâu có được tận mắt nhìn thấy. Xưa kia có truyền thuyết Quảng Tế Long vương gia đuổi bắt đại tiên Hạn Ma. Đại tiên Hạn Ma chính là cương thi có đạo hạnh, là Hạn Bạt trong quan niệm của tổ tiên. Dù thế nào nữa, truyền thuyết bao giờ cũng vô cùng li kì. Nếu như mọi người tin là đó chính là ; nếu như ai tin, vậy đó chẳng qua chỉ là cái truyền thuyết dân gian mà thôi. Về phần Liên Hóa Thanh dính viên gạch đập vào đầu, hôn mê bất tỉnh, sau khi rớt xuống sông bị nước lạnh kích thích, lại sống dậy, cũng phải là hoàn toàn có khả năng xảy ra. Nhưng tình hình giờ lại cho thấy, tượng xác chết biến thành cương thi xảy ra. Ba em hết sức hoảng sợ, thực là cương thi? Theo đồn đại, vào thời nhà Thanh có người luyện Cương thi công, đầu tiên là nín thở, móng tay có thi độc, di chuyển bằng cách nhảy tưng tưng, nhưng giống với Hành thi, mà chỉ là người sống mô phỏng động tác của xác chết. Chưa cần biết có phải là môn võ công kỳ ảo hay , chỉ cần hù dọa cũng đủ làm cho đối phương sống dở chết dở. Bởi vậy, ba người cho rằng Liên Hóa Thanh luyện Cương thi công, cho nên nhìn bề ngoài hoàn toàn giống với người còn sống. Hai Trong khi ba em ngây người ra lúc, cương thi bổ nhào tới ngay trước mặt rồi. Mặt nó xanh đen, hai con mắt như hai lỗ thủng đen ngòm, người nồng nặc mùi xác chết khiến cho người khác dám mở mắt ra nhìn. Ba em teo hết cả gan ruột, lập tức trốn ra đằng sau tấm bia, cương thi đuổi sát theo sau. Đầu óc hỗn loạn, bước chân ríu lại, Lý Đại Lăng lỡ bước nhịp, bị cương thi đẩy ngã nhào xuống đất. Móng vuốt của nó cắm sâu vào trong da thịt, gã giống như bị vòng sắt trói chặt, tài nào giãy giụa được. Nhìn thấy vậy, Quách sư phụ và Đinh Mão hốt hoảng quay trở lại cứu người, nhưng cương thi tấn công con người đến khi chết mới thôi, bởi vậy họ thể lay chuyển nó được mảy may. Trong lúc cấp thiết, quờ quạng được hòn gạch mặt đất mà Lý Đại Lăng lấy ở nghĩa trang nhà họ Ngụy mang theo để phòng thân nhưng chưa kịp dùng tới. Quách sư phụ cầm lấy viên gạch, nhắm thẳng vào đầu cương thi dùng hết sức lực mà đập. Vừa nghe thấy thanh nặng nề vang lên, từ đỉnh đầu cương thi bay ra luồng khí đen. Quách sư phụ cầm gạch đập liền ba cú. người cương thi tỏa ra khí đen rồi đổ ập xuống đất. Ngay cả bản thân ông ta cũng hiểu nổi có chuyện gì xảy ra. Nhiều năm về sau, có người hành động đó của ông ta là 'kim chuyên đả thi'. Có lẽ tôi nên giải thích ràng hơn. Trước hết phải nhắc tới giai thoại vào những năm đầu thời Bắc Tống, trong trận Hãm hồn ba cục kim chuyên đánh chết nữ tướng Lưu Kim Đĩnh biết sử dụng tà thuật. Mặc dù đó chỉ là truyền thuyết dân gian, nhưng thiên linh cái đỉnh đầu là huyệt linh, nếu bị kim chuyên nện trúng dù chỉ cái cũng bị mất vô số đạo hạnh. Cách giải thích này xác thực là có căn cứ, người xưa cương thi rất sợ kim chuyên, bởi kim chuyên làm mất thi khí khiến nó thể cử động. Kim chuyên mà người xưa tới thực ra phải là gạch làm bằng vàng. Nếu trăm phần trăm đúng là gạch làm bằng vàng dù có giàu có đến mấy cũng thể làm ra nổi. Thời cổ chỉ có vàng thỏi có gạch vàng, nếu có vàng đúc thành vàng thỏi hoặc nguyên bảo, thông thường bao giờ đúc thành hình dạng của cục gạch. Xưa kia, người ta gọi kim chuyên là mang hàm nghĩa khác. trắng ra, kim chuyên của thời ấy chính là cục gạch. Loại gạch này đến mẩu vàng cũng chẳng có, bên ngoài trơn láng như bôi dầu, sáng bóng như gương, nhẵn mịn như vàng, ráp trơn, cứng rắn vô cùng, dân chúng gọi nó là kim chuyên, có quy cách thống nhất, dày từng nào dài bao nhiêu rộng thế nào, áp dụng cho mọi nơi. Nếu đúng tiêu chuẩn này, cũng thể gọi là kim chuyên. Lúc ban đầu, nó là loại gạch cầu kỳ được nung riêng để xây dựng các cung điện hoàng cung hoặc chùa miếu, phẩm chất đồng đều đến từng đường vân thớ gạch, gõ vão phát ra tiếng kêu của kim loại, dân gian gọi chúng là kim chuyên là bởi nguyên nhân này. Bởi vì loại gạch này chủ yếu được nung tại kinh sư, cho nên chúng cũng được gọi là kinh chuyên, truyền qua miệng nhiều người, tam sao thất bản trở thành kim chuyên. Nghe , tiêu chuẩn và nguyên liệu để chế tạo kim chuyên khắt khe hơn xa so với loại bình thường. Trong số những nguyên liệu có cả chu sa chỉ có ở Thần châu, bởi vậy mới có khả năng đánh thi hàng . Tuy nhiên, viên gạch mà Lý Đại Lăng cầm theo chỉ là gạch trong ngôi mộ cổ ở nghĩa trang nhà họ Ngụy, đâu phải là kim chuyên theo cách gọi của người xưa. Quách sư phụ vung gạch đánh vào đầu cương thi, nó lập tức còn cử động. Thế nhưng, mặt nó lại khôi phục phần nào khí sắc của con người, da vàng như nến, miệng mũi trào ra dịch đen thui tanh tưởi, hấp hối bất tỉnh nhân . Quách sư phụ và Đinh Mão ngẩng mặt nhìn nhau. Chỉ nghe người chết biến thành xác chết cứng đờ, nhưng xác chết biến thành người sống đúng là điều hãn hữu tự cổ chí kim, ngay cả nghe cũng chưa từng nghe thấy. Hai người dám coi thường, bất kể sống hay chết, trước tiên cứ lấy dây thừng trói chặt lại cho chắc ăn. Sau khi trói gô Liên Hóa Thanh lại, hai người lập tức cấp cứu Lý Đại Lăng. Cuối cùng gã cũng hít thở hổn hển, khắp toàn thân đầy vết tím đen, kéo dài thêm chút nữa là mất mạng. Gã cứng quai hàm cả buổi thốt ra được câu gì, quay sang quan sát Liên Hóa Thanh bị trói gô mặt đất. Mặc dầu mất ý thức, nhưng y vẫn rên lên hai tiếng sau khi bị đá cú, hiển nhiên phải là người chết. Quách sư phụ cho rằng kẻ này luyện Cương thi công, đỉnh đầu bị gạch đánh trúng ba lần, gây ảnh hưởng tới đạo hạnh. ra chỉ đơn giản là như vậy, nhưng giờ chỉ đến chuyện xảy ra vào lúc ấy. Sau khi trói gô Liên Hóa Thanh lại, ba người biết đây là nơi nào. Đinh Mão ngẩng đầu lên, nhìn thấy lớp bùn đất bám tấm bia đá bị mưa rửa sạch, làm lộ ra ba chữ lớn sứt sẹo còn trọn vẹn, nhưng vẫn có thể nhận ra ràng, bèn quay sang hỏi Quách sư phụ: "Sư ca, thử nhìn xem tấm bia đá kia khắc những chữ gì?" Quách sư phụ đưa mắt quan sát. Ba chữ đó, quả là ông ta có thể đọc được, chưa đến mức thể nhìn ra nổi đường nét. Ba chữ được khắc tấm bia đá chính là "Thôn Chó Dữ". Đinh Mão lấy làm kỳ lạ thốt lên: "Chưa từng nghe thấy ai nơi nào có tên như vậy, vùng đất ở ngã tư đường nghĩa trang nhà họ Ngụy trước kia có tên là thôn Chó Dữ sao?" Quách sư phụ lắc đầu đáp, nghĩ mãi mà hiểu chuyện gì xảy ra. Có lẽ là sau khi rơi xuống nước, họ bị lũ cuốn qua vùng đất trũng ở phía nam. Vùng đất này chỉ có điểm tương đồng với nghĩa trang nhà họ Ngụy đó chính là tấm bia đá, thành Thiên Tân có lẽ là ở phía Bắc, giờ phải về theo hướng bắc. Ông ta nhìn thấy bên cạnh tấm bia đá ven sông có con đường, nếu có đường, kiểu gì cũng phải dẫn tới nơi nào đó. Ba Lúc này, Lý Đại Lăng tỉnh táo hơn rất nhiều, kể ra thể chất của gã cũng