Giao Lộ Sinh Tử - Dean Koontz (Bestseller, Kinh Dị)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 10


      ˜™






      Suốt hai mươi năm qua, tôi có mặt ở rất nhiều nơi u tối, có chỗ thiếu nguồn vui, có chỗ có niềm hy vọng. Theo kinh nghiệm bản thân nơi nào u tối hơn căn phòng xa lạ trong ngôi nhà của Gã Nấm này.


      Căn phòng có cửa sổ hoặc tất cả cửa sổ đều bị bít chặt và che kín trước mọi ánh nắng tọc mạch. ngọn đèn tỏa sáng. Trong cái u thăm thẳm ấy, nếu có cái đồng hồ điện tử với mặt số phát sáng ánh sáng yếu ớt của những con số trông như đèn hiệu chói lóa.


      Đứng tại ngưỡng cửa, tôi nheo mắt nhìn vào chỗ toàn màu đen tối, đến mức tôi có cảm tưởng phải tôi săm soi căn phòng mà là gian chết chóc tại miền vũ trụ xa xôi, nơi các tinh tú cổ xưa cháy thành tro bụi. Cái lạnh thấu xương thấm sâu vào nơi này hơn những chỗ khác trong nhà và lặng thinh ngột ngạt cũng biện minh rằng đây chính là ga tàu hoang vắng nằm lạc lõng giữa các vì sao.


      Quái lạ hơn hết thảy, ánh sáng ngoài hành lang thể lọt vào địa hạt sau cánh cửa dù tia nhoi. Ranh giới giữa nơi có ánh sáng và chỗ tuyệt đối tối đen sắc nét như đường thẳng được kẻ gờ tường của ngưỡng cửa, lên thanh dọc và sang bên kia viên gạch. Bóng tối hoàn hảo chỉ kháng cự mà còn đẩy lùi hoàn toàn xâm nhập của ánh sáng.


      Đây dường như là bức tường làm bằng thứ đá núi lửa đen tuyền nhất, dù đá này thiếu độ bóng và ánh kim.


      Tôi bạo gan. Nếu tôi bị ném vào chuồng con hổ đói, mà tôi thoát được, chắc chắn tôi cũng cần bồn nước tắm và quần mới sạch như bao người.


      Thế nhưng đường đời khác thường khiến tôi e sợ những mối đe dọa biết và hiếm khi e sợ những mối đe dọa chưa biết, trong khi hầu hết mọi người e sợ cả hai.


      Lửa khiến tôi sợ, đúng thế, động đất, và những con rắn độc. Con người khiến tôi sợ hơn bất cứ gì khác vì tôi biết quá những hành động tàn ác mà con người có thể gây ra.


      Tuy nhiên đối với tôi, các bí mang tính đe dọa nhất về tồn tại đó là cái chết và điều xảy ra sau đó lại chứa nhân tố gây sợ hãi vì tôi đối phó với cái chết mỗi ngày. Hơn nữa tôi có niềm tin rằng nơi cuối cùng tôi đến chỉ đơn thuần là chốn quên lãng.


      Trong những bộ phim kinh dị, bạn có xỉ vả các nhân vật bị bao vây hãy lập tức ra khỏi ngôi nhà ma, hãy khôn lanh và bỏ ? Họ chúi mũi vào những căn phòng có lịch sử án mạng đẫm máu dính líu đến những căn gác xép lơ lửng mạng nhện và hồn ma, đặt chân xuống những tầng hầm lúc nhúc gián và ác quỷ. Và đến khi họ bị chặt-đâm-moi-chém-thiêu với kiểu cường điệu thực tế nhằm hài lòng những đạo diễn “khùng” nhất Hollywood, chúng ta há hốc mồm, run bắn người rồi kêu lên “Đồ ngốc” bởi họ ngu dại tự chuốc lấy cái chết thê thảm.


      Tôi ngu dại mà là người bao giờ chạy trốn khỏi những nơi bị ma ám. Món quà đặc biệt về khả năng nhìn thấy những điều huyền bí được trao từ khi tôi vừa chào đời thúc ép tôi khám phá và tôi thể cưỡng đòi hỏi của năng lực đó như thần đồng nhạc thể cưỡng lại sức hút ghê gớm của cây đàn; tôi lùi bước trước những nguy hiểm chết người như viên phi công máy bay chiến đấu hăm hở lao vào bầu trời chinh chiến khốc liệt.


      Đây là phần của lý do vì sao đôi khi Stormy băn khoăn biết cái mà tôi gọi là món quà ra có phải là lời nguyền hay .


      Cận kề ranh giới đêm đen đặc quánh, tôi giơ tay phải như thể tuyên thệ và đưa lòng bàn tay đến rào cản hiển trước mặt. Dù bóng tối gạt ánh sáng nhưng nó hề đưa sức chống đỡ đối với lực ép tôi gây nên. Bàn tay tôi biến mất trong vùng tối đen như hắc ín.


      “Biến mất” ở đây có nghĩa tôi nhận thấy cảm giác nào, ngay cả mơ hồ nhất, của những ngón tay động đậy bên kia kề mặt bức tường tối tăm. Cổ tay tôi đột ngột nằm trơ ra phía tận cùng như bị cụt.


      Thú lúc ấy tim tôi đập loạn xạ, cho dù tôi thấy đau đớn và tôi thở phào nhõm, mà phát ra tiếng, khi rút tay về và nhìn toàn bộ mấy ngón tay còn nguyên vẹn. Tôi cảm tưởng như vừa thoát khỏi màn ảo giác do Penn và Teller, cặp bài trùng tự xưng là nhà ảo thuật, biểu diễn.


      Thế nhưng khi bước qua ngưỡng cửa, tay nắm chặt cánh cửa, tôi vào vùng ảo giác mà là nơi có nhưng trông huyền ảo hơn hẳn mọi giấc mơ. Bóng tối phía trước vẫn thuần khiết cách kỳ lạ; cái lạnh giảm thinh lặng thực đầy nghẹt như máu đông lại trong tai người chết do bị bắn vào đầu.


      Từ ngoài cửa mảy may nhận biết được chút gì trong căn phòng, nhưng tôi có thể từ trong này nhìn trở ra và thấy hành lang dưới ánh sáng bình thường, thông suốt. Hình ảnh ấy soi rọi vào căn phòng chẳng hơn gì bức tranh vẽ quang cảnh đầy nắng.


      Tôi vừa muốn vừa muốn Gã Nấm quay về và trố mắt nhìn vào phần thân thể duy nhất của tôi giờ đây còn thấy được nếu đứng từ ngoài kia: những ngón tay quặp lại bấu chặt cứng cánh cửa. May thay tôi vẫn mình.


      Vỡ lẽ rằng mình có thể nhìn thấy lối ra hành lang và như vậy có thể tìm được đường thoát nên tôi buông tay khỏi cửa. Bước hẳn vào trong căn phòng ánh sáng và quay lưng lại với hành lang, lập tức tôi trở thành người vừa mù vừa điếc.


      thanh cũng tầm nhìn, tôi nhanh chóng mất phương hướng. Tôi sờ soạng tìm công tắc đèn, khi tìm thấy, tôi bật lên, tắt xuống rồi lại bật lên nhưng vô ích.


      Tôi dần để ý đến tia sáng màu đỏ mà tôi chắc chắn khi nãy nó có ở đó: màu đỏ đầy sát khí của ánh mắt u ám và khát máu, dù đấy phải là ánh mắt.


      Khả năng cảm nhận thực tế gian và khả năng đo khoảng cách chính xác rời bỏ tôi, vì đèn hiệu bé tí kia dường như cách tôi đến cả mấy dặm, nó hệt ánh sáng cột buồm của con tàu xa tít tắp giữa biển đêm. Tất nhiên ngôi nhà nhắn này thể chứa đựng khoảng bao la đến mức như tôi tưởng tượng trước mắt.


      Khi thả tay khỏi công tắc đèn vô dụng, tôi thấy lâng lâng uể oải như kẻ nghiện rượu may bị hơi men bơm phồng lên. Đôi chân dường như còn chạm hẳn xuống sàn nhà khi tôi kiên quyết đến gần tia sáng màu đỏ.


      Ước ao có cơ hội ăn lại món kem dừa đào sôcôla, tôi tiến lên sáu bước, mười bước, hai mươi bước. Ngọn đèn gia tăng kích cỡ mà thực tế có vẻ còn lùi xa khỏi tôi với tốc độ đúng y vận tốc của tôi.


      Tôi dừng chân, quay lại nhìn cánh cửa. Tuy đến gần được tia sáng, nhưng xem ra tôi khoảng hơn mười hai mét.


      Thú vị hơn cả chuyện khoảng cách là việc giờ đây có bóng người đứng ở cánh cửa mở toang. phải Gã Nấm. Người được ánh sáng ngoài hành lang chiếu vào lưng chính là... tôi.


      Cho dù những bí của vũ trụ khiến tôi thất kinh hồn vía nhưng tôi mất khả năng ngạc nhiên, sửng sốt và sợ hãi. Giờ đây, nguyên toàn bộ bàn phím tâm trí tôi tấu bản hợp xướng gồm ba cảm giác đó.


      Tin chắc rằng đây phải cảnh tượng trong gương và rằng tôi thực nhìn chằm chằm “tôi” khác, tuy nhiên tôi vẫn kiểm tra độ chắc chắn bằng cách vẫy tay. Tên Odd Thomas kia vẫy lại giống kiểu hình ảnh phản chiếu lẽ ra phải làm.


      Vì tôi đứng chìm trong bóng tối tràn ngập nên nó thấy tôi, thế là tôi cố hét to về phía nó. Trong cổ họng tôi cảm nhận độ rung của dây thanh nhưng nếu có thanh nào phát ra chắc tôi cũng thể nghe thấy. Ngoài ra rất có khả năng nó làm ngơ trước tiếng hét ấy.


      Ngập ngừng hệt tôi khi nãy, tên Odd Thomas thứ hai này chìa bàn tay thăm dò vào thứ bóng tối sờ sờ, kinh ngạc giống tôi khi nãy trước ảo giác cụt tay.


      Hành động xâm nhập rụt rè ấy có vẻ làm xáo trộn trạng thái cân bằng tinh vi, và căn phòng tối đen biến đổi đột ngột như trục của con quay, trong khi đó tia sáng đó ở vị trí trung tâm vẫn cố định. Chao đảo bởi những sức mạnh nằm ngoài tầm kiểm soát, nhiều như vận động viên lướt sóng có thể văng khỏi ván khi con sóng lớn đánh ập xuống, tôi bị hất ra ngoài căn phòng khác thường ấy cách thần kỳ và... rơi vào phòng khách tẻ ngắt.


      Tôi ngỡ mình ngã phịch xuống nhưng phải, tôi thấy mình đứng gần ngay vị trí đứng khi nãy. Tôi cầm quyển tiểu thuyết lãng mạn lên. Như ban nãy, những trang sách phát tiếng động và tôi chỉ nghe thấy thanh bên trong cơ thể, chẳng hạn tiếng tim đập thình thịch.


      Liếc nhìn đồng hồ đeo tay, tôi thuyết phục bản thân tin rằng đây quả thực là khi nãy. Tôi những được chuyển từ căn phòng tối đen sang phòng khách cách thần bí mà còn bị ném ngược trở về vài phút.


      Vì thoáng chốc vừa rồi tôi nhìn thấy chính mình đứng ngoài cánh cửa ở hành lang, ngó vào bóng đêm đen kịt nên tôi cho rằng nhờ chiếu cố của điều dị thường nào đó trong các định luật vật lý, hai “tôi” có mặt cùng lúc trong ngôi nhà này. tôi đứng dậy với quyển tiểu thuyết của Nora Roberts[15] trong tay, còn “tôi” kia ở tại căn phòng đó.


      Ngay từ đầu, tôi cảnh báo bạn là tôi sống cuộc đời khác lạ rồi mà.


      Vô số trải nghiệm kỳ quặc vào đầu óc và trí tưởng tượng của tôi linh hoạt mà số người gọi là bệnh điên. linh hoạt ấy cho phép tôi thích nghi với các kiện và chấp nhận thực tế du hành vượt thời gian nhanh hơn bạn. thế phải tôi chê bai bạn, xét đến chuyện bạn đủ sáng suốt ra khỏi ngôi nhà ngay tức khắc.


      Tôi bỏ chạy. Tôi cũng lập tức trở lại lộ trình ban đầu đến phòng ngủ của Gã Nấm, với đồ lót và tất vứt lung tung, nho khô Đan Mạch ăn dở nằm bàn cạnh giường, rồi bước sang phòng tắm.


      Thay vì thế, tôi đặt quyển tiểu thuyết lãng mạn xuống và đứng im phăng phắc, thận trọng nghĩ ngợi hết những khả năng có thể xảy ra cuộc đối đầu với Odd Thomas kia, suy tính hợp lý hướng hành động an toàn nhất và phải lẽ nhất.


      Thôi , chuyện này nhảm nhí. Tôi lo lắng về những khả năng có thể xảy ra được chứ tôi đâu đủ trải nghiệm kỳ quặc hay năng lực trí tuệ để hình dung hết thảy, chi đến chuyện tìm ra cách vẹn toàn nhất để né tránh tình huống quái gở.


      Tôi né tránh rắc rối dở hơn đâm đầu vào nó.


      Tại lối ra vào phòng khách, tôi dè dặt liếc nhìn về phía hành lang và phát “tôi” kia đứng ở cánh cửa mở toang của căn phòng tối đen. Đây chắc hẳn là “tôi” khi nãy, lúc chưa bước qua ngưỡng cửa ấy.


      Nếu lúc này tất cả thanh trong ngôi nhà bị thâu tóm hoàn toàn, có thể tôi lớn tiếng gọi tên Odd Thomas kia. Tôi dám chắc làm vậy có khôn ngoan và tôi biết ơn tình cảnh ngăn tôi kêu réo.


      Giả sử chuyện được với nó, tôi cũng chẳng biết gì. Chả lẽ hỏi, “Ê, khỏe ?”


      Nếu tôi bước lại gần và trao cho nó cái ôm thắm thiết, biết đâu nghịch lý về hai Odd Thomas lập tức được giải quyết. trong hai chúng tôi biến mất. Hoặc cũng có thể cả hai nổ tung.


      Những nhà vật lý lỗi lạc cho chúng ta biết hai vật thể, trong mọi hoàn cảnh, thể nào ở cùng nơi vào cùng thời điểm. Họ cảnh báo rằng tất cả nỗ lực đặt hai vật thể ở cùng nơi vào cùng thời điểm đều dẫn đến hậu quả thảm khốc.


      Nghĩ chuyện đó mà xem, rất nhiều quy tắc vật lý cơ bản trở thành phát biểu chính thức quá ư vô lý. Bất kỳ kẻ say rượu nào cố đặt chiếc xe vào vị trí dựng cột đèn đều thành nhà vật lý có khả năng tự học.


