CHƯƠNG 18 Pico Mundo phải thị trấn nhà cửa cao chọc trời. Việc xây cất tòa nhà năm tầng cách đây lâu khiến các cư dân lâu đời hoa mắt chóng mặt với cảm giác ngoài mong đợi về việc dân chúng tụ tập, dẫn đến chuyện ban biên tập Thời báo hạt Maravilla sử dụng những cụm từ như “tai họa cao tầng”, và lo ngại về tương lai của “những hẻm núi vô tâm mang dáng vẻ lạnh lùng, tại đó người ta rơi xuống tình trạng ăn ngồi rồi ở chốn đông đúc và mặt trời bao giờ chiếu rọi trọn vẹn vào nơi ấy”. Mặt trời ở sa mạc Mojave bé rụt rè như ở Boston, càng phải ánh mặt trời đừng-lo-lắng-cứ-vui- tại vùng Caribbean. Mặt trời ở sa mạc Mojave là con quái vật dữ tợn, hung hăng, bị dọa nạt bởi hình bóng tòa nhà năm tầng. Tính cả tòa tháp và chóp nhọn nằm đỉnh tòa tháp nhà thờ Công giáo St. Bartholomew vượt xa công trình kiến trúc cao nhất thị trấn Pico Mundo. Đôi khi trong lúc chạng vạng, bên dưới mái ngói, những bức tường trát vữa trắng rực sáng như tấm kính trong ngọn đèn bão. Nửa tiếng trước lúc mặt trời lặn vào ngày thứ Ba trong tháng Tám, bầu trời phía tây chói lói sắc cam, từ từ chìm sang sắc đỏ, như thể mặt trời bị thương và đổ máu trong khi rút lui. Những bức tường trắng của nhà thờ lấy sắc màu từ bầu trời và như ngập trong ngọn lửa thiêng. Stormy đợi tôi phía trước nhà thờ. Nàng ngồi ở bậc thầm cùng, cạnh giỏ mây đựng thức ăn. Nàng đổi đồng phục trắng hồng của tiệm kem Burke & Bailey thành đôi xăng-đan, quần trắng và áo màu ngọc lam. Lúc nãy nàng đáng , còn bây giờ nàng đẹp mê hồn. Với mái tóc đen nhánh và đôi mắt đen huyền, có lẽ nàng là dâu của pharaon, bay vút đến tương lai từ vùng đất Ai Cập cổ đại. Trong mắt nàng là những điều thần bí cạnh tranh với những bí của tượng nhân sư và của tất cả các kim tự tháp và được khai quật lên từ cát sa mạc Sahara. Như đọc được ý nghĩ của tôi, nàng lên tiếng, “ để dòng kích thích tố chảy ra rồi kìa. Khóa chặt lại, chàng vỉ nướng. Đây là nhà thờ đó.” Tôi cầm giỏ mây lên và lúc nàng đứng dậy, tôi hôn lên má nàng. “Nhưng mà sao hiền quá vậy,” nàng . “Vì đó là nụ hôn của Ozzie ‘bé’.” “ ấy dễ thương. Em nghe có kẻ hất tung con bò của ấy.” “ cảnh tàn sát, tấm hình con bò Holstein bằng nhựa văng tung tóe khắp mọi nơi.” “Rồi còn gì nữa đây, kéo đám lại bắn tượng thần lùn ngoài bãi cỏ thành mảnh vụn ư?” “Thế giới điên ,” tôi đồng tình. Hai đứa tôi vào nhà thờ qua cổng chính. Tiền sảnh dẫn đến gian chính có ánh sáng dìu dịu và tạo cảm giác chào đón, được lót ván gỗ cây đào nhuộm sẫm với những lằn đỏ nổi bật. Thay vì vào gian chính, chúng tôi lập tức rẽ sang phải và tiến đến cánh cửa khóa trái, Stormy lôi ra chiếc chìa khóa và đưa cả hai vào đáy tháp chuông. Cha Sean Llewellyn, linh mục của nhà thờ St. Bart này là bác của Stormy. Ông ấy biết nàng ngọn tháp nên giao chìa khóa cho nàng. Khi cánh cửa nhàng đóng lại sau lưng chúng tôi, hương trầm thơm dịu tan biến và mùi nấm mốc khó chịu bốc lên. Cầu thang lên ngọn tháp tối mù. chệch chút nào, tôi tìm đúng môi nàng và trao nụ hôn vội nhưng ngọt ngào trước khi nàng bật đèn. “Hư quá!” “Ngon quá!” “ biết sao em thấy kỳ quá... chạm lưỡi nhau trong nhà thờ.” “ đúng ra mình đâu phải ở trong ‘chỗ đó’.” “Vậy em cho rằng đúng ra cái đó đâu phải là lưỡi.” “ chắc chắn có thuật ngữ y học chính xác hơn dành cho nó.” “Thuật ngữ y học dành cho có.” “Là cái gì?” tôi hỏi trong lúc cầm giỏ mây theo nàng lên cầu thang xoắn. “Chứng cương dương.” “Nghĩa là sao?” “ ngừng ham muốn.” “Em đâu muốn tìm bác sĩ chữa chuyện đó, phải ?” “ cần bác sĩ. Y học dân gian có thể chữa tốt.” “Vậy à? Làm sao?” “Thổi nhanh, mạnh phát vào vật gây ra vấn đề.” Tôi cau mày, “Em đâu phải Florence Nightingale[31]. Từ giờ bắt đầu đeo vỏ bọc bảo vệ.” đầu cầu thang xoắn ốc, cánh cửa mở ra tháp chuông. chùm ba chiếc chuông đồng, tất cả đều to nhưng có kích cỡ khác nhau, treo vào mái trần ngay chính giữa gian cao ngất này. lối hẹp bề ngang hơn mét bao bọc quanh chúng. Chuông đổ báo hiệu buổi cầu kinh chiều tối lúc bảy giờ và đến buổi lễ Mass[32] sáng mai chuông mới lại vang. Bên bức tường cao chỉ đến thắt lưng, ba bề tháp chuông thoáng đãng, bày ra trước mắt quang cảnh tuyệt đẹp của thị trấn Pico Mundo, thung lũng Maravilla và vùng đồi núi xa xa. Chúng tôi chọn hướng phía tây, vị trí tốt để chiêm ngưỡng cảnh hoàng hôn. Stormy lấy từ trong giỏ mây ra hộp nhựa Tupperware đầy ắp những quả óc chó lột vỏ sẵn mà nàng nướng chín và trộn thêm chút muối với đường. Nàng đút vào miệng tôi quả. Tuyệt cú mèo, cả quả óc chó lẫn việc được Stormy đút cho ăn. Tôi khui chai Merlot loại ngon và rót rượu, còn nàng cầm ly. Đây là lý do khi nãy tôi uống hết ly rượu Cabernet: quý Ozzie “bé” rất nhiều, nhưng tôi thích uống với Stormy hơn. phải tối nào hai đứa tối cũng ăn ngọn tháp này, tháng chỉ hai ba lần, khi Stormy cần ở chỗ cao bên thế giới. Và gần hơn với thiên đường. “Vì Ozzie,” Stormy cất giọng, nâng ly lên. “Hy vọng ngày tất cả những mất mát của ấy chấm dứt.” Tôi hỏi nàng vậy có ý gì vì tôi nghĩ mình hiểu. Bởi nỗi khổ sở về trọng lượng mà có nhiều thứ trong đời Ozzie biết và có lẽ bao giờ được nếm trải. Sắc cam vàng nằm gần đường chân trời phía tây, sắc cam đỏ giăng ngang vòm trời, bầu trời sẫm lại thành sắc tím ngay đầu. Phía đông, những ngôi sao đầu tiên của đêm chẳng mấy chốc bắt đầu xuất . “Trời trong quá,” Stormy . “Tối nay chúng mình thấy được Cassiopeia.” Nàng ám chỉ chòm sao phía bắc được đặt theo tên nhân vật trong thần thoại kinh điển, nhưng Cassiopeia cũng là tên mẹ nàng, người qua đời khi nàng mới lên bảy. Bố nàng cũng thiệt mạng trong vụ rơi máy bay đó. còn người thân nào ngoài người bác làm linh mục mà nàng được giao làm con nuôi. Trong vòng ba tháng chuyện nhận nuôi thất bại vì lý do chính đáng, nàng dứt khoát rằng nàng muốn có bố mẹ mới, chỉ cần trở lại của những người nàng thương và mất . Từ đó tới lúc tốt nghiệp phổ thông năm mười bảy tuổi, nàng lớn lên trong trại mồ côi. Sau đó, đến khi mười tám tuổi, nàng sống dưới quyền giám hộ hợp pháp của người bác. Là cháu của linh mục nên Stormy có mối quan hệ kỳ lạ với Chúa Trời. Trong quan hệ có chứa đựng oán giận, luôn luôn có chút ít, đôi khi có rất nhiều. “Còn Gã Nấm sao?” nàng hỏi. “Terrible Chester ưa gã.” “Terrible Chester có ưa ai đâu.” “ nghĩ thậm chí Chester còn sợ gã.” “Đây mới là chuyện lạ.” “Đó là quả lựu đạn giật chốt.” “Terrible Chester ư?” “. Gã Nấm. Tên là Bob Robertson. Lông phía sau dựng thẳng đứng lên hết, chưa bao giờ thấy vậy.” “Bob Robertson có nhiều lông phía sau lắm à?” “. Terrible Chester, ngay cả khi dọa nạt xua con chó béc giê giống Đức to kềnh cũng dựng hết lông lên như hôm nay.” “Kể em nghe với cưng. Sao tự nhiên Bob Robertson và Terrible Chester lại ở chung chỗ trong câu chuyện?” “Từ lúc đột nhập nhà gã, nghĩ có lẽ gã bám theo khắp nơi.” Đúng lúc thốt ra từ bám theo, chú ý của tôi dán chặt vào chuyển động trong nghĩa trang. Phía tây của nhà thờ là nghĩa trang đa phần mang phong cách cổ xưa: có những tấm biển bằng đồng gắn chặt vào đá granit nằm cỏ như hầu hết các nghĩa trang kiểu mới mà chỉ có bia mộ và đài kỷ niệm dựng thẳng đứng. Hàng rào với những song sắt mũi nhọn bao quanh khuôn viên rộng ba mẫu đó. Tuy có vài cây sồi vùng California già hơn trăm tuổi che mát vài chỗ trong khu an táng, nhưng phần lớn những lối xanh mướt đều nhìn thấy được mặt trời. Trong ánh chiều tà chói lóa của ngày thứ Ba hôm đó, bãi cỏ như có màu đồng, những bóng râm đen như than, bề mặt bóng láng của bia đá granit phản chiếu bầu trời đỏ rực, và Robertson đứng im phăng phắc hệt như các bia mộ khác trong nghĩa trang, nấp dưới tán cây mà đứng ngoài nơi dễ được nhìn thấy. Để ly rượu lên lan can, Stormy cúi xuống giỏ mây, “Em có món phô mai lý tưởng nhất cho loại rượu này.” Mặc dù Robertson đứng cúi đầu, chăm chú đọc chữ khắc bia, tôi vẫn phát hoảng khi thấy gã ở đây. Nhưng tình hình tệ hơn. Gã đến đây để tỏ lòng tôn kính những người khuất, phải vì bất cứ lý do nào trong sáng như vậy. Đầu ngửa ra sau, mắt dồn hết về nơi tôi đứng tại lan can tháp chuông, mức độ dữ dội khác thường của vẻ hứng thú nơi gã phóng ra hệt tia lửa điện. Qua khỏi mấy cây sồi và ra ngoài hàng rào sắt, tôi thấy những đoạn giao nhau của hai con đường nằm ở góc tây bắc nghĩa trang. Theo như tôi thấy, có chiếc xe cảnh sát cải trang hay chính thức nào đậu dọc đường. Cảnh sát trưởng Porter hứa cử người lập tức theo dõi ngôi nhà ở Camp’s End. Thế nhưng nếu Robertson chưa về nhà viên cảnh sát đó sao có thể giám sát được. “ muốn ăn bánh quy với phô mai ?” Stormy hỏi. Màu đỏ thắm lắng xuống nền trời mùa hè, gần đường chân trời hơn, nhuộm sắc cam tươi sáng cho vùng phía tây đến khi nó thu lại thành mảng. Chính gian dường như cũng được nhuộm đỏ và bóng tối của cây cối với bia mộ đen nay còn đen hơn. Robertson đến lúc chập tối. Tôi đặt ly rượu xuống cạnh ly của Stormy, “Chúng ta gặp vấn đề rồi.” “Bánh quy phải vấn đề,” Stormy , “chỉ là lựa chọn thôi.” Tiếng vỗ đập vang vọng thình lình khiến tôi giật mình. Quay lại nhìn ba con bồ câu sà xuống tháp chuông và tìm về tổ ấm đặt ở mấy thanh xà bên những cái chuông, tôi va vào Stormy khi nàng cầm hai hộp nhổm lên. Bánh quy và phô mai văng ra lối . “Odd, đổ rồi kìa!” Nàng khom người, để hộp sang bên rồi bắt đầu nhặt bánh quy và phô mai. Bên dưới, bãi cỏ tối dần lại, Robertson đứng ở tư thế hai cánh tay xuôi hai bên, kẻ to xác buông thõng vai. Nhận thấy tôi nhìn chăm chăm gã hệt như kiểu gã nhìn chăm chăm tôi, gã giơ cánh tay phải gần như thể chào kiểu đảng viên đảng quốc xã. “ có giúp em , hay cũng như bao đàn ông khác?” Stormy hỏi. Ban đầu tôi tưởng gã thụi nắm đấm về phía mình, nhưng mặc dù ánh sáng yếu và nhanh chóng mờ dần, chẳng mấy chốc tôi nhìn ra cử chỉ còn bất lịch hơn cả hành động tôi tưởng lúc đầu. Gã giơ ngón tay giữa lên, ấn mạnh về phía tôi những nhát nhanh gọn, tức tối. “Robertson ở đây,” tôi với nàng. “Ai?” “Gã Nấm.” Bất chợt gã di chuyển, bước giữa những tấm bia, hướng đến nhà thờ. “Tốt hơn chúng mình quên bữa tối ,” tôi lên tiếng, kéo Stormy đứng dậy với ý định lôi nàng ra khỏi tháp chuông. “ xuống khỏi đây .” Cưỡng lại tôi, nàng quay ra lan can, “Em để ai hù dọa được em hết.” “Ồ, có đó. Nếu bọn chúng điên lắm rồi.” “Gã đâu? Em thấy gã.” Chồm ra, nhìn kỹ bên dưới, tôi cũng thấy gã. Hình như gã tới phía trước hoặc phía sau nhà thờ và ngoặt qua khúc quanh. “Cánh cửa dưới chân cầu thang,” tôi , “nó có tự động khóa lại sau khi hai đứa mình vào tháp ?” “Em biết. Em nghĩ là ?” Tôi thích ý nghĩ bị mắc kẹt đỉnh tháp, cho dù chúng tôi có thể hét to cầu cứu và chắc chắn có người nghe được. Cánh cửa tháp chuông khóa và tôi nghi ngờ chuyện cả hai đứa tôi có thể đè cửa chặn gã nếu trong cơn cuồng nộ, gã nhất quyết mở nó ra cho bằng được. Túm lấy tay nàng, lôi kéo để cho nàng thấy tình cảnh khẩn cấp, tôi hối hả bước dọc lối hẹp, bước qua mấy miếng phô mai và bánh quy, vòng quanh những cái chuông. “Ra khỏi đây .” “Cái giỏ mây, bữa tối của chúng ta...” “Bỏ đó . Mình lấy nó sau, ngày mai.” Chúng tôi để đèn tháp bật sáng. Song cầu thang xoắn ốc có tường bao quanh nên tôi nhìn thấy hết đường xuống mà chỉ thấy đến chỗ những bức tường uốn quanh nối tiếp cho phép. Dưới kia mọi thứ đều im ắng. “Nhanh lên,” tôi giục Stormy, và cần nắm tay vịn, tôi trước nàng xuống những bậc thang dốc, bước quá nhanh đến mức thể cẩn thận nhìn đường. CHƯƠNG 19 xuống, xuống, vòng qua rồi xuống, tôi dẫn đường và nàng theo sau. Chúng tôi gây ra quá nhiều tiếng ồn những bậc thang lát gạch Mehico, như vậy chắc chắn thể nghe thấy Robertson nếu gã leo lên đây gặp chúng tôi. Giữa chừng tôi băn khoăn liệu gấp rút này có phải phản ứng thái quá . Rồi tôi nhớ đến nắm đấm đưa cao, ngón tay giơ lên, những bức ảnh trừng mắt nhìn trong phòng làm việc của gã. Tôi phóng xuống nhanh hơn, vòng qua rồi vòng qua, thể loại bỏ khỏi đầu óc hình ảnh gã đứng đợi bên dưới với con dao phay mà tôi có thể lao mình xuyên vào nó trước