khỏe mạnh. Quách sư phụ phân công gã kẹp Liên Hóa Thanh dưới nách, rồi ba người cắm đầu cắm cổ men theo con đường bên cạnh tấm bia đá mà . Cách đó xa là thôn làng, vây quanh thôn là ruộng, nhưng nhìn thấy bóng người, vắng lặng đến rợn người. Toàn bộ đám hoa mầu ngoài ruộng đều là mọc hoang, do ai trồng trọt. Động vật duy nhất chạy khắp thôn làng là những con chó mực có hình thể khổng lồ, có vẻ vô cùng hung dữ, khác hẳn với chó kiến bình thường. Ba em vừa vừa nghĩ thầm, chẳng trách lại được gọi là thôn Chó Dữ, nhưng tại sao trong thôn lại chỉ có chó sinh sống? Chẳng lẽ có người hay sao? May mà cả đàn cả lũ chó dữ trong thôn dường như buồn để ý gì tới bọn họ, chỉ quanh quẩn lại chỗ. Ba người dám nhìn quá lâu, vội vàng rảo bước nhanh hơn. Khi nhìn thấy cảnh tượng này, bọn họ tránh khỏi liên tưởng tới làng chài Thượng Cổ Lâm, cái làng đó cũng có rất nhiều chó. đến cái tên Thượng Cổ Lâm rất dễ lầm tưởng đó là cánh rừng rậm nguyên sinh, nhưng thực tế Thiên Tân vệ có ba địa danh kỳ quái -- "Trạm xe lớn, nhà ga , Cổ Lâm có rừng", Thượng Cổ Lâm là khu vực bị nhiễm mặn nằm sát biển. Thời xưa, chưa cần đến rừng rậm, ngay cả thân cây cọng cỏ cũng có, nơi hoang vu như vậy tại sao lại gọi là "Cổ Lâm"? Vậy phải tới ngọn ngành. Năm xưa, hoàng thượng phái vị khâm sai đại thần đến bờ biển tế thần. Vị khâm sai này dẫn theo đội ngũ mạch tới bờ biển. Ngày hôm đó thời tiết đặc biệt oi bức, mọi người đều phơi nắng miệng đắng lưỡi khô, rất nhiều người sắp kiệt sức. Vị khâm sai dù sao cũng có ô che, nhưng các tùy tùng giữa bãi đất hoang vu trống trơn vắng vẻ có chỗ tránh mà cũng chẳng có chỗ núp, nguyên cả đoàn người than khổ thấu trời. Vị khâm sai cũng thể chịu nổi ánh nắng gay gắt như vậy, muốn tìm nơi cho đoàn người nghỉ ngơi lát, nhưng cả bờ biển kéo dài tới ngàn dặm lại hoàn toàn trống trải có lấy chỗ râm mát để nghỉ chân. Lúc bấy giờ, mơ hồ nhìn thấy ở phía đằng xa hình như có cánh rừng rậm rộng lớn, mọi người đều cho rằng đó là rừng nguyên sinh, coi như được cứu rỗi rồi. Khi đến chỗ gần, họ mới phát ra, hóa ra đó chỉ là mảng ngải cát rất rậm rạp, cao vượt quá đầu người, từ xa nhìn lại giống như cánh rừng nguyên sinh. Tuy rằng ngải cát mọc thành rừng, nhưng vẫn thực có thể giúp con người ta lẩn tránh ánh mặt trời thiêu đốt. Trong khu vực đó còn có vài túp lều của ngư dân. Vị khâm sai sai tùy tùng tìm ngư dân xin nước uống, đồng thời hỏi thăm xem đây là nơi nào. Những người ngư dân , đây là khu đất hoang sát biển, có tên tuổi. Vị khâm sai đại thần cảm khái , dưới vòm trời này đều là đất của vua, người sống đất này đều là con dân của vua. Khi trở về, ta nhất định tấu với vị vạn tuế gia của mình, ban cho nơi này cái tên. Lúc trở về, ông ta quả thực báo lại với hoàng thượng. Hoàng thượng miệng vàng lời ngọc, dù nơi đó hoang vu, nhưng ngải cát mọc san sát như rừng, vậy lấy Cổ Lâm làm tên, cho nên về sau mới có hai cái địa danh Thượng Cổ Lâm và Hạ Cổ Lâm, mà rất nhiều năm về trước, toàn bộ đều là dải hoang vu um tùm ngải cát. Bắt đầu từ đời nhà Thanh, quy mô làng chài được mở rộng ra. Mỗi khi đánh cá, làng chài tổ chức đấu chó, dần dần thành phong trào, cho nên trong làng nuôi rất nhiều chó dữ. Trước kia, ở khu vực làng chài Thượng Hạ Cổ Lâm, tổng số chó nuôi trong thôn và chó hoang ngoài thôn còn nhiều gấp mấy lần số lượng dân trong thôn. Chúng thường xuyên tấn công con người, về sau quan phủ buộc phải hạ lệnh tuyệt đối cấm người dân đấu chó, nhưng cấm cấm lại mà vẫn tái diễn. Khi tới cửa "Thôn Chó Dữ", mấy người Quách sư phụ nhìn thấy trong thôn toàn chó là chó, quả có lấy bóng người, cho nên lầm tưởng là lạc sang Thượng Cổ Lâm. Nhưng cả mấy cái thôn này đều nằm bãi biển hoang vắng, có ruộng cũng chẳng có sông, hơn nữa, chưa bao giờ nghe thấy có thôn nào lấy tên là 'chó dữ'. Ba người nơm nớp lo sợ, vừa bước vừa nghĩ ngợi miên man. Sau khi vượt qua cái thôn đó, bên đường lại xuất tấm bia đá, vẫn là loại bia đá cổ lưng con thú cụt đầu giống như lúc trước, phía có khắc ba chữ "Thôn Chó Dữ". Trời vẫn còn mưa, bầu trời mù mịt tối tăm, tầm nhìn giảm đến mức tối đa. Ba người Quách sư phụ lâm vào hoàn cảnh đó, trong lòng kìm nén được kinh sợ. suốt đoạn đường, vượt qua cái thôn, nhưng chưa thêm được bao xa, tại sao lại nhìn thấy tấm bia đá ở đầu thôn thế này? Cho dù vừa kinh sợ vừa nghi hoặc, nhưng họ vẫn tiếp tục tiếp, được bước nào hay bước đó. Nhưng, con đường này lại giống như đĩa hát hỏng rãnh, bất kể bọn họ có như thế nào, quanh quẩn lại cuối cùng vẫn gặp cái tấm bia đá đó. Bởi vậy, họ dám bừa theo hướng khác. Đúng lúc chưa biết quyết định thế nào, họ chợt nhìn thấy hai người bước ra từ sau tấm bia đá, chính là là ông lão và cháu bán mì hoành thánh ở ngã tư đường nghĩa trang nhà họ Ngụy. Bốn Ông lão bán mì hoành thánh lạnh lùng băng giá nhìn chằm chằm vào ba người, cất tiếng : "Nếu lúc trước nghe lão khuyên bảo, các ngươi bị rơi xuống con sông dương ở thôn Chó Dữ." Quách sư phụ ngờ gặp lại ông lão bán mì hoành thánh này. Hai người già trẻ này, giữa ban ngày ban mặt bán mì hoành thánh ở ngã tư đường nghĩa trang nhà họ Ngụy, chứng tỏ phải là hồn dã quỷ, nhưng là tuyệt đối phải là người thường. Bất kể có thế nào, trước mắt vẫn phải nhờ ông lão bán mì hoành thánh chỉ điểm cho con đường. Ông lão bán mì hoành thánh với Quách sư phụ: "Cho tới bây giờ, cần thiết phải dấu giếm nữa. Lão biết ngươi là ai từ trước, hai ông cháu chúng ta vẫn luôn náu ở dưới dòng sông này, rất ít khi ra ngoài. Trước đây lâu, đứa này nghe lời ta, mình trốn ra bên ngoài, có thể coi như là kiếp nạn của nó, nhờ có ngươi ra tay cứu giúp nên mới có thể bảo toàn được tính mạng. Có câu rất sâu sắc, nhân tình là khoản nợ, có vay phải trả, huống chi là ân cứu mạng, cho nên lão dốc hết khả năng để báo đáp ngươi. Nếu như muốn sống, các ngươi nhất định phải làm theo những gì lão , cứ thẳng mạch theo con đường chạy qua tấm bia đá này. Nhớ kỹ, cứ thẳng mạch, khi qua tấm bia đá, ngàn vạn lần đừng có quay đầu lại nhìn. . ." Khi vào đội tuần sông, Quách sư phụ cứu sống ít người. Mặc dù thể nào nhớ ràng chi tiết tất cả mọi trường hợp, nhưng những việc mình làm, hoặc nhiều hoặc ít vẫn còn lưu lại chút trong ký ức. Ông ta tập trung suy nghĩ lượt nhưng thể nghĩ ra mình cứu bé này ở chỗ nào. Trong đầu ông ta đột nhiên nảy ra ý nghĩ, vừa rồi nghe thấy ông lão bán mì hoành thánh là mình vẫn luôn náu dưới dòng sông này, câu đó có lẽ có điểm đúng. Nếu như sống ở cạnh bờ sông chẳng làm gì, tại sao lại có người sống được ở dưới dòng sông? già trẻ này là người chết đuối biến thành ma sông hay sao? Vì sao khi qua tấm bia đá rồi thể quay đầu lại nhìn? Nếu như