      Cứ cho là cả hai “tôi” thể cùng tồn tại mà xảy ra tại họa gì, chẳng lẽ cái viễn cảnh nổ tung nên tôi đứng nguyên ở lối ra vào, quan sát đến khi tên Odd Thomas kia bước qua ngưỡng cửa vào căn phòng đen tối.


      Chắc chắn bạn nghĩ vào lúc Odd Thomas kia xuất phát, nghịch lý thời gian được giải quyết xong và cuộc khủng hoảng do những nhà khoa học dự báo thảm họa mô tả đến hồi kết. Thế nhưng tính lạc quan nơi con người bạn là kết quả từ thực tế bạn sống hạnh phúc trong thế giới năm giác quan. Khác với tôi, bạn bị thúc ép hành động bởi thứ năng lực siêu linh mà bạn hiểu và thể kiểm soát được triệt để.


      Bạn may mắn.


      Ngay khi tên Odd Thomas kia đặt bước chân đầu tiên qua ngưỡng cửa, vào căn phòng ánh sáng, tôi đến ngay cánh cửa để mở sau lưng nó. Tất nhiên tôi thể nhìn thấy nó trong những bí của căn phòng tối đen, nhưng tôi cho rằng chẳng mấy chốc nó xoay người nhìn lại và thấy tôi, kiện mà theo kinh nghiệm của tôi xảy ra y như thế.


      Khi tôi đoán nó phát ra tia sáng đỏ u ám và tiến khoảng hai mươi bước về phía đó, khi nó nhìn lại và thấy tôi đứng đây, tôi xem đồng hồ đeo tay để xác định khởi đầu cho tình huống này, chìa tay vào bóng đen tăm tối chỉ để chắc chắn rằng cảm thấy gì khác biệt về địa hạt lạ lùng này, và rồi tôi bước qua cửa lần nữa.





      CHƯƠNG 11


      ˜™






      Mối bận tâm lớn nhất của tôi, ngoài việc bị nổ tung và trễ hẹn ăn tối với Stormy là nhận ra bản thân rơi vào vòng lặp thời gian, bị đọa đày phải đuổi theo chính mình hết lần này đến lần khác qua khắp ngôi nhà của Gã Nấm và qua cánh cửa vào căn phòng tối đen, mãi mãi dứt.


      Tôi chắc những thứ như vòng lặp thời gian có xảy ra . Nhà vật lý bình thường có thể cười khẩy trước bận tâm của tôi và cho tôi là ngu dốt. Song đây là khủng hoảng của tôi và tôi được tha hồ suy xét thoải mái.


      Yên tâm có chuyện vòng lặp thời gian đâu: Phần còn lại trong truyện của tôi chứa đựng việc tái diễn vô tận các kiện mới vừa mô tả trước đó, dù có những lý do khiến tôi ước gì được vậy.


      Bớt ngập ngừng khi lần thứ hai bước vào căn phòng tối đen, tôi sải chân táo bạo hơn, nhưng vẫn có cảm giác lâng lâng khiến người nôn nao, hướng tới ngọn đèn hiệu đỏ thẫm nằm ngay giữa phòng. Ngọn đèn bí này dường như tỏa ra thứ ánh sáng gay gắt hơn lúc trước, dù nó vẫn làm giảm u ám hệt khi nãy.


      Lần thứ hai tôi liếc nhìn trở lại cánh cửa để mở hướng ra hành lang nhưng cả hai lần đều thấy chính mình. Tuy nhiên tôi cảm nhận trạng thái con quay xoáy đảo bất chợt, như lúc nãy, và tôi lại bị hất ra ngoài căn phòng khác thường ấy...


      ... Lần này tôi rơi vào buổi chiều tháng Bảy nóng bức, thấy mình bước ra khỏi bóng mát nhà để xe, dưới cái nắng chói chang như có cả tá kim khâu màu vàng đâm vào.


      Tôi dừng lại, liếc nhìn lên trời nắng gắt rồi rút lui vào bóng mát.


      thinh lặng tuyệt đối ngự trị trong ngôi nhà vượt ra khỏi giới hạn bốn bức tường. Xa xa, con chó uể oải cất tiếng sủa. chiếc Pontiac cũ với động cơ kêu lạch cạch và dây curoa quạt kêu the thé chạy ngang qua đường.


      Xem đồng hồ, tôi chắc chắn mình ở quá phút trong căn phòng tăm tối. Hình như tôi chỉ bị ném khỏi nhà mà còn được đưa tới tương lai năm hay sáu phút.


      Bên ngoài, mảnh sân gần như cháy sém và trong đám cỏ dại mọc lởm chởm dọc hàng rào dây xích nằm giữa nhà này với nhà kế bên, ve sầu kêu râm ran, như thể phần thế giới ngập nắng bị quấy rầy bởi vô số cuộc tuần hành ngắn hạn.


      Nhiều câu hỏi dấy lên trong tâm trí tôi. câu nào liên quan tới lợi ích khi làm việc trong công ty lốp xe hay chiến lược tài chính mà đầu bếp phục vụ thức ăn nhanh hai mươi tuổi có thể bắt tay vào thực giỏi nhất để chuẩn bị cho lúc về hưu năm sáu mươi lăm tuổi.


      Tôi tự hỏi liệu người đàn ông luôn sau nụ cười ngờ nghệch, người giữ nổi nhà cửa sạch ngăn nắp, người đủ mâu thuẫn đến mức chia thời gian vừa đọc tạp chí khiêu dâm vừa đọc tiểu thuyết lãng mạn, có thể nào là siêu thiên tài giấu mình, kẻ có khả năng biến đổi căn phòng trong ngôi nhà tuềnh toàng thành cỗ máy vượt thời gian bằng các thiết bị điện tử của Radio Shack. Năm này qua năm khác, những trải nghiệm kỳ quặc vắt kiệt tất cả, chỉ để lại vài giọt hoài nghi trong tôi nhưng cách lý giải siêu thiên tài thỏa đáng.


      Tôi tự hỏi liệu Gã Nấm có là người , hay là thứ gì đó mới mẻ với xóm giềng.


      Tôi tự hỏi gã sống ở đây bao lâu, gã giả vờ là ai và quyết tâm làm cái quái gì.


      Tôi tự hỏi liệu căn phòng tối đen có thể nào phải là cỗ máy vượt thời gian mà là thứ thậm chí còn lạ lùng hơn thế. cố liên quan đến thời gian có thể chẳng là gì to tát hơn hiệu ứng phụ của chức năng chính yếu.


      Tôi tự hỏi mình mất bao lâu đứng trong bóng mát nhà để xe xiêu vẹo, nghiền ngẫm tình hình thay vì hành động.


      Cánh cửa giữa nhà để xe và gian bếp, lối đưa tôi vào nhà lúc đầu, tự động khóa lại sau lưng tôi khi lần thứ nhất tôi bước vào trong. Thêm lần nữa, tôi dùng tấm bằng lái cán mỏng làm bật then cài. Tôi thích thú biết rằng cuối cùng tôi cũng nhận lại được gì đó từ thuế thu nhập đóng cho nhà nước.


      Tại gian bếp, vỏ chuối sạm đen tiếp tục nằm quắt queo thớt. người giúp việc vượt thời gian nào chú tâm đến đống chén đĩa bẩn trong chậu rửa.


      Mớ tạp chí khiêu dâm và mấy cuốn tiểu thuyết lãng mạn vẫn nằm bừa bãi nơi phòng khách, nhưng khi đến giữa chừng lối ra vào hành lang, tôi đột ngột dừng lại, sững sờ trước điều thay đổi.


      Tôi có thể nghe thấy bình thường, tiếng chân bước lốp cốp tấm vải lót sàn lâu đời trong gian bếp còn cánh cửa lò xo dẫn sang phòng khách kêu cót két tại những bản lề tra dầu. Cơn lốc của tĩnh lặng còn hút tất cả thanh ra khỏi ngôi nhà nữa.


      khí lạnh băng lúc nãy giờ chỉ còn đôi chút, và ấm dần lên.


      Mùi hôi thối độc nhất vô nhị như thứ hẳn là dây điện chập mạch hòa với thứ hẳn là amoniac cùng vụn than và hạt nhục đậu khấu tỏa bay xa hơn trước nhưng dễ ngửi thấy.


      Bản năng bình thường, hay là giác quan thứ sáu, mách bảo tôi đừng tiến đến căn phòng tối đen. Thực ra, tôi cảm thấy cần khẩn trương rút lui khỏi lối ra vào hành lang gần đó.


      Tôi trở lại gian bếp và trốn sau cánh cửa lò xo, hé cửa khoảng năm phân để nhìn xem mình lẩn tránh kẻ nào, nếu có.


      Chỉ vài giây sau khi tôi nấp kín, bọn ông kẹ kéo cả bầy ra khỏi hành lang, vào phòng khách.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 12

      ˜™





      Bọn ông kẹ di chuyển thường gợi lên trong đầu tôi hình ảnh bầy sói săn mồi. Có lúc chúng khiến tôi nhớ tới cảnh đàn mèo lượn lờ.

      Tràn qua lối ra vào hành lang, đổ xô vào phòng khách, đám đông cá biệt này mang đặc tính khó ưa của loài sâu bọ. Chúng trưng ra tiến trình lục soát thận trọng nhưng mau lẹ như bầy gián.

      Chúng cũng đến với số lượng như gián. Hai mươi, ba mươi, bốn mươi: chúng lúc nhúc chui vào căn phòng, lặng thinh và đen đúa như những cái bóng, nhưng khác với những cái bóng, ông kẹ thoát thân từ bất cứ thực thể nào có thể thả chúng ra.

      Ông kẹ tuôn trào tới cánh cửa chính lỏng lẻo, tới những ô cửa sổ phòng khách trát vôi xấu tệ như những đợt sóng bồ hóng cuồn cuộn bay theo gió. Qua khe nứt và kẽ hở, chúng ùa vào nhà trong buổi chiều ngập nắng của Camp’s End.

      Chúng vẫn tràn ra khỏi hành lang: năm mươi, sáu mươi, bảy mươi và nhiều nữa. Trước giờ chưa khi nào tôi chạm trán với quá nhiều ông kẹ trong cùng lúc như thế này.

      Tuy ở vị trí đứng trong bếp, tôi thể nhìn quanh lối ra vào phòng khách và nhìn xuống hành lang, nhưng tôi biết những kẻ xâm nhập này vào nhà từ đâu. Ông kẹ tự nhiên trồi lên giữa mớ bụi xám ngắt và đống tất nhàu nát dưới gầm giường chưa dọn dẹp của Gã Nấm. Chúng cũng ra từ tủ quần áo lúc nhúc ông ba bị, từ vòi nước ở phòng tắm hay từ bồn cầu. Chúng tới ngôi nhà qua lối căn phòng tối đen.

      Ông kẹ có vẻ háo hức muốn để lại nơi này sau lưng và khám phá thị trấn Pico Mundo cho đến khi tên trong bọn tách khỏi đám đông chộn rộn. Nó đột ngột dừng lại ngay chính giữa phòng khách.

      Trong bếp, tôi thấy dao kéo, hóa chất tẩy rửa, vũ khí nào quen thuộc có thể làm bị thương con quái kia. Tôi nín thở.

      Tên ông kẹ đứng lom khom, đôi tay của nó, nếu đó đúng là tay, lòng thòng ngang đầu gối. Đầu cúi thấp, xoay qua lại, nó kiểm tra tỉ mỉ tấm thảm để đánh hơi theo dấu con mồi.

      kẻ khổng lồ độc ác nào thu mình trong bóng tối che khuất thân hình từ sống mũi trở xuống, mê mẩn mùi máu trẻ con lại trông ra vẻ tà tâm hơn thế.

      Ở kẽ hở giữa thanh dọc và cánh cửa, con mắt trái của tôi cảm giác đau nhói. Tính tò mò trở thành hai hàm đầy răng cưa của cái ê-tô, kẹp cứng lấy tôi ngay cả khi tôi biết khôn bỏ chạy nước rút.

      Khi những tên khác tiếp tục lật giở và xem xét tấm thảm, nữ thần báo oán tìm đến tôi từ hành động cúi xuống của chúng. Vai thẳng đờ. Đầu ngẩng lên, chầm chậm quay trái rồi quay phải.

      Tôi hối hận dùng dầu gội hương đào, rồi bất chợt tôi ngửi thấy mùi thịt mà luồng khói bám đầy dầu mỡ của vỉ nướng gửi lại da và tóc tôi. đầu bếp phục vụ thức ăn nhanh vừa xong việc dễ dàng lưu dấu vết cho sư tử và những thứ tệ hơn.

      Tên ông kẹ đen như mực, to lớn, nhưng có nét gì đặc biệt gợi lên hình ảnh cái đầu thấy được hốc mũi, lỗ tai và nếu nó có mắt do tôi thể phân biệt ra. Nó sục sạo phòng khách, tìm nơi phát xuất mùi hương hay thanh cám dỗ chú ý của nó.

      Sinh vật ấy tỏ ra tập trung vào cảnh cửa dẫn đến bếp. có mắt của Samson ở Gaza[16] nhưng nó dò la ra tôi.

      Tôi học hỏi câu chuyện của Samson ở khía cạnh nào đó, vì ta là ví dụ kinh điển của việc số phận đau thương và đen tối có thể xảy đến với những ai được... trời ban cho năng lực.

      Đứng thẳng băng, cao hơn tôi, tên ông kẹ hình thù bệ vệ, bất chấp bề ngoài mong manh . Tư thế hiên ngang và vẻ ngạo mạn ngẩng cao đầu kia cho thấy tôi với nó chẳng khác gì chuột với báo, nó có sức mạnh đánh chết tôi trong chớp mắt.

      Hơi thở dồn nén chất đầy hai lá phổi.

      Mong muốn bỏ chạy gần như áp đảo nhưng tôi vẫn đứng chôn chân vì sợ nếu tên ông kẹ kia chưa chắc chắn nhìn thấy tôi chỉ chuyển động của cánh cửa lò xo cũng khiến nó chạy tới.

      trông ngóng mỏi mòn khiến mỗi giây dài như phút và tôi ngạc nhiên khi thấy bóng ma đó cúi sụp xuống lần nữa rồi chạy nhảy xa cùng đàn. Mềm mỏng như dải lụa đen, nó trôi tuột vào giữa khung kính trượt với bầu cửa sổ, len ra ngoài ánh nắng mặt trời.

      Tôi thở phào khó nhọc và hớp khí trong lành, quan sát hai mươi tên ông kẹ cuối cùng tràn qua lối ra vào hành lang.

      Khi những linh hồn xấu xa cuối cùng đó rời khỏi sức nóng của sa mạc Mojave, tôi quay lại phòng khách. thận trọng.