khi kịp đứng lại. Xuống đến chân cầu thang mà đụng độ gã, hai đứa tôi thấy cửa dưới này khóa. Tôi thận trọng mở cửa ra. Trái với ý nghĩ của tôi, gã đợi chúng tôi trong tiền sảnh tỏa sáng dịu. Khi xuống cầu thang, tôi buông tay Stormy ra. Giờ tôi nắm lại để giữ nàng gần bên. Mở phần giữa của cánh cửa ba gian, tôi thấy Robertson từ vỉa hè leo lên những bậc tam cấp của nhà thờ. Tuy đua nhanh về phía tôi nhưng gã phóng đến với trạng thái hùng hổ gì ngăn được như chiếc xe tăng băng qua chiến trường. Trong ánh sáng đỏ thẫm như trong sách Khải huyền, tôi thấy nụ cười lúc trước làm sởn gai ốc nhưng còn đáng tin của gã lụi tắt. Đôi mắt xám nhợt nhạt vay mượn sắc đỏ như máu của hoàng hôn và khuôn mặt gã méo mó thành nút thắt của cơn phẫn nộ đằng đằng sát khí. Chiếc Mustang của Terri đậu ngoài lề đường. Tôi thể ra tới ngoài xe mà chạm mặt Robertson. Tôi chiến đấu khi cần chiến đấu, chống lại những địch thủ có thể khiến tôi hao mòn sức lực, nếu tôi buộc phải làm vậy. Nhưng cơ thể tôi xung đột với kế sách đầu tiên và cả vấn đề về nguyên tắc sai lầm. Tôi dương dương tự đắc mà tôi thích khuôn mặt mình như nó vốn thế. Tôi càng thích nó bị đập. Robertson cao lớn hơn tôi nhưng ẻo lả. Giả sử cơn giận của gã là của người đàn ông bình thường, được bơm căng lên nhiều nhờ rượu bia, tôi đối đầu và tự tin hạ gục gã. Thế nhưng đây lại là kẻ mất trí, đối tượng mê hoặc bọn ông kẹ, kẻ tôn thờ đám sát thủ liên hoàn và thảm sát hàng loạt. Tôi buộc phải nghĩ gã có mang theo súng, dao và đến giữa cuộc ẩu đả, biết đâu gã lại cắn xé như chó. Chắc Stormy cố đá đít gã, phản ứng mấy xa lạ với nàng, nhưng tôi cho nàng lựa chọn đó. Từ lối vào quay vô, tôi vội nắm tay nàng và cố kéo nàng qua trong những cánh cửa nằm giữa đại sảnh với gian giữa của giáo đường. Trong nhà thờ vắng vẻ, những dãy đèn thấp soi rọi lối chính giữa. Cây thánh giá khổng lồ phía sau bệ thờ rực sáng trong ánh đèn dịu từ tỏa xuống. Lửa lung linh trong những chiếc ly thủy tinh đỏ thẫm đặt giá nến tế lễ. Những đốm lửa cùng màu hoàng hôn đỏ nhạt dần phía sau dãy cửa sổ kính màu bờ tường phía tây thể đẩy lùi tụ tập của bóng tối lấp đầy hàng ghế và lối hai bên. Chúng tôi vội vã chạy xuống lối chính giữa, chờ tên Robertson lên cơn như trâu điên từ ngoài tiền sảnh xông qua trong những cánh cửa. Đến chỗ xưng tội mà nghe thấy gì, hai đứa tôi dừng chân quay lại. Theo những gì tôi thấy, Robertson chưa đến. Nếu vào gian giữa, chắc chắn gã ngay sau chúng tôi, dọc theo lối chính giữa. Tuy lập luận trái với linh cảm, và có bằng chứng xác nhận nhưng tôi vẫn ngỡ rằng gã ở cùng chúng tôi. Cánh tay sởn gai ốc khiến tôi nghĩ mình trở thành loài kêu quàng quạc, chân có màng và người bao phủ toàn lông. Bản năng của Stormy cũng giống hệt tôi. Quan sát bóng tối nhân rộng ra hàng ghế, lối và dãy cột, nàng thào, “ ở gần hơn nghĩ. rất gần.” Tôi đẩy mở cánh cửa tại chỗ xưng tội. Chúng tôi bước vào, di chuyển hầu như hoàn toàn lặng thinh, muốn át bất cứ thanh nào của việc Robertson tiến đến gần. Khi chúng tôi qua khỏi vị trí của đội hợp ca và lên hành lang nhà thờ, hướng đến bệ thờ cao, tôi bớt liếc nhìn ra sau mà tiến tới thận trọng hơn. hiểu sao, trái ngược với cái đầu, trái tim tôi mách bảo nguy hiểm nằm phía trước. Kẻ theo đuổi kia thể lén lút xung quanh mà chúng tôi nhìn thấy. Vả lại, lý do gì gã làm thế thay vì tấn công trực tiếp. Tuy thế, với mỗi bước , căng thẳng gia tăng trong những sợi cơ sau gáy đến khi chúng cứng đờ như dây cót đồng hồ. Thoáng thấy chuyển động lướt qua bệ thờ, tôi giật bắn người nhìn về phía đó, kéo Stormy gần kề hơn. Tay nàng bấu tay tôi chặt hơn lúc nãy. Tượng Chúa bằng đồng đóng đinh cây thánh giá xê dịch, như thể kim loại biến đổi cách thần kỳ thành da thịt, như thể Ngài rời khỏi cây thánh giá và bước xuống tiếp tục kiếp cứu thế trần tục. con bướm đêm lớn mang đôi cánh trang trí kiểu vỏ sò bay ra khỏi mặt kính nóng rực của ngọn đèn gắn phía . Ảo giác về chuyển động do cái bóng dập dờn được phóng đại của con côn trùng kia tạo nên bức tượng bằng đồng lập tức được xua tan. Chìa khóa mở cánh cửa dẫn lên tháp của Stormy cũng mở được cánh cửa phía sau thánh đường. Trong đó là phòng để đồ thờ, nơi linh mục vào để chuẩn bị sẵn sàng trước mỗi buổi lễ Mass. Tôi ngoái nhìn thánh đường, gian giữa. Lặng như tờ. khí yên tĩnh trừ cái bóng chấp chới của con bướm đêm. Sau khi dùng và trả lại chìa khóa cho Stormy, tôi run run đẩy cánh cửa lợp ván theo hướng ngược vào trong. Nỗi sợ hãi khác thường này hề có nền tảng nào dự lí trí hết. Robertson đâu phải ảo thuật gia có khả năng làm trò xuất bên trong căn phòng bị khóa. Vậy mà tim tôi chơi trò đập-bình-bịch-và-run-lẩy-bẩy với xương sườn. Khi sờ soạng tìm công tắc bật đèn, tay tôi bị ghim dính vào tường bởi dao găm hay cái rìu. Ngọn đèn đầu để lộ ra căn phòng đơn sơ chứ phải tên tâm thần to xác có bộ tóc vàng như ụ đất bị xới tung. Bên trái đặt ghế cầu kinh, nơi linh mục quỳ cầu nguyện riêng trước khi đọc kinh trong lễ Mass. Bên phải là dãy tủ đựng chén thánh, lễ phục và ghế dài. Stormy đóng cửa thánh đường sau lưng hai đứa và gài chốt cửa. Chúng tôi nhanh chóng băng qua căn phòng đến cánh cửa dẫn ra khỏi phòng để đồ thờ. Tôi biết ngoài đó là khu đất phía đông có bia mộ và con đường lát đá dẫn đến nhà của linh mục, nơi bác Stormy sống. Cánh cửa này cũng được khóa. Từ bên trong phòng để đồ thờ có thể mở khóa mà cần đến chìa. Tôi nắm chặt chốt cửa... và do dự. Biết đâu chúng tôi nghe thấy Robertson từ tiền sảnh tiến vào gian giữa chỉ vì lý do đơn giản, gã hề vào cổng chính nhà thờ sau khi tôi thoáng thấy gã leo lên mấy bậc tam cấp. Và biết đâu, đoán được chúng tôi cố chuồn ra từ phía sau nhà thờ nên gã đánh vòng quanh nhà thờ, chờ chúng tôi bên ngoài phòng để đồ thờ. Điều này lý giải tại sao tôi có cảm giác chúng tôi hướng đến nguy hiểm hơn là lùi xa nó. “Sao vậy?” Stormy hỏi. Tôi suỵt nàng im lặng, sai lầm trầm trọng trong mọi tình huống, trừ lúc này, và nghe ngóng ở khe hở giữa cánh cửa với thanh dọc. thanh cực khẽ của làn gió ấm khiến tai tôi nhột nhột những còn tiếng gì khác ngoài kia. Tôi chờ đợi. Tôi lắng nghe. Tôi càng lúc càng thêm băn khoăn. Bước lùi xa cánh cửa dẫn ra ngoài, tôi thầm với Stormy, “Trở lại theo đường dẫn mình đến đây.” Hai đứa tôi quay lại cánh cửa giữa phòng để đồ thờ với thánh đường mà nàng khóa khi chúng tôi rời . Nhưng tôi lại do dự khi đặt tay lên chốt. Áp tai lên khe hở giữa cánh cửa với thanh dọc, tôi lắng nghe tình hình trong nhà thờ. cơn gió trêu đùa nào xoáy vào lỗ tai, cũng thanh rón rén mách nước nào tới tai tôi. Cả hai cánh cửa của phòng để đồ thờ đều được khóa từ bên trong. Để tóm được chúng tôi, Robertson cần chìa khóa, thứ gã có. “Chúng mình đợi ở đây đến buổi lễ Mass sáng mai đâu,” Stormy lên tiếng như thể nàng có khả năng nắm hết những suy nghĩ của tôi dễ dàng như đọc tài liệu máy tính. Điện thoại di động của tôi kẹp ở thắt lưng. Tôi có thể dùng nó gọi cho cảnh sát trưởng Porter và trình bày tình hình với ông ấy. Song có khả năng Bob Robertson mất tinh thần khi suy nghĩ lại về mức độ sáng suốt của việc tấn công tôi ở nơi công cộng như nhà thờ đây, cho dù lúc này con chiên hay nhân chứng nào có mặt. Nguôi bớt cơn giận lồng lộn, có thể gã bỏ . Nếu cảnh sát trưởng phái xe tuần tra tới nhà thờ St. Bart hay đích thân ông đến mà tìm thấy tên điên hớn hở nào, uy tín của tôi lung lay. Qua nhiều năm, tôi gửi gắm thiện ý của mình vào chỗ ông Wyatt Porter đủ để có thể rút lại hai lần nhưng tôi thích làm vậy chút nào. Bản chất con người muốn tin vào tài năng phi thường của ảo thuật gia, nhưng họ cũng trở mặt và khinh thường khi ta phạm lỗi nhặt làm lộ màn gian lận. Những ai ngồi dưới hàng ghế khán giả cảm thấy ngượng ngùng khi để bị qua mặt quá dễ dàng, và họ đổ thừa cả tin của mình là do lỗi của người trình diễn. Tuy tôi có đôi tay khéo léo để làm trò ảo thuật, tuy những gì tôi ra đều là mà năng lực siêu phàm muốn lờ mờ, nhưng tôi chỉ hiểu tình trạng dễ bị công kích của ảo thuật gia mà còn nắm mối nguy hiểm khi trở thành chàng hét toáng báo động về chó sói, hay trong trường hợp này là chàng hét toáng báo động về Gã Nấm. Hầu hết mọi người cực kỳ khao khát muốn tin rằng họ là phần trong bí to lớn, rằng được tạo ra là việc vinh dự và vẻ vang, đơn thuần là kết quả của việc va đụng ngẫu nhiên giữa hai phía. Thế mà mỗi lần chỉ mới có lý do để nghi ngờ, con sâu trong trái táo nơi quả tim khiến họ làm ngơ cả ngàn bằng chứng về phép lạ, rồi sau đó họ như bợm rượu lên cơn khát hoài nghi, và họ gặm nhấm nỗi tuyệt vọng như kẻ đói rã rời ngấu nghiến ổ bánh mì. Là người kỳ lạ, tôi sợi dây cao vợi, cao đến mức thể bước hụt chân mà có thể sống sót. Cảnh sát trưởng Porter tốt bụng nhưng ông là người bình thường. Ông trì hoãn việc trở mặt với tôi nhưng nếu hơn lần, tôi khiến ông cảm thấy ông ngốc nghếch và khờ dại chuyện trở mặt chắc chắn xảy ra. Tôi có thể dùng điện thoại di động gọi cho cha Sean, bác của Stormy, trong nhà của linh mục. Ông ấy đến cứu giúp chúng tôi chút chậm trễ và đặt quá nhiều câu hỏi khó xử. Song Robertson là quái thú đội lốt người chứ thuộc dòng dõi siêu phàm. Nếu nấp trong khu đất nhà thờ, gã giảm bớt tính hung tàn bởi nhìn thấy bóng dáng người theo đạo hay cây thánh giá giơ lên. đưa Stormy vào tình cảnh ngặt nghèo, tôi lập tức chùn bước trước ý nghĩ gây nguy hiểm cho cả bác của nàng. Hai cánh cửa của phòng để đồ thờ. cửa dẫn ra ngoài khu đất nhà thờ. cửa dẫn vào trong thánh đường. nghe thấy gì ở cả hai cửa, tôi phải nhờ đến trực giác. Tôi chọn cánh cửa trở vào thánh đường. Hình như trực giác nhanh nhạy của Stormy chưa ngưng nghỉ khi nào. Nàng đặt tay lên tay tôi khi tôi nắm chặt khóa cửa. Mắt chúng tôi gặp nhau trong chốc lát. Sau đó hai đứa quay đầu nhìn chằm chằm vào cánh cửa. Đó là lúc tấm thẻ chúng tôi rút ra từ chiếc máy bói toán trong lễ hội và vết bớt xứng nhau của hai đứa có ý nghĩa thể chối cãi. trao đổi lời nào, chúng tôi đến kế hoạch mà cả hai đều hiểu. Tôi vẫn đứng ở cửa dẫn vào thánh đường. Stormy quay lại cánh cửa dẫn ra khu đất. Nếu tôi mở cửa này, Robertson nhào vào tấn công, Stormy tung cửa kia lao ra ngoài kêu la cầu cứu. Tôi cố gắng chạy theo nàng, và sống sót.