quay đầu lại, có phải nhìn thấy cái gì nên thấy hay chăng? Ba em tóm theo Liên Hóa Thanh, mãi mà vượt qua nổi tấm bia đá, nghe ông lão bán mì hoành thánh bảo, sau khi qua tấm bia đá này, thể quay đầu lại nhìn phía sau. Nhưng lúc trước, nhiều lần bọn họ qua con đường này, có lần nào quay đầu nhìn lại phía sau đâu, vậy mà vẫn thể ra ngoài? Huống hồ, ông lão bán mì hoành thánh này có lai lịch ràng, hiểu chỉ đường với mục đích gì, ai mà dám tin tưởng? Nhận ra họ tin tưởng vào mình, ông lão bán mì hoành thánh luôn: "Lúc trước các ngươi theo đường này, mặc dù quay đầu lại nhưng vẫn thoát ra được, là vì có lão theo phía sau các ngươi. Bây giờ cứ làm theo những gì lão bảo, các ngươi nhất định thoát được ra ngoài. Nhưng lão có câu mà các ngươi phải ngàn vạn lần nhớ kỹ, trong lúc , bất kể có nghe thấy đằng sau có tiếng động gì, đừng bao giờ quay đầu lại nhìn." Nghe thấy vậy, ba em càng kinh ngạc hơn. Tại sao ông lão bán mì hoành thánh lại phải ở phía sau bọn họ? Liệu có đúng là già trẻ cũng là ma quỷ bị vây khốn con đường này, chỉ có theo con người mới có thể thoát ra ngoài? Trước đó, khi ở trong căn nhà mái bằng ở nghĩa trang nhà họ Ngụy, Quách sư phụ gặp phải chuyện này rồi. Tuy nhiên, nếu ngẫm lại cho kỹ, ông ta lại cảm thấy hẳn chỉ đơn giản như vậy, bèn : "Cụ có thể cho chúng cháu biết, thôn Chó Dữ thực ra là nơi nào hay ? Tấm bia đá này có phải là tấm bia ở ngã tư đường nghĩa trang nhà họ Ngụy hay ?" Ông lão bán mì hoành thánh đành phải ra thực: "Tấm bia đá của thôn Chó Dữ đúng là tấm bia ở ngã tư đường nghĩa trang nhà họ Ngụy. Rất nhiều năm trước, nơi đây là dòng sông. dòng sông này có thể đánh bắt được cá to bằng cả cánh cửa. Sau này, bởi vì địa chấn, dòng sông này biến mất kể từ đó. Người ta đồn rằng nó biến thành con sông dương. Những hồn ma chết đuối tại con sông này đều muốn vào phủ ngay tại chỗ này, cho nên có vị quan lập lên tấm bia đá, bên có khắc ba chữ 'thôn Chó Dữ'. Từ đó về sau, những hồn dã quỷ đến phủ thể nào quay trở lại được nữa, nguyên nhân là bởi vì trong thôn có chó dữ trông coi." Nghe đâu, con sông này rất lớn, ngày xưa dòng chảy của nó còn chạy thẳng tới vùng đất trũng phía nam. Lúc bấy giờ, vùng đất trũng phía nam vẫn còn là cái hồ, thường xuyên xảy ra lũ lụt, người chết đuối dòng sông này nhiều kể xiết. theo cách của các nhà địa chất học, đây là con sông dữ. Sau này, con sông biến mất, nguyên nhân có thể là do cạn nguồn, cũng có thể là do nước ngấm hết xuống đất. tóm lại là nó cạn sạch nước, chỉ còn trơ lại tấm bia đá đồ sộ nằm lẻ loi giữa ngã tư đường. Đừng thấy dòng chảy biến mất mà lầm, những ông thầy phong thủy cao tay có thể nhìn ra được mạch khí của con sông này vẫn còn tồn tại, vẫn thủy chung bị tấm bia đá áp chế mãi tiêu tán. Phong thuỷ coi trọng địa thế, mạch khí. Địa thế và độ liền mạch có thể đo đếm bằng mắt, nhưng mạch khí thể. Mặc dù nhìn thấy nhưng có nghĩa là có, mà nó biến thành con sông dương. Những người cao tuổi sống trong nội thành ít nhiều đều từng nghe đến truyền thuyết về con sông dương này. Chương 10: Bắt ở thôn Chó Dữ (nửa chương cuối)
Năm Xung quanh Thiên Tân vệ quanh có rất nhiều địa danh bên trong có chữ , tổng cộng có bảy mươi hai . Bây giờ bạn có đến đó tìm cũng chẳng nhìn thấy giọt nước nào, bởi vì nếu tách chữ '' ( 沽) thành chữ cổ ( 古) và chữ thủy ( 水). Ví dụ như chúng ta vừa 'cổ nhân', hiển nhiên là muốn tới những người sống vào thời xưa. 'Cổ thủy' cũng mang ý nghĩa như vậy, chuyên dùng để chỉ những nơi xưa kia có nước, sau này biển cạn thành đất liền, nước có lấy giọt. Bởi vì có bối cảnh như vậy nên vào thời trước mới có ít truyền thuyết về sông Dương. Có truyền thuyết , khi đường lúc trời u có mưa bạn có thể nghe thấy thanh dòng sông cuộn trào, nhưng xung quanh lại ràng có dòng sông nào. Cũng có truyền thuyết , con sông Dương này thông đến tận phủ, người sống thể nào nhìn thấy, cũng thể xuống đó được, bởi dù sao cũng là dương cách biệt, người và quỷ khác đường. Khi nào xảy ra lũ lụt, con sông đó mới xuất , ai lạc xuống đó đừng có mong trở ra. Có đủ loại truyền thuyết liên quan đến sông Dương, bạn có thể thường xuyên nghe thấy người ta nhắc đến. Theo truyền thuyết mê tín ngày xưa, vượt qua sông Dương là đến phủ, đó là con đường người chết xuống cõi . Tuy nhiên, sông Dương đến cùng là ở đâu ai trả lời chính xác được. Khi nghe ông lão bán mì hoành thánh kết thúc câu chuyện về sông Dương, mấy người Quách sư phụ cảm thấy hoàn toàn sáng tỏ. ra nghĩa trang nhà họ Ngụy ngập trung lũ lụt, ba người và Liên Hóa Thanh cùng nhau rơi xuống nước, ngờ lại rơi đúng vào con sông Dương. Cũng còn may là vào trong cái thôn kia, lạc vào thôn Chó Dữ tránh khỏi số kiếp biến thành quỷ dưới phủ. Quách sư phụ còn có số việc muốn hỏi, nhưng ông lão bán mì hoành thánh tiếp tục : "Đừng thắc mắc gì nữa! Những chuyện khác, các cậu cần phải biết. khi trận mưa to này còn tiếp diễn, ngã tư đường chìm trong lũ lụt, các cậu ai cũng đừng có mong thoát được ra ngoài. Cứ làm theo lời lão, thẳng về phía trước nhanh lên. Nếu đường , lại tiếp tục nhìn thấy tấm bia đá này, các cậu cứ vượt qua bên cạnh nó, chỉ để ý đừng có rời xa con sông." Nghe ông lão xong, Quách sư phụ dám hỏi thêm gì nữa, dẫn theo hai người em của mình lên đường. Ba em nhấc Liên Hóa Thanh lên, vòng qua tấm bia đá, cắm đầu thẳng về phía trước. Khi ngang qua thôn Chó Dữ, họ lại nhìn thấy tấm bia đá kia xuất ở trước mặt. Còn cách nó đoạn, ba người vội rảo bước qua nhanh. Nhưng suốt từ nãy đến giờ, ba người hề nghe thấy tiếng bước chân ở sau lưng. Lúc bấy giờ, càng họ càng cảm thấy sống lưng lạnh buốt, trong đầu hiểu cái giống gì theo sát phía sau, phải là tiếng bước chân con người dẫm lên đường phát ra, mà thực ra lại giống như cơn gió ma quái vờn phía sau. Bọn họ kìm nén được sợ hãi, dám quay đầu lại xem thế nào. Ba em cắm đầu thẳng về phía trước, đến chỗ tấm bia đá lại vòng qua tới thẳng chỗ bờ sông. Khi đến sát bờ sông, bởi Lý Đại Lăng biết bơi, gã cõng Liên Hóa Thanh thõng thượt như chó chết đến chỗ này dù có thế nào cũng chịu nhấc chân tiếp. Quách sư phụ và Đinh Mão quay lại lôi gã: "Người em nhanh lên. . ." còn chưa dứt lời, trong lúc vô tình quay người, nhìn thấy sau lưng thực ra là cái giống gì, hai người sợ đến mặt xám như tro tàn. Sau lưng nào có thấy ông lão bán mì hoành thánh và cháu , mà trong mưa chỉ có con rắn khổng lồ to thân to như cái vò, còn có con rắn quấn đỉnh đầu của nó. Nó há cái miệng rộng hoác đỏ lòm như máu, lộ ra bốn cái nanh, định hút nước sông. Đến lúc này, Quách sư phụ mới tỉnh ngộ, cả già và trẻ đều là rắn thần sống trong sông Dương. Sở dĩ ông lão bán mì hoành thánh