Chương 5: Gặp gỡ bất ngờ của Ngô lão hiển ở vườn rau Cả đời Hà thần Quách Đắc Hữu sợ nhất người khác cái biệt hiệu này. Chỉ làm chân lang bạt ở đội tuần sông, sống nhờ nghề khuân vác để kiếm chén cơm lấy cái đức cái tài gì mà tự xưng là 'Hà thần'? Mới đầu nghĩ tới, nhưng về sau suy nghĩ cẩn thận. Từ xưa phàm là thần, thánh đều được phân theo đức hạnh, tài năng. Ít nhất cũng phải có bản lĩnh ở khía cạnh nào đó mới có thể được coi là người tài. Thánh hiền chỉ có bản lĩnh mà còn phải tài đức vẹn toàn. trắng ra là có thể giúp quân vương trị quốc - an bang - bình thiên hạ. Còn thánh nhân phải là người toàn vẹn, siêu phàm tuyệt luân mới có thể thành thánh. Văn thánh Khổng Tử, Võ thánh Quan Vũ mà cũng chỉ mới tới mức gần là Thần. tên ăn ngũ cốc, nuốt tạp lương mà lại xưng là Hà thần đúng là tổn biết bao nhiêu thọ, gãy mất bao nhiêu phúc đây? Đinh Mão thường khuyên Quách sư phụ: "Sư ca nghĩ ngợi nhiều quá. Đơn giản chỉ là cái tên hiệu thôi mà. đâu xa, trong những hảo hán ở Thủy Hử cũng có tới dăm ba vị xưng Thần mà có việc gì đâu?" Quách sư phụ : "Ai bảo có việc gì? trăm lẻ tám tướng ở Thủy Hử về sau có mấy người có kết cục tốt? Mà người ta là Thiên Cương Địa Sát giáng trần, sau khi chết lại về làm Tinh Quân. Ta là tên vớt xác ở đội tuần sông, e là do tổ tiên tích đức nên mới phải làm nghề này. Nếu ngươi muốn ông này sống thêm vài năm đừng hai chữ Hà thần này với ta nữa." Ngoài miệng Quách sư phụ vậy nhưng tính tình vẫn đổi. gặp thôi, nếu thấy việc bất bình là ắt phải ra tay. Từ hồi phát ra cái xác dưới ngã ba sông tới nay, ai cũng gọi là 'Hà thần'. Mà từ đó ông ta cũng bắt đầu vơ phải số con rệp. Sau vụ cương thi nhà ga Lão Long Đầu, do nhớ tới phần tiền mà Thạch tài chủ hứa nên Lý Đại Lăng liên tục thúc giục Quách sư phụ để hỏi về manh mối vụ xác chết ở ngã ba sông. Mà trong lòng Quách sư phụ cũng chưa từng bỏ qua chuyện này. Ông ta dẫn Lý Đại Lăng và Đinh Mão tới nhà kho đội tuần sông xem khối sắt. Sau khi bóc gỉ bên ngoài ra phát ra khối sắt có vài chữ cổ. Ba người xem xem lại nhưng chữ cũng . Ngoài ra cái khối sắt này cũng có hình thù quái dị, nhìn như đầu vượn thân thú. Do ở dưới đáy sông lâu ngày, gỉ bám kín cả nên nhìn là hình gì. Quách sư phụ nghĩ đây là món đồ cổ dùng để trấn sông, hẳn là có người nào đó nhìn ra. giờ tốt nhất là tới tìm ông cụ bán thuốc để hỏi xem sao. Mọi người hay gọi ông cụ bán thuốc đó là Ngô lão hiển, tính về vai vế Quách sư phụ phải gọi ông ta tiếng sư thúc. Ông cụ đứng còn tốt nên phải chống gậy, nhà ở quầy hàng gần miếu hoàng thành phía Tây Bắc thành, sống bằng nghề bán dược đường. Trước tiên phải nhắc tới dược đường là cái gì? Dược đường là loại thuốc mà có thể ăn trực tiếp luôn vào. Đó là loại đồ ăn vặt ở xã hội cũ. giờ có rất ít người bán thứ này. Cái gọi là dược đường bình thường chính là nấu đường cát cùng với vài loại dược liệu như sa nhân, đậu khấu, bạc hà, tiên khương. . .sau đó cắt thành miếng , bỏ vào trong chai treo ngoài phố bán. Ai muốn mấy miếng lấy thanh trúc gắp ra cho vào túi đưa cho người ta. Mà người bán dược đường phải tay làm khá nhiều việc. Ai cũng vậy thôi, làm việc gì cũng phải có vài bản lĩnh. Người bán dược đường phải giỏi thu hút khách hàng. có khả năng này bán dược đường chỉ có húp gió Tây Bắc hơn. Năm xưa có mấy vị sư phụ bán dược đường có thể là cực đỉnh. vị tên là Lý 'biên mã', bình thường diễn xiếc xe dạp, sau đó hô hào bán hàng với nội dung dễ nghe, vài câu hát, bài vè điển cố. Mở đầu thường là vài câu bờ bến giới thiệu này nọ, sau đó là màn biểu diễn xe đạp. Đừng nhìn ông ta có cái bụng lớn hơn bao cỏ mà nhầm, mọi động tác đều hết sức gọn gàng. Những trò như Trương Phi biên mã, Kim Kê độc lập, tám bước đuổi cóc, đăng lý tàng thân khỏi phải , lại còn có cả nhào lộn xe dùng để thu hút chú ý của người qua đường. Tới lúc người tụ tập đông ông ta mới bắt đầu vừa rao vừa bán với giọng khoan khoái như mùa hè ăn dưa hấu. Mấy câu rao kiểu như: "Hương đào mật đào đây, quả hồng quả nho đây, quả quất quả trám, thanh đờm trừ hỏa. Cam, cam đường, củ từ, quả táo và cả chuối tiêu, hạnh nhân, trà cao, đào, dứa yên, thai lê, ô mai quả hồng, bạc hà đường lạnh. Ai ăn có ngay đây." Lý biên mã là vị, còn vị khác là Vương đại cáp khắp hang cùng ngõ hẻm bán dược đường với bộ áo liền quần như nhân vật nổi tiếng, đầu đội mũ dạ cũ, thân mặc âu phục, dưới chân là đôi giày da hở mõm, sống mũi là gọng kính óng vàng, dây buộc qua màng tai, tiếng rao vang khắp chốn, buôn bán ở mọi nơi. Chưa ai thấy ông ta cười bao giờ. xe có cái lồng sắt chứa hai con sóc có thể làm động tác theo hiệu lệnh của người chỉ huy. Bất kể tới đâu, phía sau Vương đại cáp luôn là đám lít nhít ồn ào náo nhiệt, chúc lão bán được dược đường. Tiếp sau phải kể tới Ngô lão hiển. Mặc dù đứng dễ, ngày ngày phải ngồi ở trước miếu thành hoàng góc Tây Bắc thành. Chỉ với cái chảo sắt nấu dược đường, cái bàn dài bày đủ các loại thảo dược điều chế dược đường, ông ta điều chế ngay tại nơi. Vừa nấu thuốc vừa giảng giải công hiệu của từng loại dược đường. Thường thường mỗi cuộc chuyện đều là thao thao bất tuyệt, bờ bến. Ông ta còn năm xưa vị đại tổng đốc Lê Nguyên Hồng cực kỳ thích ăn dược đường của lão, mỗi tháng phải mua tới mấy chục quan tiền. Nếu ông ta kể 'Tam Hiệp Kiếm'. Nhân vật trong bộ truyện này là ba hiệp khách, ba kiếm khách, hợp vào xưng là Tam Hiệp Kiếm. Truyện kể vào thời Khang Hy, Hiệp Thắng dẫn đầu hùng nghĩa sĩ trong tiêu cục mười ba tỉnh ngoài bờ Nam Kinh, tróc nã lục lâm đạo tặc ở từng vùng núi đồi, hải đảo động quật. Bộ truyện này vừa được kể xong là cả đám náo nhiệt lên. Ngô lão hiển chân nhưng lại biết đủ thứ, việc giang hồ nắm như lòng bàn tay. Cho nên sắm vai tuồng đấu võ là hợp nhất, vừa kể chuyện vừa hoa tay múa chân, cực kỳ có sức lôi cuốn. Mỗi khi kể tới lúc mọi người náo nhiệt là lão lại dừng lại, bắt đầu rao hàng dược đường. Đám người nghe nhiều phát nghiện, đợi nổi hạ hồi phân giải nên lập tức nhao nhao bỏ tiền ra mua. Tới lúc dược đường bán được kha khá lão mới bắt đầu kể tiếp. Quách sư phụ muốn thăm dò manh mối về nữ thi lông xanh. Mà tìm người hỏi là vấn đề, nghĩ tới nghĩ lui. Nếu như cả Thiên Tân có người biết người này chính là Ngô lão hiển. Cùng ngày, Quách sư phụ dẫn theo hai huynh đệ, vẽ mô phỏng lại hình vẽ cục sắt, mang tới miếu thành hoàng ở góc Tây Bắc, mời Ngô lão hiển xem xem có nhận ra là vật gì . Lý Đại Lăng rất khó hiểu. Ngô lão hiển chỉ là người bán dược đường sao có thể biết được loại chuyện thế này? Quách sư phụ : "Sư thúc ta phá án còn chưa lấy danh hiệu đâu. Ngươi cứ gặp mặt rồi biết." Ba người tìm được Ngô lão hiển. Quách sư phụ gọi sư thúc, hôm nay thúc cũng đừng buôn bán gì, ta tìm chỗ uống hai lượng. Huynh đệ chúng ta có số việc muốn thỉnh giáo thúc. Ngô lão hiển : "Cảm tình này ta xin nhận, sư thúc ta cũng phải loại tham rượu đâu." dứt lời, ông lão nhờ Đinh Mão thu giúp chảo sắt vào rồi tìm quán ăn ở gần đó. Lúc này phải giờ ăn nên trong quán có ai, bốn người ngồi ở góc tường. Bồi bàn đem tới bếp lò, bưng lên nồi lẩu, dạ dày, đậu phụ, thịt, cải thìa bày bàn, mở ra hai bình rượu lạnh. Trời càng nóng càng phải ăn thịt xuyến, ăn xong cả người đẫm mồ hôi, mát mẻ như vừa tắm xong. Năm nay thịt đầu dê phải ngon cho lắm. Nhưng phải tiệc nên cũng ăn uống đại khái mà thôi. Mà đám người Quách sư phụ cũng có nhiều tiền nên bình thường cũng chỉ tới những quán bán rượu thịt thế này mà thôi. Quách sư phụ với Ngô lão hiển: "Sư thúc còn chưa biết. Tên hòa thượng béo ở chợ Nam này là Lý Đại Lăng, có thể coi là huynh đệ với ta và Đinh Mão." Lý Đại Lăng nhanh chóng nâng chén rượu lên với Ngô lão hiển, : "Quách gia, Đinh gia à hai vị ca ca của ta. Ta cùng với họ nên gọi ngài tiếng sư thúc. Về sau ngài có việc gì cần đến, cứ gọi ta tiếng." Đinh Mão : "Lý Đại Lăng ngươi đừng có lấp liếm, lấy miệng đối phó. Tí nữa cơm nước xong xuôi, ngươi ra mà trả tiền rồi muốn gì ." Ngô lão hiển : "Được rồi, chú cháu ta còn gặp nhau. Vào vấn đề , ta vừa thấy các ngươi đến là biết chuyện gì rồi. Có phải việc liên quan tới vụ án xác chết ở ngã ba sông ?" Lý Đại Lăng : "Ôi dời, hóa ra sư thúc biết trước rồi. Ngoài bán dược đường lại còn có thể xem bói. Chẳng trách nhị ca muốn tới thỉnh giáo ngài." Ngô lão hiển cười gượng hai tiếng : "Hang cùng ngõ hẻm đều biết tới vụ án ngã ba sông. Ta mỗi ngày đều bày quầy bán dược đường lại biết sao?" Đinh Mão giơ ngón cái lên, : "Sư thúc vẫn rất minh mẫn." Ngô lão hiển khoát tay: " đâu, chân què, người cũng già, thân thể ngày sau bằng ngày trước, e là chẳng sống được bao lâu nữa. Trở lại chuyện chính, đừng tào lao nữa, có phải các ngươi tới vì chuyện vụ án xác chết ở ngã ba sông ?" Quách sư phụ kể lại toàn bộ mọi việc cho Ngô lão hiển lượt, mời Ngô lão hiển xem chữ viết cục sắt. Đôi mắt của Ngô lão hiển dựng thẳng lên, sau lúc lâu mới hồi phục tinh thần, cho ba người: "Tảng sắt kia là con hổ sắt. mặt tảng sắt kia hẳn là đúc chữ: Thiết năng trị thủy, giao long viễn tàng, duy kim khắc mộc, vĩnh trấn thử bang. Hải Hà thường xuyên có nạn lụt. Tương truyền giao long sợ sắt nên quan phủ đúc chín trâu, hai hổ, gà bằng sắt làm vật trấn sông, có cái chôn dưới đất, có cái thả ở mắt sông giữa dòng. Con hổ sắt này là trong số đó." Đinh Mão : "Vậy cũng rắc rối. Nếu tảng sắt kia là vật trấn sông, mà chúng ta lại lấy nó lên từ đáy sông gây họa chăng?" Lý Đại Lăng ngạc nhiên : "Vậy cái xác nữ ở ngã ba sông kia là quái dưới sông sao?" Quách sư phụ thấy sắc mặt của Ngô lão hiển ổn như thể nhớ lại chuyện gì đó nên ra hiệu cho hai huynh đệ kia gì nữa, mời sư thúc ra xem là do nguyên nhân nào mà ra như vậy. Sau hai chén rượu, Ngô lão hiển kể lại câu chuyện kinh tâm động phách cho ba người. Dưới ngã ba sông kia vốn có xác nữ kia, mà hẳn là chỉ có con hổ sắt này. Mà việc chín trâu, hai hổ, gà cũng là truyền thuyết từ thời ông còn trẻ. Khi đó là năm Gia Tĩnh thời nhà Thanh. Năm đó quan phủ tiêu diệt đạo Ma Cổ làm cho kỳ thư về pháp tà thuật lưu lạc khắp dân gian, hại chết ít người. Vụ án xác chết ở ngã ba sông rất có thể có quan hệ với việc này. Lại tiếp, đây là chuyện hơn chục năm trước. Khi đó chân của Ngô lão hiển còn chưa què. Trước kia ông ta làm người áp tải có luyện qua võ, cuối thời nhà Thanh trở thành bổ đầu ở cửa công, tới thời dân quốc bổ khoái được đổi tên thành đội Thái Phỏng, Thái là theo dõi, truy kích, Phỏng là tìm hiểu tin tức, đội đó tương đương với đội cảnh sát điều tra mặc thường phục, chuyên việc lùng bắt tội phạm, trộm cắp. Có hôm vào nửa đêm, ông truy vụ án, gặp quái ở vườn rau. Ngô lão hiển tới ngay lúc quái vắng. Vườn rau nằm ngay mặt sau từ đường Lý công. Ở Thiên Tân có kiến trúc cổ tên là từ đường Lý công hơn xa cả Vương phủ. Đó là từ đường của Lý đốc sư quân phiệt Bắc dương Lý Thuần Lý, chiếm diện tích gần trăm mẫu, khí thế to lớn, cổ hương cổ sắc. Tới tận ngày nay, phần lớn vẫn được bảo tồn như cũ. Cả khuôn viên đều nhìn từ hướng Bắc sang Nam, ở ngoài cửa có cột đá sư tử, bàn thờ đá, ngựa đá, người đá. Bước qua cổng chính là vườn hoa rồi tới đạo quán, sau đó là tiền, trung, hậu điện. Đủ loại đồ vật tương xứng được đặt điện thờ. Ba tòa đại điện nguy nga đồ sộ, từ trong ra ngoài rường cột đều được chạm trổ, xanh vàng rực rỡ. Bên trong phủ còn có phù điêu hình ngọc long đoạt châu sân, bốn phía hành lang uốn lượn nối nhau tạo nên nét khí phái vương cung nội viện. Sau giải phóng, từ đường Lý công chuyển thành cung văn hóa công nhân, sau đó thành chợ sách cũ. Mấy năm gần đây còn được mở cửa miễn phí nữa mà muốn vào phải có vé, theo đoàn. Ở từ đường Lý công đúng là có điều quái gở. để ý tới thôi, nhưng nếu ra đúng là kỳ quái . Quái chính là ở chỗ bố cục của từ đường Lý công quay ngược với bình thường. Ở các phủ đệ nhà khác vườn hoa đều ở phía sau cùng, tới cả hoàng cung nơi hoàng đế ở cũng vậy. Chỉ riêng có từ đường Lý công là ở ngoài cửa. Vườn hoa ngay cửa vào nên vừa vào cửa là phải bước qua vườn hoa rồi mới có thể tới chỗ khác. đời này có nhà thứ hai nào làm như vậy. Từ đó tạo ra phong thủy tốt, cho nên Lý đốc quân Lý Thuần Lý bị đột tử chết thể là có quan hệ với tòa phủ đệ này. Những năm đầu dân quốc, dân gian truyền lưu hai câu: "Phía nam nghèo tỉnh, nước Bắc giàu hai nhà." Quân phiệt Lý Thuần chính là trong hai nhà nước Bắc đó. Khi còn sống, qua nhiều năm đốc quân nên tài sản giàu lên nhiều. Tục ngữ có : tiền nhiều cháy thân. Nhiều tiền mà biết tiêu thế nào nên cảm thấy khó chịu. Trong lúc ý nghĩ xẹt qua, nhớ tới tổ tông nhà mình nên quyết định rầm rộ xây dựng từ đường, dùng mấy chục vạn bạc trắng mua cả tòa Trang vương phủ ở Bắc Kinh xuống. Sau khi hủy nguyên dạng đem về Thiên Tân. Vật liệu, gỗ ngói lưu ly đều là loại tốt nhất. Dựa theo bố cục của vương phủ xây dựng từ đường Lý gia. Khi trước cũng có người có tiền tới mua lại toàn vương phủ, nhưng rồi mua xong dùng được, hủy xong. Mà trước đó vài năm có người đồn rằng ở đây có chôn tiền vàng hơn trăm năm qua. Ai mà chẳng đỏ mắt, ai mà muốn mình giàu. Cho nên dù vương phủ bị phá hủy cũng bị phen đào tung bới loạn lên. Vì xây dựng từ đường, Lý đốc quân phải bỏ ra rất nhiều tiền, mời cả tiên sinh tới xem phong thủy, bố cục. Dĩ nhiên vườn hoa ở phía sau, nhưng vừa đắp tường đá được nửa xảy ra chuyện. Có người bàn tán sau lưng từ đường Lý gia làm như cung điện, vị đốc quân này có phải có dã tâm lớn quá ? Lúc đó, Lý đốc quân mới chú ý tới quy cách xây dựng trong nhà. Đúng là có đủ từ ba tòa tiền, trung, hậu điện, xung quanh có bốn gian nhà, phía sau có vườn hoa, là quá giống hoàng cung. Nhưng hủy được, nếu lại thành mất trắng tiền sao? Có người xui chuyển vườn hoa ra đằng trước, như vậy chả có kẻ nào nghi ngờ gì nữa. Lý đốc quân đành phải làm theo mà quên mất rằng như thế làm cho địa thế của từ đường Lý công quay ngược lại, chạm vào điều đại kỵ trong phong thủy. Sau khi từ đường xây xong lâu, bị tên dưới quyền bắn chết, hưởng thọ bốn mươi sáu tuổi. Chân tướng có nhiều cách , tới nay chưa xác định là nguyên do gì. Nghe Lý đốc quân bất hạnh có con nối dõi, nạp nhiều thê thiếp vào nhà, tới nằm mơ cũng muốn đẻ con trai. vợ bé trong đám thê thiếp tranh thủ tình cảm, rồi ngầm mua tên lính hộ vệ, sau đó vụng trộm ngủ với y, muốn nhờ cách này mà có thai, sau đó giả mạo đó là con của Lý đốc quân, mẹ nhờ hơi con, theo đó mà ả ta cũng được quan tâm hơn. ngờ vào đêm, vợ bé này hẹn hò với tên lính hộ vệ Lý đốc quân đột nhiên từ ngoài về, gặp phải gian tình. Tên lính hộ vệ hoảng hốt, vội vàng giết chết Lý đốc quân. Để giấu chuyện này, bên ngoài chỉ biết là đột tử chết. Nhưng nếu chết như thế cũng ứng với điềm xấu mà bố cục phong thủy đảo chiều gây ra. Thế cho nên sau đó mới gặp phải tai họa. Sau khi nhà Lý suy bại, từ đường Lý công cũng trở nên hoang phế. Tiếng gõ mõ cũng còn. Ở phía sau từ đường vốn là vườn rau lớn, có vài loại rau trồng ở đó nhưng rồi cũng theo nhà Lý mà hoang phế. Mọi người đều truyền nhau rằng ở đây phong thủy tốt. Giữa thu có gió lạnh, cây cối khô héo như hạt cát, thỉnh thoảng lại còn có cả tiếng cóc, dế kêu. Cho nên người ở xung quanh dù có là ban ngày cũng dám tới đây. Lúc đó trong ngoài thành có vụ bắt cóc trẻ con, thất lạc là thể nào tìm được. Ngay từ đầu có lời đồn rằng có tên què bắt cóc. Người người trong đội Thái Phỏng rình bắt ở khắp nơi, điều tra từng góc ở trong thành, nên từ đó yên ổn được hồi, nhưng bên ngoài thành lại bắt đầu có trẻ bị bắt cóc. Nông dân nghèo khó lại trở thành đối tượng để kẻ bắt cóc để ý tới. Trải qua nhiều lần tra hỏi, dần dần lộ ra thông tin là ở những nơi bị mất trẻ, thôn dân đều thấy người đàn bà lai lịch. Người đàn bà này dùng vải xanh trùm đầu nên nhìn mặt, mặc ở người là áo khoác dài có tay. Theo đó, cả đội Thái Phỏng chia ra để tìm người này. Tuy lực lượng đủ nhưng để giải quyết với người đàn bà bắt cóc trẻ con hai người cũng đủ rồi. Ngô lão hiển cũng khinh thường. Có hôm ông ta thân mình tới nằm vùng ở thôn trang. Ban ngày, phần lớn người đều ra đồng làm việc. Cuối thu khí thoải mái, đồng ruộng lại tràn ngập cao lương to chắc, người vác cao lương như kiểu đội lên cho mình cái mũ đỏ chót. Ở nông thôn có câu: ba tháng mùa xuân vội bằng tháng mùa thu. Thời gian thu hoa màu chính là lúc mà nhà nông bận rộn nhất. Thường ngày xong việc cái là họ về nhà ngủ hết, mà ở nông thôn thường ngủ sớm, trăng vừa lên là ngừng việc, về nhà ăn cơm, tới lúc trời tối đen là ngủ. Thứ nhất là làm việc cả ngày mệt mỏi, thứ hai là tiết kiệm dầu thắp sáng. Nhưng hôm đó tình hình lại khác thường. Mấy nhà địa chủ trong thôn mời tới gánh hát, bày bàn đầu thôn ca diễn. Bởi khi đó đất đai đều thuộc về nhà chủ, mà việc nhà nông lại vốn bận thể làm hết, nhất định phải mướn người làm thời vụ, cho ăn cho uống trả tiền. Việc nhà nông cực kỳ vất vả, lại cần nhiều sức nên sau khi hết việc bận là mấy nhà giàu có thường thường bỏ tiền ra thuê gánh hát về, coi như là khao thưởng cho người giúp việc. Người dân trong thôn cũng được nhờ, người quanh thôn đều chạy tới xem. Diễn chủ yếu là tạp kỹ, nam trung niên hát văn dân lại thích vì chủ yếu là hiểu. Già trẻ trai đều thích xem kịch võ, bởi vì có náo nhiệt, vừa thấy là thích. Hôm đó diễn là vở 'Chung Quỳ gả em '. Đừng nhìn vào nông thôn mà coi thường gánh hát. Sở trường của họ chính là thể loại này. Trang phục đạo cụ cũng hề đơn giản. Cả người lẫn ngựa tới hơn hai mươi vị, cờ quạt, chiêng trống, ô dù, kiệu cưới đều đủ cả. Chung Quỳ mặt đỏ râu son, em xinh đẹp, tiểu quỷ đưa cũng đủ hình thù kỳ quái, cả gánh diễn cực kỳ náo nhiệt. Diễn từ xế chiều tới lúc đèn treo cao, cuộc vui kéo dài tận đêm khuya, ngủ cũng muộn. Ngô lão hiển cả ngày tra ra manh mối gì, xế chiều lại hòa vào đám thôn dân xem diễn kịch. Ở nông thôn có người gõ mõ trực cầm canh, tới lúc tan cuộc ước chừng cũng phải tầm giữa canh hai canh ba. Cả vầng trăng treo cao trời, trong thôn hoàn toàn yên tĩnh. Ngô lão hiển xem cuộc vui tới quên thời gian. Tới lúc cuộc diễn tàn mới nhận ra là tới canh hai, lúc đó còn cách nào về thành nên chỉ còn nước tá túc nhờ đêm, ngày hôm sau lại bị tiêu chảy nên về muộn mất nửa ngày, tới chiều vội vàng về thành theo hướng cửa Nam. Người phố dần dần đông đúc, bên đường có hàng quán nghi ngút khói, ven đường có người ra vào, xe qua xe lại. Lúc đó còn sớm, mặt trời cũng sắp xuống núi, cả ngày tìm ra cái gì, lão qua lại, cảm thấy trong bụng có gì. Bụng cũng còn gì nên khỏi phải lo là ăn uống ra sao, móc trong túi ra mấy đồng mua vài cái bánh hấp. Sở dĩ gọi là bánh hấp vì bánh có nhân đậu bọc bột, sau đó đặt lên bếp hấp chán, bán ở ven đường. Ngô lão hiển mua vài cái ăn chống đói, trả tiền xong là về phía nhà. Nhưng vừa mới cắn cái ông ta thấy phố có người đàn bà, thân mặc áo vải bố, áo dài có ống tay, đầu đội khăn, cả tấm vải che kín mặt, dây buộc ở cổ. Ở xã hội cũ kiểu ăn mặc này cũng kỳ lạ lắm. Người đàn bà kia cúi đầu nhìn thấy mặt, bước cực kỳ vội vã, chỉ gọi là gặp thoáng qua với Ngô lão hiển. Cặp mắt kia của Ngô lão hiển cũng phải là treo để đó, vừa nhìn thấy dáng vẻ người đàn bà này có chút giống với kẻ bắt cóc kia hơi ngớ ra. Sau khoảng giây lát ngây người, người đàn bà kia qua. Ông ta cũng chỉ nhìn theo bóng lưng chứ chạy tới bắt người đàn bà kia, vì dù sao ông cũng là người đứng đầu đội Thái Phỏng, nếu ngộ nhỡ có sai sót là bị quy cho tội trêu chọc phụ nữ, mà bị người khác chửi 'Miệng đầy hàng răng cãi hết, cả người lại có mỗi miệng kêu', có nhảy xuống Hoàng Hà cũng sạch. Cách đối nhân xử thế của ông ta luôn cẩn thận chín chắn, chuyện nắm chắc bao giờ làm, ở lại đắn đo bằng cứ theo người đàn bà kia về, thầm theo xem người đàn bà kia đâu rồi quyết, sau đó phát ra người đàn bà kia vào thành rồi tiến vào ngõ người. Lúc này sắc trời dần tối, mặt trời lặn về phía Tây, Ngô lão hiển càng thêm nghi hoặc khi thấy người đàn bà kia quẹo trái rẽ phải tới gần vườn rau từ đường Lý công. Nơi đó vốn là nơi người ở, người đàn bà tới chỗ vườn rau hoang phế lúc trời tối để làm cái gì? Ngô lão hiển thầm đúng là thần xui quỷ khiến thế nào, nếu xem cuộc vui tới quên đường về rồi lại bị tiêu chảy đúng là thể nào gặp được người này. Bất kể người đàn bà kia có phải mụ bắt cóc mình cũng phải chặn lại hỏi xem sao. Ngô lão hiển nghĩ vậy