Giếng Thở Than - Montague Rhodes James [Kinh dị]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 13: Quăng các chữ Runes [1]
      Ngày 15 tháng Tư 190…

      Thưa ông, Hội đồng Hội… cầu tôi gửi trả lại ông bài báo viết về của Giả kim thuật mà ông đề nghị được đọc tại kỳ họp lần sau của chúng tôi và báo để ông biết Hội đồng thấy đưa vào chương trình được.

      Kính thư,

      …Thư ký

      Ngày 18 tháng Tư năm…

      Thưa ông, rất tiếc tôi bận công việc thể thu xếp gặp ông về đề tài ông đề xuất. Nội quy của chúng tôi cho phép ông thảo luận vấn đề với ủy ban nào đó trong Hội đồng chúng tôi như ông đề nghị. Xin bảo đảm chúng tôi xem kỹ bài viết của ông, trước khi bị từ chối bài viết được đưa qua chuyên gia hàng đầu cho ý kiến. Chắc tôi cần thêm là vấn đề cá nhân nào liên quan đến quyết định của Hội đồng.

      Xin hãy tin ở tôi

      Ngày 20 tháng Tư

      Thư ký Hội…trân trọng thông báo cho ông Karswell biết, tôi thể cho ông biết tên người hoặc những người chúng tôi đưa bài viết của ông để họ xem và cho ý kiến, cũng xin thưa với ông tôi trả lời lá thư nào nữa vê đề tài này.
      "Ai là ông Karswell vậy ?" Bà vợ ông thư ký Hội hỏi. Bà vừa đến cơ quan ông và (có lẽ chẳng có lý do chính đáng nào) nhặt bản đánh máy lá thư cuối cùng lên đọc, nó được đánh máy mới mang vào.

      "Em , đó là người mà lúc này giận dữ lắm đây. cũng có biết về ông ta mấy đâu, ngoài việc ông ta là người giàu có, địa chỉ: Tu viện Lufford Warwickshire, là nhà giả kim thuật – có vẻ như thế và muốn cho bọn nghe về thuật này, thế thôi, ngoài ra muốn gặp ông ta trong , hai ngày tới. Nào, em sẵn sàng để ta chưa nào?"

      "Thế làm gì khiến ông ta giận dữ?" bà vợ ông thư ký hỏi.

      "Chuyện thông thường thôi ấy mà. Ông ấy gửi đến bản thảo muốn được đọc trong hội nghị lần tới, bọn đưa Dunning đọc – người duy nhất ở nước hiểu biết về vấn đề này – Dunning bảo là hoàn toàn vô vọng. Bị từ chối xong, ông ấy choảng thư tới tấp như mưa. Điều cuối cùng ông ấy muốn biết là tên người được bọn đưa xem ba thứ lăng nhăng đó, trả lời thế nào em va đọc đấy thôi. Nhưng em đừng có gì đấy nhé, lạy Trời"

      "Đời nào em . Em làm vậy bao giờ chưa? Em hy vọng ông ấy biết được tên ông Dunning tội nghiệp"

      "Ông Dunning tội nghiệp? Sao em lại gọi thế! Đó là người đàn ông rất hạnh phúc. Nhiều thú vui này, ngôi nhà ấm cúng này, tha hồ thời gian dành riêng cho ông này"

      "Em tội nghiệp là nếu lão kia tìm ra tên ông ta rồi đến làm phiền ông ta"

      "Ừ, quả nếu thế tội nghiệp Dunning !".

      Ông thư ký và bà vợ hôm ấy ăn cơm khách, chủ nhà là ở vùng Warwickshire. Do đó bà vợ ông thư ký định bụng hỏi họ về ông Karswell xem sao. May thay chưa cần đưa vấn đề ra sau hồi lâu, bà chủ nhà bảo chồng "Sáng nay em gặp tu viện trưởng Lufford"

      Ông chủ nhà huýt sáo.

      " ư? Có chuyện gì mà lão lên tỉnh thế nhỉ?"

      "Có trời biết, em vừa xe qua cổng viện bảo tàng quốc thấy lão từ bên trong ra"

      Lẽ tự nhiên bà vợ ông thư ký hỏi họ có phải họ về tu viện trưởng đích thực .

      "Ồ đâu, chỉ là vị láng giềng của chúng tôi ở vùng quê vài năm trước đây mua tu viện Lufford, tên thực là Karswell"

      "Ông ấy có phải người bạn của bà ?"

      Ông thư ký Hội, nháy mắt riêng với vợ. Câu hỏi này dấy lên tràng diễn thuyết hùng hồn. Thực quả là có gì đáng về ông ta. Chẳng ai hiểu ông ta làm cái quái gì mình, đầy tớ là lũ kinh khủng, ông ta tạo ra tôn giáo cho riêng mình, thực những nghi thức vô cùng đáng sợ, bản thân ông ta hơi tí là tự ái bao giờ tha thứ cho ai, mặt mày trông phát khiếp lên được (bà vợ nhấn mạnh, ông chồng kín đáo hơn), chưa bao giờ làm hành động nào tử tế, việc gì cũng gây ác ý hiểm độc. Ông chồng ngắt lời:

      "Em công bằng với ông ta chút nào! Quên chuyện ông ta thết đãi bọn học sinh à?"