ông ta cứu mạng bé kia, là muốn tới lúc xảy ra vụ dân cửu vạn đánh nhau giành địa bàn ở nhà ga Lão Long đầu, có hai tên cửu vạn cầm đá muốn đập chết con rắn , Quách sư phụ chợt sinh lòng từ bi nên ra tay giằng viên đá lại, thả con rắn đó . Tục ngữ "Trời phán cắn răng mà chịu, nạn định ai trốn được đây", chỉ cần là động vật có linh tính bao giờ trốn thoát được kiếp nạn trong số mệnh. đường ông lão cho phép ba người Quách sư phụ quay đầu lại, là bởi sợ làm cho mấy người kinh sợ, đồng thời cũng muốn để người khác nhìn thấy nguyên hình. Trong lúc ba người kinh hãi, con rắn khổng lồ há miệng hút nước. dòng sông xuất vòng nước xoáy, bọn họ bị cuốn vào trong, giống như cánh bèo trôi dạt chìm xuống dưới. Sáu Quách sư phụ và Đinh Mão có kỹ năng bơi xuất chúng, phát ra thân thể chìm xuống, vội vàng lấy hơi, nâng Lý Đại Lăng và Liên Hóa Thanh bơi lên . Sau khi ngoi lên khỏi mặt nước, họ nhìn thấy mình ở ngã tư đường nghĩa trang nhà họ Ngụy. Trời vẫn mưa tầm tã, biết khi nào mới dứt. Nước ngập quá nửa tấm bia đá, nửa số phòng trong khu nhà mái bằng ở phía nam ngã tư đường chìm dưới nước. Có người trong đội tuần sông trông thấy cái thuyền con bên này lật úp, vội vàng chống thuyền tới cứu. Ba người túm lấy Liên Hóa Thanh, vật lộn leo thuyền của đội tuần sông. Trong mắt những người liên can, đó là việc mà từ đầu đến cuối chỉ xảy trong nháy mắt, nhưng sắc mặt ba người bọn họ lại xám xịt, thân thể cứng đờ, miệng sùi bọt mép màu tím, mặc dù vẫn tỉnh táo nhưng sao mở miệng ra được câu. Sau khi kéo lên thuyền cho uống canh nóng, ba người mới dần dần tỉnh dậy. Đến khi tỉnh hẳn lại, ba người bảo đội tuần sông đến nghĩa trang nhà họ Ngụy để nhặt xác Gà con và Ngư Tứ Nhi. Liên Hóa Thanh vẫn sống dở chết dở, bọn họ mang kẻ này về giao cho quan phủ, sau khi nghiệm chứng thân phận xác định đúng là người cần tìm. Thêm nửa tháng nữa, y mới dần dần khôi phục được ý thức. Sau đó là đến việc thẩm vấn quá trình gây án để định tội. Cho dù ngươi có là La Hán bằng sắt, rơi vào công đường cũng bị lột sạch da. Nếu chịu cung khai, dùng đại hình chăm sóc, lúc ấy đến gấu đen cũng phải thừa nhận mình là con thỏ. Sau khi thụ hình, Liên Hóa Thanh mới chịu khai ra, năm xưa phóng hỏa đốt chết cả nhà người đuổi y ra khỏi cửa hay hành hạ đến chết hai đứa bé ăn mày ở miếu thổ địa như thế nào; kết hợp với kẻ dạy xiếc khỉ vào thành, gây ra ít những vụ án thương thiên hại lí ra sao. Sau đó, con khỉ làm xiếc đột tửở giếng cạn trong vườn rau, y chiếm đoạt cuốn kỳ thư Ma Cổ Đạo còn lưu truyền lại bỏ trốn mất dạng. Nhằm trốn tránh truy nã, y có lần trốn ra ngoài tỉnh. Đầu tiên y ghi nhớ hết nội dung trong sách, sau đó đốt nó thành tro tàn để lại dấu vết. Lúc ấy bởi rối loạn, chưa quen với cuộc sống ở nơi xa lạ, nên y cũng chỉ còn cách diễn xiếc khỉ hoặc ăn xin ăn trộm lừa gạt mà sống, nhưng vẫn chịu nổi mùa đông đói rét. Nghĩ nghĩ lại, làm cách nào cũng tốt bằng trà trộn vào đám đông đủ mọi hạng người tụ tập ở bến cảng tàu thủy của Thiên Tân, bởi vậy chưa được vài năm, y buộc phải quay về, nhưng dám vào nội thành. Sau khi sát hại nhà năm người, y trốn ở trong ngôi nhà bị ma ám ở nghĩa trang nhà họ Ngụy. Y và kẻ dạy khỉlàm xiếc nảy sinh bất hòa. Bởi có đầu óc linh hoạt, y huấn luyện con khỉ đột, lại bắt nó lẻn vào trong nhà dân ăn cắp bào thai. Toàn bộ thuật mà y luyện được đều nhờ vào chỗ thuốc bột chế ra từ xác thai nhi. Đúng ra, thuật nhiếp hồn của Ma Cổ Đạo phải được luyện hoàn toàn bằng cách ăn sống nuốt tươi bào thai lấy ra từ bụng mẹ, nhưng những gì y ăn lại đều là thịt của thai nhi chết. Bởi vậy, khí người càng ngày càng nặng, cứ rơi xuống sông là biến thành hành thi. Vẫn còn có cả những nguyên nhân khác nữa, nhưng ngay cả bản thân y cũng đầu đuôi. Dù sao nữa, y cũng bị Quách sư phụ cầm gạch nện vào đầu, làm mất thi khí, cho nên mới khôi phục lại dáng vẻ ban đầu, nhưng lại mất khả năng thi triển ra pháp thuật mê hoặc, cuối cùng bị đội tuần sông tóm được cách dễ dàng. Đại khái đầu đuôi câu chuyện là như vậy. Quách sư phụ và hai người em của mình chạy đến ngôi nhà bị ma ám ở nghĩa trang nhà họ Ngụy để đuổi bắt Liên Hóa Thanh, rơi xuống sông Dương, chẳng khác gì chết sống lại lần, trong lòng tự hiểu những gì Trương Bán Tiên là chuẩn xác, tính toán khỉ trở về phân chia phần thưởng ra sao, cảm ơn Trương Bán Tiên như thế nào. cần đâu xa, chỉ cần tới Liên Hóa Thanh gây án lẩn trốn nhiều năm, cõng biết bao nhiêu án mạng người, theo luật pháp của thời bấy giờ có bào chữa giỏi thế nào cũng tránh khỏi tội chết. Tuy nhiên, thời kỳ Dân quốc có hình phạt chém đầu hay lăng trì. Nếu bị phán quyết tử hình, phạm nhân bị xử bắn. Lúc ấy y phải trải qua diễu phố thị chúng, sau đó bị áp tải đến pháp trường ở Tiểu Lưu Trang theo cửa tây để xử tử. Toàn bộ quá trình đó được tất cả các đài báo tranh nhau đưa tin, chủ đề chính của những cuộc tán dóc ở đầu đường cuối ngõ cũng chỉ xoay quanh câu chuyện này. Sau khi nghe ngóng được tin tức, bàn dân thiên hạ thông báo cho nhau với tốc độ chóng mặt. Vào cái ngày Liên Hóa Thanh bị diễu phố xử bắn, người ta đua nhau chen lấn đến xem náo nhiệt, khiến cho toàn thành rối loạn. Chúng ta vẫn luôn gọi là sông Liên Hóa Thanh, đồn đại kẻ này là quái dưới sông Vĩnh Định, nhưng rốt cục có chuyện gì xảy ra, vậy phải đợi đến ngày xử bắn ngài biết. Bảy Quyển sách 《Hà Thần》 này đàm luận đến những chuyện ma tà quái dị, chỉ đề cập tới những câu chuyện truyền miệng rỉ tai trong dân gian. Thế nào gọi là câu chuyện truyền miệng rỉ tai? người nghe người khác kể lại câu chuyện nào đó và ghi nhớ, sau đó người này lại kể cho người khác nghe, cứ như vậy lan truyền rộng ra. Trong quá trình đó, tránh được người ta thêm mắm dặm muối, càng lan truyền càng thần bí, kết quả là sinh ra vô số cách nhìn nhận khác nhau. Có người , năm ấy Quách sư phụ đuổi bắt Liên Hóa Thanh là thực, nhưng đến mức ly kỳ như lời đồn đại, bởi thực tế Liên Hóa Thanh sống vào thời Dân quốc, quê quán tại Trần Đường Trang, biết làm ảo thuật và xiếc khỉ, thường xuyên thu nhặt xác chết của trẻ con chôn bừa ngoài đồng hoang núi thẳm để làm thành thuốc bột, tự khoe khoang là mình biết sử dụng số pháp thuật mê hoặc tà ma quỷ quái, có lần chạy trốn ra tỉnh ngoài, quan phủ truy nã nhiều năm nhưng vẫn thể bắt được kẻ này. Có lần, khi còn lăn lộn kiếm sống nổi ở tỉnh ngoài, Liên Hóa Thanh quay trở về trốn ở nghĩa trang nhà họ Ngụy. Đúng lúc đó, Quách sư phụ ngang qua, vừa khéo bắt được kẻ này rồi dẫn về giao cho quan phủ. Sau khi thẩm vấn, y khai ra vài vụ trọng án, bị phán tử hình. Sau khi diễu phố xử bắn, xác y bị vứt bừa ngoài đồng hoang. Có đạo sĩ biết dưỡng cốt