liền bước nhanh lên theo người đàn bà kia, định tiếng cho đối phương dừng lại, vì chỉ cần quay mặt sang là có thể biết mặt mũi người kia ra sao ngay, ai ngờ người đàn bà kia phía trước, cách có năm ba bước mà đột nhiên thấy đâu. Ngô lão hiển thầm rùng mình, chợt thấy ở phía sau có luồng gió lạnh, cả người vội quay phắt lại thấy người đàn bà kia đứng ở phía sau từ lúc nào. Cho dù có ánh trăng vẻ mặt dưới cái khăn che của người đàn bà kia vẫn tối đen như thể có, chỉ có thể nhìn ra hai con mắt tỏa ra hai đường sáng hung ác, đồng thời hai bàn tay lông lá chìa ra bóp chặt vào cổ Ngô lão hiển. Ngô lão hiển lắp bắp kinh hãi nhìn đôi bàn tay thô dài, móng vuốt sắc bén. Lúc trước đôi bàn tay trong ống tay áo nên còn nhận ra, nhưng khi vừa mới vươn ra ngoài đúng là phải tay người. Ngày đó, Ngô lão hiển rất kiệm lời, nhiều nhưng kỹ năng đâu ra đó, được truyền thụ cho Thông Bội quyền nên công phu cao thâm, luôn vô thanh vô tức làm việc lớn, sau khi theo dõi mạch người đàn bà kia tới vườn rau phát ra người đàn bà kia là vật sống chưa bao giờ thấy qua, mà cũng hề biết là quái vật gì. Đôi bàn tay của người đàn bà kia như hai gọng kìm sắt, đột nhiên túm lấy cổ Ngô lão hiển, bóp chặt vào bên trong, đồng thời miệng phát ra thanh như con cú. Ngô lão hiển chấn động nhưng gặp nguy loạn, đôi bàn chân ra chiêu liên hoàn Uyên Ương thối, đạp thẳng vào mặt người đàn bà kia, đồng thời bản thân cũng mượn lực nhảy ra sau vài bước. Người đàn bà mặc áo dài, trùm đầu đợi Ngô lão hiển đứng vững, mang theo trận quái phong bổ nhào tới. Dưới ánh trăng giữa vườn rau hoang, thân hình kia quỷ dị như làn khói đen. Ngô lão hiển nhìn ra đối phương định đưa mình vào chỗ chết, hạ thủ bất dung tình. Ông ta nhàng rút cái điếu ra, đầu điếu là cục đồng cực kỳ nặng, bình thường để hút thuốc, tới lúc nguy cấp có thể dùng làm vũ khí phòng thân. Lúc này, ông ta quay tròn nó, hung hăng quật tới. Cả người lẫn vuốt của con quái vật kia lao tới, đúng vừa vặn khi cái ống điếu đánh ra, sau tiếng 'Gào' thảm, nó phải vội vàng rụt tay lại. Ống điếu của Ngô lão hiển cũng dừng lại, mặc kệ xanh đỏ đen trắng ba bảy hai mốt gì, cứ thế đập tới. Con quái vật kia thấy tình thế ổn, quay người định bỏ trốn, nhưng chỉ trong thoáng chốc xoay người, đỉnh đầu nó bị Ngô lão hiển đập túi bụi vào, máu tươi bắn tung tóe, cả người lảo đảo, nghiêng trái nghiêng phải, định liều mạng chạy trốn. Nhưng Ngô lão hiển sao có thể để con quái vật này thoát, ông đuổi sát theo phía sau. Vườn rau phía sau từ đường Lý công vốn xưa kia có trồng đủ loại hoa quả, về sau nước đổi dòng, vườn rau trở nên hoang phế, bờ ruộng mọc đầy cỏ dại. Dưới đêm trăng, khói mù phủ đầy cỏ, trước mặt là cảnh tượng tiêu điều thê lương. Tuy Ngô lão hiển vẫn có đề phòng nhưng lúc đó cũng nhịn nổi, phải toát hết cả mồ hôi lạnh khi nhìn vào cái vẻ mặt đầy máu me dưới ánh trăng của con quái vật. Cái mắt, cái mũi kia khá là giống người, nhưng bộ mặt quá dài, vừa giống lừa vừa giống ngựa, miệng đầy răng nanh trắng hếu. Con quái này bị đuổi tới đường cùng, giang hay tay đầy lông ra quay lại đánh. Nhờ ánh trăng, Ngô lão hiển nhìn ra đây đúng là con mã hầu đứng thẳng lên như người. Mã hầu là tên gọi mà người trong dân gian dùng để dọa trẻ , bình thường rằng nếu ăn là bị mã hầu bắt ăn thịt. thực tế, đây là giống linh trưởng gần giống khỉ, hoặc là vượn núi nhưng mặt dài gấp rưỡi, trong dòng giống khỉ vượn cũng là loài hiếm thấy. Ngô lão hiển vạn lần ngờ con mã hầu này thông nhân tính, có thể mặc y phục, buộc tóc vấn khăn, giả dạng thành người đàn bà đường, trong lòng lão vừa sợ vừa ngạc nhiên. Nhưng chỉ sau chút ngây người, con mã hầu kia bổ nhào tới trước mặt, Ngô lão hiển tránh kịp, người bị chọc mấy lỗ, da tróc thịt bong máu tươi đầm đìa, ống điếu rơi mặt đất, trong lúc nguy cấp vẫn còn kịp lấy tay xé tảng thịt người con hầu kia, nhưng ngờ ở ngay phía sau có cái giếng cạn, Ngô lão hiển dậm chân vào chỗ trống , lập tức ngã ra sau. Sau khi vườn rau trở nên hoang phế, miệng giếng kia bị cỏ dại che khuất, Ngô lão hiển chỉ chú ý tới con hầu kia, hề để ý tới cái giếng cạn trong vườn này, mà con hầu lao thẳng tới trốn ở chỗ gần giếng cạn này đúng là cố ý để đẩy Ngô lão hiển ngã xuống đó. Ngô lão hiển ngã xuống giếng cạn, hai tay hề nới ra, con hầu kia cũng giãy ra được. Đôi bên ngươi níu lấy ta, ta víu chặt ngươi, cùng nhau rơi xuống đáy giếng, gặp phải tình cảnh sống chết trước mắt, Ngô lão hiển thể liều mạng đánh canh bạc này, bao nhiêu năm khổ công canh năm luyện giờ phút này cũng phát huy tác dụng, giữa trung cả người quay cái làm con hầu kia bị nằm xuống phía dưới. Ngay khi người vừa xoay lên chạm đất, tiếng bộp vang vọng, tiếng xương cốt vỡ vụn, máu thịt bay tứ tung. Giếng cạn nhiều năm, đá bóng loáng, giọt nước cũng có, con mã hầu cắm mặt xuống đất, hộp sọ cắm thẳng vào ngực. Ngô lão hiển nằm thi thể con mã hầu, may mắn nhặt lại được cái mạng, nhưng xương đùi vỡ vụn, đau tới hôn mê bất tỉnh, tới lúc tỉnh lại trước mặt tối mù, hề thấy tí ánh sáng nào, may là người có bao diêm. Sau khi có chút ánh sáng phát ra ngoài xác chết của con hầu ra, còn có xác cụ già. Vừa rồi cái đầu của ông cụ này cắm thẳng vào ngực con hầu, não tương chảy đầy đất. Ở dưới giếng cạn còn có ít hài cốt trẻ , đoán chừng toàn bộ vụ án bắt cóc trong ngoài thành đều do con hầu này gây nên. Ngô lão hiển tìm ra quyển sách cổ rách rưới người ông cụ kia. Đáy giếng tối như hũ nút nên ông ta cũng nhìn ra cái gì, thuận tay nhét vào trong ngực, sau đó nén cơn đau dưới chân, hai tay cố gắng bò lên miệng giếng tìm người giúp đỡ. Sau khi bò lên, mở quyển sách ra xem phát ở trong có ghi lại pháp tà thuật vô cùng cổ quái, ở bìa có chữ, chỉ vẽ đóa sen trắng. Ngô lão hiển biết năm xưa Bạch Liên giáo khởi binh tạo phản, quan phủ truy nã người biết thuật tà pháp khắp nơi. Khi đó ở đây có đám tà ma ngoại đạo, mượn danh nghĩa thiên thư để lại cuốn ghi lại thuật kỳ thư. Sau khi đám tà ma bị quan phủ diệt, kỳ thư lưu lại ở dân gian, về sau bị gã nghệ nhân giang hồ nhặt được. Gã này vốn chỉ chuyên lừa gạt buôn bán, trộm mộ, trong tay có con sái hầu chuyên bắt trẻ khắp nơi, về sau bán cho người ngoài. Những đứa bán được, hoặc là thu làm đồ đệ, hoặc là cho chết khô trong giếng, sau đó tuy án được phá nhưng chân của Ngô lão hiển cũng bị phế, từ đó về sau làm cách nào ăn cơm cửa công được nữa, về mở cửa hàng dược đường ở miếu Hoàng Thành góc Tây thành. Lúc đó, vụ án trẻ bị bắt cóc coi như được phá. Quách sư phụ biết Ngô lão hiển làm đầu mục, sau lại đứng đầu đội thái phỏng, đời này phá qua vô số đại án, nhưng tới tận giờ mới biết, hoá ra gặp phải con hầu ở vườn rau Lý công từ nên hai cái chân của sư thúc mới bị phế mất. Lý Đại Lăng nghe tới tâm phục khẩu phục, liên tục rót rượu cho Ngô lão hiển: "Sư thúc, về sau cuốn kỳ thư ghi lại tà mà kia rơi vào tay ai vậy?" Đinh Mão : " thuật tà pháp đó lưu lại thành tai hoạ, lúc đó chắc chắn là sư thúc đốt sạch." Ngô lão hiển : "Đúng là nên đốt, nhưng nếu lúc đó đốt rồi ta cũng chẳng phải kể lại cho các ngươi." Năm đó, Ngô lão hiển trừ ở vườn rau xong, bò lên từ cái giếng cạn, chân đau tới mức trán đổ mồ hôi lạnh. Lý công từ bị bỏ hoang tới liêu, gọi tới nửa ngày cũng có ai tới giúp. Ông ta nhớ ra có quyển sách lấy được từ xác chết dưới giếng, dưới ánh trăng móc ra xem, vừa mở ra thấy toàn là bàng môn tà đạo. Ông cố gắng nhìn nữa, lo sợ nhìn xong vào đường ma còn kiềm chế nổi bản thân nữa. Lúc đó thấy cỏ tường động đậy, Ngô lão hiển chăm chú nhìn theo, chỉ thấy dưới ánh trăng có tên thiếu niên bộ dáng ăn mày độ mười sáu mười bảy tuổi leo qua tường Lý công từ, thò đầu nhìn xung quanh vườn rau. Đứa này hơn phân nửa là nhà để về, tới đến trèo qua tường vào ngủ ở Lý công từ, thấy động tĩnh mới thò đầu ra xem. Ngô lão hiển với đứa : "Ngươi đừng sợ, ta là quan sai của đội thái phỏng, vừa rồi ta bị rơi xuống cái giếng cạn này, hai chân gãy. Ngươi mau tìm người giúp ta với." Đứa kia nhảy từ tường xuống, cẩn thận tới gần Ngô lão hiển. Từ ánh trăng mờ mờ, Ngô lão hiển nhìn ra vẻ mặt mi thanh mục tú của đứa kia, nhưng từ vẻ thanh tú đó lại toát ra cái gì đó rất gian tà. Hơn nữa vẻ mặt có hơi khác thường, trán chỉ có hàng mi hợp lại từ hai hàng, mắt có hai đồng tử. Người bình thường mắt có con ngươi, nhưng đứa này mắt có hai con ngươi, hai mắt là bốn con ngươi. Cả ngàn người cũng có nổi người như vậy, theo tướng số người thế này nhất định có kỳ vận, nhưng cũng có thể là đoản vật tướng tiểu quỷ. Ngô lão hiển thấy đứa này có vẻ mặt tà khí, nhớ tới kỳ thư kia còn ở trong tay, ông lăn người đất đứng dậy, theo bản năng nằm đè lên quyển kỳ thư đó. Việc này làm đứa kia chú ý tới, hai con ngươi quay tít vòng, : "Vị sư phụ già có bảo vật gì mà phải giấu cho ta nhìn vậy?" Ngô lão hiển : "Nào có cái gì, chỉ là cuốn sách rách nát. Ngươi mau tới con đường trước Lý công từ gọi người tới giúp ta với, ta cảm tạ ngươi tốt." Đứa ăn mày kia : "Khụ, ta còn tưởng là cái gì, hoá ra cuốn sách nát, thấy ông bị thương , tốt nhất là nên vào góc vườn ngồi đỡ bị rắn cắn. Trước tiên ta đỡ ông rồi tìm người sau." Ngô lão hiển nghĩ thầm mình đúng là quá đa tâm, đây chỉ là đứa ăn mày nhà để về, e là tới chữ còn biết, vậy làm sao phải e ngại với quyển sách này. Lúc này, đứa lau qua cái tay bẩn lên người, xoay người làm bộ đỡ lão dậy. Đột nhiên nó cước vào cái chân gãy của Ngô lão hiển. Ngô lão hiển bị trọng thương, lại phòng bị, bị đứa kia đá trúng chân bị thương, đau tới mắt tối sầm, phát giác quyển sách trong người bị đối phương cướp mất, thầm nhủ: "Thôi rồi, cả ngày đánh nhạn lại bị nhạn mổ vào mắt." Đôi chân của Ngô lão hiển bị gãy, bước nổi, lại bị đá cước vào chân gãy, đau tới muốn ngất, nhưng dù sao ông ta cũng là tay già đời trong ông môn, cả đời bắt vô số cường đạo, kinh nghiệm phong phú, luôn có hậu thủ đề phòng. Ngay khi vừa thấy tên ăn mày kia lao hơn ba bước, lão lập tức rung tay, nhào cả người tới. Đây là bộ pháp bắt trộm được quan sai truyền lại từ thời tiền Thanh, lập tức đối phương bị té ngã, cũng do đối phương tuổi còn nên lão cũng hạ thủ lưu tình, ghìm chặt cổ đối phương xuống. Nhưng chỉ cần lão buông tay đứa kia có mọc cánh cũng thoát được. ngờ đứa ăn mày kia ngã xuống mà hề kêu lên tiếng, bỗng nhiên có vật vo tròn bay tới, ngay khi cả người Ngô lão hiển đổ ập xuống, đứa la toáng lên: "Có rắn!" Ngô lão hiển vội vàng đưa hai tay ra đỡ, trong lúc hoảng hốt tưởng đúng là rắn , tới lúc ngã nhào đất mới nhìn ra là cái quần của đối phương cuộn lại. Cứ vậy, chỉ trong nháy mắt phân vân, đứa ăn mày kia sớm cao chạy xa bay. Về sau đội thái phỏng điều tra phát ra con sái hầu dưới giếng cạn kia có vài đồ đệ khác. Sau khi lùng bắt được vài tên, thẩm tra rồi tóm tắt lại, toàn bộ đều bị đập chết. Từ lời khai của mấy tên kia, con sái hầu tìm được kỳ thư trong miếu hoang, dựa theo đạo tà ma nuôi thi, tìm tới nơi có tảng sắt trấn sông vớt lên, sau đó buộc mang bầu ném xuống. Nghe xác chết bị dìm có thể hút địa khí, đợi sau này nơi đây gặp nạn như hạn hán lũ lụt, con sái hầu tự xưng là cao nhân đắc đạo, làm trò vớt thi thể dưới xông lên, dùng pháp thuật mê tín để thu tiền. Còn về việc sái hầu hại chết bao nhiêu người, xác chết kia bị dìm ở đâu mấy tên đồ đệ bị quan phủ bắt đều biết. Tới tận lúc đội tuần sông ngũ hà phát ra vụ án xác chết ngã ba sông, đầu đường cuối ngõ đều kể lại, Ngô lão hiển bán dược đường phố vừa nghe thấy là ngờ rằng có quan hệ với con sái hầu năm xưa. Hôm nay, lão vừa gặp mặt ba em Quách sư phụ là lập tức ra. Có thể kết luận chắc chắn rằng, đứa ăn mày cướp được kỳ thư ở vườn rau Lý công từ năm xưa chính là đồ đệ của con sái hầu, tên là Liên Hóa Thanh. Chỗ dìm xác chỉ có con sư phụ là con sái hầu và đồ đệ Liên Hóa Thanh biết. Năm đó, quan phủ phái người lùng bắt liên tục trong vài tháng, nhưng hề tìm ra tung tích Liên Hóa Thanh, mà cũng biết trốn đâu, án tới nay chưa được giải. Ngô lão hiển lại què chân nên đổi nghề sang bán dược đường. Mấy huynh đệ trong đội thái phỏng của lão đều vẫn cố lùng bắt Liên Hóa Thanh, nhưng bất kỳ người nào tra ra manh mỗi là đều bị chết rất khó hiểu. Đảo mắt nhiều năm trôi qua, Ngô lão hiển nghĩ mang chuyện đó ôm vào quan tài, ngờ hôm nay do uống nhiều rượu quá, cuối cùng lại ra hết. Ngô lão hiển biết, ra thôi, khi ra là hai em Quách sư phụ và Đinh Mão tìm Liên Hóa Thanh bằng được, khuyên bảo cũng được, chỉ còn nước dặn dò: "Nhất định Liên Hóa Thanh đổi tên thay họ, trốn ở trong thành. Tên này vốn rất mưu trí, giờ e là cực kỳ khủng khiếp, mạnh hơn sư phụ sái hầu của nó biết bao nhiêu lần. Sau này, nếu gặp được Liên Hóa Thanh, nhất định các ngươi được coi thường." Đinh Mão cảm thấy khó hiểu, vội hỏi: "Sư thúc, nếu đổi ta là Liên Hóa Thanh trong vụ án này, vốn có được kỳ thư ta nhất định cao chạy xa bay bao giờ trở lại. Tại sao ông vẫn nhận định là còn ở quanh đây?" Ngô lão hiển trả lời: "Quanh đây chỉ có Thiên Tân Vệ là vùng trù phú, xung quanh có tổng cộng mười hai bảo vật trấn sông, địa khí cực thịnh. Nếu rời , những bàng môn tà đạo kia thể nào thi triển được. Thứ hai là tới nơi quen biết, rất dễ bị lộ hành tung, giống như nơi này, từ Bắc tới Nam đều đông đúc. Ta thấy, Liên Hóa Thanh là kẻ cực kỳ giảo hoạt, chắc chắn y càng trốn ở nơi sầm uất càng khó tìm." Quách sư phụ và Đinh Mão nghe xong cũng thầm hạ quyết tâm: "Nếu Liên Hóa Thanh trốn ở Thiên Tân Vệ, cho dù có đào sâu ba thước, chúng ta cũng phải moi lên." Cả hai lại thêm câu cửa miệng: "Chó tốt canh ba nhà, hảo hán giữ ba thôn". Chỉ vì ý nghĩ này mà về sau mới có "Chó dữ bắt thôn." sớm việc này nhưng chưa chắc người biết hiểu, vốn việc rất ly kỳ, vì cái gì mà gọi Liên Hóa Thanh là Hà ? Rốt cục có phải là ? Xem tiếp mọi người hiểu.
Chương 6: Hộp sắt oan hồn Mồm là tróc nã Hà Liên Hóa Thanh nhưng cũng chẳng biết tìm thế nào. Ngô lão hiển lại 'tuổi nhanh hơn hoàng thổ', căn bản cũng chẳng làm được gì, chính quyền cũng có ai chịu điều tra án cũ qua nhiều năm như vậy. giờ Quách sư phụ và Đinh Mão chỉ biết tự tìm biện pháp. Lý Đại Lăng muốn theo hỗ trợ. là kẻ có lợi đừng hòng theo, nghe Ngô lão hiển về kỳ ngộ ở vườn rau từ đường Lý công, biết vụ án xác chết ở ngã ba sông và đại tiểu thư nhà họ Thạch mất tích cùng thời gian, tám chín phần mười là cùng người, bắt được Liên Hóa Thanh án này thể giải quyết ngay được. Vì Thạch lão gia đồng ý có thưởng nên cũng phải liều mạng, chứ nếu cũng chẳng được cắc nào. Quách sư phụ nghĩ thầm, mặc dù Lý Đại Lăng là tên cầu bất cầu bơ, nhưng lại có thể trà trộn đường, chui vào ổ chuột, chỗ nào cũng có thể vào, có điều tra cũng thể nào biết hết được. Qua cái lỗ tai ấy, dù có là gió thổi cỏ lay cũng biết. Có thêm trợ giúp của cũng tồi vì thế nên Quách sư phụ đồng ý, bắt đầu điều tra. Vạn khởi đầu nan, chỉ cần tìm được chút manh mối là có thể lần ra Liên Hóa Thanh, rồi có khi lại có thể bắt được. Nhưng án cũ qua nhiều năm, đâu có dễ phá, đúng là như mò kim đáy bể. Hỏi tới hỏi lui, cuối cùng biết được Liên Hóa Thanh sinh ra tại Trần đường trang, cách thành cũng xa. Quách sư phụ và Đinh Mão ngày nào tìm ra, sống yên. Hai người tới Trần đường trang tìm kiếm manh mối. Trần đường trang chính là nơi thờ cha con Thác Tháp Thiên Vương Lý Tịnh trong truyền thuyết trấn thủ Trần Đường Quan. Thời xưa, Quan Hạ là vùng biển, về sau biển cạn, biến thành Trần đường trang, thời trước giải phóng còn có miếu Trấn Hải và miếu Na Tra. Quách sư phụ và Đinh Mão tới vùng phụ cận hỏi thăm, khi nhắc tới Liên Hóa Thanh, có ít người biết. Nhà của Liên Hóa Thanh vốn là nhà phú hộ ở địa phương nhưng cả nhà sớm chết sạch. Nhưng cả nhà họ Liên chết thế nào, vì sao Liên Hóa Thanh lại trở thành đồ đệ của con sái hầu kia cùng hướng phía sau cả Trần đường trang cũng chẳng có mấy người biết. Mà cho dù có biết cũng chỉ là tin đồn, thể nào coi là chắc chắn được. Sau ngày lân la, hai người vẫn thu được kết quả gì, tới lúc xế chiều định về đột nhiên trời u đất ám, sau đó nổi cơn mưa giông. Vài ngày trước, trời luôn oi bức giọt mưa, hạn tới mức nhất định là úng, dưới đất là thời binh hoang mã loạn, ông trời già cũng chẳng thể nào hòa nhã được. Hai người vừa mệt vừa đói lại nhìn thấy trời mưa như trút nước, mà cũng tối nên đành phải tới ngôi miếu thổ địa trong vùng tránh mưa. Có khi mưa hết cả đêm, nên phải trú ít nhất là tới sáng rồi mới có thể tính tiếp. Chỗ trú là tòa miếu thổ địa tan hoang lâu, mạng nhện phủ đè lên bụi, gió lạnh từ tám phương ùa vào như tường, ở trong còn có người ăn xin. Cùng cảnh trong miếu, tối lửa tắt đèn, hơn nữa người ăn xin này tóc tai bù xù, mặt còn đen hơn cả Táo quân, căn bản nhìn ra cái gì. Người ăn xin thấy có hai người vào miếu thổ địa vội vàng bưng cái bát lên cầu khẩn: "Xin nhị vị thương xót, xin ngài thương xót, cho ta xin cái ăn. . ." Quách sư phụ và Đinh Mão cả ngày quên ăn, trong người có cất mấy cái bánh nướng làm lương khô, thấy người ăn xin này cũng đáng thương nên đưa ngay cho cái bánh nướng. Gã ăn xin nhận lấy cái bánh rồi rúc vào góc tường ăn như hổ đói. Đinh Mão : " à, đừng để đám bọ chó người gã kia lây sang, tốt nhất là tránh xa chút." Nhưng cái miếu thổ địa đổ nát tứ bề, diện tích cũng lớn, còn có chỗ dột nên hai người đành phải vơ đám cỏ khô đất lại rồi ngồi ở góc tường, vừa gặm bánh cho đỡ đói vừa kể lại những tin tức nghe được trong ngày ở Trần đường trang. Gã xin ăn kia cũng lắm miệng, nghe hai người nhắc tới Liên Hóa Thanh vội : "Nhị vị muốn hỏi chuyện liên quan tới Hà Liên Hóa Thanh à? dối gạt hai vị, ta cũng biết ít, hai vị thưởng thêm cho ta mấy cái bánh nướng, ta toàn bộ cho hai người biết." Quách sư phụ và Đinh Mão nghĩ đơn giản là người ăn xin này muốn thêm bánh nướng, vừa 'chúng ta cả ngày chưa ăn cái gì, chỉ dắt theo có vài cái bánh nướng này, vừa rồi cho ngươi cái là em ta phải nhịn ít, giờ cũng chỉ có thể cho ngươi thêm cái', xong ném cho người ăn xin kia cái bánh nướng nữa. Gã cảm tạ rối rít rồi : "Có ít người biết Hà Liên Hóa Thanh ở Trần đường trang, nhưng biết chỉ có vài người. Ta chính là trong số đó. Bởi vì năm xưa ta từng ăn cơm cùng với Liên Hóa Thanh, nếu hai vị chê tiểu nhân lắm mồm xin nghe tiểu nhân kể lại. . ." Vào ban đêm, cơn mưa như khắc khoải trút xuống, người ăn xin ở trong miếu kể lại cho Quách sư phụ và Đinh Mão về lai lịch xuất thân của Liên Hóa Thanh. Liên Hóa Thanh lấy họ của mẹ. Năm xưa, Trần đường trang có gia đình lớn họ Liên, gia cảnh giàu có, trong nhà có hai con trai, con . Con tên Thu Nương tới tuổi lấy chồng, gả cho nhà trong làng. Nhà đó cũng khá giàu có. Thời trước, người ta thường rất chú trọng tới tập tục hôn nhân, ví dụ như sau ba ngày bái đường thành thân, vợ chồng cố gắng ít, nhiều là giảm thọ, ngày thứ tư, tân nương có thể trở về nhà mẹ đẻ, ngày này là ngày hồi môn nhưng phải trở về chứ được ở lại. Ngày thứ tư về nhà gọi là hồi tứ, ngày thứ sáu về nhà gọi là hồi lục. Hồi tứ, hai vợ chồng phải gặp lại mặt nhau trong ngày, tới lúc trời tối được ở lại nhà mẹ đẻ tới lúc thắp đèn, vì nhìn thấy đèn là chết tha hương, là điềm xấu. Khi đó, những gia đình lớn đều rất coi trọng tập tục hôn nhân này. Muốn thành thân trước tiên phải được đồng ý của cha mẹ, cho người tới mai mối hẳn hoi. Trước hôn lễ, đôi bên nam nữ đều biết nhau, như kiểu bán trâu qua núi, toàn bộ đều là mai mối hai bên mà ra. Tới nhà nhà trai tốt đẹp ra sao, trong nhà có bao nhiêu tiền, đến nhà trai hiền lành, xinh đẹp nhường nào. Sau khi trưởng bối ở đôi bên đồng ý vẫn còn chưa thể đính hôn ngay mà vẫn còn bước kế tiếp. Trước kia, chuyển thiếp chính là phát danh thiếp, mai mối hôn nhân cũng gần như là trao đổi danh thiếp, có điều danh thiếp kia ngoại trừ danh tính còn có cả ngày sinh tháng đẻ, hai nhà tự mời thầy tới xem tuổi, hồi đó cũng phải xem sao chiếu mệnh, chủ yếu là xem tuổi con gì, giống trâu hay đầu ngựa gì , có xung khắc gì , tuổi có hợp nhau , ví dụ như bạch mã khắc thanh ngưu, thiên long khắc địa thỏ, sinh ban ngày lại ở cùng với sinh ban đêm, giống xà lại ở cùng ổ với chuột, giống rồng ở cùng giống hổ chỉ có đánh nhau ác liệt, hổ ở cùng với dê cũng ổn, khi đó lại thành dê vào miệng cọp. Những điều đó là phạm kỵ húy. Nhìn vào tuổi rồi lại soi xuống ngày sinh, thầy bói căn cứ vào