      "Quên! May mà làm em nhớ ra đấy! Xin ra để các vị có ý niệm về ông ta. Florence, chị nghe nhé. Mùa đông đầu tiên ở Lufford, vị láng giềng đáng mến của chúng tôi viết thư cho mục sư giáo phận của ông ta ( phải mục sư giáo phận của chúng tôi nhưng đối với chúng tôi là chỗ quen biết) xin dành cho học sinh của trường buổi xem chiếu phim đèn chiếu, loại rất hay, trẻ con rất thích. Mục sư hơi lạ. Bởi ông Karswell thường tỏ ra ưa bọn trẻ con, ông ta cứ hay phàn nàn chúng qua lại, đại loại như vậy, nhưng dĩ nhiên mục sư nhận lời định ngày xong đích thân mục sư cũng tới xem mọi thứ có ổn . Bản thân ông mục sư là mừng vì vợ mình hôm ấy vướng buổi liên hoan ở nhà đến xem được (thực tế là như vậy). Bởi ý đồ của ông Karswell là gây cho bọn trẻ con nhà quê mẻ sợ hết hồn, tôi tin là nếu buổi chiếu này đến tận cùng hẳn chúng mất trí chứ chơi. Lúc đầu lão đưa ra thôi, chẳng hạn phim The Blooding Hood, nhưng ngay cả lúc ấy, ông Farrer , bọn chó sói đáng sợ đến mức phải đưa bọn bé tí ra ngoài. Ông còn lão Karswell bắt đầu bộ phim với tiếng chó tru từ xa ca nghe khủng khiếp chưa từng thấy. Tất cả cá cảnh dương bản đều tuyệt đối như , ông Farret hiểu bằng cách nào mà lão ta thực được điều đó, buổi chiếu được tiếp tục, càng xa câu chuyện càng gây cho bọn trẻ con như bị thôi miên, im phăng phắc. Cuối cùng tới loạt phim về cậu bé qua công viên của ông ta – Lufford – vào ban đêm. Nhìn hình ảnh trong phim đứa trẻ nào cũng nhận ra. Cậu bé đáng thương bị nhân vật trắng toát đuổi theo, lúc đầu thoắt thoắt giữa các cây cao, sau càng ngày càng . Cậu bé cuối cùng bị nó tóm được và bị xé xác ra từng mảnh. Ông Farrer nó gợi lại cho ông cơn ác mộng ghê gớm nhất mà trẻ con thể nào chịu đựng nổi. Dĩ nhiên hơi quá đà, ông mục sư bèn cho ông Karswell chiếu tiếp. Lão chỉ "Ồ, ông nghĩ đến lúc chấm dứt buổi chiếu phim của chúng ta và đưa bọn trẻ con vào giường rồi à? Tốt lắm!" và thế là lão chiếu cảnh khác toàn rắn rết, các sinh vật kinh khủng có cánh và hiểu làm thế nào lão làm cho chúng như từ trong màn ảnh lổm ngổm bò ra chỗ khán giả với tiếng kêu sột soạt làm bọn trẻ con gần như hoá điên xô đẩy nhau, giẫm đạp lên nhau mà chạy ra, có đứa bị thương, bị đau, và bọn chúng chợp mắt được cả đêm. Sau đó xôn xao cả làng, các bà mẹ trách cứ ông Farrer, còn các ông bố giá như vượt qua được cổng tu viện, họ đập vỡ hết các cửa kính của tu viện. Đó, lão Karswell là như thế đó. Tu viện trưởng Lufford là như thế đó bạn thân mến ạ, bạn có thể hình dung chúng tôi thiết tha làm bạn với ông ta như thế nào!"

      "Phải, tôi nghĩ lão hoàn toàn có khả năng là tội phạm hình nổi bật" ông chủ nhà "Thương cho ai đọc phải sách của lão ta".

      "Lão có phải là, hay tôi nhầm với người khác," ông thư ký Hội (suốt vài phút nay, ông cau mày như cố nhớ lại cái gì đó) "người cho xuất bản cuốn Lịch sử phép phù thủy khoảng mười năm trước đây hay ?"

      "Chính lão ấy, còn nhớ những bài phê bình quyển sách đó ?"

      "Nhớ chứ, nhớ cả tác giả của bài phê bình sắc sảo nhất ấy chứ. Hẳn là vẫn còn nhớ ông ta, John Harrington ấy mà, thời tôi ông ta làm ở hãng John's ấy"

      "Có chứ, mặc dù tôi chẳng trông thấy hoặc nghe thấy gì từ ông ta kể từ khi tôi xuống đó cho tới ngày tôi đọc được tin về vụ điều tra cái chết bất thường của ông ta"

      "Điều tra cái chết bất thường?" trong số các bà hỏi. "Cái gì xảy ra với ông ta vậy?"

      "Ông ta ngã từ cây xuống, gãy cổ. Vấn đề là cái gì đưa đến chỗ ông ta phải leo lên cây? việc bí mật. Ông ta cảm giác phải dân thể thao gì, đúng nào, cũng chẳng ai thấy ở ông ta khuynh hướng lập dị nào. Ta hình dung ông ta con đường quê buổi chiều, có kẻ lang thang nào – bỗng nhiên trèo thoắt lên cây, hoá điên, rơi cả gậy và mũ, cuối cùng ở cái cây cao, cái cây rất khó trèo là đàng khác – mọc ở bờ rào, đúng ngay cành cây khô, thế là rơi xuống gẫy cổ, sáng hôm sau có người gặp ông ta chết, bộ mặt vẫn đầy nét kinh hoàng. ràng ông ta bị vật gì đó săn đuổi, người ta đám chó hoang, súc vật của vườn thú hoặc gánh xiếc sổng ra, nhưng làm gì có. Hồi ấy là năm 89, em trai ông ta Henry (tôi nhớ là ở Cambridge, nhưng có thể các vị nhớ đâu) cố tìm cách lần theo dấu vết để giải thích nhưng đành chịu cho đến nay. Dĩ nhiên Henry khăng khăng cho là trong này có chuyện trả thù, tôi cũng chẳng biết được. Khó mà thấy được đó là chuyện trả thù"

      Sau lát chuyện lại trở lại quyển Lịch sử phép phù thủy.

      "Thế xem quyển ấy chưa?" chủ nhà hỏi.

      "Rồi" ông thư ký đáp "Tôi đến chỗ xem nó cơ đấy"

      "Có đến nỗi tệ như người ta ?"

      "Ồ, về hình thức và lời văn, vô vọng, đáng đập bỏ tan tành. Nhưng, chỉ có thế, nó còn là quyển sách xấu xa. Tác giả tin tưởng từng lời mình , tôi nghĩ nhầm lão ta thử thực phần lớn các công thức trong đó"

      "Tôi tôi chỉ nhớ bài phê bình của Harrington, giả sử tôi là tác giả hẳn tôi phải từ bỏ tham vọng văn chương cho đến hết đời, dám ngóc đầu lên nữa"

      "Trường hợp này lại thế cơ chứ. Nhưng ba giờ rồi, tôi phải về đây"

      đường về nhà bà vợ ông thư ký bảo:

      "Em chỉ mong cái lão ghê gớm kia đừng có phát Dunning là người gạt bài viết của lão ta"

      "Khó lòng lắm em à" ông thư ký "Dunning bao giờ ra, những vấn đề này rất bí mật, cũng ai trong số bọn họ lộ ra. Karswell biết tên ông ta. Dunning cũng chưa bao giờ in ra tài liệu nào về đề tài này. Nguy hiểm duy nhất là Karswell tìm qua những người thường hay đọc các bản thảo về giả kim thuật ở bảo tàng quốc. Nếu mà bảo họ đừng có sợ họ lại càng ! Thôi ta hy vọng chuyện ấy đừng xảy ra"

      Tuy nhiên Karswell là người rất ma mãnh.