      Ít nhất trăm tên vừa qua căn phòng này. Rất có thể, còn thêm nửa chừng ấy nữa.

      Bất chấp mọi di chuyển rầm rộ, trang trong bất kỳ cuốn tạp chí hay tiểu thuyết lãng mạn nào bị nếp gấp. Chuyến của bọn ông kẹ để lại chút dấu vết nhặt nhất sợi thảm.

      Đứng tại khung cửa sổ trước nhà, tôi ló mặt ra nhìn bãi cỏ trơ trụi và con đường cháy nắng. Theo những gì tôi có thể xác định tên nào trong đám đông vừa mới rời khỏi nơi đây còn nán lại những ngôi nhà xung quanh.

      giá lạnh bất thường trong ngôi nhà này theo bọn ông kẹ. Ánh nắng ban ngày của vùng sa mạc xuyên thủng bốn bức tường mỏng manh đến khi mọi bề mặt trong phòng khách đều rực sáng như vòng dây bếp điện.

      Suốt hành trình, tình trạng hỗn loạn của những cái bóng có chủ đích kia để lại vết bẩn nào tường hành lang. Dấu tích mùi dây điện cháy cũng còn.

      Lần thứ ba, tôi bước đến ngưỡng cửa ấy.

      Căn phòng tối đen biến mất.




      CHƯƠNG 13

      ˜™





      Bên kia ngưỡng cửa là căn phòng bình thường, chẳng còn rộng lớn vô bờ như trước, diện tích chỉ khoảng ba nhân bốn mét.

      khung cửa sổ đơn nhìn ra ngoài, xuyên qua những nhánh tràm melaleuca lòa xòa che bớt khá nhiều ánh sáng. Tuy nhiên tôi vẫn nhìn để đoán chắc được rằng có thứ gì phát ra tia sáng đỏ u ám kia, kể cả ở giữa gian khiêm tốn này hay tại bất cứ xó xỉnh nào.

      Quyền năng bí làm biến đổi và kiểm soát căn phòng, ném tôi tới lui trong chiều thời gian, còn diện.

      Dường như nơi đây là phòng làm việc của Gã Nấm. Đồ đạc vỏn vẹn chỉ có dãy tủ đựng hồ sơ loại bốn ngăn, cái ghế và cái bàn bằng kim loại xám ngoét bề mặt đất mỏng giá làm thớ gỗ.

      Nằm sát cạnh nhau bức tường đối diện bàn viết là ba bức ảnh đen trắng to như áp phích quảng cáo xem ra được in máy vẽ đồ thị kỹ thuật số của dân chuyên phác thảo. Những bức ảnh chụp phần đầu, chân dung ba người đàn ông, người có ánh mắt háo hức và nụ cười hân hoan, hai người kia quắc mắt nhìn đầy vẻ sầu thảm.

      Cả ba đều trông quen lắm nhưng thoạt đầu tôi chỉ nhớ tên người nhoẻn miệng cười: Charles Manson, kẻ xấu xa chuyên lôi kéo. Mớ ý nghĩ kỳ quặc về cách mạng và chạy đua chiến tranh của phơi bày vết ung nhọt ngay giữa thế hệ những con người mang quan điểm hòa bình cho toàn nhân loại và dẫn đến suy tàn của thời đại Bảo Bình[17]. khắc dấu chữ thập ngoặc lên trán.

      Bất kể hai người kia là ai bọn họ cũng có diện mạo của Vegas[18] hay những triết gia nổi tiếng.

      Có lẽ trí tưởng tượng của tôi cũng như ánh nắng xuyên qua những nhánh tràm melaleuca truyền đốm sáng bạc mờ ảo vào ánh mắt trừng trừng của cả ba người kia. Đốm sáng đó nhắc tôi nhớ đến ánh sáng trắng đục rực lên báo hiệu cái nhìn hung hăng đói khát của những tử thi biết cử động trong mấy bộ phim về xác chết sống dậy.

      Để thay đổi phần nào độ nét của những ánh mắt ấy, tôi bật ngọn đèn phía đầu.

      Bụi bẩn và tình trạng bừa bộn đặc trưng của ngôi nhà hề diện nơi đây. Bước qua ngưỡng cửa này, Gã Nấm bỏ lại sau lưng tính lười biếng cẩu thả và biến thành hình tượng mẫu mực về ngăn nắp.

      Những cái tủ bề ngoài có vẻ dùng để chứa các tài liệu cần cất giữ kỹ lưỡng, bên trong đầy ắp bài viết cắt ra từ báo và tải từ mạng. Hết ngăn kéo này đến ngăn kéo khác đựng toàn hồ sơ về những sát thủ liên hoàn và những kẻ thảm sát hàng loạt.

      Đối tượng dàn trải từ tên Jack “đồ tể”[19] của nước thời nữ hoàng Victoria đến Osama bin Laden, kẻ được Diêm vương dành sẵn chỗ đặc biệt trong giàn hỏa thiêu. Ted Bundy[20], Jeffrey Dahmer[21]. Charles Whitman: tay súng bắn tỉa hại chết mười sáu mạng người ở Austin, Texas năm 1966. John Wayne Gacy: thích đóng giả chú hề tại các bữa tiệc của trẻ con, chụp ảnh với Đệ nhất phu nhân Rosalyn Carter tại kiện chính trị và chôn vùi vô số thi thể nạn nhân bị chặt hết chân tay trong sân sau và bên dưới ngôi nhà ở.

      xấp hồ sơ dày hơn hẳn thu thập thông tin về Ed Gein, kẻ trở thành nguồn cảm hứng cho cả nhân vật Norman Bates trong phim “Tâm thần” lẫn nhân vật Hannibal Lecter trong phim “ im lặng của bầy cừu”. Gein thích thú đánh chén món súp đựng trong sọ người và chế ra sợi thắt lưng khác lạ từ núm vú các nạn nhân.

      Những hiểm họa lẩn khuất trong căn phòng tối đen hạ gục được tôi, nhưng đây lại là tai ương rành rành hoàn toàn có thể nhận thức. Từ tủ này sang tủ khác, ngực tôi căng phồng nỗi khiếp đảm và đôi tay run lẩy bẩy, đến khi tôi đóng sầm ngăn kéo và kiên quyết mở thêm ngăn nào nữa.

      Trí nhớ được gợi lại qua những gì nhìn thấy trong chồng hồ sơ, giờ đây tôi có thể gọi tên người trong các bức ảnh to như áp phích quảng cáo đặt cạnh hình Charles Manson.

      Chân dung Timothy McVeigh treo bên phải hình Manson. McVeigh bị kết án và hành hình vì tội đánh bom tòa nhà liên bang ở thành phố Oklahoma khiến trăm sáu mươi tám người thiệt mạng vào năm 1995.

      Bên trái là hình Mohammed Atta, kẻ lái chiếc máy bay dân dụng loại lớn đâm vào trong hai tòa tháp của Trung tâm Thương mại Thế giới, làm chết hàng ngàn người. Tôi thấy dấu hiệu nào chứng tỏ Gã Nấm tán đồng động cơ của những kẻ Hồi Giáo cực đoan ủng hộ chủ nghĩa phát xít. Cũng như với Manson và McVeigh, dường như gã ngưỡng mộ Atta ở chỗ tầm nhìn tàn bạo, hành động hung ác và thành tích của tên khủng bố trong công cuộc phục vụ cái ác.

      Căn phòng này giống điện thờ hơn là nơi làm việc.

      Chứng kiến đủ, quá nhiều là đằng khác, tôi muốn ra khỏi ngôi nhà này. Tôi ao ước trở lại Tire World, hít thở hương thơm cao su sẵn sàng xuống đường và nghĩ ngợi làm gì kế tiếp.

      Thay vì vậy, tôi lại ngồi phịch xuống ghế. Tôi co rúm sợ hãi mà chỉ hơi khép nép khi đặt tay lên thành ghế, nơi tay gã có lẽ tựa lên.

      mặt bàn gồm máy tính, máy in, cây đèn bằng đồng thau, bộ lịch ghi ngày và thứ. Đến hạt bụi cũng thể nhìn thấy bất kỳ bề mặt nào.

      Từ vị trí ngồi, tôi quan sát căn phòng, cố hiểu xem làm thế nào nó có thể biến thành căn phòng tối đen rồi lại chuyển đổi trở về gian bình thường.

      còn ngọn lửa của Thánh Elmo[22] chứa đựng năng lượng siêu nhiên nào le lói dọc theo cạnh kim loại của mấy cái tủ đựng hồ sơ. bộ dạng nào thuộc thế giới bên kia xuất đầu lộ diện.

      Trong lúc căn phòng biến thành... cánh đồng, ô cửa giữa thị trấn Pico Mundo và đâu đó xa xăm lạ lẫm, tôi có ý đến Los Angeles hay thậm chí Bakersfield. Có lẽ trong khoảng thời gian, ngôi nhà này trở thành ga tàu giữa thế giới chúng ta với Địa ngục, nếu có Địa ngục.

      Hoặc giả sử tôi với tay tới tia sáng đỏ như máu nằm ngay giữa căn phòng tối đen màu khi nãy, biết đâu tôi thấy mình ở hành tinh thuộc nhánh xa xôi hẻo lánh của dải ngân hà, nơi ông kẹ cai trị. có vé lên tàu, tôi bị ném về phòng khách và quá khứ, sau đó bị quăng tới nhà để xe và tương lai.

      Tất nhiên tôi xét luôn đến khả năng điều tôi nhìn thấy chẳng qua chỉ là ảo giác. Có lẽ tôi phát khùng như con chuột trong phòng thí nghiệm được nuôi bằng độc tố gây loạn thần kinh và bị ép xem những chương trình “thực tế” tivi khám phá chi tiết sinh hoạt hành ngày của những siêu mẫu hết thời và những ngôi sao nhạc rock già nua.

      Thỉnh thoảng tôi nghĩ chắc mình bị điên. Thế nhưng như bao nhiêu người điên có lòng tự trọng khác, lúc nào tôi cũng nhanh chóng gạt mọi nghi ngờ về minh mẫn của bản thân.

      Tôi thấy có lý do gì để lục soát phòng làm việc, tìm cái công tắc được giấu kín có thể lần nữa biến nơi này thành căn phòng tối đen. Lập luận cho thấy sức mạnh ghê gớm cần có để mở ô cửa bí phát xuất từ bên này mà phóng ra từ bên kia, bất kể bên kia là nơi nào.

      Rất có thể Gã Nấm biết chốn linh thiêng này chỉ là kho danh mục dành cho những ý nghĩ giết người kỳ quặc của gã mà còn là sân ga đón bọn ông kẹ đến dự lễ hội máu. cần đến giác quan thứ sáu cũng có thể hình dung gã ngồi đây, hí hửng đọc trong những xấp hồ sơ kinh tởm và nhận thấy biến đổi đáng ngại của căn phòng hay bầy thực thể quỷ quái ùa vào.

      Gần bên bỗng phát ra tiếng tít tít tít, tiếng lách cách va chạm của xương gợi lên hình ảnh bộ xương di động trong ngày Haloween và sau đó là tiếng chạy vụt qua mau lẹ.

      Tôi nhổm dậy khỏi ghế và nghe ngóng, cảnh giác.

      Nhiều giây trôi qua có tiếng tít tít. Nửa phút vắng tiếng lách cách.

      Có lẽ con chuột gây náo động trong tường hay gác mái, nó phát ốm và thao thức vì cái nóng.

      Tôi ngồi xuống lần nữa và mở từng ngăn kéo bàn ra.

      Ngoài bút chì, bút mực, kẹp giấy, dụng cụ dập ghim, kéo và mấy món bình thường khác, tôi tìm thấy hai bản kê khai gần đây của ngân hàng và cuốn chi phiếu. Cả ba đều gửi cho Robert Thomas Robertson tại ngôi nhà ở Camp’s End này.

      Tạm biệt Gã Nấm; xin chào Bob.

      Bob Robertson mang vẻ tàn ác cần thiết cho cái tên của kẻ trở thành tên sát nhân hàng loạt. Nó nghe giống tên nhân viên bán xe hơi vui tính.

      Bản kê khai bốn trang từ Ngân hàng Hoa Kỳ tường trình về tài khoản tiết kiệm, hai chứng chỉ tiền gửi thời hạn sáu tháng, tài khoản tiền tệ, và tài khoản của Robertson ở Ngân hàng Hoa Kỳ lên đến con số $786.542,10.

      Tôi ngó tới lui dãy số ba lần, chắc rằng mình đọc nhầm vị trí dấu chấm và dấu thập phân.

      Bản kê khai bốn trang từ Ngân hàng Wells Fargo trình bày về việc đầu tư cho thấy tổng số tiền là $463.125,43.

      Chữ viết tay của Robertson trông cẩu thả nhưng gã quản lý chính xác số dư tài khoản trong cuốn chi phiếu. Tất cả khoản tiền có ở đây gồm $198.648,21.

      gã có tài sản gần triệu rưỡi đôla mà sống trong ngôi nhà gỗ tồi tàn ngột ngạt ở Camp’s End đích thực có vấn đề.

      Nếu nắm trong tay chừng ấy tiền, có thể thỉnh thoảng tôi vẫn tiếp tục chế biến thức ăn nhanh, nhưng chỉ để thỏa mãn tính nghệ sĩ chứ bao giờ vì kiếm sống. Và khi đó biết đâu sinh hoạt trong công ty kinh doanh lốp xe hoàn toàn còn chút hấp dẫn nào với tôi nữa.

      Chắc Robertson cần nhiều thứ xa xỉ vì gã tìm thấy tất cả niềm vui thích cần có trong đống vô tận những ý nghĩ kì quặc vấy máu làm hoen ố đầu óc gã.

      thanh phành phạch lách cách cuống cuồng thình lình vang lên khiến tôi nhảy dựng khỏi ghế lần nữa, nhưng rồi tiếng két chói tai và lặp lại giúp tôi nhận ra đó là bầy quạ rỉa lông mái nhà. Chúng ra ngoài sớm vào những sáng mùa hè, trước khi cái nóng vượt quá khả năng chịu đựng, buổi trưa chúng trốn trong lùm cây um tùm và đánh bạo ra ngoài lần nữa khi ánh nắng dần tắt bắt đầu mất chút sức mạnh thiêu đốt.

      Tôi sợ lũ quạ.

      Trong cuốn sổ chi phiếu, ngẫm lại những mục ghi chú trong ba tháng qua, nhưng chỉ thấy các khoản thông thường chi cho vật dụng, các công ty thẻ tín dụng và những thứ đại loại thế. Điều kỳ lạ duy nhất là Robertson viết số lượng chi phiếu đáng ngạc nhiên để rút tiền mặt.