CHƯƠNG 20 Khoảnh khắc trong phòng để đồ thờ tiết ra bản chất toàn bộ cuộc sống của tôi: luôn luôn đứng giữa hai cánh cửa, đứng giữa cuộc đời với người sống và cuộc đời với người chết, giữa siêu việt và nỗi khiếp đảm. Bên kia căn phòng, Stormy gật đầu. ghế cầu kinh, quyển kinh chờ đợi vị linh mục quỳ xuống cầu nguyện. Chắc chắn những chai rượu ban thánh thể được cất ở trong các dãy tủ. Tôi có thể uống thứ nước giúp củng cố tinh thần đôi chút đó. Tôi dựa sát cửa dẫn vào thánh đường để chống đỡ cánh cửa. Khi mở khóa, chốt cửa gây ra tiếng động khẽ làm liên tưởng đến dao cạo mài dây da. Nếu Robertson sẵn sàng xộc vào tôi, chắc chắn gã phản công với việc chốt cài rời khỏi ổ khóa gắn khung cửa. Tất nhiên gã ít nóng vội và nhiều xảo quyệt hơn mức biểu lộ khi đứng trong nghĩa trang, vung ngón tay về phía chúng tôi. Chắc gã nghi ngờ tôi dùng thân người chèn cửa đóng và tôi bật chốt cửa về vị trí đúng lúc gã cố xông vào phòng để đồ thờ. Điên khùng nhưng dù sao gã cũng có trực giác của riêng mình. Gã Bob Robertson để gian bếp luộm thuộm với chén đĩa bẩn, vỏ chuối và vụn bánh vương vãi, thể là nhà chiến lược khôn ngoan. Song gã Robertson giữ phòng làm việc ngăn nắp và lưu trữ những tài liệu chi tiết trong các ngăn tủ đầy khiếp đảm lại khác hẳn kẻ sở hữu căn phòng khách chứa toàn đống tạp chí bậy bạ và mấy quyển tiểu thuyết đáng đọc. Tôi thể biết gã Bob Robertson nào đứng bên kia cánh cửa vào lúc này. Khi tôi liếc nhìn Stormy, nàng làm cử chỉ vừa tỏ ý “làm tiếp ” vừa có nghĩa “đồ dở hơi”. Dựa người vào cửa với quả quyết đổi, tôi xoay hẳn quả đấm qua trái. Nó kêu cót két. Tôi kinh ngạc nếu nó phát ra tiếng. Tôi bỏ người ra và hé cửa nửa phân... phân... rồi mở hẳn. Nếu Robertson đứng chờ tại trong hai lối dẫn vào phòng để đồ thờ gã ở ngoài khu đất nhà thờ. Đứng trong sắc đỏ cuối ngày ngả màu hung hung, chắc hẳn trông gã như thứ thuộc về bên dưới tấm bia bằng đá granit. Stormy bước khỏi chỗ đứng. Chúng tôi nhanh chóng cùng nhau trở lại thánh đường từ nơi chỉ mới hai phút trước, hai đứa còn rất hăm hở muốn lẩn trốn. Con bướm đêm nhảy múa giữa ngọn đèn và lần nữa, Chúa như trở mình cây thánh giá. Hương trầm còn sót lại thơm dịu như lúc nãy mà bốc mùi nồng chưa từng có, những ngọn nến tế lễ rộn lên vẻ vội vã của nhiều đốm lửa tụ lại sắp bùng lên. xuống hành lang nhà thờ, qua khỏi vị trí của đội hợp ca, băng qua cánh cửa ở chỗ xưng tội, tôi nửa muốn nửa muốn Robertson nhảy xổ vào chúng tôi từ chỗ nấp ngờ tới. Gã trở thành đối tượng mang đầy vẻ đe dọa trong tâm trí tôi và tôi ngạc nhiên nếu gã buông mình xuống từ mái vòm, thình lình có thêm đôi cánh, ác quỷ dữ dằn mang cái chết trong từng hơi thở. ở trong lối chính tiếng kính rơi vỡ loảng xoảng cực lớn tống khứ tĩnh lặng của nhà thờ sau lưng chúng tôi. Hai đứa xoay người, quan sát nhưng thấy mảnh vụn nào. Phòng để đồ thờ có cửa sổ, và có kính gắn cánh cửa dẫn ra khu đất. Tuy nhiên căn phòng đó, nơi chúng tôi vừa rời khỏi, dường như là điểm xuất phát của những thanh phá hoại kia. Chúng lại vang lên, to hơn lúc trước. Tôi nghe tiếng ghế dài đâm sầm vào tủ đựng lễ phục, tiếng những chai rượu bị đập bể, tiếng cốc rượu lễ bằng bạc và những chén thánh khác dội ra khỏi tường và các dãy tủ, vọng lại tiếng kim loại khua lách cách. Trong lúc gấp rút tẩu thoát, chúng tôi còn để đèn bật sáng trong căn phòng đó. Giờ đây, qua cánh cửa để mở, có thể gián tiếp nhìn thấy chuyển động: mớ hỗn độn những cái bóng nhấp nhô và những tia sáng lờ mờ. Tôi biết chuyện gì xảy ra và tôi có ý định quay lại phòng để đồ thờ để nhìn ngó. Nắm lại bàn tay của Stormy, tôi cùng nàng chạy dọc theo lối chính giữa, suốt chiều dài gian giữa, qua cánh cửa ra tiền sảnh. Ra khỏi nhà thờ, xuống bậc tam cấp, chúng tôi chạy trốn trong ánh chiều tà gần như đổ máu đến chết, chỉ còn chút ít sắc đỏ, và bắt đầu kéo tấm vải tím rịm lên bao phủ đường phố thị trấn Pico Mundo. Trong giây lát tôi thể đút chiếc chìa khóa run rẩy vào công tắc khởi động xe Mustang. Stormy giục tôi nhanh lên, cứ như việc “nhanh lên” phải là ý định của tôi, cuối cùng chìa khóa cũng lọt vào khe và động cơ lại rền vang hoạt động. Để lại vết cao su khá trước nhà thờ St. Bart, chúng tôi phóng lốp bánh xe bốc khói qua khu nhà rưỡi, nhanh đến mức gần như dịch chuyển tức thời, sau đó tôi mới lấy hơi để , “Gọi cảnh sát trưởng.” Nàng có điện thoại di động riêng và nàng nhấn số điện thoại nhà của ông Wyatt Porter mà tôi cho. Nàng chờ đợi điện thoại reo và cất giọng, “Chào bác, con Stormy đây,” lắng nghe rồi , “Dạ, nó nghe như dự báo thời tiết phải ạ. Odd cần chuyện với bác.” Tôi cầm lấy điện thoại và tuôn tràng, “Bác ơi, nếu bác cho xe đến nhà thờ St. Bart nhanh, bác có thể tóm cả gã Robertson đập phá phòng để đồ thờ, mà chỉ phòng để đồ thờ, có lẽ toàn bộ nhà thờ.” Ông ấy bảo tôi giữ máy và gọi cú điện thoại bên đường dây khác. Cách xa nhà thờ St. Bartholomew ba khu nhà, tôi tấp vào xe Mustang vào quán thức ăn nhanh hương vị Mêxicô. “Ăn tối nhé?” tôi hỏi Stormy. “Sau tất cả mọi chuyện trong nhà thờ ư?” Tôi nhún vai, “Toàn bộ phần còn lại của cuộc sống chúng ta diễn ra sau tất cả mọi chuyện trong nhà thờ. Về phía , định ăn trở lại, và sớm chừng nào tốt chừng ấy.” “Nó ngang bằng bữa tiệc tháp của em đâu.” “Chứ sao?” “Em đói chết được.” Cầm điện thoại áp vào tai và lái xe tay như thể chuyện đó vẫn hợp pháp, tôi ngoặt chiếc Mustang vào hàng xe cộ chờ chạy lên ô cửa bán hàng. Khi cảnh sát trưởng Porter trở lại, ông hỏi, “Tại sao gã cố ý phá hoại nhà thờ St. Bart?” “ có manh mối, bác à. Gã cố bẫy con và Stormy trong tháp chuông nhà thờ...” “Các con làm gì trong tháp chuông?” “Dạ ăn ngoài trời.” “Bác cho rằng điều đó có ý nghĩa với con.” “Dạ phải. Thú vị lắm. Chúng con dùng bữa tối đó mỗi tháng vài lần.” “Con trai à, bác muốn lúc nào đó phải bắt hai đứa vì tội ăn tối cột cờ trụ sở tòa án đâu đấy.” “Có lẽ chỉ món khai vị thôi bác, bao giờ ăn tối cả.” “Nếu muốn ghé qua đây, hai bác vẫn có thể mời các con món thịt nướng. Dẫn theo Elvis luôn.” “Con cho ông ấy xuống xe ở nhà thờ Baptist rồi bác. Con với Stormy, xếp hàng mua bánh nhân thịt chiên giòn, nhưng dù sao con cũng cảm ơn bác.” “Kể cho bác nghe về tên Robertson . Bác cử người đến canh chừng ngôi nhà của gã ở Camp’s End, nhưng gã chưa về nhà.” Tôi , “Gã ở nghĩa trang bên dưới, ngước nhìn chúng con tháp chuông. Gã giơ tay khiếm nhã với chúng con rồi còn nhấn nhá nhiều lần và sau đó đuổi theo chúng con.” “Con có nghĩ gã biết con vào nhà gã ?” cảnh sát trưởng hỏi. “Nếu gã chưa hề về nhà từ lúc con vào đó con hiểu làm cách nào gã biết được, nhưng chắc hẳn gã biết. Chờ con chút nhé bác.” Chúng tôi đến tấm bảng thực đơn. “Bánh nhân thịt cá kiếm chiên giòn lấy nhiều salsa[33], bắp nướng và ly coca lớn,” tôi với con lừa đội mũ rộng vành đeo miệng micro để gọi thức ăn. Tôi nhìn sang Stormy. Nàng gật đầu, “Lấy mỗi thứ hai phần.” “Con ở quán Mexicali Rose hả?” cảnh sát trưởng hỏi. “Dạ phải.” “Họ có món churro[34] ngon tuyệt. Con nên thử xem.” Tôi nghe lời khuyên của ông và đặt hai phần với con lừa, như khi nãy, nó lên tiếng cảm ơn bằng giọng thiếu nữ. Khi dòng xe nhích lên, tôi , “Lúc tụi con thoát khỏi tên Robertson trong nhà thờ, chắc hẳn gã giận điên lên. Nhưng tại sao gã quyết định trút giận lên tòa nhà con biết.” “Hai chiếc xe đường đến St. Bart, còi hụ. Thậm chí giờ có lẽ xe đến nơi. Nhưng hành động phá hoại, nó đạt tới nỗi kinh hoàng mà con gã phạm phải.” “Dạ đúng. Chưa xong đâu. Và đầy ba tiếng nữa sang ngày mười lăm tháng Tám.” “Nếu người của bác có thể tống gã vào tù qua đêm vì tội phá hoại chúng ta có cớ xen vào cuộc sống của gã. Có thể điều đó cho ta cơ hội tìm ra việc to tát hơn mà gã định làm.” Sau khi chúc cảnh sát trưởng may mắn, tôi nhấn nút tắt và đưa lại điện thoại cho Stormy. Tôi nhìn đồng hồ. Nửa đêm, và ngày mười lăm tháng Tám, hệt cơn sóng thần, cao lớn như tòa nhà, đuổi theo chúng tôi với sức mạnh thầm lặng nhưng chết người. CHƯƠNG 21 Trong lúc chờ nghe cảnh sát trưởng báo tin tóm cổ tên Robertson vì tội phá hoại, Stormy và tôi ăn tối trong bãi đậu xe của quán Mexicali Rose, kéo cửa sổ xe Mustang xuống, hy vọng nhận được chút gió. Thức ăn tuyệt cú mèo nhưng khí ban đêm nóng bức bốc mùi khói thải. “Vậy là đột nhập vào nhà Gã Nấm,” Stormy lên tiếng. “ hề đập vỡ mảnh kính nào. Chỉ dùng bằng lái của thôi.” “Gã có cất mấy cái đầu kinh dị trong tủ lạnh ?” “ mở tủ lạnh.” “Vậy định tìm thấy mấy cái đầu kinh dị ở đâu?” “ tìm cái đầu nào hết.” Nàng , “Nụ cười làm sởn gai ốc của gã, cặp mắt xám quái dị kia... Thứ đầu tiên em tìm kiếm là bộ sưu tập những đồ vật có lỗ tai. Món bánh thịt chiên giòn này ngon quá.” Tôi đồng tình, “Và thích tất cả màu sắc trong nước sốt salsa. Ớt xanh, ớt vàng, cà chua đỏ cắt lát, mấy lát hành tím... nhìn như pháo hoa. Em nên bắt chước làm món salsa theo kiểu này.” “Gì hả, bị lậm Martha Stewart rồi à, giờ thành thây ma chuyên về phong cách sống ư? cho em nghe tìm ra cái gì nếu thấy mấy cái đầu?” Tôi kể cho nàng nghe về căn phòng tối đen. Liếm mảnh vụn bắp nướng dính những ngón tay thuôn dài, nàng , “Nghe em này .” “ vểnh tai nghe đây.” “ vểnh tai nhưng tập trung. Giờ vểnh tai to ra mà nghe này: Đừng vào căn phòng tối đen đó lần nữa.” “Nó còn tồn tại nữa.” “Thậm chí cũng đừng tìm kiếm, hy vọng nó trở lại.” “Chuyện đó thậm chí chưa bao giờ xẹt qua đầu .” “Đúng thế nhé,” nàng . “Đúng thế,” tôi thừa nhận, “Ý là, muốn hiểu nó, nó là gì, hoạt động thế nào.” Để nhấn mạnh phản đối, nàng chĩa miếng bắp về hướng tôi, “Nó là cánh cổng xuống địa ngục, và được có ý định lân la đến đó.” “ nghĩ nó là cánh cổng xuống địa ngục.” “Vậy nó là gì?” “ biết.” “Nó là cánh cổng xuống địa ngục chứ còn gì nữa. Nếu tìm, tìm thấy nó và bị cuốn bay vào địa ngục, em xuống dưới đó tìm và kéo mông ra khỏi đống lửa đâu.” “Cảnh báo của em đáng ghi nhớ.” “Lấy chàng thấy được người chết và đuổi theo họ mỗi ngày đủ khó khăn rồi, ta mà còn săn lùng tìm cánh cổng xuống địa ngục khó khăn quá sức chịu đựng.” “ đuổi theo họ,” tôi lên tiếng, “và chúng mình lấy nhau hồi nào?” “Chúng mình lấy nhau,” nàng và thanh toán xong miếng bắp cuối cùng. hơn lần tôi hỏi cưới nàng. Tuy cả hai đều nhất trí rằng chúng tôi là tri kỷ của nhau và bên nhau mãi mãi, nhưng nàng luôn lảng tránh lời cầu hôn của tôi với những câu như, Em điên cuồng, sâu sắc, Odd à, mãnh liệt đến mức em chặt phăng bàn tay phải của mình vì nếu điều đó mang ý nghĩa như minh chứng cho tình . Nhưng về chuyện kết hôn, hãy cứ để từ từ nhé. Có thể thông cảm việc vài miếng bánh thịt cá chiên giòn rơi khỏi miệng tôi khi tôi nghe thấy chuyện chúng tôi thề nguyện với nhau. Tôi bóc mấy miếng rơi áo cho vào miệng, lợi dụng khi đó để suy nghĩ dữ dội trước khi thốt ra, “Vậy... ý em là em chấp nhận lời cầu hôn của ư?” “Ngốc ạ, em chấp nhận nó biết bao lâu rồi.” Trước vẻ hoang mang của tôi, nàng , “Ồ, giống câu thông lệ ‘Vâng, , em là của ’ mà em chấp nhận bằng rất nhiều từ ngữ.” “ biết ‘cứ để từ từ’ lại có nghĩa là ‘vâng’ đấy.” Phủi vụn cá ra khỏi áo tôi, nàng bảo, “ phải học cách lắng nghe chỉ bằng lỗ tai.” “Em gợi ý lắng nghe bằng lỗ nào?” “Đừng có thô lỗ. Như vậy xứng với đâu. Ý em là, đôi lúc phải lắng nghe bằng con tim.” “ lắng nghe bằng con tim rất lâu rồi, đến mức phải định kỳ lấy ráy tai ra khỏi động mạch ở tim.” “Ăn churro ?” nàng hỏi, mở túi bánh màu trắng và lập tức mùi hương ngào ngạt như bánh quế thơm ngon tỏa khắp xe. Tôi , “Sao em có thể nghĩ đến món tráng miệng vào thời điểm như lúc này?” “Ý là thời điểm bữa tối hả?” “Ý là thời điểm về chuyện kết hôn.” Tim tôi đập nhanh như thể tôi rượt đuổi hoặc bị rượt đuổi, nhưng cũng may màn rượt đuổi của ngày hôm nay kết thúc. “Nghe này, Stormy, nếu em có ý đó làm, việc to lớn để cải thiện tình hình tài chính của . nghỉ làm đầu bếp phục vụ thức ăn nhanh ở Quán Vỉ nướng và cũng đến lốp xe. thứ gì đó to lớn hơn.” Nét mặt nàng chứa đựng vẻ thích thú nặng đến mức trọng lượng của nó kéo đầu nàng nghiêng qua bên. Nhướng mắt nhìn tôi, nàng , “Vậy theo tầm nhìn của cái gì to hơn cả lốp xe?” Tôi nghĩ ngợi lát, “Giày.” “Giày loại nào?” “Đủ loại. Cửa hàng bán lẻ giày.” Nàng có vẻ nghi ngờ, “Nó to lớn hơn lốp xe ư?” “Chắc rồi. Bao lâu em mua lốp xe lần? Cả năm có khi còn được đến lần. Và em chỉ cần duy nhất bộ lốp cho mỗi chiếc xe. Nhưng người ta cần nhiều hơn đôi giày. Họ cần đủ loại. Giày với đầm nâu, giày với đầm đen, giày chạy bộ, giày xăng-đan...” “ đâu như thế. Tất cả những gì có là ba đôi giày đế mềm y hệt nhau.” “Đúng, nhưng giống người khác.” “ hề giống,” nàng đồng tình. “Còn chuyện khác nữa là đâu phải tất cả đàn ông, phụ nữ, trẻ con đều có xe hơi, nhưng ai cũng có hai chân. Hoặc gần như là vậy. gia đình năm người có thể có hai chiếc xe hơi nhưng họ có đến mười bàn chân.” “Có rất nhiều lý do để , Odd, nhưng có lẽ đây là điều em thích nhất ở .” Stormy còn nghiêng đầu hay nhướng mắt. Nàng nhìn thẳng vào mắt tôi. Đôi mắt nàng như dãy ngân hà: sâu thẳm như màn đêm giữa bất kỳ hai vì sao nào trời. Vẻ mặt nàng dịu dàng đầy trìu mến. Nàng có vẻ cảm động sâu sắc và trước những lời tôi và cảm nhận đó được xác thực qua việc nàng vẫn chưa lấy miếng churro nào ra khỏi túi. Đáng tiếc lúc này hẳn là tôi chỉ lắng nghe bằng tai, vì tôi hiểu nàng ngụ ý gì. “Điều em thích nhất ở ư? Ý em là... phân tích của về việc bán lẻ giày đó hả?” “ khôn ngoan như bất cứ người nào em từng biết... và còn rất giản dị. là kết hợp đáng . Thông minh và trong sáng. Hiểu biết và chất phác. Dí dỏm tinh ranh và dịu dàng chân thành.” “Đó là điều em thích nhất ở à?” “Lúc này đúng thế.” “À, được, nó phải thứ có thể làm hơn.” “Làm hơn?” “Những