      Lần đầu như vậy cũng là nhiều rồi. buổi chiều muộn cũng trong tuần đó, ông Edward Dunning từ viện bảo tàng quốc – nơi ông làm công tác nghiên cứu – trở về ngôi nhà ấm cúng ở ngoại ô, nơi ông sống mình với hai người phục vụ lão luyện ở với ông từ lâu năm. Ta chẳng cần biết ông làm gì vì được nghe đến ở , mà hãy bỏ theo ông con đường về nhà.

      Xe lửa đưa ông đến cách nhà , hai dặm, sau đó xe ngựa đưa tiếp ông đoạn nữa, dừng cách cửa nhà ông độ ba trăm mét. Ngồi tàu ông đọc sách, nhưng ánh sáng nhạt nhoà dần chỉ đủ cho ông đọc những tấm quảng cáo dán mặt kính cửa sổ đối diện ghê

      ngồi. Lẽ tự nhiên đoạn đường tàu đặc biệt này các tâm quảng cáo được ông ngắm nghía thường xuyên, và ngoài đoạn đối thoại lỗi lạc rằng thuyết phục giữa ông Lamplough và vị K.C [2] nổi tiếng về chủ đề muối có tác dụng chữa cảm sốt (Pyretic Saltinet) chẳng còn gì đáng để ông chú ý. Tôi nhầm, có tấm quảng cáo ở tít trong góc trông có vẻ quen thuộc, chữ xanh nền vàng, đó có tên người – John Harrington – và cái gì đó giống như ngày tháng. Ông cũng chẳng cần biết thêm làm gì, tuy nhiên vì trong toa ít khách, ông tò mò ngồi dịch xuống cuối toa đọc tấm quảng cáo và khỏi thắc mắc. Nó phải là tấm quảng cáo bình thường mà như sau "Tưởng nhớ John Harrington, F.S.A.. ở Laurels, Ashbrooke. Mất ngày 18 tháng chín năm 19..Được cho phép ba tháng"

      Tàu dừng lại. Ông Dunning vẫn mãi đọc mấy chữ màu xanh nền vàng, được ông soát vé nhắc nhở nên đứng lên.

      "Tôi xin lỗi" ông "Tôi mải đọc tấm quảng cáo này, sao lại lạ thế nhỉ?"

      Ông soát vé từ tốn đọc nó:

      "Quái , tôi chưa hề trông thấy trước đây. Ai đùa biết?"

      Ông ta lấy khăn lau lau lại, khăn thấm nước bọt hẳn hoi lau cả trong lẫn ngoài.

      " sạch" ông ta bảo "cứ như đúc vào trong kính ấy. Ông có thấy thế ?"

      Ông Dunning xem kỹ rồi lấy găng tay của mình xoá mà cũng được.

      "Ai là người lo về quảng cáo tàu ấy nhỉ? Mà lại để cho họ làm như vậy? Đề nghị ông tìm hiểu xem. Tôi ghi lại mấy chữ này"

      Vừa lúc đó ông lái tàu gọi "George, đến giờ rồi"

      "Được, được, nhưng có ai dán cái gì ở cuối toa này. đến xem tấm kính này xem.

      "Kính làm sao?" Người lái tàu hỏi, tới "Nhưng ai là Harrington mới được chứ? Thế này là thế nào nhỉ?"

      "Tôi vừa hỏi xem ai là người chịu trách nhiệm về quảng cáo tàu và đề nghị cho điều tra về việc này"

      "Vâng, thưa ông, việc này do văn phòng cơ quan tàu điện, ông Timms, phụ trách. Để hết ca tôi ghi lại mọi thứ, ngày mai xin lại với ông nếu như ông vẫn chuyến này"

      Đó là việc xảy ra chiều hôm ấy. Ông Dunning tìm xem Ashbrooke ở chỗ nào. Nó ở Warwickshire.

      Ngày hôm sau ông lại vào trung tâm. Toa tàu (vẫn đông người trong toa), có dịp nào để chuyện với người soát vé cả, chỉ biết tấm quảng cáo kỳ quặc bị xoá . Lại thêm yếu tố bí cho việc. Ông bị lỡ chuyến xe ngựa, đành bộ về nhà. hơi khuya, ông làm việc trong phòng sách, bà người ở vào báo cho 'hai người bên tàu điện tới tìm, rất muốn chuyện với ông. Ông nhớ lại tấm quảng cáo mà ông quên khuấy mất. Ông soát vé và ông lái tàu uống nước xong, ông bèn hỏi họ xem ông Timms thế nào. "Thưa ông, hai em chúng tôi liền gặp ông Timms" ông soát vé kể "ông Timms thế này, làm gì có tấm quảng cáo như thế được người ta gửi tới hay cầu, hay thuê để đăng lên, thành ra làm sao có nó ở đấy được, chắc các chú dở hơi làm mất giờ của ông ấy mới khổ chứ. Tôi "Ông Timms ạ, hay ông ra xem tận mắt . Nếu thấy nó ở đấy, tha hồ ông gọi tôi là gì cũng được." "Ta cùng " ông ta và thế là chúng tôi cùng ra thẳng đấy. Giờ , xin ông cho, tác phẩm quảng cáo rành rành ra đó, tên Harrington, chữ xanh nền vàng. Ông bảo tôi xoá bằng khăn lau, ông còn nhớ ạ?" "Tôi nhớ chứ, vậy sao nào?" Tôi nghĩ ông bảo vậy. Thưa ông, ông Timms cầm đèn, mà , ông ấy bảo Williams cầm đèn soi, ông bảo, cái tấm quảng cáo quý giá chúng ta nghe mãi từ nãy đến giờ đâu nào?" "Đây ạ" tôi , dẫn ông đến chỗ đó" đến đây ông soát vé im.

      "Vậy là còn nữa chứ gì? Kính vỡ?"

      "Vỡ? hề vỡ. Duy còn vết tích gì của các chữ nữa, các chữ xanh ấy, ở miếng kính ấy, thôi tôi nữa, để cho William kể nốt"

      "Thế ông Timms bảo sao?"

      "Đành phải để ông ấy gọi chúng tôi bằng đủ các thứ tên, mà cũng chẳng trách ông ấy được. Nhưng tôi và William nghĩ rằng… Vì ông có ghi lại những chữ màu xanh ấy…"

      "Đúng, tôi có ghi lại, và vẫn còn đây. Các ông có muốn tôi đích thân với ông Timms ? Cho ông ta xem mảnh giấy tôi ghi lại ? Các ông đến đây vì việc đó chứ gì?"