      Chỉ trong tháng vừa rồi, gã rút tất cả ba mươi hai ngàn đôla trong khoản tiền lời của hai ngàn đôla và bốn ngàn đôla. Trong hai tháng trước đó con số tổng cộng lên tới năm mươi tám ngàn đôla.

      Cho dù cực kỳ ghiền ăn, gã cũng thể nào ngốn sạch nhiều kem Burke & Bailey đến vậy.

      Xét cho cùng, ràng gã cũng có sở thích tốn kém. Và bất kể gã mê đắm gì chăng nữa đó là thứ gã thể mua công khai bằng chi phiếu hay thẻ tín dụng.

      Trả bản kê khai tài chính trở lại ngăn kéo, tôi bắt đầu nhận thấy mình ở nơi này quá lâu.

      Tôi cứ nghĩ tiếng động cơ ầm ĩ của chiếc Explorer chạy vào nhà để xe báo động cho tôi biết Robertson quay về và tôi chuồn bằng cửa trước trong khi gã vào nhà theo lối cửa phụ. Song nếu vì lý do nào đó gã đậu xe ngoài đường và bộ vào nhà, tôi mắc kẹt ở đây trước khi phát ra là gã về.

      McVeigh, Manson và Mohammed Atta có vẻ rình rập tôi. dễ hình dung những ánh mắt sắc lẻm trong các bức ảnh kia chứa đựng khả năng nhận thức thực và chúng lóe lên tia hy vọng xấu xa.

      Nấn ná thêm chốc lát, tôi lật những tờ giấy trắng vuông ghi thứ ngày bộ lịch để bàn lùi về trước, tìm kiếm ghi chú về cuộc hẹn hay lời nhắc nhở nào khác mà Robertson có thể viết trong mấy tuần gần đây. Tất cả các hàng ghi chú đều trắng trơn.

      Tôi giở lại tờ lịch thời, thứ Ba ngày mười bốn tháng Tám, rồi lật ra sau những ngày tiếp theo. Thiếu mất tờ lịch ngày mười lăm tháng Tám. có điều gì được ghi trong bộ lịch sau ngày đó giống như cái tôi rất muốn xem.

      Đặt mọi thứ về như ban đầu, tôi rời khỏi bàn và đến cửa. Tôi tắt ngọn đèn đầu.

      Ánh nắng vàng vọt, được cắt xén thành hình thù ngọn lửa nhờ đám lá tràm melaleuca hình lưỡi kiềm chen ngang, tạo nên đám cháy giả tấm màn mỏng, soi rọi cho căn phòng được là bao, những cái bóng bạo gan dường như tụ tập quanh chân dung ba tên sát nhân dày đặc hơn hẳn mấy chỗ khác.

      ý nghĩ nảy ra trong tôi, điều này xảy ra thường xuyên hơn mức số người vẫn nghĩ, và chắc chắn thường xuyên hơn mức tôi muốn, và rồi tôi bật đèn sáng trở lại, đến dãy tủ đựng hồ sơ. Tại ngăn kéo có chữ R, tôi kiểm tra xem trong chồng hồ sơ về bọn sát nhân và mất trí, Gã Nấm có lưu tài liệu nào về chính gã .

      Tôi tìm thấy tài liệu. Ngoài nhãn ghi: ROBERTSON, ROBERT THOMAS.

      tiện biết bao nếu tập tài liệu này chứa đựng bài báo liên quan đến những vụ án mạng chưa phá cũng như các vật dụng mang tính cáo buộc cao dính líu đến những cuộc tàn sát đó. Tôi có thể học thuộc tài liệu, để nó lại chỗ cũ và trình báo phát của mình cho cảnh sát trưởng Wyatt Porter.

      Với thông tin đó, cảnh sát trưởng có thể tìm ra cách giăng bẫy Robertson. Chúng tôi có thể tống nỗi khiếp đảm đó vào sau chấn song trước khi gã có cơ hội phạm phải bất kỳ tội ác nào gã suy tính.

      Thế nhưng tập tài liệu chỉ chứa vỏn vẹn thứ: tờ bị thiếu trong bộ lịch để bàn. Tờ lịch thứ Tư ngày mười lăm tháng Tám.

      Robertson viết gì mấy hàng ghi chú. Hình như theo ý gã, bản thân này đầy ý nghĩa, đủ để tính là mục đầu tiên trong tập tài liệu.

      Tôi xem đồng hồ đeo tay. Sáu tiếng bốn phút nữa, ngày mười bốn và mười lăm tháng Tám gặp nhau tại mốc nửa đêm.

      Và sau đó chuyện gì xảy ra? chuyện gì đó. chuyện... hề tốt đẹp.

      Quay trở lại phòng khách, trở lại với mớ đồ đạc bám bẩn, với bụi bặm và tình trạng sách báo bừa bãi, tôi bị bất ngờ lần nữa trước tương phản mạnh mẽ giữa phòng làm việc sạch ngăn nắp với phần còn lại của ngôi nhà.

      Ngoài đây, đôi lúc vùi đầu vào đống tạp chí khiêu dâm, có lúc mê mải với những quyển tiểu thuyết lãng mạn, trong sáng đến mức vợ mục sư cũng có thể đọc, ràng hề nhớ tới mấy cái vỏ chuối bị bỏ quên, cốc cà phê rỗng và tất bẩn lâu ngày chưa giặt, Robertson có vẻ sống thờ ơ, phiêu bạt. Đây là gã đàn ông ngây ngô, nhân thân mập mờ.

      Trái lại, tên Robertson dành thời gian trong phòng làm việc, tạo ra và cất kỹ hàng trăm tập tài liệu kia, lướt web tìm thông tin về những tay sát thủ liên hoàn và những kẻ thảm sát hàng loạt, lại biết chính xác gã là ai, hay chí ít cũng biết gã mong ước trở thành ai.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 14


      ˜™






      Giữa gian bếp với nhà để xe, song tôi lập tức quay lại chỗ chiếc Mustang mượn của Terri Stambaugh. Thay vào đó tôi vòng ra sau ngôi nhà để quan sát kỹ khoảng sân sau.


      Bãi cỏ trước nhà mới khô héo nửa nhưng cỏ ở sân sau này chết từ đời nào. Mảnh đất bị nung nóng chưa nhận được giọt nước từ sau trận mưa cuối cùng vào cuối tháng Hai, cách đây năm tháng rưỡi.


      Nếu gã có thói quen chôn xác nạn nhân trong sân sau, chặt hết tay chân hoặc để nguyên, bắt chước John Wayne Gacy gã giữ cho đất dễ đào xới. Lớp đất cát này nứt nẻ dấu lưỡi cuốc và phù hộ cho kẻ đào huyệt nửa đêm tìm thấy búa khoan.


      Dây xích thưa rào quanh chỗ hề mọc lên dây leo hay thảm thực vật nào, khoảng sân sau mang đến kín đáo cho tên giết người ôm trong tay tử thi phiền hà. Nếu láng giềng là những kẻ có sở thích ghê tởm, bọn họ có thể khui lon bia, khiêng ghế ra ngoài bãi cỏ ngồi xem vụ chôn xác để tiêu khiển.


      Giả sử Robertson đích thị là tay sát thủ liên hoàn thay vì chỉ là gã muốn trở thành như thế gã trồng vườn nơi khác. Thế nhưng tôi ngờ rằng tập tài liệu gã tạo ra cho chính mình hoàn tất kể từ hôm nay và thành tích đầu tiên diễn ra vào ngày mai.


      quan sát từ rìa mái ngói con quạ há to cái mỏ màu cam và kêu la inh ỏi, như thể nó nghi ngờ tôi đến lấy trộm mấy con bọ giòn rụm và mớ thức ăn ít ỏi mà nó sống nhờ vào đó địa hạt khô cằn này.


      Tôi nhớ đến con quạ khủng khiếp của Poe[23], đậu cửa phòng, lặp lặp lại mỗi cụm từ nghe đến phát bực bao giờ ăn nữa, bao giờ nữa.


      Đứng đây ngước nhìn, tôi nhận thấy con quạ chính là điềm báo, hay thực ra, vần thơ trứ danh của Poe là chìa khóa tiết lộ ý nghĩa. Giá như tôi hiểu được rằng con quạ rít the thé kia chính là con quạ tìm đến tôi tôi hành động khác nhiều trong những giờ phút tiếp theo; và thị trấn Pico Mundo vẫn là nơi chứa đựng đầy hi vọng.


      hiểu tầm quan trọng của con quạ, tôi quay về chỗ chiếc Mustang, tại đó tôi thấy Elvis ngồi nơi ghế hành khách. Ông mang giày đế mềm buộc dây, mặc quần kaki và áo sơ mi kiểu Hawaii.


      Tất cả những hồn ma khác tôi quen biết đều bị hạn chế về mặt trang phục, họ chỉ có mỗi bộ quần áo mặc khi lìa cõi trần.


      Chẳng hạn như thầy Callaway dạy tôi môn tiếng thời học phổ thông, thầy qua đời đường đến dự tiệc hóa trang, ăn mặc như con sư tử nhát gan trong phim Phù thủy xứ Oz. Vì thầy là người khá tao nhã tự trọng và đĩnh đạc nên tôi thấy đáng buồn khi nhiều tháng sau đó, tôi bắt gặp thầy loanh quanh trong thị trấn với bộ đồ nhung rẻ tiền, lớp lông ủ rũ, cái đuôi phía sau lê lết mặt đất. Tôi rất nhõm khi cuối cùng thầy rời bỏ thế giới này và tiếp.


      Khi chết cũng như lúc còn sống, Elvis Presley đặt ra nguyên tắc riêng cho mình. Ông có thể cầu bất kỳ trang phục nào lúc mặc lên sân khấu hay trong phim, cũng như bộ đồ mặc khi biểu diễn. Quần áo của ông thay đổi theo mỗi lần hình.


      Tôi đọc báo thấy rằng sau khi nốc cả đống thuốc ngủ và thuốc giảm đau, Elvis chết trong bộ đồ lót hay có lẽ là đồ ngủ. Cũng có người ông được tìm thấy trong áo choàng tắm, nhưng có người lại phải. Chưa bao giờ ông xuất trước tôi trong trang phục bình thường đến thế.


      Chắc chắn, ông qua đời trong phòng tắm ở Graceland[24], chưa cạo râu và ụp mặt xuống vũng nôn mửa. Điều đó nằm trong báo cáo của nhân viên điều tra những cái chết bất thường.


      May thay, ông luôn chào đón tôi với gương mặt nhẵn nhụi và có bộ râu dính đầy thức ăn nôn mửa.


      Lần này, khi tôi ngồi vào sau vô lăng và đóng cửa xe lại, ông mỉm cười gật đầu. Nụ cười của ông u buồn thất thường.


      Elvis chìa tay vỗ lên cánh tay tôi, ràng muốn thể cảm thông, nếu phải là thương hại. Chuyện này khiến tôi bối rối và hơi lo âu, vì tôi chưa bao giờ phải chịu đựng việc gì đáng để nhận thái độ xót thương ấy.


      Trong hậu quả của ngày mười lăm tháng Tám, tôi vẫn thể lúc này đây Elvis biết bao nhiêu về những kiện khủng khiếp sắp xảy ra. Tôi ngờ rằng ông tiên đoán được tất cả.


      Giống những hồn ma khác, Elvis chuyện. Ông cũng hát.


      Thỉnh thoảng ông nhảy múa nếu giai điệu nhịp nhàng. Ông có vài bước nhảy tuyệt vời nhưng giống diễn viên Gene Kelly.


      Tôi nổ máy xe và bật bản nhạc lựa chọn ngẫu nhiên trong ổ đĩa. Terri chất đầy ổ sáu đĩa nhạc tuyển tập các bài hay nhất của thần tượng.


      Khi ca khúc “Suspicious Minds” vang lên, Elvis có vẻ vui thích. Ông gõ nhịp đầu ngón tay lên bảng đồng hồ theo giai điệu bài hát trong lúc tôi lái xe khỏi Camp’s End.


      Lúc đến nhà cảnh sát trưởng Wyatt Porter nằm ở khu vực lân cận với điều kiện khá hơn, chúng tôi nghe bài “Mama Liked the Roses” trong album nhạc Giáng sinh của Elvis và ông vua nhạc Rock ‘n’ Roll cầm được nước mắt.


      Tôi thích nhìn ông như lúc này. Ngôi sao nhạc rock sôi động, người thể ca khúc “Blue Suede Shoes” nở nụ cười vênh váo và thậm chí nhếch môi vẫn đỡ hơn mang bộ mặt đầm đìa nước mắt.


      Bà Karla Porter, vợ cảnh sát trưởng Wyatt, ra mở cửa. Yểu điệu, duyên dáng với đôi mắt xanh như lá sen, lúc nào nơi bà cũng toát lên vẻ bình yên và lạc quan trầm lắng, trái ngược với khuôn mặt âu sầu và cặp mắt buồn rầu của người chồng.


      Tôi nghĩ bà Karla chính là lý do khiến công việc chưa bào mòn ông Wyatt trở nên suy sụp hoàn toàn. Mỗi chúng ta cũng cần có nguồn động viên trong đời, động lực để hy vọng, và bà Karla chính là động lực của ông Wyatt.


      “Odd,” bà cất giọng, “bác rất vui được gặp con. Vào , vào con. Bác Wyatt ngoài sau đó, chuẩn bị sẵn sàng để phá hỏng vài miếng thịt bò cực ngon vỉ nướng. Hai bác mời vài người đến ăn tối, có rất nhiều thức ăn nên bác hy vọng con ở lại.”


      Trong lúc bà dẫn tôi ra sau, hề biết Elvis đệm nhạc cho chúng tôi bài “Heartbreak Hotel”, tôi đáp, “Cảm ơn bác, bác tốt quá, nhưng con có hẹn rồi. Con chỉ ghé qua chút chuyện với bác trai thôi.”


      “Gặp con ông ấy vui lắm đấy,” bà quả quyết. “Lúc nào cũng vậy mà.”


      Ra đến sân sau, bà giao tôi cho ông Wyatt. Ông đeo tạp dề in dòng chữ MÓN NƯỚNG VÀ CHIÊN XÀO NGON HƠN KHI DÙNG KÈM BIA.


      “Odd,” cảnh sát trưởng Porter lên tiếng, “bác hy vọng con đến đây để hủy hoại bữa tối của bác.”


      “Con có ý định đó.”


      Ông canh chừng hai vỉ nướng, vỉ rau củ và bắp đặt lò ga còn vỉ thịt bò bếp than.


      Mặt trời vẫn còn nằm đường chân trời hơn hai tiếng nữa. ngày nắng sa mạc được tích lũy đầy trong mảnh sân rải bê tông và những luồng hơi nóng bốc lên từ hai vỉ nướng lẽ ra khiến ông ấy phải tuôn ra lượng nước muối đủ để tái tạo vùng biển mất từ lâu của thị trấn Pico Mundo. Vậy mà ông ấy vẫn khô rang như ngôi sao đóng quảng cáo sản phẩm khử mùi ngăn mồ hôi.