thu nhặt thi thể của Liên Hóa Thanh, mang về chôn ở tháp dưỡng cốt. Vị đạo sĩ này chuyên môn thu nhặt những thi hài vô chủ rồi chôn toàn bộ vào trong ngọn tháp đó. Nhưng cách này cũng thoát khỏi liên quan đến ma quỷ. Tích chuyện Quách sư phụ đuổi bắt Liên Hóa Thanh, sau này biến tướng thành Thần sông Quách Đắc Hữu bắt ở thôn Chó Dữ, khi đến sông Dương được rắn thần chỉ đường. chung là được kể lại vô cùng li kì. Theo tôi được biết, Quách sư phụ bắt được Liên Hóa Thanh bằng cách nào, kể cả người chí thân chí cốt của ông ta cũng lắm, bản thân ông ta rất ít . Chỉ có người của đội tuần sông là nhắc đến vài câu chuyện là còn có lẽ tương đối đáng tin. Bản án xử bắn Liên Hóa Thanh cũng chỉ được ghi chép lại rất chung chung trong tài liệu hồ sơ lưu trữ. Đúng ra phải còn phải có số vật liên quan đến tâm linh mà hoàn toàn thể giải thích được, nhưng lại được ghi chép lại, thành ra toàn bộ quá trình phá án trở nên hợp logic. Vào thập niên chín mươi sau giải phóng, ở vùng lân cận cái đập nước nằm ở ngoại thành Thiên Tân, xảy ra vụ án bí , tuy rằng được phá, nhưng nếu loại trừ yếu tố ma quỷ, vụ án này sao giải thích được cách hợp lý. Khi ấy, ở vùng nông thôn có nông dân họ Hoàng tên đầy đủ là Hoàng Lão Tam. Có lần Hoàng Lão Tam vào nội thành bán trâu. Sau khi bán xong, mình ôm bọc tiền về nhà. đường về, ta uống ít rượu nên lên nhầm xe. Khi tỉnh lại, ta phát mình đến vùng lân cận của đập chứa nước. Đúng lúc này, ta gặp người cùng thôn tên là Lưu Thất. Lúc bấy giờ, người này có việc phải làm ở đó. Hai người rảnh rỗi tán dóc vài câu. Vì câu chuyện phiếm đó mà cả hai chôn vùi tính mạng của mình ngay tại cái đập chứa nước đó. Biết được người Hoàng Lão Tam mang theo người tiền bán trâu, Lưu Thất nổi lòng tham, dùng con cá to mới đánh được làm mồi nhử, lừa Hoàng Lão Tam lên mặt đập chứa nước. Y vớ lấy con dao đốn củi, nhắm thẳng vào ót Hoàng Lão Tam mà chém nhát. Mặc dù con dao đó rất cùn, nhưng lại nặng như cây búa. Dính trọn dao, hộp sọ của Hoàng Lão Tam lập tức nát bét. Lưu Thất moi tiền của ta ra rồi buộc xác vào tảng đá, nhấn cái xác xuống đập chứa nước. Từ đó về sau, con người mang tên Hoàng Lão Tam này coi như mất tích. Đập chứa nước nằm giữa núi rừng của huyện Kế, chung đấy rất hoang vu, có người ở. Xác chết chìm xuống đáy đập nước, thần cũng biết quỷ cũng hay. Hoàng Lão Tam lên nhầm xe đến đập chứa nước, ngoại trừ Lưu Thất ai có thể nghĩ ra ta lại đến nơi nhự vậy. Người nhà cũng chẳng hề biết, người này ngộ hại bỏ mình. Sau khi mấy ngày trôi qua mà vẫn chưa thấy Hoàng Lão Tam về đến nhà, tìm khắp mọi nơi mà cũng thấy, người nhà sốt ruột chạy tới đồn công an báo án. rằng, Hoàng Lão Tam vào nội thành bán trâu, người mang theo ít tiền, chắc là giữa đường bị kẻ xấu giết người cướp tiền. Nhưng đồn công an ghi nhận việc đó, bởi vì có chứng cứ, có thành lập án cũng chỉ là án mất tích. Nếu quý vị là án mạng phải có tử thi, có tử thi chỉ có thể quy kết vào mất tích. Nhưng câu chuyện này lại giống như ma làm. Sau khi báo án xong, vợ Hoàng Lão Tam về nhà, đêm nằm mơ thấy có người gọi tên mình ở bên ngoài cửa phòng. Giọng nghe giống như của Hoàng Lão Tam, vợ ta vội đứng dậy chạy ra tìm, vừa tìm kiếm vừa hỏi ông chồng nhà chết trôi ở đâu vậy, tại sao khỏi nhà lâu ngày như vậy mà vẫn chịu về? Nhưng đối phương hề đáp lại. Sau khi dỏng tai lên lần theo tiếng tìm kiếm, người vợ nhìn thấy bên vách núi có khắc hàng chữ lớn 'đập chứa nước số bảy', lại mơ hồ nghe thấy Hoàng Lão Tam văng vẳng đâu đây 'ở dưới này quá lạnh, hãy mau chóng gửi tiền và quần áo xuống cho tôi'. Trong lòng chợt lạnh buốt, vợ giật mình tỉnh lại, phân vân tại sao ông chồng lại chạy đến chỗ đập chứa nước, lại còn dưới đó lạnh lắm, giục người nhà gửi tiền và quần áo cho ta nữa? Đến lúc hừng đông, người vợ vừa mới kể lại giấc mộng vào nửa cho cả nhà cùng nghe, mẹ của Hoàng Lão Tam chảy nước mắt, bảo rằng Hoàng Tão Tam đúng là chết ở chỗđập chứa nước rồi. Những người còn lại đều tin, nhưng bị cả hai mẹ chồng nàng dâu khóc lóc cầu xin, chịu nổi đành phải nhờ người của đội cảnh sát đường thủy năm sông giúp đỡ, lại còn tặng quà cầu xin, nhờ đội tuần sông hỗ trợ đến chỗ cái đập chứa nước đó để xem xét và đưa ra đáp án để cho mọi người an tâm. ngờ, tới đó tìm kiếm lúc phát ra tử thi. Tính mạng người là quan trọng nhất, có tử thi bắt buộc lập án phá án và truy bắt hung thủ. Cuối cùng điều tra ra hung thủ là Lưu Thất, vụ án bí này rốt cục được công bố kết thúc. Nhưng trong bản báo cáo điều tra, có vài chi tiết thể nào ghi chép vào được. Ngươi ta thể nào là có ma, hoặc là nằm mơ thấy người chết ở dưới đập chứa nước được. Phá án dựa vào nằm mơ ai mà chấp nhận cho nổi? Nhưng vấn đề là, nếu gạt giấc mộng này ra ngoài, phải giải thích lý do phải tới chỗ đập chứa nước đó để vớt tử thi bằng cách nào? Đây là vụ án người việc chút giả dối, là oan hồn tan cũng được, là thần giao cách cảm cũng chả sao. Tuy rằng có vật chứng cụ thể có thể thấy được sờ được, nhưng vẫn thể khăng khăng quy kết là mê tín. Bản thân tích Quách sư phụ đuổi bắt Liên Hóa Thanh năm xưa cũng ly kỳ như vậy cả. Từ cái xác bị dìm ở ngã ba sông, đến giấc mộng kỳ quái ở Trần Đường Trang, cho đến quá trình diễu phố thị chúng áp giải đến pháp trường ngoài Tây Môn xử bắn, cả câu chuyện này dường như vẫn còn chưa kết thúc.
Tám Ai cũng biết, bên ngoài Tuyên Vũ Môn của thành Bắc Kinh có chợ bán thực phẩm, đó là pháp trường chuyên hành quyết tội phạm từ đời nhà Thanh cho đến bấy giờ, bởi vậy Tuyên Vũ Môn được người ta gọi là Tử Môn. Vào đời nhà Thanh, pháp trường của Thiên Tân vệ được thiết lập ở bên ngoài Tây Quan. Tây Quan là cửa thành, là nơi thể coi là quá đông đúc, nhưng dù sao cũng là nơi giao lộ, đủ chỗ cho đông đảo dân chúng đứng xem. Vào thời điểm trấn áp Nghĩa Hoà Đoàn, có ít đầu người bị chặt xuống tại cái pháp trường ở nơi này. Đến thời Dân quốc, người ta huỷ bỏ hình phạt chém đầu, phạm nhân bị hành quyết bằng cách xử bắn, còn pháp trường cũng còn được thiết lập giữa đường nữa, mà được chuyển tới sân phơi gạch ngói của Tiểu Lưu Trang bên ngoài Tây Quan. Lúc tiến hành xử bắn Liên Hóa Thanh, địa điểm thi hành hình được thiết lập ở ngay cái sân phơi gạch ngói này. Nhưng đúng ngày hôm đó, pháp trường xảy ra việc lạ kỳ nằm ngoài sức tưởng tượng của con người. Thiên Tân vệ có hai cửa thành Bắc Quan và Tây Quan. Thành lâu khu vực phía bắc có quy mô đồ sộ nên được gọi là Bắc Đại Quan, còn phía tây có quy mô , nên gọi là Tiểu Tây Quan. Vào đời nhà Thanh, mỗi cửa thành đều có vọng lâu, đến năm 1900 bị quân đội của liên quân tám nước phá hủy. Sau giải phóng, Tiểu Tây Quan được cải tạo thành nhà