điều em thích ở , muốn làm chúng còn tốt hơn nữa. Chẳng hạn nếu em thích cách ăn mặc hay gu thẩm mỹ về quần áo của , hoặc bánh kếp của . luôn luôn cải tiến món bánh kếp, cứ hỏi Terri xem, chúng và mịn, chưa kể đầy hương vị. Nhưng biết làm cách nào để trở nên vừa khôn ngoan vừa giản dị hơn bây giờ. , còn chắc có hiểu em muốn gì nữa.” “Tốt. Chẳng việc gì cần nghĩ ngợi hết. Chẳng việc gì có thể làm hơn. Cứ là chính con người . Dù sao em lấy cũng phải vì tiền.” Nàng đưa cho tôi cái churro. Tim tôi đập thình thịch và đầu óc tôi quay cuồng, thứ tôi cần là nàng, nhưng tôi cầm lấy cái bánh. Chúng tôi im lặng ngồi ăn được phút tôi lên tiếng, “Vậy chuyện đám cưới... em nghĩ khi nào mình nên đặt bánh?” “Sớm thôi. Em thể chờ quá lâu đâu.” nhõm và vui sướng, tôi hỏi, “Trì hoãn hưởng thụ quá nhiều có thể trở thành chuyện xấu.” Nàng tươi cười, “ thấy chuyện gì diễn ra ?” “ nghĩ chắc chỉ nhìn bằng mắt thôi. nên thấy chuyện gì?” “Chuyện diễn ra là em muốn ăn cái churro thứ hai, và em ăn ngay bây giờ thay vì chờ đến thứ Năm.” “Em rắc rối, Stormy Llewellyn à.” “ còn chưa thấy được đến nửa đó cưng.” Hôm nay là ngày tệ hại, vụ Harlo Landerson rồi Gã Nấm, căn phòng tối đen, bọn ông kẹ khắp nơi và Elvis khóc lóc. Thế nhưng khi ngồi với Stormy, cùng ăn churro, trong giây lát mọi thứ đời đều yên ổn. Giây lát đó kéo dài lâu. Điện thoại di động của tôi reo vang, tôi ngạc nhiên khi nghe thấy giọng cảnh sát trưởng Porter. “Này con, phòng để đồ tại nhà thờ St. Bart đưa ra ý nghĩa mới cho cụm từ phá hoại. Có kẻ nổi điên tột độ trong đó.” “Robertson.” “Bác nghĩ con đúng. Con luôn đúng mà. Chắc là gã. Nhưng gã bỏ lúc người của bác đến nhà thờ. Con chưa gặp lại gã phải ?” “Chúng con trốn ngoài đây nhưng... , có dấu hiệu nào của gã hết.” Tôi quan sát bãi đậu xe, nhìn bao quát dãy xe nối đuôi nhau đến rồi khỏi dòng xe chờ mua thức ăn ở quán Mexicali Rose, nhìn ra con đường ngoài kia, tìm kiếm chiếc Ford Explorer bụi bặm của Bob Robertson. Cảnh sát trưởng , “Các bác theo dõi nhà tên này mấy tiếng rồi nhưng giờ các bác chủ động tìm kiếm gã.” “Con có thể cho sức hút siêu linh cơ hội,” tôi , ám chỉ đến khả năng định vị gần như bất cứ ai bằng cách cứ đại vòng quanh trong khoảng nửa tiếng. “Như thế có khôn ngoan con trai? Ý bác là với Stormy ngồi trong xe à?” “Con đưa nàng về nhà trước.” Stormy gạt phăng ý kiến đó, “Làm vậy là chết với em, Mulder.” “Bác nghe thấy rồi đó,” cảnh sát trưởng Porter lên tiếng. “Bác ấy nghe rồi kìa,” tôi với Stormy. “Lo gì chứ?” nàng . Cảng sát trưởng Porter có vẻ thích chí, “Con bé gọi con là Mulder trong phim The X-Files[35] hả?” “Dạ, thường xuyên lắm. Chỉ khi nàng nghĩ con gia trưởng.” “Con có bao giờ gọi con bé là Scully ?” “Chỉ khi con muốn bị bầm dập.” “Con làm hỏng bộ phim đó đối với bác rồi,” cảnh sát trưởng . “Sao con lại làm hỏng hả bác?” “Con khiến cho tất cả những thứ kỳ lạ trở thành quá . Bác còn thấy chuyện siêu nhiên có gì thú vị nữa.” “Con cũng vậy,” tôi quả quyết. Lúc cảnh sát trưởng Porter và tôi chuyện xong, Stormy gom hết tất cả các giấy gói thức ăn bữa tối, nhét vào cái túi. Khi rời quán Mexicali Rose, nàng bỏ chúng vào thùng rác đặt dọc theo lối ra. Khi tôi rẽ trái ra đường lớn, nàng , “Ghé qua nhà em trước để em lấy khẩu súng lục.” “Đó là súng phòng vệ ở nhà. Em được cấp phép mang theo.” “Em cũng đâu được cấp phép để thở nhưng em vẫn thở đó thôi.” “ súng,” tôi nhất quyết. “Chúng mình chỉ vòng quanh xem chuyện gì xảy ra thôi.” “Sao sợ súng vậy?” “Súng nổ.” “Và tại sao đó là câu hỏi luôn luôn né tránh trả lời?” “ luôn luôn né tránh trả lời nó.” “Sao sợ súng?” nàng khăng khăng. “Chắc kiếp trước bị bắn chết.” “ có tin vào chuyện đầu thai đâu.” “ cũng có tin vào thuế đâu, nhưng vẫn phải đóng đó thôi.” “Sao sợ súng?” “Chắc tại mơ thấy trước bị bắn.” “ mơ thấy trước bị bắn rồi hả?” “.” Nàng nao núng, “Sao sợ súng?” Tôi ngu dại. Ngay khi thốt ra xong, tôi mong rút lại lời lẽ của mình, “Sao em sợ quan hệ?” Từ bên phần ghế bất chợt lạnh lẽo và xa cách, nàng trao cho tôi cái nhìn lâu, nặng nề, giá buốt đến tận xương tủy. Trong giây lát tôi cố giả vờ nhận ra tác động của lời tôi đối với nàng. Tôi cố tập trung vào con đường trước mặt như thể tôi luôn luôn là tài xế vô cùng có trách nhiệm. Tôi có tài giả vờ. Sớm còn hơn muộn, tôi nhìn nàng, khổ sở lên tiếng, “ rất xin lỗi.” “Em sợ quan hệ,” nàng . “ biết. xin lỗi vì ngốc.” “Em chỉ muốn chắc rằng...” Tôi cố ngăn nàng cần phải ra. Nàng vẫn mực thốt lên, “Em chỉ muốn chắc rằng lý do em liên quan đến chuyện đó ít hơn hẳn những chuyện khác.” “Đúng vậy,” tôi cam đoan với nàng, cảm thấy mình nhen và ích kỷ. “Cả ngàn chuyện khác. Em biết mà.” “Khi mình bên nhau, em muốn điều đó đúng đắn, trong sạch và đẹp đẽ.” “ cũng vậy. Và chuyện như thế, Stormy. Khi đúng thời điểm. Chúng ta có khối thời gian mà.” Ngừng đèn đỏ, tôi đưa tay phải về phía nàng. nhõm khi nàng nắm lấy tay tôi, xúc động khi nàng nắm rất chặt. Đèn chuyển sang màu xanh. Tôi lái xe chỉ với tay đặt vô lăng. lúc sau, bằng giọng yếu ớt đầy cảm xúc, nàng lên tiếng, “Em xin lỗi, Odd. Lỗi của em.” “ phải lỗi của em. mới là thằng ngốc.” “Em dồn vào thế bí về chuyện tại sao sợ súng, và khi em cứ ngừng dồn ép, mới bật lại.” Đó là , nhưng khiến tôi cảm thấy đỡ hơn chút nào về hành động của mình. Sáu tháng sau cái chết của bố mẹ, khi Stormy mới được bảy tuổi rưỡi và vẫn còn mang tên Bronwen, nàng được cặp vợ chồng giàu có con ở Beverly Hills nhận nuôi. Họ sống ở khu rất tốt. Tương lai xem ra tươi sáng. đêm trong tuần thứ hai sống cùng gia đình mới, bố nuôi vào phòng đánh thức nàng dậy. trần trụi và sờ mó nàng theo cách khiến nàng hoảng sợ và nhục nhã. Đau buồn vì cái chết của bố mẹ ruột, lo sợ, đơn tột cùng, bối rối, xấu hổ, nàng chịu đựng bệnh hoạn của tên đàn ông đó thêm ba tháng. Cuối cùng, nàng tố giác với nhân viên xã hội, người gọi điện kiểm tra tình hình cho cơ quan trao quyền nhận nuôi. Sau đó, nàng sống ở trại mồ côi của nhà thờ St. Bart, bị sờ mó, đến khi tốt nghiệp phổ thông. Nàng và tôi thành đôi khi học lớp mười . Chúng tôi bên nhau và là bạn tốt của nhau hơn bốn năm. Bất chấp những gì chúng tôi dành cho nhau và tất cả những gì chúng tôi hy vọng cùng nhau đạt được trong những năm sắp tới, tôi làm tổn thương nàng, Sao em sợ quan hệ? khi nàng dồn ép tôi quá gay gắt về nỗi sợ súng ống của tôi. người theo thuyết khuyến nho từng đặc điểm dễ nhận ra nhất của loài người là khả năng trở nên độc ác đối với người khác. Tôi là người lạc quan về giống loài chúng ta. Tôi cho rằng Chúa cũng thế, vì nếu Ngài quét sạch chúng ta ra khỏi hành tinh từ cách đây rất lâu và làm lại từ đầu. Song tôi thể phủ định sạch trơn đánh giá chua cay của người theo thuyết khuyến nho kia. Tôi nuôi khả năng cư xử độc ác, nghĩ tới lời vặn vẹo tàn nhẫn dành cho người tôi nhất đời. Chúng tôi xuôi chèo dòng sông nhựa đường hồi lâu, tìm kiếm Gã Nấm mà từ từ tìm cách làm lành với nhau. Cuối cùng nàng lên tiếng, “Em , Odd.” Giọng tôi khản đặc khi đáp lại, “ em hơn cả mạng sống.” “Chúng ta ổn thôi,” nàng . “Chúng ta ổn.” “Chúng ta quái lạ và gàn dở, nhưng chúng ta ổn,” nàng tán thành. “Nếu có người phát minh ra dụng cụ đo độ quái lạ nó tan chảy bên dưới lưỡi của . Nhưng em... em bình thường.” “Vậy phủ nhận quái lạ của em nhưng lại đồng tình rằng em gàn dở.” “ hiểu vấn đề rồi. số kiểu quái lạ có thể trở nên hợp thời nhưng tính gàn dở bao giờ.” “Chính xác.” “ quân tử khi phủ nhận quái lạ của em.” “Lời xin lỗi được chấp nhận.” Chúng tôi dạo quanh hồi lâu, sử dụng chiếc xe như người ta dùng cây gậy dò mạch nước, đến khi tôi thấy mình tấp vào bãi đậu xe của Green Moon Lanes. Đây là sân bowling nằm cách khu thương mại nửa dặm, khu thương mại mà lúc chiều tôi ghé thăm Stormy ở tiệm kem. Nàng biết giấc mơ định kỳ quấy nhiễu giấc ngủ của tôi mỗi tháng hai lần trong suốt ba năm trời qua. Nó cảnh những nhân viên sân chơi bowling chết: bị bắn vào bụng, tay chân gãy nát, mặt mày biến dạng kinh khủng phải bởi vài viên đạn mà do hàng rào. “Gã ở đây hả?” Stormy hỏi. “ biết.” “Nó thành bây giờ, ngay đêm nay, giấc mơ đó?” “ nghĩ vậy. biết. Có thể.” Miếng bánh cá bơi trong dòng chảy axit của dạ dày, đánh tung luồng xoáy đắng chát ngược lên cổ họng tôi. Lòng bàn tay tôi ẩm ướt. Và lạnh cóng. Tôi chà tay lên quần jeans. Tôi gần như muốn chạy về chỗ Stormy và lấy khẩu súng.
CHƯƠNG 22 Bãi đậu xe ở trung tâm bowling đầy hai phần ba. Tôi đảo quanh tìm kiếm chiếc Explorer của Robertson nhưng thấy. Cuối cùng tôi vào đậu xe và tắt máy. Stormy mở cửa xe bên phía nàng và tôi lên tiếng, “Khoan.” “Đừng khiến em phải gọi là Mulder nhé,” nàng cảnh cáo. Nhìn chằm chằm những chữ gắn đèn nê-ông xanh lá và xanh dương tạo thành dòng chữ GREEN MOON LANES, tôi hy vọng đoán ra được liệu cuộc tàn sát tôi nhìn thấy trước sắp xảy ra hay vẫn còn nằm cách xa đâu đó trong tương lai. Đèn nê-ông thể với giác quan thứ sáu của tôi. Kiến trúc sư thiết kế trung tâm bowling này có ý thức đầy trách nhiệm về phí tổn phải chi cho việc điều hòa khí trong tòa nhà to lớn nằm sa mạc Mojave. Kết cấu bè bè, đặc biệt bên trong có những trần nhà thấp, ngăn cản hơi nóng di chuyển bằng số lượng kính tối thiểu. Tường trát vữa màu be nhạt phản chiếu ánh nắng suốt cả ngày và nhanh chóng dịu mát khi đêm đến. Trước đây toàn nhà này tỏ vẻ báo điềm gở; tôi ấn tượng trước đặc điểm của nó chỉ vì tính hiệu quả của thiết kế, vì nó có đường lăn banh sạch và mặt tiền giản dị trong số những cao ốc đại nhất nằm sa mạc. giờ nó gợi cho tôi nhớ đến kho đạn dược và tôi có cảm giác vụ nổ kinh hoàng có thể sớm xảy ra bên trong bốn bức tường kia. Kho đạn dược, lò hỏa thiêu, khu nhà mồ... “Nhân viên ở đây mặc quần đen và áo thun xanh dương cổ viền trắng,” tôi với Stormy. “ sao?” “Trong giấc mơ của , tất cả nạn nhân mặc quần nâu và áo thun xanh lá cây, cổ có bâu.” Vẫn ngồi trong chiếc Mustang nhưng để chân ra ngoài xe, bàn chân đặt mặt đường nhựa, nàng , “Vậy phải chỗ này. Có lý do khác khiến đến đây. Vào trong xem chúng ta có thể hiểu tại sao mình lại ở đây .” “Ngoài Fiesta Bowl,” tôi nhắc đến duy nhất trung tâm bowling khác có mặt ở thị trấn Pico Mundo và những vùng phụ cận, “họ mặc quần xám và áo đen, có thêu tên bằng chỉ trắng túi áo trước ngực.” “Vậy chắc hẳn mơ thấy chuyện xảy ra bên ngoài thị trấn Pico Mundo rồi.” “Trước giờ chưa khi nào có chuyện đó.” Tôi sống cả đời trong yên bình tương đối của thị trấn Pico Mundo và khu vực bao quanh gần kề. Thậm chí tôi chưa nhìn thấy những phạm vi phía xa của hạt Maravilla, cái hạt mà thị trấn chúng tôi là chỗ tận cùng bên dưới. Nếu tôi sống đến tám mươi tuổi, điều khó có khả năng xảy ra và là triển vọng tôi thấy chán nản nếu thất vọng, có thể ngày nào đó tôi mạo hiểm vào miền nông thôn ngoài kia và thậm chí đến tận trong những thị trấn hơn ở hạt. Nhưng chắc đâu. Tôi mong mỏi việc thay đổi cảnh trí hay trải nghiệm kỳ lạ bên ngoài. Trái tim tôi ao ước vẻ thân thuộc, ổn định và an toàn nơi quê nhà, và minh mẫn của tôi nhờ vào nó. Tại thành phố lớn như Los Angeles, quá nhiều người giẫm đạp lên nhau, bạo lực diễn ra từng ngày, từng giờ. Số vụ đụng độ đổ máu chỉ trong năm có thể còn nhiều hơn các vụ xảy ra trong toàn bộ lịch sử của thị trấn Pico Mundo. Hoạt động quay cuồng dữ dội của Los Angeles gây ra cái chết ràng như hiệu bánh làm ra bánh nướng xốp. Động đất, hỏa hoạn, ném bom khủng bố... Tôi chỉ có thể hình dung được bao nhiêu hồn người chết ở lại vất vưởng đường phố của nơi này nơi khác. Tại chỗ như thế, với quá nhiều người chết đến tìm tôi đòi công bằng, nguồn an ủi, hay chỉ là tình bạn lặng lẽ chắc chắn tôi nhanh chóng tìm lối thoát bằng bệnh tâm thần hoặc cách tự tử. Nhưng vì chưa chết cũng chưa bị tâm thần, tôi phải đối mặt với thử thách trong Green Moon Lanes. “Được rồi,” tôi , gom hết khả năng chịu đựng nếu là tỏ vẻ hiên ngang, “vào trong và nhìn quanh cái xem sao.” Đêm xuống, vỉa hè rải nhựa gửi trả sức