      Nhiều năm qua, tôi nhìn thấy cảnh sát trưởng Porter đổ mồ hôi vỏn vẹn có hai lần. Lần đầu, khi gã cực kỳ gian ác nhắm cây xiên vào đáy quần ông từ khoảng cách chỉ nửa thước, và lần thứ hai còn ghê gớm hơn nhiều.


      Xem xét mấy tô khoai tây trộn, bánh bắp và rau trộn trái cây tươi bàn ăn ngoài trời, Elvis có vẻ mất hứng thú khi nhận thấy có món bánh mì chiên béo ngậy kẹp chuối và bơ đậu phộng. Ông ấy thơ thẩn bỏ ra hồ bơi.


      Sau khi tôi từ chối chai Corona, cảnh sát trưởng và tôi ngồi xuống ghế. Ông hỏi, “Con lại giao cảm với hồn người chết phải ?”


      “Dạ lúc có lúc suốt ngày bác à. Nhưng việc này liên quan quá nhiều đến người chết hay người sắp chết.”


      Tôi kể ông nghe chuyện Gã Nấm ở quán ăn và chuyện sau đó ở khu mua sắm Green Moon.


      “Bác có thấy ở Quán Vỉ nướng,” cảnh sát trưởng , “nhưng gây cho bác ấn tượng hẳn là tên khả nghi, mà là... người bất hạnh.”


      “Dạ phải, nhưng bác đâu có lợi thế nhìn thấy được đám đông những kẻ hâm mộ .” Tôi diễn tả quy mô náo loạn của bầy tùy tùng ông kẹ hộ tống Gã Nấm.


      Khi thuật lại chi tiết chuyến viếng thăm ngôi nhà ở Camp’s End, tôi bịa ra cách khá lố bịch rằng cánh cửa phụ mở sẵn và rằng tôi vào trong do cảm tưởng có người sắp gặp rắc rối. Như vậy tránh cho cảnh sát trưởng rơi vào tình cảnh đồng mưu sau khi tôi phạm tội cạy cửa và đột nhập.


      “Bác phải nghệ sĩ thăng bằng dây,” ông nhắc tôi.


      “Dạ đúng vậy.”


      “Nhiều lúc con bắt bác cứ phải sợi dây mỏng manh nguy hiểm.”


      “Con cực kỳ khâm phục tài giữ thăng bằng của bác.”


      “Con à, nghe như chuyện nhảm nhí.”


      “Trong đó có chỗ nhảm nhí nhưng phần lớn là .”


      Kể về những điều phát ra trong ngôi nhà, tôi làm lơ đả động gì đến căn phòng tối đen và đám đông du lịch. người biết cảm thông và cởi mở như ông Wyatt Porter cũng trở nên hoài nghi nếu bạn tống cho ông chi tiết quá ư kỳ quái.


      Khi tôi kể xong ông lên tiếng. “Cái gì khiến cho con chú ý vậy?”


      “Dạ sao bác?”


      “Con cứ nhìn ra phía hồ bơi.”


      “Đó là Elvis,” tôi giải thích. “Ông ấy cư xử lạ lắm.”


      “Elvis Presley ở đây ư? Ngay lúc này sao? Trong nhà bác hả?”


      “Ông ấy tới lui mặt nước và khoa tay múa chân.”


      “Khoa tay múa chân ư?”


      phải kiểu bất lịch đâu bác, và cũng phải nhằm về phía chúng ta. Trông như ông ấy tranh cãi với chính mình. Đôi lúc con lo cho ông ấy.”


      Bà Karla trở lại, lần này dẫn theo hai vị khách đầu tiên đến dùng bữa tối.


      Bern Eckles, khoảng hai mươi tuổi, vừa được bổ sung về Sở Cảnh sát thị trấn Pico Mundo. ta có mặt trong lực lượng mới hai tháng nay.


      Lysette Rains, chuyên về đắp móng giả, đảm nhận chức phó quản lý tại tiệm làm đẹp phát đạt của bà Karla nằm đường Olive, cách Quán Vỉ nướng tôi làm việc góc phố và hai tòa nhà.


      Hai người này chưa phải cặp, nhưng tôi thấy cảnh sát trưởng và bà Karla tiến hành mai mối.


      Vì chưa và bao giờ biết về giác quan thứ sáu của tôi nên viên cảnh sát Eckles tài nào đoán được tôi thế nào, và ta chưa biết liệu có ưa tôi hay . ta chẳng hiểu tại sao lúc nào cảnh sát trưởng cũng dành thời gian cho tôi, kể cả khi bận rộn nhất.


      Sau khi mời những vị khách mới đến dùng nước, cảnh sát trưởng bảo Eckles vào phòng làm việc của ông vài phút. “Tôi lấy máy vi tính thông tin ở Sở Giao thông còn cậu gọi vài cú điện thoại giùm tôi. Chúng ta cần tìm ra tiểu sử sơ lược của tên kỳ quặc đến từ Camp’s End.”


      đường vào nhà cùng cảnh sát trưởng, Bern Eckles quay đầu nhìn tôi những hai lần, cau mày. Chắc ta tưởng trong lúc vắng mặt ta, tôi cố kiếm cơ hội với Lysette Rains.


      Khi bà Karla trở vào bếp làm nốt món tráng miệng, Lysette ngồi xuống cái ghế mà cảnh sát trưởng ngồi khi nãy. Con bé dùng cả hai tay cầm ly coca có pha thêm rượu vodka hương cam, nhấp từng chút liếm môi sau mỗi lần uống.


      “Mùi vị ra sao?” tôi muốn biết.


      “Như nước tẩy rửa pha đường. Nhưng thỉnh thoảng mình mất sức và caffeine giúp ích được.”


      Con bé mặc quần lửng màu vàng và áo kiểu diềm xếp nếp màu vàng. Trông nó như cái bánh nướng vàng ươm phủ lớp đường ngon lành.


      “Mẹ cậu dạo này thế nào, Odd?”


      “Vẫn sặc sỡ.”


      “Mình cũng mong thế. Còn bố cậu?”


      “Bố sắp giàu nhanh rồi.”


      “Lần này làm gì?”


      “Bán đất mặt trăng.”


      “Là sao?”


      “Cậu chi mười lăm đô la là có được chứng từ cho mét vuông đất mặt trăng.”


      “Bố cậu đâu có sở hữu mặt trăng,” Lysette với giọng điệu phản đối rụt rè nhất.


      Con bé là người dễ thương và thích làm mếch lòng ai, ngay cả khi người đó có dấu hiệu lừa dối trắng trợn.


      “Ừ, bố mình sở hữu,” tôi đồng tình. “Nhưng bố nhận thấy cũng ai sở hữu nó, thế nên bố gửi thư cho Liên Hiệp Quốc cầu đòi lấy nó. Hôm sau bố mình bắt đầu rao bán đất mặt trăng. Nghe cậu làm phó quản lý của tiệm.”


      “Hoàn toàn chịu trách nhiệm thôi. Nhất là vì mình cũng chuyển chuyên môn.”


      “Cậu làm móng nữa à?”


      “Còn làm chứ. Nhưng hồi đó chỉ là nhân viên làm móng còn bây giờ mình là nghệ nhân làm móng được chứng nhận.”


      “Chúc mừng nhé. Đó là chuyện lớn đấy.”


      Nụ cười hãnh diện bẽn lẽn của con bé khiến tôi cảm mến. “Việc đó đối với số người chẳng có gì to tát, nhưng với mình là cả câu chuyện ly kỳ.”


      Elvis từ hồ bơi trở vào và ngồi xuống ghế đối diện chúng tôi. Ông lại khóc lóc. Qua làn nước mắt, ông mỉm cười với Lysette hay với khe ngực của con bé. Khi chết rồi, ông ấy vẫn mê phụ nữ.


      “Cậu và Bronwen vẫn là đôi chứ?” Lysette hỏi.


      “Mãi mãi. Tụi mình có vết bớt xứng với nhau mà.”


      “Mình quên mất chuyện đó.”


      “Nàng thích được gọi là Stormy hơn.”


      “Ai lại thích vậy?” Lysette .


      “Còn cậu và sĩ quan Eckles sao?”


      “Ồ, bọn mình mới gặp nhau thôi. ấy có vẻ tử tế.”


      “Tử tế,” tôi nhăn mặt. “ gã tồi bỏ rơi cậu phải ?”


      “Ừ phải, cách đây hai năm. Gần đây mình nghĩ tử tế là đủ rồi. Cậu biết sao ?”


      “Ngoài kia có quá nhiều điều tệ hại hơn tử tế.”


      “Đúng vậy,” con bé tán đồng. “Mất thời gian, mình nhận ra thế giới này mới hiu quạnh làm sao, và khi thấy thế... tương lai đáng sợ.”


      Vốn trong trạng thái nhạy cảm, Elvis vỡ òa ra trước lời nhận xét của Lysette. Hai suối lệ tuôn trào má và ông ấy vùi mặt vào đôi tay.


      Lysette và tôi tán ngẫu lúc, Elvis thổn thức gây ra tiếng động nào và cuối cùng thêm bốn vị khách nữa xuất .


      Bà Karla vòng quanh với khay bánh phô mai, thứ mang đến trọng lượng mới cho cụm từ “món khai vị” cảnh sát trưởng cùng Eckles trở vào. Ông kéo tôi sang bên và với tôi ra phía xa ngoài hồ bơi, nhờ vậy chúng tôi có thể chuyện riêng.


      Ông lên tiếng, “Robertson chuyển đến thị trấn cách đây năm tháng. trả tiền đầy đủ cho ngôi nhà ở Camp’s End, cầm cố gì hết.”


      “Gã lấy đâu ra tiền?”


      “Thừa kế. Bonnie Chan từ San Diego chuyển đến đây sau khi mẹ qua đời. vẫn sống với mẹ mình khi ba mươi bốn tuổi.”


      Bonnie Chan, chuyên viên địa ốc nổi tiếng về những chiếc mũ sặc sỡ ở thị trấn Pico Mundo, ràng là người bán ngôi nhà cho Robertson.


      “Theo những gì bác biết lúc này...” cảnh sát trưởng , “… có hồ sơ sạch . Thậm chí chưa bao giờ bị phạt vì chạy xe quá tốc độ.”


      “Bác có thể tìm hiểu xem mẹ gã chết ra sao.”


      “Bác chuyển vài câu hỏi về chuyện đó. Nhưng lúc này đây bác có bất kỳ cớ gì vin vào để bắt được.”


      “Toàn bộ mớ tài liệu về tất cả bọn sát nhân đó.”


      “Bác có cách hợp pháp để biết được giữ mấy thứ ấy nhưng đó chẳng qua chỉ là sở thích bệnh hoạn hay có thể là sổ sách nghiên cứu. Việc đấy đâu có gì bất hợp pháp.”


      “Nhưng khả nghi lắm.”


      Cảnh sát trưởng nhún vai. “Nếu chỉ tỏ ra khả nghi thôi tất cả chúng ta vào tù hết rồi. Con là người đầu tiên đó.”


      “Nhưng bác canh chừng chứ?” tôi hỏi.


      “Vì con bao giờ nhầm lẫn, bác bố trí người ngoài đó tối nay, cho người bám đuôi tên Robertson ấy.”


      “Con ước gì bác có thể làm hơn thế,” tôi .


      “Con à, đây là nước Mỹ. số người việc cố ngăn chặn người tâm thần thể tiềm năng của họ là trái với hiến pháp.”


      Thỉnh thoảng cảnh sát trưởng chọc tôi phì cười bằng kiểu câu giễu cợt trong ngành. Lần này nằm trong số những dịp như thế.


      Tôi lên tiếng, “Chuyện tệ lắm bác. Gã này, khi hình dung khuôn mặt trong đầu... con sởn gai ốc khắp sống lưng luôn đó.”


      “Các bác theo dõi , con à. thể làm gì hơn được. thể chỉ đến Camp’s End và bắn .” Cảnh sát trưởng trao cho tôi ánh mắt nhìn đặc biệt và thêm. “Cả con cũng được làm vậy.”


      “Con sợ súng ống mà,” tôi quả quyết


      Cảnh sát trưởng nhìn mông lung về phía hồ bơi và hỏi, “Ông ấy còn mặt nước ?”


      “Dạ . Ông ấy đứng cạnh Lysette, nhìn xuống cái áo của con bé và khóc.”


      “Cái đó có gì để khóc hết,” cảnh sát trưởng và nháy mắt.


      “Chuyện khóc lóc chẳng liên quan gì đến Lysette. Chẳng qua hôm nay ông ấy có tâm trạng thất thường.”


      “Sao vậy? Elvis chưa bao giờ khiến bác nghĩ ông là người hay than khóc.”


      “Người ta thay đổi khi chết. việc lâm li bi đát mà. Nhiều lúc ông ấy thích vậy nhưng con muốn biết điều gì gây nên nỗi phiền muộn. Ông ấy cố giải thích với con.”


      ràng cảnh sát trưởng bị mất tinh thần trước hình ảnh Presley bù lu bù loa. “Bác có thể giúp gì cho ông ấy ?”


      “Bác đúng là hay quan tâm đến người khác nhưng con thấy thể làm gì giúp ích được đâu. Từ những điều quan sát trong mấy lần trước, con đoán chuyện này là… ông ấy nhớ bà Gladys, mẹ ông ấy, và muốn ở bên cạnh bà.”


      “Theo bác nhớ, ông ấy vô cùng quý mẹ mình, đúng ?”


      “Ông ấy tôn thờ mẹ,” tôi đáp.


      “Bà mẹ cũng qua đời rồi phải ?”


      “Dạ, qua đời trước ông ấy rất lâu.”


      “Vậy họ lại được bên nhau rồi đúng ?”


      “Vẫn được chừng nào ông ấy chưa chịu rời bỏ thế giới này. Bà mẹ sang bên ánh sáng của thượng đế còn ông ấy kẹt lại đây.”


      “Sao ông ấy chịu ?”


      “Đôi lúc có những chuyện quan trọng chưa làm xong ở đây.”


      “Giống như bé Penny Kallisto sáng nay, dẫn con đến chỗ thằng Harlo Landerson.”


      “Dạ đúng ạ. Và có khi chỉ vì họ thế giới này quá nhiều đến mức muốn rời bỏ.”


      Cảnh sát trưởng gật gù. “Thế giới này chắc chắn là tốt đẹp với ông ấy rồi.”


      “Nếu còn gì chưa làm xong ông ấy có hơn hai mươi sáu năm để lo chuyện đó rồi,” tôi lưu ý.


      Cảnh sát trưởng liếc về phía Lysette Rains, cố nhìn ra dấu hiệu nào đó dù nhất của linh hồn kề cận bên con bé, luồng ngoại chất gian méo mó mơ hồ, vùng sáng thần bí. “Ông ấy làm nên thứ nhạc tuyệt vời.”


      “Dạ đúng thế.”


      “Con hãy với Elvis rằng ông ấy luôn được hoan nghênh ở đây nhé.”


      “Dạ. Bác tốt bụng.”


      “Con ở lại dùng bữa tối à?”


      “Cảm ơn bác nhưng con có hẹn rồi.”


      “Bác chắc chắn con hẹn với Stormy.”


      “Dạ phải. Định mệnh của đời con.”


      “Con khéo Odd ạ. Con bé hẳn rất thích nghe con như vậy - ‘định mệnh của đời con’.”


      “Con rất thích nghe mình vậy.”


      Cảnh sát trưởng choàng tay qua vai tôi và đưa tôi ra cánh cửa ở phía bắc ngôi nhà. “Điều tuyệt nhất có thể đến với người đàn ông là phụ nữ tốt.”


      “Stormy hơn cả mức tốt.”


      “Bác mừng cho con, con trai à.” Ông đẩy chốt và mở cửa cho tôi. “Đừng bận tâm về gã Bob Robertson. Bác bám sát gót nhưng ngờ bị chúng ta theo dõi đâu. mà thử làm gì sai trái là chúng ta bao vây rồi.”


      “Con vẫn lo bác à. Gã này cực kỳ xấu xa.”


      Khi tôi đến chỗ chiếc Mustang, Elvis ngồi sẵn ghế hành khách.


      Hồn người chết cần bộ hay nhờ xe đến nơi họ muốn đến. Khi họ chọn cách tản bộ hoặc vi vu phố là họ thôi thúc bởi nỗi luyến tiếc quá khứ.


      Từ bữa tiệc cạnh hồ bơi ra đến xe Mustang, ông ấy đổi trang phục khác với bộ phim Blue Hawaii. giờ ông ấy mặc quần đen, áo khoác thể thao bằng vải tuýt sang trọng, sơ mi trắng cà vạt đen và khăn tay bỏ túi màu đen, bộ cánh (sau này Terri Stambaugh cho tôi biết) trong phim It happened at the world fair[25].


      Trong lúc lái xe rời nhà gia đình Porter, chúng tôi nghe “Stuck on You”, giai điệu dễ vào lòng người như các bài trước đây ông vua này thu .


      Elvis vỗ nhịp lên đầu gối và lắc lư cái đầu nhưng nước mắt vẫn ngừng tuôn rơi.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 15

      ˜™





      Tại khu phố Pico Mundo, khi chúng tôi chạy ngang nhà thờ, Elvis ra hiệu muốn tôi ngừng lại.

      Xe dừng, ông giơ tay phải về phía tôi. Cái nắm tay của ông cũng và ấm như của Penny Kallisto.

      Thay vì bắt tay tôi, ông nắm chặt bằng cả đôi tay mình. Tôi nghĩ ông ấy chỉ muốn cảm ơn nhưng cử chỉ của ông dường như còn hơn thế.

      Elvis xem ra lo lắng cho tôi. Ông nhàng siết tay tôi, nhìn xoáy vào tôi với vẻ quan tâm mồn , và rồi siết tay tôi lần nữa.

      “Ổn mà,” tôi lên tiếng dù chẳng biết liệu đó có phải là lời đáp thỏa đáng về mặt nào đó hay .

      Ông ấy ra khỏi xe mà cần mở cửa, chỉ từ từ xuyên người qua, rồi bước lên mấy bậc tam cấp của nhà thờ. Tôi nhìn theo đến khi ông qua cánh cửa gỗ sồi nặng trịch và khuất dạng.

      Cuộc hẹn ăn tối với Stormy đến tám giờ mới diễn ra, thế nên tôi phải làm gì đó để giết thời gian.

      Bà ngoại Sugars thường Phải bận rộn suốt, cho dù chơi bài, đánh nhau hay đua xe, vì việc ăn ngồi rồi lôi con vào rắc rối tệ hại.

      Cho dù có lời khuyên của bà, tôi cũng thể đến chỗ hẹn và ngồi đợi Stormy. Chẳng có điều gì khác choán hết đầu óc tôi lại canh cánh chuyện gã Bob Robertson và những tập tài liệu quỷ quái của gã.

      Chạy chầm chậm khỏi nhà thờ, tôi gọi điện cho P. Oswald Boone, chàng nặng bốn trăm pao và có bàn tay trái sáu ngón.

      Ozzie “bé” nhấc máy ngay hồi chuông thứ hai. “Odd, con bò đẹp đẽ của bị nổ tung rồi.”

      “Nổ tung ư?”

      “Bùm,” Ozzie “bé” , “phút trước mọi thứ vẫn ổn, phút sau con bò tuyệt vời bị văng thành trăm mảnh.”

      “Chuyện xảy ra khi nào? Em có nghe gì đâu.”

      “Chính xác là cách đây hai tiếng hai mươi sáu phút. Cảnh sát đến và rồi, tin ngay cả họ, với kinh nghiệm đầy mình về những hành vi phạm tội tàn bạo, cũng bị sốc trước chuyện này.”

      “Em mới gặp cảnh sát trưởng Porter và bác ấy đề cập gì đến chuyện đó.”

      “Sau khi rời khỏi đây, mấy ông cảnh sát dứt khoát cần phải uống hai ly rượu nặng đô trước khi ngồi viết báo cáo.”

      sao rồi?” tôi hỏi.

      quẫn trí, vì đó là phản ứng công kích thái quá về mặt đạo đức, nhưng buồn.”

      “Em biết quý con bò đó lắm.”

      quý con bò đó,” xác nhận.

      “Em nghĩ đến việc ghé thăm nhưng có lẽ đây phải lúc thích hợp nhất.”

      “Đây là lúc lý tưởng nhất đó, Odd thân mến. gì tệ hơn là đơn vào lúc chiều tối trong cái ngày con bò bị nổ tung.”

      “Em có mặt ở đó trong vài phút nữa,” tôi hứa.

      Ozzie “bé” sống ở Jack Flats, nơi cách đây năm mươi năm được gọi là Jack Rabbit Flats, khu vực phía tây và nằm bên dưới vùng đất lịch sử. Tôi biết lũ thỏ đâu.

      Khi vùng đất đẹp như tranh nằm trong khu kinh doanh sinh lời bắt đầu trở thành điểm thu hút du khách vào cuối những năm 1940, nó được tiêm chích thêm hàng loạt điều kỳ thú để gia tăng sức hấp dẫn. Những tiệm kinh doanh ít ăn ảnh nhất như hiệu bán khăn choàng, cửa hàng lốp xe, nơi bày bán súng, đều bị tống xuống Flats.

      Rồi cách đây hai mươi năm, các trung tâm thương mại mới nguy nga tráng lệ mọc lên dọc theo đường Green Moon và xa lộ Joshua Tree. Chúng rút cạn khách hàng ra khỏi những cửa hàng bình dân ở Flats.

      Dần dà trong suốt mười lăm năm qua, Jack Flats trở mình. Những tòa nhà công nghiệp và thương mại cũ kỹ được san bằng, thay vào đó là những căn nhà đại và những căn hộ quy mô hơn.

      Người đầu tiên đến định cư khi chẳng mấy ai nhìn thấy được tương lai nơi này, Ozzie “bé” mua mảnh đất mẫu[26], chỗ của nhà hàng dẹp tiệm từ lâu. Tại đây, xây nên ngôi nhà mơ ước của mình.

      Ngôi nhà hai tầng theo phong cách thợ thủ công có thang máy, những ô cửa rộng và sàn được gia cố bằng thép. Ozzie xây nó vừa để phù hợp với tầm vóc của vừa để tránh hình phạt có thể phải chịu nếu cuối cùng trở thành trong những người mà dịch vụ tang lễ phải dùng đến cần trục và xe tải sàn phẳng như Stormy vẫn sợ.

      Khi đỗ xe trước ngôi nhà giờ đây còn con bò, tôi bị sốc hơn mức tưởng tượng bởi cảnh tàn sát.

      Đứng dưới tán cây nguyệt quế Ấn Độ trải bóng dài trong ánh nắng chiều tà, tôi bàng hoàng nhìn chằm chằm cái xác khổng lồ. Tất cả mọi thứ trái đất này cuối cùng mất cả thôi, nhưng ra đột ngột và vội vã của con bò dù sao cũng khiến lòng tôi nao nao.

      Bốn chân, mấy phần của cái đầu bị nổ tung và những mảnh thân vương vãi khắp bãi cỏ trước nhà, bụi cây và lối . Đặc biệt rùng rợn, cái vú bị văng ra đáp xuống cây cột hàng rào và đầu vú chĩa thẳng lên trời.

      Con bò thuộc giống Holstein đen trắng, to cỡ mẫu xe SUV, trước đây gắn đỉnh hai cây cột thép cao sáu mét, cây cột nào bị hư hại trong vụ nổ. Thứ duy nhất còn lại cao ấy là cái mông con bò, nó đung đưa đổi vị trí đến khi hướng ra đường như thể nhìn ngắm người qua lại.

      Bên dưới tấm hình con bò giống Holstein bằng nhựa từng treo tấm biển quảng cáo cho nhà hàng đặc sản thịt bò lúc trước nằm mảnh đất này. Khi xây nhà, Ozzie “bé” giữ lại tấm biển, chỉ giữ miếng nhựa khổng lồ hình con bò.

      Đối với Ozzie, con bò chỉ là vật dụng trang trí bãi cỏ lớn nhất thế giới. Nó là nghệ thuật.

      Trong số rất nhiều sách viết có bốn quyển về nghệ thuật, thế nên buộc phải biết mình về cái gì. Thực ra, vì là cư dân nổi tiếng nhất thị trấn Pico Mundo (dù sao vẫn còn sống) và có lẽ được kính trọng nhất, và vì xây nhà ở Flats trong lúc tất cả những người khác đều cho rằng khu này vẫn lụi tàn mãi mãi nên chỉ Ozzie “bé” mới có thể thuyết phục thành công Sở Xây dựng thành phố để giữ lại con bò làm công trình điêu khắc.

      Khi khu Flats mở rộng quy mô hơn, vài người hàng xóm của , phải hầu hết, chỉ là phần thiểu số hay to mồm nhất, phản đối con bò khổng lồ vì lý do mỹ quan. Có lẽ trong số họ dùng đến bạo lực.

      Tôi len lỏi qua những mảnh vụn đầy răng cưa của bức hình con bò, leo lên bậc tam cấp ngoài hiên trước, chưa kịp bấm chuông Ozzie mở cánh cửa rộng, thở hổn hển bên kia ngưỡng cửa và đón chào tôi. “Chuyện này chẳng phải đáng khinh sao Odd, thằng ngốc mất dạy nào đó làm? ta an ủi bằng cách nhắc nhở bản thân rằng ‘nghệ thuật là dài lâu còn những kẻ chỉ trích là sâu bọ của thời đại’.”

      “Shakespeare hả?” tôi hỏi.

      . Randall Jarrell. thi sĩ xuất chúng nhưng bị lãng quên vì những trường đại học thời nay chẳng dạy gì ngoài tự mãn.”

      “Em dọn dẹp giùm .”

      được!” Ozzie la lên. “Phải để bọn họ thấy đống đổ nát tuần, tháng, những ‘kẻ luồn cúi độc địa thích huýt gió’.”

      “Shakespeare hả?”

      , . W.B. Daniel, viết về những tên khoái chỉ trích. Cuối cùng cũng nhặt hết mấy mảnh vụn nhưng cái mông của con bò xinh đẹp kia vẫn nằm đó, câu trả lời của dành cho những kẻ thất học mang bom.”

      “Vậy là có bom à?”

      trái bom rất , gắn công trình điêu khắc cả đêm với thiết bị hẹn giờ cho phép những ‘kẻ luồn cúi nuôi dưỡng từ ngữ tục tĩu và lời chua cay’ ở xa trường khi vụ nổ xảy ra. Đó cũng phải Shakespeare. Voltaire viết về những tên khoái chỉ trích.”

      “Này, em hơi lo cho đó,” tôi .

      “Hơi đâu mà bận tâm chứ. Mấy tên hèn nhát kia chỉ đủ gan lén đến gần con bò nhựa vào nửa đêm thôi chứ chúng dám đương đầu với người mập mạp có bắp tay chắc nịch như đâu.”

      “Em về bọn chúng. Em nhắc đến huyết áp của đó.”

      Vẫy cánh tay kinh khủng của mình cách thô bạo, Ozzie “bé” , “Nếu em mang dáng người như , máu em chứa đầy những phân tử cholesterol to bằng thục quỳ thu em hiểu sỉ nhục chính đáng nhặt đôi khi là thứ duy nhất giúp huyết mạch của em bị tắc nghẽn hoàn toàn. sỉ nhục chính đáng và rượu vang đỏ thượng hạng. Vào đây, vào đây. khui chai và chúng ta nâng cốc uống mừng cuộc phá hoại của bọn khoái chỉ trích kia, ‘cuộc tranh đua thảm hại của bầy cá sấu đói khát’.”

      “Shakespeare hả?” tôi hỏi.

      “Vì Chúa Odd à, Bard vùng Avon[27] có phải nhà văn duy nhất từng đặt bút viết lên giấy đâu.”

      “Nhưng nếu em bám riết mỗi tên ông ta...” tôi đáp và theo Ozzie vào nhà, “... sớm muộn gì em cũng đúng được câu.”

      “Có phải nhờ mánh lới thảm hại đó mà em lết qua hết bậc phổ thông ?”

      “Đúng thế.”

      Ozzie bảo tôi cứ tự nhiên ngồi ngoài phòng khách trong lúc tìm chai rượu Robert Mondavi Cabernet Sauvignon, và thế là tôi ở mình với Terrible Chester.

      Con mèo này mập mà nó to lớn và bạo gan. Có lần tôi thấy nó chỉ cần tỏ thái độ xua được con chó béc giê giống Đức hung hăng lảng xa ra.

      Tôi nghĩ ngay đến con Pitbull[28], dở chứng và muốn đánh nhau cũng bỏ như con chó béc giê kia để tìm kiếm con mồi dễ xơi hơn. Giống hệt lũ cá sấu.

      Terrible Chester có màu lông như trái bí ngô chín đỏ pha vài đốm đen. Nhìn những mảng đen cam mặt nó, có thể bạn nghĩ nó là bạn bè thân thiết quỷ quái của nhóm nhạc rock Kiss[29] lâu đời.

      Nằm bậu cửa sổ rộng, nhìn chằm chằm ra ngoài sân trước, nó giả vờ cả phút như hề biết có người đến.