ngày tháng để nhìn ra mệnh gì. Mệnh chia ra ngũ hành Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim. Phải qua đại đội tiết mục, nếu hoàn toàn có vấn đề gì mới có thể đính hôn. Việc hôn nhân được quyết, đôi bên cố gắng tìm ra ngày lành, hai nhà mang sính lễ tới cưới. Nếu như nhà có tiền riêng hai việc này là bày cỗ to mời khách khứa, bạn bè tới, tiện thể khoe tiền tài quyền thế nhà mình, thu quà tặng về. Ngày thành thân phải là ngày song song, ví dụ như mùng 6 tháng 6 hoặc mùng 8 tháng 8, chung là ngày càng may mắn càng tốt. Trước đó tam mai lục chứng (ba bên mai mối, sáu bên làm chứng) đều phải được mời về. Khi đó, giấy hôn thú gọi là thiếp Long Phượng, ở có ghi đủ tam mai lục chứng, chứng minh việc hôn nhân là hợp pháp. Liên gia Trần Đường Trang có tiền nên những tập tục kia miễn cái nào. Hôn được làm cực lớn, trước ngày thành thân ngày có cái kiệu đặt ở cửa nhà trai, vừa là để khoe của, vừa là để trừ tà, hoá giải toàn bộ tà khí, sau này lo rước họa vào nhà. Kiệu hoa được quy cách gồm tám người khiêng, chiêng trống gánh hát theo, đoàn ngựa thồ mở đường, cờ quạt treo khắp nơi, dọc đường từ nhà tới nhà trai được bày bố đủ cờ phấp phới, chiêng trống động trời. Sau khi diễn tập xong lần, tới giờ mang kiệu tới trước cửa, ở cửa sớm treo đèn lồng sáng như ban ngày, sau đó bố trí đồng tử chuyển kiệu trừ tà. Tám đồng tử đội mũ thái tử, mặc áo đỏ thẫm, tay cầm đèn lục giác quanh kiệu hoa năm vòng xuôi, bốn vòng ngược, vòng được thiếu. Nghe , do mắt của đồng tử sáng nên có gì sạch trong kiệu làm cho chúng phải khóc ngay. Sau khi xong nghi thức đồng tử dẫn kiệu, kiệu hoa rời cửa nhà trai, tới thẳng nhà , những người theo gọi là hỉ nương, toàn bộ đều là phụ nữ, trong đó có cả mẹ, bà, dưới có con cháu, người được thiếu, như thế mới tính là toàn vẹn, mới mang lại may mắn. Theo tập tục cũ, đầu tiên phụ nữ bên nhà kia ra mở cửa nghênh đón, hơn nữa còn đặt cái ghế giường, ghế là dâu giả, ghế có đặt cái bình lớn cắm cái chổi bên trong. Trước kia, nhà nào cũng có cái bình lớn và dài hình ống, từ xuống dưới có vai. Đặt trong bình là cái chổi lông gà, đặt mũ phượng, quấn quanh bằng khăn quàng, dưới mặt ghế là đôi giầy long phượng thêu bằng tay. Sau giải phóng, những tập tục hôn nhân mê tín kia đều bị giải trừ. Giờ nhắc lại chuyện này lại thấy nực cười. Ghế đặt giường, ghế lại có cái bình được cắm chổi đội mũ phượng quàng khăn như đúng là dâu ngồi đấy quái. Thế nhưng trước đúng là có loại tập tục này, mà còn có giảng giải hẳn hoi, bình cắm chổi đồng với bình đồng tức là bình an, chổi lông gà đồng với như ý cát tường, ra cũng chỉ vì cố gắng làm thế nào cho cảm thấy là tốt nhất mà thôi. Chủ yếu là đồng tử dẫn kiệu, lúc đó trời tối, sau khi vài vòng quanh ghế, nếu trong phòng có quỷ, đám này bị doạ khóc. Cho nên trước ngày thành thân ngày, kiêng nhất là đám vào nhà khóc. Trẻ khóc chưa chắc là do nhìn thấy gì doạ người. Ai mà chẳng biết lũ cười khóc bất thường, việc này sao có thể ép chúng được. Nhưng nó lại làm người khác cảm thấy bực bội, vì thế người lớn nghĩ đủ trăm phương ngàn kế trông chừng. Vào ngày đưa kiệu, khi kiệu vừa tới Liên gia, chưa kịp nhấc chân gì chợt có trận gió to thổi tới cát bay đá chạy. Cả hai nhà lúc đó cũng coi thường nghĩ là có gì, mà cùng ngày cũng mang đồng tử vào nhà. Ngày hôm sau là ngày đẹp để cưới hỏi, dâu lên kiệu hoa. đường tới nhà trai hề thiếu bất kỳ tập tục hôn nhân nào. Người ngày trước mê tín, rất tin vào những tập tục này, e sợ rước vào nhà sao rủi. Cũng biết số kiếp thế nào, Thu nương Liên gia lấy chồng, ngày hôm trước kiệu có đồng tử, tới ngày thành thân, ngay khi chuẩn bị bước qua chậu than vào nhà xảy ra chuyện. Bước qua chậu than là tập tục phổ biến, ví như những quả phụ tái giá, việc đầu tiên phải làm là vấn tóc bước qua chậu than. Đây là do người ta sợ hồn chồng cũ bám theo vào nhà. Ngoài ra, những ai viếng đám ma hay thăm mộ về nhà cũng phải bước qua chậu than, cũng là do sợ hồn dã quỷ theo về nhà. Vào hôm Thu nương Liên gia thành thân, ở cửa nhà cũng đặt chậu than, trong chậu có chút than cháy hồng tượng trưng, ngụ ý là sau này là những ngày đầm ấm. Nhưng biết tại sao, cuối cùng tân nương tử lại bước qua nổi chậu than. Ngày qua cửa của Liên Thu nương, ở cửa có chậu than, nhưng bước mãi qua. Mà lúc đó, trời cũng tối tới mức phải thắp đèn, điều này khác hẳn những nơi khác. Ở nơi khác, phần lớn cưới vợ vào ban ngày. Trong khi đó, ở đây bình thường rước vợ tới cửa là trời tối phải thắp đèn, ở trước cửa nhà treo đèn rực rỡ. Trong đó có rất nhiều người mê tín , do buổi sáng chuẩn bị, tân nương tử ngồi lên cái ghế được đám đồng tử qua. Nhưng mọi người đừng quên, trước ngày cưới hôm, Liên gia có cho đám đồng tử qua kiệu. Nghe sáng sớm hôm đó, Thu nương theo tập tục cũ ngồi lên cái ghế, chải đầu sơ, bởi vì con trước lấy chồng đều phải chải đầu sơ, sau khi lấy chồng búi tóc lại, quấn ra đằng sau, thoa son đánh phấn, tỉa mày, rửa mặt chải đầu đầy đủ, sau đó đeo toàn bộ trang sức lên, đầu đội mũ phượng, trùm khăn đỏ, mặc quần lụa xanh, tân nương mặc hỉ phục màu hồng pha xanh là dựa theo câu: ‘Hồng quan nhân, lục nương tử’, lại lấy khăn quàng trùm kín lại thể để người trông thấy quần lụa xanh. Sau khi làm xong hết những việc này, tân nương còn phải khóc trận, tỏ vẻ luyến tiếc khi rời cha mẹ gả cho người ta. Tới lúc lên kiệu cũng là lúc trời tối thắp đèn. Khuê nữ nhà đại gia gả mang theo đủ các thứ, đặc biệt còn có cả người theo ra cửa, người ôm tráp, vác hòm trang sức, ôm gà, ôm chậu, ôm bình, tóm lại là đủ các loại của hồi môn. Tới cả kiệu hoa mà Thu nương lên cũng là kiệu tám người khiêng, trong ngoài có kiệu lớn lồng kiệu , giữa là kiệu tâm, đại kiệu chưa vào sân, kiệu chưa vào phòng. Nhà chồng bên kia cũng chuẩn bị từ sáng sớm. Chú rể được người khác giúp rửa mặt, chải đầu, mặc quần áo. Chú rể thân mặc long bào đỏ thẫm, có thêu 'Hải Thuỷ Giang Nhai', trước ngực có hình hoa hồng, chân triêu ngoa, đầu đội mũ mềm hai cánh. Cách ăn mặc của trạng nguyên khi xưa thế nào chú rể mặc y hệt, bởi thành thân là ngày đại trong đời, thời xưa hay gọi là tiểu đăng khoa. Trong đám cưới ngoài lạy trời lạy đất để hoà hợp đôi bên, còn phải cúng bái ba vị Phúc, Lộc, Thọ cùng với tượng Nguyệt Lão. bàn cúng có đặt đôi nến màu đỏ tượng trưng cho chữ Hỉ, ở giữa đặt lư hương, phía sau đặt cái đấu, trong đấu chứa đầy cao lương đỏ. Toàn bộ ba thứ đó ở cùng với cái bình cắm chổi tạo thành chỉnh thể được coi là trấn trạch bảo vệ bình an. Khi kiệu tới cửa, người nhà chồng được ra ngoài đón, mà ngược lại còn phải đóng cửa chính lại. Đó là trong những tập tục lằng nhằng của xã hội cũ. Chính vì có quá nhiều quy củ thành ra có mấy nhà làm đủ được. Theo tình hình gia cảnh khác nhau mà các gia đình khác cũng điều chỉnh. Theo tập tục xưa, cửa nhà được đóng chặt, người ở bên ngoài gọi bà bà ra mở cửa, câu này coi như sửa lời thừa nhận mình là người nhà chồng, lúc đó bà bà ra mở cửa. Bà bà ra mở cửa nhưng phải ngay vào nhà, vì trước khi thành thân, được nhìn mặt tân nương. Sau đó, chú rể ra, cầm cung lên bắn ba mũi tên vào kiệu, lấy ý 'Tam tiễn cập đệ', và tránh tà ma. Tới lúc dưới đất trải nỉ đỏ đủ dâu mới rời kiệu, mọi người theo sau tới trước chậu than. chung toàn bộ quá trình có thể gói gọn lại là ra mở cửa, chú rể giương cung bắn ba mũi tên vào kiệu hoa nhưng mũi nào trúng. Việc này cũng thể trách chú rể được, bởi ngày đó chẳng còn ai thèm học bắn tên nữa rồi, tới cung còn kéo lên bắn nỗi gì. Bắn tên cũng chỉ là làm ra vẻ cho có, bởi vì bắn tên, bước qua chậu than khi vào cửa được coi là có thể chắn tà khí ngoài cửa. Nhưng hôm đó, tân nương tử tới trước chậu than bước mãi qua. Đây có thể coi là điềm xấu nên toàn bộ người bên cạnh vội tới giậm chân, thúc dục nương tử: " chủ mau bước qua !" Đằng sau vừa thúc vừa đẩy làm cho cuối cùng dâu giẫm chân thẳng vào chậu than, làm lửa bắn tung toé ra. dâu cũng ngạc nhiên với việc mình vừa làm, cảm giác thấy chân mình như có người túm lấy, kéo khăn lên nhìn toàn bộ những người đón dâu phải choáng váng. Dưới khăn là đứa thanh tú, hàng mi dài, đôi mắt song đồng ôm chân Thu nương, chẳng trách tại sao bước qua nổi. Đứa kia cũng hề gì, cũng chẳng là từ đâu tới. Nhà chồng cũng mặc kệ. Đầu tiên, việc dẫm đổ chậu than khi xuất giá chính là mang tà khí tiến trạch, huống hồ lại còn đứa lai lịch kia. Cả nhà chồng đều cho rằng Thu nương tư thông sinh ra dã chủng kia, nhất quyết cho vào nhà. Cuối cùng việc hôn nhân phải hoãn lại. còn cách nào, kiệu hoa lại trở về điểm xuất phát. Gia chủ nhà họ Liên nghe xong chuyện kia cũng tức giận, thoạt nhìn là việc mười mươi rồi, Thu nương là nương chưa chồng, bên người đột nhiên lại mọc ra đứa bé, dĩ nhiên là phải có tư tình với người ta, mang thai mới đẻ ra. Loại chuyện này phải là chưa từng có trong các gia đình lớn, đây là bất hạnh của cả gia đình, bôi nhọ tổ tông, từ nay về sau ra cửa ngóc đầu lên nổi, người ngoài cứ thế xấu sau lưng, chủ nhà chỉ còn nước tức đến hộc máu. Thu nương cũng là tính tình cứng rắn, trong lúc nhất thời quá xấu hổ và giận dữ chịu nổi, đâm đầu tự tử ngay vào bàn gỗ cúc lê trong nhà trước mặt bố mẹ em. Cha mẹ Thu nương thương đứa con chết thảm, hối hận ngăn nó lại. Đứa kia ai là tự dưng chạy tới hay là do Thu nương sinh ra, nhưng Liên gia cảm thấy là cốt nhục nhà mình, muốn đuổi nên nuôi nấng coi như con trong nhà, đặt tên là Liên Hoá Thanh, cấm cho người khác nhắc tới chuyện này, nhưng vẫn ngăn được người ngoài đồn đại. Bởi đứa này biết bơi từ bé nên có rất nhiều người cho rằng năm xưa Thu nương rời nhà thăm người thân, lên thuyền qua sông Vĩnh Định bị lật, toàn bộ người thuyền đều chết cả, chỉ có duy nhất Thu nương thoát hiểm, về nhà mang bầu, nhất định là Hà đầu thai, bởi ngày xưa có câu 'gặp đại nạn chết nhất định có chuyện'. Còn về việc có phải Hà đầu thai cũng chỉ là câu chuyện vẫn còn để ngỏ. Trước kia, con thường hay mặc áo rộng, Liên gia nhà cao cửa rộng, bụng to cũng chỉ ở trong nhà nên người ngoài chẳng ai biết được, tới hai tháng cuối thoái thác thân thể khoẻ, ở lỳ trong phòng đẻ con cũng chẳng ai hay, sau đó Thu nương đưa con nhờ người khác nuôi, tới ngày thành thân, đứa mới chạy tới ôm chân cho Thu nương qua cửa, làm Thu nương phải tự sát tại nhà. Xem ra Hà này đúng là loại ma quỷ. Dù sao đó cũng chỉ là lời đồn đại, việc xấu trong nhà Liên gia cũng tiện ra bên ngoài, bao giờ đề cập tới việc này với người. Nhưng càng cố giấu lời đồn bên ngoài lại càng nhiều. Qua mười năm sau, hai lão nhân đứng đầu Liên gia lần lượt qua đời, hai huynh đệ trong nhà tranh đoạt gia sản, nhân cơ hội đuổi thẳng Liên Hoá Thanh ra khỏi nhà. Hai em kia cơ bản là muốn chia của cho đứa kia, mà cũng muốn nuôi nó, tốt nhất là để mặc chết đói ngoài đường, hoặc tốt nhất là cho lang sói xé xác, thế là gọn. Từ đó về sau, Liên Hoá Thanh lưu lạc đầu đường, ngày ngày nương thân ở ngôi miếu nát, dựa vào nghề ăn mày mà sống qua ngày. Sau đó, vào đêm tối trời, Liên gia cháy, gió đẩy thế lửa, lửa giúp uy gió. Trận hoả hoạn biến toàn bộ nhà cửa Liên gia thành mảnh đất khô. Già trẻ trai Liên gia chết tổng cộng bảy mươi người, ai trốn thoát. Nghe tối đó có người thấy đứa ăn mày lén lén lút lút khoá chặt cửa sau lại. Lai lịch của Liên Hoá Thanh quá khó phân biệt. Ai cũng có ngày sinh tháng đẻ, nhưng lại có. Người ở Trần đường trang đều sợ mang xui xẻo tới, thành ra ai cũng xa lánh. Thường ngày cũng chỉ kiếm cơm trong thành, tới đêm trở về, trộm cắp lặt vặt đều làm. Có đêm, gặp hai đứa ăn mày khác trong miếu thổ địa, tuổi gần xấp xỉ, cũng đều tầm mười tuổi, Liên Hoá Thanh thấy hai đứa là lập tức nổi lên dã tâm. Liên Hóa Thanh với hai đứa ăn mày: "Nhị vị, chúng ta đều là người bơ vơ nhà cửa, chi bằng học theo 'kết nghĩa vườn đào', ba em chúng ta kết nghĩa, ở với nhau có thể giúp đỡ lẫn nhau được." Hai đứa ăn mày vừa nghe vui mừng : " tốt quá, lo có người thân." Lúc đó, ba người kết bái, có tiền mua hương nên dúm đất làm lư, cắm vài nhánh cỏ như hương, dập đầu trước thổ địa, kết bái huynh đệ. Liên Hóa Thanh lớn hơn hai đứa kia hai tuổi nên trở thành đại ca. Y với hai đứa : "Sau này chúng ta là huynh đệ có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu. Người xưa có câu: "Có cha theo cha, chết cha theo . Hai người các ngươi cha mẹ, từ nay về sau nên nghe lời đại ca ta." Hai đứa ăn mày lập tức đồng ý: "Đại ca rất đúng. Từ này về sau, huynh chính là đại ca. Chúng ta đều phải nghe theo lời đại ca." Từ ngày đó, Liên Hóa Thanh còn ăn xin bên ngoài nữa, cả ngày ngủ trong ngôi miếu nát, để hai đứa kia ra ngoài phố xin ăn, mặc kệ sống chết ra sao, mỗi bữa đều ăn trước. Hai đứa ăn mày kia nghĩ, dù thế nào cũng là đại ca, có được cái gì cũng phải cho đại ca ăn trước, nhưng dù sao thể ngày nào cũng thế được. Mặc dù trong lòng có chút bất mãn nhưng ngoài miệng cũng dám ra. Vào năm khi hoa màu mất mùa, chết đói ít người, muốn xin ăn cũng biết xin ở đâu. Hai đứa kia phải nằm chờ chết đói trong ngôi miếu nát. Liên Hóa Thanh chỉ lo cho bản thân mò ra ngoài kiếm cái ăn, cũng biết từ đâu, kiếm được ít cơm trắng, ở còn cả chút đồ ăn, trong thức ăn có nguyên cả tảng thịt. Đồ ăn cũng nhiều, người no nhưng ăn hai ba người thiếu. Khi đó, đem cái hũ về đặt đống lửa trong miếu. Hai đứa ăn mày ngửi thấy mùi thịt, vội vàng đứng lên : "Vẫn là huynh trưởng có bản lĩnh, vừa ra ngoài kiếm ngay được cái ăn. Chúng ta có phần cơm này lo chết đói nữa rồi." Liên Hóa Thanh lập tức : "Các huynh đệ, đây là ta phải đánh liều mạng ăn trộm đồ ăn trong hiệu ở thành, ngờ lại có người nhìn thấy, vì thế ăn ít gậy. Các ngươi ngủ ngon trong miếu, biết xấu hổ hay sao mà còn ăn cả phần cơm ta phải đánh đổi cả mạng lấy về này?" Hai đứa ăn mày : "Sao đại ca lại lời ấy. Hôm nay hai đứa ta đói quá lết nổi nữa chứ bình thường phải chúng ta lấy cơm về cho ngươi ăn sao?" Liên Hóa Thanh : "Bây giờ khác trước. Vào những lúc mất mùa lớn thế này, mạng người còn bằng chó. Với phần cơm này, ta có thể sống qua được, nhưng nếu chia cho hai đứa ngươi ta lại chẳng thể sống nổi. Hai người các ngươi cũng đừng trách huynh ta bạc tình quả nghĩa, muốn trách trách số mệnh mình đen đủi. Huynh ta ăn được chỗ này, giữ được mạng quên hai người em các ngươi. Từ nay về sau, nếu ta phát tài, tam tiết nhị cung lấy rượu ngon cơm trắng tế tự các ngươi. Hai người các ngươi cứ an tâm mà chết ." Ở Trần đường trang còn truyền lưu chuyện khác. Kể về lúc Liên Hóa Thành còn ở Liên gia, từng có vị thầy bói qua Trần đường trang. Liên lão gia tìm thầy bói kia về, mời thầy xem tướng số cho đứa Liên Hóa Thanh. Thầy bói kia vừa nhìn Liên Hóa Thanh, thấy đứa mày ngang mặt, mắt có hai đồng tử chỉ là kẻ đoản mệnh, còn lại sống chết cũng dám ra, thà dẹp biển cũng nhất quyết tướng số của đứa kia. Người ở Trần đường trang đoán rằng, thầy bói kia nhìn ra đứa là Hà đầu thai, vì vậy dám ra. uổng công mọi người khen chê, đừng nhìn bộ dạng tệ của Liên Hóa Thanh, tâm địa của ác độc. những cho hai huynh đệ kết bái của mình ăn mà còn , hai người các ngươi cố sống lay lắt cũng chỉ thêm giày vò, chi bằng chết cho thoải mái. Lúc những lời này, mí mắt y hề nháy chút nào, chỉ chăm chăm lo cái hũ đống lửa, chẳng khác gì vừa làm việc nhà vừa chuyện. Điều này lên rằng, y căn bản coi hai huynh đệ ra gì cả, như thể y coi đây là hai con chó hoang sắp chết đói. Ngày trước cái gì là đồng sinh cộng tử, đơn giản chỉ là để bắt hai đứa kia ăn xin hộ. Hai đứa ăn mày thấm lạnh, thầm mắng: "Hay cho tên Liên Hóa Thanh ngươi. Hai chúng ta mắt mù mới nhận ngươi làm đại ca. Chẳng trách mọi người đều ngươi là Hà đầu thai. Dám làm như thế với hai huynh đệ từng dập đầu kết nghĩa với ngươi, quả là quỷ sống khoác da người." Liên Hóa Thanh nhìn thấy hai đứa kia nhìn chằm chằm vào hũ đồ ăn, cho là bọn chúng liều, dù sao hai đấm khó đánh bốn tay, huống chi lúc người tức giận liều mạng, nếu đánh nhau e là khó giải quyết, nên y : "Hai vị huynh đệ, vừa rồi huynh ta cũng chỉ là đùa thôi. Chúng ta đều dập đầu kết nghĩa, chẳng lẽ đại ca ta lại biết xấu hổ để các ngươi ngồi nhìn ta ăn mình sao?" Hai đứa ăn mày nghe thấy hơi bất ngờ, vội lau nước mắt : "Đại ca là người nhân nghĩa, huynh đệ ta hiểu lầm ngươi." Liên Hóa Thanh : "Nhân nghĩa vẫn là nhân nghĩa. Đồ ăn này chỉ có phần, người ăn có thể giữ mạng, nhưng chia cho ba người phải chết cả ba. bằng tự số khổ, xem ai khổ nhất, đáng thương nhất phần cơm này thuộc về người đó." Hai đứa ăn mày : "Được, cái này gọi là theo số mệnh, ngươi là đại ca nên trước ." Liên Hóa Thanh nghĩ thầm: "Hai cái đứa vắt mũi chưa sạch có thể lại được ta sao? Ta vài câu là các ngươi câm họng, sau đó ăn cơm. Hai ngươi cứ thế mà chờ chết đói ." Năm đó, ăn xin toàn phải kể khổ ra như kiểu vừa niệm vừa hát, đánh vào tâm lý người nghe, làm người ta phải cho ăn. Việc này thể làm khó được Liên Hóa Thanh, chỉ nghe y vài câu: "Nhà ở miếu nát, cỏ làm đệm chăn, đầu gối khối gạch, người mặc áo rách, ba năm mặn, nay mới thấy thịt." dứt lời, lập tức vươn tay ra với đồ ăn. đứa ăn mày lập tức ngăn lại : "Đại ca từ từ . Ngươi chưa gọi là khổ, ngươi nghe huynh đệ ta chút xem sao. Ta nơi dung thân, cỏ nát làm đệm, đầu gối nửa viên gạch, ngày ngày rách tới da, thỉnh thoảng uống nước lạnh, nay mới thấy cơm." Tính ra đứa này đúng là kể khổ hơn Liên Hóa Thanh. Lần đầu thấy cơm nên xong định với tay ra lấy đồ ăn ngay. Đứa ăn mày còn lại đỡ: "Đại ca, nhị ca kể vẫn chưa coi là khổ. Nghe ta chút xem sao. Ta chỗ dừng chân, đầu gối cùi chỏ, quanh năm cởi chuồng, trời làm chăn, đói từ lúc sinh. chỉ chờ phần cơm này. Nhất định là hai thể nào khổ bằng ta được, xin lỗi huynh đệ, ta ăn . . ." Cái hũ đặt lửa lâu, đồ ăn nóng bốc hương nghi ngút. Đứa ăn mày kia đói tới mức tái xanh cả mặt, định với tới ăn tên ăn mày trước đồng ý : "Tam đệ hươu vượn, từ lúc sinh ra đói sao còn sống tới bây giờ được?" Người kia lập tức : "Nhị ca uống nước lạnh mười mấy năm sao có thể sống được đến bây giờ đây? Vì sao ta thể đói từ lúc mới sinh?" Trong lúc hai đứa kia tranh luận ngớt, Liên Hóa Thanh vô thanh vô tức cầm viên gạch lớn, thu vào trong tay, nhè thẳng vào gáy hai đứa kia, cú quật ngã đứa. Hai đứa ăn mày đáng thương còn chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra phơi thây tại chỗ. Liên Hóa Thanh chửi chó chết rồi ném viên gạch trong tay , dọn sạch hai xác chết, sau đó lấy cái hũ đống lửa ra, thổi sạch khí nóng, ném đồ ăn nóng hổi vào miệng. Chợt, y nghe thấy tiếng bùi ngùi: " ác độc. Vì tranh miếng cơm thừa mà ngươi dám ra tay hại chết em kết nghĩa với mình, sợ gặp báo ứng sao?" Liên Hóa Thanh ngẩng phắt đầu lên, thấy ngoài cửa có cái đầu của lão già, mặt có vết sẹo dài, chỉ nhìn thoáng qua mà lòng phát lạnh, đằng sau còn có con mã hầu lớn, xem qua bộ dạng có vẻ đây là con sái hầu chuyên biểu diễn. Liên Hóa Thanh cũng nén nổi giật mình, nhưng vẫn làm ra vẻ trấn tĩnh: "Hai bọn chúng là lũ chuột nhắt xin ăn, đấu tranh nội bộ. Vì tranh ăn nên mới bỏ mình, làm gì có liên quan tới ta?" Con sái hầu như vớ được của, cười lạnh hai tiếng ha hả, : "Được đấy, dám trợn mắt lời bịa đặt." Liên Hóa Thanh : "Ngươi là con sái hầu, việc gì phải quản ta. Ở chỗ chết đói này cần quái gì trong sạch, đúng là ta gạt ngươi đấy, có sao ?" Sái hầu : "Ta định lừa ngươi mà muốn mời ngươi tìm vật dưới sông." Hóa ra con sái hầu này sống núi hoang, vô tình nhặt được quyển kỳ thư tà ma. Bàng môn tà đạo này cũng có pháp môn trường sinh bất tử xuất thần gì, chỉ có tà pháp chiêu hồn xác chết. trong đó cũng có ít trận pháp dương. Con sái hầu này chỉ là loại biểu diễn kỹ nghệ nay đây mai đó, trình độ văn hóa có hạn, mà cũng có dã tâm gì lớn, chỉ tính tới nước kiếm tiền tài, sau khi biết phong thủy ở Thiên Tân Vệ, bảo vật trấn sông ở ngã ba sông, có thể nuôi thi ở dưới đáy sông. Nếu đem người sống dìm chết giữa mắt sông, sau khi chết oán khí tiêu tan, để thêm vài năm tới nạn lụt, hạn hán, xác chết mọc đầy rêu, giống y hệt cương thi lông rậm, ai thấy đều khiếp vía, chỉ có mình con sái hầu này biết là chuyện gì. Tới lúc đó, nó chỉ cần xưng là cao nhân có dị thuật, thi triển thần thông hàng thi quái, kêu gọi xây miếu tạo tháp trấn sống để bình an liệu từ quan to hiển quý cho tới người buôn bán . . .;liệu có ai quyên tiền ? Từ đó nó có thể phát lên trời, có điều con sái hầu này biết bơi, muốn kiếm tên cướp sông để làm đồ đệ, lại nghe tới Hà Liên Hóa Thanh từ lúc đẻ ra giỏi bơi lội nên nó lập tức chạy thẳng tới tìm. Tới nơi đúng lúc Liên Hóa Thanh tranh ăn với hai đứa ăn xin, đứng sau lấy gạch giết chết hai người, xong rồi thèm để ý cứ thế ăn cơm. Con sái hầu thấy đứa này quá lợi hại, có thể giết huynh đệ kết nghĩa nhất định cũng có thể giết sư phụ, nhưng trước mắt lại cần đứa này nên đành phải dùng lời ngon tiếng ngọt, hứa hẹn với Liên Hóa Thanh: "Nếu ngươi nguyện ý làm đồ đệ ta, sau này có ăn có uống, sư phụ còn có thể truyền pháp thông thiên. Từ này về sau sống yên phận ai dám bắt nạt ngươi." Liên Hóa Thanh đường cùng, nghe xong con sái hầu già phen khỏi động tâm, ngay lập tức bái sư, đào hố sau miếu chôn hai cái xác, sau đó theo con sái hầu vào thành. Về sau, con sái hầu gây tội ác chồng chất bị trời phạt, chết dưới giếng cạn ở vườn rau Lý công từ. Liên Hóa Thanh may mắn chạy thoát, nhưng do có án trong người nên cũng dám lộ diện trong thành. Quách sư phụ và Đinh Mão hỏi chuyện lúc ban ngày ở Trần đường trang đều thể tường tận được bằng câu chuyện của lão ăn mày. Cho dù có vẽ ra cũng thể tường tận tới vậy được. Hai người thầm nghĩ, nhất định là tên ăn mày này năm xưa từng xin cơm cùng với Liên Hóa Thanh nên mới biết tới vậy, có điều theo những gì hai đứa ăn mày ở miếu thổ địa năm xưa sớm bị Liên Hóa Thanh ra tay dùng gạch đánh chết. Lúc này, hai người sực tỉnh: "Chẳng lẽ ma quỷ trong miếu thổ địa kể oan khuất?" Quách sư phụ nghĩ tới đây, trong lòng nhất thời kinh ngạc, mở miệng hỏi lão ăn mày: "Làm sao ngươi biết ràng tới vậy? Rốt cuộc ngươi là ai?" Lời vừa ra tới miệng bỗng nhiên cảm thấy lạnh toát cả ngươi, ông ta và Đinh Mão giật mình như vừa tỉnh mộng, nghe được tiếng gà gáy văng vẳng từ xa xa, dụi dụi mắt thấy mưa gió ngoài trời ngưng, trời hửng sáng. ngờ ngủ lúc nào hay mà qua đêm. Hai người đứng dậy nhìn về chỗ lão ăn mày ngồi ở góc tường. Nếu ở đó có người chỉ có thể là cái tượng thổ địa nghiêng sát vào góc tường. biết là ma quỷ năm xưa kể oan tình, hay là thổ địa hiển linh, hay cũng có thể là người ăn mày kể chuyện . Trời sáng mà hai người vẫn vừa sợ vừa nghi. Mấy câu cuối nghe nên chỉ còn nước dựng bức tượng thổ địa lên, gạt cỏ với bùn đất ra, cúi đầu như lạy vài cái. Đinh Mão với Quách sư phụ: "Nửa đêm qua, lão ăn mày có , Liên Hóa Thanh từng chôn thi ở dưới cây sau miếu thổ địa, biết là có hay ." Hai người đứng dậy ra sau miếu xem thấy đúng là có gốc cây khô nghiêng ngả, qua mưa gió nên mối mọt gần hết. Hai người tới thôn mượn công cụ, đào dưới gốc cây trận lâu dưới bùn đất ra cái hộp sắt, bên trong hộp sắt có hai bộ xương khô. Hộp sắt là hộp hương thường dùng trong miếu thổ địa ngày trước, bởi dân gian thường cho rằng vật làm bằng sắt có thể trừ tà trấn quỷ. Liên Hóa Thanh lo sợ oan hồn của hai đứa ăn mày níu chân, cho nên bỏ hai xác chết vào hộp sắt, năm đó do vội nên cũng chôn sâu cho lắm. Hai người Quách sư phụ nghiến răng nghiến lợi trước hành động của Liên Hóa Thanh, đứng trước tượng thổ địa thề: "Trời có mắt, bất kể Liên Hóa Thanh trốn ở đâu, dù có liều hai cái mạng này chúng ta cũng quan tâm, nhất định phải bắt ra trước công lý." Sau này hai bộ xương khô được đưa tới nghĩa trang, lập hồ sơ án đầy đủ, có điều khi đó thời thế loạn, cục cảnh sát phá đại án, trọng án hết, vừa nhìn thấy hai đứa ăn mày chết mười mấy năm rồi cũng tìm hiểu nhiều, sau khi lập án cũng hỏi gì nhiều. Nhưng nhóm người Quách sư phụ vẫn quyết tâm bắt Hà Liên Hóa Thanh, hỏi thăm tung tích y ở khắp nơi, nhờ vả toàn bộ bạn bè, ngoại trừ đội cảnh sát năm sông, tới cả Hỏa Thần Miếu và Sơn Đông Câu Tử Bang cũng theo hỗ trợ. Hơn nữa Lý Đại Lăng lại quen biết với đám du côn vô lại chuyên buôn bán vặt, nên mạng lưới giăng khắp nơi, trong ngoài thành đều có cơ sở. Bởi vậy mới muốn phá án trước tiên phải quen thuộc địa bàn, phàm nơi nào có gió thổi cỏ lay là phải biết. Cứ gây sức ép như vậy, chẳng lẽ lại tìm được dấu vết nào để lại sao? Nhưng cũng phần là do khí số Liên Hóa Thanh tận, quỷ thần cũng dung. Ngày đó xảy ra chuyện ngẫu nhiên làm đội tuần sông phát ra 'con rết đầu vàng', dẫn tới cảnh ' dương hà gặp nạn, chó dữ thôn bắt ."
Chương 7: Quan tài dưới ao sen Câu chuyện diễn ra ở hai nơi. ngày tên béo Lý Đại Lăng tới dự buổi tang lễ, nhà người ta có tiền nên phát tang khá to. giả mạo tăng nhân tới niệm kinh siêu độ, kiếm chút cơm ăn với tiền thưởng, trước lúc về, mượn lúc nhà tang gia bối rối, trộm cái bình dế, định đem về nuôi dế bên trong, nhưng khi vừa nhìn thấy đáy bình đôi mắt lập tức sáng quắc lên. Dưới đáy bình có chữ Tam Hà Lưu, nhưng thứ làm Lý Đại Lăng thấy sướng nhất chính là niên đại cực kỳ đáng để ý. Chiếc bình này được sản xuất vào những năm cuối triều Thanh, mà nhắc tới thời đó là nhắc tới trò thi đấu dế mèn. Trò này trở thành phong trào trong đám con cháu vương công quý tộc. Nhớ năm xưa, quân bát kỳ Mãn Thanh tiến vào quan trung, tung hoành thiên hạ. Lúc mới khai quốc, người Nữ Chân vẫn còn sinh hoạt trong rừng sâu núi thẳm. Trong rừng lại nhiều dã thú ít người ở nên người Nữ Chân chủ yếu sống bằng nghề đánh cá và săn bắt. Theo sử sách ghi lại, người như rồng, ngựa như hổ, leo trèo như vượn, xuống nước như rái cá, giỏi bắn tên, dũng mãnh tuyệt luân. Tộc người dũng mãnh đó đánh thẳng vào quan nội, đứng đầu thiên hạ, sau đó đánh Đông dẹp Bắc mở mang bờ cõi. Nhưng tới thời kỳ Thanh mạt, đám con cháu bát kỳ lại vứt hết bản lĩnh của ông cha, tới con thỏ cũng bắn nổi, cả ngày chỉ lo sống phóng túng, cứ thế làm cho triều Thanh suy sụp. Trong những thú tiêu khiển xa xỉ đấu dế là hạng nhất, từ con dế có thể kiếm được vạn lượng. Mà côn trùng phải có bình nuôi, có bình tốt bị người khác chê cười. Bình lại được có thể truyền đời về sau nên càng ngày càng đáng giá. Ba chữ Tam Hà Lưu là tên hiệu của vị sư phụ họ Lưu có tay nghề cao siêu. Bình dế của ông ta rất được người hai vùng Kinh Tân săn tìm. Tới thời sau dân quốc, toàn bộ đều trở thành những vật báu quý giá. ra, bình hề có chữ Tam Hà Lưu, có chữ này nhất định chỉ là loại phỏng chế, sợ người khác biết nên mới ghi vào. Lý Đại Lăng biết việc này, lại ngỡ là vớ được bảo vật, đem tìm người mua, gặp đám người, trước ít con mắt, bị người ta cười chế giễu trận, hoá ra cái bình có chữ lại đáng giá. Do quá tức giận, Lý Đại Lăng ném thẳng cái bình qua đường, mảnh vụn bắn thẳng vào trán người đường, máu chảy be bét. Vị kia lại là người dễ động vào, phải bồi thường mới bỏ qua. Tiền mấy ngày niệm kinh, tiền túi đều phải móc hết ra. tìm Quách sư phụ để mượn tiền lại đúng lúc Quách sư phụ và Đinh Mão truy xét tung tích Liên Hoá Thanh. còn tiền, lại vay được đâu, cuối cùng ba người chẳng còn cách nào phải làm giúp việc vài ngày để giải quyết nhu cầu ăn ở trước mắt. Giúp việc vài ngày trắng ra chính là làm công ngắn hạn. Ở kênh đào phía Bắc có đám người tụ tập, phần lớn là thợ nề, nhà ai cần ngươi giúp đều tới nơi này để mướn về, cuối ngày trả tiền công. Cùng ngày, ao sen ở vườn hoa Lý Thiện Nhân bị ứ đọng, cần mướn bảy tám người nạo vét, quan trọng tay nghề gì , chỉ cần tay khoẻ chịu khổ, sợ bẩn thỉu là được, tiền công tính theo ngày, ngày là quan tiền, nuôi ăn hai bữa. Những lão thợ nề ỷ vào có tay nghề, lại ngại thời tiết oi bức nên thèm làm việc khuân vác thế này. Ba người kia thiếu tiền, thấy việc là nhảy vào, huống hồ tiền công cũng ít. Nếu so sánh với việc vác bao hàng ở nhà ga Lão Long Đầu tiền công như nhau, nhưng việc khiêng bao hàng kia phải mệt muốn chết, tính ra việc nạo vét bùn đất ở ao sen vườn hoa Lý Thiện Nhân vẫn còn nhõm hơn nhiều. Ba ngươi vui sướng, tưởng vớ được miếng ăn nên lập tức làm luôn trong ngày. ngờ, nạo vét ao sen lại tìm thấy quan tài. Vườn hoa Lý Thiện Nhân được xây dựng vào những năm cuối triều Thanh, lúc chiến tranh nha phiến xảy ra, do người buôn muối họ Lý bỏ tiền, mệnh danh là 'Vĩnh viên'. Buôn muối ở triều Thanh luôn có tiền nên vườn hoa xây dựng ra cũng cực kỳ xa hoa, bố cục mô phỏng theo vườn hoa ở Tô Châu Khoảng cuối thời Dân quốc gần như trở thành công viên mở cửa tự do rồi, sau giải phóng chính thức đổi tên thành Công viên Nhân Dân. Tên công viên ở cổng chính do chính tay Mao Chủ Tịch viết. Bên trong công viên có cái hồ rất lớn, hoa sen phủ kín mặt nước, xung quanh xây hòn non bộ bảo tháp để trang trí, đình đài lầu các cây cối sum suê. Vào giữa hè, hàng đêm hoa sen nở rộ khắp mặt nước, gió mát mẻ. Dưới đêm trăng, ếch đua nhau kêu vang, phong cảnh say lòng người. Nơi đây biến thành nơi hóng mát tránh nóng tuyệt vời. Nghe , kể từ sau khi vườn hoa Lý Thiện Nhân xây dựng xong, con đường tài lộc trong nhà thuận lợi, người ta từng mời thầy phong thủy đến xem. Thầy phong thủy vườn hoa này có thế hại chủ, bởi vì hồ nước có hình dạng giống như tuấn mã, tuấn mã phá tài. Muốn thay đổi phong thuỷ phải sửa lại hai chỗ. là bên cạnh hồ nước phải trồng nhiều loại cây, cây cối rậm rạp ngăn kín đường chạy của ngựa. Hai là mở rộng diện tích vùng hồ nước ở chỗ đùi ngựa. Lý gia y theo lời của thầy phong thủy, trồng thêm vô số cây cối trong vườn hoa, mở rộng mặt nước ao sen. Hơn nữa, họ còn dựng lên tòa Tàng kinh các đóng vai trò trấn vật trong vườn hoa. Sau này, qua mấy đời chủ nhân, vườn hoa biến thành công viên tự do ra vào, diện tích lớn lắm, từ nam đến bắc dài ba dặm, từ đông sang tây rộng hai dặm. Cảnh vật trong công viên khá đẹp, đặc biệt là cảnh hoa sen nở rộ vào mùa hạ. Tuy nhiên, ngay sát bờ của cái ao hoa sen này lại có những chỗ liên tục sinh ra bùn trầm tích, bởi vậy mà hoa sen vô duyên vô cớ héo rũ. Công viên đành phải mướn người đến hót sạch chỗ bùn đó, Quách sư phụ và hai người em của ông ta cũng có mặt trong đội quân này. Tổng cộng mướn về bảy kẻ làm mướn công nhật, mỗi người được phát cái xẻng. Đầu tiên họ nhổ sạch những cây hoa sen chết héo, sau đó đào chỗ bùn tù đọng lên, xúc lên xe cút kít mang đổ. Phần tiền công này quả thực dễ kiếm, trời nắng dữ dội, lớp bùn tanh tưởi. Khi đào bùn trong ánh nắng chói chang vào giữa những ngày nóng nhất trong năm, toàn thân hôi rình mồ hôi quện lẫn với mùi bùn thối. Cũng còn may là tiền công quá thấp, ngày được cấp hai bữa cơm, thừa mứa bánh bao và cháo đậu xanh. Đào đến trưa ngày hôm sau, ao sen biến thành cái hủng, dưới đáy hủng lộ ra ít gạch cổ vỡ vụn. Sau khi hốt hết đám bùn thối lẫn lộn gạch vụn , bên dưới ra cái nắp quan tài đen thui. Đám người làm công nhật đào được ngôi mộ cổ dưới đáy ao, tin tức lan truyền ra, kéo ít người hiếu kỳ đến xem. Cái ao đầy bùn thối, những người này chỉ có thể đứng nhìn từ xa. Quách sư phụ phát ra, riêng gì con người bu quanh ao sen xem náo nhiệt, mà còn có số con vật rất kỳ quái kéo đến. Cả đám người bu quanh xem rướn cổ trợn mắt, toàn bộ nhìn chằm chằm vào cái quan tài hé nắp trong bùn thối dưới ao sen, ai để ý tới còn có những động vật khác theo chân bọn họ cùng đến xem. Nhưng Quách sư phụ lại có thể nhìn cái là phát ra ngay, trong lòng hết sức bất an. Giữa ban ngày ban mặt, ai cảm thấy sợ hãi cả. Có người nếu đào ra mộ cổ như thế này phải báo quan. Quản lý vườn hoa biết làm thế nào, cảm thấy nếu dưới ao sen có mộ cổ, có lẽ nên di dời nó , nếu sau này còn ai dám đến vườn hoa Lý Thiện Nhân chơi nữa. Nhưng dù có thế nào trước tiên cũng phải móc quan tài lên xem thế nào . Đám làm mướn công nhật vô cùng hưng phấn, ầm ĩ bàn tán bảo rằng, bên trong chiếc quan tài được đào ra từ trong lớp bùn tù đọng này chắc công ta có đồ vật giá trị, ai lấy được là của người đó. Lúc này, Lý Đại Lăng và Đinh Mão rất muốn tranh thủ chiếm lấy công việc đào móc này, nếu moi ra đồ tốt có khả năng được chia phần. Quách sư phụ : "Tôi thấy thế này có vẻ hay lắm, tiếp theo có khả năng xảy ra chuyện gì đó, chúng ta đừng tham gia đào. tin các ngươi cứ nhìn vào ao sen cái, xem kia là con vật gì?" Hóa ra biết từ lúc nào, quanh ao sen có hơn mười con ếch toàn thân xanh biếc kéo đến. Hơn nữa, từ trong ao sen vẫn còn có những con ếch xanh khác liên tục nhảy ra rồi tập trung lại chỗ. Bầy ếch xanh đó càng lúc tụ tập lại càng nhiều. Toàn bộ đám ếch đó đều hướng về nơi, đồng loạt nhắm thẳng vào chiếc quan tài trong vũng bùn. Bầy ếch im hơi lặng tiếng tỏ ra cực kỳ giận dữ. Diện tích mặt nước trong công viên Lý Thiện Nhân , có đủ loại hoa sen, có ếch xanh là điều rất bình thường. Khi đào ra chiếc quan tài dưới đáy vũng bùn, mọi người hiếu kỳ kéo đến xem có gì đáng , nhưng bầy ếch xanh đông đảo tập trung ở gần đó có lẽ là việc khác thường rồi. Bầy ếch canh chừng giống như gặp thù địch. biết đào ra được cái quan tài này là cát hay là hung. Ba Quách sư phụ cảm thấy có chuyện khác thường, bảo Lý Đại Lăng và Đinh Mão đừng có tham gia đào cùng với mấy kẻ làm mướn công nhật. Còn bốn gã làm công nhật kia lại cho rằng, có những loài động vật bé như ếch tồn tại là điều quá đỗi bình thường, có gì đáng bận tâm. Ao sen của vườn hoa Lý Thiện Nhân lớn như vậy, có ếch xanh mới là lạ. Giữa ban ngày đào được quan tài cần gì phải sợ xác chết, bây giờ tranh thủ ra tay, đợi lát nữa trong quan tài có thứ gì tốt cũng chỉ còn cách đứng nhìn mà thèm. Bốn người cùng nảy sinh lòng tham, ai khuyên nổi. Những kẻ bu lại xem náo nhiệt ở xung quanh cũng nhấp nhổm than thở, hận thể mau chóng moi quan tài lên xem bên trong đến cùng là có cái gì. Từ xưa tới nay, lợi lộc luôn làm người ta nảy sinh lòng tham. Bốn gã làm mướn công nhật cả đời mình chưa từng vắt kiệt sức như lần này. Cả bốn người bọn họ dùng cánh tay trần đào móc bùn tù đọng. Tiết trời nóng bức, mặt trời mùa hè chói chang chiếu thẳng vào đỉnh đầu, mồ hôi rơi như mưa cũng chẳng làm ai khó chịu, chỉ tập trung men theo hình dáng quan tài mà đào bới. Bốn người này đầu óc ngu si tứ chi phát triển, chỉ biết cậy mạnh. Đào cả buổi, cái quan tài mới lộ ra được nửa. Huyệt của cái mộ cổ dưới đáy ao sen hôi thối rất chật hẹp. Bên đắp thành mộ, phía dưới dùng gạch đá xây thành huyệt. Qua kết cấu có thể phán đoán là cái huyệt này được xây vào đầu thời nhà Thanh. Tới nay được gần hai trăm năm, có thể coi như là mồ mả tổ tiên rồi. Có lẽ là vào lúc xây dựng hoa viên Lý Thiện Nhân ở chỗ này, mộ phần bị lấp bằng. Phần rìa của ngôi mộ bị lớp bùn tù đọng của ao sen bao quanh. Quanh năm bị lớp bùn này ăn mòn, gạch của ngôi mộ đổ sụp xuống, quan tài ngâm trong nước cũng trở nên mục nát. Chiếc quan tài này được chôn theo kiểu đông cao tây thấp, theo phương vị đầu gối về đông chân xuôi về tây. Tuy nhiên, hoa văn màu vàng kim của thành quan tài vẫn chưa mờ hết, sau khi lau bùn vẫn có thể nhìn thấy đó là hình vẽ bướm vờn trong gió theo lối thủy vân. Bên ngoài quan tài được trang trí theo lối thủy vân chứng tỏ mộ phần này là của phụ nữ. Lý Đại Lăng : "Nhiều ếch xanh như vậy, liệu có phải là đám thiêu thân muốn ăn lớp sơn hoa văn màu vàng kim bên ngoài chiếc quan tài hay ?" Quách sư phụ trả lời: "Đừng có vớ vẩn! Lớp sơn màu bên ngoài quan tài làm sao có thể ăn được?" Đinh Mão : "Hình vẽ bên ngoài quan tài hoàn toàn phải là bươm bướm, mà là hồ điệp." Ba người xúm đầu lại, ngươi lời ta câu khẽ thảo luận. Lúc này, từ trong đám người xem náo nhiệt có vị Tiểu Trương Bán Tiên bước ra, đọc qua mấy bản kinh Dương, thông thạo xem thời tiết mưa nắng. Nhà y cha truyền con nối xem phong thuỷ. Xưa kia, ông nội của y được tôn xưng là Trương Bán Tiên, đến y là thầy phong thủy đời thứ sáu. Tuổi tác người này lớn lắm, ngoài hai mươi nhưng chưa đến ba mươi. Hôm nay, nghe người ta kháo đào được mộ cổ trong công viên Lý Thiện Nhân, nên y cố tình tới xem náo nhiệt. Sau khi nhận ra những người trong đội tuần sông, y mới bảo với Quách sư phụ và Đinh Mão: "Hình vẽ bên ngoài chiếc quan tài này phải là bươm bướm cũng phải là hồ điệp, mà nửa giống điệp nửa giống bướm, chung là pha trộn giữa hai loài vật này. Con vật này được gọi là Thanh phù. Nghe , ở phương nam có loại trùng biết bay này. Thời cổ, người ta coi Thanh phù là biểu tượng cho tiền tài, cứ vẽ hình nó lên là phát tài. Có khả năng khi còn sống, người phụ nữ trong quan tài này là người phương nam. Còn hình vẽ thanh phù theo lối thủy vân bên ngoài quan tài mang hàm nghĩa lưu lại tiền tài cho đời sau." Quách sư phụ : " ra là thế, thanh phù đúng là tôi được nghe tới. Loại trùng biết bay này được chia làm tử mẫu, mẫu rời tử, tử rời mẫu. Dùng máu của mẫu trùng và tử trùng bôi vào hai đồng tiền khác nhau, khi mua thứ gì trả cho người ta bằng tử tiền. Đến lúc nửa đêm, tử tiền chắc công ta bay trở về bên cạnh mẫu tiền. Cho nên tử mẫu tiền dùng mãi bao giờ hết." Lý Đại Lăng hưng phấn : "Còn có chuyện tốt như thế này cơ à? Tôi bắt vài con thanh phù, sau đó lấy máu chúng bôi vào tiền, sau này bao giờ còn phải phát rầu vì thiếu tiền nữa." Quách sư phụ : "Chẳng biết đây là cách làm của cái thằng ham tiền đến phát điên nào nghĩ ra, làm sao mà có thể dùng được?" Ông ta quay sang hỏi Trương Bán Tiên: "Tiểu Trương tiên sinh, thầy thử coi, tại sao khi đào chiếc quan tài này trong vũng bùn ra, lại có nhiều ếch xanh kéo đến như vậy? Chẳng lẽ chúng coi hình vẽ màu con bướm bên ngoài quan tài trở thành miếng mồi hay sao?" Trương Bán Tiên lắc đầu : "Tôi nghĩ phải như vậy, ếch xanh làm sao mà nhận biết nổi hình vẽ bên ngoài quan tài là thanh phù hay là bươm bướm chứ." Trong lúc bọn họ chuyện, bốn gã làm công nhật đào đến mức năm mặt ván quan tài lộ thiên. Thế nào được gọi năm mặt ván lộ thiên? Nắp quan tài là mặt, hai tấm gỗ dài hai tấm gỗ ngắn xung quanh là bốn mặt còn lại. Như vậy năm mặt ván đều lộ ra rồi, chỉ còn đáy quan tài là vẫn còn ngập dưới bùn. Đám ếch xanh nhảy ra từ trong nước ao sen tập trung lại thành bầy mấy chục con. Toàn bộ tất cả những người đứng xem bắt đầu sởn cả da đầu. bắt đầu có người cầm đá ném chúng. Bầy ếch bị đuổi tản ra, lâu sau lại tập trung lại như trước, bày trận giống như được chỉ huy, chỉnh tề ngồi chồm hỗm mặt đất. Cả đám trợn mắt phồng mang, mang đầy vẻ giận dữ, nhúc nhích nhìn thẳng vào chiếc quan tài dưới đáy hủng, thái độ giống như lâm trận. Đến lúc này, tất cả những người vây quanh xem đều có cảm thấy có điềm gở, hảo tâm khuyên bảo mấy gã làm công nhật đừng tiếp tục đào nữa, chẳng biết chừng trong cái quan tài đó có vật gì may. Bốn Bốn gã làm công nhật chính là người thấy hơi tiền nổi máu tham, đến nước này có cái gì cũng nghe lọt tai. Đến khi thấy bùn được đào tương đối, họ cầm xẻng nạy nắp quan tài ra. Cái nắp quan tài rất dày, những người này lại chẳng biết đường nhổ những cái đinh dài nắp quan ra trước, liên tục cạy vài cái mà vẫn ra. Nhưng đáy quan tài bị lớp bùn trầm tích làm cho mục nát, tạo thành lổ thủng lớn, chỉ có điều lớp bùn che khuất nên nhìn thấy. Bốn gã đàn ông đầu óc ngu si tứ chi phát triển này dùng sức nạy nắp quan tài, làm cho chân hoa sen gãy rời ra. Bốn tấm ván hai dài hai ngắn, người chết được đặt ở bên trong mô phỏng theo hình tượng đỉnh đầu mây lành chân đạp hoa sen*. Tấm ván dưới chân người chết có hình vẽ hoa sen bằng sơn vàng, phía đỉnh đầu là hình vẽ mây lành. Bốn gã làm công nhật dùng sức quá mạnh, tấm ván vẽ hoa sen của quan tài bị thủng sẵn, lúc ấy lại rơi ra miếng to, làm lộ ra hai bàn chân tam thốn kim liên** đeo giày thêu. Thời xưa, phụ nữ nhân phải có bàn chân , thon gọn. Nhưng, mặc dù đeo giầy thêu bằng gấm, đôi chân người chết vẫn khiến cho người xem có cảm giác cân đối, chối mắt sao tả xiết. Đám đông đứng xem xung quanh kiễng chân nhìn chằm chặp vào đôi chân của xác người phụ nữ trong quan tài, trong khoảnh khắc lặng ngắt như tờ. *Hình ảnh thường thấy trong các tranh vẽ các vị phật. ** Thời nhà Thanh có tục bó chân, nếu dài ba tấc được gọi là 'tam thốn kim liên', là tiêu chuẩn đẹp nhất của bàn chân phụ nữ. Giày thêu bên trong quan tài lộ ra ngoài, khi gặp phải bùn lập tức biến chất biến thành màu đen. Nhưng những sợi tơ vàng và trân châu khảm đôi giày vẫn lấp lánh chói mắt dưới ánh nắng, phản chiếu thẳng vào mắt gã làm công nhật. Gã đâu còn bận tâm đến những ánh mắt nhìn trừng trừng của mọi người, thò tay ra túm lấy hai chiếc giày thêu khảm châu báu. Nhưng ngay khi chạm vào đó, gã cảm thấy hai bàn chân bé của xác ngườii phụ nữ trong quan cử động. Công viên Lý