nóng mà nó mượn của mặt trời suốt cả ngày và sức nóng thoát ra phảng phất mùi hắc ín. Thấp và to đến mức như rơi xuống chúng tôi, mặt trăng nhô lên phía đông: vàng khè, những hốc mắt lờ mờ trong cái nhìn đui mù vô tận của nó. Chắc tại bà ngoại Sugars quá mê tín về chuyện ánh trăng vàng và tin rằng chúng là điềm báo lá bài xấu nên tôi để cho thôi thúc phi lý giục tôi thoát khỏi tầm nhìn của gương mặt bị ghẻ lở và bệnh vàng da nằm trời kia. Cầm tay Stormy, tôi kéo nàng vội đến cửa chính của trung tâm bowling. Bowling là trong những môn thể thao lâu đời nhất thế giới và hai hình thức của trò này được chơi từ rất sớm, năm ngàn hai trăm năm trước công nguyên. Chỉ riêng tại Mỹ, hơn trăm ba mươi ngàn đường lăn banh nằm chờ cuộc chơi tại hơn bảy ngàn trung tâm bowling. Tổng thu nhập hàng năm của trò bowling tại Mỹ lên đến năm tỉ đôla. Với hy vọng làm giấc mơ tái diễn định kỳ của tôi và hiểu được ý nghĩa của nó, tôi nghiên cứu trò bowling. Tôi biết cả ngàn điều về trò này, có cái nào trong số đó đặc biệt thú vị. Tôi cũng thuê giày và chơi tám hay mười ván. Tôi giỏi về thể thao. Nhìn tôi chơi, Stormy từng thốt lên nếu tôi trở thành tay chơi bowling chính thức, tôi phải dành thêm rất nhiều thời gian trong lằn rãnh hơn cả tên ma cà bông nghiện rượu bình thường. Hơn sáu mươi triệu người ở Mỹ đến sân chơi bowling ít nhất mỗi năm lần. Chín triệu người trong số đó là dân ghiền thuộc liên đoàn bowling và thường xuyên thi đấu trong các giải nghiệp dư. Khi Stormy và tôi vào Green Moon Lanes tối thứ Ba đó, tỉ lệ đáng kể trong số những triệu người thả banh lăn những đường lăn banh sạch bóng, ném hụt nhiều hơn ném trúng và ném trúng nhiều hơn đánh đổ hết. Họ cười , reo hò cổ vũ nhau, ăn khoai tây chiên, bánh kẹp, uống bia và tận hưởng khoảng thời gian vui vẻ đến mức khó hình dung Tử thần chọn nơi này để bất ngờ thu hoạch đống linh hồn. Khó khăn nhưng phải thể. Chắc hẳn tôi tái mét vì Stormy cất tiếng hỏi, “ khỏe chứ?” Tiếng banh lăn rầm rầm và tiếng mười con ki va nhau lách cách trước đây chưa khi nào tạo cho tôi cảm giác đáng sợ; nhưng loạt thanh rầm rầm và lách cách bất thường lần này đánh vào dũng khí của tôi. “Giờ sao?” Stormy hỏi. “ câu hỏi hay. có đáp án.” “ muốn quanh quẩn, nhìn khung cảnh xem có rung cảm xấu hả?” Tôi gật đầu, “Ừ. Nhìn khung cảnh. Rung cảm xấu.” Hai đứa tôi chưa được xa tôi nhìn thấy thứ khiến môi tôi khô khốc. “Ôi Chúa ơi.” chàng phía sau quầy cho thuê giày làm việc trong trang phục quần đen và áo thun xanh dương cổ viền trắng như thường lệ. ta mặc quần nâu và áo thun xanh lá cổ có bâu như những người chết trong giấc mơ bowling của tôi. Stormy quay , nhìn bao quát căn phòng dài nhộn nhịp và chỉ về phía hai nhân viên khác. “Tất cả họ có đồng phục mới.” Như mọi cơn ác mộng, cơn ác mộng này của tôi sống động và chưa nhiều chi tiết, siêu thực hơn thực tế, cụ thể về địa điểm, thời gian hay tình huống. Khuôn mặt của các nạn nhân bị sát hại quằn quại trong đau đớn cực độ, biến dạng do kinh hãi, bóng tối và ánh sáng quái dị, rồi khi tỉnh giấc, tôi bao giờ mô tả được họ ràng. Ngoại trừ . ta bị bắn vào ngực và cổ họng nhưng khuôn mặt vẫn bị bạo lực chạm đến cách lạ thường. có mái tóc vàng dày xù, mắt xanh và vết xinh xắn ở môi , gần khóe miệng bên trái. Khi Stormy và tôi tiến sâu vào Green Moon Lanes, tôi thấy tóc vàng trong giấc mơ. ta đứng sau quầy rượu, rót bia từ cái vòi. CHƯƠNG 23 Stormy và tôi ngồi tại cái bàn đặt trong góc quán rượu nhưng chúng tôi gọi thức uống. Tôi chếnh choáng vì sợ hãi. Tôi muốn đưa nàng ra khỏi bãi chơi bowling. Nàng muốn . “Chúng mình phải xử lý tình huống này,” nàng nhấn mạnh. Cách duy nhất tôi có thể xử lý chuyện này là gọi điện thoại cho cảnh sát trưởng Wyatt Porter và kể cho ông nghe, kèm chút lý giải, rằng khi Bob Robertson tổ chức tiệc đánh dấu việc chính thức trở thành kẻ sát nhân điên loạn địa điểm của buổi trình diễn ra mắt có khả năng là Green Moon Lanes. Sau ngày làm việc vất vả, bụng phình to do thịt nướng và bia, mệt mỏi và sắp sửa ngủ nhưng cảnh sát trưởng vẫn phản ứng bằng nhạy bén và đầu óc minh mẫn đáng nể. “Ở đó mở cửa đến lúc nào?” Đặt điện thoại bên tai phải, ngón tay bên tai trái để chặn tiếng ồn ở bãi chơi, tôi , “Con nghĩ là đến nửa đêm.” “Hơn hai tiếng chút. Bác phái ngay sĩ quan đến đảm bảo an ninh đề phòng tên Robertson. Nhưng con trai này, con việc được ghi nhớ vào ngày mười lăm tháng Tám mà, là ngày mai, phải hôm nay.” “Đó là ngày tờ lịch để trong tài liệu của gã. Con nó có ý nghĩa gì. Con chắc chuyện xảy ra hôm nay mà phải đợi đến hết hôm nay và gã chưa bắn ai.” “Mấy thứ mà con gọi là ông kẹ có ngoài đó ?” “Dạ . Nhưng bọn chúng có thể xuất khi gã ló mặt ra.” “Gã chưa trở về ngôi nhà ở Camp’s End,” cảnh sát trưởng , “nên gã còn ngoài kia, lung tung. Món churro thế nào?” “Cực ngon,” tôi đáp. “Sau món thịt nướng, bác vất vả lựa chọn giữa bánh sôcôla và bánh đào tự chế biến ở nhà. Bác nghĩ ngợi kỹ càng và ăn hết cả hai.” “Nếu con từng có được cảm giác thiên đường đó chính nhờ miếng bánh đào của bác .” “Bác cưới bác chỉ vì món bánh đào nhưng may bác lại còn thông minh và xinh đẹp.” Chúng tôi chào tạm biệt. Tôi kẹp điện thoại chỗ thắt lưng và với Stormy là chúng tôi cần khỏi đây. Nàng lắc đầu. “Khoan. Nếu phục vụ tóc vàng ở đây vụ bắn giết xảy ra.” Nàng vẫn giữ giọng khe khẽ, nghiêng người để át tiếng va chạm và rơi đổ của trò bowling. “Vậy bằng cách nào đó chúng mình đưa ấy khỏi .” “. Điềm báo trong giấc mơ phải chính xác từng chi tiết những việc diễn ra. ấy ngồi nhà an toàn nhưng dù vậy, tên bắn súng có thể xuất .” “Nhưng ít ra ấy được cứu. Bớt nạn nhân.” “ người khác lẽ ra chết lại có thể bị bắn ở chỗ của ấy. Chẳng hạn như người phục vụ làm thay ấy. Hoặc hoặc em.” “Có thể vậy.” “Đúng, có thể vậy, làm sao cứu được ai nếu rất có thể điều đó có nghĩa là kết tội cho người khác?” Ba bốn trái banh liên tiếp đâm sầm vào hàng ki dựng sẵn. Tiếng ồn nghe hơi giống loạt súng tự động, và tuy biết đó phải tiếng súng, tôi vẫn co rúm. “ có quyền quyết định người khác chết thay cho ấy.” Những giấc mơ báo điềm và những lựa chọn phải trái phức tạp mà giấc mơ đưa ra, chỉ hiếm khi đến với tôi. Tôi biết ơn điều đó. “Vả lại,” tôi , “ ấy phản ứng ra sao nếu lại quầy rượu rằng ấy bị bắn chết nếu ra khỏi đây?” “ ấy nghĩ quái đản hoặc nguy hiểm nhưng ấy .” “ đâu. ấy ở lại đó. ấy muốn đánh liều mất việc, muốn tỏ ra sợ hãi vì như thế khiến ấy trông yếu đuối và ngày nay phụ nữ muốn tỏ ra yếu đuối nhiều hơn đàn ông. Sau đó ấy có thể nhờ ai đó cùng ra xe nhưng chỉ thế thôi.” Stormy nhìn chằm chằm tóc vàng sau quầy rượu trong lúc tôi nhìn bao quát căn phòng xem có ông kẹ nào đến trước tên đao phủ . ai ở đây ngoài hai đứa tôi. “ ấy quá đẹp, tràn trề sức sống,” Stormy , ám chỉ người phục vụ. “Rất cá tính, đúng là nụ cười có sức lan tỏa.” “ ấy trở nên sinh động hơn trong mắt em vì em biết số ấy có thể bị chết trẻ.” Stormy , “Có vẻ sai trái khi khỏi và bỏ ấy lại đây mà cảnh báo, cho ấy cơ hội.” “Cách tốt nhất để cho ấy cơ hội và cho tất cả những ai có thể thành nạn nhân cơ hội, là ngăn chặn Robertson trước khi gã làm bất cứ điều gì.” “ ngăn chặn được gã thế nào?” “Tốt đẹp như khi gã chưa vào Quán Vỉ nướng sáng nay và chưa nhìn thấy gã với đám tùy tùng ông kẹ.” “Nhưng thể chắc chắn ngăn chặn được gã.” “ đời này có gì là chắc chắn hết.” Dò xét ánh mắt của tôi, nàng nghĩ ngợi câu tôi vừa rồi nhắc nhở. “Ngoại trừ chúng ta.” “Ngoại trừ chúng ta,” tôi đẩy ghế ra khỏi bàn. “ thôi.” Vẫn nhìn chằm chằm tóc vàng, Stormy , “Chuyện này quá nghiệt ngã.” “ biết.” “Quá bất công.” “Cái chết chẳng phải thế là gì?” Nàng nhổm dậy khỏi ghế. “ để ấy chết phải , Odd?” “ làm những gì có thể.” Chúng tôi ra ngoài, hy vọng rời khỏi trước khi viên cảnh sát được cử đến nơi và tò mò về dính líu của tôi. ai trong lực lượng cảnh sát của thị trấn Pico Mundo hiểu mối quan hệ của tôi với cảnh sát trưởng Porter. Họ cảm thấy có điều gì đó khác biệt về tôi nhưng họ nhận ra cái tôi thấy, cái tôi biết. Cảnh sát trưởng bao che kỹ cho tôi. Nhiều người nghĩ tôi xun xoe cảnh sát trưởng Wyatt Porter vì tôi muốn thành cảnh sát. Họ cho rằng tôi khao khát sức hấp dẫn của nghề cảnh sát nhưng tôi có trí thông minh hay lòng gan dạ để làm nghề này. Đa số mọi người tin rằng tôi xem cảnh sát trưởng như hình tượng người bố vì bố ruột của tôi là mẫu người hết thuốc chữa. Quan điểm này có phần đúng. Người ta đoán chắc cảnh sát trưởng thương cho tình cảnh mười sáu tuổi, tôi thể sống tiếp với cả bố hay mẹ mà phải lăn lộn ra đời. Bởi vì ông Wyatt và bà Karla thể có con nên người ta nghĩ cảnh sát trưởng dành tình cảm người bố cho tôi và xem tôi là con trai. Tôi được an ủi rất nhiều bởi điều đó có vẻ đúng vậy. Thế nhưng là cảnh sát nên các thành viên trong Sở Cảnh sát thị trấn Pico Mundo cảm nhận theo bản năng rằng, họ thiếu hiểu biết cốt lõi có thể nắm hoàn toàn mối quan hệ của chúng tôi. Tương tự, dù tôi tỏ ra hề rắc rối và thậm chí còn đơn giản, nhưng họ vẫn xem tôi như trò chơi ghép hình thiếu chỉ mảnh ghép. Khi Stormy và tôi bước ra khỏi Green Moon Lanes lúc mười giờ, tiếng sau khi màn đêm phủ xuống, nhiệt độ tại thị trấn Pico Mundo vẫn hơn trăm độ[36]. Đến nửa đêm khí có thể giảm xuống thấp hơn con số nhiệt độ ba chữ số kia. Nếu Bob Robertson phấn đấu tạo nên Địa ngục Trần gian chúng tôi có khí hậu dành cho nơi đó. về phía chiếc Mustang của Terri Stambaugh, tôi còn suy nghĩ về nhân viên tóc vàng có dấu hiệu sắp chết Stormy lên tiếng, “Đôi lúc em biết sao có thể sống được với tất cả thứ nhìn thấy.” “Cách nhìn nhận,” tôi với nàng. “Cách nhìn nhận à? Nó hoạt động thế nào?” “Có ngày làm tốt, có ngày .” Nàng định nài nỉ tôi giải thích thêm nhưng chiếc xe tuần tra đến nơi, ghìm chân chúng tôi bằng đèn pha trước khi chúng tôi tới được chiếc Mustang. Chắc chắn tôi bị nhận ra nên tôi đứng tay trong tay với Stormy chờ chiếc xe dừng lại bên cạnh. Simon Varner, viên sĩ quan nhận lệnh, tham gia lực lượng mới ba bốn tháng, lâu hơn Bern Eckles, người nhìn tôi đầy vẻ nghi ngờ tại bữa tiệc nướng của cảnh sát trưởng nhưng chưa đủ lâu để có lợi thế dẹp bỏ được tò mò của ta về tôi. Sĩ quan Varner có khuôn mặt hiền lành như người dẫn chương trình thiếu nhi ti-vi đôi mắt với hàng mi dày giống nam tài tử quá cố Robert Mitchum. ta chồm ra cửa sổ để mở, cánh tay vạm vỡ đặt thành cửa, trông như người làm mẫu cho nhân vật con gấu ngái ngủ bộ phim hoạt hình nào đó của hãng Disney. “Odd, vui gặp cậu. Chào Llewellyn. Tôi nên tìm kiếm gì ở đây nhỉ?” Tôi chắc rằng cảnh sát trưởng nhắc đến tôi khi ông phái sĩ quan Varner đến trung tâm bowling. Khi tôi liên quan đến vụ việc, ông chủ trương cố hết sức đả động đến tôi, bao giờ ám chỉ đến những thông tin có được bằng cách thức phi phàm. Hướng hành động tốt hơn ấy chỉ bảo vệ bí mật của tôi mà còn đảm bảo luật sư biện hộ nào có thể dễ dàng gỡ tội cho kẻ sát nhân bằng cách khẳng định toàn bộ vụ việc gây bất lợi cho thân chủ ông ta đều dựa lời của tên xạo tự xưng là người thần bí. Mặt khác, vì xen vào của tôi ở bữa tiệc nướng dẫn đến việc cảnh sát trưởng và Bern Eckles phải cố gắng cùng nhau tìm ra tiểu sử sơ lược của Robertson nên Eckles biết tôi có mối liên kết nào đó với tình huống này. Nếu Eckles biết việc lan ra khắp nơi; có thể giờ câu chuyện nằm trong hệ thống truyền tin mật của Sở Cảnh sát. Nhưng tốt nhất cứ chơi trò giả ngu. “ nên tìm kiếm gì? à, em hiểu.” “Tôi thấy cậu, tôi đoán cậu với cảnh sát trưởng điều gì đó khiến ông cử tôi ra đây.” “Chúng em chỉ xem vài người bạn chơi bowling thôi,” tôi lên tiếng. “Bản thân em chẳng hề giỏi môn này.” Stormy cất giọng. “ ấy sở hữu cái rãnh.” Varner lấy từ ghế bên cạnh bức ảnh trong bằng lái xe của Bob Robertson được phóng to in qua máy vi tính. “Cậu biết tên này, đúng ?” Tôi đáp. “Hôm nay em thấy ông ta hai lần. Em biết ông ta.” “Chẳng phải cậu với cảnh sát trưởng rằng tên này có thể xuất ở đây à?” “ phải