      "Dạ, tôi cũng dám thế đâu" William "Tôi chỉ định với ngài xem có dò ra được cái gì , thế thôi. Thôi George, có lẽ đêm nay tôi khổ công đưa đến đây…"

      "Được rồi William, đâu có phải cáng tôi đến đây, tôi tự nguyện đấy chứ? Vậy là chúng tôi cũng làm mất gì của ông, tuy nhiên nếu ông có vô tình qua cơ quan chúng tôi và cho ông Timms biết chính mắt ông đọc tấm quảng cáo ấy chúng tôi đội ơn ông vô cùng. Ông hiểu cho, ở cơ quan người ta bảo chúng tôi trông gà hóa quốc, chúng tôi dám đến chuyện kia, chúng tôi là người làm công ăn lương cả năm mà, ông hiểu tôi gì"

      Thêm vài lời giải thích nữa rồi hai ông ra về.

      Ngày hôm sau, được ông Dunning (mà ông Timms có quen biết sơ sơ) cho nghe và cho xem cả mẩu giấy ghi lại, ông Timms còn ghi điểm xấu cho George và Wiliam trong sổ nữa. Tuy nhiên chẳng ai giải thích được cái gì hết.

      Ngày hôm sau nữa lại có thêm kiện xảy ra khiến cho ông Dunning cứ phải nghĩ mãi về câu chuyện ở . Ông thả bộ từ Câu lạc bộ ra ga xe lửa đàng phía trước ông có người đứng phát của tờ quảng cáo cho người qua lại. Người đứng phát của hãng chọn phố đông mà phát. Thực tế, trước khi tới gần, ông Dunning chưa thấy họ phát cho ai. Ông qua tờ quảng cáo được đặt vào tay ông, bàn tay lạ chạm vào tay ông khiến ông hơi sốc, nó thô ráp và nóng bỏng. Nhìn lên người đó hiểu sao chỉ có cảm giác lờ mờ ràng gì cả. Khi liếc nhìn xuống tờ giấy, ông nhanh. Giấy màu xanh, cái tên Harrington bằng chữ in to tướng đập vào mắt ông. Ông dừng lại, giật mình, lật đật đeo kính. người ngược lại giật lấy tờ giấy, mất luôn tờ giấy. Ông chạy theo người khách bộ hành. Biến mất. Người phát giấy cũng biến mất.

      Trong tình trạng đầu óc cứ thắc thỏm suy nghĩ ngày hôm sau ông Dunning có mặt trong phòng lựa chọn tư liệu của viện bảo tàng quốc, ông điền vào tích kê để mượn Harley 3586 và vài quyển sách khác nữa. Sau vài phút, sách được mang tới, vừa đặt quyển sách muốn đọc trước lên bàn ông tưởng như có ai thầm gọi tên ông ở đàng sau. Ông vội vàng quay lại, làm rơi cặp giấy của ông xuống sàn. Ông nhìn thấy ai cả ngoài người nhân viên phụ trách phòng gật đầu với ông. Ông nhặt nhạnh các tờ giấy lên. Coi như nhặt đủ hết, ông tính bắt đầu ngồi làm việc. Bỗng có quý ông to lớn ngồi ngay đàng sau ông, đứng lên chuẩn bị ra về thu nhặt đồ lề của mình, ông này chạm vào vai ông "Tôi xin đưa cho ông tờ này, tôi nghĩ là của ông" và đưa cho ông Dunning tờ còn thiếu trong tập giấy của ông. "Vâng, của tôi, xin cám ơn ông" Ông Dunning đáp. Ông kia ra về. Sau khi làm xong công việc, ông Dunning chuyện với các nhân viên, tiện thể hỏi xem quý ông mập mạp kia là ai. "Ồ, đó là ông Karswell" người nhân viên trả lời, "Hôm trước ông ấy có hỏi tôi ai là quan chức giỏi nhất về giả kim thuật, tôi ông là người duy nhất trong cả nước. Để tôi xem có kịp chạy theo ông ấy , hẳn ông ấy muốn gặp ông".

      "Lạy trời đừng!" ông Dunning "Tôi tránh mặt ông ấy"

      "Ồ, thế càng tốt, ông ấy mấy khi đến đây, ông lo là gặp ông ấy nữa đâu".

      đường về nhà hôm ấy, thêm lần nữa ông Dunning cảm thấy thể trông chờ vui vẻ thường ngày của buổi tối đơn. cảm giác khó hiểu đinh nghĩa được len vào giữa ông và các đồng - làm ông trĩu nặng. Ông muốn ngồi gần các hành khách tàu hoả và tàu điện nhưng cả hai tàu đều vắng ngắt. Ông soát vé George có vẻ nghĩ ngợi, dường như tính toán số hành khách tàu. Về tới nhà, ông gặp với bác sì Watson, bác sĩ của ông, nơi ngưỡng cửa "Dunning, rất tiếc tôi buộc phải làm đảo lộn công việc nhà ông, cả hai bà người ở của ông bị loại khỏi vòng chiến (Hors de combat) rồi. Thực tế tôi phải gửi cả hai nhà thương"

      "Trời đất! Có chuyện gì vậy?"

      "Hình như bị ngộ độc ptomaine, sở dĩ ông bị vì ông ăn ở bên ngoài. Nhưng họ sao đâu"

      "Khổ quá! Ông có hiểu vì sao xảy ra việc ấy ?"

      "Họ bảo họ mua cá của người bán rong. kỳ lạ. Hỏi mãi thấy người bán rong nào vào nhà ai cả. Chưa báo ngay được cho ông, nhưng họ phải nghỉ mấy hôm. Tối nay ông đến ăn cơm nhà tôi, rồi ta thu xếp trong mấy hôm nữa ra sao. Tám giờ nhé? Đứng lo lắng gì hết"