Thiện Nhân thuê người làm công nhật dọn dẹp bùn tù đọng trong ao sen, ngờ lại đào được chiếc quan tài chôn từ hai trăm năm trước. gã trong số những kẻ làm công nhật ỷ vào ban ngày, bạo gan vươn tay ra, nhưng khi vừa mới chạm tới chiếc giày thêu như búp măng, hai cái chân của xác chết phụ nữ trong quan tài bỗng nhiên cử động. Gã sợ tới mức rụt phắt tay về, ngã ngồi xuống vũng bùn quắp người lại đứng lên nổi. Ba kẻ làm công nhật khác là đồng hương của gã, cùng nhau kiếm việc làm, hấp tấp chạy tới nâng gã dậy. Nhưng họ dùng đủ mọi cách mà gã vẫn thể đứng dậy được. Gã này bị sợ đến mức tê liệt ngay tại chỗ. Trước đây có người đùa dại, đêm tối đóng giả quỷ dọa người khác, khiến kẻ đó sợ tới mức ngồi phệt xuống đất cả buổi đứng dậy nổi. Nếu theo cách mê tín, đó là trường hợp bị thất hồn lạc phách vì đột ngột kinh sợ. Sau khi hồn phách quay trở lại nhưng vẫn về đúng vị trí ban đầu. Có đôi khi chỉ kéo dài vài ngày là người đó có thể khôi phục, nhưng cũng có đôi khi tê liệt cả đời thể nào chữa khỏi. Gã làm công nhật này quả là sợ tới mức chân tay mềm nhũn ngồi ngây ra đó, hai chân mất hết cảm giác, cạy miệng được câu. Ba kẻ đồng hương nhấc gã ra khỏi vũng bùn, giao cho mấy người Quách sư phụ trông nom. Bọn họ muốn tiếp tục xuống dưới lấy chiếc giày thêu của xác người phụ nữ trong quan tài. Những người hiếu kỳ đứng xem đều đứng ngoài rìa cái hủng. Bên bờ ao sen, bùn được móc lên để thanh tẩy ứ đọng chất thành đống lớn, bên dưới toàn bộ đều là lớp trầm tích tanh tưởi, ai có ý định sán lại gần. Có người tinh mắt, nhìn thấy hai bàn chân bé dưới đáy quan tài hình như đột ngột cử động, lên tiếng khuyên bảo ba gã làm công nhật đừng có lại gần, may bị xác chết vồ. Ba người kia đâu có chịu nghe, người quản lý công viên Lý Thiện Nhân có mặt ở đó cũng ngăn nổi bọn họ. Nếu đổi lại là lúc nửa đêm, đúng là bọn họ dám lại gần, nhưng giờ là ban ngày trời quang mây tạnh có gì phải sợ? Từ xưa tới nay, nghèo luôn đôi với khó. Nghèo có thể làm con người khốn khó, nghèo mất ý chí, có tiền bị trói chân trói tay. Ngoài đường của ngon vật lạ gì cũng có, nhưng có tiền chỉ có thể đứng ngắm, đến nửa đêm mới nằm mơ được hưởng thụ phen, mở mắt ra lại trở về với thực tại làm phu khuân vác gặm bánh ngô. Sống ở đâu cũng cần phải có tiền, có tiền là lâm vào túng quẫn khốn khó. Những gã làm công nhật nghèo mạt rệp này đâu có nhìn ngó gì đến xác chết phụ nữ trong quan tài, trong mắt chỉ có đôi chân đeo giày thêu kim tuyến bên rìa nạm vàng lộ ra ngoài. Bên đôi giày được khảm mấy hạt trân châu như hạt gạo, phần gấm của nó và cái quần biến chất thành màu đen, chỉ còn những sợi kim tuyến và trân châu giày là còn đáng giá mấy đồng tiền. Ánh mắt ba gã làm công nhật rực cháy ngọn lửa tham lam. Nhưng khi đến gần chiếc quan tài, bọn họ ràng kìm nén được nỗi sợ hãi, nhưng vẫn tông tag được tham lam, từng bước tiến lại gần, run rẩy tới tóm lấy cặp giày thêu đôi bàn chân của xác người phụ nữ. Lúc này, Quách sư phụ đứng cạnh vũng bùn đỡ cái gã sợ mất vía, nghe thấy người này ngừng lẩm bẩm trong miệng cái gì đó. Hai người Quách sư phụ và Đinh Mão lờ mờ nghe thấy hình như gã cái xác chết phụ nữ kia cử động. Hai người tương đối kinh ngạc. Dù ở trong đội tuần sông vớt xác người chết đuối nhiều năm như vậy, nhưng họ lại chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy người chết cử động giữa ban ngày. Vài ngày trước, mặc dù ở kho hàng nhà ga Lão Long Đầu xảy ra tình trạng cương thi vồ người, nhưng nghe người ta , đó là chuyện bằng cớ, khó có thể phân biệt là giả hay . Mặc dù đích xác là chuyện lạ, nhưng lại chỉ xảy ra vào thời điểm nửa đêm. Người chết giống như đèn tắt, người phụ nữ trong quan tài dưới ao sen chết hơn hai trăm năm, huống hồ ban ngày là lúc dương khí mạnh nhất, nếu bảo xác chết này cử động giữa ban ngày ban mặt kiểu gì họ cũng thể nào tin được. Nhưng việc ngày hôm nay lại rất khác thường. Cứ nhìn những con ếch xanh biếc giống như được nhuộm bằng thuốc vây quanh quan tài giống như gặp phải thù địch như vậy, là đủ biết tất yếu có điều kỳ quái. Năm Trong lúc Quách sư phụ thất thần chốc lát, ba gã làm công nhật vươn tay chạm vào giày. Đột nhiên, trong quan tài vang lên loạt tiếng động lục cục kỳ dị, khiến cho ba gã thanh niên đó sợ tới mức mặt mũi trắng bệch. Tại sao quan tài chôn dưới lớp bùn tù đọng của ao sen lại có thể phát ra tiếng động? Chẳng lẽ xác chết phụ nữ này cử động? Đừng có nghĩ nông dân đọc sách, nửa chữ cũng biết mà lầm, những câu truyện truyền miệng về ma quỷ quái gì mà họ chẳng được nghe. Vừa rồi ánh mắt chỉ tập trung nhìn chằm chằm vào đôi giày thêu khảm châu báu, lúc này họ mới liên tưởng tới những quỷ quái ma trong nghĩa địa của thôn làng, nghĩ ra đủ mọi việc đáng kinh ngạc khiến người ta giật mình có khả năng xảy ra. Ba người cho rằng xác chết phụ nữ trong quan tài sắp chui ra ngoài, lập tức bắp chân co rút, hối hận vì nảy sinh lòng tham, muốn quay đầu chạy trốn. Nhưng hai cái chân lại nặng như chì thể nhấc lên nổi. Lúc này, mọi người đều nhìn thấy từ trong quan tài hoa sen phụt ra luồng khói vàng, cùng với đó là thanh lục cục quái dị. Toàn bộ những người đứng bên rìa vũng bùn xem náo nhiệt cứng đờ người ra. Đứng cách rất xa vẫn có thể ngửi thấy mùi xác chết khăm khẳm, hai mắt cay đến chảy cả nước mắt. Ba gã làm công nhật đứng ngay gần bên dưới hủng, vừa mới tiếp xúc với luồng khói màu vàng này lập tức ngã lăn đùng ra giống như ba cây cột gỗ. Trước đó Quách sư phụ thực cảm giác có điều hay. Khi nhìn thấy ba gã làm công nhật hít phải khói vàng trong quan tài rồi ngã gục, lát sau luồng khói vàng lại rút vào trong quan tài, ông ta vội vàng bịt kín miệng mũi, lôi kéo Đinh Mão và Lý Đại Lăng tranh thủ cứu người. Mỗi người kéo gã. Đến khi kéo ba gã như kéo chó chết đến bên rìa cái hủng, nhìn lại thấy ba kẻ này đều nhắm chặt hai mắt, sắc mặt tái nhợt, giống như bị ngạt thở bởi mùi xác chết, kéo dài thêm lúc nữa là thể cứu được. Đến lúc này, toàn bộ những người vây quanh xem đều kinh ngạc, vội vàng nhéo sau lưng vê trước ngực để cứu ba gã làm công nhật. Cùng lúc đó, những con ếch xanh nhảy từ ao sen vào trong vũng bùn đột nhiên hướng thẳng về cái quan tài đồng loạt phùng lớp da dưới cằm mà kêu ồm ộp. Lỗ thủng dưới đáy quan tài lại tiếp tục phát ra tiếng lục cục quái dị. Ngay sau đó, bên dưới chân quan tài hoa sen có hai con động vật quái dị giống nhau như lột cùng thò đầu ra. Lớp da bên ngoài nổi lên những cục xù xì như mụn cơm, đích xác là hai con cóc quỷ to đến mức kì quái. Hai con này là cặp trống một mái, lưng có hoa văn ngũ sắc đẹp rực rỡ. Chúng há cái miệng rộng hoác phát ra vài tiếng ồm ộp, trong bụng lục cục rung động, cùng nhau nhả ra luồng khói vàng mù mịt. Đến giờ mọi người mới ngớ ra, phần gạch của cái mộ dưới ao sen sụp xuống, quan tài ngâm trong bùn nhão mục nát từ lâu. Con cóc quỷ chui vào trong quan tài thông qua lỗ thủng, biến ngôi mộ cổ thành sào huyệt của mình. Cóc quỷ rất thích sống chui rúc dưới lớp bùn u ẩm ướt của huyệt mộ. Màu sắc của hoa văn người càng sặc sỡ càng độc. Hai con cóc này có vẻ chịu nổi bầy ếch đánh trống reo hò, bị ép chui ra khỏi quan tài phun sương màu vàng. Bầy ếch xanh cũng dám tới quá gần. Song phương giống như rơi vào thế phải đối đầu, đứng nguyên chỗ giằng co lúc lâu. Luồng sương màu vàng do hai con cóc quỷ phun ra dần nhạt , hoa văn rực rỡ lộng lẫy lưng chúng cũng nhạt hẳn . Đúng lúc này, từ trong ao sen có con ếch xanh to gấp hai những con còn lại nhảy ra. Nó ngồi chồm hổm mặt đất, to xấp xỉ bằng bàn tay của người lớn xòe rộng ra, nghiễm nhiên có khí thế vương giả. Nó xòe hai chân trước ra để đọ khí thế cùng với hai con cóc quỷ. Khí thế của song phương ngang nhau khó phân cao thấp. Đám người vây quanh xem đua nhau nhặt đá lên, nhè vào hai con cóc quỷ mà ném. Hai con cóc quỷ dường như phun sạch khói độc, bất đắc dĩ chạy trối chết. Vừa mới chạy đến rìa vũng bùn, chúng bị người ta quơ lấy xẻng đập nát bét thành hai đống thịt bầy nhầy. Có người lập tức than thở đáng tiếc. lưng cóc có lớp sụn, khi chúng còn sống gỡ lớp sụn, rồi moi hết ngũ tạng lục phủ ra. Sau khi phơi khô dưới nắng mặt trời, sụn cóc và da cóc đều là những thứ rất giá trị, có thể dùng làm thuốc. Khi quay sang nhìn những con ếch xanh, thấy chúng nối đuôi nhau nhảy trở về ao sen. Chỉ trong khoảnh khắc, mặt nước lặng xuống, còn thấy bóng dáng của chúng. Sau này, có người lập cái miếu bên cạnh Tàng kinh các của công viên Lý Thiện Nhân thờ phụng thần ếch xanh. Tuy nhiên, quy mô lớn, cũng chẳng có mấy ai hương khói, sau giải phóng bị dỡ bỏ. Sau khi đổi tên thành Công viên nhân dân, cái ao trải qua lần dọn dẹp kỹ lưỡng, nhưng dù có sửa sang thế nào cuối cùng vẫn thể làm cho hoa sen mọc nhiều như trước. Sáu Lại tiếp, biết là ai báo quan, sau khi người cơ quan nhà nước đến, mấy người Quách sư phụ nhận tiền xong lập tức chấm dứt công việc. Kế tiếp, đám người xem náo nhiệt cũng lũ lượt rời khỏi công viên. Sau đó, nghe chiếc quan tài đó bị di dời chỗ khác. Dân tình đồn ầm lên, Thần sông Quách Đắc Hữu lại cứu được mấy mạng người ở ao sen. Đó chỉ là chuyện nghe hơi nồi chõ. Giờ đến chuyện chính, lúc ấy nhận được tiền công, sau khi ra khỏi cổng, ba em bàn nhau trước tiên tới nhà tắm tắm cái, kỳ cọ sạch bùn thối bám mình. Khi ra khỏi cổng chính công viên Lý Thiện Nhân, ba người vừa vặn gặp Trương Bán Tiên cùng đường. Bốn người đến ngã tư gặp cái xe đẩy con bán nước Hà Lan. Nước Hà Lan ra là loại nước có ga đầu tiên, dùng bột bạc hà và đường mía pha với nước đun sôi để nguội, có người còn thêm bột sô-đa, là loại đồ uống mát lạnh cực kỳ dễ làm. Tôi cũng biết có phải là do người Hà Lan phát minh ra đầu tiên hay , dù sao khi nó đến tay tôi đồ uống này trở thành phổ biến rồi, được gọi là nước Hà Lan. Cuối đời nhà Thanh, Thiên Tân vệ bắt đầu có bán. Đến cuối thời Dân quốc, người ta bán đủ loại nước có ga đủ tiêu chuẩn, trong nước nước ngoài đều sản xuất, nhưng dân chúng lại thích uống. Họ vẫn quen uống loại nước Hà Lan do mình tự chế. Nhưng uống loại nước này dễ bị tiêu chảy. Trước kia, có dạo còn có người chết vì uống loại nước này. Ưu điểm của nó là giá rất rẻ, còn rẻ hơn cốc trà đá. Nước có ga đựng trong chậu sứ in hình hoa sen, dùng đá ướp lạnh, nhìn là thấy hấp dẫn. Vào những ngày nóng nực nhất mùa hè uống chén, mát lạnh khát, thanh họng giải nóng, đó cũng là loại hưởng thụ. Mọi người đầu trần hứng nắng ở ao hoa sen của công viên Lý Thiện Nhân quá nửa ngày trời, phơi nắng đến mức chảy mỡ, nóng bức chịu nổi. Quách sư phụ mời Trương Bán Tiên và hai người em của mình đứng ngay bên lề đường uống hai chén nước Hà Lan, vừa uống vừa cùng thảo luận với Trương Bán Tiên về trận chiến giữa bầy ếch và cóc tại ao sen. Quách sư phụ : "Công viên Lý Thiện Nhân này tôi vào chơi biết bao nhiêu lần, nhưng quả ngờ dưới đáy ao sen lại có quan tài." Trương Bán Tiên tiếp lời: "Nơi này có quan tài cũng phải là chuyện kỳ quái gì cả. Theo tri thức mà người của thế hệ ông nội tôi để lại, ông cụ nhà tôi sớm nhận thấy địa thế của công viên Lý Thiện Nhân tầm thường." Đinh Mão cười : "Bán Tiên xuất thân từ thế gia phong thủy, chúng tôi bàn luận những chuyện như thế này trước mặt Bán Tiên có khác nào là múa rìu qua mắt thánh, có phần coi thường người khác." Lý Đại Lăng tin Tiểu Trương Bán Tiên, lên tiếng: "Cái gì mà coi thường người khác. Theo tôi thấy, Trương Bán Tiên là bán vải quên mang theo kéo. Quan tài dưới ao sen của công viên Lý Thiện Nhân biến thành ổ cóc trú ngụ rồi, thế mà còn được coi là bảo địa phong thuỷ hay sao?" Tiểu Trương Bán Tiên : "Thực phải là khoác, những gì tôi đều có căn cứ." Lý Đại Lăng : "Ồ, còn có căn cứ...? Vậy thầy nên giảng giải tường tận cho chúng tôi, đến cùng có căn cứ gì vậy?" Như thế nào gọi "Có căn cứ" ? trắng ra, đây chỉ là cách khi người ta muốn thuyết phục người khác. là có căn có cứ, thực ra chỉ là dẫn ra những gì được viết trong sách, luận vài đoạn điển cố. Nếu như ngươi có thể tìm ra dẫn chứng, vậy được gọi là "có căn cứ", chuyện mà có căn cứ chỉ là lời tầm phào. Tiểu Trương Bán Tiên : " tin có phải ? Ông tổ đời thứ ba của Trương gia tôi có thể xem phong thuỷ cắt dương. Danh phải mua, tiếng phải chuộc, nếu như có vài phần bản lĩnh thực , tôi sao dám ra những lời đao to búa lớn trước mặt mấy người em các vị đây? cho mọi người biết, con sông hai bên công viên Lý Thiện Nhân có nhiều nhánh, tự nhiên hình thành thế giống như con trùng trăm chân. Đầu tròn thân dài đuôi , dựa theo sách vở, đó là hình con Kim Vĩ Ngô Công. Hai cái huyệt ở đầu ở đuôi, người được chôn ở trong hai cái huyệt đó phú cũng quý. Nhưng khí của hai cái huyệt này rất nặng, dễ thu hút ma đến trú ngụ trong phần mộ. Lúc trước, khi đào bùn mở hòm quan tài ở đó xảy ra chuyện gì, chẳng phải mấy người tận mắt nhìn thấy hay sao?" Bất thình lình nghe thấy câu này, Quách sư phụ quả giống như nghe thấy sét đánh giữa trời quang, phụt sạch ngụm nước Hà Lan vừa mới uống vào trong miệng vào mặt Trương Bán Tiên, vội vàng hỏi: "Thầy vừa mới cái huyệt dưới ao sen công viên Lý Thiện Nhân . . . là huyệt gì?" Tiểu Trương Bán Tiên cho rằng Quách sư phụ vừa rồi chưa kịp nghe , cho nên có phản ứng gì quá khích. Y lau mặt rồi lập lại những lời vừa , phần mộ ở công viên Lý Thiện Nhân là " huyệt Kim Vĩ Ngô Công" . Bảy Trước đó lâu, Quách sư phụ và Đinh Mão đến Trần Đường Trang hỏi thăm tung tích của Liên Hóa Thanh. Giữa đêm mưa trời tối đen như mực, ông ta nằm ngủ mặt đất trong miếu, bỗng đâu gặp phải giấc mộng kỳ lạ, văng vẳng nghe thấy tiếng Liên Hóa Thanh ở trong đầu Kim Ngô Công. Bấy giờ ông ta chỉ giật mình hoảng hốt, cho rằng mình nghe lầm. Làm gì có con rết nào lớn như vậy, lớn đến mức người sống sờ sờ có thể dung thân trong đầu của nó cho được? Bây giờ nghe Tiểu Trương Bán Tiên ra ông ta mới biết được, địa thế của Kim vĩ ngô công trong phong thủy dương có hình thù như vậy. Nếu như lời này sai, cái huyệt Kim Vĩ Ngô Công là có . Xem ra việc truy bắt sông Liên Hoa Thanh, rất có thể tìm ra manh mối ở ngay vùng đất có hình thù Kim Vĩ Ngô Công này. Giữa đường cái phải là chỗ chuyện, Quách sư phụ : "Bình thường, chúng ta lúc nào cũng tất tả vội vàng, khó mà gặp được nhau. gặp có biết bao nhiêu chuyện muốn , bằng để ba em chúng ta làm chủ, mời Tiểu Trương tiên sinh nhà tắm ngâm bồn uống trà, tận dụng cơ hội này để trao đổi kỹ càng với nhau." Trương Bán Tiên vui như mở hội, nhưng vẫn còn cố : "Đầu năm nay cuộc sống rất khó khăn, làm sao có thể vô duyên vô cớ biết xấu hổ bắt em phải tốn kém vài lần. . ." Y gượng gạo khách khí vài câu rồi mới đồng ý mà như mở cờ trong bụng. Phía nam thành phố thời đó có nhà tắm tên là Thiên Hưng Trì, là loại nhà tắm công cộng phổ biến của thời đại đó, nằm ở ngoài mặt đường, cao hai tầng. Ở cửa ra vào có treo tấm biển cổ có niên đại từ trước đời nhà Thanh. Tầng là hồ tắm hơi nước mù mịt, tầng hai được bố trí thành từng phòng tắm riêng theo kiểu cổ. Nếu như khách tắm ở hồ tắm chung còn chưa đủ thoải mái có thể đưa ra cầu riêng, nhà tắm phục vụ đủ các loại dịch vụ từ giác hơi, cắt móng chân cho đến đấm bóp lưng. Giá tiền lại rất rẻ, ngươi muốn bỏ tiền ra thuê gian phòng tắm độc lập cũng được. Có ít người tiêu có vài hào là có thể ngâm mình ở đây cả ngày, tắm rửa xong đánh cờ đánh bài chuyện phiếm. Bởi vậy, có thể nhà tắm công cộng chỉ là nơi tắm rửa, mà còn là nơi xã giao đặc thù. Tất cả những người khách đến đây ngâm mình trong hồ tắm chung với chỉ cùng mục đích. Thân phận lẫn lộn, mục đích vào nhà tắm công cộng là tắm rửa, nhưng đến khi quần áo đặc trưng cho thân phận được cởi bỏ sạch , nếu như muốn bàn chuyện riêng tư, đến nhà tắm công cộng đại chúng là thích hợp hơn cả. Quách sư phụ dẫn theo mấy người Đinh Mão vào Thiên Hưng Trì. Đầu tiên, họ đứng dưới vòi hoa sen xả hết bùn đất bám khắp người, sau đó ngâm mình trong hồ nước nóng tới mức mặt mày đỏ rực, toàn thân thư thái. Lên tầng hai, bắt lấy khăn nóng do phục vụ viên ném qua, lau khô thân thể, quấn khăn tắm tìm cái giường gỗ ở trong góc khẽ dựa vào, là toàn thân thả lỏng. Hôm nay thực mệt mỏi, mông lung rơi vào mộng đẹp, tỉnh lại biết mình ở chỗ nào. Ngủ dậy lại được nhân viên chạy bàn phục vụ ấm cao mạt nóng. cách dễ hiểu, cao mạt chính là bột lá trà cao cấp. Nếu đủ tiền uống trà quý chỉ có thể uống vụn của trà ngon được bán đầy phố. Sau khi đổ nước sôi vào, mùi hương trà đặc biệt tỏa ra ngào ngạt. Bên trong nhà tắm còn có bán các loại đồ ăn vặt như lê tươi, củ cải tươi, quả ô liu tươi, hạt sen thanh nóng tiêu hoả ngon miệng. Quách sư phụ còn muốn gọi thêm vài đĩa củ cải trắng Sa Oa*** và bao thuốc lá Tam Pháo Đài đắt tiền, nhiệt tình mời Trương Bán Tiên uống trà hút thuốc ăn củ cải trắng. ***Còn được gọi là củ cải xanh Thiên Tân Vệ, người ta thường gọi nó là 'tái áp lê' Trương Bán Tiên : "Vô công bất thụ lộc, hôm nay tại sao quý vị lại vừa mời tôi ngâm bồn tắm lại vừa mời tôi uống trà, có phải là có việc cần nhờ vả hay ? Xin trước câu, muốn vay tiền tôi thực có. Hai năm qua kinh tế khó khăn, cái chén cơm kiếm được nhờ xem phong thuỷ dương càng ngày càng khó kiếm rồi. sợ mấy vị em chê cười, hơn nửa năm này tôi chưa từng bước chân vào hàng quán. Bữa nào cũng ở nhà cố mà trệu trạo nuốt đồ ăn, ngay cả mì thập cẩm cũng dám ăn." Quách sư phụ : "Xin thầy đừng quá đa nghi, cứ an tâm ở lại đây nghỉ ngơi. Chúng tôi chỉ là lưu manh nghèo kiết xác, có ai mà chẳng biết. Nếu muốn mượn tiền chúng ta cũng tìm tới thầy." Vừa nghe thấy phải mượn tiền, Trương Bán Tiên lập tức yên tâm, rung đùi đắc ý : "Người xưa rất hay, chim chết vì mồi người chết vì tiền. Thời bây giờ, người có đạo đức, kẻ dưới làm loạn, khiến cho nhân vật như Trương mỗ có tài nhưng gặp thời. Nhưng hỡi ôi, người có tài nhưng gặp thời đâu chỉ có riêng mình Trương mỗ?" Lý Đại Lăng : "Thầy đừng văn vẻ có được hay . Tất cả mấy người chúng tôi đều là kẻ thô lỗ, nghe câu này mà hiểu đầu đuôi ra sao. Ý thầy muốn là cái gì?" Trương Bán Tiên đáp lại: "Tôi muốn thế này, ba em các vị và tôi cũng giống nhau cả thôi, cùng khốn khó đến cùng cực, nghèo vẫn hoàn nghèo, nhưng tất cả đều là người người có bản lĩnh. Quách gia và Đinh gia tôi đến nữa, chúng ta quen biết nhau bao nhiêu năm rồi còn gì. Giờ mạn phép mượn Lý Đại Lăng Lý gia cậu để phát biểu cảm tưởng ban đầu khi gặp nhau ngày hôm nay của tôi. Tôi vừa nhìn cảm thấy Lý gia cậu là tráng sĩ hiệp can nghĩa đảm, là bạn bè đáng giá ngàn vàng, đua tranh với đời, gặp Văn vương khiêm cung hữu lễ, gặp Kiệt Trụ can qua cúi đầu. Cậu chính là hảo hán bụng dạ thẳng tông ta, trong mắt vương hạt bụi." Lý Đại Lăng nhếch miệng cười : "Đúng là chỉ có Bán Tiên thầy tinh mắt. Thầy có biết những kẻ ở ngoài kia đánh giá tôi thế nào ? Bọn chúng hề tôi hiệp nghĩa nhân hậu, mà cái đám tạp nham đó lại dám tôi bằng nắm rác trong xó nhà-- con mẹ nó ra thể thống gì." Quách sư phụ bảo Lý Đại Lăng: "Được rồi người em, cậu đừng than vãn nữa, mau chóng tiếp tục cắt củ cải trắng cho Bán Tiên, gọi phục vụ đổi cái ấm cao mạt thành trà thơm." Lý Đại Lăng cắt củ cải trắng, châm trà đưa cho Trương Bán Tiên: "Bán Tiên thầy dùng , chờ tôi gọi phục vụ pha ấm trà thơm lớn. Củ cải trắng ăn với trà nóng, thầy lang giận đến lăn quay." Trương Bán Tiên : "Được rồi, cao mạt đổi thành trà thơm sao? Quách gia ngài tìm tôi nhất định là có chuyện gì đó. Nếu ngài ra cho ràng, tôi thực dám tiếp tục ăn củ cải trắng uống trà của ngài nữa." Quách sư phụ : "Thôi được, tôi vòng vo với thầy nữa. Ba em chúng tôi mời thầy tắm rửa uống trà, đơn giản chỉ vì muốn nhờ thầy giảng giải cho biết huyệt Kim Vĩ Ngô Công là như thế nào?" Trương Bán Tiên tỏ vẻ khó xử trả lời: "Thế này. . . thế này. . . , phải vừa mới rồi tôi lần cho các vị nghe rồi hay sao. Nếu bắt tôi phải thêm có lẽ tiện cho lắm. Tổ tông lập ra quy định, thứ này chỉ truyền nam truyền nữ, chỉ truyền nội truyền ngoại. Toàn thể gia tộc chúng tôi đều nhờ vào thứ này để kiếm cơm đó." Quách sư phụ những quy định đó chúng tôi đều hiểu cả, thầy cứ yên tâm chúng tôi hề có ý định đoạt chén cơm của thầy, chỉ vì muốn đuổi bắt sông Liên Hóa Thanh mà thôi. Ông ta lập tức kể hết ra toàn bộ đầu đuôi nguyên nhân, rồi năn nỉ Trương Bán Tiên nhất thiết phải chỉ điểm vài đầu mối. Trương Bán Tiên : "Quách gia, ngài hỏi tôi coi như là coi trọng tôi rồi. Nếu tôi còn tiếp tục dấu giếm ngài có vẻ bản thân quá biết điều rồi. Bây giờ, tôi dứt khoát cho ngọn ngành. Biết như thế nào đây, Kim Đầu Ngô Công và Kim Vĩ Ngô Công thực ra chỉ là hai cách gọi của cùng địa thế, là đầu và đuôi của cùng con rết. Sau đây tôi hết những gì huyền bí bên trong cho các vị biết." Tám Sau đó, Trương Bán Tiên khoa chân múa tay giảng giải. Y địa thế của Thiên Tân vệ bắc cao nam thấp, phía nam có vùng đất trũng rộng lớn giống như cái Tụ bảo bồn (chậu đựng châu báu). Bởi vậy mà nam giàu bắc nghèo. Rất nhiều năm trước, có con sông lớn chảy vào cái hồ ở phía nam. Sau khi cạn nước, cái hồ đó biến thành vùng đất trũng này, còn dòng chảy ngày trước biến thành kênh rạch. Từ thời Thanh mạt đến nay, nội thành ngừng được xây dựng mở rộng về phía nam ngoại ô, rất nhiều phòng ốc được xây lên, đường phố được trồng cột điện. Những tuyến kênh rạch trải rộng hơn mười dặm hầu như bị lấp bằng. Nhưng theo sách phong thuỷ, dù bị lấp bằng nhưng tuyến kênh rạch này vẫn giữ nguyên được hình thái ban đầu. Theo phong thuỷ, hình thái đó được gọi là thế Kim Vĩ Ngô Công, giống như con rết khổng lồ lắc đầu vẫy đuôi muốn bò vào bên trong Tụ bảo bồn. Đầu nó chứa kim, có thể phù trợ tiền tài, đuôi nó treo kim, có thể câu tiền tài. Đuôi con rết này nằm tại ao sen của công viên Lý Thiện Nhân. Còn về phần đầu Kim Vĩ Ngô Công nằm ở đây mà lại ở nơi khác, nơi đó chính là nghĩa trang nhà họ Ngụy tại phía nam thành phố. Năm xưa, ông nội của Trương Bán Tiên là lão Bán Tiên giúp Nhị gia của Ngụy gia chọn khu nghĩa địa. Khu nghĩa địa đó chính là "huyệt Kim Đầu Ngô Công" . Trăm ngàn năm trước, vùng trũng phía nam là cái hồ tự nhiên, đất đai màu mỡ, cho nên cây cối nơi đó tươi tốt, tương phản hoàn toàn với vùng lân cận hoang vu đất bị nhiễm mặn. Mặc dù thế Kim Đầu Ngô Công này rất hoàn hảo, nhưng vẫn có điểm khiến cho người ta sai lầm. Ai mà ngờ được, con rết này lại bị tấm bia đá đồ sộ trấn áp. Toàn bộ phong thủy của Kim Vĩ Ngô Công bị tấm bia đá này đoạn tuyệt, huyệt cát tường biến huyệt hung, nhưng mãi về sau này người ta mới phát ra điều đó. Đầu thế kỷ mười chín, nhân khẩu nhanh chóng gia tăng, nghĩa địa nhà họ Ngụy dần dần biến thành khu nhà ngói dành cho người sống của chính gia tộc mình. Khu đất đó bao giờ yên ổn, đường lối lại đan xen như mắc cửi, địa thế phong thuỷ thể nào còn tốt được nữa rồi. Thường xuyên có các loài động vật như sói vàng chồn dữ mèo rừng chó đất qua lại, người sống ở nơi đó bao giờ an bình. Chính vì vậy, nhà nào cũng treo nóc tấm gương trừ tà. Ở vùng đất đó, thỉnh thoảng lại có thể bắt gặp xác chết của mèo, chó và cáo. Chưa cần đến lúc con sông gặp lũ, chỉ cần trời mưa to những căn phòng lợp ngói của Ngụy gia chìm nửa dưới nước. Đến nay, nửa số phòng ốc bị hủy hoại, đại đa số đều là những căn nhà nguy hiểm bị bỏ hoang, chỉ chờ phá để xây lại. Nhưng thời buổi bây giờ là thời kỳ bấp bênh, ai còn lòng nào mà nghĩ đến việc phá hủy những căn phòng xiêu vẹo ở nghĩa địa của nhà họ Ngụy đây? Xuôi theo hướng nam của nghĩa địa nhà họ Ngụy là vùng ngoại ô phía nam, càng cách xa càng hoang vu, theo hướng bắc là đường vào nội thành. Tấm bia đá khổng lồ nằm ở phía tây bắc của nghĩa trang nhà họ Ngụy, con vật dưới bệ đá của tấm bia là con bị hí ( loại động vật trong thần thoại, giống rùa. Xưa các bệ đá thường khắc hình con này). Dân chúng gọi tấm bia đá này là bia Đà Long Trấn Hà. Thực tế có phải như vậy hay thể nào biết được, dù sao cũng chỉ là lời đồn đại. Tấm bia đá đó rất đồ sộ, mấy người đứng chồng lên nhau cũng thể với tới đỉnh, dù đứng cách rất xa vẫn có thể nhìn thấy nó, là loại vật cổ dùng để ngăn chặn sát khí bảo vệ thành trì khi xưa. biết bao nhiêu năm trôi qua, mỗi khi sửa đường lợp nhà người ta đều muốn di dời nó nhưng bao giờ làm được. Đầu con Kim Vĩ Ngô Công này hướng về phía nam còn đuôi hướng bắc, trong tư thế bò vào trong Tụ bảo bồn, nhưng lại bị tấm bia đá này găm chặt lại. Chỉ cần tấm bia đá này còn, cổ con rết bị tấm bia đá chẹn lại nhúc nhích được. Cho nên, huyệt Kim Đầu Ngô Công đích xác nằm ở ngay gần tấm bia đá. Ba người mắt tròn mắt dẹt lắng nghe, tin nổi những gì Trương Bán Tiên . Ba người nằm mơ cũng thể tưởng được, Liên Hóa Thanh lại trốn ở trong nghĩa trang nhà họ Ngụy. Nếu biết địa điểm lúc nào cũng có thể tới đó bắt người. Đừng lầm tưởng là chưa từng nhìn thấy mặt của Liên Hoa Thanh nhận ra y, nét đặc thù mặt kẻ này lẫn vào đâu được, hai mắt bốn con ngươi, cứ tìm người có dấu hiệu đặc thù này thể nào nhầm lẫn. Chỉ cần hai vụ án dấu xác trong hộp sắt ở Trần Đường Trang và dìm xác ở ngã ba sông là đủ xử bắn Liên Hóa Thanh vài lần. Nhưng đội cảnh sát đường thủy Ngũ Hà thể vô cớ bắt người, huống hồ bắt kẻ thông dâm phải có cả đôi, bắt trộm phải có tang vật. Nếu muốn kết tội Liên Hóa Thanh đến cùng gây ra bao nhiêu vụ án mạng, lấy đâu ra chứng cứ xác thực, phải bắt được y thẩm vấn lấy khẩu cung mới tính toán cụ thể được. Ngoài ra, Quách sư phụ còn nghĩ tới việc, cái tên Liên Hóa Thanh đó trốn đâu mà lại cứ nhè vào vùng lân cận tấm bia đá của nghĩa trang nhà họ Ngụy mà trốn, trong khi bản thân nơi đó vốn dĩ ma quái, từ đó có thể thấy được kẻ này nhất định có mưu đen tối. Cứ tới đó xem xét kỹ càng, dù có bắt được người, nhưng chỉ cần có thể tìm được vài manh mối liên quan cũng tốt chán. Trương Bán Tiên tiếp: "Ba vị muốn nghĩa trang nhà họ Ngụy gia bắt , vốn là hành động thay trời hành đạo vì dân trừ hại. Lẽ ra tôi nên ngăn cản, nhưng tôi vẫn thể câu khó nghe. giờ, địa thế huyệt Kim Đầu Ngô Công biến thành huyệt hung theo đúng nghĩa của nó. Những năm vừa qua, tấm bia đá khổng lồ này lây nhiễm ít sát khí. Đến giờ này, địa thế đó quả thực biến thành con rết tinh ngoác miệng ra, chỉ chực chờ ăn sống nuốt tươi con người, đến người ăn tươi người, đến hai người nuốt sống cả đôi. giờ, tôi thấy ấn đường Quách gia biến thành màu đen báo hiệu điềm xấu. Bởi thế, làm gì, nhưng nếu khẳng định là chết chắc. Tôi tuyệt đối phải ăn bừa bãi, những lời này thực là có căn cứ." Ba em tin, cho rằng Trương Bán Tiên lại cố tình làm ra vẻ thần bí. Những ông thầy xem phong thuỷ, tướng số như y cứ mở mồm ra là chuyện giật gân, nếu như vậy làm sao thu được tiền của thiên hạ. Họ bèn bảo y cần tốn thêm nước bọt nữa. Sau khi mọi việc thành công, phần thưởng của ông chủ Thạch nhất định có phần của y, công đầu trong vụ đuổi bắt sông Liên Hóa Thanh là của Trương Bán Tiên nhà thầy. Đến lúc đó, chúng tôi bày tiệc cảm ơn thầy, chí ít ra cũng phải có bốn món ăn mặn nguội, sáu món xào nóng, tám bát canh lớn, ngoài ra còn thêm nồi lẩu. Trương Bán Tiên : "Mấy người em coi tôi là loại người gì thế. phải tôi hù dọa ba người, nếu Quách gia tới bia trấn sông ở nghĩa trang nhà họ Ngụy tôi dám khẳng định là chắc công ta phải chết. Ba ngày sau, nếu ngài vẫn còn sống chết, Trương Bán Tiên tôi cả nửa đời sau bao giờ ăn đến chén cơm phong thủy dương này nữa. Các vị, tôi đến nước này rồi, mọi người vẫn còn được hay sao?" Ba em bọn họ nghe ra Trương Bán Tiên thực là có ý tốt, nhưng vẫn cảm thấy cách của y chẳng qua chỉ là quan trọng hóa vấn đề. Chết sống có số, đâu phải do con người định đoạt? Trương Bán Tiên đành chịu. Đừng thấy bình thường Quách gia rất dễ chuyện mà lầm, tính tình ông ta thực ra rất cố chấp, những người tuổi trâu đều như vậy cả. Công việc mà mình muốn làm, ai có thể khuyên bảo ông ta dừng lại được. Huống chi còn có Lý Đại Lăng an phận suốt ngày lải nhải bên tai. Lý Đại Lăng thuộc loại người cứng đầu háo danh. Trong đầu lúc nào cũng chỉ muốn phá vụ án dìm xác ngã ba sông để tranh công nhận phần thưởng, căn bản bao giờ chịu nghe ai khuyên can. Những gì cần Trương Bán Tiên cả rồi, thừa biết muốn ngăn cũng ngăn được, dứt khoát thêm gì nữa, thầm nghĩ: " hay là do ta, là do Quách Đắc Hữu nhà ngươi, muốn chết hay là muốn sống, tự ngươi tính toán mà làm." Mấy người Quách sư phụ hạ quyết tâm, phải nghĩa trang nhà họ Ngụy đuổi bắt sông Liên Hóa Thanh. Nhưng họ thừa biết nghĩa trang nhà họ Ngụy ma quái đến phát sợ. Trong cùng ngày, ban ngày đào được cổ mộ dưới ao sen công viên Lý Thiện Nhân, buổi chiều khi ra khỏi nhà tắm sắc trời tối, họ dám thẳng tới nghĩa trang nhà họ Ngụy, bèn từ biệt Trương Bán Tiên. Đến sáng ngày hôm sau dậy sớm, trời mới vừa tờ mờ sáng, ba người tập hợp ở ngoài cửa Nam rồi khởi hành tới chỗ bia trấn sông ở nghĩa trang nhà họ Ngụy. Có người hỏi, những gì Trương Bán Tiên thực ra có đúng hay ? Ngài hỏi rất hay, tôi xin trả lời ngài rằng, địa thế của huyệt Kim Đầu Ngô Công trong nghĩa trang nhà họ Ngụy thay đổi, con rết tiền tài bò vào Tụ bảo bồn trước kia chết, biến thành con rết khác ngoác miệng ra chực ăn thịt người. Quách sư phụ gặp điềm xấu, lại đâm đầu vào hang ổ của nó, lần nghĩa trang nhà họ Ngụy này là chịu chết. Ngài cứ tiếp tục theo dõi rồi biết, lời của Trương Bán Tiên thực là chuẩn xác. Nhưng câu chuyện về Thần sông vẫn luôn được lưu truyền tới tận thập niên năm mươi sáu mươi sau giải phóng. Nếu Quách sư phụ chết vào thời điểm này làm gì còn chuyện gì mà kể nữa? Bởi vậy đó là cái nút thắt. Trong thuyết thư, nút thắt chính là yếu tố tạo ra kịch tính. Cái nút thắt của tôi chính xác là được đặt ở ngay chỗ này, hồi sau phân giải.
Chương 8: Ngã tư đường bị ma ám (Nửa chương đầu) Ai cũng bảo Lý Đại Lăng có tướng hổ, đầu to mũi sư tử, đôi mắt trố to như chuông đồng, giống như con hổ dữ. Đinh Mão có tướng rồng, là thanh niên nhanh trí lão luyện; Thân thể cứng như roi sắt, lại nhanh như gió, có thể chạy mạch hai mươi dặm mà thở mạnh mặt đổi sắc. rồng hổ này phụ tá đắc lực cho Thần sông Quách Đắc Hữu, khiến cho trong lúc đồn đại, người ta tránh khỏi thêm mắm dặm muối lẫn thổi phồng quá mức. Nhưng qua đó cũng , lúc nào ba em cũng cùng nhóm với nhau, lần đến nghĩa trang nhà họ Ngụy truy bắt sông Liên Hóa Thanh này cũng thể thiếu bất cứ ai. Mạch phong thủy Kim Vĩ Ngô Công này ngày trước là hệ thống lạch ngòi, đầu nằm ở công viên Lý Thiện Nhân, đầu nằm tại nghĩa trang nhà họ Ngụy. Gần trăm năm nay, hệ thống lạch ngòi này còn tồn tại nữa rồi, chỉ có những thầy xem phong thuỷ cao tay mới có thể nhìn ra địa thế dấu ở bên dưới. Quách sư phụ dẫn Đinh Mão và Lý Đại Lăng, căn cứ theo chỉ điểm của Trương Bán Tiên, đến khu vực gần tấm bia đá ở nghĩa trang nhà họ Ngụy phía nam thành phố để truy tìm nơi náu của Liên Hóa Thanh. Ngay từ lúc sáng sớm, thời tiết nóng như đổ lửa. Đeo giày đường mà vẫn cảm thấy bị phỏng chân, mắt chỉ nhìn thấy màu vàng chói lóa, mặt đất bốc hơi thành những đám mây dày đặc trời. Toàn bộ trời đất u tối tăm nóng hầm hập, từng đám chuồn chuồn dày đặc nối tiếp nhau bay là là loạn xạ gần mặt đất. Bọn họ vừa mới đến rìa vùng đất trũng gặp dấu hiệu sắp có cơn dông mùa hạ, chỉ còn thấy mấy người lác đác đường. Vào thời điểm sắp mưa to như thế này, mọi người hiếm khi ra ngoài trời, nhất là những người nghèo phải làm công việc nặng nhọc để mưu sinh. Trời oi bức công việc lại tốn sức, người đầm đìa mồ hôi, trong người như bốc hỏa, toàn bộ lỗ chân lông giãn nở tối đa; Nếu gặp phải mưa to, nóng gặp lạnh, sốt cao ít nhất nửa tháng lui. ngày làm việc, ngày toàn bộ người lớn trẻ em trong nhà có thứ gì mà bỏ vào miệng. Mười ngày nửa tháng có lẽ nằm gượng dậy nổi, huống chi sinh bệnh cũng có thuốc mà uống, chỉ có thể nằm liệt chỗ chống chọi, đến khi qua được cơn bạo bệnh vẫn còn lưu lại di chứng. Nếu như gặp bệnh quá mức hiểm nghèo, chẳng biết chừng đời nhà ma ngay ngày hôm đó. cái chiếu rách quấn quanh xác, chôn cất tạm bợ, cuối cùng biến thành thức ăn của chó hoang. Lao động chính vừa mới chết, toàn bộ thành viên trong nhà lập tức tan đàn xẻ nghé. Cả ba người Quách sư phụ đều là lưu manh, cũng phải dân làm công việc nặng nhọc, cho nên chẳng bận tâm gì đến điều đó. Mắt thấy sắc trời tốt, trong lòng thoáng do dự chút, nhưng họ vẫn quyết định tới nghĩa trang nhà họ Ngụy. Bắt được Liên Hóa Thanh là có thể thẩm tra ra tường tận từng chi tiết vụ án dìm xác ngã ba sông. Bất kể cái xác phụ nữ đó có phải của tiểu thư nhà họ Thạch trốn nhà bỏ , vẫn cứ phải đưa ra câu trả lời thỏa đáng cho người nhà họ. Ba người phải tìm cách nhanh chóng chấm dứt vụ án này. Theo cách nghĩ của Đinh Mão, nếu bắt được Liên Hóa Thanh, chỉ có tiếng tăm truyền xa lẫn tích đức, mà còn có phần thưởng. Họ suy nghĩ theo chiều hướng đơn giản nhất, đầu tiên ngồi ở biên giới vùng đất trũng ăn bánh rán nhân hoa quả, sau đó thẳng tới nghĩa trang nhà họ Ngụy. Nghĩa trang nhà họ Ngụy còn được gọi là khu cấp bốn nhà họ Ngụy gia, nằm ngay sát rìa vùng đất trũng, thông sang điện đạo. Điện đạo chính là đường cái, trước kia người Bắc Bình vùng đông bắc Thiên Tân thường gọi đường cái theo cách này, nghe có vẻ rất quái lạ. Đường cái dễ nghe thế gọi, sao lại cứ nhè điện đạo mà gọi? Đường nối với điện, người đó chẳng phải bị điện giật hay sao? Vào cái thời đại xa xưa, cách hiểu của dân chúng về điện chỉ có chữ -- nhanh, điện báo, tàu điện, điện thoại, bất cứ cái gì dính dáng đến điện đều có tốc độ rất nhanh. Điện đạo là con đường trơn tru như lụa, xe con đường đó nhanh chóng an toàn, cho nên mọi người bèn gọi đường cái là điện đạo. Chếch về hướng nam, ngay gần vùng đất trũng là ngã tư rộng lớn do hai điện đạo cắt vuông góc với nhau tạo thành. Những người sống ở Thiên Tân vệ ngày trước đều biết ngã tư này bị ma ám, vô cùng quái lạ. Nếu nhìn từ cao, khu nhà ngói nghĩa trang nhà họ Ngụy nằm ở phía đông nam của ngã tư đường. Từ khi nghĩa trang nhà họ Ngụy biến thành khu nhà cấp bốn của nhà họ Ngụy đến bấy giờ, tất cả những gia đình sinh sống ở đó đều là dân chúng nghèo đói. năm trước, sau khi xảy ra trận lũ lụt, khu này có ít phòng ốc bị sập đổ, đè chết bảy tám người. Tất cả những người ở trong khu nhà ngói nhà họ Ngụy đều chạy nạn, sau đó còn người nào đến đó ở nữa. Khu đó bị cắt điện nước, chỉ chờ dỡ bỏ. Cách khu nhà ngói nhà họ Ngụy con đường lớn, nằm ở phía tây nam của ngã tư đường là nhà máy thuốc lá, thuộc về nhà máy thuốc lá Cáp Đức Môn nổi tiếng. Những năm đầu thời kỳ Dân quốc, các công ty thuốc lá của Mỹ lừa nông dân trồng cây thuốc lá của Mỹ, cung cấp miễn phí hạt giống và giảng dạy kỹ thuật gieo trồng, tận tình dạy mọi người gieo trồng như thế nào; Đến khi thu hoạch, các công ty thuốc lá thu mua với giá cao. Còn việc gì tốt hơn thế nữa? cứ hay như là chim hót, đại ý đây là công việc trong mơ, rồi đưa ra khẩu hiệu mê hoặc mọi người: "Hoa mầu chỉ đủ duy trì ấm no, nếu muốn phát tài mọi người phải trồng thuốc lá." Có rất nhiều nông dân ở nông thôn mắc lừa, lấy hạt giống về trồng. Chỉ trồng thôi chưa đủ, sau khi thu hoạch lá cây thuốc lá còn phải hong khô. Chi phí cho công việc này thực ít. Những người trồng thuốc lá vay mượn khắp nơi mua than về sấy. Sau khi lá thuốc lá sấy khô, đến khi vận chuyển đến các công ty thuốc lá của Mỹ, họ mới phát ra giá thu mua bằng phần mười chi phí bỏ ra, nhưng nếu bán cho các công ty thuốc là chẳng còn bán được cho ai. Nông dân sống dựa vào trồng trọt, toàn bộ gia đình đều trông cậy vào thu nhập này để sống. Nhưng ngờ, giá lại chỉ bằng phần mười so với dự tính. Như vậy đúng là bức tử người đền mạng. Sau thời điểm thu mua thuốc lá khi ấy, người ta thường xuyên nhìn thấy xác người treo cổ đầy rẫy bên ngoài cổng chính của nhà máy thuốc lá. Những người đó còn đường sống, đành phải lấy dây thừng thắt cổ ngoài đường. Mấy năm đó, có ít người chết vì nguyên nhân này. Có tin đồn , quỷ thắt cổ trốn bên dưới khu nhà ngói nhà họ Ngụy. Quỷ thắt cổ muốn bắt thế thân, cho nên con đường này thường xuyên có người thắt cổ, chẳng biết là có đáng tin hay . tóm lại, con đường này có rất nhiều hồn dã quỷ oan khuất, hơn nữa phong thuỷ cũng tốt, thỉnh thoảng lại gặp chuyện may. Hai Về sau nhà máy thuốc lá chuyển đến Đại Vương Trang ở Hà Đông, bởi vậy khu nhà xưởng của nhà máy thuốc lá bên cạnh khu nhà ngói nhà họ Ngụy bị bỏ hoang. Vài tòa nhà mà người ta còn nhìn thấy ở ven đường, xưa kia từng là văn phòng và khu tập thể của nhà máy thuốc lá. Về sau qua mấy lần đổi chủ, nhưng người sống trong đó bao giờ yên bình, lâu sau bị bỏ hoang cho đến bấy giờ. Qua nghĩa trang nhà họ Ngụy và nhà máy thuốc lá về phía nam là đến vùng đất trũng, cỏ dại lau lách mọc um tùm, xa hơn nữa toàn bộ đều là ruộng. Con đường theo phương ngang của ngã tư đường chạy theo hướng bắc, tương đối vắng vẻ, ngày trước được đổ bằng xi-măng thải. Nếu theo hướng bắc, càng tới gần thành phố, nhà ở và dân cư càng dần đông hơn. Nghe , tấm bia đó được dựng chính giữa ngã tư đường nhằm ngăn chặn sát khí ở vùng đất trũng phía nam, đồng thời cắt đứt đường của toàn bộ ma quỷ ở nghĩa trang nhà họ Ngụy và nhà máy thuốc lá; Hơn nữa, nó cũng phá hủy toàn bộ phong thủy Kim Vĩ Ngô Công. Ban đầu, tấm bia đá này thấp lắm, biết được xây dựng từ triều đại nào, đầu con thú cõng bia bị cụt mất nửa. Chữ khắc bia bị mòn thể đọc được nữa, nội dung bị thất truyền từ lâu. Khi sửa đường, người ta định chuyển tấm bia này . Nhưng có ai ngờ, vừa mới định hành động đất trời biến đổi khiến cho ai dám thực công việc này nữa. Hoãn hoãn lại, nhiều năm trôi qua mà nó vẫn đứng trơ trơ, vô cùng chướng mắt lù lù giữa ngã tư đường, người qua lại đều phải vòng qua. Người biết còn cứ tưởng đó là tấm bia kỷ niệm. Thường ngày, ba người Quách sư phụ rất ít khi đến nơi này, nhưng vẫn biết đường ngang ngõ dọc ra sao, nên vội vào những con đường chằng chịt giống như mạng nhện của nghĩa trang nhà họ Ngụy. Khi họ đến ngã tư này sắp giữa trưa, bầu trời u ám mù mịt khiến cảnh vật trở nên u. Ba người đứng ven đường nhìn ngó xung quanh lượt. đường cái vẫn thưa thớt có ngươi lại, bởi dù sao bây giờ vẫn còn là ban ngày. Họ tập hợp thành tốp năm tốp ba, phần lớn là người bán rau củ. Từ khi trời còn tờ mờ sáng, họ vội vàng đánh xe ngựa từ ngoại ô vào thành phố, chạy đến khu chợ sớm gân cổ rao bán từng cân đậu, từng sọt củ cải trắng. Chưa đến buổi trưa hầu như bán hết, lúc này họ bắt đầu lục tục về nhà. Bên kia ngã tư, ngay gần nhà máy thuốc lá có gánh mì hoành thánh. Người chủ gánh bán mì hoành thánh là ông lão, dắt theo bé tầm tám chín tuổi, có lẽ là hai ông cháu. Ông lão gánh cái bếp lò , đến vỉa hè bày ra mấy cái ghế đẩu, bán mì hoành thánh và bánh nướng. Nếu như được hôm thu nhập khá khẩm, đường về nhà sau khi bán xong rau quả, mỗi khi ngang qua cái quán này những người nông dân thường gọi chén mì hoành thánh để ăn lót dạ. Xem ra, nguồn thu nhập của gánh hàng mì hoành thánh của hai ông cháu hoàn toàn trông cậy vào những người này. Ngày nào, hai ông cháu cũng bày bán ở đây. Nhưng giờ trời sắp mưa dông, buôn bán ế ẩm, cả gánh hàng có người khách ăn mì hoành thánh. Bình thường, vào ban ngày vỉa hè con đường này còn có mấy người bán hàng rong nữa. Cũng may là vùng phía nam tấm bia đá có ít người sinh sống, cho nên cảnh sát tuần tra thèm ngó ngàng gì đến. Tuy vậy, ngày nào họ cũng thu dọn từ rất sớm, bởi đến khi trời tối chẳng còn ai dám đến đây nữa. Ba em dạo qua vòng khu vực lân cận của ngã tư. Chẳng biết có phải tâm lý bị ảnh hưởng hay , trong tiết trời oi bức như vậy, trong lúc về phía nam của tấm bia đá, họ lại cảm thấy tương đối nặng nề. Phần lớn những căn nhà trong nghĩa trang nhà họ Ngụy bị bỏ hoang. Có phòng bị khóa lại, nhưng cũng có phòng cửa nẻo mở toang, bởi vì bên trong chẳng có cái gì ngoài bốn bức vách, cần gì phải đề phòng trộm cắp. Tấm bia đá trước mặt họ xem xét qua rồi, nhấc chân đạp thử mấy lần, bên dưới có khoảng trống. Chỉ còn những tòa nhà thuộc về nhà máy thuốc lá ở phía tây nam của tấm bia đá là chưa xem xét. Nhưng lúc bấy giờ đến giờ cơm trưa, bụng cũng đói. Nhìn thấy gánh mì hoành thánh bán bên lề đường, họ bèn qua ăn vài chén mì và mấy cái bánh nướng thay cho cơm trưa. Ông lão bán mì hoành thánh có thân hình rất cao lớn, chòm râu dưới cằm vàng hoe, lúc ấy bộn rộn thu dọn gánh hàng, gương mặt lúc nào cũng trơ ra. Nhìn thấy có khách đến, ông lão cúi người chào đón, nhưng dù vậy gương mặt vẫn có nét tươi cười nào. Ông lão sai bé xếp ghế đẩu cho ba người ngồi. bé đó vô cùng hiền lành nghe lời, tay chân nhanh nhẹn khiến cho người khác thấy rất đáng . Nhưng lại có điều rất kỳ quái, đó chính là sắc mặt của hai ông cháu nhà này trắng bệch, lạnh như băng. Trong vẻ tái nhợt lại pha lẫn nét u, khiến cho người ta cảm thấy có vài phần đáng sợ. Ba Ba em ngồi xuống. Quách sư phụ lên tiếng hỏi ông lão bán mì hoành thánh: "Ông cụ, mì hoành thánh bán thế nào?" Ông lão bán mì hoành thánh trả lời: "Mì hoành thánh nặn đến đâu nấu đến đấy, hai viên to bát." Lý Đại Lăng hỏi: "Nước dùng mì hoành thánh có mất tiền ?" Ông lão đáp: "Nước dùng miễn phí, nhưng cậu phải mua mì hoành thánh mới có thể uống nước dùng." Quách sư phụ : "Làm phiền, cụ làm cho chúng tôi ba bát mì hoành thánh và mười cái bánh nướng." Ông lão lên tiếng đáp ứng. Nước trong nồi được đun sôi, ông lão chuẩn bị nhúng mì hoành thánh vào bên trong. Toàn bộ số mì hoành thánh đó là do bé kia nặn. Động tác của bé rất thành thạo, mì hoành thánh được nặn ra cách nhanh chóng. Quách sư phụ hỏi ông lão bán mì hoành thánh: "Đó là cháu của cụ hả?" Ông lão vừa luôn tay làm vừa trả lời: "Phải, là cháu của lão, từ mồ côi cha mẹ. Những năm vừa qua, hai ông cháu lão dựa vào gánh mì hoành thánh mà sống." Quách sư phụ gật đầu: " bé đáng thương, hình như có vẻ rất thạo việc, giúp cho cụ ít nhỉ?" Ông lão đáp: " hẳn là như vậy, bình thường chỉ có mình lão quả là bận tối mắt tối mũi. . ." Hai người chuyện chỉ trong chốc lát, mì hoành thánh được nặn xong, nhúng vào trong nồi nước sôi đun lát cho chín. Ông lão vớt mì hoành thánh trong nồi ra, đổ vào từng bát , thêm vài giọt dầu vừng, thả chút rau thơm và hành thái , lần lượt đưa cho ba em, sau đó : "Nhân lúc còn nóng mau ăn , thời tiết sắp thay đổi đến nơi rồi. Khi nào ăn xong mì hoành thánh, các cậu hãy mau chóng về nhà . Hai ông cháu lão cũng phải thu dọn quanh gánh, nếu dính cảm mạo vì thời tiết đúng là may chút nào." Mấy người Quách sư phụ quan tâm đến trời có mưa hay , lại còn phải làm việc mệt nhọc, cho nên đâu có sợ phải dầm mưa. Nếu chẳng may gặp phải mưa dông hoặc là mưa đá, quanh đây có đầy những căn phòng bỏ hoang xiêu vẹo để mà trú. Bởi vậy bọn họ bỏ ngoài tai lời khuyên của ông lão. Lý Đại Lăng ra vẻ hiểu biết, : "Theo tôi thấy, trận mưa dông này chắc phải đến khi trời chập choạng tối mới diễn ra." Ông lão bán mì hoành thánh lắc đầu bảo: "Trời nổi mây dông, khó mà đoán trước được mưa bão xảy ra lúc nào. Hãy nghe lão, ăn mì hoành thánh rồi chạy nhanh về nhà mà trú ." Đinh Mão nhận ra ý tứ mập mờ bất thường trong lời của ông lão bán mì hoành thánh, ngạc nhiên hỏi: "Quái, làm sao cụ lại biết chúng ta phải người ở đây?" Ông lão bán mì hoành thánh trả lời: "Các cậu mà trú ngụ ở đây mới là quái dị, đây là nơi dành cho người ở sao?" Đinh Mão thắc mắc: "Nhiều phòng ốc như vậy, người ở quỷ ở chắc?" Ông lão bán mì hoành thánh đáp: "Chàng trai, lão bán mì hoành thánh ở cái ngã tư này biết bao nhiêu năm rồi, ai ở đây có lẽ lão ràng hơn so với cậu nhiều. Dù sao nữa, ba người các cậu cũng chắc chắn phải người ở gần đây. Nhân lúc còn nóng, các cậu ăn mì hoành thánh nhanh lên, để nguội lạnh ăn được đâu." Ba em chợt sinh ra ý nghĩ giống nhau, tranh cãi với ông lão bán mì hoành thánh làm cái gì. Gánh mì hoành thánh của ông lão bày bán ở ngã tư này quanh năm, nên khi nhìn thấy chúng ta lạ mặt, cho nên ông lão thừa biết chúng ta phải là người sống ở gần đây. Nghĩ vậy, ba người cảm thấy cần gì phải hốt hoảng. Ngửi thấy mùi mì hoành thánh thơm ngào ngạt, họ thấy cồn cào cả ruột gan rồi. Ba người bưng bát lên thổi cho nguội bớt, rồi cầm lấy thìa xúc mì trong bát cho vào miệng. Vừa mới chạm đến đầu lưỡi, ba người lập tức ngây dại, đây là loại mì hoành thánh gì vậy? Bốn Có lẽ ai cũng từng ăn mì hoành thánh, loại rẻ nhất chắc phải là loại được bán rong ngoài đường; Trước kia còn được gọi là bánh canh bán rong, canh lõng bõng nước, nhân thịt nhồi trong mì hoành thánh bé đến mức dù có căng mắt ra cũng nhìn thấy, hai ba viên to trong bát. Loại mì tốt hơn chút được bán tràn lan ở trong các hàng ăn, nội thành ngoại thành đâu đâu cũng dễ dàng nhìn thấy. Còn loại đắt tiền chính là mì hoành thánh bán bên trong các nhà hàng. Những kẻ có tiền, mỗi khi kết thúc tiệc rượu lại dùng thêm bát mì hoành thánh như vậy. Do đó, nó trở thành món tráng miệng. Nguyên liệu làm lớp bọc ngoài và nhân bánh của loại mì hoành thánh này được làm tương đối cầu kỳ. Bột mì để làm lớp vỏ ngoài được trộn thêm trứng gà, nguyên liệu làm nhân bánh có đủ các loại tôm tươi bóc vỏ, nấm rơm. Ba người Quách sư phụ nghèo mạt rệp, dù thiếu tiền nhưng thiếu ăn, thường xuyên được chiêu đãi mỗi khi giúp việc tang lễ cho mọi người, nhưng cả đời mình chưa từng được ăn loại mì hoành thánh nào ngon như vậy. Vừa ăn miếng, cả ba ngây người ra, thể tưởng tượng nổi gánh mì hoành thánh vỉa hè tồi tàn thế này lại có loại mì ngon như vậy. Nhân thịt ở giữa rồi lớp bọc ngoài, thậm chí cả nước dùng, quả thực còn gì đáng chê. Nhìn cho kỹ bản thân mì hoành thánh chẳng có điểm nào thần kỳ cả, có lẽ là do nước dùng. Chỉ cần có nồi nước dùng gia truyền, hương vị của món canh thể nào tầm thường rồi. Trong lòng ba người thầm nghĩ như vậy, nhưng bên ngoài cắm đầu vào ăn, suýt nữa ngay cả đầu lưỡi của mình cũng nuốt luôn xuống bụng. Chỉ trong khoảnh khắc, bát mì hoành thánh chui hết xuống bụng chừa giọt. Mắt thấy mây đen vần vũ đỉnh đầu, sắc trời trở nên tối mù, những người đường tự chủ vội rảo bước nhanh hơn. Ông lão bán mì hoành thánh và cháu cũng thu dọn đồ đạc chuẩn bị về nhà. Nhưng ba người bọn họ vẫn chưa thèm, chết sống năn nỉ đòi mua thêm mấy bát mì hoành thánh. Ông lão thực khó xử, tỏ thái độ sợ gặp phải mưa to, muốn mau chóng về nhà, nhưng biết làm cách nào từ chối cầu đòi ăn thêm của ba người để mà nhấc chân lên về, đành phải đứng ở lề đường nấu thêm mì hoành thánh cho cho bọn họ. Quách sư phụ hỏi: "Món canh mì hoành thánh này ngon như vậy, tại sao cụ vào nội thành mà bán?" Ông lão bán mì hoành thánh đáp: "Trong nội thành đông người, người ta quản lý đất đai rất nghiêm, gánh mì hoành thánh của lão là mua bán , chen lọt, bất đắc dĩ mới phải đến ngã tư ở nghĩa trang nhà họ Ngụy bày quầy bán hàng. Nơi này vắng vẻ, khách hàng vốn nhiều lắm cho nên càng phải để tâm vào nấu." Quách sư phụ : "A, vậy có lẽ cụ bày bán gánh mì hoành thánh con đường này rất lâu rồi?" Ông lão bán mì hoành thánh bận rộn bắc nồi đun nước, ngẩng đầu lên, chỉ đáp lại câu: "Tương đối lâu rồi, cậu đấy, đừng có hỏi nhiều nữa, ăn thêm chén mì hoành thánh nữa rồi mau về nhà , lão đây là vì muốn tốt cho cậu." Quách sư phụ thầm nghĩ hỏi sao được, hiếm khi mà gặp được người như ông lão. Ông lão này bày bán gánh mì hoành thánh ở vỉa hè chỗ nghĩa trang nhà họ Ngụy rất nhiều năm, hết sức quen thuộc vùng này, chúng ta chạy cả quãng đường dài đến nơi này, đâu có phải là để ăn vài chén mì hoành thánh. Ông ta cảm thấy, tòa nhà của nhà máy thuốc lá nằm ngay gần ngã tư đường nghĩa trang nhà họ Ngụy là nơi lý tưởng nhất để náu quanh khu vực tấm bia đá, cho nên bám riết lấy ông lão bán mì hoành thánh hỏi thăm chút, nhưng lại viện được ra lý do hợp lý để mà mở miệng. Ông ta bèn hỏi cho qua chuyện: "Cụ ở nơi nào?" Ông lão chỉ tay về phía bắc của ngã tư, chỉ hai chữ: "Gần đây." Quách sư phụ thầm nhủ trong lòng: " thế có khác gì chưa , gần đây là cách đây bao nhiêu?" Lại hỏi tiếp: "Sao cụ thuê căn nhà cấp bốn ở ngay bên kia đường mà ở, như vậy có thể gánh gánh mì hoành thánh ra bày bán tiện hơn nhiều." Ông lão bán mì hoành thánh trả lời: " dám ở. Trước kia, khu nhà cấp bốn ở nghĩa trang nhà họ Ngụy có ít hộ gia đình cư trú. Nhưng nghe phong thuỷ của vùng đất trũng bao giờ tốt, bởi vì ngày xưa nơi này là nghĩa địa, năm ngoái lại xảy ra trận lũ lụt, từ đó còn người ở." Lúc này, bé nặn toàn bộ số bột và nhân bánh thành mì hoành thánh, nhưng số nguyên liệu còn lại nhiều lắm, chỉ đủ cho bốn năm bát. Ông lão bán mì hoành thánh : "Còn lại cũng chỉ có bấy nhiêu, vốn định giữ lại cho hai ông cháu chúng tôi ăn, giờ dù chế biến ra hết, nhưng chỉ tính tiền các cậu ba chén thôi. Ăn xong rồi nhanh nhanh về nhà thôi." Quách sư phụ đáp lại: "Cảm ơn cụ. Giờ xin hỏi thêm cụ vấn đề nữa, cái nhà máy thuốc lá bên kia đường đối diện với nghĩa trang nhà họ Ngụy, chính là cái tòa nhà bê tông cốt thép ở góc tây nam ngã tư đường kia kìa, giờ bên trong còn có người ở ?" Ông lão bán mì hoành thánh nghe thấy vậy, khẽ biến sắc, đáp ngay: " có người nào ở cả, đó là căn nhà bị ma ám." Cho tới lúc trưa, nhóm ba người Quách sư phụ sục sạo quanh tấm bia đá lượt, chỉ có tòa nhà bê tông cốt thép kia là còn chưa vào lần nào. Phía tây đường cái là nhà máy thuốc lá bị bỏ hoang, gần đường có vài toà nhà bê tông cốt thép tan hoang, ngày trước là khu tập thể của nhà máy. Tòa nhà gần tấm bia đá nhất là còn nguyên vẹn nhất, được xây dựng theo lối kiến trúc hai tầng lầu kèm tầng ngầm, từng là chi nhánh của công ty thuốc lá của Mỹ, được bao quanh bằng bức tường rào xây bằng đá tảng nấm mốc, có vẻ ngoài tương đối nặng nề và kiên cố, so với những gian nhà ngói cấp bốn ở nghĩa trang nhà họ Ngụy dành cho dân chúng nghèo ở chắc chắn và đồ sộ hơn nhiều. Nhưng cửa sổ khu nhà đó đóng chặt, nóc nhà cỏ dại mọc um tùm, hiển nhiên là rất lâu rồi có người cư ngụ. Nghe ông lão bán mì hoành thánh , bên trong tòa nhà này có ma. Trong lúc chuyện, thái độ và cách cũng giống như cố ý hù dọa người khác, Quách sư phụ nhân cơ hội đó hỏi ông lão: "Ngôi nhà ma? Bên trong có người ở?" Ông lão bán mì hoành thánh đáp: "Nghe tòa nhà này sạch , bên dưới có mồ mả của người xưa, nhiều lần đổi đổi lại chủ nhà, nhưng nhà nào sống an ổn, ai cũng bảo có ma. Hai năm trước, tòa nhà này được vị hội chủ hội nào đó mua lại, cả nhà năm người đều sống dựa vào kinh doanh buôn bán. Vị hội chủ đó lén lút tiến hành số vụ mua bán thể lộ ra ngoài ánh sáng, nếu đến ở nơi vắng vẻ đến như vậy. Sau đó, cả nhà năm người đột nhiên chết nguyên nhân ngay trong nhà mình, ngôi nhà này bị ma ám là cái gì? Từ lúc ấy, ai dám đến ở nữa. Các cậu đấy, đừng có mà tin là có tà ma." Chỉ trong thời gian ngắn ngủi đó, bé nặn xong toàn bộ chỗ mì hoành thánh còn lại. Bên phía ông lão nồi nước dùng sôi sùng sục. Mì hoành thánh được nấu khác gì mấy so với sủi cảo, chỉ khác là phải nấu nhanh. Bánh sủi cảo vỏ dầy, phải nấu tới lúc ba chìm ba nổi mới có thể vớt ra khỏi nồi, còn mì hoành thánh chỉ cần nhúng vào nồi nước dùng sôi là chín. Ông lão lặp lại những công đoạn như vừa rồi, đổ đầy mì vào trong bát, cho thêm gia vị và nước dùng rồi đưa cho ba người. Lúc tiếp nhận bát mì hoành thánh, Quách sư phụ chạm vào tay ông lão. Bàn tay kia đó lạnh như băng, quả thực là giống hệt như tay người chết. Năm Trời oi bức như vậy, lại còn bưng bát mì hoành thánh nóng hổi, tại sao tay lại lạnh băng như thế được? Quách sư phụ lăn lộn ở đội tuần sông vướt xác trôi sông nhiều năm, trong ấn tượng của ông ta dù trời có nóng đến thế nào, khi được vớt từ dưới sông lên thân thể của người chết đuối bao giờ cũng lạnh ngắt, bởi người chết còn hơi ấm của sống. Khi chạm vào tay ông lão bán mì hoành thánh cái, ông ta chợt liên tưởng tới những xác chết đó, trong lòng kìm được run rẩy trận. Mặc dù sắc trời u nặng nề, nhưng dù sao cũng là ban ngày, giữa ban ngày ban mặt làm sao có thể có người chết bán mì hoành thánh ở vỉa hè được, đây là tình huống có khả năng xảy ra. Thần hồn nát thần tính, Quách sư phụ bưng mì hoành thánh mà dám ăn. Trong khi đó, hai người em của ông ta chẳng thèm nghĩ ngợi cái gì, giống như quỷ chết đói đầu thai vồ lấy bát ăn mì hoành thánh. Mùi vị vẫn thơm ngon như vậy, húp vài ba cái cả bát mì hoành thánh chui xuống bụng, dù có ăn thêm vài bát nữa cũng chẳng có vấn đề gì. Thấy Quách sư phụ ngẩn người bất động, ông lão bán mì hoành thánh thúc giục ông ta nhân lúc còn nóng mau ăn . Ngồi bên cạnh chứng kiến, Đinh Mão chợt nhớ tới câu chuyện tiếu lâm, bèn kể cho Lý Đại Lăng nghe. Gã kể, trước kia có ông lão ở nông thôn, nhà ở bên khe suối heo hút trong rừng sâu núi thẳm, bốn chung quanh chỉ là rừng núi, đường thuận tiện, xuống thị trấn chuyến chẳng khác gì xuất ngoại. Dù sống đến từng tuổi này rồi, nhưng đó mới là lần thứ nhất ông lão đến thăm nhà người thân ở tỉnh thành. Người thân chiêu đãi ông lão món bánh trôi nước. Ông lão vừa nếm thử miếng cảm thấy món này quá ngon, đời đời kiếp kiếp ở giữa thâm sơn cùng cốc, kể cả trong mơ cũng chưa từng được ăn món như thế này, bèn hỏi người thân món đó gọi là gì? Người thân biết ông lão ngay cả bánh trôi nước cũng còn chưa được nhìn thấy bao giờ, hơn nữa ấy ông lão còn ăn dở miếng bánh trôi nước, phát lúng búng , thể hiểu nổi ông lão hỏi cái gì, đành trả lời qua quýt: "Cụ..., nhân lúc còn nóng nhân lúc còn nóng, nhân lúc còn nóng ăn ." Nghe thấy vậy, ông lão cho rằng bánh trôi nước tên là "Nhân lúc còn nóng", sau khi về nhà vẫn nhớ mãi quên món ăn này. Có lần, ông lão thèm đến phát khùng nhưng lại được ăn, lập tức hít vào nhiều mà thở ra bao nhiêu, đến lúc sắp chết muốn được ăn món "Nhân lúc còn nóng" thêm lần nữa. Con của ông lão là người chí hiếu, thấy cha thèm ăn lúc hấp hối, thế là trèo đèo lội suối chạy ra thị trấn mua món "Nhân lúc còn nóng" cho ông lão. Người con hỏi thăm nhưng ai biết đó là món gì, biết đâu mà hỏi bây giờ? Đúng vào lúc người con nóng vội, đường có người bán sủi cảo gân cổ lên rao: "Vừa ra khỏi nồi đây, nhân lúc còn nóng nhân lúc còn nóng." Nghe thấy lời rao đó, người con nghĩ chắc đúng là món này, vội vàng chạy qua đó mua bát to, mang về nhà cho ông lão ăn. Ông lão vừa mới biết được con trai mua món 'nhân lúc còn nóng' mang về đến nơi, căn bệnh người lập tức thuyên giảm nửa. Nhưng ông lão thấy đúng, tại sao lại biến dạng như thế này. Ông lão bất động nhìn chằm chằm vào bát sủi cảo quan sát, cả nửa ngày sau mới thốt ra được câu: "Nhân lúc còn nóng à nhân lúc còn nóng, hai năm gặp, ngươi mọc gai ra cơ đấy." Nghe kể xong, Lý Đại Lăng và cháu của ông lão bán mì hoành thánh đều phì cười, nhưng gương mặt ông lão bán mì hoành thánh vẫn trơ trơ, ông lão cũng chẳng thèm quan tâm Đinh Mão kể chuyện gì, giống như là hoàn toàn nghe thấy, mà chỉ thúc giục Quách sư phó ăn cho mau. Trong lòng cảm thấy có điều gì đó rất hợp lý, Quách sư phụ kín đáo quan sát ông lão bán mì hoành thánh và cháu . Hai ông cháu nhà này có sắc mặt trắng bệch, thân thể lại lạnh như vậy, quả thực giống y như xác chết còn hơi ấm của người sống. Nhưng bát mì hoành thánh cầm tay có mùi vị rất thơm, chỉ cần ngửi hương thơm nhịn nổi, ông ta đánh liều, dù sao vừa rồi cũng ăn hết bát, giờ ăn thêm bát nữa làm sao? Ông ta lập tức bưng bát lên, cả mì hoành thánh lẫn nước dùng, chỉ húp vài miếng sạch bách. Chỗ mì hoành thánh đó cứ như là có chân tự chạy vào trong bụng vậy. Ăn xong, ông ta lau miệng, tiện đó đưa luôn cái bát cho bé . Nhìn thấy Quách sư phụ ăn sạch bát mì hoành thánh đó, ông lão giục cháu thu dọn đồ đạc và bàn ghế bát đũa của gánh mì hoành thánh, rồi tiếp tục quay sang bảo Quách sư phụ: "Đừng có quyến luyến cái kia tòa nhà ma quái kia nữa, chỗ đó chẳng có cái gì tốt đẹp đâu. Thời tiết sắp thay đổi đến nơi rồi, mau mau về nhà mà trú . Giờ vẫn còn chưa muộn, đừng để đến lúc muốn lại được rồi mới hối hận." dứt lời, ông lão nhấc gánh mì hoành thánh lên vai, cháu bên cạnh đỡ. Hai bóng lưng già trẻ nhằm thẳng vào tấm bia đá mà , chân bước rất vội vàng, chỉ trong chớp mắt còn bóng dáng, giống như là tan biến vào khí. Quách sư phụ ngây người ra lúc, thầm nghĩ: "Nghe cách gần xa đầy ý thế này, chắc ông lão biết tỏng chúng ta muốn vào trong tòa nhà kia. Tại sao ông lão bán mì hoành thánh rong ngoài đường lại biết được chúng ta muốn làm cái gì?" Đến khi ông ta lấy lại tinh thần, dõi mắt nhìn lại, đường cái còn bóng người nữa rồi, chỉ có lại tấm bia đá lưng con thú cụt đầu đứng ở giữa ngã tư đường. Sáu Quách sư phụ phát giác ông lão bán mì hoành thánh và cháu quá mức quái dị, trong lòng tự hỏi, tại sao hai người này lại biết chúng ta muốn vào trong tòa nhà kia? Trong tòa nhà đó có bóng người hay sao? Nghe ông lão này có ý tốt khuyên ông ta mau về nhà, giống như là biết chắc có chuyện may xảy ra. Ông lão bán mì hoành thánh này rốt cục là từ đâu đến? Hai ông cháu nhà này sắc mặt giống như người chết, vội vã bỏ mạch, hơn nữa chỉ trong chớp mắt là biến mất, chẳng lẽ giữa ban ngày lại có ma quỷ bán mì hoành thánh đường hay sao? Ông ta đứng bên lề đường suy nghĩ lại, liên kết vài kiện với nhau, cuối cùng ngộ ra vài ý nghĩ như vậy. Đinh Mão hỏi Quách sư phụ: "Ông có chuyện gì chứ, tại sao yên lành mà hai mắt chớp, lông mày nhíu chặt lại như thế?" Lý Đại Lăng : "Chắc là nghe ông lão bán mì hoành thánh trong tòa nhà kia có ma, bận suy nghĩ đến điều đó chứ sao. ra cần gì phải nghĩ ngợi nhiều cho mệt. Theo tôi thấy, là phúc phải là họa, là họa tránh khỏi, chúng ta cứ đến đâu hay đến đó ." Quách sư phó phục hồi lại tinh thần, đáp lại: "Đúng vậy, cứ đến đâu hay đến đó , vào hang cọp sao bắt được cọp con, vào nhà đó làm sao có thể biết được bên trong ra sao." Lý Đại Lăng : "Đừng có nghe ông lão bán mì hoành thánh hù dọa, đời này lấy đâu ra ngôi nhà nào có ma. Lý gia tôi là người đánh rắm toác ra cái hố, lợi hại đến mức như vậy còn phải sợ những trò lừa thần gạt quỷ của họ hay sao?" Gã tin chắc ban ngày thể nào gặp quỷ nên mới dám như vậy. là có cơ hội khoác tội gì tận dụng, thứ hai là do lo ngại Quách sư phó và Đinh Mão nhát gan, tạm thời đổi ý truy tìm Liên Hóa Thanh nữa, tiền thưởng sắp đến tay bất kể thế nào cung thể để nó trôi theo dòng nước. ra, Quách sư phụ sợ điều này. Bản thân làm việc ở đội cảnh sát đường thủy năm sông, mặc dù đội tuần sông liên quan gì đến phá án, nhưng ông ta thấy và nghe ít. Ví dụ như chuyện cả nhà yên lành ở trong nhà bỗng đột nhiên biến mất toàn bộ, nhưng lại chẳng có ai nhìn thấy bọn họ ra khỏi phòng, biết bằng cách nào cứ thế mà biến mất, cứ như là bị ma quỷ trong ngôi nhà bị nguyền rủa đó mang vậy. Câu chuyện này có vẻ quá tà ma quái dị, nhưng lại phải là có, trước kia xác thực từng có vụ án như vậy. Nghe , đó là vào những năm cuối đời nhà Thanh, khi mà Thiên Tân Vệ vẫn còn chưa có đường sắt, bên bờ bắc kênh đào có gia đình gồm có ba người, hai vợ chồng và đứa con bảy tám tuổi sống chung trong căn phòng ở khu ổ chuột, gia cảnh nghèo khó. Ban ngày người chồng gò lưng kéo mảng bán sức, người vợ ở nhà may vá giặt đồ thuê, đứa con ra ngoài nhặt than xỉ. Than xỉ phải là xỉ than đá mà đại đa phần mọi người vẫn nghĩ. Trước kia, vào mùa đông, người nghèo mua nổi than đá, đành phải bảo con cái nhặt than xỉ mà người khác thải ra sau khi đốt. Bởi vì có tiền cho nên trẻ con được ăn học, hàng ngày mặc áo bông rách nát như tổ đỉa vá chằng vá đụp, vác cái cái sọt, tay cầm cây gậy sắt thu nhặt những viên than còn chưa cháy hết. Chúng dùng cây gậy sắt đập vỡ lớp xỉ, lấy phần than đá bên trong còn có thể tận dụng để đốt, phần than đó được gọi là than xỉ. Sau đó chúng cho vào sọt mang về nhà. Dù đám trẻ con thu nhặt chẳng được bao nhiêu, nhưng ngày qua ngày góp gió thành bão. Đến khi trời đông giá rét, họ đốt chỗ than xỉ đó để sưởi ấm. Vào thời đại ấy, những đứa trẻ con nhà nghèo làm gì có tuổi thơ theo đúng nghĩa đen của nó. Chúng định trước cứ sinh ra là phải chịu mệnh khổ. Đến tầm tuổi hiểu biết chút, đám trẻ con phải giúp đỡ người nhà làm việc. Thỉnh thoảng bắt được con dế tóm được con ve, chúng cũng đành lòng giữ lại để chơi, mà bán luôn cho những thiếu gia nhà giàu để thu được món tiền còm cõi giao cho cha mẹ, bởi biết cha mẹ mình phải làm việc quần quật mệt đến đứt hơi. Cả nhà có cái gì ăn, lúc nào cũng phải ưu tiên nhường cho lao động chính là người cha ăn. Nếu như đồ ăn đủ, vợ con phải nhịn đói, bởi vì vào ban ngày người cha lao động chính còn phải ra ngoài làm việc. Nếu có người lao động chính này, cả nhà chỉ có thể giương mắt lên chờ chết đói. Có ngày, đường về nhà sau khi nhặt đầy sọt than xỉ, đứa trẻ đến bên bờ sông xem người ta đánh cá. Đứa trẻ đó nhát gan, lại thường được nghe kể chuyện quỷ nước dìm người, dám xuống sông chơi, yên phận đứng bờ sông xem người ta đánh cá. Thấy người ta đánh được cá, nó thèm chảy cả nước miếng, muốn được ăn canh cá. Trong số những con vướng vào trong lưới có con cá quái dị. Con cá này có hình thù cực kỳ xấu xí, trong miệng lại còn có răng, nhìn rất ghê người. Những ngư dân