      Chuyện phớt lờ ấy tốt cho tôi. Đôi giày tôi mang chưa bao giờ bị tè bậy lên và tôi hy vọng giữ được chúng ở tình trạng đó.

      Cuối cùng nó quay đầu lại, chăm chú nhìn tôi theo kiểu đánh giá, vẻ coi thường tràn trề đến mức tôi tưởng như nghe thấy thái độ đó rơi bắn xuống sàn phát ra thanh văng tung tóe. Sau đó con mèo lần nữa chuyển hướng chú ý sang cửa sổ.

      Khung cảnh tấm hình con bò giống Holstein bị nổ tung dường như thôi miên và đưa nó vào trạng thái u sầu, suy tư. Có lẽ nó dùng hết tám mạng sống và cảm nhận ớn lạnh chết chóc.

      Đồ đạc trong phòng khách nhà Ozzie được đặt làm riêng, kích thước quá khổ và mang đến thoải mái. Tấm thảm Ba Tư với tông màu đá quý sậm, vật dụng gỗ gụ Honduras và kệ sách này chồng lên kệ sách khác tạo nên khí ấm cúng.

      Bất chấp mối nguy xảy đến cho đôi giày, tôi nhanh chóng thư giãn và thấy cảm giác hiểm họa tận số treo lơ lửng giảm hơn bất cứ lúc nào từ khi phát ra Penny Kallisto đứng chờ dưới cuối những bậc tam cấp tại căn hộ của tôi vào sớm tinh mơ.

      Mới được nửa phút, Terrible Chester lại khiến tôi bực mình bởi tiếng rít giận dữ đầy đe dọa của nó. Tất cả bọn mèo đều có tài này, dĩ nhiên, nhưng Chester sánh được với cả lũ rắn chuông và rắn hổ mang về mức độ dữ dội và khiếp đảm trong tiếng rít.

      Có gì đó bên ngoài khiến nó khó chịu đến mức nhổm đứng dậy bậu cửa sổ, cong lưng và xù lông dựng đứng cả lên.

      ràng tôi phải nguyên nhân khiến nó kích động nhưng tôi cũng trượt ra khỏi ghế bành, chuẩn bị bỏ .

      Chester lại rít lên, sau đó cào tấm kính. Tiếng ken két của móng vuốt cửa sổ khiến tôi run rẩy tận sâu trong xương sống.

      Bất chợt tôi tự hỏi có phải kẻ hủy hoại con bò quay lại vào ban ngày ban mặt để hạ luôn hình cái mông còn ngoan cố nằm kia .

      Khi Chester quơ quào tấm kính lần nữa, tôi bắt đầu bước . Tôi nhàng thận trọng tiến về phía cửa sổ, phải do sợ quả bom có thể bay ập vào mà vì muốn con mèo bực tức kia hiểu sai động cơ của tôi.

      Bên ngoài, tại hàng rào, mặt hướng về phía ngôi nhà là Gã Nấm, Bob Robertson.




      CHƯƠNG 16

      ˜™





      Việc đầu tiên tôi làm theo bản năng là thụp người né khỏi cửa sổ. Song nếu Gã Nấm bám theo tôi ngay từ đầu chắc hẳn vì lý do nào đó gã nghi ngờ chuyện lúc nãy tôi có mặt trong ngôi nhà của gã ở Camp’s End. Hành động lén lút càng chứng thực cho điều sai trái của tôi.

      Tôi vẫn ở gần cửa sổ nhưng lấy làm biết ơn khi Terrible Chester đứng giữa tôi và Robertson. Tôi cũng hài lòng nhận thấy vẻ ghét cay ghét đắng lộ của con mèo dành cho gã này, dù ở khoảng cách xa như vậy, củng cố ngờ vực của tôi về gã.

      Cho đến giờ phút này, tôi bao giờ nghĩ rằng Terrible Chester và tôi cùng tán đồng về bất cứ chuyện gì hay có bất kỳ điểm chung nào khác ngoài lòng mến dành cho Ozzie “bé”.

      Lần đầu tiên tôi thấy Robertson mỉm cười, mang vẻ mơ mộng, mà gã khác hẳn. Đứng trong cái nắng mà sức nặng của ngày biến ánh sáng trắng chói lóa thành màu vàng mật ong, phía sau lưng có những hình thù và bóng râm của hàng nguyệt quế làm phông nền, trông gã dữ tợn như bức ảnh khổng lồ của Timothy McVeigh treo tường trong phòng làm việc.

      Từ phía sau, Ozzie lên tiếng, “Ôi Chúa ơi, chẳng lẽ người ta phải cho kẻ thù vào miệng để cướp minh mẫn của mình sao.”

      Quay lại, tôi thấy cầm cái khay gồm hai ly rượu và đĩa đựng phô mai viên, bao quanh là bánh quy trắng mỏng.

      Cất tiếng cảm ơn, tôi cầm lấy ly rượu và liếc nhìn ra ngoài.

      Bob Robertson còn ở chỗ cũ nữa.

      Đánh liều chấp nhận nguy cơ gây hiểu lầm nguy hiểm với Terrible Chester, tôi bước gần hơn đến cửa sổ, nhìn trái phải dọc theo con đường.

      “Sao thế?” Ozzie nôn nóng hỏi.

      Robertson , nhanh như có ý định cấp bách.

      hoảng sợ khi nhìn thấy người đàn ông lạ mặt này ở hàng rào, tôi còn lo lắng hơn nhiều khi để mất tăm hơi của gã. Nếu gã muốn theo tôi, tôi chịu để gã bám đuôi vì như thế tôi biết được gã ở đâu và khi biết rồi dễ ngơi nghỉ hơn.

      “Ôi Chúa ơi, chẳng lẽ người ta phải cho kẻ thù vào miệng để cướp minh mẫn của mình sao,” Ozzie lặp lại.

      Quay người từ cửa sổ vào, tôi thấy đặt khay xuống và đứng cầm ly rượu giơ lên như thể nâng cốc chúc mừng.

      Cố lấy lại bình tĩnh, tôi cất tiếng, “ vài ngày khó khăn đến mức nếu để rượu cướp minh mẫn sao chúng ta ngủ được?”

      “Này, đâu bảo em thảo luận về câu đó, chỉ xác định nguồn gốc của nó thôi.”

      Vẫn chưa hoàn hồn bởi gã Robertson nên tôi , “Hả?”

      Hơi điên tiết, Ozzie la lên, “Shakespeare! cố tình câu này vào để đảm bảo em vượt qua trót lọt, thế mà vẫn hỏng bét. Đây là lời Cassio trong hồi hai, cảnh ba của vở Othello.”

      “Em... bị xao lãng.”

      Ra dấu về phía cửa sổ, nơi Chester còn tỏ ra kích động và lần nữa thả lỏng lớp lông dày bậu cửa sổ rộng, Ozzie , “Cảnh tưởng phá hoại do bọn thiếu văn hóa bỏ lại mang vẻ đẹp tàn nhẫn, đúng ? Nó nhắc nhở ta rằng lớp vỏ bề ngoài của nền văn minh mới mỏng manh làm sao.”

      “Xin lỗi khiến thất vọng, à, nhưng suy nghĩ của em sâu sắc đến thế đâu. Chỉ là... em nghĩ thấy người em có biết ngang qua đây.”

      Nâng ly rượu trong bàn tay năm ngón, Ozzie cất lời, “Chửi cha mắng mẹ tất cả lũ vô lại!”

      “Chửi cha mắng mẹ, hơi nặng lời đó.”

      “Đừng làm mất vui chứ em, uống !”

      Vừa uống tôi vừa liếc nhìn ra cửa sổ lần nữa. Sau đó tôi quay lại ghế bành ngồi trước khi con mèo rít lên cách đáng sợ.

      Ozzie cũng ngồi xuống nhưng cái ghế của kêu lên ầm ĩ hơn ghế tôi nhiều.

      Tôi nhìn quanh sách vở, bản sao tuyệt đẹp của mấy cây đèn Tiffany[30] nhưng căn phòng tạo ra tác động xoa dịu như thường lệ. Tôi như nghe thấy đồng hồ đeo tay của mình đếm từng giây, hướng đến nửa đêm và ngày mười lăm tháng Tám.

      “Em hay đem quà cáp đến đây,” Ozzie lên tiếng, “và vì hôm nay thấy món quà nào nên cho rằng em gặp phải rắc rối phiền muộn gì đó.”

      Tôi kể nghe tất cả về gã Bob Robertson. Tuy giấu chuyện căn phòng tối đen với cảnh sát trưởng Porter nhưng tôi kể luôn cho Ozzie vì có óc tưởng tượng đủ lớn để nhét hết mọi thứ.

      Ngoài các tác phẩm thực tế, sáng tác hai bộ tiểu thuyết thần bí rất thành công.

      Bộ đầu tiên, như bạn có thể đoán được, về thám tử mập ú tài nghệ vô song, vừa phá án vừa đưa ra những nhận xét dí dỏm. ta nhờ vợ xinh đẹp và rất khỏe mạnh (người hết lòng ) đảm nhận tất cả các công việc điều tra cần lại và thực toàn bộ những hành động mạo hiểm.

      Ozzie rằng các quyền đó dựa những ý tưởng mới lớn ướt đẫm kích thích tố choán ngợp tâm trí trong suốt quãng đời niên thiếu. Và vẫn ám ảnh chưa dứt.

      Bộ thứ hai liên quan đến nữ thám tử, vẫn là người nữ hùng đáng mến bất kể vô số căn bệnh thần kinh và chứng cuồng ăn. Nhân vật này tượng hình trong bữa tối kéo dài năm giờ đồng hồ mà suốt khoảng thời gian đó, Ozzie và biên tập viên của đụng tới muỗng nĩa ít hơn cầm đến ly rượu.

      Đặt nghi ngờ trước quả quyết của Ozzie rằng nhân vật thám tử trong truyện cũng có thể có bất kỳ vấn đề hay thói quen cá nhân nào, dù mấy dễ ưa, và vẫn có thể làm say mê công chúng miễn là tác giả biết khéo léo biến nhân vật trở nên đáng mến, biên tập viên trả lời, “ ai có thể tạo ra lượng lớn độc giả muốn đọc truyện về thám tử cứ thọc tay vào họng và cho nôn hết ra sau mỗi bữa ăn.”

      Tiểu thuyết đầu tiên viết về nhân vật thám tử như giành được giải Edgar, giải thưởng dành cho thể loại thần bí tương đương tượng Oscar. Tập thứ mười mới xuất bản gần đây của bộ sách bán được số lượng nhiều hơn hẳn chín quyển trước.

      Bằng giọng long trọng thể che giấu niềm vui sướng tinh tướng, Ozzie chưa quyển tiểu thuyết nào trong lịch sử văn học mô tả quá nhiều lần nôn mửa lại chiếm được tình cảm của đông đảo độc giả đến thế.

      Thành công của Ozzie hoàn toàn hề khiến tôi ngạc nhiên chút nào. mến mọi người và lắng nghe họ, đồng thời tình thương nhân loại ngời sáng trong những trang sách của .

      Khi tôi kể xong chuyện gã Robertson, căn phòng tối đen và những dãy tủ đựng hồ sơ đầy nghẹt các vụ giết người điên loạn, , “Odd, ước gì em có khẩu súng.”

      “Em sợ súng mà,” tôi nhắc .

      sợ cuộc đời em đó. chắc bác Wyatt Porter chịu cấp phép cho em mang theo vũ khí giấu trong người.”

      “Vậy em phải mặc áo khoác thể thao.”

      “Em có thể đổi sang áo sơ mi kiểu Hawaii, để súng trong bao đeo sau lưng.”

      Tôi nhăn mặt, “Áo sơ mi kiểu Hawaii hợp với em.”

      “Ừ, phải rồi,” Ozzie bằng giọng mỉa mai che giấu, “áo phông quần jeans của em đúng là cách thể thời trang độc đáo .”

      “Có lúc em mặc quần kaki.”

      “Độ sâu tủ quần áo của em làm đầu óc người ta choáng ngợp. Đến Ralph Lauren còn phải bật khóc.”

      Tôi nhún vai, “Em là em.”

      “Nếu mua vũ khí thích hợp cho em và đích thân hướng dẫn em sử dụng...”

      “Cảm ơn vì lo lắng của nhưng chắc chắn em bắn vào cả hai chân mình và điều kế tiếp em được biết là viết bộ truyện về tay thám tử tư bị què cả đôi chân.”

      “Cái đó có rồi.” hớp ngụm rượu. “Cái nào cũng có hết rồi. Việc cho ra đời thứ mới toanh như nhân vật thám tử nôn mửa chỉ đến duy nhất lần thôi.”

      “Vẫn còn bệnh tiêu chảy kinh niên đó.”

      Ozzie nhăn nhó, “ e rằng em có sở trường để trở thành tiểu thuyết gia viết truyện thần bí nổi tiếng. Gần đây em viết cái gì?”

      “Cái này cái kia.”

      cho rằng ‘cái này’ ám chỉ danh sách vật dụng cần mua còn ‘cái kia’ chỉ những bức thư tán tỉnh dành cho Stormy Llewellyn, em còn viết cái gì khác nữa ?”

      “Chẳng còn gì khác hết,” tôi thú nhận.

      Khi tôi mười sáu tuổi, P. Oswald Boone, khi đó mới nặng ba trăm năm mươi pao, đồng ý làm giám khảo cuộc thi viết văn tại trường tôi, ngôi trường chính tốt nghiệp cách đó vài năm. Giáo viên tiếng của tôi cầu học sinh nào cũng phải gửi bài dự thi.

      Vì bà ngoại Sugars mới vừa qua đời và vì tôi nhớ bà nên tôi viết bài về bà. Chẳng may, bài đó đoạt giải nhất, khiến tôi nổi tiếng chút ít trong trường, dù rằng tôi thích chìm hơn.

      Nhờ những ký ức về bà, tôi nhận được ba trăm đôla với tấm bằng. Tôi bỏ tiền ra mua dàn nhạc đắt nhưng nghe khá hay.

      Tấm bằng và dàn nhạc sau đó bị đập vỡ thành trăm mảnh bởi con quái nổi cơn tam bành.

      Kết quả duy nhất còn lại lâu dài từ cuộc thi viết văn đó là tình bạn của tôi với Ozzie “bé”, điều tôi rất trân trọng dù trong suốt năm năm cứ liên tục thúc ép tôi viết, viết và viết. tài năng là món quà và theo lương tâm, tôi có nghĩa vụ phải tận dụng nó.

      “Hai món quà là quá nhiều,” tôi với . “Nếu em phải đối phó với hồn người chết rồi còn phải viết ra gì đó đáng giá em là phát điên hoàn toàn, hai là tự bắn vào đầu mình bằng khẩu súng muốn cho em.”

      Hết kiên nhẫn với lý của tôi, , “Viết lách phải khởi nguồn của đau khổ. Đó là chất trị liệu cho tinh thần. Nó khiến những khối u tâm lý bớt sưng tấy và xoa dịu nỗi đau.”