giam, tất cả những kẻ bị giam giữở đó đều là trọng phạm. Ra khỏi cửa thành về phía tây, qua nghĩa trang, vượt con sông Long Miếu là đến sân phơi gạch gói của Tiểu Lưu Trang. Nó phải là cái xưởng hay là nhà máy, mà là sân bãi rộng, dùng để chất đống phế liệu gạch vỡ ngói vụn năm này qua năm khác, cỏ dại mọc um tùm; là nơi rất hoang vu có dấu chân người, nằm ngay sát cạnh Loạn Tử Khanh - nơi lý tưởng để vứt xác trẻ em. Bình thường, mỗi khi hành quyết phạm nhân, người ta luôn thi hành tại sân phơi gạch ngói của Tiểu Lưu Trang. Từ lúc huỷ bỏ hình phạt chém đầu cho tới bấy giờ, lượng phạm nhân bị áp giải đến xử bắn ở sân phơi gạch ngói của Tiểu Lưu Trang bên ngoài Tây Môn thực dưới con số vài trăm. Nhưng đáng nhắc tới chỉ có ba vụ. Đầu tiên là vụ xử bắn Hoạt Ly Miêu vào những năm đầu thời Dân quốc. Hoạt Ly Miêu là danh hiệu của gã phi tặc. Theo người ta kể lại, gã phi tặc này cực kỳ cao tay, y chưa bao giờ từng đồng lõa với kẻ khác. Án lớn bằng trời cũng chỉ do tay y gây ra. Y có tuyệt chiêu đặc biệt là chống sào mái nhà, qua lướt lại, liều mạng lướt giống như đất bằng, ai có thể tóm được y. Có lần đúng lúc gặp phải người của đội tróc nã tội phạm truy bắt mình, Hoạt Ly Miêu chống sào định nhảy lên nóc nhà. Ai ngờ cây tre mà y chọn đủ rắn chắc, vừa mới chống xuống nhảy lên được nửa chừng nó gãy làm hai đoạn. Hoạt Ly Miêu rơi thẳng từ trung xuống đất, ngã úp sấp cử động nổi chân tay, bị đội tróc nã tội phạm đè nghiến lại ngay tại chỗ, thi hành hình phạt diễu phố thị chúng, rồi áp giải ra pháp trường xử bắn. Trước khi phải ăn đạn mặt đổi sắc, kẻ này là loại người kiêu ngạo thành tính, phát ngôn ra những lời hùng hồn rất dễ mê hoặc lòng người. Tất cả câu từ đều là những lời sáo rỗng bùi tai được trích ra từ kịch nam Bình Thư, nào là những câu như "Chém đầu chỉ để lại cái sẹo lớn, hai mươi năm sau lại là trang hảo hán". Lúc ấy, dân chúng đứng xem diễu phố rất đông, đông nghìn nghịt chật như nêm cối. Mọi người đặc biệt thích nghe những lời như thế này, nghe đến mức say mê, cảm thấy nếu là hùng hảo hán sợ chết, lúc ra pháp trường phải những câu như thế, bám theo suốt quãng đường diễu phốồn ào cổ vũ, náo động cả nửa thành Thiên Tân. Cuối cùng là vụ xử bắn Viên Tam gia vào thập niên năm mươi. Viên Văn Hội Viên Tam gia là tội phạm số của Thiên Tân vệ, bị bệnh đầu trọc bẩm sinh, biết vài miếng võ. Mặc dù trước giải phóng bị bắt và giam giữ nhiều năm, nhưng chính phủ Dân quốc vẫn dám động đến y, bởi vì kẻ này là thủ lĩnh của giới xã hội đen, còn cai quản cả giới khuân vác thuê, thế lực quá lớn, căn cơ quá sâu, có thể mánh khoé trùm đời, tương đương với vị hoàng đế của bản địa. Y chỉ cần dậm chân cái, nội thành ngoại thành đều phải rung động mấy lần. Sau khi nước Trung Quốc mới được thành lập, chính quyền nhân dân quyết định thi hành xử bắn y. Lúc ấy là vào mùa đông, trời đông giá rét. Viên Văn Hội bị áp giải ra pháp trường, mặc bộ quần áo bông, tay trói gô, hai mắt đỏ bừng, sắc mặt thâm trầm. Bởi vì bị giam giữ lâu ngày, y thẫn thờ mất hết tình thần câu gì. Sau khi bị áp giải tới sân phơi gạch ngói của Tiểu Lưu Trang, y quỳ mặt đất lĩnh ba phát đạn. Vụ tử hình công khai khi ấy, muôn người đều đổ xô ra đường, nam nữ già trẻ chen lấn nhau xem. Nguyên nhân chủ yếu là bởi danh tiếng của Viên Văn Hội như sấm bên tai, ai ai cũng muốn tận mắt xem y có phải ba đầu sáu tay hay . Sau hai vụ đầu tiên và cuối cùng đó, dù là vụ xử bắn Hoạt Ly Miêu trước kia, hay là khai đao xử trảm giống như vương pháp Thanh triều, kể từ sau vụ xử bắn Viên Văn Hội, tình hình xã hội dần dần vào ổn định, hình phạt diễu phố tử hình còn được thi hành công khai nữa vừa mới ban hành đến vụ xử bắn Liên Hóa Thanh. Vùng Thiên Tân vệ này giống với Bắc Kinh, Bắc Kinh ở ngay dưới chân thiên tử. Đừng thấy hai nơi gần nhau mà lầm, phong cách hành xử của dân chúng hai nơi khác hẳn nhau. Kinh thành chủ yếu là hành quyết những nhân vật tai to mặt lớn, cùng với đó là cảnh tượng náo nhiệt pháp trường. Dân chúng kinh thành chỉ quan tâm xem những vụ xử bắn có quan hệ đến chính trị, ví dụ như hành quyết thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân hoặc là vị đại thần bị triều đình giáng tội nào đó, nhưng hơn tất cả là muốn thấy cách chém của đao phủ. Nhưng nếu là ở địa bàn của Thiên Tân, người ta lại quan tâm tới những điều đó. Với vai trò là bến tàu thủy bộ của chín nước tại Tô giới, là vùng đất mà đủ các hạng người rảnh rỗi tụ tập, dân chúng đặc biệt thích tham gia vào những cảnh tượng náo nhiệt, chỉ thích xem hành quyết những tên lưu manh khét tiếng hoặc những tên trộm cõng nhiều án cộm cán; Những kẻ như vậy phần lớn là dân liều mạng. Lúc diễu phố trước khi bị tử hình, nhìn thấy nhiều người nhìn mình cằm chằm như vậy, chẳng những sợ, chúng còn thường tỏ ra đắc chí, gân cổ lên mà hát vài câu Định Quân Sơn Dã Trư Lâm. Kẻ nào biết hát nói, hai câu đại loại như: "Các quý vị già trẻ lớn bé, hiểu tại hạ phạm phải việc gì nữa, sắp phải rơi đầu rồi. Bây giờ mong các quý vị già trẻ nhớ lấy mặt ta, hai mươi năm sau ta lại là trang hảo hán." Sau đó đám dân chúng bám theo sau đua nhau trầm trồ khen ngợi, cứ bước lại tung hô câu. Người biết hiểu rằng đó là tử tù bị xử trảm xử bắn, người hay lại cứ tưởng chào đón ngôi sao kinh kịch nào đó. Đây chính là tập tục của người bản địa. Cái ngày xử bắn Liên Hóa Thanh cũng diễn ra náo nhiệt như vậy. Mọi người nghe con mắt kẻ này có hai cái đồng tử, bèn suy diễn ra y là nhân vật khó lường đến dường nào, vụ náo nhiệt đến cỡ này làm sao có thể bỏ qua. Đến ngày thi hành án, ăn mày đường xin ăn, kẻ cắp trộm đồ, nghệ nhân hát tướng thanh biểu diễn, phu xe cũng nghỉ việc, đông đảo dân chúng kéo nhau xem, kẻ chen lấn người xô đẩy, trèo cả lên vai nhau, hai bên đường trở thành hai bức tường người, còn chỗ mà chen. Cảnh tượng hoành tráng như thế này, ai có thể tưởng tượng ra nổi. Tiếp theo xảy ra chuyện gì, liệu Liên Hóa Thanh có phải là quái dưới sông Vĩnh Định hay , ngài phải đến pháp trường xử bắn y ở Tiểu Lưu Trang mới biết tường tận. Chương 11: Xử bắn Liên Hóa Thanh (nửa chương đầu) Liên Hóa Thanh cúi đầu nhận tội là thủ phạm của số vụ án mạng. Sau khi xin ý kiến cấp , y bị phán tử hình, tống giam vào trong nhà lao chờ xử bắn. Đến ngày bị tử hình, Liên Hóa Thanh chỉ cầu được gặp mặt Quách sư phó lần, muốn có cơ hội biết mặt người bắt được mình là ai. Khi biết được việc này, Quách sư phó đồng ý đến hôm đó tới sân phơi gạch của Tiểu Lưu Trang tiễn y lên đường. Đến ngày y phải ra pháp trường, Quách sư phó được Đinh Mão tháp tùng, hai người cùng vào trong nhà giam gặp Liên Hóa Thanh. Vừa bước vào họ thấy Liên