em. Sao em biết được ông ta xuất ở đâu?” “Cảnh sát trưởng nếu tôi thấy tới nhưng nhìn thấy cả hai bàn tay của đừng nghĩ chỉ lấy kẹo bạc hà làm thơm miệng ra khỏi túi.” “Em khác cảnh sát trưởng.” chiếc xe Lincoln Navigator từ ngoài đường tấp vào dừng phía sau xe tuần tra của Varner. ta giơ cả cánh tay ra ngoài cửa sổ, vẫy chiếc xe SUV đó chạy vòng qua mặt. Tôi thấy hai người đàn ông trong chiếc xe Navigator. ai là Robertson cả. “Sao cậu biết tên này?” Varner hỏi. “Trước buổi trưa, ông ta đến Quán Vỉ nướng dùng bữa.” Hàng mi hơi nhướng lên khỏi cặp mắt gấu ngái ngủ. “Thế thôi à? Cậu nấu bữa trưa cho hả? Tôi tưởng... có chuyện gì đó xảy ra giữa cậu và chứ?” “Có chuyện, lớn lắm.” Tôi tường thuật ngắn gọn lại ngày hôm nay, bỏ qua những điều Varner cần phải biết. “Ông ta tỏ ra khác thường ở Quán Vỉ nướng. Lúc ấy cảnh sát trưởng cũng có mặt, thấy ông ta kỳ quái. Rồi đến buổi chiều em xong việc, ra ngoài quanh quẩn, lo chuyện riêng của em, ông Robertson này làm cử chỉ gây với em.” Hàng mi dày của Varner trở thành lá chắn thu hẹp cặp mắt ta thành hai kẽ hở ti hí chứa đầy hoài nghi. Bản năng mách bảo ta rằng tôi giấu giếm thông tin. ta chậm tiêu như vẻ bề ngoài. “Gây ra sao?” Stormy cứu tôi khỏi lời dối ngắc ngứ bằng câu trôi chảy. “Thằng cha kinh tởm đó gạ gẫm tục tĩu với em, Odd bảo cút xéo.” Gã Nấm nhìn giống hạng người dê xồm mang ý nghĩ mọi phụ nữ đều khao khát gã. Thế nhưng Stormy quá ư xinh đẹp thu hút đến mức Varner, dù trong trạng thái ngờ vực cũng tỏ ra tin rằng ngay cả kẻ khù khờ như Bob Robertson dâng trào lượng kích thích tố để cố thử vận may với nàng. ta . “Cảnh sát trưởng nghĩ tên này phá hoại nhà thờ St. Bart. Tôi đoán cậu biết chuyện đó.” Nhằm đánh lạc hướng thám tử Shelock lì lợm này. Stormy , “Sĩ quan Varner, tính tò mò giết chết em. có phiền nếu em hỏi, hình xăm của có nghĩa gì vậy?” ta mặc áo sơ mi ngắn tay, để lộ bắp tay cuồn cuộn. Bên cánh tay trái phía đồng hồ đeo tay có ba chữ viết rời nhau: QST. “ Llewellyn, tôi rất tiếc phải rằng khi ở độ tuổi thiếu niên, tôi là tên hợm hĩnh thích khoe mẽ. Gia nhập băng đảng. Chuyển hướng cuộc đời trước khi quá muộn. Tôi tạ ơn Chúa Jesus vì điều đó. Hình xăm này là thứ thuộc băng đảng.” “Những chữ đó viết tắt cho từ gì vậy?” Nàng hỏi. ta tỏ vẻ lúng túng. “ từ tục tĩu thô thiển lắm, thưa . Tôi muốn ra.” “ có thể xóa nó ,” nàng . “Gần đây người ta có rất nhiều cải tiến trong việc đó.” Varner , “Tôi nghĩ đến chuyện đó. Nhưng tôi giữ nó để nhắc nhở cho bản thân mình rằng từng xa rời con đường chính đạo đến mức nào và việc thực bước sai lầm đầu tiên mới dễ làm sao.” “Quá tuyệt vời và quá đáng quý,” nàng thốt lên, cúi sát cửa sổ hơn như để nhìn cho con người mẫu mực kia. “Rất nhiều người viết lại quá khứ hơn là đối mặt với nó. Em vui mừng khi biết chúng em có được những người như bảo vệ cho chúng em.” Nàng rót lời đường mật quá êm ái đến mức nghe như tình. Trong khi sĩ quan Varner phơi mình trong lời tâng bốc cách sung sướng như cái bánh quế nằm trong lớp bơ đánh tan, nàng quay sang tôi và lên tiếng, “Odd, em phải về rồi, sáng mai em dậy sớm.” Tôi chúc sĩ quan Varner may mắn và ta nhăm nhe tiếp tục tra hỏi tôi nữa. ta có vẻ quên mối nghi ngờ của mình. Vào trong xe, tôi với Stormy, “Chưa bao giờ nhận ra em lại có tài lừa gạt.” “Ôi, dùng từ đó nghiêm trọng quá. Em chỉ uốn nắn ta tí.” “Sau khi chúng mình cưới, đề phòng chuyện đó,” tôi vừa cảnh báo nàng vừa khởi động xe. “Ý là sao?” “Đề phòng em cố uốn nắn tí.” “Trời, cưng à, em uốn nắn mỗi ngày đấy chứ. Và còn cuộn lại, duỗi ra nữa đó.” Tôi chẳng biết nàng hay đùa. “Em có làm vậy sao?” “ cách dịu dàng, tất nhiên. Dịu dàng và cực kỳ âu yếm. Và luôn thích vậy mà.” “ thích hả?” “ có cả đống mánh lới khiến em làm thế.” Tôi gài số xe nhưng vẫn giữ chân phanh. “Em là mời gọi em uốn nắn hả?” “Nhiều hôm em nghĩ thúc đẩy việc đó.” “ chẳng biết em hay đùa.” “Em biết mà. đáng .” “Chó con mới đáng . phải chó con.” “ và chó con. Hết sức đáng .” “Em .” “Em ư?” Tôi quan sát nàng kỹ. “, phải em đùa.” “Em đùa à?” Tôi thở dài, “ nhìn thấy người chết được chứ nhìn thấu em thua.” Khi chúng tôi chạy ra khỏi bãi đậu xe, sĩ quan Varner đậu xe gần cửa chính vào Green Moon Lanes. Thay vì lẳng lặng giám sát nơi này với hy vọng tóm cổ được Robertson trước khi màn bạo lực diễn ra ta lại làm lộ mình hết cỡ, hệt như người phá đám. Hiểu và thực nhiệm vụ theo kiểu này rất nhiều khả năng phải điều mà cảnh sát trưởng chấp thuận. Khi chúng tôi chạy ngang qua, sĩ quan Varner vẫy tay. Hình như ta ăn bánh. Bà ngoại Sugars luôn luôn phản bác suy nghĩ tiêu cực vì bà tin cách dị đoan rằng khi chúng ta lo nghĩ sợ phải đau buồn bởi chuyện hay thực ra chúng ta mời gọi điều cực kỳ khủng khiếp mà ta sợ hãi, và chúng ta đảm bảo cho việc diễn ra cái kiện mà ta khiếp đảm. Thế nhưng tôi thể thôi nghĩ rằng quá dễ để Bob Robertson có thể tiến đến xe tuần tra từ phía sau và bắn vào đầu Simon Varner trong lúc ta ngấu nghiến cái bánh Krispy Kremes.
CHƯƠNG 24 Chị Viola Peabody, nhân viên phục vụ mang bữa trưa cho tôi và Terri ở Quán Vỉ nướng mới cách đây tám tiếng đồng hồ đầy kiện, sống cách xa Camp’s End chỉ có hai khu nhà, nhưng nhờ khả năng trồng vườn, sơn phết và làm mộc mệt mỏi của chị mà ngôi nhà như thế giới cách xa những con phố ảm đạm kia. Tuy bé đơn sơ nhưng mái ấm này giống ngôi nhà thần tiên trong tranh lãng mạn của Thomas Kinkade. Dưới bóng trăng khuyết, tường nhà sáng dịu như thạch cao tuyết hoa lấp lánh và ngọn đèn soi tỏ những cánh hoa đỏ thẫm nhánh dây leo trang trí hàng rào mắt cáo nằm bên hông và nhô ra phía trước. tỏ ra ngạc nhiên khi thấy chúng tôi đến bất ngờ vào giờ này, chị Viola ân cần đón chào Stormy và tôi, mỉm cười hỏi mời chúng tôi dùng cà phê hay trà đá, nhưng hai đứa từ chối. Chúng tôi ngồi trong gian phòng khách , nơi chính chị Viola tháo rời và thay lại sàn gỗ. Chị kết mảnh vụn thành tấm thảm. Chị lấy vải hoa sặc sỡ may rèm cửa và những tấm vải bọc bàn ghế khiến đồ đạc trông mới ra. Ngồi ở mép ghế bành, chị Viola mảnh khảnh như thiếu nữ. Việc mang nặng đẻ đau và những gánh nặng cuộc sống để lại dấu vết nơi chị. Trông chị già nua hoặc ưu phiền khi làm người mẹ độc thân nuôi hai đứa con năm và sáu tuổi ngủ ở trong phòng. Chồng chị, Rafael, kẻ bỏ rơi chị và góp xu tiền trợ cấp cho con, là tên ngốc hoàn hảo đến mức lẽ ra phải bắt ăn mặc như thằng hề, thêm cái mũ lố bịch và đôi giày mũi cong cho đủ bộ. Ngôi nhà có máy điều hòa. Cửa sổ để mở và cây quạt điện đặt sàn, cánh quạt chuyển động mang đến ảo giác mát mẻ cho khí. Chồm ra trước đưa hai tay ôm gối, chị Viola đổi nụ cười thành vẻ chờ đợi nghiêm nghị vì chị biết lý do tôi buộc phải đến đây. “Chuyện giấc mơ của chị phải ?” Chị dịu dàng lên tiếng. Tôi cũng khẽ để hai đứa bé ngủ. “Kể cho em nghe lần nữa .” “Chị thấy chính mình, lỗ trán, mặt chị... dập nát.” “Chị nghĩ chị bị bắn.” “Bị bắn chết,” chị xác nhận, chắp hai tay lại giữa gối như cầu nguyện. “Mắt phải của chị đỏ ngầu và lồi lên rất ghê, gần nửa lồi ra khỏi hốc mắt.” “Những giấc mơ lo âu,” Stormy lên tiếng, có ý đoán chắc lại lần nữa. “Chúng liên quan gì tới tương lai đâu.” “Chúng ta ở ngoài phạm vi hiểu biết này,” chị Viola với nàng. “Odd... ấy cũng có cùng ý kiến đó hồi trưa.” Chị nhìn tôi. “Hẳn là em đổi ý, nếu em đến đây.” “Trong mơ chị ở đâu?” “ nơi nào cả. Em biết đó, nơi trong mơ… hoàn toàn mờ nhạt, biến đổi.” “Chị có bao giờ chơi bowling ?” “Trò đó tốn kém lắm. Chị phải để dành hai khoản tiền đại học. Mấy đứa con chị phải học thành tài.” “Chị có bao giờ vào trong Green Moon Lanes chưa?” Chị lắc đầu, “Chưa.” “Có điều gì đó trong mơ cho thấy nơi đó có thể là sân chơi bowling ?” “. Như chị , nó phải bất kỳ nơi nào. Sao em đến sân chơi bowling? Em cũng có giấc mơ à?” “Dạ phải, em có mơ.” “Người ta bị chết phải ?” chị Viola hỏi. “Dạ.” “Có những giấc mơ nào của em trở thành chưa?” “Thỉnh thoảng,” tôi thừa nhận. “Chị biết em hiểu mà. Đó là lý do chị nhờ em bói cho chị.” “Kể cho em nghe thêm về giấc mơ của chị , chị Viola.” Chị nhắm mắt cố nhớ. “Chị chạy khỏi cái gì đó. Có những cái bóng, vài tia sáng nhưng có gì cụ thể hết.” Giác quan thứ sáu của tôi độc đáo về bản chất và mức độ ràng. Nhưng tôi tin nhiều người có những năng lực tri giác siêu nhiên chưa được phát và ít gây ấn tượng hơn, những năng lực đó thỉnh thoảng bộc lộ trong suốt cuộc đời họ: các linh cảm đôi lúc đến dưới hình thức giấc mơ, cũng như những giây phút khác nảy sinh cảm nhận và thấu hiểu kỳ lạ. Họ thể thăm dò những trải nghiệm đó phần vì họ tin thừa nhận siêu nhiên là điều phi lý. Họ cũng hoảng sợ, thường là cách vô thức, trước viễn cảnh mang trí óc và trái tim đến với của vũ trụ phức tạp và ý nghĩa hơn rất nhiều cái thế giới vật chất mà nền giáo dục với họ đó là tổng hợp của tất cả mọi thứ. Vì thế tôi ngạc nhiên khi cơn ác mộng của chị Viola, lúc trưa có vẻ chả là gì, giờ xét cho cùng tỏ ra là vấn đề quan trọng. “Giấc mơ của chị có giọng , thanh ?” Tôi hỏi chị ấy, “Của số người có.” “Của chị có. Trong mơ, chị nghe thấy được chính mình thở. Và đám đông.” “Đám đông à?” “ đám đông la hét, như thanh trong sân vận động.” Bối rối, tôi . “ nơi như vậy ở đâu trong thị trấn Pico Mundo?” “Chị biết. Có thể là trận bóng chày Little League.” “ có đám đông lớn đến vậy ở trong những trận như thế,” Stormy lưu ý. “Đâu nhất thiết phải cả ngàn giọng . Có thể vài trăm người,” chị Viola . “Chỉ là đám đông, tất cả đều la hét.” Tôi lên tiếng, “Vậy rồi chị thấy mình bị bắn thế nào?” “ thấy nó diễn ra. Những cái bóng, tia sáng, chị chạy và trượt chân, ngã chống tay và đầu gối.” Đôi mắt chị Viola cử động sau hàng mi như chị ngủ và lần đầu tiên trải qua cơn ác mộng. “… chống tay và đầu gối,” chị lặp lại, “tay dính thứ gì đó trơn ướt. Đó là máu. Rồi những cái bóng xoay tít ra xa và ánh sáng xoáy vào, và chị nhìn xuống khuôn mặt chết của chính mình.” Chị rùng mình và mở mắt ra. Những giọt mồ hôi bé tí lấm tấm trán và môi của chị. Mặc dù có cây quạt điện nhưng căn phòng vẫn nóng. Song chị ấy hề đổ mồ hôi trước khi bắt đầu nhớ lại giấc mơ. “Còn gì khác , chi tiết nào khác nữa?” Tôi hỏi. “Ngay cả điều nhặt nhất cũng có thể giúp em. Chị ở đâu... Ý em là xác chết của chị... nằm cái gì? Nền loại gì? Có đường nhựa…” Chị ấy nghĩ ngợi giây lát, lắc đầu. “ biết. Chỉ có duy nhất thứ khác nữa chính là chàng, chàng chết.” Tôi ngồi thẳng hơn nữa ghế. “Ý chị là … thi thể khác à?” “Cạnh chị... cạnh xác chị. ta nằm hơi nghiêng cánh tay quật ra sau lưng.” “Có các nạn nhân khác ư?” Stormy hỏi. “Có thể. Chị thấy ai ngoài ta.” “Chị có nhận ra ta ?” “ thấy mặt ta. Khuôn mặt quay qua bên kia.” Tôi lên tiếng. “Chị Viola, nếu chị có thể cố hết sức nhớ ra…” “Dù sao chị cũng chú ý đến ta. Chị quá sợ hãi băn khoăn xem ta là ai. Chị nhìn khuôn mặt chết của chính mình và cố hét lên nhưng thể, và chị cố hơn nữa rồi chị bật dậy giường, tiếng hét vang ra nhưng em biết đấy, chỉ là tiếng khào khào.” Ký ức khiến chị Viola xúc động. Chị toan đứng lên khỏi ghế. Nhưng chân chị đứng vững. Chị lại ngồi xuống. Cứ như được đọc tâm trí của tôi, Stormy cất giọng hỏi. “ ta mặc đồ gì?” “Gì cơ... chàng trong mơ đó hả? chân bị bẻ quật ra sau, chiếc giày bung ra nửa. chiếc giày da.” Hai đứa tôi chờ đợi trong lúc chị Viola lục lại trí nhớ. Những giấc mơ ngập đầy như kem khi chúng phô bày, trở thành sữa kem khi ta tỉnh dậy và lúc đó chúng bay biến khỏi tâm trí ta, để lại lớp cặn thừa như nước thấm qua mảnh vải thưa. “Quần ta dính máu tung tóe,” chị Viola . “Chị nghĩ là quần kaki. Là chiếc quần màu nâu.” Cây quạt xoay chầm chậm rung rinh cành lá của cây cọ đặt trong chậu nằm ở góc phòng, từ những chiếc lá dấy lên thanh xào xạc khô khốc khiến tôi liên tưởng đến bầy gián và lũ chuột chạy nhốn nháo, và có gì tốt đẹp cả. Đọc những chi tiết cuối cùng trong mơ lúc này hãy còn sót lại mảnh vải thưa của trí nhớ, chị Viola lên tiếng, “ cái áo thun cổ có bâu…” Tôi đứng dậy khỏi