      Thế là tránh được buổi tối đơn, tuy phải trả giá bằng mấy mối lo âu và bất tiện. Trôi qua buổi tối với ông bác sĩ cũng khá vui (ông này mới đến ở vùng này). Mười giờ đêm ông Dunning mới trở về nhà. Ban đêm chẳng được như ý. Nằm trong giường tắt đèn hết, ông cứ băn khoăn hiểu bà quét dọn ngày mai có đến , có đun nước nóng cho ông . Chợt ông nghe có tiếng cửa buồng làm việc của ông mở ra. nghe thấy tiếng chân trong hành lang, nhưng cửa mở ra nhất định là phiền phức rồi, sau khi cất các giấy tờ vào hộc bàn ông đóng cửa lại cẩn thận rồi mà! phải vì can đảm hay vì hổ thẹn, ông trở dậy khoác cái áo mặc trong nhà ra hành lang tì vào lan can nghe ngóng. thấy có ánh sáng hay tiếng động nào nữa, chỉ có luồng gió ấm, làn khí nóng bỏng lẩn quẩn quanh hai ống chân ông. Ông trở vào phòng ngủ quyết khóa mình trong đó. Càng khó chịu thêm. Chẳng hiểu tại sao lại có điện, có lẽ công ty điện ở ngoại ô vì tiết kiệm cho ông những giờ lúc sáng sớm cần đến điện nên làm việc, hay công tơ bị hỏng. Cần tìm diêm soi đồng thời để biết còn phải trôi qua bao nhiêu giờ bực bội nữa. Lấy tay sờ vào cái hốc quen thuộc dưới gối, ông chạm vào cái miệng có răng, quanh có râu mà ông cho là phải là người theo những nhận biết của ông. Thế thôi cũng cần đoán ông hay làm gì. Ông sang buồng bên cạnh, khoá cửa lại, ghé tai vào cánh cửa nghe ngóng cho tới lúc hoàn hồn trở lại. Ông qua đêm khốn khổ lúc nào cũng thấp thỏm chờ xem có tiếng mò mẫm ở cửa nhưng thấy gì.

      Đến sáng, sau khi lắng tai nghe và run rẩy chân ông mới liều mình trở lại phòng ngủ của mình. May mắn là rèm cửa mở, rèm cửa sổ vẫn kéo cao (lúc đầy tớ ra khỏi nhà chưa đến giờ kéo rèm xuống), tóm lại là có dấu hiệu có ai ở trong đó cả. Đồng hồ đeo tay vẫn nằm ở chỗ cũ, mọi vật đâu ở đấy, cửa tủ áo vẫn mở như xưa nay. Chuông cửa reo, chứng tỏ bà quét dọn tới (bà này được thông báo tối hôm trước), tiếng chuông làm ông Dunning giật thót mình.

      Cho bà ta vào xong, ông tiếp tục tìm kiếm mọi ngóc ngách khác trong nhà, nhưng vô ích.

      Ngày hôm ấy vô duyên. Đến Bảo tàng dám, tuy người nhân viên rồi nhưng Karswell vẫn có thể đến đó lắm chứ. Dunning muốn gặp cái người lạ hoắc đáng ghét đó. Nhà ông bây giờ cũng dáng ghét, chẳng lẽ lại đến ông bác sĩ? Ông tạt qua nhà thương thăm bà coi nhà và đầy tớ , họ khá lên. Giờ ăn trưa ông đến câu lạc bộ, thoáng thấy ông Thư ký Hội, ông tươi hẳn lên. Trong bữa cơm trưa, ông kể cho bạn nghe mọi nỗi phiền muộn, tuy vậy chưa dám những gì đè nặng trong tâm trí ông. "Ông thân mến tội nghiệp ơi" ông thư ký " là rối quá nhỉ. Này ông, vợ chồng tôi chỉ có mình, ông phải sang ở với chúng tôi, gởi đồ của ông sang ngay chiều nay , đừng ngại gì hết."

      Dunning cũng chịu nổi nữa. Quả ông lo lắng vô cùng, mỗi giờ phút qua lại khắc khoải biết những gì xảy tới với mình đêm nay. Ông vui lòng nhận lời và vội vã về nhà đóng gói hành lý.

      Hai người bạn khi đón tiếp ông đến, ngạc nhiên thấy vẻ bơ phờ của ông, cố gắng giữ tinh thần cho ông nhưng hoàn toàn vô ích. Nhưng khi hai người đàn ông ngồi hút thuốc với nhau, Dunning lại trở nên buồn phiền. Rôi ông chợt :

      "Gayton ạ, có lẽ tay giả kim thuật tìm ra mình là người loại bỏ bài viết của ra rồi"

      Gayton huýt sáo

      "Sao biết?"

      Dunning bèn kể lại chuyện với nhân viên Bảo tàng ra sao, Gayton đành nghĩ có lẽ đúng. Dunning :

      "Tôi cũng chẳng cần, nhưng gặp nhau phiền lắm, có thể ông ta cáu giận, tôi nghĩ vậy"

      Câu chuyện đến đây lắng xuống. Gayton ngày càng nhận thấy được nỗi sầu não nét mặt Dunning, bèn – với cố gắng đáng kể - hỏi thẳng bạn có phiền muộn điều gì quan trọng . Dunning thở phào nhõm:

      "Tôi muốn kể ra đây. có biết ai là John Harrington ?"

      Gayton giật mình, chỉ hỏi được vì sao Dunning thế. Thế là Dunning kể tuột mọi chuyện ra, tàu hoả, ở trong nhà, ở ngoài phố, rồi tâm trí ông lúc nào cũng rối loạn tơi bời, bây giờ vẫn vậy, cuối cùng ông nhắc lại câu hỏi kia. Gayton biết trả lời thế nào. Kể về cái chết của Harrington cũng phải thôi, nhưng trong khi Dunning ở tâm trạng như thế này, câu chuyện quá buồn thảm, riêng ông còn thấy có cái gì đó gắn liền hai việc với nhau và với con người Karswell. Đối với nhà khoa học kể cũng khó nhượng bộ nhưng ông nghĩ nên "xoa dịu" hơn, ông quyết định phải trả lời thận trọng và trước hết phải tâm với vợ . Cho nên ông chỉ có biết Harrington ở Cambridge, ông này đột tử năm 1809, ông biết vài chi tiết, vài tác phẩm ông ta xuất bản. Sau đó ông với bà Gayton và đúng như ông dự kiến, bà lao ngay vào cái kết luận lơ lửng trước mặt ông. Chính bà gợi cho ông nhớ tới em ông Harrington là Henry Harrington còn sống, bà cũng đề nghị nhờ ông bà nhà mời họ ăn cơm tối hôm trước tìm hộ ông này. Gayton phản đối:

      "Biết đâu ông này là tay gàn vô vọng sao?"

      "Vợ chồng nhà Bennett phải biết chứ?" Bà Gayton lại và bảo gặp ông bà Bennet ngay ngày mai.

      Khỏi phải kể chi tiết những bước mà người ta làm cho Henry Harrington và Dunning lại gần nhau.