Hóa Thanh cúi đầu, tay bị trói giật cánh khuỷu chân bị xiềng, ngồi mình trong phòng giam, mặc bộ quần áo tù nhân rách rưới, sau lưng có cắm tấm bản định tội, ngồi im như tượng câu, cũng buồn ngẩng đầu lên. Đinh Mão cất tiếng : "Hôm nay cho mày được biết mặt ông tao, ấy chính là người bắt mày." Nghe thấy vậy, Liên Hóa Thanh ngẩng đầu lên, dùng đôi con ngươi bẩm sinh có hai tròng giống như hai cái hố sâu hoắm nhìn chằm chằm vào Quách sư phó quan sát kỹ lúc rồi mới lên tiếng: " thể nào ngờ Liên mỗ lại ngã ngựa trong tay kẻ như ngươi, giờ ông nhớ kỹ mày rồi. Cứ chờ đây, sớm muộn gì ông cũng tới tìm mày." Thấy kẻ sắp chết đến nơi còn phun ra những câu độc địa, Đinh Mão kìm chế được định mở miệng mắng chửi. Quách sư phó xua tay cho Đinh Mão cơ hội mở miệng rồi : "Liên Hóa Thanh, ngươi là thủ phạm của ít vụ án, đến giờ này chỉ còn cách lấy tính mạng ra đền tội, nên có bất cứ oán hận gì." nét dữ tợn thoáng lướt qua đôi mắt, Liên Hóa Thanh đáp lại: "Mà thôi, giờ này tao sắp phải ra pháp trường lĩnh đạn, đáng ra phải có bữa cơm rượu vĩnh biệt chứ?" Quách sư phó : "Đúng vậy, chắc chắn là có. Dẫu sao, đĩa thịt chén rượu trước khi ra pháp trường cũng là tập tục từ xưa. Giờ ràng còn sớm nữa, bất kể lúc nào cũng có thể áp giải phạm nhân ra pháp trường Tiểu Lưu Trang xử bắn, tại sao còn chưa đưa cơm vĩnh biệt lên?" Ông ta hỏi cai tù bao giờ mới đưa lên, người cai tù đáp: "Nhị gia ngài nghĩ đâu vậy. Mấy năm nay xã hội loạn lạc như vậy, kẻ bị xử bắn quá nhiều. Nếu như kẻ nào cũng được cấp phần rượu phần thịt, cho dù cái trại giam chết tiệt này của chúng tôi có là nhà hàng cũng thể gánh nổi kinh phí mua đồ ăn cho bọn chúng. với ngài nhé, trong cái nhà giam này chỉ có bánh làm từ bột bắp ngô, ngay cả cai tù chúng tôi cũng phải nhai cái món đó, do vậy phạm nhân chỉ được ăn lưng lửng dạ. Vụ xử bắn ngày hôm nay cũng ngoại lệ. Nếu như còn có thân nhân bạn bè gì đó, những người đó nên mang rượu, thức ăn và quần áo tới để cho được ăn uống no nê, mặc quần áo mới mà lên đường, còn nếu chỉ có thể như vậy thôi." Quách sư phó ngẫm nghĩ rồi kéo Đinh Mão ra ngoài, định mua mấy cái bánh bao thịt, hai món đồ ăn nấu sẵn cộng thêm nửa cân rượu, rồi mang về cho Liên Hóa Thanh ăn uống no nê trước khi lên đường. Nhưng ông ta vừa mới bước chân ra khỏi cửa, sau lưng đội chấp pháp xộc vào, dựng phạm nhân lên, trói nghiến lại rồi áp giải lên xe ngựa, sau khi diễu phố thị chúng thẳng tới sân phơi gạch ngói của Tiểu Lưu Trang ở bên ngoài Tây Quan. Trời sắp mưa, sắc trời u ám. Cả biển người kéo nhau xem náo nhiệt, chật như nêm cối, gió lọt mưa thấu qua được. Quách sư phó và Đinh Mão muốn chen lên trước, nhưng người đông nghìn nghịt, đâu đâu cũng là người, đường cái, nóc nhà, thậm chí cả ở cây. Hai người nôn nóng đến độ trán mướt mồ hôi, nhưng chẳng thể nào tìm thấy cái khe nào để mà lách qua. chung, người dân Thiên Tân vệ trước kia thích xem náo nhiệt. Mặc dù dân chúng các tỉnh trong toàn quốc cũng có sở thích này, nhưng tài nào sánh bằng nơi này. Năm đó, có người còn đào cống ngầm, với mục đích vượt qua đoàn người đông nghìn nghịt để vượt lên hàng đầu đứng xem. Thậm chí còn có lời bình: "Thà rằng chắn cửa thành, chứ đừng chắn cống ngầm, kẻ nào chắn cống ngầm có thể coi là vô đạo đức." Quay trở lại buổi diễu phố ra pháp trường ngày hôm đó. Cả đoàn người xem náo nhiệt ngước mắt nhìn lên, Liên Hóa Thanh bị trói xe, quần áo tả tơi, cúi đầu ngậm tăm, giống hệt như cái xác cho dù chưa bị xử bắn, là còn chút sức sống nào cả. Nhưng cả đám đông những kẻ rảnh rỗi này vất vả lắm mới có vụ nhiệt náo hoành tráng để xem, ai cam lòng bỏ về. Đầu người túm tụm lại chuyển động giống như nước thủy triều, tất cả bám theo phía sau, hy vọng đường có lúc nào đấy tử tù này bất chợt nổi máu hùng, thình lình gân cổ ngâm lên câu: "Đánh liều ra giữa phố phường, kính mời các vị khách khứa và bạn bè nghe cho kỹ. . ." Nếu được nghe câu hát này đúng là chán bằng chết. Hai Trước kia, mỗi lần thi hành án, đường bị áp giải đến pháp trường, khi phạm nhân trông thấy nhiều người ngẩng đầu lên nhìn mình như vậy, bất cứ kẻ nào cũng có cảm giác cả đời mình chưa từng được oai phong đến thế, cho dù là ngôi sao kinh kịch nổi tiếng nhất cũng chưa bao giờ được nhiều người xúm lại xem như vậy. có kẻ kể lể oan khuất, có kẻ muốn ra vẻ ta đây hảo hán. Hơn nữa, những người dân Thiên Tân vệ xem náo nhiệt lại khác hẳn với những nơi khác, dù có thế nào họ vẫn đua nhau khen hay. Bởi vậy, cho dù có sợ chết đến thế nào, phạm nhân cũng phải nhắn nhủ trước mặt đám đông mấy câu. Thậm chí còn có những tên trùm lưu manh khét tiếng, lúc ra pháp trường còn trưng diện áo khoác viền tua rua hình chân rết, đính mười ba hàng cúc kiểu Thập Tam Thái Bảo, lưng đeo hùng đái, mặc quần thụng, chân đeo Hổ khoái ngoa, đầu đội hùng cân. Những hùng lục lâm trong kinh kịch Bình thư ăn mặc như thế nào, chúng cũng mặc y như thế, đầu còn cài thêm đóa hoa giấy màu trắng, kẻ hỏi người đáp với đám người chen lấn đứng xem phía dưới. Mọi người cùng đồng thanh hỏi: "Hảo hán gia, hãy cho mọi người nghe, sao ngài lại nỡ lòng bỏ vợ đẹp lìa con thơ, sao lại nỡ lòng bỏ lại người cha già tám mươi tuổi ai nuôi dưỡng, sao lại nỡ lòng dứt bỏ tất cả bà con thân bằng cố hữu?" Vị hảo hán bị trói xe nhất định phải quắc mắt nhìn trừng trừng, chịu cúi đầu, đường mắng chửi ngớt, từ tổng thống hay là ông trời, bất cứ ai cũng dám mắng. Nghe thấy có người hỏi, phải đáp thế này: "Thưa toàn thể chư vị già trẻ lớn bé, tôi đây cũng luyến thương mẹ già ốm yếu, luyến thương vợ góa con côi, luyến thương huynh đệ bằng hữu sâu nặng nghĩa khí, nếu có hận chỉ hận bình sinh chưa thỏa chí. Thế nhưng, hảo hán tôi đây làm những việc mà hảo hán phải làm, hôm nay mạng đổi mạng chết cũng đành. Đầu rơi xuống đất chỉ là cái sẹo lớn, mười tám năm sau lại trở về báo thù." Cứ mỗi lần vị hảo hán đó nhắn nhủ câu, đám người bên dưới hô lớn tiếng "Hay", vang vọng tới mây xanh, vang chấn động cả mái nhà. Sau khi xong, mắng đủ, vị hảo hán đó tiếp tục hát hai khúc, biểu đạt phần nào tình cảm lưu luyến. Bất kể có biết hát hay , khúc ngâm trước khi bị tử hình đó nhất định là phải lâm li bi ai lay động cả đất trời. Đó mới chính là yếu tố phấn khích nhất, còn về phần rơi đầu vì phạm vào tội gì cũng chỉ là thứ yếu. Dân chúng chán ghét đến cùng cực việc hô khẩu hiệu trước khi xử bắn, bởi có hô thế nào cũng chẳng có ai mà hiểu nổi; Tiếp theo là muốn thấy phạm nhân sợ đến vỡ mật lên lời, nhất là cái loại bỏ mềm nhũn như chi chi được câu. Chỉ trong chớp mắt đầu rơi xuống đất rồi, nếu làm gì còn cơ hội nữa đây? Suốt quãng đường áp giải Liên Hóa Thanh ra pháp trường, cả rừng người rướn cổ kiễng chân, trợn mắt ngóng chờ. Nhưng thất vọng thay, cái kẻ mất hết tinh thần này rên nổi lấy tiếng, chẳng khác gì cái cọc gỗ, khiến cho đám đông xem náo nhiệt sinh ra lo lắng, có người gân cổ gào lên: "Hảo hán, ngài phải hát hai câu chứ!" Người khác kiếm cách vẽ đường: "Chúng ta hãy cổ vũ cho nào, mọi người nghe tôi đếm nhé, . . . hai. . ." Sau đó chỉ còn nghe thấy cả trăm ngàn người cùng đồng thanh hô lớn: "Hay!" Liên Hóa Thanh cúi gục đầu, nghe thấy tiếng 'hay', từ từ ngẩng đầu lên. Mọi người lập tức nín thở im hơi lặng tiếng, ai gì nữa, trợn mắt trợn mũi chờ Liên Hóa Thanh mở miệng, thế này có lẽ là định hát khúc "Cảm thán hùng gặp nguy nan sinh ly tử biệt". Ở Thiên Tân vệ từ già đến trẻ ai cũng thích nghe, cũng biết hát, sàn diễn nên hát cái gì nên hát cái gì, toàn bộ họ đều hiểu hết, hát sai là có thể phát ra ngay. Nào ngờ Liên Hóa Thanh chịu hát, mà chỉ nhìn khắp đám đông lượt, lên tiếng khẩn cầu: "Thưa toàn thể các quý vị già trẻ, Liên Hóa Thanh tôi quê quán ở Trần Đường Trang, lớn lên học điều hay lẽ phải, lầm đường lạc lối vào Ma Cổ Đạo, giết người phạm pháp, hôm nay phải lĩnh đạn pháp trường. Rơi vào đường cùng như vậy, thực còn gì để mà bào chữa, chỉ có điều muốn cầu xin, hy vọng các vị thương tôi ai chiếu cố, chuyến này có đường về, giờ hãy cho xin hớp rượu và thức ăn, để tôi ăn uống no bụng, đường đến hoàng tuyền đến nỗi biến thành quỷ chết đói vạn kiếp siêu sinh. Sau khi đầu thai, tôi quên báo đáp các vị." Năm đó có câu như thế này -- " dị tà thuật thế gian hiếm, ngũ lôi hành quyết ít người hay". Thời nhà Thanh trước đó còn có thể bắt gặp thuật ảo giác, nhưng từ thời dân quốc trở rất hiếm thấy. Đám đông xem náo nhiệt cho rằng Liên Hóa Thanh chỉ đơn thuần là kẻ hù dọa người khác giang hồ. Cho nên khi nghe thấy y rất đáng thương, lập tức có người hảo tâm kiếm rượu tìm thịt. Khi đến quán cơm đường hỏi mua, tiệm cơm cũng lấy tiền, bởi vì đây là việc tích đức, Nếu kẻ bị áp giải ra pháp trường hành quyết ăn hết rượu thịt trong quán của mình, sau này chắc chắn được hồi báo. Rượu thịt được giao cho quân cảnh trong đội chấp pháp phụ trách áp giải chuyển đến bên miệng Liên Hóa Thanh. Liên Hóa Thanh ăn như hổ đói sạch còn lại chút gì rồi lại cúi đầu, nhắm mắt tiếp tục bất động. Ba Mọi người đứng xem ở xung quanh tài nào hiểu nổi, giờ cơm vĩnh biệt trước khi chặt đầu nuốt xuống bụng, tại sao vẫn câu gì? Chẳng lẽ là cảm thấy chỗ rượu thịt đó ngon sao? Cả biển người huyên náo bám theo dọc đường, người nọ lại cứ như là nghe thấy gì. Sau khi ra khỏi Tây Quan, tới sân phơi gạch ngói của Tiểu Lưu Trang, đội chấp pháp lôi Liên Hóa Thanh xuống xe, bắt quỳ xuống trước cái hỗ được đào sẵn, nghe quan chấp pháp đọc tội danh. Có ba viên cảnh sát thi hành án cầm súng bước lên trước, chỉ chờ ra lệnh tiếng là tiến hành xử bắn. Khi nhìn thấy đội chấp pháp áp giải Liên Hóa Thanh qua Tây Quan, đại đa số mọi người lập tức trèo lên lưng lừa quay trở về, bởi cảm thấy còn gì thú vị nữa, nhưng con số những người ở lại đứng chờ xem xử bắn ở pháp trường Tiểu Lưu Trang cũng còn tới dưới cả trăm. đường đuổi theo, Quách sư phó và Đinh Mão mời được đạo sĩ biết dưỡng cốt, chờ sau này nhặt xác cho Liên Hóa Thanh. Đúng vào giữa trưa, sắc trời u nặng nề, thấy Liên Hóa Thanh bị trói quặt hai tay ra sau, sau lưng cắm tấm bản định tội, cúi đầu quỳ gối trước cái hố, miệng lẩm bẩm giống như thầm gì đó. Đột nhiên, y ọe ra ngụm nước đen ngòm. Những người ở lại dù tránh ra xa, nhưng vẫn còn ngửi thấy tanh hôi nồng nặc, thi nhau bịt chặt miệng mũi, trong lòng vô cùng kinh ngạc. Chẳng hiểu là y ăn thứ gì bẩn thỉu đến mức còn thối hơn cả cá chết dưới sông? Ngày trước, trước khi bị xử bắn, thường xuyên có tử tù kìm chế được sợ hãi, bởi vì quá khẩn trương, toàn thân run rẩy, dạ dày kịch liệt co thắt, phun sạch đồ ăn trong dạ dày ra ngoài, nhưng cũng đến mức tanh hôi như thế. Mọi việc diễn ra có phần quái lạ. Lúc ấy, trời bắt đầu mưa, cơn mưa , tất cả mọi người đều ướt như chuột lột. Vị quan chấp pháp phất tay, ra hiệu nhanh chóng tiến hành xử bắn. Sau khi nhổ tấm bản định tội xuống, ba viên cảnh sát thi hành án lần lượt tiến lên. Viên cảnh sát đầu tiên nâng súng lên, nhắm thẳng vào gáy Liên Hóa Thanh quỳ mặt đất bắn phát. Tiếng súng vừa vang lên, vang vọng vùng hoang vu. Những người đứng xem nghe thấy, toàn bộ cảm thấy trong lòng lạnh run. Cùng lúc với tiếng súng vang lên, thân thể Liên Hóa Thanh đổ ập về phía trước, rơi tọt xuống hố. Viên cảnh sát thứ hai bước lên, nhắm vào người Liên Hóa Thanh nằm trong hố bắn tiếp phát. Sau đó, đến lượt viên cảnh sát thi hành án thứ ba bắn phát cuối cùng. Làm như vậy để tránh bắn lần đủ giết chết tử tù; Đồng thời, cũng vì lo ngại có người trong đội chấp pháp bị mua chuộc từ trước, đến khi nổ súng bắn vào chỗ hiểm. Cho nên, mỗi khi xử bắn đều bắn ba phát, người của đội chấp pháp còn xuống dưới xem xét xem tử tù chết hẳn hay chưa, sau đó mới ký tên vào biên bản. Nếu như có người thân bạn bè đến nhặt xác, dùng chiếu cuốn lại rồi ném vào Loạn Tử Khanh ở bên cạnh cho chó hoang ăn. Ngay lúc ấy, đạo sĩ dưỡng cốt lên nhặt xác. Sau đó thế nào, đội chấp pháp quan tâm, vội vàng thu đội quay về. Cơn mưa vừa rơi, đám người xem náo nhiệt bốn xung quanh cũng giải tán. Xem xong toàn bộ quá trình xử bắn Liên Hóa Thanh, Quách sư phó cảm thấy có điểm thích hợp. Ông ta nhìn thấy trước khi bị xử bắn, Liên Hóa Thanh phun ra ngụm nước đen ngòm tung tóe mặt đất, giống với thức ăn ăn vào trong dạ dày mà tanh hôi giống như bùn dưới đáy sông. Đạo sĩ dưỡng cốt lôi thi thể của người chết lên khỏi hố, ông ta bước lại gần cẩn thận quan sát, thấy đầu Liên Hóa Thanh bị đạn phá ra lỗ thủng nhầy nhụa. Ông ta lo lắng, vén mi mắt tử thi lên quan sát, tròng mắt chỉ còn lại con ngươi. Ông ta lại quay sang nhìn bãi nước đen ngòm y phun ra trước khi chết, nhưng nó bị mưa cuốn trôi. Quách sư phó thầm nhủ: " hay rồi! Nghe , khi vượt qua sông Vĩnh Định, Liên Thu Nương sống ở Trần Đường Trang may ngã xuống nước. Mặc dù nhờ phúc tổ tiên chết đuối, nhưng khi về đến nhà ta tự nhiên có bầu rồi sinh ra đứa con trai bố là ai, đứa bé đó chính là Liên Hóa Thanh. Có người , y là con của thủy quái dưới sông Vĩnh Định, cho nên mới gọi y là sông. Tuy cách này có căn cứ xác đáng, nhưng trước khi bị xử bắn Liên Hóa Thanh phun ra ngụm nước đen ngòm. Sau khi chết, đôi con ngươi song đồng tử lại biến thành đơn đồng tử, giống như có con quỷ náu trong thân xác. Liên Hóa Thanh chết ở pháp trường Tiểu Lưu Trang chỉ đơn thuần là cái túi da người mà thôi, còn sông dưới dòng Vĩnh Định lợi dụng lúc mưa to trốn mất rồi."