ghế. Tôi cần di chuyển. Nhận thấy căn phòng quá để có thể lại nhưng tôi vẫn đứng. “Xanh lá cây,” chị Viola . “ cái áo thun xanh lá cây cổ có bâu.” Tôi nghĩ đến chàng phía sau quầy cho thuê giày tại Green Moon Lanes, tóc vàng rót bia phía sau quầy rượu, cả hai đều mặc đồng phục làm việc mới. Giọng trở nên càng khẽ khàng hơn, chị Viola . “ chị nghe Odd. Nhìn mặt chị xem. Em có thấy chết chóc nơi chị ?” Tôi đáp, “Có.” CHƯƠNG 25 Tuy tôi thể xem mặt để khám phá tương lai hay những bí mật trong tim nhưng tôi thể nhìn thêm giây phút nào nữa khuôn mặt chị Viola Peabody vì tôi hình dung cái điều tôi thể ra , và trong con mắt của tâm trí tôi ra cảnh những đứa con mồ côi mẹ đứng tại nấm mồ của chị. Tôi đến cửa sổ mở toang. Ngoài kia là mảnh sân bên hông nhà lấp ló những cây tiêu. Trong bóng tối nóng ấm bay tới mùi hương dịu dàng của khóm hoa lài được vun trồng và chăm sóc bởi đôi tay chu đáo của chị Viola. Bình thường tôi sợ ban đêm. Thế nhưng tôi sợ đêm nay vì chuyển giao từ ngày mười bốn tháng Tám sang ngày mười lăm tháng Tám đến nhanh như chuyến tàu tốc hành, như thể vòng quay của trái đất bị ngón tay sùng đạo búng cho tăng tốc dữ dội. Tôi quay sang chị Viola. Chị vẫn ngồi ở mép ghế. Đôi mắt luôn mở to của chị giờ trông nghiêm nghị, và khuôn mặt da nâu dường như mang chút màu xám xịt. Tôi lên tiếng, “Ngày mai chị nghỉ làm phải ?” Chị gật đầu. Chị Viola có người em trông giúp bọn trẻ nên chị làm việc ở Quán Vỉ nướng sáu ngày tuần. Stormy hỏi. “Chị có kế hoạch gì ? Ngày mai chị làm gì?” “Chị tính buổi sáng làm việc quanh quẩn trong nhà. Luôn có việc để làm ở đây. Buổi chiều... dành cho các bé.” “Ý chị là Nicolina và Levanna hả?” tôi hỏi, gọi tên hai đứa con của chị. “Thứ Bảy là sinh nhật Levanna. Con bé tròn bảy tuổi. Nhưng Quán Vỉ nướng thứ Bảy đông khách, nhiều tiền bo. Chị thể bỏ việc. Thế nên nhà chị ăn mừng sớm.” “Ăn mừng ra sao?” “Bộ phim mới, quả bom tấn đối với toàn thể trẻ con, bộ phim có chú chó. Mẹ con chị xem suất bốn giờ.” Trước khi Stormy cất lời, tôi nắm được cốt lõi điều nàng . “Chắc có nhiều hơn đám đông trong rạp chiếu phim mát mẻ vào buổi chiều mùa hè hơn là trận bóng chày Little League.” Tôi hỏi chị Viola. “Chị định làm gì sau khi xem phim?” “ Terri đưa bọn trẻ đến Quán Vỉ nướng, dự tiệc với ấy.” Quán Vỉ nướng có thể trở nên ồn ào khi tất cả các bàn đều đầy người nhưng tôi nghĩ cuộc trò chuyện say mê của những thực khách quen trong quán ăn của chúng tôi lại có thể bị nhầm lẫn thành la hét của đám đông. Tất nhiên trong các giấc mơ, mọi thứ đều có thể bị bóp méo, kể cả thanh. Với cánh cửa sổ để mở sau lưng, thình lình tôi cảm thấy nguy hiểm đến mức khiến da sau gáy dúm dó lại. Tôi nhìn trở ra mảnh sân bên hông nhà. Mọi thứ xem ra vẫn như phút trước. Những nhánh cây tiêu tha thướt rũ xuống trong khí ban đêm lặng gió, ngào ngạt hương hoa lài. Bóng tối và bụi rậm bện xoắn những lùm đen khác biệt của chúng vào nhau, nhưng tôi có thể chúng tạo nơi nấp cho Bob Robertson hay ai khác. Tuy thế tôi vẫn bước ra xa, sang bên hông cửa sổ rồi quay lại chị Viola lần nữa. “Em nghĩ chị phải thay đổi kế hoạch ngày mai thôi.” Để cứu chị Viola khỏi số mệnh này, biết đâu tôi lại kết án người khác phải chết thê thảm thế chỗ chị ấy, hệt như cảnh ngộ có thể xảy ra nếu tôi cảnh báo nhân viên tóc vàng ở quầy rượu tại sân chơi bowling. Khác biệt duy nhất là tôi quen tóc vàng... còn chị Viola lại là người bạn. Đôi khi những lựa chọn phải trái khó khăn và phức tạp được quyết định bằng lý trí, ít hơn tình cảm. Có lẽ những quyết định đó là viên đá lát đường dẫn xuống địa ngục; nếu vậy, tuyến đường của tôi được lát đầy và ủy ban đón khách nắm tên tôi. Để biện hộ, tôi chỉ có thể rằng tôi cảm thấy, thậm chí cả về sau, rằng việc cứu chị Viola đồng nghĩa với việc cứu luôn hai đứa con của chị. Ba người chứ phải . “Có bất kỳ hy vọng nào…” chị Viola sờ lên mặt bằng bàn tay năm ngón run lẩy bẩy, lần theo xương hàm, gò má và chân mày như thể phải dò la hộp sọ của mình mà là tìm ra chấp nhận của Tử thần về quá trình thay chỗ cho chị ấy. “... bất kỳ hy vọng nào rằng chuyện này có thể chuyển khỏi chị ?” “Định mệnh phải con đường thẳng tắp,” tôi , trở thành nhà tiên tri mà lúc trưa hôm nay tôi từ chối làm công việc này cho chị. “Có những ngã ba đó rất nhiều lộ trình khác nhau dẫn đến những cái đích khác nhau. Chúng ta được tự ý chọn đường.” “Cứ làm những gì Odd ,” Stormy khuyên, “và chị sao đâu.” “ dễ như vậy,” tôi nhanh. “Chị có thể thay đổi con đường chị nhưng đôi lúc nó có thể ngoặt ngược trở lại dẫn chị thẳng tới cùng định mệnh khó thay đổi kia.” Chị Viola nhìn tôi bằng ánh mắt rất đỗi khâm phục, thậm chí đến mức kinh sợ. “Chị biết chắc em hiểu những việc này mà Odd, mọi thứ về Thế giới bên kia và Kiếp sau.” thoải mái trước lòng ngưỡng mộ của chị ấy, tôi bước đến cánh cửa sổ để mở khác. Chiếc Mustang của Terri đậu dưới ngọn đèn đường phía trước ngôi nhà. Mọi thứ tĩnh lặng. thứ gì cần báo động. thứ gì và tất cả mọi thứ. Chúng tôi tiến hành biện pháp để đảm bảo mình bị theo dõi từ chỗ trung tâm bowling. Dù sao tôi vẫn lo lắng vì xuất của Robertson tại nhà Ozzie “bé” và lần nữa tại nghĩa trang khiến tôi bất ngờ, và tôi đủ sức để bị bất ngờ đến lần thứ ba. “Chị Viola,” tôi cất giọng, lần nữa quay lại phía chị, “thay đổi kế hoạch cho ngày mai chưa đủ đâu. Chị cũng cần duy trì đề phòng nữa, cảnh giác với bất cứ cái gì có vẻ... ổn.” “Chị nhấp nhổm như con dế rồi đây.” “Vậy tốt. Nhấp nhổm giống đề phòng.” Chị gật đầu, “Em đúng.” “Chị cần bình tĩnh hết mức có thể.” “Chị cố. Chị cố hết sức.” “Bình tĩnh và tinh ý, chuẩn bị ứng phó nhanh trước mọi mối đe dọa nhưng đủ bình tĩnh nhìn nó xảy đến.” Ngồi ngay thẳng mép ghế, chị vẫn có vẻ sẵn sàng nhảy dựng như con dế. “Sáng mai,” Stormy lên tiếng, “chúng em đưa cho chị bức ảnh của cái gã chị phải coi chừng.” Nàng nhìn qua tôi, “ lấy cho chị ấy bức ảnh của gã được Odd?” Tôi gật đầu. Cảnh sát trưởng cho tôi bức ảnh Robertson do sở giao thông lập ra được phóng to in qua máy vi tính. “Gã ra sao?” chị Viola hỏi. Theo cách sinh động nhất có thể, tôi mô tả Gã Nấm, kẻ có mặt tại Quán Vỉ nướng trong suốt ca làm việc đầu tiên, trước khi chị Viola đến. “Nếu chị thấy gã tránh xa ra. Chị biết điều tồi tệ nhất đến. Nhưng em nghĩ có bất cứ chuyện gì xảy ra tối nay đâu. phải tại đây. Mọi dấu hiệu cho thấy gã dự định làm vụ lớn ở nơi công cộng, nhiều người…” “Ngày mai, đừng xem phim chị nhé,” Stormy dặn. “Ừ, chị đâu,” Viola cam đoan. “Và cũng đừng ra ngoài ăn tối luôn.” Tôi hiểu có thể được gì từ việc liếc qua Nicolina và Levanna nhưng bỗng nhiên tôi nghĩ tôi nên rời ngôi nhà mà chưa thấy bọn trẻ. “Chị Viola, em nhìn hai bé được ?” “Bây giờ à? Bọn trẻ ngủ rồi.” “Em đánh thức các bé đâu. Nhưng việc này... quan trọng.” Chị đứng dậy khỏi ghế và dẫn chúng tôi vào căn phòng hai con chị ở chung: hai cây đèn, hai bàn đặt đầu giường, hai cái giường và hai bé xinh như thiên thần mặc bộ đồ thun ngủ say, đắp tấm khăn trải giường chứ có mền. cây đèn có công tắc ba nấc được chỉnh ở mức sáng yếu nhất. Màu vàng nhạt tỏa ra thứ ánh sáng dịu, mát mắt. Hai khung cửa sổ mở ra màn đêm nóng bức. Mong manh như linh hồn, con bướm trắng đục vỗ cánh liên hồi lên tấm lưới chắn với nỗi tuyệt vọng của tâm hồn tội lỗi run rẩy kích động trước cánh cổng thiên đường. Gắn vào mặt trong của cửa sổ với chốt khóa khẩn cấp mà từ ngoài thể với tới là những song sắt nhằm ngăn chặn tên như Harlo Landerson đến gần hai bé . Lưới chắn và chấn song có thể ngăn bướm và lũ điên nhưng chặn được ông kẹ. Năm tên ở trong phòng.
CHƯƠNG 26 Hai hình thù mang đến tai ương đứng ở mỗi giường, những kẻ ghé thăm từ địa ngục, những du khách bước ra khỏi phòng tối. Bọn chúng cúi xuống các bé và có vẻ xem xét với thích thú cực độ. Bàn tay của chúng, nếu chúng có tay, lơ lửng vài phân bên khăn trải giường và dường như chầm chậm lần theo vòng quanh cơ thể bọn trẻ. Tôi biết chắc bọn chúng làm gì, nhưng tôi cho rằng chúng bị thu hút đến với sức sống tràn trề của Nicolina và Levanna, và bằng cách nào đó chúng đắm chìm trong sức sống ấy. Lũ sinh vật này có vẻ biết chúng tôi vào phòng. Chúng mê mệt nếu phải gần như bị thôi miên trước ánh hào quang các bé phát ra, ánh hào quang vô hình đối với tôi nhưng ràng khiến chúng lóa mắt. Con quái thứ năm bò sàn phòng ngủ, chuyển động của nó biến đổi và uốn éo như loài bò sát. Dưới giường Levanna, nó trượt dài như để quấn chặt ở đó, vậy mà chốc lát sau nó lại chồm lên với kiển vặn vẹo như rồng lửa, để lướt sang gầm giường Nicolina và lặng lẽ trồi thụt thân hình như con rắn vùng vẫy chậm chạp. thể kiềm chế cơn rùng mình, tôi cảm giác kẻ xâm nhập thứ năm này thưởng thức hương thơm tuyệt diệu nào đó, phần tinh túy còn sót lại sau khi đôi chân các bé bước qua. Và tôi ngỡ như, hoặc mong là tôi cứ ngỡ mình thấy tên ông kẹ quằn quại này ngừng liếm láp tấm thảm bằng cái lưỡi mỏng lạnh. Khi tôi dám vượt qua ô cửa, chị Viola thầm, “Ổn cả. Bọn trẻ ngủ sâu rồi, cả hai đứa.” “Các bé đẹp,” Stormy thốt lên. Chị Viola rạng rỡ niềm tự hào. “Bọn trẻ đúng là các bé ngoan.” Thấy trong nét mặt tôi loáng thoáng phản ánh cái điều ghê tởm xâm chiếm tâm trí tôi, chị hỏi, “Chuyện gì ổn vậy?” Nhìn sang trong lúc tôi cố nở nụ cười gượng gạo, Stormy lập tức ngờ ngợ ra . Nàng liếc mắt ngó vào những góc phòng mờ ảo, trái, phải và trần, hy vọng bắt gặp chí ít thoáng lướt nhanh của thứ siêu nhiên bất kỳ nào đó hình đối với tôi. Tại giường, bốn tên ông kẹ khom mình. Có lẽ chúng là linh mục trong nền tôn giáo của ma quỷ, người Aztec tại bệ thờ giết người hiến tế, vì tay chúng di chuyển ngoằn ngoèo và dứt theo động tác ra dấu nghi thức bên hai bé ngủ. Khi tôi thể trả lời ngay câu hỏi của chị Viola, chị tưởng tôi thấy có điều ổn với con chị và chị tiến bước về phía giường. nhàng tôi nắm chặt tay chị và kéo chị lại. “Em xin lỗi, chị Viola. có chuyện gì hết. Em chỉ muốn chắc chắn các bé an toàn. Và với những chấn song cửa sổ kia các bé an toàn.” “Bọn trẻ biết cách dùng chốt khóa khẩn cấp,” chị . trong các thực thể cạnh giường Nicolina xem ra tỉnh cơn mê và nhận ra diện của chúng tôi. Tay nó thực những cử động kỳ quái chậm lại nhưng dừng hẳn, đồng thời nó ngẩng cái đầu như đầu chó có mắt, săm soi về phía chúng tôi với vẻ dữ dội, gây bối rối. Tôi miễn cưỡng đành để các bé ở lại với năm bóng ma kia mà chẳng thể làm gì để trục xuất chúng . Vả lại, từ tất cả những gì tôi hiểu về bọn ông kẹ, chúng có thể trải nghiệm thế giới này bằng số giác quan, nếu phải bằng toàn bộ năm giác quan thông thường, song chúng dường như có bất kỳ tác động nào lên các thứ nơi đây. Tôi chưa bao giờ nghe chúng gây ra thanh, chưa bao giờ thấy chúng di chuyển vật thể, ngay cả hành trình của chúng còn ảnh hưởng đến đám bụi bay trong khí nữa là. Thân hình chúng chứa đựng vật chất thua kém cả hồn ma lững lờ bên cái bàn trong buổi gọi hồn. Chúng là sinh vật trong mơ khi giấc ngủ còn chưa đến. Các bé bị hại. phải ở đây. phải lúc này. Hoặc tôi hy vọng thế. Tôi ngờ rằng những quái du hành đến thị trấn Pico Mundo để giành chỗ quanh lễ hội máu tiêu khiển trong đêm trước ngày diễn ra kiện chính. Chắc chúng lấy làm vui thích với việc quan sát nạn nhân trước khi vụ nổ súng khai hỏa; chúng khoái trá và háo hức quan sát những người vô tội hoàn toàn biết mình cận kề cái chết. Giả vờ biết đến những kẻ xâm nhập hệt cơn ác mộng kia, đặt ngón tay lên môi như đề nghị chị Viola và Stormy cẩn thận kẻo đánh thức các bé, tôi kéo cả hai người cùng tôi ra khỏi phòng. Tôi khép hờ cánh cửa lại hai phần ba giống như lúc chúng tôi đến, để mặc bọn ông kẹ trượt sàn, đánh hơi và giẫy đạp, bày ra màn khoa tay múa chân uốn lượn với mục đích khó hiểu. Tôi lo sợ hay vài tên theo ra phòng khách nhưng chúng tôi tới cửa trước mà vẫn có bóng dáng kẻ hộ tống siêu nhiên nào. Tôi với chị Viola khẽ khàng giống lúc trong phòng hai bé, “Có chuyện em nên làm . Khi em ngày mai chị đừng xem phim, em ngụ ý rằng các bé cũng nên . Đừng gửi con chơi cùng bà con họ hàng. xem phim, đâu hết.” Vầng trán bóng nhẵn của chị Viola biến thành những đường viền nâu, “Nhưng hai đứa con dễ thương của chị... trong giấc mơ chúng bị bắn.” “ giấc mơ báo điềm nào tiết lộ hết mọi chuyện xảy ra. Chỉ là những phần rời rạc.” Thay vì chỉ làm gia tăng nỗi lo của chị ấy, hàm ý trong tuyên bố của tôi làm nét mặt chị đanh lại giận dữ. Tốt. Chị ấy cần sợ hãi và tức giận để giữ tỉnh táo, để đưa ra những quyết định khôn ngoan trong cái ngày trước mắt. Để củng cố thêm quyết tâm của chị, tôi , “Thậm chí nếu chị thấy con chị bị bắn... lạy trời đừng xảy ra, bị chết... chị có thể nhớ lại được khi thức giấc.” Stormy đặt tay lên vai chị Viola. “Chị đâu muốn có những hình ảnh đó trong tâm trí.” Trở nên căng thẳng vì cương quyết, chị Viola , “Mẹ con chị ở nhà, mở buổi tiệc , chỉ mấy mẹ con thôi.” “Em cũng chắc như vậy là sáng suốt,” tôi lên tiếng. “Sao ? Chị biết địa điểm trong giấc mơ của chị là ở đâu, nhưng chắc chắn phải ngôi nhà này.” “Hãy nhớ... những con đường khác nhau có thể dẫn chị tới cùng định mệnh khó thay đổi.” Tôi muốn kể cho chị nghe về bọn ông kẹ trong phòng con chị, vì như thế làm lộ toàn bộ bí mật của tôi. Chỉ có Terri, cảnh sát trưởng, bà Porter và Ozzie “bé” biết đa phần về tôi, và chỉ duy nhất Stormy biết tất cả. Nếu đưa quá nhiều người vào vòng thân cận, bí mật của tôi lọt ra ngoài. Tôi trở thành bản tin giật gân các phương tiện truyền thông, kẻ quái gở đối với nhiều người, tên tuổi uy tín đối với vài người. đơn giản và những giờ phút yên ổn vĩnh viễn vượt xa tầm với của tôi. Cuộc đời tôi phức tạp đến mức còn đáng sống. Tôi với chị Viola, “Trong giấc mơ của chị, ngôi nhà này phải nơi chị bị bắn gục. Nhưng nếu số định chị bị bắn ở rạp chiếu phim mà giờ chị xem phim... biết đâu định mệnh đến đây tìm chị. có khả năng. Nhưng phải thể.” “Còn trong giấc mơ của em, ngày mai là thời điểm đó à?” “Đúng vậy. Cho nên em thấy tốt hơn nếu chị tiến hành hai bước để thoát khỏi tương lai chị thấy trong cơn ác mộng.” Tôi liếc nhìn ra sau nhà. Vẫn có ông kẹ nào đánh liều theo sau chúng tôi. Tôi nghĩ chúng có tác động nào lên thế giới này. Tuy nhiên, liều lĩnh với mạng sống hai bé, tôi hạ thấp giọng hơn nữa. “Bước , đừng đến rạp chiếu phim hay Quán Vỉ nướng ngày mai. Bước hai, cũng đừng ở đây.” Stormy hỏi, “Em chị sống cách đây bao xa?” “Hai khu nhà. Maricopa Lane.” Tôi , “Em ghé qua vào buổi sáng, khoảng giữa chín mười giờ, mang theo bức ảnh hứa. Em đưa chị và hai bé sang chỗ em chị.” “Em cần phải làm vậy đâu, Odd. Mẹ con chị có thể tự đến đó.” “. Em muốn đưa mẹ con chị . Chuyện đó cần thiết.” Tôi cần chắc chắn ông kẹ nào bám theo chị Viola và hai con của chị. Hạ thấp giọng thành tiếng thào, tôi , “Đừng kể với Levanna và Nicolina việc chị sắp làm. Và đừng gọi điện cho em chị thông báo chị đến. Chị có thể bị nghe trộm.” Chị Viola nhìn bao quát phòng khách, lo âu nhưng cũng ra chiều ngạc nhiên, “Ai nghe được?” Vì cần thiết, tôi trở nên thần bí: “Những thế lực... nào đó.” Nếu bọn ông kẹ nghe lỏm được kế hoạch đưa bọn trẻ sang nhà dì chúng cuối cùng chị Viola có thể thực được hai bước an toàn để ra khỏi cái định mệnh mơ thấy mà chỉ duy nhất bước. “Chị có tin, như chị , rằng em hiểu về Thế giới bên kia và Kiếp sau ?” Chị gật đầu, “Có, chị tin.” Đôi mắt chị mở to kinh ngạc đến mức khiến tôi sững sờ, khiến tôi nhớ đến cặp mắt trợn trừng của những xác chết. “Vậy tin em việc này , chị Viola. Nếu chị có thể, hãy ngủ chút. Em ghé vào buổi sáng. Đến tối mai, chuyện này trở thành cơn ác mộng mà thôi, điều gì biết trước hết.” Tôi cảm thấy tự tin như kiểu tôi phát biểu, nhưng tôi mỉm cười và hôn lên má chị. Chị ôm tôi rồi ôm Stormy, “Chị còn cảm thấy đơn độc nữa rồi.” Thiếu cây quạt quay, trời đêm ngoài này oi ả hơn khí nóng bức trong ngôi nhà . Mặt trăng chầm chậm nhô lên phía các vì sao cao hơn, bỏ tấm mạng che vàng vọt để lộ gương mặt màu bạc của nó. gương mặt chi li như đồng hồ và tàn nhẫn. CHƯƠNG 27 Hơn tiếng nữa là đến nửa đêm. Lo lắng ngày mới có thể mang bọn trẻ vào làn súng nổ, tôi đậu chiếc Mustang phía sau Quán Vỉ nướng Pico Mundo. Khi tôi tắt đèn pha và động cơ, Stormy hỏi, “Có bao giờ nghĩ rời thị trấn này ?” “ tình hy vọng mình phải trong những người cứ nhất quyết lảng vảng quanh đây sau khi chết, như ông Tom Jedd tội nghiệp ngoài Tire World.” “Ý em là có bao giờ rời nơi đây khi còn sống ?” “Chỉ nghĩ thôi khiến đầu quay cuồng.” “Tại sao?” “Ngoài kia rộng lớn lắm.” “ phải tất cả đều rộng lớn. Rất nhiều thị trấn hơn và yên ả hơn cả Pico Mundo.” “ nghĩ ý là... mọi thứ ngoài kia mới. thích những gì biết . Xét đến tất cả mọi việc khác mà phải đối phó... thể cùng lúc xử lý quá nhiều thứ mới được. Tên đường mới, kiến trúc mới, mùi hương mới, tất cả những người mới...” “Em luôn nghĩ sống vùng núi tuyệt.” “Thời tiết mới.” Tôi lắc đầu. “ cần thời tiết mới.” “Dù sao,” nàng , “em có ý rời thị trấn luôn. Chỉ hai ngày thôi. Chúng mình có thể lái xe tới Vegas.” “Ý tưởng của em về nơi hơn, yên ả hơn hơn đó sao? cá đó là nơi có cả ngàn người chết chịu rời .” “Tại sao?” “Những người mất hết mọi thứ họ có tại bàn đổ xí ngầu, vòng quay roulette, sau đó họ trở về phòng và tự bắn vỡ sọ,” tôi rùng mình. “Người tự tử luôn lảng vảng quanh quẩn sau khi chết. Họ sợ tiếp.” “ có cái nhìn cường điệu về Las Vegas, cưng à. Nhân viên dọn phòng ở khách sạn hạng trung đâu phải sáng nào cũng lôi ra cả tá kẻ tự sát.” “Khối người bị bọn du thủ du thực giết hại, xác họ chất trong những chân tường còn ướt bê tông của các khách sạn mới xây. Em có thể đánh cá họ có việc chưa hoàn thành và vô số cơn thịnh nộ sau khi chết. Hơn nữa, cờ bạc.” “Nghe giống cháu trai của bà Pearl Sugars chút nào.” “Bà cố hết sức biến thành tay chơi bài có hạng nhưng e mình khiến bà thất vọng.” “Bà dạy chơi xì phé phải ?” “Ừ. Bà và thường chơi ăn tiền xu.” “Cho dù ăn tiền xu cũng là cờ bạc ăn tiền.” “ phải khi chơi với bà ngoại Sugars.” “Bà để thắng à? Thích .” “Bà muốn làm chuyến du lịch miền tây nam chơi bài với bà. Bà , ‘Odd, bà già đường , phải ghế xích đu trong mái hiên nhà dưỡng lão tồi tệ nào đó với đám bà già hay đánh rắm khoái ngồi lê đôi mách, và bà chết gục mặt xuống mấy lá bài giữa cuộc chơi, phải chết vì buồn chán tại bữa tiệc trà khiêu vũ dành cho những người già rụng hết răng cố nhảy cha-cha bằng khung tập ’.” “ đường ,” Stormy thốt lên, “hẳn có rất nhiều điều mới mẻ.” “Mỗi ngày cứ mới và thêm nhiều thứ mới nữa,” tôi thở dài. “Nhưng bà và nhất định rất vui vẻ. Bà muốn cùng để sẻ chia tiếng cười... và nếu bà qua đời giữa ván bài đặc biệt gay go bà muốn chắc rằng những người chơi khác chia chác phần tiền của bà và vứt xác bà ra sa mạc làm bữa tiệc cho bầy sói đồng cỏ.” “Em hiểu lý do nhưng tại sao chơi bài?” “Vì ngay cả khi bà ngoại Sugars chơi cẩu thả để cho có lợi thế hầu như lúc nào cũng thắng.” “Ý là do... năng lực của à?” “Ừ.” “ thấy được lá bài nào tới à?” “. ấn tượng đến vậy. chỉ có cảm giác khi nào tay hăng hái hơn tay những người chơi khác và khi nào thôi. Mười lần cảm giác tỏ ra chính xác hết chín lần rồi.” “Đó là lợi thế khổng lồ với các lá bài.” “Với xì dách cũng giống hệt vậy, bất cứ trò cờ bạc nào.” “Vậy thực ra nó phải là cờ bạc.” “Thực ra phải. Nó chỉ là... gom tiền.” Stormy hiểu ngay tại sao tôi bỏ bài bạc, “Nó khá giống việc ăn cắp.” “ cần đồng tiền bất lương,” tôi . “Và bao giờ cần khi nào người ta còn muốn ăn những gì được nướng vỉ.” “Hoặc khi nào người ta còn có chân.” “Ừ. Xem như chuyển sang bán lẻ giày.” “Em Vegas phải vì em muốn cờ bạc,” nàng giải thích. “Đó là đoạn đường dài phải để có bữa tiệc gồm tất cả những gì bạn có thể ăn.” “Em Vegas vì chúng mình có thể đến đó trong khoảng ba tiếng, và những nhà thờ làm lễ cưới mở cửa suốt ngày đêm. cần xét nghiệm máu. Chúng mình có thể kết hôn vào bình minh.” Tim tôi giật thót cái lạ mà chỉ Stormy mới có thể khiến nó như thế. “Chà! Vậy gần như đủ cho can đảm để rồi.” “Chỉ gần như thôi ư?” “Chúng mình có thể xét nghiệm máu vào sáng mai, đăng ký kết hôn vào thứ Năm, chính thức nên vợ nên chồng vào thứ Bảy. Và bạn bè của chúng mình có thể đến đó được. muốn có mặt bạn bè, em muốn sao?” “Muốn, nhưng em muốn cưới hơn.” Tôi hôn nàng và , “Sau biết bao lần do dự, sao bỗng nhiên lại hối thúc vậy?” Vì hai đứa tôi ngồi lúc lâu trong ngõ hẻm đèn nên mắt quen hẳn với bóng tối. Nếu tôi nhận thấy trọn vẹn mối lo âu sâu sắc khuôn mặt nàng, trong ánh mắt nàng; quả thực, nàng có vẻ bị dày vò chỉ bởi băn khoăn đơn thuần mà bởi nỗi khiếp đảm thầm lặng. “Này, này,” tôi quả quyết với nàng, “mọi chuyện ổn cả thôi.” Giọng nàng run rẩy. Nàng cứng rắn đến mức dễ rơi lệ. Song trong cái dịu dàng của lời , tôi có thể nghe ra nàng bị ám ảnh, “Suốt từ lúc chúng mình ngồi bên bờ ao nuôi cá chép Nhật và cái gã đó dọc khu vui chơi...” Khi giọng nàng lạc , tôi lên tiếng, “Gã Nấm.” “Ừ. Cái gã khốn nhìn mà sởn gai ốc kia. Kể từ khi em thấy gã... em lo sợ cho . Ý em là, em luôn luôn lo sợ cho , Odd, nhưng em thường làm gì, vì điều ít cần nhất, tất cả mọi thứ, là phu nhân mau nước mắt lúc nào cũng ra rả bảo phải cẩn thận.” “ ‘Phu nhân mau nước mắt’?” “Xin lỗi. Chắc hẳn em hồi tưởng lại cuộc sống trước đây vào những năm 1930. Nhưng đấy, điều ít cần nhất chính là con mụ kích động luôn luôn theo sát .” “ thích cụm từ ‘phu nhân mau nước mắt’ hơn rất nhiều. Nghe này, nghĩ gã này bệnh hoạn cực độ rồi, gã là mười triệu tấn thuốc nổ với thiết bị định giờ nhảy số rất nhanh, nhưng cảnh sát trưởng và bám sát gã rồi, và bọn chộp lấy ngòi trước khi gã nổ.” “Đừng quá chắc chắn. Xin đấy, Odd, đừng quá chắc chắn. Quá chắc chắn với gã này khiến bị giết đấy.” “ bị giết.” “Em sợ cho .” “Đến tối mai,” tôi với nàng, “Bob Robertson, biệt hiệu Gã Nấm, mặc nguyên bộ áo liền quần màu cam do nhà tù phát, và có thể gã làm bị thương vài người hoặc có thể chúng ta ngăn chặn được gã ngay trước lúc gã bóp cò, nhưng bất kể tình hình ra sao, cùng em ăn tối, và chúng mình lên kế hoạch đám cưới, và vẫn có đủ hai tay, hai chân...” “Odd, ngừng lại, đừng thêm gì...” “... vẫn có đúng cái đầu ngốc mà em nhìn đây...” “Xin , ngừng lại .” “... và bị mù vì cần nhìn thấy em, và bị điếc vì làm sao mình lên kế hoạch đám cưới được nếu thể nghe em , và ...” Nàng đấm vào ngực tôi, “Đừng liều mạng, khỉ !” Tại vị trí ngồi, nàng thể vung nắm đấm ra sau đủ để giáng cú ra trò. Tôi gần như thở nổi bởi cú đấm. Ráng sức thở khò khè khe khẽ, tôi hít hơi và , “ lo về chuyện liều mạng. mê tín kiểu đó.” “Có thể em mê tín.” “À, vậy dẹp nó .” Tôi hôn nàng. Nàng hôn lại. Thế giới khi đó mới tốt đẹp làm sao, tôi vòng cánh tay quanh người nàng và , “Ngốc ạ, phu nhân mau nước mắt của . Bob Robertson có thể loạn thần kinh nặng đến mức thậm chí đủ khả năng quản lý nhà nghỉ Bates Motel, nhưng gã vẫn chỉ là tên đần độn. Gã chẳng có gì ngoại trừ mười sáu bánh xe điên dại quay tròn trong đầu. về với em lỗ thủng, vết xước, dấu lõm. Và miếng da nào người được chính quyền liên bang nhận dạng bị bóc toạc ra.” “Gấu Pooh của em,” nàng kêu lên như đôi lúc vẫn hay kêu vậy. Khiến nàng dịu lại đôi chút và phần nào làm nỗi sợ của nàng lắng xuống, tôi cảm thấy mình đúng là đàn ông, như cảnh sát trưởng can đảm và mạnh mẽ trong các bộ phim cao bồi thời xưa, người có nụ cười làm các quý thở phào nhõm, và có thể quét sạch bọn đấu súng ra khỏi phố phường Dodge City mà làm bẩn chiếc mũ trắng tinh. Tôi là kiểu thằng khờ tệ hại nhất. Khi nhìn lại đêm tháng Tám đó, giờ mãi thay đổi bởi tất cả những nỗi đau phải gánh chịu, Odd Thomas còn nguyên vẹn kia dường như là người khác hẳn tôi, tự tin hơn hẳn tôi nay, nhưng từng trải bằng, và tôi thương tiếc cho nó. Tôi được cầu để văn phong của quyển truyện này trở nên quá u sầu. thi sĩ bốn trăm pao đáp cái mông trăm năm mươi pao lên người tôi như là lời bình biên tập, và luôn có đe dọa từ con mèo chứa đầy nước tiểu của ấy.