      Tôi nghi ngờ điều đó có đúng với hay có đau đến mức cả đời phải cần chất trị liệu cho tinh thần .

      Tuy Ozzie “lớn” vẫn còn sống nhưng Ozzie “bé” chỉ gặp bố mỗi năm hai lần. Mỗi lần gặp xong, cần hai tuần để lấy lại cân bằng cảm xúc và tinh thần vui vẻ đặc trưng.

      Mẹ cũng còn sống. Ozzie “bé” nhắc đến bà hai mươi năm.

      Ozzie “lớn” chỉ hơn con trai chừng năm mươi pao, do đó đa số mọi người đều cho rằng Ozzie “bé” thừa hưởng tình trạng béo phì từ bố.

      Song Ozzie “bé” chịu xem mình là nạn nhân của di truyền. bản chất là người yếu lòng nên mới có thân hình đồ sộ vậy.

      Nhiều năm qua, đôi lúc bóng gió và tôi thường suy ra rằng chuyện bố mẹ làm tan nát phần trái tim dẫn đến mềm yếu ghê gớm này. Thế nhưng chưa bao giờ kể về tuổi thơ gian khó và hề ra điều phải cam chịu. chỉ viết tiểu thuyết thần bí, hết quyển này đến quyển khác...

      nhắc đến người thân bằng giọng cay đắng. Thay vào đó, hầu như hề đến họ và tránh xa họ hết mức có thể. viết sách về nghệ thuật, nhạc, ẩm thực, rượu vang, hết cuốn này đến cuốn khác...

      “Viết lách,” tôi , “ thể xoa dịu nỗi đau của em nhiều bằng hình ảnh của Stormy... hay bằng hương vị kem dừa đào sôcôla miếng, vấn đề là chỗ đó.”

      có Stormy nào trong đời,” đáp, “nhưng có thể hiểu chuyện kem.” Ozzie uống cạn ly rượu. “Em tính thế nào với gã Bob Robertson này?”

      Tôi nhún vai.

      Ozzie thúc ép tôi, “Em phải làm gì đó chứ, gã biết em vào nhà gã hồi chiều và bám theo em khắp nơi rồi.”

      “Tất cả những gì em có thể làm là thận trọng. Và chờ lúc cảnh sát trưởng Porter tìm ra điều gì đó về gã. Dù sao cũng có thể phải gã bám theo em. Chắc gã nghe chuyện con bò nổ tung của ngang xem đống tàn tích thôi.”

      “Odd, thất vọng gì tả xiết nếu chưa tận dụng tài năng viết lách của em vào mục đích hữu ích nào mà ngày mai em chết ngoẻo.”

      “Nghĩ xem em thấy sao.”

      ước gì em mau khôn ra, kiếm khẩu súng và viết cuốn sách chứ mong bất kỳ mạng sống của ai phải ra vì gã. ‘Bước chân ngày tháng trong những năm tuổi trẻ mới nhanh làm sao’.”

      Quy kết cho trích dẫn, tôi , “Mark Twain.”

      “Tuyệt vời! Có lẽ xét cho cùng em phải thằng khờ non nớt ngu dốt cứng đầu.”

      “Lúc trước câu này rồi,” tôi thú , “thế nên em mới biết.”

      “Ít ra em cũng còn nhớ! tin điều đó, cho dù vô tình, em bộc lộ lòng khao khát muốn từ bỏ vỉ nướng và trở thành người của văn chương.”

      “Điều em mong trước nhất là chuyển sang lĩnh vực lốp xe.”

      Ozzie thở dài, “Đôi lúc em đúng là người thích cực khổ.” lấy ngón tay gõ vào ly rượu rỗng . “Lẽ ra phải đem theo cả chai.”

      “Cứ ngồi . Em lấy cho,” tôi lên tiếng vì tôi có thể xuống bếp mang chai rượu Cabernet lên trong khoảng thời gian mà đối với Ozzie chỉ đủ để nhấc mình ra khỏi ghế bành.

      Dãy hành lang rộng hơn ba mét dùng làm nơi trưng bày nghệ thuật, hai bên là những căn phòng chất đầy cũng là tác phẩm nghệ thuật.

      Cuối hành lang là gian bếp. quầy bếp lát đá granit đen có cái chai tháo nút để rượu được thở.

      Mấy phòng ngoài có gắn máy điều hòa tạo cảm giác dễ chịu còn gian bếp lại nóng đến kinh ngạc. Bước vào, trong chốc lát tôi cứ tưởng cả bốn bếp lò đều nướng thức ăn.

      Và rồi tôi thấy cửa sau để mở. Chiều tối ở vùng sa mạc, vẫn nóng bức dưới ánh mặt trời mùa hè ngoan cố, hút hết khí mát mẻ trong bếp.

      Khi bước ra đóng cửa, tôi thấy Bob Robertson ở sân sau, tái nhợt và giống cây nấm như bộ dạng trước nay.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 17

      ˜™





      Robertson đứng hướng mặt về phía ngôi nhà như thể chờ tôi nhìn thấy gã. Sau đó gã quay lưng bỏ ra phía sau mảnh đất. Mất lúc lâu, tôi cứ đứng do dự tại ô cửa, biết nên làm gì.

      Tôi cho rằng có thể người hàng xóm của gã nhận ra tôi và báo cho gã biết tôi rình mò khắp nơi trong lúc gã vắng mặt. Nhưng chóng vánh trong việc gã tìm thấy và bắt đầu bám theo tôi khiến người ta hoảng vía.

      Cảm giác tê cứng tan biến khi tôi chợt nhận thấy mình gây họa cho Ozzie, dẫn kẻ tâm thần này đến nhà . Tôi rời bếp, băng qua hàng hiên, bước xuống bậc tam cấp ra sân, giẫm lên cỏ và theo sau Robertson.

      Ngôi nhà của Ozzie nằm phía trước mảnh đất mẫu và phần lớn đất đai dành chỗ cho mớ cỏ cây che chắn khỏi hàng xóm láng giềng. Nửa mẫu đất phía sau, cây cối dày đặc hơn cả phía trước và mọc rậm rạp đến mức đủ tiêu chuẩn trở thành khu rừng .

      Vào bãi trồng nguyệt quế, kim giao, hạt tiêu hồng, Robertson sải bước và mất hút khỏi tầm mắt.

      Mặt trời nấn ná phía tây xuyên qua hàng cây, nơi nó có thể tìm thấy các kẽ hở hẹp, nhưng phần lớn những tầng cây ngăn cản ánh nắng thành công. Mát mẻ hơn bãi cỏ bị nắng thiêu đốt, những bóng râm rợp mùi cây cỏ tuy thế vẫn nóng bức và chúng đẩy tôi vào vòng kìm kẹp.

      đỡ hơn gì mấy bóng râm ngọt ngào giả tạo kia, rất nhiều thân cây gây cản trở tầm nhìn. Con mồi của tôi tận dụng rất tốt những thứ đó.

      Nhanh chóng và thận trọng, tôi len lỏi khắp khu rừng, từ hướng bắc xuống hướng nam rồi từ hướng nam lên hướng bắc, lúc đầu im lặng sau đó gọi to, “Ông Robertson,” nhưng gã đáp lại.

      Ánh mặt trời ít ỏi lọt vào ngăn chặn hơn là hỗ trợ cuộc tìm kiếm. Chúng tỏa sáng chút ít nhưng chỉ đủ ngăn cho mắt tôi thích nghi với bóng tối.

      Tôi mất rất nhiều thời gian mới tới cánh cửa ở hàng rào phía sau. Tôi thấy cửa khép kín những chốt loại này tự động cài lại khi cửa đóng sầm sau lưng gã.

      Cánh cửa mở ra lối lát gạch rất đẹp, bên hông là hàng rào và ga-ra, che bóng mát đó đây là những cây cọ và cây tiêu rủ xuống tha thướt. Tôi nhìn cả hai hướng cũng thấy Bob Robertson hay bất kỳ ai khác bộ.

      Quay về qua lối khi rừng , tôi nửa muốn nửa muốn gã xông vào tôi. Vậy ra gã chưa mà chờ tóm gọn tôi lúc tôi lơ là. Nếu Robertson trốn trong đám rừng kia, chắc hẳn gã nhận ra tôi vẫn cảnh giác cao độ, vì gã mạo hiểm tấn công.

      Ra tới hiên sau, tôi dừng bước, quay người lại và xem xét kỹ khu rừng . Chim chóc bay khỏi nhánh cây, phải như bị xua đuổi mà chỉ như tung cánh lần cuối trước khi mặt trời lặn.

      Vào bếp, tôi đóng cửa lại. Tôi khóa chốt và cài sợi xích.

      Tôi đưa mắt qua ô kính cửa sổ săm soi. Khu rừng yên ắng và tĩnh lặng.

      Khi tôi trở vào phòng khách với chai Cabernet, phân nửa phô mai biến mất khỏi đĩa bánh, còn Ozzie “bé” vẫn ngồi lọt thỏm trong cái ghế rộng, có lần ngồi đây thấy thoải mái như vua cóc ngồi ngai vàng. “Odd thân mến, tưởng em bước vào tủ quần áo qua vùng đất Narnia rồi đó chứ.”

      Tôi kể nghe về gã Robertson.

      “Ý em muốn ,” lên tiếng, “Gã ở đây, trong nhà sao?”

      “Dạ, em nghĩ vậy,” tôi vừa vừa rót rượu cho .

      “Làm gì?”

      “Chắc đứng trong hành lang, ngay ngoài mái hiên, lắng nghe chúng ta chuyện.”

      quá trơ trẽn.”

      Đặt cái chai lên khay cạnh ly rượu của , khó nhọc kiềm chế nỗi sợ tê người khiến đôi tay run rẩy, tôi , “Em cũng trơ trẽn đâu kém khi lẻn vào nhà gã lục lọi ngăn kéo.”

      cho rằng phải vậy, khi mà em ở bên phe thần thánh còn gã khốn kia giống như con gián bạch tạng khổng lồ trốn khỏi địa ngục.”

      Terrible Chester rời vị trí bậu cửa sổ sang ghế của tôi. Nó ngước đầu như thách tôi giành lại chỗ. Đôi mắt màu xanh của nó rực lên như đôi mắt con quỷ có mưu đồ.

      “Nếu là em,” Ozzie cất lời khuyên, “ ngồi chỗ khác.” ra dấu về phía chai rượu, “Em uống thêm ly nữa à?”

      “Em còn chưa uống hết ly lúc nãy,” tôi trả lời, “và em phải . Stormy Llewellyn, bữa tối, đủ thứ chuyện. Nhưng cần đứng dậy.”

      “Đừng bảo cần đứng dậy,” vừa gắt gỏng vừa bắt đầu quá trình nhấc thân người ra khỏi nệm ghế, giống như tấm nệm là cái miệng đói khát của giống cây ăn thịt người kỳ lạ ngậm chặt bắp đùi và cặp mông của với lực hút lớn.

      à, cần thiết mà.”

      “Đừng bảo chuyện gì là cần thiết, nhóc con táo tợn. Mọi thứ muốn làm đều là chuyện cần thiết, bất chấp nó tỏ ra cần thiết đến mức nào.”

      Đứng dậy sau khi ngồi hồi lâu, da mặt Ozzie đôi lúc ửng đỏ lên vì ráng sức, nhiều khi lại trắng bệch ra. Tôi hoảng sợ khi nghĩ chỉ việc đơn giản như nhổm dậy khỏi ghế cũng đòi hỏi ở quá nhiều nỗ lực.

      May thay, lần này mặt đỏ cũng chẳng trắng. Có lẽ được tiếp sức nhờ rượu và chỉ mới tọng vào nửa đĩa phô mai nên đứng thẳng dậy nhanh hơn rệt so với con rùa vùng sa mạc trồi lên khỏi đụn cát nguy hiểm.

      “Giờ đứng dậy rồi,” tôi , “em nghĩ nên khóa cửa lại sau khi em . Và cứ khóa hết cửa nẻo đến khi vụ này giải quyết xong. Đừng mở cửa trừ khi thấy được người nào nhấn chuông.”

      sợ gã đó,” Ozzie tuyên bố, “dù dao hay đạn cũng khó chạm tới được các bộ phận cơ thể chắc nịch đầy sức sống của . còn biết chút ít võ tự vệ.”

      “Tên này nguy hiểm lắm, à. Đến giờ có lẽ gã còn tự chủ được nhưng khi lên cơn, gã tàn ác đến mức xuất bản tin buổi tối từ Paris đến tận Nhật Bản. Em sợ gã.”

      Ozzie vẫy bàn tay sáu ngón xua âu lo của tôi. “Khác với em, có súng rồi. chỉ khẩu.”

      “Bắt đầu để chúng trong tầm tay . Em rất tiếc khi kéo gã đến đây.”

      “Vớ vẩn. Gã chỉ là thứ bám chiếc giày của em mà em biết nó có ở đó thôi.”

      Mỗi lần rời ngôi nhà này, Ozzie đều ôm tôi thắm thiết như người bố ôm đứa con trai thân , tuy ai trong chúng tôi từng được bố ôm siết.

      Và những lúc ấy, tôi ngạc nhiên khi có vẻ yếu đuối cho dù hình dáng bệ vệ. Như thể tôi cảm nhận được Ozzie cực kỳ gầy yếu bên trong lớp vỏ mà cuộc đời phủ chồng lên .

      Đứng tại cánh cửa trước hé mở, , “Gửi Stormy nụ hôn giùm .”

      “Dạ.”

      “Dẫn ấy đến để nhìn thấy tận mắt con bò xinh đẹp bị nổ tung của và hành vi côn đồ mà hình ảnh đó tượng trưng.”

      “Nàng kinh hồn bạt vía. Nàng cần rượu. Chúng em mang theo chai.”

      cần, có đầy cả hầm.”

      Tôi đứng ngoài hiên đợi đến khi đóng cửa xong và đến khi tôi nghe thấy tiếng chốt cửa gài lại.

      Trong lúc vượt qua lối phía trước vương vãi con bò rồi vòng sang cửa tài xế của chiếc Mustang, tôi quan sát con đường yên ắng. Robertson và cả chiếc Ford Explorer bụi bặm của gã đều biến đâu mất.

      Vào trong xe, khi nổ máy, bất chợt tôi tưởng mình bị thổi bay lên như hình con bò Holstein. Tôi giật bắn người.

      Tôi tuyến đường quanh co từ Jack Flats đến nhà thờ St. Bartholomew nằm trong vùng đất lịch sử, mang đến cả đống cơ hội phát ra gã. Đám xe cộ chạy sau tôi dường như hề có ý định bám theo tôi. Thế mà tôi vẫn có cảm giác bị theo dõi.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :