CHƯƠNG 28 Khi chúng tôi ra khỏi chiếc Mustang, ngõ hẻm quen thuộc chìm vào vẻ u ám hơn hẳn hình ảnh tôi nhớ vào những đêm khác, được soi sáng chút ít nhờ ánh trăng và bị che khuất bởi bóng trăng. Ở đầu con hẻm sau dẫn đến nhà bếp của quán ăn, ngọn đèn an ninh phát sáng. Thế nhưng bóng tối dường như lấn ép tới hơn là dạt ra xa nó. Những bậc thang trơ trọi dẫn đến đầu cầu thang tầng hai và cửa nhà Terri Stambaugh. Ánh sáng tỏa ra phía sau bức màn. Lên hết mấy bậc thang trơ trọi dẫn đến đầu cầu thang tầng hai và cửa nhà Terri Stambaugh. Ánh sáng tỏa ra phía sau bức màn. Lên hết mấy bậc thang, Stormy chỉ lên bầu trời phía bắc, “Cassiopeia.” Sao kề sao, tôi nhận ra các điểm của chòm sao. Trong thần thoại kinh điển, Cassiopeia là mẹ của Andromeda. Andromeda được cứu thoát khỏi quái vật biển nhờ vị hùng Perseus, người cũng giết chết con quỷ Medusa. thua kém Andromeda trong truyền thuyết, Stormy Llewellyn, con của Cassiopeia khác, ưu tú đến độ xứng đáng có được chòm sao mang tên nàng. Thế nhưng tôi chưa tiêu diệt con quỷ nào và tôi phải là Perseus. Terri ra mở khi tôi gõ cửa, nhận lại chìa khóa xe và nằng nặc gọi chúng tôi vào uống cà phê hoặc ly rượu. Ánh sáng từ hai ngọn nến nhảy múa hân hoan tường nhà bếp trong lúc những cơn gió mát của máy điều hòa trêu chọc ngọn lửa. Terri ngồi ở bàn khi tôi gõ cửa. ly đựng rượu đào đặt tấm vải dầu ca rô trắng đỏ. Như thường lệ, nhạc chính của cuộc đời là Elvis: lần này là bài “Wear My Ring Around Your Neck”. Chúng tôi biết mong hai đứa ghé chơi lúc, đó là lý do Stormy đợi dưới chân cầu thang. Terri đôi lúc bị mất ngủ. Cho dù giấc ngủ đến với nhàng đêm cũng dài. Khi tấm bảng ĐÓNG CỬA được treo lên cửa chính của Quán Vỉ nướng vào lúc chín giờ và sau khi vị khách cuối cùng rời khỏi khoảng hơn chín giờ, mười giờ, dù Terri uống cà phê chứa cafêin hay thức uống nào đó nặng đô hơn cũng khui chai đơn. Chồng , chú Kelsey, người thời học phổ thông, qua đời chín năm. Căn bệnh ung thư của chú trở nên nguy cấp nhưng là chiến binh kiên cường hiếm thấy, chú chống chọi đến ba năm mới qua đời. Khi chú được chẩn đoán mắc khối u ác tính, chú thề để Terri lại mình. Chú có ý chí nhưng có sức mạnh để giữ lời thề đó. Vào những năm cuối đời, chú Kelly chiến đấu với cái chết với tâm trạng vui vẻ và dũng khí ổn định. Điều này khiến tình và lòng kính trọng luôn đầy ắp của Terri dành cho chú lên thành mức rất sâu sắc. Xét theo hướng nào đó, chú Kelly giữ lời hứa bao giờ rời bỏ . Hồn của chú lây lất quanh Quán Vỉ nướng hay bất kỳ nơi nào khác trong thị trấn Pico Mundo. Chú diện sống động trong hồi tưởng của và ký ức về chú khắc sâu trong tâm hồn . Sau ba hay bốn năm, lòng tiếc thương của ngấm thành nỗi đau lắng đọng. Tôi nghĩ ngạc nhiên bởi thậm chí sau khi đến chỗ chấp nhận mất ngủ, cũng mảy may mong muốn vá lại những mảng rách trong tim. Lỗ thủng chú Kelsey để lại khiến thấy được an ủi nhiều hơn bất cứ miếng đắp nào để lấp kín nó. say mê của đối với Elvis, cuộc đời và nhạc của ông, bắt đầu từ chín năm về trước, khi ba mươi hai tuổi, cùng năm chú Kelsey mất. Lý do của niềm thích mãnh liệt dành cho Presley nhiều vô kể. Song chắc chắn trong số đó có lý do sau: Chừng nào còn phải lập ra và bảo quản bộ sưu tập về Elvis, gồm nhạc, kiện đáng nhớ, tiểu sử, có thời gian chú ý đến người đàn ông sống nào và vẫn giữ nguyên vẹn tình cảm dành cho người chồng quá cố. Elvis là cánh cửa đóng lại tất cả lãng mạn mơ mộng trước mắt . Việc dựng lại cuộc đời ông là khe núi nấp của , vị trí cố thủ của , tu viện của . Stormy và tôi ngồi xuống bàn. Terri tế nhị hướng chúng tôi ra xa khỏi cái ghế thứ tư, cái ghế chú Kelsey luôn ngồi khi còn sống. Đề tài đám cưới sắp diễn ra của hai đứa tôi được nêu lên trước khi chúng tôi yên vị đàng hoàng. Rót rượu đào cho chúng tôi, Terri nâng ly mừng hạnh phúc dài lâu của hai đứa. Cứ đến mùa thu, ủ những bình đầy vỏ trái đào thành thứ rượu ngọt ngào này: lên men, lọc qua, cho vào chai. Hương vị hấp dẫn khó cưỡng lại và thêm rượu mạnh pha vào uống ngon nhất trong những chiếc ly . Lát sau, khi Stormy và tôi uống cạn ly thứ hai và ông hoàng ca bài “Love Me Tender”, tôi kể với Terri về chuyện chở Elvis trong xe của . Thoạt đầu vui mừng xúc động nhưng sau đó buồn bã khi nghe thấy ông ấy khóc sướt mướt suốt cả chuyến . “Con thấy ông ấy khóc vài lần hồi trước rồi,” tôi . “Từ lúc qua đời, ông có vẻ rất dễ xúc động. Nhưng lần này là nghiêm trọng nhất từ đó tới giờ, theo kinh nghiệm của con.” “Dĩ nhiên rồi,” Terri , “chẳng có gì khó hiểu về lý do tại sao hôm nay ông ấy lại suy sụp hơn mọi ngày.” “À, với con điều đó khó hiểu ,” tôi cam đoan với . “Hôm nay là ngày mười bốn tháng Tám mà. Vào lúc ba giờ mười bốn phút sáng ngày mười bốn tháng Tám năm ngàn chín trăm năm mươi tám, mẹ ông mất. Bà ấy mới bốn mươi sáu tuổi.” “Gladys,” Stormy lên tiếng. “Tên bà ấy là Gladys phải ạ?” Có kiểu danh tiếng ngôi sao điện ảnh như của Tom Cruise, kiểu danh tiếng ngôi sao nhạc rock như của Mick Jagger, danh tiếng về văn chương, danh tiếng về chính trị... Nhưng chỉ có kiểu danh tiếng trở thành huyền thoại thực khi những người thuộc các thế hệ sau còn nhớ đến tên mẹ bạn sau khi bạn qua đời phần tư thế kỷ và mẹ bạn qua đời gần nửa thế kỷ. “Elvis khi đó trong quân đội,” Terri nhớ lại. “Ngày mười hai tháng Tám, ông nghỉ phép khẩn, đáp máy bay về quê nhà Memphis và đến bên giường bệnh của mẹ ông trong bệnh viện. Nhưng ngày mười sáu tháng Tám cũng là ngày tệ hại đối với ông.” “Tại sao?” “Đó là ngày ông mất,” Terri đáp. “Chính Elvis ư?” Stormy hỏi. “Ừ. Ngày mười sáu tháng Tám năm ngàn chín trăm bảy mươi bảy.” Tôi uống cạn ly rượu đào thứ hai. Terri đưa cho tôi cái chai. Tôi muốn uống thêm nhưng lại thôi. Tôi lấy bàn tay bao quanh cái ly rỗng và lên tiếng, “Elvis có vẻ lo cho con.” “Ý con là sao?” Terri hỏi. “Ông ấy vỗ lên cánh tay con. Giống như ông cảm thông cho con. Ông có cái... cái nhìn u sầu, như thể ông thấy thương xót cho con vì lý do nào đó.” Tiết lộ này khiến Stormy hốt hoảng, “ kể cho em chuyện này. Sao kể cho em nghe?” Tôi nhún vai, “Nó có nghĩa gì đâu. Chuyện về Elvis thôi mà.” “Vậy nếu nó nghĩa lý gì,” Terri hỏi, “sao con lại đề cập?” “Nó có ý nghĩa với con,” Stormy bộc bạch. “Gladys mất ngày mười bốn. Elvis mất ngày mười sáu. Ngày mười lăm, nằm giữa hai ngày kia, là lúc tên khốn Robertson săn bắn người ta. Ngày mai.” Terri cau mày nhìn tôi, “Robertson?” “Gã Nấm. Cái gã con mượn xe để tìm.” “Con có tìm thấy ?” “Dạ có. Gã sống ở Camp’s End.” “Rồi sao?” “Cảnh sát trưởng và con... theo vụ này.” “Tên Robertson đó là kết quả đột biến của những thứ cặn bã độc hại từ bộ phim bệnh hoạn nào đó,” Stormy với Terri. “Gã Nấm theo chúng con ở nhà thờ St. Bart, rồi khi chúng con lén bỏ được, gã phá tan hoang góc nhà thờ.” Terri mời Stormy uống thêm rượu đào, “Con gã sắp săn bắn người ta hả?” Stormy nghiện rượu nhưng nàng nhận lời uống thêm ly. “Giấc mơ cứ tái diễn của đầu bếp chiên nướng thức ăn của cuối cùng sắp thành .” Giờ đây Terri trông hoảng sợ, “Những nhân viên sân chơi bowling chết đó à?” “Gộp thêm chừng rất nhiều người tại rạp chiếu phim,” Stormy xong, dốc ngược ly rượu đào nốc cạn hơi. “Chuyện này cũng có liên quan đến giấc mơ của Viola phải ?” Terri hỏi tôi. “Chuyện dài lắm thể kể bây giờ,” tôi với . “Muộn rồi. Con đuối quá.” “Nó có mọi thứ liên quan đến giấc mơ của chị ấy,” Stormy với Terri. “Con cần ngủ chút,” tôi nài nỉ. “Sáng mai con kể, Terri à, sau khi mọi chuyện kết thúc hết.” Khi tôi đẩy ghế định đứng lên, Stormy nắm lấy cánh tay tôi giữ lại, “Và giờ con phát chính Elvis Presley cảnh báo Odd rằng ngày mai ấy chết.” Tôi phản đối, “Ông ấy làm điều gì có ý như vậy cả. Ông ấy chỉ vỗ lên cánh tay và sau đó, trước khi xuống xe, ông ấy siết tay .” “Siết tay hả?” Stormy hỏi bằng giọng ngụ ý như cử chỉ đó chỉ có thể hiểu là cách biểu lộ linh tính cực xấu. “Có gì ghê gớm đâu. Tất cả những gì ông ấy làm chỉ là nắm chặt tay phải của bằng cả hai tay của ông ấy và siết hai lần...” “Những hai lần!” “... rồi lại trao cho cái nhìn đó.” “Cái nhìn thương xót đó ư?” Stormy gặng hỏi. Terri cầm chai lên muốn rót cho Stormy. Tôi đặt tay lên miệng ly, “Cả hai đứa con đều uống đủ rồi.” Chộp lấy bàn tay phải của tôi và cầm nó bằng cả hai tay như Elvis làm, Stormy cách kiên quyết, “Điều ông ấy cố với , thưa Quý ngài muốn trở thành Người hùng siêu linh trượng nghĩa, là mẹ ông ấy mất vào ngày mười bốn tháng Tám, ông ấy mất vào ngày mười sáu tháng Tám, và mất vào ngày mười lăm tháng Tám, cả ba người như ba cú liên tiếp trúng đích của tử thần, nếu cẩn thận.” “Đó phải điều ông ấy cố với ,” tôi đồng tình. “Gì cơ... bộ nghĩ ông ấy chỉ đắm đuối với thôi hả?” “Ông ấy còn cuộc sống lãng mạn nữa đâu. Ông ấy chết rồi.” “Dù sao ,” Terri , “Elvis phải dân đồng tính.” “Con đâu tuyên bố ông ấy đồng tính, Stormy suy diễn có.” “ đánh cược Quán Vỉ nướng,” Terri , “và cái mông trái của rằng ông ấy đồng tính.” Tôi rên rỉ, “Đây là cuộc chuyện điên rồ nhất mà con từng có.” Terri bác bỏ, “Cho nghỉ lát, còn cả trăm cuộc chuyện với con điên rồ hơn cái này nhiều.” “Con cũng vậy,” Stormy đồng tình. “Odd Thomas, là suối nguồn của những cuộc chuyện điên rồ.” “ mạch nước phun trào,” Terri gợi ý. “ phải con, chỉ là cuộc đời của con thôi,” tôi nhắc nhở. “Tốt hơn con nên đứng ngoài chuyện này,” Terri lo âu. “Hãy để ông Wyatt Porter xử lý nó.” “Con để bác ấy xử lý nó mà. Con phải cảnh sát, biết đấy. Con mang súng. Tất cả những gì con có thể làm là cho bác ấy lời khuyên.” “Lần này đừng cho lời khuyên luôn,” Stormy . “Chỉ lần này thôi, đứng ngoài chuyện này . Vegas với em. Ngay bây giờ.” Tôi muốn làm nàng vui. Nàng vui tôi vui, và khi đó chim hót ríu rít hơn thường ngày, ong làm ra thứ mật ngọt hơn và thế giới là nơi đầy niềm vui, hay theo cách nhìn của tôi nó có vẻ là thế. Điều tôi muốn làm và điều đúng đắn phải làm giống nhau. Cho nên tôi lên tiếng, “Vấn đề là được đặt ở đây để làm việc này, và nếu xa rời công việc, nó chỉ bám theo mà thôi, đâu cũng vậy.” Tôi cầm ly lên, quên mất nó cạn khô, và tôi lại đặt ly trở xuống. “Khi có mục tiêu cụ thể, sức hút siêu linh của hoạt động theo hai hướng. có thể đại đâu đó và tìm ra đối tượng cần tìm... trong trường hợp này là Robertson... hoặc gã bám riết lấy nếu gã muốn thế, đôi khi thậm chí nếu gã muốn cũng vậy. Và trong trường hợp thứ hai, có ít khả năng kiểm soát và nhiều khả năng bị... bất ngờ theo cách hề dễ chịu.” “Đó chỉ là lý thuyết,” Stormy . “ chẳng thể chứng minh, nhưng đó là . Đó là thứ biết từ trong thâm tâm.” “Em luôn biết suy nghĩ bằng cái đầu mà,” Stormy , giọng nàng đổi từ lối thuyết phục cách kiên quyết, và gần như tức tối, sang kiểu cam chịu và trìu mến. Terri với tôi, “Nếu là mẹ của con, bạt tai con rồi.” “Nếu là mẹ của con, con ở đây rồi.” Đây là hai người phụ nữ quan trọng nhất đời đối với tôi; tôi thương mỗi người theo cách khác nhau, và việc từ chối làm điều hai người đó muốn, thậm chí vì để thực điều đúng đắn, mới khó khăn làm sao. Ánh nến tỏa lên khuôn mặt họ sắc vàng như nhau, và họ nhìn tôi chăm chú với vẻ lo âu y hệt nhau, cứ như nhờ trực giác phụ nữ nên họ biết những chuyện mà tôi thể nắm được ngay cả khi dùng đến giác quan thứ sáu. Từ máy nghe nhạc, Elvis ngân nga, “Are You Lonesome Tonight?” Tôi xem đồng hồ đeo tay, “Ngày mười lăm tháng Tám rồi.” Khi tôi thử đứng dậy, Stormy cản tôi như khi nãy nữa. Nàng cũng đứng dậy khỏi ghế. Tôi , “ Terri, con đoán phải làm thay con ca đầu, hoặc nhờ chú Poke đến nếu chú ấy sẵn lòng.” “Gì hả, con thể cùng lúc vừa nấu ăn vừa cứu thế giới à?” “Dạ , trừ khi muốn thịt cháy khét. Con xin lỗi báo trước đột ngột thế này.” Terri tiễn chúng tôi ra tận cửa. ôm Stormy rồi ôm tôi. tát vào má tôi, “Con phải có mặt ở đây vào ngày kia, đúng giờ, bên vỉ nướng, làm công việc trở bánh, nếu giáng chức con xuống thành nhân viên pha chế thức uống.” CHƯƠNG 29 Theo tấm bảng điện tử to đùng ở ngân hàng Hoa Kỳ nhiệt độ giảm xuống mức chín mươi độ[37] tương đối lạnh vào lúc nửa đêm, khi những cán chổi được phép lia qua lia lại. cơn gió lười nhác lay động khắp thị trấn, ngừng thổi rồi lại nổi lên hết lần này đến lần khác, như thể trí nhớ kém hạn chế khả năng hoạt động của các vị thần gió. Nóng và khô, ngọn gió bay xào xạc từng đợt nhanh gọn qua những nhánh cây sung, cây cọ và dạ hương lan. Đường phố thị trấn Pico Mundo yên tĩnh. Khi lặng gió, tôi có thể nghe thấy tiếng lách cách của những công tắc trong hộp điều khiển tín hiệu giao thông lúc đèn chuyển từ xanh sang vàng rồi sang đỏ ở các giao lộ. Trong lúc bộ về căn hộ của Stormy hai đứa vẫn cảnh giác, sợ Bob Robertson bất chợt nhảy bổ từ phía sau chiếc xe đậu ra giữa đường như hình nộm trong hộp đồ chơi gắn lò xo. Ngoài những chiếc lá được gió lướt qua, chuyển động duy nhất là lao ra của bầy dơi đuổi theo cơn mưa bướm đêm qua ánh sáng đèn đường, lên mặt trăng và rồi vượt qua ngôi sao Cassiopeia. Stormy sống cách Quán Vỉ nướng Pico Mundo ba khu nhà. Chúng tôi nắm tay trong im lặng. Hướng giải quyết mà tôi lập ra thể thay đổi. Dù phản đối nhưng nàng cũng như tôi đều biết rằng tôi có chọn lựa nào khác ngoài việc làm bất cứ điều gì có thể giúp cảnh sát trưởng Porter chặn đứng gã Robertson trước khi gã tiến hành cái cuộc tàn sát thấm đẫm vào những giấc mơ của tôi suốt ba năm qua. Bất cứ điều gì có thể về chủ đề này giờ trở thành vô ích. Và tại đây vào lúc bình minh đầy đe dọa chưa ló dạng, chuyện phiếm chẳng có gì hay ho. Ngôi nhà cũ hai tầng kiểu thời Victoria được chia thành bốn căn hộ. Stormy sống trong căn hộ tầng trệt bên phải. Hai đứa tôi mong Robertson đợi ở đó. Tuy bằng cách nào đó gã biết tôi là ai nhưng điều đó giúp gã dễ dàng khám phá ra địa chỉ nhà Stormy. Nếu gã nấp chờ tôi căn hộ tôi ở ga-ra của bà Rosalia Sanchez chứa nhiều khả năng hơn chỗ của Stormy. Tuy nhiên với tính thận trọng, hai đứa tôi cẩn thận bước vào hành lang và căn hộ của nàng. Bên trong, khí mát mẻ thoang thoảng hương đào. Chúng tôi bỏ lại sa mạc Mojave xa đằng sau khi đóng cửa lại. Nhà nàng có ba phòng, phòng tắm và gian bếp. Bật đèn sáng, chúng tôi thẳng đến phòng ngủ, nơi nàng cất khẩu súng 9 ly. Nàng mở ổ đạn, kiểm tra để chắc rằng đạn nạp đủ rồi đóng ổ đạn vào súng cái “tách”. Tôi cảnh giác với mọi cây súng, vào mọi lúc, ở mọi nơi, trừ khi nó nằm trong tay Stormy. Nàng có thể ngồi đặt ngón tay lên nút khai hỏa của vũ khí hạt nhân mà tôi vẫn thấy an toàn đủ để đánh giấc. Lướt qua cửa sổ chúng tôi thấy cửa vẫn khóa như nàng rời nhà. có ông ba bị nào trốn trong tủ quần áo. Trong lúc Stormy đánh răng và thay quần áo, tôi gọi điện đến Green Moon Lanes nghe đoạn ghi thông báo về giờ giấc, dịch vụ và giá cả. Ở đó mở cửa kinh doanh vào mười giờ sáng từ thứ Năm đến Chủ nhật và giờ chiều từ thứ Hai đến thứ Tư. Thời điểm sớm nhất Robertson có thể bước vào trung tâm bowling với ý nghĩ tàn sát là khi họ mở cửa vào lúc giờ. Hai cụm rạp chiếu phim với tổng cộng hai mươi rạp phục vụ cho vùng thị trấn Pico Mundo rộng lớn hơn. Qua điện thoại, tôi được biết bộ phim chị Viola định dẫn hai con xem chiếu ở hai rạp trong duy nhất cụm rạp. Tôi ghi nhớ giờ chiếu phim trong đầu, suất sớm nhất vào giờ mười phút chiều. Tại phòng ngủ, tôi giũ giường, cởi giày và nằm dài tấm chăn mỏng chờ Stormy. Nàng sắm sửa cho ngôi nhà bé những vật dụng mua từ các cửa hàng giá rẻ của Hội từ thiện và Đội quân cứu tế; nhưng vẻ ngoài của chúng hề sờn rách hay thiếu nét đặc sắc. Nàng có tài trang trí đa dạng và thấy được sức hấp dẫn trong những món đồ mà người khác có thể cho là cũ rích hay kỳ cục, hoặc thậm chí lố bịch. Những cây đèn đứng có chụp đèn bằng vải lụa kết chuỗi tua rua, ghế theo phong cách Stickley ghép đôi với ghế gác chân to tròn kiểu thời Victoria bọc trong thảm thêu, tranh Maxfield Parrish[38], những lọ hoa bằng thủy tinh carnival và đồ mỹ nghệ đủ màu: pha trộn lẽ ra hề ăn nhập với nhau, vậy mà lại hài hòa. Các căn phòng của nàng là nơi thú vị nhất mà tôi từng thấy. Thời gian như ngừng lại ở nơi đây. Trong căn phòng này tôi thấy thanh thản. Tôi quên bẵng những âu lo. Vấn đề về bánh kếp và tinh trôi tuột khỏi người tôi. Ở đây tôi thể bị hại. Ở đây tôi biết định mệnh của mình và toại nguyện với điều đó. Ở đây - nơi Stormy sống, và nàng sống ở đâu, nơi đó khiến tôi cảm thấy tràn đầy sinh lực. đầu giường, phía sau miếng kính trong cái khung là tấm thẻ từ chiếc máy bói toán: CÁC CON ĐƯỢC AN BÀI BÊN NHAU MÃI MÃI. Bốn năm về trước tại hội chợ của hạt có cái máy lòe loẹt mang tên Xác ướp Gypsy đứng chờ ở góc khuất trong cùng của căn lều mái vòm đầy ắp những cuộc chơi đặc sắc và những trò rùng rợn. Cái máy giống buồng điện thoại kiểu cũ và cao hơn hai mét. mét dưới thấp hoàn toàn kín mít. Hơn mét nằm phía gắn kính cá ba bể. Trong phần gắn kính là hình thù phụ nữ xíu ngồi, mặc trang phục dân Gypsy với đủ bộ nữ trang chói lóa và khăn trùm đầu sặc sỡ. Đôi tay xương xẩu, quắt queo của bà ta đặt lên đùi và màu xanh lá cây móng tay trông giống nấm mốc hơn nước sơn. Tấm biển dưới chân bà ta khẳng định đây là xác người lùn Gypsy được ướp. Tại châu Âu thế kỷ mười tám, bà lừng danh vì độ chính xác của những điềm báo và lời tiên đoán. Lớp da lốm đốm khuôn mặt bà ta duỗi căng bao trùm hộp sọ. Mi mắt được khâu khép kín lại bằng chỉ đen, môi cũng vậy. Rất nhiều khả năng đây phải tài nghệ của Tử thần thể da thịt như khẳng định, mà là sản phẩm của nghệ sĩ khéo léo với thạch cao, giấy và nhựa. Khi Stormy và tôi đến chỗ Xác ướp Gypsy, cặp đôi khác nhét đồng hai mươi lăm xu vào máy. chồm lên lỗ tròn tấm kính và hỏi lớn: “Xác ướp Gypsy xin cho chúng con biết, liệu cuộc hôn nhân của Johnny và con có hạnh phúc lâu dài ?” chàng hiển nhiên là Johnny nhấn nút TRẢ LỜI và tấm thẻ rơi xuống cái máng bằng đồng. đọc lớn: “ cơn gió lạnh thổi và mỗi đêm dường như dài cả ngàn năm.” Cả Johnny lẫn vợ sắp cưới của ta đều coi đó là đáp án cho câu hỏi của họ, thế nên họ làm lại. chàng đọc lớn tấm thẻ thứ hai: “Kẻ ngốc nhảy khỏi vách đá nhưng mặt hồ mùa đông bên dưới đóng băng.” tin rằng Xác ướp Gypsy nghe nhầm câu hỏi nên lặp lại: “Liệu cuộc hôn nhân của Johnny và con có hạnh phúc lâu dài ?” Johnny đọc tấm thẻ thứ ba: “Vườn cây tàn rụi cho ra trái độc.” Rồi tấm thẻ thứ tư: “ viên đá thể mang lại thức ăn cũng như cát thể làm dịu cơn khát.” Với kiên trì đến vô lý, cặp đôi tốn thêm bốn đồng xu để tìm cho ra câu trả lời. Hai người bắt đầu cãi nhau khi nhận được tấm thẻ thứ năm. Khi Johnny đọc tấm thẻ thứ tám, cơn gió lạnh như dự đoán trong tờ vận mệnh đầu tiên thổi bay ở giữa họ. Sau khi Johnny và nàng người rời , đến lượt Stormy và tôi với Xác ướp Gypsy. Chỉ vỏn vẹn đồng xu chúng tôi được bảo đảm rằng được an bài bên nhau mãi mãi. Khi Stormy kể câu chuyện đó, nàng quả quyết rằng sau khi ban cho hai đứa tôi điều mà cặp đôi kia muốn có, xác người lùn được ướp đó nháy mắt. Tôi thấy cái nháy mắt ấy. Tôi hiểu làm thế nào con mắt bị khâu dính kia lại thực được trò như vậy mà làm bung mũi khâu nào. Nhưng dù sao hình ảnh xác ướp nháy mắt cũng gây ảnh hưởng đến tôi. giờ khi tôi đợi dưới tấm thẻ của Xác ướp Gypsy được lồng khung, Stormy đến bên giường. Nàng mặc quần lót cotton trắng trơn và in hình SpongeBob SquarePants[39]. Những người mẫu trong cuốn quảng cáo của Victoria’s Secret với bộ đồ lót cực kỳ thiếu vải giờ đây chỉ còn chút ít độ quyến rũ khêu gợi so với Stormy mặc dù ấy chỉ trong trang phục quần lót đơn giản và áo hình SpongeBob. Nằm nghiêng, thu mình vào lòng tôi, nàng áp đầu vào ngực tôi để lắng nghe nhịp tim. Nàng có đôi tai rất thính. Nàng thường thích được ôm kiểu này đến khi ngủ thiếp . Tôi là người chèo thuyền tin cậy đưa nàng vào trong giấc mơ êm ả. Sau hồi im lặng, nàng lên tiếng, “Nếu muốn em... giờ em sẵn sàng rồi.” Tôi phải thánh. Tôi dùng bằng lái để đột nhập ngôi nhà tôi được mời đến. Tôi dùng bạo lực đáp trả và bao giờ nín chịu đòn đau. Tôi có đủ những suy nghĩ đen tối để hủy hoại tầng ozone. Tôi thường xấu mẹ mình. Nhưng khi Stormy dâng hiến cho tôi, tôi lại nghĩ đến bé mồ côi bảy tuổi khi đó cả thế giới biết đến dưới cái tên Bronwen, đơn độc và sợ hãi, được nhận nuôi và được cho nơi trú ngụ an toàn, cuối cùng lại khám phá ra rằng ông bố nuôi muốn con mà muốn món đồ chơi làm tình. Quá dễ để tôi hình dung hoang mang, nỗi sợ hãi, nhục nhã, ê chề của nàng. Tôi cũng nghĩ đến Penny Kallisto và cái vỏ sò em đưa cho tôi. Từ mặt trong màu hồng bóng láng của vỏ sò đó phát ra giọng con quái thú thứ ngôn ngữ của lòng ham muốn điên cuồng. Tuy tôi đánh đồng niềm say mê trong sáng của mình với dục vọng bệnh hoạn và tính ích kỷ độc ác của Harlo Landerson nhưng tôi thể gột sạch khỏi trí nhớ hơi thở nặng nề và tiếng gầm gừ thú tính của ta. “Thứ Bảy gần kề rồi,” tôi với Stormy. “Em dạy biết cái hay của mong đợi.” “Lỡ ngày thứ Bảy bao giờ đến sao?” “Chúng mình có thứ Bảy tuần này và còn cả ngàn ngày nữa mà,” tôi cam đoan với nàng. “Em cần ,” nàng . “Điều đó có mới ?” “Chúa ơi, .” “Điều đó cũng mới đối với .” Tôi ôm nàng. Nàng lắng nghe nhịp đập tim tôi. Tóc lòa xòa mặt nàng như đôi cánh đen tuyền và hồn tôi bay vút. Chẳng mấy chốc nàng thầm với ai đó mà nàng có vẻ vui sướng được gặp trong giấc ngủ. Người chèo thuyền hoàn thành công việc và Stormy trôi bềnh bồng trong những giấc mơ. Kéo lớp khăn trải giường cùng và tấm chăn mỏng phủ lên vai nàng, chỉnh ngọn đèn cạnh giường xuống độ sáng nhất tôi nhàng ra khỏi giường mà đánh thức nàng. Nàng thích thức giấc trong bóng tối. Sau khi mang giày vào, tôi hôn lên trán nàng và ra với khẩu súng 9 ly bàn cạnh giường. Tôi bật đèn chỗ khác trong căn hộ, bước ra hành lang và khóa cửa nhà nàng bằng chìa khóa nàng đưa cho tôi. Cửa chính của cả ngôi nhà gắn tấm kính pha chì lớn hình bầu dục. Những gờ xiên của vật khảm này để lộ cảnh quan ngoài hiên cách rời rạc và méo mó. Tôi nhìn mắt vào phần kính phẳng để thấy hơn. chiếc xe cảnh sát cải trang đậu lề bên kia đường. Lực lượng thi hành luật tại thị trấn Pico Mundo ít khi tiến hành hoạt động ngầm. Sở Cảnh sát chỉ có hai chiếc xe. Dân thường nhận ra cả hai chiếc xe đó. Vì trợ giúp của tôi dành cho cảnh sát trưởng trong nhiều vụ nên tôi được trong cả hai xe ấy và quen thuộc với chúng. Trong số những đặc điểm nhận dạng của chiếc xe trắng, cột ăng ten múp míp dùng để thu sóng ngắn cắm mui xe chính là yếu tố xác nhận nhất. Tôi nhờ cảnh sát trưởng lập ra bảo vệ Stormy; nàng nổi giận trước ý rằng nàng tự lo được cho bản thân. Nàng có súng, bằng tốt nghiệp khóa học tự vệ và lòng tự trọng. Mối nguy hiểm đối với nàng, nếu có, dường như tồn tại chỉ khi tôi ở bên nàng. Bob Robertson thù hằn với bất kỳ ai ngoài tôi. Chuỗi lập luận này khiến tôi nhận ra cảnh sát trưởng bảo vệ tôi chứ phải Stormy. Nhiều khi đó phải là bảo vệ mà là giám sát. Robertson bám theo tôi đến chỗ Ozzie “bé” và sau đó tìm thấy tôi ở nhà thờ St. Bart. Chắc cảnh sát trưởng canh chừng tôi với hy vọng, Robertson lần ra dấu vết tôi lần nữa và rồi gã có thể bị bắt giam để tra hỏi về hành động cố ý phá hoại tại nhà thờ. Tôi hiểu suy nghĩ của ông ấy, nhưng tôi bực bội chuyện bị biến thành mồi nhử mà ai lịch hỏi trước xem tôi có phiền khi có cái móc gắn vào sau mông tôi. Hơn nữa trong quá trình đáp ứng trách nhiệm của năng lực siêu nhiên, đôi khi tôi phải dùng đến những mưu mẹo mà giới cảnh sát tán thành. Cảnh sát trưởng biết chuyện đó. Trở thành đối tượng dưới giám sát và bảo vệ của cảnh sát gây hạn chế cho tôi, và nếu tôi hành xử theo kiểu bốc đồng thường lệ khiến vị thế của cảnh sát trưởng Porter càng thêm gay go. Thay vì rời bằng lối cửa chính, tôi đến cuối hành lang và ra bằng cửa sau. mảnh sân sáng trăng đưa đến ga-ra đủ chỗ cho bốn xe và cánh cửa cạnh ga-ra dẫn ra ngõ hẻm. Sĩ quan trong xe tưởng ta giám sát tôi nhưng giờ đây ta thành người canh gác của Stormy và nàng thể giận tôi vì tôi chưa bao giờ cầu lập ra bảo vệ cho nàng. Tôi mệt nhưng chưa muốn ngủ. Dù sao tôi cũng về nhà. Có thể Robertson đợi tôi và cố giết tôi. Có thể tôi sống sót, đánh bại gã, gọi điện cho cảnh sát trưởng và như vậy đặt dấu chấm hết cho chuyện này Tôi có những hy vọng mãnh liệt về cuộc đụng độ nảy lửa với kết thúc thỏa đáng.
CHƯƠNG 30 Sa mạc Mojave ngừng thở. Buồng phổi hết hoạt động của sa mạc còn phả ra cơn gió lười nhác theo cùng Stormy và tôi đường về căn hộ của nàng. ngang những đường phố và ngõ hẻm, dọc con đường chia đôi khu đất bỏ hoang, băng qua cống thoát nước khô cạn nhiều tháng trời rồi ra lại đường phố, tôi bước nhanh về nhà. Bọn ông kẹ lại ngoài trời. Đầu tiên tôi thấy bọn chúng ở xa, dưới tá, chạy đua tứ chi. Khi qua những chỗ tối, có thể thấy chúng chỉ là trạng thái xáo động của bóng tối, nhưng đèn đường và đèn trước cổng nhà làm lộ chúng là thứ gì. Chuyển động uốn éo và dáng điệu đầy đe dọa của bọn chúng khiến ta liên tưởng đến loài báo đuổi bắt con mồi. ngôi nhà hai tầng kiểu thời vua George đường Hampton Way biến thành nam châm thu hút ông kẹ. Khi tôi qua, ở phía bên này đường, tôi thấy hai mươi hay ba mươi hình thù đen như mực, vài tên vào và số khác ra qua các khe cửa sổ và kẽ hở ở thanh dọc khung cửa. Dưới ngọn đèn mái hiên, tên vùng vẫy và lăn lộn như lên cơn điên. Sau đó nó tự chui tọt qua lỗ khóa ở cửa chính. Hai tên khác, ra khỏi nhà, trồi qua khung lưới bao phủ lỗ thông hơi gác mái. Di chuyển dễ dàng bề mặt thẳng đứng như loài nhện, chúng trườn xuống tường nhà đến mái hiên, vượt qua mái hiên rồi nhảy vào bãi cỏ trước nhà. Đây là nhà của gia đình Takuda, ông Ken và bà Micali cùng ba con. cửa sổ nào sáng đèn. Nhà Takuda ngủ, hề biết bầy linh hồn tà tâm, lặng lẽ hơn cả lũ gián, bò lê qua những căn phòng và quan sát khi họ mơ. Tôi chỉ có thể cho rằng người, hay mọi người trong gia đình Takuda tới số chết đúng ngay hôm ấy, trong bất kể vụ bạo lực nào lôi cuốn bọn ông kẹ đến thị trấn Pico Mundo với số lượng quá đông đảo. Kinh nghiệm dạy tôi rằng những linh hồn này thường tụ tập tại địa điểm sắp xảy ra nỗi kinh hoàng, như viện dưỡng lão ở Buena Visa trước trận động đất. Tuy nhiên trong vụ này, tôi tin gia đình Takuda bỏ mạng ngay tại nhà họ, cũng như mong chị Viola và các con chị chết trong ngôi nhà gỗ đẹp như tranh của chị. Lần này bọn ông kẹ tập trung ở nơi. Chúng có mặt khắp thị trấn, và từ kiểu dốc sức rộng rãi khác thường cùng cách hành xử của chúng, tôi suy ra chúng thăm viếng những nạn nhân tương lai trước lúc tụ lại nơi diễn ra cuộc đổ máu. Cứ gọi đây là phần mở màn. Tôi hối hả rời xa nhà Takuda và ngoái lại, chỉ chú ý tẹo đến bọn sinh vật đó cũng báo động cho chúng biết tôi thấy được chúng. đường Bạch Đàn, những tên ông kẹ khác xâm nhập vào nhà Morris và Rachel Melman. Từ lúc Morris nghỉ hưu, thôi làm giám thị Trường học thị trấn Pico Mundo, ông ngừng khống chế nhịp độ giờ giấc và theo thực tế bản chất ông là người ban đêm. Ông dành những giờ phút tĩnh lặng này để theo đuổi vô số sở thích và đam mê khác nhau. Trong lúc bà Rachel ngủ gác tối, đèn vẫn sáng ở tầng dưới. Những hình dạng mờ ảo đặc thù của bọn ông kẹ trong tư thế thẳng đứng nhưng khom vai ở mỗi cửa sổ tầng trệt. Xem ra chúng di chuyển ngừng, đầy kích động qua các căn phòng, như thể mùi hương của chết chóc lơ lửng làm dấy lên trong chúng niềm háo hức mãnh liệt và cuồng dại. Vẻ điên cuồng thầm biểu lộ trong hoạt động của chúng tại bất kỳ nơi đâu tôi thấy chúng từ lúc bước chân làm cách đây chưa đầy hai mươi bốn tiếng. Độ dữ dội của trạng thái đê mê hiểm ác nơi chúng gây khiếp đảm cho tôi. Trong đêm tối tràn ngập ông kẹ này, tôi thấy mình thận trọng ngước mắt lên trời, nửa muốn nửa nhìn thấy bọn chúng kéo đàn kéo lũ qua những vì sao. Thế nhưng mặt trăng bị che khuất bởi những phi đội linh hồn kia và các ngôi sao từ Andromeda đến Vulpecula đều sáng rực bị ngăn trở. Vì có khối lượng ràng nên lẽ ra ông kẹ chịu tác động của trọng lực. Vậy mà tôi chưa từng thấy chúng bay. Dù siêu nhiên nhưng chúng dường như bị ràng buộc bởi nhiều các định luật vật lý, tuy phải tất cả. Khi đến đường Marigold Lane, tôi nhõm vì con phố tôi sống xem ra thoát được đám quái vật ấy. Tôi băng qua chỗ chặn Harlo Landerson chiếc Pontiac Firebird 400 của ta. Dễ chịu hơn hẳn so với sáng nay. Bằng việc vạch mặt kẻ sát nhân và ngăn hành hung các khác, Penny Kallisto yên lòng nơi thế giới này và tiếp. Thắng lợi đó cho tôi hy vọng mình có thể ngăn chặn hoặc giảm đến mức tối thiểu cuộc tàn sát sắp xảy ra làm cả bầy lũ ông kẹ kéo đến thị trấn của chúng tôi. còn ngọn đèn nào sáng trong nhà bà Rosalia Sanchez. Bà luôn ngủ sớm vì bà dậy trước cả bình minh. Tôi nôn nóng muốn nghe xem bà còn hữu hay . Tôi vào ga-ra bằng lối xe chạy mà băng qua bãi cỏ bên hông nhà, nấp sau cây sồi này đến cây sồi khác, rón rén do thám khu đất. Khi xác định có Robertson hay kẻ thù nào khác đứng trong sân, tôi mới vòng sang ga-ra. Tuy thấy ai nằm đợi nhưng tôi xua con thỏ sợ sệt ra khỏi luồng mạch môn tươi tốt và khi nó phóng vụt qua, tôi đích thân thực động tác hoàn hảo nhất trong môn nhảy dựng và thở hổn hển. Vừa trèo lên mấy bậc thang lộ thiên để đến căn hộ, tôi vừa quan sát những khung cửa sổ phía , cảnh giác với động thái chỉ điểm của bức màn. Răng cưa chìa khóa khẽ kêu lách cách từ bên này sang bên kia trong lỗ khóa. Tôi đẩy chốt và mở cửa. Bật đèn lên, tôi thấy ngay khẩu súng. khẩu súng lục. Có cảnh sát trưởng Porter là bạn, có Stormy là vị hôn thê, tôi biết điểm khác nhau giữa súng lục với súng lục ổ quay cho dù mẹ tôi truyền dạy những ưu điểm của vũ khí cầm tay trong những trường hợp gay go. Khẩu súng lục chỉ được bỏ sàn mà xem ra được đặt ngay ngắn như chuỗi hạt kim cương trong hộp nhung đen trưng bày ở tiệm đá quý. Nó nằm tại vị trí đón ánh đèn sao cho các đường nét đạt mức gần như khiêu khích. Bất cứ ai để súng lại đây cũng hy vọng dụ dỗ tôi nhặt nó lên. CHƯƠNG 31 Vật dụng trong nhà tôi tận dụng lại từ trong kho (lồi lõm và xơ xác đến mức thể đáp ứng tiêu chuẩn của các cửa hàng giá rẻ bán đồ cho Stormy), mấy quyển sách bìa mềm nằm ngay ngắn những cái kệ làm bằng gạch và ván chồng lại, ảnh đóng khung của nhân vật Quasimodo do Charles Laughton thủ vai, Hamlet do Mel Gibson đóng và ET trong bộ phim cùng tên (ba nhân vật hư cấu tôi đồng cảm vì nhiều lý do), tấm bìa cứng hình Elvis ngớt mỉm cười… Từ ô cửa để mở nơi tôi đứng, mọi thứ xem ra vẫn như lúc tôi rời nhà làm sáng thứ Ba. Cánh cửa được khóa và có dấu hiệu bị bẻ khóa đột nhập. Đảo quanh căn hộ, tôi để ý thấy cửa sổ nào vỡ toang. giờ tôi giằng co giữa việc để cửa mở nhằm dễ dàng chạy thoát nhanh chóng hay khóa cửa lại ngăn kẻ nào đó lẻn vào sau tôi. Sau hồi do dự, tôi lặng lẽ đóng cửa và cài then. Ngoại trừ tiếng rúc và gù của con cú thỉnh thoảng lọt qua hai khung cửa sổ có lưới ngăn tôi để mở cho thông thoáng im ắng bao trùm sâu rộng đến mức trong bếp, giọt nước rơi từ vòi xuống bồn rửa kêu tỏng cũng làm rúng động màng nhĩ của tôi. Có kẻ muốn tôi nhặt súng lên nhưng tôi dễ dàng cưỡng lại sức cám dỗ đó và bước qua thứ vũ khí ấy. trong những lợi ích của việc sống trong căn phòng đơn lẻ, ghế bành cách giường vài bước, giường cách tủ lạnh vài bước, đó là cuộc khám xét tìm kẻ đột nhập diễn ra chưa đến phút. Huyết áp có thời gian vọt lên tới mức gây đột quỵ khi chỉ cần liếc ra sau tràng kỷ và nhìn vào tủ đồ ngăn là quét qua hết mọi chỗ có thể nấp. Chỉ duy nhất phòng tắm vẫn chưa lục soát. Cửa đóng. Tôi để mở nó. Sau khi tắm, tôi luôn để cửa mở, vì phòng tắm chỉ có cửa sổ , lớn hơn họng đại bác là mấy, và cây quạt hút gió khuấy động khí gây ra tiếng ồn tương đương cái trống trong tay nhạc công thể loại rock hạng nặng. Nếu để cửa mở, phòng tắm nồng nặc mùi ẩm mốc và hơi người, và từ đó về sau chắc tôi phải tắm trong bồn rửa nhà bếp. Rút điện thoại từ thắt lưng ra, tôi cân nhắc chuyện gọi cảnh sát trình báo vụ đột nhập. Nếu cảnh sát đến mà tìm thấy ai trong phòng tắm, tôi thành thằng khờ. Và viễn cảnh nảy ra trong đầu khiến tôi thấy mình có thể còn tệ hơn cả thằng khờ. Tôi liếc nhìn khẩu súng sàn nhà. Nếu nó được đặt với tính toán cẩn thận, với mục đích mong tôi nhặt lên tại sao có kẻ muốn tôi giữ nó? Sau khi để điện thoại lên bàn điểm tâm, tôi bước đến nép vào bên cửa phòng tắm và dỏng tai nghe ngóng. Những thanh duy nhất là bài ca định kỳ của con cú và tiếng tỏng của giọt nước khác rơi xuống bồn rửa trong bếp sau hồi lâu ngưng bặt. Quả đấm ở cửa xoay tròn chút khựng lại. Cánh cửa mở vào trong. Có kẻ bật đèn. Tôi chăm chỉ tiết kiệm điện. Chi phí có thể chỉ vài đồng lẻ nhưng đầu bếp chế biến thức ăn nhanh chờ kết hôn thể để đèn sáng hay bật sẵn nhạc nhằm mua vui cho lũ nhện hay những linh hồn có thể ghé thăm nhà trong lúc vắng. Cánh cửa rộng mở, phòng tắm tí có chỗ cho kẻ đột nhập nấp ngoại trừ cái bồn tắm, phía sau tấm màn giăng ra. Bao giờ tôi cũng giăng màn ra sau khi tắm vì nếu lùa hết sang bên, màn khô hẳn trong cái gian kém thông thoáng này. Nấm mốc lập tức tiến hành công việc cai quản trong các nếp gấp ẩm ướt. Từ lúc tôi rời nhà vào sáng thứ Ba có kẻ kéo màn qua bên. Kẻ đó hay kẻ khác lúc này đây ụp mặt trong bồn tắm. ta xem ra ngã hoặc bị đẩy vào bồn như xác chết. Chẳng người sống nào lại nằm trong tư thế khó chịu như vậy, mặt đè lên lỗ thoát nước, cánh tay phải bị vặn ra sau người theo góc độ uốn khúc cho thấy phần vai trật khớp hay thậm chí cơ xoay cổ tay đứt lìa. Mấy ngón tay bàn tay phơi trần nhợt nhạt quặp lại cứng đờ. Chúng co giật, cũng run rẩy. Dọc theo thành bồn đằng kia, đốm máu khô bề mặt sứ. Khi máu đổ tràn trề, bạn có thể ngửi thấy, chỉ mùi tanh của máu tươi mà nó phảng phất dai dẳng và đáng sợ. Tôi thể dò ra chút xíu mùi đó ở đây. vệt xà phòng nước long lánh bệ đá lát quanh bồn và lớp bọt xà phòng dày sâu trong chậu cho thấy tên sát nhân rửa tay kỹ sau khi thực hành vi, chắc để cọ sạch máu hay dấu vết thuốc súng. Lau khô xong, ném khăn vào bồn. Khăn phủ lên gáy nạn nhân. mục đích ràng, tôi lùi ra khỏi phòng tắm, đứng ngay ngoài cánh cửa để mở. Tim tôi đập theo nhịp tương xứng với giai điệu của con cú. Tôi liếc về phía khẩu súng thảm, ngay bên trong cửa chính. miễn cưỡng theo bản năng khiến tôi chạm vào thứ vũ khí ấy chứng tỏ sáng suốt, dù tôi vẫn chưa nắm toàn bộ ý nghĩa của việc diễn ra ở đây. Điện thoại di động của tôi để bàn điểm tâm, còn điện thoại nhà nằm ở bàn cạnh giường. Tôi cân nhắc xem nên gọi ai và ai tôi có thể gọi. Chẳng chọn lựa nào có vẻ hấp dẫn. Để hiểu tình hình hơn, tôi cần nhìn mặt tử thi. Tôi trở vào phòng tắm, cúi xuống bồn. Né tránh những ngón tay co quắp và vặn vẹo, tôi túm lấy quần áo của và vất vả đôi chút mới đẩy được người đàn ông chết ấy nghiêng sang bên rồi sau đó lật ngửa ra. Cái khăn trượt xuống khỏi mặt . Vẫn màu xám bạc thếch nhưng giờ đây còn vẻ thích thú kỳ quái đặc trưng, cặp mắt Bob Robertson dồn sang phần chết hơn hẳn phần sống. Ánh mắt trợn trừng dán chặt vào tầm nhìn xa xôi như thể trong khoảnh khắc tồn tại sau cuối, thấy thứ gì đó gây sửng sốt và khiếp đảm hơn hẳn diện mạo tên sát nhân.
CHƯƠNG 32 Trong chốc lát tôi chờ đợi Gã Nấm nháy mắt, nhe răng cười nham nhở, chộp lấy và lôi tôi vào bồn tắm với gã, cắn tôi bằng hàm răng phụng rất tốt cho gã trong cơn háu ăn tại quầy phục vụ ở Quán Vỉ nướng Pico Mundo. Cái chết bất ngờ của gã khiến còn kẻ tàn bạo nào trước mắt tôi, kế hoạch của tôi trật chìa và chủ đích của tôi lung lay. Tôi cứ ngỡ là gã tay súng điên khùng bắn những người bị hại trong giấc mơ tái diễn của tôi chứ đơn thuần là nạn nhân khác. Robertson chết, mê cung còn Nhân ngư để tôi theo dấu và tiêu diệt. Gã bị bắn phát vào ngực ở vị trí gần đến mức tôi có cảm tưởng là họng súng ấn vào người. áo gã có vệt loe cháy sém màu nâu xám. Vì tim ngừng đập tức nên chỉ có chút máu từ cơ thể rỉ ra. lần nữa tôi rút lui khỏi phòng tắm. Tôi gần như đóng sát cửa lại. Và rồi tôi có ý nghĩ kỳ lạ biết đâu đằng sau cánh cửa khép kín, mặc cho trái tim vỡ toạc, Robertson lẳng lặng nhổm dậy từ bồn tắm và đứng đợi, thình lình đánh úp khi tôi trở vào. Gã chết ngắc, và tôi biết gã chết rồi, thế mà những lo lắng vô lý kiểu ấy làm dây thần kinh của tôi thắt lại. Để cửa phòng tắm vẫn mở, tôi bước đến bồn rửa trong bếp và rửa tay. Sau khi lau khô bằng khăn giấy, suýt chút tôi rửa lại lần nữa. Dù chỉ đụng vào quần áo của Robertson nhưng tôi cứ cảm giác tay mình đầy mùi chết chóc. Nhấc ống nghe ra khỏi điện thoại treo tường, tôi vô tình làm nó đập lách cách vào giá đặt, suýt đánh rơi. Đôi tay tôi run bần bật. Tôi lắng nghe tín hiệu chờ quay số. Tôi biết số cảnh sát trưởng Porter, cần tìm kiếm. Cuối cùng tôi gác điện thoại trở lại mà chưa hề bấm đến số bàn phím. Tình hình làm thay đổi mối quan hệ thân thiết thoải mái của tôi với cảnh sát trưởng. người chết chờ được phát trong căn hộ của tôi. Khẩu súng giết gã cũng ở đây. Trước đó tôi lại trình báo cuộc đụng độ đáng lo ngại với nạn nhân tại nhà thờ St. Bartholomew. Và cảnh sát trưởng biết tôi vào nhà Robertson cách bất hợp pháp lúc chiều thứ Ba, và điều đó cho gã Robertson lý do đối đầu với tôi. Nếu khẩu súng này là của Robertson, giả thiết ràng nhất bên phía cảnh sát là gã đến đây nằng nặc muốn biết tôi làm gì trong nhà gã và có thể đe dọa tôi. Họ nghĩ tôi và gã cãi cọ, dẫn đến ẩu đả và tôi bắn gã bằng súng của chính gã nhằm tự vệ. Cảnh sát cáo buộc tôi tội giết người hay ngộ sát. Có thể họ còn bắt giữ để tra hỏi. Song nếu khẩu súng này phải của Robertson, tôi kẹt cứng như chuột bẫy keo dính. Ông Wyatt Porter hiểu tôi quá nên tin tôi có thể giết người kiểu máu lạnh, khi mạng sống tôi lâm nguy. Là cảnh sát trưởng, ông bố trí người hoạt động và đưa ra các quyết định quan trọng về thủ tục, nhưng ông đâu phải cảnh sát duy nhất trong lực lượng. Những người khác nhanh chóng tuyên bố tôi vô tội trong tình huống đáng ngờ này, và nếu vì lý do gì ngoài việc giữ thể diện, cảnh sát trưởng có thể phải giam tôi lại ngày, đến khi ông tìm ra cách giải quyết vấn đề theo hướng có lợi cho tôi. Trong tù, tôi an toàn tránh khỏi tai ương đẫm máu giáng xuống thị trấn Pico Mundo, nhưng tôi ở vào đúng vị trí dùng năng lực ngăn chặn thảm kịch. Tôi thể hộ tống chị Viola cùng hai con chị từ nhà đến nơi nương náu an toàn hơn ở chỗ em chị. Tôi thể tìm cách thuyết phục gia đình Takuda thay đổi kế hoạch ngày thứ Tư của họ. Tôi hy vọng bám theo bọn ông kẹ đến địa điểm tội ác sắp xảy ra khi sáng thứ Tư chuyển dần sang trưa, khi việc dường như được định đoạt xảy ra. Các linh hồn tà tâm kia tụ tập trước lúc đổ máu. Có thể cho tôi đủ thời gian để thay đổi số phận tất cả những ai hề hay biết mình đến cái chết tại nơi đến giờ vẫn còn là số. Thế nhưng Odysseus bị xiềng xích thể dẫn đường trở về Ithaca. Tôi nhắc đến câu ám chỉ văn vẻ này chỉ vì tôi biết Ozzie “bé” buồn cười chuyện tôi cả gan dám ví mình như vị hùng vĩ đại trong cuộc chiến Trojan. “Cho câu chuyện văn phong tươi sáng hơn mức em nghĩ nó xứng đáng, cậu em thân mến ạ. Bởi lẽ em tìm thấy chân lý của cuộc sống trong tình trạng u tối, chỉ tìm thấy trong hi vọng thôi”, chỉ dẫn như thế trước khi tôi bắt tay vào viết. Lời hứa tuân theo hướng dẫn ấy trở nên khó thực hơn khi câu chuyện của tôi diễn tiến đến lúc xuất súng ống. Tươi sáng lùi ra xa và u tối kéo đến. Để làm vừa lòng chàng thi sĩ to lớn có sáu ngón tay, tôi phải dùng mánh lới như chêm vào câu trong truyện Odysseus . Quyết định rằng thể tìm cảnh sát trưởng Porter nhờ giúp đỡ vào những hoàn cảnh thế này, tôi tắt hết đèn trừ ngọn trong phòng tắm. Tôi thể ở trong bóng tối hoàn toàn với cái xác, vì tôi cảm thấy, cho dù chết, gã vẫn có thể gây bất ngờ cho tôi. Trong gian lờ mờ, tôi nhanh chóng tìm ra đường xuyên suốt căn phòng bừa bộn cách đầy tự tin như thể tôi bị khiếm thị bẩm sinh và lớn lên ở đây từ khi lọt lòng. Tại khung cửa sổ trước nhà, tôi quay cần điều khiển để mở rèm cửa Levolor. Bên phải, tôi nhìn thấy những bậc cầu thang trong ánh trăng được các khe của rèm cửa chia thành nhiều lát. có ai tiến lên nhà tôi. Ngay phía trước là con đường, nhưng do mấy cây sồi chen ngang nên tầm nhìn thông suốt. Tuy nhiên giữa các nhánh cây, tôi có thể thấy phố Marigold Lane và chắc rằng chiếc xe nào khả nghi đậu ở lề đường từ lúc tôi về tới. Xét bằng chứng tôi bị theo dõi sít sao, vậy mà tôi cứ cảm thấy nhất định kẻ thủ tiêu Bob Robertson trở lại. Khi chúng biết tôi về nhà và phát ra cái xác, chúng khử luôn cả tôi và làm cho vụ ám sát đôi trông giống như giết-người-rồi-tự-tử, hoặc có thể chúng gọi điện thoại nặc danh cho cảnh sát và đẩy tôi vào cái xà lim mà tôi kiên quyết tránh xa. Nghĩ tới đó, tôi hiểu ra vụ dàn cảnh. CHƯƠNG 33 Sau khi đóng rèm Levolor ở cửa sổ lại, tắt đèn, tôi đến tủ ngăn kéo đặt gần giường. Trong căn phòng đơn này có thể tìm thấy mọi thứ ở gần giường, kể cả tràng kỷ và lò vi ba. Ở ngăn kéo cuối của cái tủ, tôi cất bộ mền gối dự trữ duy nhất của mình. Dưới bao gối, tôi tìm thấy khăn trải giường ủi thẳng thớm và xếp gọn gàng. Tuy chắc rằng tình hình đáng để hy sinh bộ mềm gối xịn nhưng tôi vẫn tiếc phải bỏ cái khăn trải giường đó. Mền gối bằng vải bông gia công khéo đâu có rẻ, và tôi còn hơi dị ứng với rất nhiều loại sợi vải tổng hợp thường dùng may những mặt hàng này. Vào phòng tắm, tôi trải tấm khăn ra sàn. chết queo nên cần gì quan tâm đến rắc rối của tôi, chẳng thể trông mong Robertson có thể khiến việc tôi làm dễ dàng hơn; thế nhưng, tôi ngạc nhiên khi gã chịu để bị lôi ra khỏi bồn tắm. Đây phải lực phản kháng chủ động của địch thủ có ý thức mà là chống cự thụ động của xác chết thẳng đơ. Gã cứng ngắc và khó xoay chuyển như chồng tấm ván đóng chung vào góc nghiêng kỳ quái. Bất đắc dĩ, tôi đặt tay lên mặt gã. Gã lạnh hơn tôi tưởng. Có lẽ cần điều chỉnh hiểu biết của tôi về những kiện trong đêm. Theo cách cân nhắc, tôi đặt ra những giả định mà tình trạng của Robertson xác thực điều đó. Để biết , tôi phải khám nghiệm gã kỹ hơn. Vì gã nằm úp mặt trong bồn khi tôi phát ra, trước lúc tôi lật gã lên nên giờ tôi cởi nút áo gã ra. Trong tôi trào lên nỗi ghê tởm và ác cảm, tôi lường trước điều đó nhưng chưa chuẩn bị tinh thần cho cảm giác ghét cay ghét đắng cái hành động gần gũi gây ra cơn buồn nôn. Mấy ngón tay tôi đầm đìa mồ hôi. Những nút áo bề mặt như ngọc trai cứ trơn tuột . Tôi liếc nhìn gương mặt Robertson, cảm giác ánh mắt trợn trừng của gã chuyển hướng tập trung từ cảnh tượng nào đó tận thế giới bên kia sang đôi tay lóng ngóng của tôi. Dĩ nhiên vẻ mặt bàng hoàng và hãi hùng của gã thay đổi, và gã tiếp tục nhìn chăm chăm vào thứ gì đó nơi phủ chia cách thế giới này với thế giới kia. Môi gã hơi hé mở, như thể bằng hơi thở cuối cùng, gã chào đón Tử thần hay thốt ra lời cầu xin được đáp lại. Nhìn mặt gã chỉ khiến nỗi bất an của tôi càng tệ hơn. Khi hạ thấp đầu, tôi hình dung cặp mắt gã lần theo hướng di chuyển chú ý của tôi sang mấy cái nút áo ngoan cố. Nếu cảm giác luồng hơi thở hôi thối phả lên trán, chắc tôi hét lên, nhưng lấy đó làm ngạc nhiên. Chưa tử thi nào khiến tôi rùng mình dữ dội như thi thể này. Đa phần, những người chết mà tôi có mối liên hệ đều là hồn lên, và tôi thừa biết vẻ nhếch nhác về mặt sinh học của cái chết. Lần này, tôi khổ sở với mùi hôi và cảnh tượng bắt đầu thối rữa ít mà khó chịu do những điểm quái dị thân thể người chết nhiều, chủ yếu là nét đặc trưng giống loài nấm tơi xốp bộc lộ khi gã còn sống, và còn bởi đam mê bất bình thường của gã, thể ở những xấp tài liệu, với việc tra tấn, giết người tàn bạo, chặt chân tay, chém đầu và ăn thịt người. Cởi xong cái nút cuối cùng, tôi banh áo gã ra. Vì gã mặc áo may ô bên trong nên lập tức tôi thấy ngay tình trạng tím bầm . Sau khi chết, máu lắng qua các mô xuống những điểm dưới cùng trong cơ thể, khiến những vùng đó có biểu tím bầm trầm trọng. Bộ ngực bèo nhèo và cái bụng phệ của Robertson vằn vện, xỉn màu và ghê rợn. Da lạnh ngắt, người cứng đờ, bầm tím rệt cho thấy gã chết phải cách đây hai tiếng mà lâu hơn nhiều. Sức nóng trong căn hộ của tôi đẩy nhanh tiến trình phân hủy cái xác nhưng đến mức này. Rất có khả năng, tại nghĩa trang nhà thờ St. Bart, khi Robertson làm động tác khiếm nhã lúc tôi từ tháp chuông nhìn xuống, gã hết là người sống mà thành ma hồn. Tôi cố nhớ xem Stormy có thấy gã . Khi ấy nàng khom người lấy phô mai và bánh quy trong giỏ mây ra. Tôi vô tình hất chúng văng khỏi tay nàng, rơi vung vãi ra lối hẹp… . Nàng thấy Robertson. Lúc nàng ngẩng lên và tựa lan can ngó xuống nghĩa trang, gã mất. Giây lát sau, khi tôi mở cửa chính của nhà thờ và bắt gặp Robertson lên mấy bậc thang Stormy đứng phía sau tôi. Tôi đóng sập cửa và hối hả kéo nàng ra khỏi tiền sảnh, vào gian giữa, hướng đến trước bệ thờ. Trước khi đến nhà thờ St. Bart, tôi thấy Robertson hai lần ở chỗ Ozzie “bé” tại Jack Flats. Lần đầu, gã đứng vỉa hè trước ngôi nhà, lần thứ hai ở sân sau. lần nào Ozzie ở vào thế có thể chứng thực kẻ viếng thăm ấy là người có , còn sống. Từ chỗ nằm bậu cửa sổ, Terrible Chester thấy gã này ở hàng rào trước nhà và phản ứng gay gắt. Nhưng điều ấy đâu có nghĩa Robertson xuất tại đó bằng xương bằng thịt. Rất nhiều dịp, tôi chứng kiến chó mèo có phản ứng đối với diện của linh hồn, dù chúng thấy ông kẹ. Thông thường động vật phản ứng bằng kiểu dữ dội mà chỉ theo cách tinh vi khó thấy; chúng dường như mặn mà với các hồn ma. Hành vi thù địch của Terrible Chester có lẽ là phản ứng phải đối với việc Robertson là ma hồn mà nhằm vào xấu xa toát ra dứt nơi gã, đặc trưng của gã lúc còn sống lẫn khi chết. Bằng chứng cho thấy lần cuối cùng tôi thấy Robertson còn sống là khi gã rời ngôi nhà ở Camp’s End, ngay trước lúc tôi cạy khóa, vào trong và phát căn phòng tối đen. Gã ám tôi từ lúc ấy, đầy tức tối. Như thể đổ lỗi cho tôi về cái chết của gã. Tuy bị giết trong căn hộ của tôi nhưng chắc hẳn gã biết tôi phải kẻ bóp cò súng. Đối mặt với tên sát nhân, gã bị bắn từ khoảng cách quá vài phân. Gã và tên sát nhân làm gì trong nhà tôi, tôi thể hình dung. Tôi cần thêm thời gian và tình hình yên ổn hơn để suy nghĩ. Chắc bạn nghĩ linh hồn giận dữ của gã trốn trong phòng tắm hay gian bếp nhà tôi, đợi tôi về, hăm hở hù dọa và quấy rối tôi như lúc ở nhà thờ. Bạn nhầm rồi vì bạn quên những linh hồn chưa yên nghỉ còn vất vưởng tại thế giới này vì họ chấp nhận rằng họ chết. Theo kinh nghiệm đáng kể của tôi, điều họ ít muốn làm nhất là quanh quẩn bên thi thể chính mình. gì gợi nhớ bi đát hơn về qua đời của người bằng cái xác mục nát của người đó. Trước thân xác còn sống của chính mình, các linh hồn cảm nhận thêm mãnh liệt thôi thúc cần hoàn tất mọi việc nơi thế giới này và tiếp sang thế giới bên kia, điều ép buộc mà họ kiên quyết cưỡng lại. Có thể cuối cùng Robertson ghé thăm nơi lìa đời của gã nhưng phải đến khi xác gã được đem và mọi vết máu được tẩy sạch. Điều đó tiện cho tôi. Tôi cần trò la ó rùm beng kết hợp với chuyến thăm viếng của linh hồn giận dữ. Vụ cố ý hủy hoại phòng để đồ thờ tại nhờ thờ St. Bart phải việc làm của người sống. Hành động tàn phá đó được thực bởi hồn ma tà tâm và điên cuồng theo đúng kiểu tinh. Trước đây, tôi mất dàn nhạc mới, cây đèn, máy radio có đồng hồ, cái ghế đẩu cao đẹp đẽ và vài cái đĩa khi con như thế nổi trận lôi đình. Đầu bếp phục vụ thức ăn nhanh đủ sức nghênh tiếp những vị khách đó. Đây là nguyên do vì sao đồ đạc trong nhà tôi là phế phẩm của cửa hàng giá rẻ. Càng có ít chừng nào càng mất ít chừng đó. Tôi xem xét tình trạng tím bầm bộ ngực bèo nhèo và cái bụng phệ của Robertson, nhanh chóng đưa ra suy luận đề cập ở và cố cài nút áo gã lại mà nhìn thẳng vào vết đạn. hiếu kỳ tốt thắng thế. bộ ngực thâm tím mềm nhũn, lỗ thủng nhưng tả tơi, ươn ướt, và kỳ lạ là tôi lập tức che nó lại nhưng cũng muốn nhìn kỹ hơn. Cơn buồn nôn bò lê thành dạ dày của tôi và trườn mỗi lúc nhanh hơn. Tôi cảm giác như thể mình trở về năm bốn tuổi, mắc phải trận cúm nguy hại, phát sốt và là người nhìn chòng chọc xuống ruột gan của thi thể chính mình. Vì bấy nhiêu thứ bừa bộn cần dọn sạch đủ quá rồi, chẳng cần tái vụ nôn mửa cuối cùng vào lịch sử của Elvis nên tôi nghiến răng, trấn áp thức ăn trong bụng và cài hết nút áo Robertson cho xong. Chắc chắn tôi biết cách xem xét tình trạng tử thi hơn người bình thường, nhưng tôi phải chuyên gia pháp y. Tôi thể xác định đúng đến từng giờ thời điểm mất mạng chính xác của Robertson. Lập luận cho thấy giờ tử vong vào khoảng năm giờ rưỡi đến bảy giờ bốn mươi lăm. Suốt khoảng thời gian đó, tôi lục lọi ngôi nhà ở Camp’s End của gã và khám phá căn phòng tối đen, chở Elvis tới bữa tiệc nướng tại nhà cảnh sát trưởng rồi chở Elvis đến nhà thờ, và thơ thẩn mình đến nhà Ozzie “bé”. Cảnh sát trưởng Porter và khách khứa của ông có thể xác minh nơi tôi có mặt trong phần khoảng thời gian đó, nhưng tòa án nào chấp thuận tuyên bố rằng hồn ma của Elvis có thể cho tôi chứng cớ ngoại phạm trong khoảng thời gian kia. Khả năng lâm nguy của tôi trở nên ràng hơn vào lúc đó, và tôi biết thời gian cạn dần. Khi tiếng gõ cửa rốt cuộc vang lên, đó rất có thể là cảnh sát đến theo lời mách nước của kẻ nặc danh.
CHƯƠNG 34 Cảm giác cấp bách gần với hoảng loạn ban cho tôi sức mạnh mới. Cằn nhằn và phát minh ra vài tiếng chửi tượng hình, tôi lôi Robertson ra khỏi bồn tắm rồi quẳng gã nằm phịch lên tấm khăn trải giường tôi trải lên sàn phòng tắm. Đập ngay vào mắt tôi là chút máu rơi trong bồn. Tôi vặn vòi hoa sen và tẩy rửa mấy vết bẩn đó ra khỏi bề mặt sứ bằng nước nóng hổi. Tôi bao giờ còn có thể tắm ở đây được nữa. Tôi phải thôi tắm giặt trong suốt phần đời còn lại hoặc tìm chỗ sống mới. Khi dốc túi quần Robertson ra, tôi tìm thấy mỗi bên túi nắm tiền: hai mươi tờ trăm đôla nhàu nát trong túi trái, túi phải hai mươi ba tờ. ràng gã bị giết vì tiền. Tôi bỏ đống tiền trở vào túi gã. Cái ví của gã cũng có tiền mặt. Tôi nhét luôn mớ tiền đó vào bên túi quần của gã nhưng giữ lại ví với hy vọng nó chứa đầu mối dẫn đến ý định giết người của gã khi tôi có thời gian kiểm tra những thứ còn lại trong ví. Thi thể phát ra tiếng ồng ộc đáng sợ khi tôi bọc nó lại trong khăn. Bọt đờm hoặc máu trào lên cổ họng xác chết, kêu như núi lửa phun trào. Tôi túm hai đầu khăn ở phần đầu và chân xoắn lại, thắt nút kỹ càng hết mức bằng mấy sợi dây trắng rút ra từ đôi giày dự phòng. Cái bọc này trông như điếu thuốc khổng lồ. Tôi quấn thuốc, điếu cũng , vậy mà đấy chính là hình dạng của nó. Hay có lẽ là cái kén. ấu trùng hay con nhộng to lớn bên trong, biến đổi thành cái khác. Tôi muốn nghĩ ngợi thêm đó có thể là cái gì. Lấy cái túi mua sắm bằng nhựa của hiệu sách làm giỏ đựng, tôi nhét vào nào là quần áo, dầu gội, bàn chải, kem đánh răng, dao cạo chạy điện, điện thoại di động, đèn pin, kéo, hộp khăn giấy ướt, và đống thuốc giảm độ axit trong dạ dày, những thứ tôi cần để qua hết đêm nay. Tôi kéo lê cái xác ra khỏi phòng tắm, băng qua căn phòng tối tăm, đến khung cửa lớn hơn trong số hai cái cửa sổ hướng ra phía nam. Nếu tôi sống trong căn hộ bình thường, có hàng xóm bên dưới việc đầu tiên sáng mai tổ dân phố phải làm là phác thảo luật mới nghiêm cấm lôi kéo thi thể sau mười giờ tối. Cái xác nặng hơn rất nhiều so với sức lực của tôi. Lăn nó xuống những bậc thang bên ngoài gây ồn ào, và đó là cảnh tượng khó quên nếu có người nào tình cờ ngang qua đúng lúc. bàn ăn bằng nửa kích cỡ bình thường và hai cái ghế đặt trước cửa sổ, tôi để chúng sang bên, nâng khung kính trượt dưới thấp lên, gỡ tấm lưới chắn muỗi rồi chồm ra ngó để chắc chắn rằng từ những nhà xung quanh thể nhìn thấy sân sau. Hàng rào gỗ và những cây dương lớn tạo nên kín đáo. Nếu khoảng hở nhoi giữa các nhánh cây cho mấy người hàng xóm ít tầm nhìn chỉ mình ánh trăng cũng soi tỏ quanh cảnh đủ để tạo độ tin cậy trong lời khai của họ trước tòa. Tôi cố hết sức nhấc cái xác bọc trong tấm khăn khỏi sàn, để lên cửa sổ mở. Tôi nhét phần chân ra trước vì tuy gã chết rành rành nhưng tôi vẫn thấy ổn với chuyện ném gã chúc đầu xuống. Giữa chừng, tấm khăn khựng lại ở chỗ cái đầu đinh lấp ló, nhưng với kiên quyết, tôi xoay xở đẩy gã ra bằng được. Khoảng cách từ bậu cửa sổ đến mặt đất chừng ba bốn mét. cao. Vậy mà cú va chạm gây nên thanh ghê rợn, khủng khiếp dường như có thể nhận ra ngay tức đó là tiếng xác chết rơi thẳng từ cao xuống nền đất cứng. có tiếng chó sủa. ai hỏi, Ê, nghe thấy gì ? Chẳng ai trả lời, Có, nghe thấy Odd Thomas ném cái xác ra ngoài cửa sổ. Thị trấn Pico Mundo chìm vào giấc ngủ. Dùng khăn giấy nhằm tránh để lại dấu tay, tôi nhặt khẩu súng lên khỏi tấm thảm. Tôi thêm nó vào danh sách những thứ trong túi mua sắm bằng nhựa. Trở vào phòng tắm lần nữa, tôi kiểm tra để chắc chắn trong quá trình dọn sạch bỏ sót bất cứ điều gì hiển nhiên. Sau đó tôi cần nhanh chóng thực việc tỉ mỉ chu đáo đó là hút sạch những lông tóc mang tính cáo buộc, lau xóa mọi bề mặt để loại bỏ dấu tay của Bob Robertson... phải tôi giúp tên sát nhân thoát tội. Toàn bộ các dấu hiệu cho thấy, kẻ đó là tay chuyên nghiệp quá thông minh và quá am hiểu, để lại dấu tay hay bất kỳ bằng chứng nào khác cho thấy có mặt của . Khi xem đồng hồ đeo tay, tôi vô cùng kinh ngạc. giờ ba mươi tám phút sáng. Đêm phải như chạy đua đến sáng chứ. Tôi tưởng hai giờ rưỡi hoặc muộn hơn rồi. Tuy nhiên, thời gian dành cho tôi cạn dần. Đeo đồng hồ điện tử mà tôi như nghe được cơ hội hành động tích tắc trôi qua. Sau khi tắt đèn trong phòng tắm, tôi đến cửa sổ trước nhà lần nữa, hé tấm rèm và quan sát con đường. Có thể có ai đó còn thức nhưng tôi vẫn chưa phát thấy. Cầm cái túi, tôi ra khỏi nhà và khóa cửa chính lại. Xuống bậc thang, tôi cảm giác bị dòm ngó soi mói như thí sinh dự thi Hoa hậu Mỹ trong phần thi áo tắm. Dù khá chắc chắn cặp mắt nào dõi theo nhưng tôi rơi vào cảm giác tội lỗi khiến bản thân bồn chồn. Lo lắng dò xét khung cảnh ban đêm, nhìn quanh quất khắp nơi mà nhìn những bậc thang trước mặt; đó là bằng chứng về phép lạ vì tôi té gãy cổ rồi bỏ lại cái xác thứ hai làm cảnh sát điên đầu. Chắc bạn băn khoăn liệu tôi cảm thấy tội lỗi về điều gì, vì tôi đâu giết chết Bob Robertson. À, tôi bao giờ cần lý do chính đáng mới thấy có lỗi. Thỉnh thoảng tôi cảm giác phải chịu trách nhiệm về những xác tàu hỏa ở Georgia, các vụ đánh bom khủng bố tại những thành phố xa xôi, bão ở Kansas... phần trong tôi tin rằng nếu tôi hăng hái khai thác tài năng và phát triển nó hơn, thay vì chỉ đương đầu với nó cơ sở ngày qua ngày chắc tôi có thể giúp cảnh sát tóm được nhiều tội phạm hơn và cứu được nhiều mạng sống hơn từ tay kẻ xấu lẫn thiên nhiên khắc nghiệt, ngay cả ở những nơi rất xa thị trấn Pico Mundo. Tôi biết lần này phải vậy. Tôi biết để theo đuổi can hệ sâu hơn vào khả năng siêu nhiên phải đánh mất mối liên hệ với thực tế, xoáy sâu vào chứng điên rồ trưởng giả, để rồi tôi chẳng giúp được ai. Tuy vậy phần trừng phạt trong con người tôi đôi lúc lại cứ cân nhắc tính cách của tôi và phán xét tôi thiếu năng lực. Tôi hiểu tại sao mình lại dễ thành biểu của tội lỗi đến vậy. Căn nguyên ở chỗ mẹ tôi và súng ống của mẹ. Nhận biết cấu trúc tâm lý có nghĩa bạn dễ dàng tái tạo nó. Phòng chứa những tội lỗi vô lý là phần của công trình kiến trúc trong đầu tôi, và tôi nghi ngờ biết liệu có lúc nào đó tôi có thể đổi mới căn phòng trong cái lâu đài kỳ lạ là tôi đây . Đến chân cầu thang mà thấy ai lao tới hét toáng Tôi tố cáo đây!, tôi bắt đầu vòng sang bên hông ga-ra, sau đó dừng lại, đập vào mắt là hình ảnh ngôi nhà gần đó và ý nghĩ về bà Rosalia Sanchez. Tôi định dùng xe Chevy của bà, chiếc xe bản thân bà hiếm khi lái, để chuyển xác Robertson, sau đó trả xe về ga-ra mà để bà biết. Tôi cần chìa khóa. Khi học phổ thông, tôi tập trung chú ý vào giờ toán như điều lẽ ra nên làm, mà từ lâu học cách khởi động xe cần chìa khóa. Mối lo bất chợt của tôi về bà Rosalia liên quan gì đến khả năng bà nhìn thấy tôi thực hành vi bất chính này mà dành hết cho an nguy của bà. Nếu còn tên khác mang theo ý định giết người cùng Robertson vào căn hộ của tôi trong khoảng từ năm giờ rưỡi đến bảy giờ bốn mươi lăm bọn chúng làm thế trong ánh sáng ban ngày. Ánh nắng ban ngày ở sa mạc Mojave rất sáng sủa. Tôi nghi hai gã đàn ông thông đồng đến nhà tôi và Robertson tưởng bọn chúng nhúng tay vào vụ bẩn thỉu này nhắm vào tôi. Có lẽ gã tin cả hai nằm đợi tôi về. Chắc hẳn gã kinh ngạc khi tên đồng bọn chĩa súng vào gã. khi Robertson chết và tôi bị dựng chuyện giết người kẻ sát nhân la cà ở lại mặc thứ đồ lót của tôi và nếm thử thức ăn thừa trong tủ lạnh nhà tôi. nhanh chóng bỏ , khi nắng vẫn chưa tắt. Nhất định sợ có người trong ngôi nhà gần bên nhìn thấy vào cùng nạn nhân hay rời khỏi đó mình. muốn gánh chịu nguy cơ có nhân chứng, có thể gõ cửa sau nhà bà Rosalia sau khi xử xong Robertson. bà góa hiền lành, sống mình, là đối tượng dễ dàng ra tay. Thực ra, nếu kỹ lưỡng và thận trọng, chắc chắn ghé nhà bà trước khi đưa Bob Robertson đến đây. dùng cùng khẩu súng trong cả hai vụ, gán tôi vào hai tội giết người. Xét theo mau lẹ và táo bạo trong hành động làm để trừ khử tên đồng mưu kẻ xa lạ kia là người kỹ lưỡng, thận trọng và còn hơn thế nữa. Ngôi nhà của bà Rosalia nằm lặng thinh. ngọn đèn nào sáng lên ở cửa sổ, chỉ có khuôn mặt như bóng ma mà thực ra đó là hình phản chiếu của mặt trăng phía tây. CHƯƠNG 35 Tôi bắt đầu băng qua lối xe chạy, hướng đến hiên sau nhà bà Rosalia trước khi kịp nhận ra mình di chuyển. Sau vài bước, tôi dừng lại. Nếu bà chết, tôi thể làm gì bà. Và nếu kẻ giết Robertson có ghé nhà bà, chắc chắn để bà còn sống. Trước đó tôi cứ tưởng Robertson là tay súng đơn lẻ, tên quái đản rối loạn đầu óc và đạo đức lập mưu cho vụ giết chóc vấy máu trong lịch sử, hệt như rất nhiều tên thuộc đám cặn bã khét tiếng trong xấp tài liệu được gã nâng niu cất giữ. Và giờ đây gã trở thành kẻ như thế và thậm chí còn hơn thế. Gã gặp kẻ cũng đam mê những trò tàn sát suy nghĩ và cả hai cùng hợp sức biến thành con quái vật hai mặt, hai trái tim thù hận và bốn bàn tay bận bịu làm việc xấu xa. Manh mối được treo tường phòng làm việc tại nhà Robertson nhưng khi ấy tôi nào hiểu. Manson, McVeigh và Atta. tên nào trong số đó hành động mình. Bọn chúng hiệp lực với những kẻ khác. Trong xấp tài liệu có trường hợp những tay sát thủ liên hoàn và kẻ thảm sát hàng loạt hành động đơn độc nhưng ba gương mặt tại vị trí Robertson tôn thờ đều là đối tượng tìm thấy ý nghĩa trong hội của bọn người xấu xa. Chuyến viếng thăm bất hợp pháp của tôi đến nhà Robertson ở Camp’s End hiểu sao bị gã biết được. Có thể máy quay được giấu trong nhà. Những kẻ theo đường lối cũng thường mắc chứng hoang tưởng. Nếu quyết định làm vậy Robertson có nguồn tài chính dồi dào đủ để trang bị cho ngôi nhà những máy quay tối tân được ngụy trang khéo léo. Gã ắt hẳn với đồng bọn giết người chuyện tôi rình mò những căn phòng của gã. Tên bạn thân ấy có thể quyết định rằng bản thân gặp nguy nếu việc liên đới với Robertson bại lộ. Hay do tôi sục sạo mà Robertson đâm ra lo sợ về kế hoạch ngày mười lăm tháng Tám của bọn chúng. Chắc gã muốn trì hoãn cuộc tàn sát mà cả hai chuẩn bị thực . Có lẽ tên bạn thân loạn thần kinh của gã quá háo hức đến mức chấp nhận chậm trễ. dự tính từ rất lâu màn bạo lực thú vị này, giờ đây khát khao nó, nhu cầu cấp thiết. Tôi ngoảnh mặt khỏi ngôi nhà bà Rosalia. Nếu đến đó và phát ra bà bị giết do hậu quả hành động của tôi, tôi e mình còn ý chí để xử lý cái xác Robertson. Ngay lúc nghĩ đến việc tìm thấy thi thể của bà - Odd Thomas, con có thấy bà ? Odd Thomas, bà vẫn hữu chứ? - tôi cảm giác các mối nối lý trí bị bung lỏng ra, và tôi biết mình rơi vào nguy cơ phân tâm về mặt cảm xúc nếu là về mặt tâm lý. Chị Viola Peabody và các con chị trông cậy vào tôi. Số lượng chưa xác định những người bị định đoạt phải chết tại thị trấn Pico Mundo trước hoàng hôn ngày mai có thể được cứu nếu tôi ở bên ngoài nhà giam, nếu tôi biết địa điểm và thời gian của hành động hung bạo có tính toán kia. Như thể phép thuật đột ngột thắng thế vật lý học, ánh trăng dường như mang trọng lượng. Tôi cảm giác sức nặng của ánh trăng rọi theo từng bước hướng đến phía sau ga-ra, nơi cái xác nằm đợi trong lớp vỏ bọc màu trắng. Cửa sau của ga-ra khóa. Bóng tối bên trong đầy mùi lốp cao su, dầu máy, dầu nhờn lâu ngày và hương thơm của gỗ tươi nguyên từ những xà nhà để trần bị nung dưới sức nóng ngày hè. Tôi để cái túi vào trong. Nhận biết dứt khoát rằng ngày hôm nay lấy của tôi cả tinh thần lẫn sức lực, tôi kéo lê cái xác qua ngưỡng cửa và đóng nhanh cánh cửa. Tới lúc ấy tôi mới lần mò tìm công tắc đèn. Ga-ra nằm riêng biệt này có hai chỗ, cộng thêm chỗ sửa chữa nơi có thể đậu chiếc xe thứ ba. thời chỗ còn trống, và chiếc Chevy của bà Rosalia nằm trong khoảng gần nhà nhất. Thử mở thùng xe, tôi phát nó bị khóa. Ý nghĩ nhét cái xác vào băng sau rồi lái xe với cái xác sau lưng khiến tôi bối rối. Trong suốt hai mươi năm qua, tôi chứng kiến biết bao thứ kỳ lạ. trong những điều quái dị hơn hẳn là hồn ma của tổng thống Lyndon Johnson bước xuống chiếc xe buýt đường dài tại trạm xe buýt của thị trấn Pico Mundo. Ông từ Portland, Oregon, qua San Francisco và Sacramento, đến đây để rồi lên ngay chuyến xe ra nước ngoài đến Phoenix, Tucson, và những nơi trong Texas. Do từ trần trong bệnh viện nên ông mặc quần áo ngủ, mang dép và trông trơ trọi. Khi nhận ra tôi thấy được ông, ông trừng mắt giận dữ, rồi tuột quần áo và chổng mông về phía tôi. Thế nhưng tôi chưa bao giờ nhìn thấy thi thể sống lại, cũng đụng độ xác chết nào được ma thuật xấu xa phù phép cho cử động. Vậy mà ý nghĩ quay lưng lại với tử thi của Robertson và lái xe chở xác đến xó xỉnh hiu quạnh của thị trấn Pico Mundo làm tôi căng phồng nỗi khiếp đảm. Mặt khác, tôi thể đỡ gã - bị bao bọc kín mít, lên ghế hành khách phía trước rồi chạy xe loanh quanh với thứ trông như điếu thuốc nặng hai trăm năm mươi pao. Cho cái xác vào phía sau xe Chevy đòi hỏi phải cố gắng cả sức lực lẫn cái dạ dày. Trong cái kén, Robertson, như xốp, mềm... chín muồi. Hết lần này đến lần khác, ký ức sống động về lỗ đạn tả tơi, ươn ướt ngực gã dấy lên trong tâm trí tôi: thịt nhão và bầm tím quanh cái vết rỉ ra thứ nước sền sệt sẫm màu. Tôi ngó sát vết thương, tôi nhanh chóng quay , mà sao hình ảnh ấy cứ trỗi dậy như mặt trời đen tối trong trí nhớ của tôi. Đến lúc chất cái xác vào xe và đóng cửa sau lại, mồ hôi chảy ròng ròng người tôi như thể tên khổng lồ nào đó vắt tôi như vắt cái khăn mặt. Đó cũng chính là cảm giác của tôi. Bên ngoài, hai giờ sáng, nhiệt độ giảm còn tám mươi lăm độ mát mẻ[40]. Trong ga-ra cửa sổ này, khí hơn mười độ là tối đa. Mặc kệ chuyện đổ mồ hôi, tôi lóng ngóng bên dưới cái chắn bùn trước xe và tìm những sợi dây tôi cần. Chỉ hỏng lần, tôi khởi động được xe. Từ đầu đến cuối, gã đàn ông chết ghế sau hề cựa quậy. Tôi tắt đèn ga-ra, để cái túi mua sắm bằng nhựa lên ghế hành khách, ngồi vào sau vô lăng rồi dùng điều khiển từ xa kéo cánh cửa ga-ra. Thấm mồ hôi mặt bằng nắm khăn giấy rút ra từ cái hộp để bảng điều khiển của xe, tôi nhận thấy mình chưa nghĩ tới nơi dỡ kiện hàng kia xuống. Bãi rác thị trấn hay đống thu gom phế thải của công ty Goodwill Industries đều phải ý kiến hay. Nếu Robertson bị phát quá sớm, cảnh sát trưởng Porter đặt những câu hỏi hóc búa cho tôi. Lý tưởng nhất là cái xác nằm mục rữa cách lặng lẽ trong ít nhất hai mươi bốn tiếng trước khi có người tìm thấy và để Chúa cứu rỗi gã. Rồi tôi nghĩ ra chỗ giấu hoàn hảo: Nhà thờ Sao chổi thầm, Quầy rượu Ngực trần, Hiệu sách Người lớn và Thiên đường Bánh kẹp.
CHƯƠNG 36 Nhà thờ Sao chổi thầm được dựng lên cách đây hơn hai mươi năm, cách xa quốc lộ và ra khỏi ranh giới thị trấn Pico Mundo vài trăm dặm, vùng sa mạc đầy bụi rậm. Ngay cả khi còn là nơi thờ phụng khác thường nó cũng giống nhà thờ. Tại đây trong màn đêm trong trẻo đầy sao, tòa nhà chính, ngôi nhà bằng tôn gấp nếp dài hơn sáu mươi mét, rộng hơn mười tám mét, hình nửa trụ với các ô cửa sổ hai bên trông như con tàu vũ trụ, thiếu chóp mũ đỉnh, bị chôn vùi nửa vào lòng đất. Nép giữa hàng cây héo và lụi tàn, bị che đậy gần hết bởi lớp ngụy trang vằn vện của những cái bóng và ánh trăng nhợt nhạt, các ngôi nhà tôn hơn vây quanh vành đai khu đất. Trước đây chúng là khu tập họp những tín đồ trung thành. Người sáng lập nhà thờ, Caesar Zedd Jr., biện bạch rằng ông nhận được những thông điệp thầm, chủ yếu trong mơ nhưng cũng đôi khi vào lúc thức từ những nhân viên tình báo ngoài hành tinh chiếc tàu vũ trụ du hành đến Trái đất bên trong sao chổi. Những người ngoài hành tinh ấy tuyên bố họ là các vị thần tạo ra loài người và toàn bộ những giống loài hành tinh. Hầu hết cư dân thị trấn Pico Mundo cho rằng các buổi lễ ở Nhà thờ Sao chổi thầm có ngày lên đến tột bậc thành lễ ban thánh thể bằng rượu nho Kool-Aid tẩm độc và hàng trăm người chết. Thay vì thế, chấn chỉnh trong niềm tin tôn giáo của ông Zedd trở nên khả nghi khi ông và toàn thể tín đồ bị truy tố và kết án tội tổ chức băng nhóm sản xuất và phân phối chất kích thích lớn nhất thế giới. Sau khi nhà thờ ngừng hoạt động, tổ chức tự xưng là Hiệp hội Đầu tiên Bảo vệ đổi mới, đơn vị quy mô nhất tại Mỹ kinh doanh hiệu sách người lớn, quầy rượu ngực trần, các trang web khiêu dâm và những tụ điểm karaoke, đe dọa hạt Maravilla phải cấp cho họ giấy phép kinh doanh. Bọn họ biến khu đất thành công viên giải trí về tình dục hạng bét, đổi biển tên gốc của nhà thờ sang bảng đèn nê-ông và mở rộng thành dòng chữ NHÀ THỜ SAO CHỔI THẦM, QUÁN RƯỢU NGỰC TRẦN, HIỆU SÁCH NGƯỜI LỚN VÀ THIÊN ĐƯỜNG BÁNH KẸP. Tin đồn nơi đây có món bánh kẹp và thịt nướng ngon tuyệt cùng lời hứa hẹn miễn phí nước ngọt uống thêm được tuân thủ theo cách hào phóng. Vậy mà chốn làm ăn chẳng bao giờ thành công việc lôi kéo các nhóm dùng bữa tối gia đình hay các cặp đôi thành đạt địa vị cao, những đối tượng thường hay lui tới nhà hàng. Doanh nghiệp được gọi tên là Bánh kẹp thầm này được khoản lời đáng kể thậm chí sau khi bù lỗ cho dịch vụ ăn uống. Quầy rượu ngực trần, hiệu sách ( cất giữ mà cung cấp hàng ngàn băng đĩa) và nhà chứa ( đề cập trong tờ đơn gốc xin cấp giấy phép kinh doanh) mang những đại dương tiền cho ốc đảo sa mạc này. Tuy các luật sư của tập đoàn, những người bảo vệ Hiến pháp đầy lòng can đảm, cố gắng giữ cho nơi này vẫn mở cửa qua mười lần bị kết tội tổ chức hoạt động mại dâm, Bánh kẹp thầm tan hoang sau vụ ba mại dâm bị bắn gục bởi gã khách trần truồng lên cơn do dùng thuốc gây nghiện PCP và Viagra quá liều. Thay cho phần thuế và tiền phạt chưa trả, cơ ngơi rơi vào tay chính quyền hạt. Suốt năm năm qua, đình trệ của hoạt động bảo quản và những nỗ lực chiếm hữu mệt mỏi của sa mạc đè bẹp tòa nhà thời nguy nga của các vị thần ngoài hành tinh thành đống gỉ sét đổ nát. Khu vườn ở nhà thờ từng mang phong cảnh như thiên đường nhiệt đới, với cỏ sum suê, nhiều giống cây cọ dương xỉ, và dây leo nở hoa. được tưới nước hàng ngày nên mùa mưa ngắn ngủi ở sa mạc đủ nước giữ gìn vườn địa đàng này. Tắt đèn pha từ quốc lộ rẽ vào, tôi lái xe dưới bóng trăng tua tủa do ánh sáng hắt qua những hàng cọ héo queo. Lối xe chạy rải nhựa nứt nẻ đầy ổ gà dẫn đến phía sau tòa nhà chính xa xa là vòng cung của những nhà tôn hơn. Tôi chẳng muốn để xe còn nổ máy nhưng tôi muốn có thể trốn chạy nhanh. có chìa khóa, tôi tài nào khởi động xe nhanh chóng trong cơn hoảng loạn. Bỏ cây đèn pin vào cái túi, tôi tìm nơi thích hợp để giấu cái xác phiền phức này. Sa mạc Mojave lấy lại được hơi thở. Luồng gió lười nhác thổi đến từ hướng đông mang theo mùi cây bụi khô héo, cát nóng và đời sống kỳ lạ của sa mạc. Mỗi căn phòng trong số mười mái nhà tôn từng là khu tụ họp của nhà thờ đủ chỗ cho sáu mươi thành viên sùng bái tại những cái giường chật hẹp kiểu tiệm thuốc phiện. Khi nhà thờ được thay thế bằng nhà chứa có món bánh kẹp, vài chỗ trong kết cấu được hủy bỏ, phân chia và trang trí lại nhằm biến thành những chiếc giường thoải mái để vũ nữ ngực trần giao thứ mà các ả hứa hẹn ngoài quầy rượu. Những năm về sau, từ lúc khu đất bị bỏ hoang, đám người tọc mạch lần tìm ra và phá hoại tòa nhà chính cùng tất cả các khu tập họp. Cửa gãy toang hoác. Vài cánh cửa còn tụt khỏi bản lề mục ruỗng. Tại khu tập họp thứ ba mà tôi xem xét, chốt đàn hồi cửa vẫn còn tốt để giữ cửa đóng. Tôi muốn để cái xác ở nơi bầy sói đồng cỏ có thể dễ dàng mò tới. Robertson là quái thú; tôi vẫn tin như thế; song, bất kể chuyện gã làm hay có khả năng thực , tôi vẫn thể giao nộp thi hài của gã cho điều sỉ nhục mà bà ngoại Sugars sợ xảy đến với bà nếu bà gục chết trong ván bài với những tay chơi nhẫn tâm. Biết đâu sói đồng cỏ ăn xác thối rữa. Có lẽ chúng chỉ dùng món do chúng làm thịt. Thế nhưng sa mạc đầy rẫy sống, nhiều hơn hẳn những gì nhìn thấy được khi chỉ xem xét sơ sài. Rất nhiều sinh vật mừng rỡ đánh chén cái xác béo núc như của Robertson. Sau khi lái chiếc Chevy nhanh hết mức đến ngôi nhà chọn, cách cổng khoảng ba mét, tôi cần phút để dồn nghị lực giải quyết cái xác. Tôi nhai hai viên thuốc giảm độ axit trong dạ dày. Suốt chuyến từ thị trấn, Bob Robertson chưa lần hỏi, Chúng ta đến chưa? Tuy vậy, và ngược hẳn với lý trí, tôi vẫn tin chết. Lôi mạnh gã ra khỏi xe xem ra dễ hơn việc tống gã vào, trừ điểm khi cái thân thể núc ních to lớn của gã động đậy bên trong lớp vỏ bọc bằng khăn trải giường, tôi cảm giác như mình xử lý cái bao đầy rắn sống. Sau khi kéo lê gã đến cửa nhà tôn, chèn cửa mở bằng cây đèn pin, tôi tạm nghỉ quẹt mồ hôi giọt trán, và trông thấy cặp mắt vàng khè. Thấp dưới mặt đất cách xa khoảng bảy tám mét, cặp mắt đỏ nhìn tôi vẻ thèm khát lẫn đâu được. Tôi chộp cây đèn pin lên và rọi thẳng vào đúng ngay thứ tôi sợ: con sói từ vùng đồng mông quạnh vào đây, thám thính giữa những tòa nhà hoang phế. To lớn, vạm vỡ, thô kệch, trán và quai hàm sắc cạnh, con thú mang bản chất xấu xa thua kém rất nhiều người, nhưng ngay giây phút đó trông nó như ma lẻn qua cánh cổng địa ngục. Đèn pin dọa được nó bỏ , điều đó cho thấy nó trở nên tự tin cách nguy hiểm trước mặt con người, và có thể nó đơn độc. Tôi quét đèn pin qua bóng đêm trước mắt và phát thêm con khác vai thõng xuống bên phải phía sau con thứ nhất. Cho đến những năm gần đây, sói đồng cỏ hiếm khi cắn trẻ con và bao giờ lao vào người lớn. Khi những người định cư xâm lấn địa phận săn bắt của bọn sói, chúng trở nên táo bạo hơn, hung hăng hơn. Trong vòng năm năm trở lại đây, vài người lớn ở California bị chúng đuổi theo thậm chí bị tấn công. Hai con này xem ra phải thấy tôi ít đáng sợ mà coi tôi như món mặn cuối bữa. Tôi nhìn xuống đất xung quanh tìm hòn đá và vớ được miếng bê tông vỡ ra khỏi lề đường. Tôi ném mạnh vào con thú gần nhất. Miếng bê tông rơi xuống mặt đường nhựa chệch mục tiêu hơn cả tấc và văng vào vùng tối. Con sói né tránh điểm va chạm nhưng bỏ chạy. Con thứ hai theo ra hiệu của con đầu tiên và đứng yên lại chỗ. thanh vo vo và lách cách của chiếc xe còn để nổ máy khiến bọn sói nao núng mà làm tôi lo lắng. Bánh kẹp thầm là khu biệt lập; ai đến gần tới mức dấy lên tò mò bởi tiếng động cơ rền rĩ. Thế nhưng nếu những người lai vãng khác có mặt tại khu này tiếng ồn lấp kín tiếng chân họ. Tôi thể xử lý cùng lúc hai thứ. Việc giấu cái xác chiếm ưu tiên hơn chuyện đối phó bọn sói. Lúc tôi quay lại, có thể bầy thú bỏ theo hương thơm thịt thỏ hay con thú nào khác dễ săn. Tôi lôi cái xác được bao bọc qua ngưỡng cửa, vào nhà tôn rồi đóng chặt cửa lại. Hành lang dọc bên tòa nhà chia thành phòng tắm và bốn căn phòng. Mỗi căn phòng từng là nơi hành nghề của ả mại dâm. Đèn pin soi rọi bụi bặm, mạng nhện, hai chai bia rỗng , đống xác ong… Sau ngần ấy năm, khí vẫn vương vấn mùi hương phảng phất mờ nhạt của nến thơm, trầm hương, nước hoa, dầu thơm. Chìm khuất bên dưới hòa quyện thơm tho nhưng ngột ngạt này là mùi hăng khó chịu hơn, có thể đó là nước tiểu lâu ngày của các con thú đến rồi . Đồ đạc được chở từ lâu. Trong hai căn phòng, gương trần cho biết vị trí đặt giường. Tường sơn màu hồng đậm. Mỗi căn phòng có hai cửa sổ bé tẹo. Hầu hết kính đều bị trẻ con dùng súng hơi bắn vỡ. Trong căn phòng thứ tư, cả hai cửa sổ đều còn nguyên vẹn. Tại đây, loài ăn xác chết to lớn nào có thể chạm tới thi thể. sợi dây giày dùng để cột bị bung. Đầu bao đựng xác giãn ra và chân trái của Robertson lộ ra. Tôi cân nhắc chuyện lấy cả dây giày lẫn tấm khăn trải giường. Chúng có thể là mối liên hệ liên quan đến tôi, nhưng chúng thuộc lại hàng thường, được bày bán ở rất nhiều cửa tiệm, chỉ mình những thứ đó thể kết tội tôi. Khi tập trung vào nhiệm vụ, trong tâm trí tôi lại xuất hình ảnh vết thương ngực Robertson. Và trong ký ức tôi nghe giọng mẹ: Con muốn bóp cò giùm mẹ ? Con muốn bóp cò ? Tôi tập luyện nhiều lần việc kéo tâm trí rời xa số ký ức tuổi thơ. Tôi có thể nhanh chóng chuyển giọng đáng nhớ của mẹ từ thầm sang nín thinh. Ném khỏi tâm trí hình ảnh vết thương của Robertson lại hề dễ dàng. Lỗ thủng ươn ướt đó nện thình thịch trong ký ức như thể trái tim ngừng đập của gã vỗ bên dưới. Trong phòng tắm nhà tôi, khi cởi áo gã để kiểm tra tình trạng tím bầm và thấy vết thương hở phần thịt nhuốm đỏ, cái gì đó thôi thúc tôi nhìn gần hơn. Phẫn nộ bởi thúc đẩy tốt từ chính bản thân, và thực ra, khiếp đảm trước điều đó, e rằng đam mê của tôi chứng tỏ tôi bị mẹ tác động theo cách tôi nhận ra nên tôi kìm chế nhìn gần hơn và lập tức quay cài nút áo gã lại. Giờ đây, quỳ cạnh Robertson, lóng ngóng với mấy cái nút thắt ở sợi dây giày còn buộc chặt cái bao đựng xác, tôi cố đóng ký ức về cái áo sơ mi lên ký ức về vết thương rỉ nước nhưng nó vẫn cứ đập vào tâm trí tôi. Trong thi thể sưng phồng, khí làm giả loạt thanh ùng ục lên đỉnh điểm nghe như tiếng thở dài vuột ra khỏi đôi môi người chết, ở phía sau lớp mạng che bằng cotton. thể nấn ná thêm giây phút nào bên cạnh cái xác, tôi vụt đứng dậy, cầm đèn pin bỏ chạy khỏi căn phòng màu hồng đậm, nửa đường dọc hành lang mới nhận ra còn để cửa mở. Tôi quay lại đóng cửa, bảo vệ thi thể kỹ hơn khỏi loài chim ăn xác to lớn của sa mạc. Tôi lấy vạt áo của mình lau tay nắm cửa ở mọi căn phòng tôi xem qua. Sau đó, lê chân qua những bước in dấu trước đó, tôi làm bẩn lớp bụi dày sàn với hy vọng có thể tránh để lại dấu giày ràng. Khi mở cửa trước, ánh đèn pin của tôi gặp phải tia mắt sáng từ ba con sói đồng cỏ đợi sẵn, chắn giữa tôi và chiếc Chevy còn nổ máy. CHƯƠNG 37 Chân vạm vỡ, be sườn săn chắc, mõm , sói đồng cỏ xem ra được dành cho các cuộc tấn công thần tốc và dữ dội và ngay cả khi chúng đối diện bạn với tia nhìn muốn ăn tươi nuốt sống, chúng vẫn mang đôi chút nét hấp dẫn của loài chó. Chó sói thảo nguyên, số người gọi chúng như thế, và tuy thiếu phần lớn vẻ quyến rũ của loài chó sói nhưng chúng có đặc trưng như chó vì chân quá to so với thân và tai quá lớn so với đầu. Ba con thú này có vẻ thách thức giễu cợt hơn là đe dọa, nếu bạn đọc thông điệp hợp lý trong dáng điệu căng thẳng và những cái mũi thở phừng phừng. Đôi tai lớn của chúng vểnh lên, và con trong đám ngóc đầu như thể thấy tôi hết sức khó hiểu. Đánh giá kiểu ấy về tôi chỉ có bọn sói này. Hai con đứng trước chiếc Chevy, có lẽ cách hơn bốn mét. Con thứ ba đứng chờ giữa tôi và phần băng ghế hành khách, chỗ cửa sau tôi để mở. Tôi hét lên với lượng ở mức lớn nhất, vì lẽ thường những thanh inh ỏi đột ngột làm bọn sói hoảng sợ bỏ chạy. Hai con nhúc nhích, nhưng chẳng con nào rút lui được đến phân. Bị hầm nhừ trong mồ hôi của chính mình, ắt hẳn tôi bốc mùi như bữa tối mặn chát nhưng thơm ngon. Khi tôi bước lùi khỏi ngưỡng cửa, chúng nhảy xổ vào tôi, điều đó có nghĩa táo tợn của chúng chưa đến mức tin chắc rằng chúng có thể hạ gục tôi. Tôi đóng sập cửa giữa hai bên lại. cánh cửa khác cuối hành lang bên kia cũng dẫn ra bên ngoài, nhưng nếu thoát bằng lối đó tôi cách rất xa chiếc Chevy. Tôi thể hy vọng vòng lại sau xe và lẻn chui vào qua cửa xe để mở. Trước khi tôi kịp tới đó, ba đồng đạo giống sói Wile E. đánh hơi được tôi và chờ sẵn, tên nào cần nhờ cậy đến cái máy chém phải gửi thư về Tập đoàn Acme đặt mua. Nếu đợi trong này đến khi trời sáng, chắc tôi thoát được vì bọn chúng là thợ săn đêm và có thể chúng quá đói thể canh mãi ngoài cửa. Kim xăng trong xe bà Rosalia chỉ mức đầy nửa thùng, như vậy còn lâu mới cạn, nhưng động cơ gần như chắc chắn nóng lên quá mức trước khi hết xăng, khiến chiếc xe trở nên vô dụng. Bên cạnh đó, pin trong cây đèn của tôi có vẻ còn đủ đến tiếng. Vì lòng can đảm lúc trước về chuyện sợ những thứ chưa biết nên tôi thể chịu đựng bị kẹt trong căn nhà tôn tối đen như mực, bầu bạn với gã chết queo. thứ gì giúp mắt tiêu khiển, tôi bị ám ảnh hình ảnh hồi tưởng vết thương do đạn bắn của gã. Tôi tin mỗi luồng gió đêm, xào xạc bên khung cửa sổ vỡ ra làm thanh Bob Robertson tách khỏi cái kén. Tôi tìm kiếm thứ gì đó để ném vào bọn sói. Nếu chịu cởi đôi giày của cái xác tôi chẳng có gì ngoài hai chai bia rỗng . Sau khi trở lại cửa với mớ chai, tôi tắt đèn pin, nhét nó vào cạp quần, chờ vài phút, tạo cơ hội cho hòa khí, nhưng cũng để mắt quen với bóng tối. Lúc mở cửa, những mong phòng tuyến chó sói kia giải tán và mất, tôi thất vọng. Cả ba vẫn gần như ở nguyên chỗ cũ: hai con trước đầu xe, con thứ ba gần lốp dự trữ chỗ băng sau. Trong ánh nắng, bộ lông của chúng sạm lại với những lằn đỏ nổi bật và cái bờm đen. Tại đây chúng có màu xám gỉ của bạc lâu năm. Thoáng trong cặp mắt chúng rực lên vẻ điên dại khi có trăng. Chỉ vì con sói gần nhất tỏ ra gan lì nhất trong bộ ba này nên tôi nghĩ nó là con đầu đàn. Nó cũng là con lớn xác nhất, với phần cằm ngả xám cho thấy nhiều kinh nghiệm trong việc săn bắt. Chuyên gia khuyên rằng, khi đương đầu với con chó nổi giận, bạn nên tránh nhìn thẳng vào mắt nó. Đó là thách thức khiến thú vật phản ứng cách hung hăng. Nếu giống chó đến ở đây là con sói đồng cỏ cân nhắc giá trị dinh dưỡng của bạn các chuyên gia khiến bạn tiêu đời. nhìn thẳng vào mắt chúng bạn bị xem là yếu đuối, biểu thị bạn là con mồi thích hợp; cũng như bạn tự nộp mạng lên cái đĩa kèm, hai cái khoai gấp đôi dưới địa ngục và phần thứ gây đánh rắm loại nửa đêm. Nhìn thẳng vào mắt con đầu đàn, tôi gõ cái chai lên khung cửa kim loại, sau đó gõ mạnh hơn, làm vỡ cái chai. Tôi còn cầm cổ chai, mảnh vỡ lởm chởm ló ra khỏi bàn tay nắm chặt của tôi. Nó thua xa thứ vũ khí lý tưởng để đối chọi với kẻ thù có cái miệng tua tủa răng nhọn hoắt của loài động vật chuyên ăn thịt nhưng còn hơn là trắng tay. Tôi hy vọng thách thức chúng với tự tin đó làm chúng do dự chốc lát về việc hại tôi. Thứ tôi cần nhất để có thể ra tới cửa sau để mở cửa chiếc xe Chevy là ba hoặc bốn giây lưỡng lự của bọn sói. Đóng ập cửa lại sau lưng, tôi tiến về phía con đầu đàn. Lập tức nó nhe hàm răng nghiến chặt đầy nguy hiểm. tiếng gầm gừ rung rung khe khẽ đe dọa tôi lùi lại. Phớt lờ cảnh báo, tôi tiến thêm bước nữa, và bằng cú hất cổ tay đột ngột, tôi ném cái chai bia còn nguyên. Nó đập mạnh vào mõm con đầu đàn, văng ra và vỡ tan tành mặt đường dưới chân con sói. Giật mình, con sói ngừng gầm gừ. Nó di chuyển đến đầu xe, lùi xa tôi, cũng lại gần hơn, mà chỉ đổi vị trí để dàn thành thế trận liên kết với hai đồng minh của nó. Điều này mang lại kết quả mong đợi, bày ra cho tôi lối thẳng tắp, rào cản đến cửa sau để mở cửa chiếc Chevy. Chẳng may, cuộc hành trình dốc hết sức về chỗ trốn đòi hỏi tôi phải lấy chú ý ra khỏi bầy sói. Giây lát tôi đua nước rút về xe, chúng nhảy xổ vào tôi. Khoảng cách giữa chúng và tôi hơn khoảng cách giữa tôi và cánh cửa mở là bao, và chúng nhanh hơn tôi nhiều. Cầm cái chai vỡ trước mặt, ấn về phía bọn sói những phát nhanh gọn, đe dọa, tôi nhích ngang hướng tới chiếc Chevy còn nổ máy, tính từng phân cho đến chiến thắng. Hai con sói nhìn tôi với vẻ tò mò lồ lộ: đầu ngóc lên, miệng hé mở, lưỡi thè ra. Tò mò nhưng cũng cảnh giác với bất kỳ cơ hội nào tôi có thể tạo ra cho chúng, chúng đứng dồn trọng lượng ra chân sau, sẵn sàng lao vào tôi bằng những bắp đùi khỏe mạnh. Điệu bộ của con đầu đàn khiến tôi băn khoăn hơn những con khác trong bầy. Đầu cúi thấp, tai cụp xuống đầu, nhe răng nhưng thè lưỡi, cá thể này trố mắt nhìn tôi chăm chăm từ bên dưới cái trán hạ thấp. Chân trước của nó ghì xuống đất chặt đến nỗi thậm chí trong ánh trăng nhợt nhạt, những ngón chân dang rộng thành kiểu dễ xác định được. Với các đốt chân trước gập cong nét, con thú dường như đứng đầu móng vuốt. Tuy tôi tiếp tục đối mặt với chúng nhưng chúng ở ngay trước mặt tôi nữa mà sang bên phải tôi. Cửa xe mở nằm bên tay trái tôi. Tiếng gầm gừ hung tợn làm giảm dũng khí của tôi cách hiệu quả bằng hồi hộp của chúng, im lặng chờ đợi của chúng. được nửa đường tới chiếc Chevy, tôi nghĩ mình có thể đánh liều lao ào đến ghế sau, ném mình vào trong xe và đóng ập cửa lại đúng lúc kịp né cú táp. Rồi tôi nghe tiếng gầm gừ bị chặn lại bên tay trái. Đàn sói giờ lên tới bốn con, và con thứ tư lén tới chỗ tôi từ phía sau chiếc Chevy. Nó đứng giữa tôi và cánh cửa để mở. Cảm nhận chuyển động bên phải, tôi quay phắt chú ý trở lại bộ ba. Trong giây lát lơ là ngắn ngủi của tôi, bọn chúng rón rén đến gần tôi hơn. Ánh trăng nhuộm bạc dòng nước dãi lòng thòng nhểu ra từ miệng con đầu đàn. Bên trái tôi, tiếng gầm gừ khe khẽ của con sói thứ thư trở nên to hơn, so với thanh rền rĩ của chiếc xe. Nó là cái máy giết chóc mang sống, giờ để nhưng sẵn sàng sang số lớn, và nằm ngoài sức tưởng tượng của tôi, tôi thấy nó từ từ tiến về phía mình.