đánh cá dưới sông nhiều năm như vậy cũng chưa từng nhìn thấy loại này cá, ngay cả những người xem đứng xem náo nhiệt cũng ai có thể đúng được tên của nó. Có người , đó là cá từ ngoài biển bơi ngược vào lục địa, chưa hẳn là ăn được, khuyên người đánh cá thả nó . Người đánh cá muốn bán con cá đó, nhưng có ai muốn mua, nếu ném trở lại xuống sông lại cảm thấy đáng tiếc. Khi thấy đứa trẻ đó ngồi chồm hỗm ở bên bờ sông chảy nước miếng, người đánh cá bèn bảo nó nếu thèm ăn cầm cá về nhà bảo mẹ nó nấu cho mà ăn cho thèm. Đứa trẻ vô cùng vui sướng, cầm con cá đó chạy về nhà, khiến cho mẹ nó hết sức phấn khởi. Nhà nghèo quá, ngày lễ ngày tết cũng chưa chắc có đủ tiền mà mua cá, bởi vậy còn để ý gì đến con cá xấu đẹp ra sao, hình dáng như thế nào mà chẳng là cá. Bời vậy, người mẹ mổ bụng cá làm sạch, chạy qua bên đông mượn ít xì-dầu, chạy qua bên tây vay chút muối để nấu nồi canh cá, coi như có món tươi cải thiện. Cá vừa nấu xong người chồng cũng về đến nhà. Nhìn thấy có cá ăn, ta thực vui sướng đến choáng váng, trong nhà có món gì trước hết đều nhường lại cho lao động chính là ta ăn. Hai mẹ con ngồi nhìn bên cạnh, chờ ta xong bữa ăn phần còn thừa. Trong lòng cảm thấy khó chịu, người cha đành lòng để đứa con ngồi nhìn mồm, bèn bảo hai mẹ con cùng ăn luôn. Ở khu ổ chuột có chuyện gì giấu kín được, nhà ai ăn cơm với món gì thậm chí những gì, những hàng xóm sát vách biết , mà ngay cả khu đều biết tường tận nhà này nhà ba người đóng kín cửa dấm dúi ăn canh cá. Nhưng, bắt đầu từ ngày hôm đó, còn ai nhìn thấy người nhà đó bước ra khỏi cửa nhà nữa. ngày hoặc hai ngày còn ai để ý, nhưng ba bốn ngày sau bên trong căn phòng đó vẫn có tiếng động, toàn bộ hàng xóm láng giềng trở nên lo lắng, chạy qua kêu cửa mà có người đáp lại. Cánh cửa lại chốt, căn phòng rách nát chỉ bằng cỡ bàn tay, vừa đẩy cửa ra, trong phòng có cái gì đều lọt hết vào mắt. Trong phòng hoàn toàn có ai, chỉ có mùi máu tanh xộc thẳng vào mũi. trạng đó khiến cho mọi người kinh sợ, lập tức có người chạy báo quan. Quan phủ phái người đến trường khám nghiệm, mọi đồ vật trong phòng vẫn ở nguyên vị trí cũ, bàn vẫn còn nửa con cá ăn dở, nhưng nhà ba người biến mất. Bấy giờ, vị nhân viên điều tra lão làng có kinh nghiệm hiểu được có chuyện gì xảy ra khi nhận ra con cá đó là hóa cốt cá. Sau khi ăn phải loại cá này, máu thịt da lông của người ăn biến thành vũng máu. Con cá đánh được từ dưới sông lên là hóa cốt cá theo đúng nghĩa của nó. Đây cũng là vụ án kỳ lạ nổi tiếng toàn thành năm xưa, được gọi là "vụ án canh cá hóa cốt" . Bởi vậy cho nên, Quách sư phụ thừa hiểu, thiên hạ rộng lớn, thiếu gì chuyện kỳ lạ, cũng nhất định bất cứ chuyện kỳ lạ nào cũng có liên quan đến thần ma quỉ quái. Ông ta kể lại chuyện này cho Đinh Mão và Lý Đại Lăng nghe, để cho hai người họ cần phải sợ bóng sợ gió. chuyện xong, ba người nhấc chân về phía tòa nhà cao tầng ở ven đường. Lúc bấy giờ, trời bỗng có sét đánh, tiếp theo đó là tiếng sấm rền vang vọng điếc tai. Tòa nhà cao tầng có cái cửa sổ mất cánh, bên trong vốn dĩ tối đen, nhưng trong lúc tia sét lóe lên, cả ba người đều kịp nhìn thấy ở bên trong căn phòng đó lên gương mặt mờ ảo đường nét, nhưng kịp nhìn diện mạo. Cả đôi mắt và cái miệng của gương mặt đó đều giống như những cái lỗ đen ngòm. Họ định quan sát cho kỹ hơn nhưng kịp. Bảy Trong lòng giật mình đánh thót, Quách sư phụ thầm nghĩ: "Chẳng phải người ta trong tòa nhà có người ở hay sao? Nếu như là có người ở, chẳng lẽ là giữa ban ngày gặp quỷ ư?" Tuy nhiên, càng như thế càng chứng tỏ trong phòng của tòa nhà này có điều gì đó kỳ quái. Nhưng ba em nhà này đều là người bạo dạn sợ bóng sợ gió, bởi chung quy tà bất thắng chính. Huống hồ, vì đuổi bắt Liên Hóa Thanh, mỗi người trong số họ đều mang theo vũ khí, nhưng số vũ khí đó phải được giấu trong lồng ngực, mà được cài ở bên trong lớp xà cạp quấn dưới chân. Trước kia, mỗi khi ra ngoài, người đàn ông nào cũng phải quấn xà cạp, bởi vì ngày ấy gấu quần rộng, nếu lấy dây vải buộc túm lên thắt lưng khi ra ngoài đường chẳng khác gì quét đất. Chân quấn xà cạp lại nhanh nhẹn, chiếc búa ngắn cài ngược ở bên trong xà cạp, cán búa chúc xuống dưới, lưỡi búa ép sát vào quần thò ra nửa. đến loại búa ngắn có cán bằng gỗ đàn này lại nhớ tới ngày xưa nó là hung khí chuyên dụng của dân du côn lưu manh. Đừng có thấy cán ngắn khó đốn mà lầm tưởng, nếu dùng để chém người thực thuận tay khỏi phải bàn. Khứu giác ba người cảm nhận được vị ẩm ướt của nước mưa, trời sắp mưa tới nơi rồi, muốn tránh mưa chỉ còn cách chạy vào bên trong khu nhà cao tầng bỏ hoang mà trú. Ba người chẳng nghĩ ngợi nhiều, rảo bước chạy sang bên đó. Bên ngoài cánh cửa khảm đồng trước đây có dán giấy niêm phong, nhưng do dầm mưa dãi nắng tróc ra từ bao giờ. cái khóa sắt to đùng móc vào hai chiếc vòng dùng để gõ cửa cũng rỉ sét. Cửa sổ nhà là dựng thẳng lên chật vật hình chữ nhật, đại đa số dùng nẹp đóng đinh chết cứng. Dù loại khóa đơn giản của cánh cửa hề khó cạy ra, nhưng chẳng hiểu tại sao ổ khóa bị rỉ chết cứng, họ đành phải lấy vũ khí nạy vòng đồng, tốn bao nhiêu thời gian sức lực mới phá vỡ được. Bản lề cửa cũng rỉ lâu ngày, vừa đẩy mạnh cọt kẹt rít lên tiếng chói tai. Cánh cửa vừa mở ra, mùi nấm mốc xộc vào mũi, bên trong tối om cực kỳ u vắng lặng, cảm giác như thể phải là tòa nhà mà là cái động cổ giữa rừng sâu. Gan của Lý Đại Lăng hơn rất nhiều so với lúc bình thường vẫn khoác lác, vừa mới ngó vào bên trong xem cái sởn hết cả tóc gáy, gã lập tức giở bản lĩnh giả ngây giả ngô, bảo: "Hai ông này, tôi ra cửa canh chừng cho hai người, nếu may ở trong xảy ra việc gì, tôi có thể kịp thời tiếp ứng." Gã vừa định ra ngoài, sấm đột nhiên nổ ầm tiếng, mưa đá to cỡ hạt đậu nành đổ ào xuống. Trời mưa kèm theo sét đánh. Người xưa có "Vừa dông vừa sét, mưa như trời dột". Thanh thế của trận mưa này , đến tối chưa chắc ngừng. Lý Đại Lăng : "Thôi, coi như tôi chưa gì." Quách sư phụ và Đinh Mão nhìn thấy bên ngoài trời mưa to, dù muốn vào cũng được, bèn bảo Lý Đại Lăng cần phải kêu ầm lên. Tuy nhiên, lúc ra khỏi nhà là ban ngày, ba người ai nghĩ tới cần phải mang theo đèn pin, trong khi đó nơi này cắt nước cắt điện, dù trong phòng có đèn điện cũng có tác dụng gì. còn cách nào khác, họ móc diêm dùng để châm thuốc ra, đánh cây, hòng nhờ chút ánh sáng yếu ớt quan sát xem sao. Ba em sợ người qua đường quy kết mình là trộm, đến lúc đó mồm miệng nhanh nhảu đến mấy cũng có đường mà chối cãi. Ba người chẳng quan tâm trước mặt có cái gì, người nọ nối chân người kia lách mình vào trong phòng rồi vội vội vàng vàng đóng chặt cửa chính lại. Ngay lập tức, tiếng mưa gió bên ngoài hẳn , giống như vào thế giới khác. Cảm giác đầu tiên của ba người là bên trong khu nhà này quá mức ẩm ướt. Đây là điều khó tránh khỏi, bởi năm ngoái nó từng ngập trong lũ lụt. Nghĩ rằng trong nhà thế nào chẳng có sẵn loại đèn như đèn thủy nguyệt hay đèn đất đèn, ba người tìm cái để thắp lên, dù thế nào cũng vẫn tốt hơn là dùng diêm chiếu sáng. Qua kết cấu phòng, có thể thấy tòa nhà này cũng tương tự như những tòa biệt thự khác, nhưng mặt đất bị phủ lớp bụi. Cái cửa mà họ vào vốn dĩ là cửa trước, bên trong còn có cái nữa. Ba người đánh diêm để chiếu sáng, lần mò sâu vào trong. Quách sư phụ lên tiếng: "Tôi cảm thấy ông lão bán mì hoành thánh kia sai. Bên trong căn nhà này thực có người ở, mặt đất tro bụi phủ lớp dầy, nếu đúng là trong phòng có người lại lại, tuyệt đối thể nào như vậy." Lý Đại Lăng tiếp lời: " phải vậy chứ. Nếu trong nhà có ai, vậy khuôn mặt mà chúng nhìn thấy vừa rồi ở chỗ cửa sổ là của ai?" Đinh Mão tinh mắt, bèn : "Tôi thấy khuôn mặt mọc đầy lông đen dài ngoẵng, chắc chắn phải là mặt người." Y vừa mới xong, trán ba em rịn ra mồ hôi lạnh ngắt. Cố gắng lấy lại tinh thần, họ mở cánh cửa màu đen ra để vào sảnh. Ở chỗ cửa ra vào, họ tìm được chiếc đèn thủy nguyệt, còn gọi là đèn bão, bên trong có sẵn dầu hoả, thắp lửa lên chiếu sáng cả căn phòng. Trong phòng chỉ đơn giản sắp xếp ít vật dụng sinh hoạt. Ở bức tường đối diện cửa vào treo bức tranh lớn, choán gần nửa bức tường, vẽ chân dung năm người trong nhà vị gia chủ cũ. Trong số đó, có người thương nhân trung niên nuôi râu cá trê, ở bên cạnh là vị phu nhân, hiển nhiên là vợ của ông ta. Cả hai đều có gương mặt hiền lành vô cùng phúc hậu. Đứng cạnh hai người là ba đứa con, hai con mười lăm mười sáu tuổi và đứa con trai hơn mười tuổi, chắc là thiếu gia và tiểu thư trong nhà. Nhưng bức tranh chân dung gia đình năm xưa, đến giờ lại trở thành di ảnh của ngôi nhà bị ma ám. Vì đuổi bắt Liên Hóa Thanh, người ta có thế nào ba người cũng đều tin. Ông lão bán mì hoành thánh và cháu có lai lịch thế nào? Tại sao lại biết tường tận bên trong căn nhà cao tầng này thực có người ở? Sau khi vào căn nhà ma Thần sông Quách Đắc Hữu vẫn sống hay là chết? Thực ra gặp phải những chuyện gì? vậy, nút thắt có thể lớn hơn. Đừng là ngài sốt ruột, ngay cả tôi cũng phải nôn nóng, nhưng tôi vẫn phải để đến hồi sau mới phân giải.
Chương 9: Đầu người bậc thang Về phần ngôi nhà tầng ở ngã tư đường nhà họ Ngụy này, người chủ nhà cuối cùng của nó là vị hội chủ hội chợ phiên. Vậy trước tiên tôi về công việc của người hội chủ này. Có câu "Cứ có chợ là có kẻ bán người mua", chợ hay hội chợ phiên cũng nằm ngoài quy luật này. Ngày xưa có rất nhiều người lang bạt ngoài xã hội mưu sinh, đừng thấy những người này lận đận bôn ba mà lầm, ai cũng thông thạo công việc nào đó, khi ra ngoài xã hội tự nhóm lại với nhau. Người có khả năng tập trung toàn bộ những người này lại chỗ chính là hội chủ. Hội chủ phải là người có thể quan hệ với cả hai phái hắc bạch. Ông ta kiếm khu đất trống để mở hội chợ phiên, đầu tiên là bỏ tiền ra thuê lại đất, thuê người dựng rạp thành từng dãy, sau đó kéo toàn bộ những người làm xiếc dạo bán hàng rong ở khắp nơi đến nơi đó. Có đủ loại hình từ bán thuốc dán, xem bói, lên mặt đỉnh, dạy gấu đen, bán đồ lễ, bán kim chỉ, kể chuyện Bình thư, hát tướng thanh (hát hài hước châm biếm), hát kịch, phim đèn chiếu, biểu diễn xiếc. tóm lại, những người mưu sinh ngoài đường đó vào trong khu đất mà vị hội chủ thuê để buôn bán. Đến khi buôn bán xong, mỗi người đều phải trả ít tiền cho vị hội chủ, đây chính là phần thu nhập của vị hội chủ. Nhằm làm cho hội chợ phiên náo nhiệt hơn, vị hội chủ còn phải mời đội cà kheo và đoàn kịch hát nhỏ đến biểu diễn. Trong căn nhà lầu của vị hội chủ này còn nuôi ăn ở đội cà kheo của riêng mình. Những trang phục và đủ các loại đạo cụ biểu diễn cà kheo bình thường đều gửi lại ở trong nhà ông ta. Ba người Quách sư phụ quan sát đồ vật bài trí trong phòng, cũng chỉ đơn giản là cái bàn tấm gương giường chiếu bình lớn cắm chổi khác gì những gia đình bình thường khác. Chỉ có điều, tất cả những đồ vật này đều bị phủ lớp bụi. Trong phòng vẫn còn dấu vết của trận lũ lụt năm nào, nhìn thấy bóng người, tràn đầy khí ma quái tài nào miêu tả được. Lý Đại Lăng cảm thấy đầu lạnh buốt từng cơn, bèn ư ử ngâm nga vài câu kịch Nam sai vần lạc điệu để tăng thêm lòng dũng cảm cho bản thân: "Hảo hán mặt đen là Lý Quỳ, Tam quốc cũng có Trương Phi râu ria xồm xoàm, tay cầm roi thép là hắc Kính Đức, Bao Văn Chính ngồi điện ai dám qua?" Hai câu hát này đều là điển cố ở trong Diễn Võ Trấn. Theo cách của dân gian, hát kịch võ trong nhà có ma có thể xuôi đuổi tà. Ngài đừng phản bác, hát hai câu này quả là có thể tăng thêm lòng dũng cảm, cho nên Quách sư phụ hề ngăn cản y. Sau đó, y lại tiếp tục ngâm nga: "Hảo hán mặt trắng là La Thành, Cảnh Dương Cương đánh hổ là Võ Tòng, Nam Hổ là hiệu của Cao Quân Bảo, vượt Trường Bản là Triệu Tử Long. Hảo hán mặt đỏ là Vân Trường, giết người phóng hỏa là Mạnh Lương, cầm trong tay Đại Đao là Vương Quân Khả, Triệu Khuông Dận ngàn dặm tiễn mẹ lên kinh. Mặt xanh hảo hán là Chu Ôn, ngồi điện Sơn Tây là Trình Giảo Kim, Hà Nam Bá phủ Đan Hùng Tín, tay cầm đại đao là Cái Tô Văn. . ." Ba em lần từng bước lên cầu thang bằng gỗ bản dày cộp để lên tầng hai, lên đến nơi chỉ thấy tầng này có vài cái hòm gỗ to, cạnh tường dựng đầy cà kheo chiêng trống, bên trong hòm gỗ chỉ toàn là trang phục hóa trang, ngoài ra còn ít đạo cụ. Trong số đó có cái mặt nạ đầu gấu lông màu đen, dùng để hóa trang thành gấu đen cà kheo. Cái gương mặt rất hãi hùng lúc trước mà họ nhìn thấy qua cái cửa sổ hỏng có khả năng chính là vật này. Ba em khẩn trương cả buổi, đến khi thấy chỉ là trang phục hóa trang cà kheo, ai cũng thở phào cái. Trong hội chợ phiên hoặc hội, biểu diễn cà kheo chỉ đơn thuần chỉ đứng hai cái cây cà kheo cao làm bằng gỗ chạy chạy lại, mà còn phải biểu diễn các loại động tác khác trong quá trình di chuyển, thậm chí còn hóa trang vào điệu múa chèo thuyền, trông chuối cưỡi lừa, từ con mẹ đốp, cậu cả ngố, cho đến các nhân vật thần tiên ma trong truyền thuyết dân gian. Bởi vậy, trong nhà người hội chủ hội chợ phiên có những vật dụng này cũng có gì là kỳ quái. Lý Đại Lăng xì cái, chửi đổng định tiến lên đập phá những cái mặt nạ thần tiên ma quỷ đó: "Tiên sư mười tám đời tổ tông nhà chúng nó! Thiếu chút nữa bị mấy cái vật vớ vẩn này dọa mất hồn, chẳng may truyền ra ngoài, có thể làm sập cái bảng hiệu của ba em ta." Quách sư phụ : "Huynh đệ đừng có chanh chua như mụ đàn bà ghen chồng thế, ai mà chả có lúc nhìn nhầm." Dứt lời, ông ta tiến lên xem xét mọi nơi, từ tầng lẫn tầng dưới, kể cả gác xép, lần mò khắp mọi xó xỉnh. Nhưng bếp núc lạnh tanh có hơi người, ngay cả chuột cũng thấy bóng con, chỉ có vài đồ vật đến trộm cũng thèm ngó ngàng đến. Xem ra, hai năm qua ngôi nhà tầng này xác thực có người nào ở, chỉ còn có tầng hầm là còn chưa xem xét. Ba người nghĩ thầm, đến nước này cũng chỉ còn vài bước chân nữa là xong; Thương lượng với nhau cứ xuống xem qua chút rồi tính sau. Họ kéo cái nắp dưới chân bậc thang ra, bên dưới có đoạn cầu thang bằng gỗ ngắn, sau khi xuống dưới phát ra bên trong rất sâu, cái rét căm căm xuyên qua lỗ chân lông buốt đến tận xương tủy. Bốn vách tường được xây băng gạch xanh. Bề ngoài những viên gạch này trơn mịn bóng loáng, chứa khí giống như bên trong những ngôi mộ cổ. Nhìn kỹ lại đúng là gạch trong mộ cổ, thể nào ngờ bên dưới thực lại là ngôi mộ cổ. Hai Năm xưa, khi đào tầng hầm, người ta gặp ngôi mộ cổ, nhưng ai biết là cái gì, chỉ biết đó là cái hủng xây bằng gạch xanh. Mộ phần được xây rất chắc chắn, cho nên họ động chạm gì đến nó, chỉ trát vữa lên mặt ngoài, biến luôn nó thành phần của tầng ngầm. Từ công viên Lý Thiện Nhân đến ngã tư đường khu nhà ngói nhà họ Ngụy, trong mắt người biết xem phong thuỷ mới ra hình thế của nó, được gọi là thế Kim Vĩ Ngô Công, ao sen trong công viên Lý Thiện Nhân là đuôi, ngã tư đường chỗ khu nhà ngói nhà họ Ngụy là đầu. Nếu như phán định ở hai nơi này dấu mộ cổ có niên đại rất lâu chăng nữa cũng chẳng có gì là kỳ quái. Nhưng đến lúc này chỉ còn lại di chỉ của ngôi mộ cổ, năm ngoái lại còn chìm trong nước lũ hơn nửa tháng, lớp vữa trát bên ngoài mặt tróc ra, gạch ở bốn vách tường của ngôi mộ đều lỏng lẻo. Trong khi những ý nghĩ này lướt qua trong đầu, Quách sư phụ thò tay cạy một viên gạch ra, giơ lên trước mặt quan sát. Lý Đại Lăng hỏi: "Ca ca cầm cục gạch đó có nghĩ ra cái gì hay ?" Quách sư phụ : "Ta thấy đây là kim chuyên, chưa từng nghe đến gạch đánh Lưu Kim Đĩnh trong Hãm Hồn Trận hay sao?" Lý Đại Lăng : " là chưa từng nghe thấy chuyện này, có xuất xứ gì ?" Quách sư phụ trả lời: "Đương nhiên là có xuất xứ. Thời Bắc Tống có nữ tướng tên là Lưu Kim Đĩnh, từng gặp dị nhân được truyền dạy dị thuật, chỉ cần con ngựa thanh đao trong tay và Ngũ Hành Đạo Thuật là có thể lấy đầu thượng tướng giữa trăm vạn quân dễ như lấy đồ trong túi, mỗi khi hai quân giao tranh chưa bao giờ có địch thủ. Mãi cho đến khi quân địch mời được cao nhân bày Hãm Hồn Trận, dùng ba viên kim chuyên đánh chết Lưu Kim Đĩnh. Sau khi bà ta chết trăm ngày mà thi thể vẫn thối rữa, chính là bởi bà ta có đạo hạnh. Nhưng qua đó có thể thấy được, bất kể là người biết tà pháp thuật gì chăng nữa cũng đều sợ cục gạch. Cho dù phải là kim chuyên, chỉ cần bị cục gạch tầm thường giáng mạnh vào đầu, có kẻ nào chịu được đây." Nghe vậy, Lý Đại Lăng cạy viên gạch tường phần mộ nhét vào trong lồng ngực. Nếu như nhìn thấy người trong căn nhà, cần câu, trước tiên cứ dùng viên gạch này hỏi thăm sức khỏe trước . Quách sư phụ như vậy, làm cho lòng dũng cảm của Lý Đại Lăng tăng vọt. Nhưng mục đích chính khi cạy viên gạch cổ tường xuống ra là muốn xem cho , liệu đó có là gạch ở trong mộ cổ . Nếu như vùng Thiên Tân vệ này xác thực có mộ cổ năm sáu trăm năm vẫn chưa được coi là cổ, niên đại lâu hơn thế cũng có. Đừng thấy đến thời nhà Minh mới dựng vệ mà lầm, thực tế vào thời Bắc Tống nó là đầu mối quan trọng của tuyến đường vận chuyển theo đường sông. Những địa danh của nó như sông Tử Nha, Trần Đường Trang, đều xuất phát từ trong điển cố Vũ vương phạt Trụ. Lịch sử của nó phải khởi nguồn từ mấy ngàn năm trước kia. Mặt khác, dưới sâu vùng ven đô Thiên Tân vệ có rất nhiều hầm lò bỏ hoang, do người xưa đào đất để nung gạch tạo thành. Đa phần tên địa danh đều có chữ 'diêu' (hầm lò), ví dụ như Ngô Gia Diêu, Nam Đầu Diêu chẳng hạn. Hễ là nơi nào trong địa danh có chữ 'Diêu' đều có mặt bằng trung bình tương đối cao, bởi vì dưới lòng đất hoàn toàn là gạch nung, là gạch hỏng nung quá lửa dùng được khi xưa, tầng tầng lớp lớp chồng chất lên nhau, biết qua bao nhiêu năm tháng, dần dần biến thành mặt đất, so với những nơi khác cao hơn rất nhiều, cho nên mỗi lần xảy ra lũ lụt cũng thể ngập đến những nơi này được. Nghe , phong thuỷ của chúng cũng tệ, bởi vì phía dưới toàn bộ là gạch nung, có mồ mả, là nơi ở sạch . Trong khi đó, trong số cư dân sống ở những nơi này còn có vài gia đình thợ thủ công nung gạch qua nhiều thế hệ, có tay nghề tổ truyền. Quách sư phụ có quen biết vài người như vậy, thường nghe họ chuyện về gạch, niên đại ra sao, gạch nung ra ở mỗi lò khác nhau thế nào. Ông ta nghe kể lại nhiều, nên cũng được coi là võ vẽ hiểu biết về phương diện này. Ông ta thấy gạch xanh trong tầng hầm là gạch để xây mồ mả, hơn nữa còn là loại gạch cổ trong những ngôi mộ thời xưa, mặt dưới có hoa văn hình Ngư Long, thực phải là đồ vật thuộc về thời cận đại. Bởi vì thời gian trôi qua quá lâu rồi, mặt đất biến đổi rất lớn, sửa đường dựng cầu xây nhà cùng với dòng sông ban đầu thay đổi dòng chảy, khiến cho thế phong thuỷ phát sinh biến hóa, cho nên Trương Bán Tiên cũng thể nhìn ra thế phong thuỷ ban đầu ra sao, mà chỉ biết là đại khái là nằm ở khu vực ngã tư. Lúc này, họ tìm được ngôi mộ cổ mấy trăm năm trước, thấy quy cách của gạch dùng để xây mộ phải loại bình thường, nhất định là ngôi mộ nằm theo thế. Bởi vậy có thể để xác định, Kim Đầu Ngô Công Huyệt ở ngã tư khu nhà ngói nhà họ Ngụy tám chín phần mười chính là ngôi mộ cổ này. khí trong ngôi mộ thông thoáng, khiến cho ba người khó thở, cái đèn thủy nguyệt tay chập chà chập chờn, thấy nơi này ngoài bốn bức vách chẳng còn cái gì, là ngôi mộ rỗng. Quách sư phụ thầm nhủ trong lòng: "Khu nhà ngói nhà họ Ngụy hoàn toàn có bóng dáng của Liên Hóa Thanh. Xem ra, thể hoàn toàn tin vào giấc mộng tại cái miếu thổ địa ở Trần Đường Trang. Chuyến này hóa ra thành công cốc, trời mưa tầm tã khiến nước chảy qua lỗ thủng xuống mộ, đến việc bị liên lụy chịu khổ, còn công mất thời gian, còn gì đen đủi hơn thế này ?" Ngài thử đánh giá xem sao lại tốn công vô ích như vậy. Ba người thu hoạch được gì, vừa định quay người ra, đột nhiên nghe thấy bên ngôi mộ vang lên loạt tiếng động "loẹt xoẹt~ loẹt xoẹt~" do người nào đó dẫm chân lên sàn nhà phát ra. Quách sư phụ chợt có suy nghĩ: "Trong lầu hoàn toàn có người ở, ngôi mộ cũng trống , bên ngoài trời lại mưa lớn như vậy, ai vào vậy?" Trong lúc kinh ngạc, họ chợt thấy vật lăn nhanh như chớp từ bậc thang xuống. Ngọn đèn trong ngôi mộ quá yếu ớt, vật đó lăn đến chân mà ông ta còn chưa thấy là cái gì. Quách sư phụ hạ vừa cái đèn xuống xem cho , giật mình tự chủ được lùi lại nửa bước. Đó là cái đầu người đầm đìa máu, mặt và cổ bê bết máu, vẫn trợn trừng hai mắt, ngửa mặt lên nhìn trừng trừng vào ba người họ, tròng mắt chuyển động, nhe răng nhếch miệng thực biết là muốn cắn người, hay là muốn cái gì nữa.