      Cảnh đáng kể là cuộc chuyện trò giữa hai người này. Dunning cho Harrington nghe bằng cách kỳ lạ nào mà cái tên của người chết được đưa tới trước mắt ông, thêm vào đó là những gì ông trải qua sau đó. Rồi ông hỏi Harrington xem ông này có cảm phiền gợi lại cái chết của người . cần bạn cũng hình dung được Harrington ngạc nhiên đến thế nào khi nghe chuyện Dunning, nhưng câu trả lời của ông sẵn sàng. Ông kể:

      "Vài tuần trước đó John cứ lúc lúc lại thấy trong người khó chịu kinh khủng, tôi muốn phải là ngay trước thảm họạ, mà trước đó ít lâu. Có vài việc kỳ lạ là ấy luôn có cảm giác có người theo mình. Dĩ nhiên ấy là người nhạy cảm, nhưng trước kia chưa bao giờ có cảm giác ấy. Tôi thể nào nghĩ tới có trò ác độc gì đây, nhưng điều ông kể càng làm tôi nhớ đến tôi. Ông có thấy mối liên hệ ?"

      "Tôi mơ hồ nghĩ đến điều đó. Tôi có nghe ông của ông phê bình kịch liệt quyển sách trước khi chết và mới gần đây tôi vô tình ngáng trở công việc của chính con người viết quyển sách ấy, nó khiến ông ta rất căm giận"

      "Xin đừng đó là lão Karswell!"

      "Chính lão ấy"

      Henry Harrington ngã người ra sau.

      " hết chỗ rồi. Để tôi giải thích thêm. Qua lời tôi kể, tôi dám chắc John bắt đầu tin – tuy tôi muốn chút nào – rằng Karswell chính là cội nguồn những hoảng loạn của ấy. Có vẻ có liên quan nào đó đến tình trạng ấy. tôi vốn là nhạc công lớn, thường tham dự các buổi hoà nhạc ở thành phố. Ba tháng trước khi mất, từ buổi hoà nhạc trở về và đưa tôi xem bản chương trình, bản chương trình để phân tích, vẫn thường giữ lại. "Suýt nữa quên mất tờ này" " nghĩ mình đánh rơi ở đâu rồi. Tuy nhiên vẫn tìm dưới chỗ ngồi và lục lọi các nơi. Người ngồi bên cạnh bèn đưa tờ chương trình của ta, rằng "thôi để tôi biếu ông, tôi cũng chẳng dùng làm gì", sau đó ông ta luôn. biết ông ta là ai, chỉ biết đó là người mập mạp, mày râu nhẵn nhụi. có tờ chương trình này tiếc lắm, dĩ nhiên có thể mua tờ khác, nhưng tự nhiên có nó càng tốt chứ sao. lần khác, kể lại rằng đường về khách sạn, suốt cả đêm thấy khó ở. Bây giờ tôi mới thấy các kiện ấy với nhau. Rồi, sau đó lâu, tôi lấy các tờ chương trình ra sắp xếp, và cái tờ chương trình đặc biệt đó (tôi chỉ liếc qua) thấy nó hầu như là tờ giấy dài có viết thứ chữ rất đặc biệt bằng hai màu đỏ và đen, viết rất cẩn thận, trông rất giống chữ Runes. "Quả " "cái ông béo ngồi cạnh tôi đây mà, tôi phải trả lại ông ta, hình như bản sao chép cái gì dó, để mất gay go. Nhưng làm sao tìm được địa chỉ của ông ta bây giờ? Chúng tôi với nhau ít phút về việc này, nhất trí đáng phải đăng cáo thị, để lần hoà nhạc sắp tới tôi tìm ông ta vậy. Tờ giấy nằm quyển sách và cả hai chúng tôi ngồ bên lò sưởi, đó là buổi chiều hè lạnh có gió. Tôi nghĩ cửa bị gió đẩy ra. hiểu sao có cơn gió ấm, đột nhiên thổi vào chỗ chúng tôi, cuốn mảnh giấy vào ngọn lửa, và vì mảnh giấy , nó cháy ngay biến thành làn khói bay lên ống khói lò sưởi. "Thế đem trả sao được" tôi . Trong phút tôi im lặng gì, sau đó có vẻ giận "Dĩ nhiên trả được, nhưng sao chú cứ lại việc đó như thế?" Tôi lưu ý ấy là mới việc này óc mỗi lẩn. "Chú bốn lần rồi có!" Tôi vẫn quên lời tôi, chẳng hiểu vì lý do gì. Bây giờ mới đến điểm chủ yếu đây. biết đọc quyển sách của Karswell mà ông tội nghiệp của tôi phê bình chưa. Chắc là chưa, riêng tôi, tôi đọc nó cả trước và sau khi tôi mất. Lần đầu cả hai chúng tôi cùng nhau chế giễu nó. Văn chẳng ra văn, toàn động từ chưa chia và đủ những thứ khiến người ở Oxford phải phẫn nộ. Lão ta có gì là nuốt. Lão hoà trộn mọi thần thoại lại với nhau, lão rút chuyện từ quyển Golden Legend ra nhưng lại cho với các phong tục man rợ thời nay – thực ra nếu biết cách sử dụng rất thích hợp nhưng lão có biết cách dùng đâu. Lão ghép Golden Legend và Golden Bough vào thành đôi với nhau và tin cả hai. cách trình bày thảm hại. Sau thảm hoạ, tôi lại đọc lại. thấy gì khá hơn nhưng cảm tưởng để lại trong tâm trí tôi khác . Như tôi với , tôi nghi lão ta chơi xấu tôi, do đó tôi cho rằng lão phần nào chịu trách nhiệm về những gì xảy ra. Quyển sách lúc này đối với tôi thực quả là thể rất u ám, đặc biệt có chương trong đó đến "Quăng các chữ Runes vào người ta" – chủ yếu để loại bỏ con người đó đúng hơn. Lão về hành động này, theo tôi, hàm ý là có thực, qua hiểu biết thực tế. Tôi có thời gian sâu vào chi tiết nhưng kết quả sau khi thu thập thông tin đúng người đàn ông ở buổi hoà nhạc là Karswell. Tôi đâm nghi – phải nghi mà tin chắc tờ giấy đó rất quan trọng, tôi dám chắc nếu tôi trả lại được cho lão hẳn bây giờ ấy vẫn còn sống. Vì vậy tôi muốn hỏi , còn có gì để kể thêm nữa ?"

      Dunning bèn kể lại kiện ở Viện bảo tàng quốc. "Vậy là lão có đưa cho tời giấy, xem chưa, ta phải xem lại ngay, và xem kỹ". Họ về căn nhà trống trải – vẫn trống trải vì hai đầy tớ chưa trở lại làm việc được. Tập giấy của Dunning để bàn, đầy bụi, đó là những trang giấy rời Dunning dùng để ghi chép, và trong những trang đó, khi ông nhặt lên, nó bay xuống đất mới nhanh làm sao. Vì hóa ra chỉ là dải giấy và rất . Cửa sổ mở, Harrington đóng sập lại nhanh, kịp thời tóm được tờ giấy "Đúng rồi, giống hệt cái tờ của tôi. Phải cảnh giác đấy, vấn đề này nghiêm trọng với đấy"

      Hai người nghiên cứu kỹ lưỡng mảnh giấy. Như lời Harrington, chữ viết đó giống chữ Rune vô cùng, nhưng ai đọc ra được mà cả hai đều dám chép lại vì biết nó mang ý đồ xấu xa nào. Thành ra chưa hiểu nó định truyền đạt điều gì. Nhưng cả Harrington lẫn Dunning đều biết chắc hậu quả mà người mang nó nhận lấy. Họ đồng ý phải đem trả lại nơi xuất xứ và bản thân người mang nó phải tự làm lấy việc này. Phải mưu mẹo, thủ đoạn làm sao khéo léo, Karswell biết mặt Dunning. Việc đầu tiên Dunning phải cạo sạch bộ râu. Nhưng nếu cái cú trời giáng xảy ra trước sao? Harrington nghĩ họ có thể xác định được thời gian việc xảy ra. Ông nhớ ngày diễn ra buổi hoà nhạc của ông. Điểm đen đó vào ngày 18 tháng sáu, mà ông mất vào ngày 18 tháng chín. Dunning cũng nhớ lại "ba tháng báo trước" được đến trong dòng chữ ở cửa kính toa tàu.

      "Có lẽ" ông này vừa buồn vừa cười vừa "hạn chết của tôi cũng là ba tháng. Vậy là tôi xác định được ngày tháng qua cuốn lịch công tác của tôi rồi đây. Phải, 23 tháng tư là ngày ở bảo tàng, như thế ngày định trước là 23 tháng bảy. Bây giờ như biết đấy, điều vô cùng quan trọng đối với tôi là được biết về diễn biến của mối hoảng loạn ở ông của , nếu có thể làm ơn cho tôi nghe".

      "Tất nhiên. Cảm giác luôn bị ai đó theo dõi ám ảnh tôi nhất. Tôi phải vào ngủ trong phòng ấy và ấy có khá hơn, mặc dù vậy trong giấc ngủ ấy mơ rất nhiều. Về cái gì? sâu vào đó có khôn ngoan , ít nhất là trước khi giải quyết được mọi việc? Tôi nghĩ là , nhưng tôi có thể kể nghe chi tiết này. Trong những tuần ấy có hai bưu phẩm được gửi đến cho tôi qua đường bưu điện, cả hai đều được đóng dấu bưu điện London, chữ phong bì viết tay, kiểu chữ giao dịch buôn bán. là trang sách in hình tranh khắc gỗ của Bewick, xé ra từ đâu đó. Cảnh con đường sáng trăng có người bị con quỷ đuổi đàng sau, và dưới viết mấy dòng cắt ra từ tập "Ancient Mariner" (theo tôi chính là những gì mà bức tranh minh hoạ) tả về người đường có lần quay lại đàng sau:

      …vẫn tiếp

      quay đầu lại nữa,

      ta biết,

      Có con quỷ đuổi đàng sau .

      Bưu phẩm thứ hai là quyển lịch mà các thương nhân thường dùng. tôi chẳng chú ý, nhưng sau khi ấy mất, tôi nhìn vào thấy tất cả những gì sau ngày 18 tháng chín đều bị xé bỏ hết. Chắc lấy làm lạ sao ấy còn ra đường mình vào buổi tối ấy bị giết, nhưng thực là trước hôm bị giết khoảng mười ngày tuyệt nhiên có cảm giác bị theo dõi hoặc có người theo gì cả.

      Buổi bàn luận kết thúc như sau, Harrington có quen người hàng xóm của Karswell, có thể nhờ người này theo dõi nhất cử động của lão ta. Về phía Dunning, phải sẵn sàng tìm cách gặp mặt Karswell bất cứ lúc nào, phải giữ cho mảnh giấy được an toàn ở chỗ có thể lấy ra dễ dàng.

      Họ chia tay nhau. Những tuần lễ sau đó vô cùng căng thẳng với Dunning. Vật cản trở vô hình được dựng lên kể từ ngày ông nhận được mảnh giấy dần dần biến thành màn đêm bao trùm lên khắp nơi khắp chốn, xem chừng ông thể nào ra thoát. ai có cách gì đưa ông đến với lão ta, ông dường như bị tước mọi sáng kiến. Ông lo lắng khôn tả khi tháng Năm, tháng Sáu và những ngày đầu tháng bảy trôi qua dần. Ông chờ thông điệp của Harrington. Trong khi đó Karswell vẫn án binh bất động tại Lufford.

      Cuối cùng chỉ còn chưa đến tuần là tới cái ngày oan nghiệt được coi như chấm dứt cho cuộc sống trần tục của ông, điện báo như sau "Rời Victoria bằng chuyến tàu cập tàu thủy đêm thứ Năm. Đừng để lộ. Tối nay tôi đến . Harrington"

      Tối đó Harrington đến, họ bàn bạc kế hoạch. Tàu hoả rời ga Victoria lúc chín giờ, ga cuối cùng trước khi tới cảng Dover là Tây Groydon. Harrington nhận diện và theo sát Karswell từ Victoria, trông chờ Dunning ở Groyon, nếu cần gọi Dunning – bằng cái tên thoả thuận trước. Dunning, phải cải trang, thay đổi hình dạng khác chừng nào hay chừng ấy, hành lý xách tay tuyệt nhiên có chữ lồng hay dấu hiệu nào và tuyệt đối phải mang mảnh giấy đó theo người.

      Tôi cần mô tả ra đây nỗi căng thẳng thần kinh khủng khiếp mà Dunning phải chịu đựng ở cái ga Groydon. Cảm giác về mối hiểm hoạ trong những ngày cuối cùng này càng trở nên sắc bén thêm vì đám mây mờ che phủ ông nay loãng ra, nhưng cảm giác nhõm đâm ra lại là điềm gở vô cùng đáng ngại. Ngộ nhỡ trượt Karswell lần này hy vọng tiêu tan, còn cơ hội nào nữa. Tin đồn đại về hành trình của lão biết đâu chỉ là mưu lão tung ra. Hai mươi phút lại lại sân ga rồi hỏi tới hỏi lui những người phu khuân vác về chuyến tàu hoả cập tàu thủy là cực hình cay đắng nhất trong đời của Dunning. Thế rồi tàu tới, Harrington xuất ở cửa sổ. Họ thể để lộ ra là quen biết nhau. Dunning lên toa tàu cách xa đó rồi mới dần dần mò vào khoang tàu có Harrington và Karswell. Ông rất mừng thấy hành khách tàu rất vắng vẻ.

      Karswell có vẻ rất cảnh giác, nhưng có dấu hiệu nào tỏ vẻ lão nhận ra. Dunning ngồi ghế tàu phía trước mặt lão nhưng chính diện và tìm hết cách (lúc đầu hoàn toàn thất bại) với mọi khả năng của mình, để có thể chuyển giao lại mảnh giấy. Trước mặt Dunning, bên cạnh Karswell là đống áo choàng của Karswell. Nhét mảnh giấy vào đó an toàn – hoặc ông cảm thấy an toàn. Phải tìm cách đưa hẳn tới tay lão và lão nhận kia. Lại còn túi xách tay để mở, trong có nhiều giấy tờ. Hay là giấu mảnh giấy lẫn vào đó? Nhưng nếu Karswell rời khỏi toa tàu bỏ cái túi lại sao? Hoặc lão tìm thấy tờ giấy và đưa lại cho ông sao? Giá như được Harrington cố vấn cho! Nhưng thể được, thời khắc trôi qua. vài lần Karswell ra ngoài hành lang. Lần thứ hai Dunning định làm cái túi rơi khỏi ghế ngồi, nhưng gặp ánh mắt cảnh cáo của Harrington ông lại thôi. Mặt khác từ ngoài hành lang, Karswell vẫn để ý theo dõi, có lẽ để xem hai người này có quen nhau ? Lão quay vào. ràng lão nôn nóng yên, lần thứ ba lão đứng dậy, tia hy vọng loé lên, bởi có cái gì đó rơi từ ghế của lão xuống sàn tàu với tiếng kêu rất khẽ. Lão lại ra ngoài và lần này xa hẳn chỗ cửa sổ.

      Dunning nhặt vật bị rơi lên, chiếc chìa khóa nằm trong tay ông có hình dáng của cái hộp đựng vé nhãn hiệu cook, trong có những tấm vé. Thường hộp vé loại này có cái túi ở vỏ ngoài, và chỉ vài giây, mẩu giấy mà ta biết được Dunning nhét nhanh vào cái túi đó. Để thủ thuật tiến hành được chắc chắn, Harrington ra đứng chắn ở cửa toa tàu vờ nghịch cái móc cửa. Thế là thực xong, mà vừa đúng lúc, vì tàu chạy chậm dần để vào Dover.

      Ít phút sau Karswell trở vào toa. Dunning cố nén xúc động trong giọng , đưa cho lão cái hộp vé và "Tôi xin phép đưa ông cái này, và tôi tin là của ông". Nhìn vào chiếc vé bên trong nhanh, Karswell thốt ra mấy lời mà hai người kia mong chờ "Vâng, đúng là của tôi, xin cám ơn ông nhiêu" rồi lão cất vào túi ngực.

      Trong mấy phút tiếp theo đầy hồi hộp – ngộ nhỡ lão sớm phát ra mẩu giấy – cả hai người đều cảm thấy toa tàu tối và nóng lên, Karswell bồn chồn ngột ngạt, lão kéo đống áo khoác gần lại rồi đẩy ra xa như ghê tởm và ngồi thẳng lên nhìn hai người cách lo lắng. Bản thân họ cũng lo chết được, vờ thu xếp đồ đạc, có cảm giác Karswell định cái gì đó, nhưng vừa lúc ấy tàu vào Dover. Từ đây đến bến tàu rất gần nên lẽ tự nhiên cả hai ra hành lang luôn.

      Đến bến tàu họ ra khỏi tàu hoả, nhưng vì tàu hoả quá vắng khách họ buộc phải thơ thẩn ở sân ga, chờ Karswell vượt lên trước cùng người phu khuân vác hành lý lên tàu thủy. Tận lúc đó họ mới hoàn hồn trao đổi cái xiết tay và lời chúc mừng ngắn gọn. Dunning trải qua những giờ phút quá căng thẳng nên mệt muốn ngất .

      Harrington để ông đứng dựa lưng vào tường trong khi bản thân mình quá mấy bước ra chỗ nhìn thấy được con tàu nơi Karswell vừa bước tới. Người đứng ở cầu tàu soát kỹ vé của lão, còn lão, khoác cái áo khoác đầy người, xuống tàu. Bỗng nhiên nhân viên gọi giật lão lại:

      "Xin lỗi ông, quý ông kia thấy trình vé ạ?"

      "Quý ông quái quỷ, quỷ quái nào vậy?" giọng nạt nộ của Karswell đáp lại từ boong. Người soát vé cúi xuống nhìn lão "Quỷ? Phải, tôi biết có phải thế , dám chắc lắm". Harrington nghe tiếng ông ấy mình, sau đó to lên "Tôi nhầm, xin lỗi ông chắc là cái đống áo của ông", rồi ta hỏi người phụ việc đứng bên cạnh "Hay ông ta có con chó theo hay cái gì đấy? Kỳ thực đấy. Xin thề là ông ta hề mình. Dù sao ta xem tàu vậy. Tàu ra khơi rồi, tuần sau ta gặp các khách nghỉ hè này mà" Năm phút sau chẳng còn gì ngoài ánh đèn mờ mờ của con tàu và ánh đèn của cảng, gió đêm và trăng.

      Hai người ngồi mãi với nhau trong phòng khách sạn Lord Warden. Cho dù cất được gánh nặng lo âu, họ vẫn bị nỗi nghi hoặc đè nặng mình.Liệu có đúng là họ đưa người tới chỗ chết như họ tin ? Ít nhất cũng phải báo cho người đó biết chứ! "" Harrington bảo " là kẻ sát nhân nên điều ta làm còn hơn cả đúng nữa. Nhưng nếu nghĩ như vậy là hơn ta báo cho lão ở đâu?" "Lão lấy vé Abbéville mà", Dunning "tôi nhìn thấy. Nếu ta đánh điện cho khách sạn theo sách hướng dẫn du lịch của Joanne". "Xem lại hộp vé của , Dunning, tôi thấy yên tâm hơn. Hôm nay 21, lão còn ngày nữa. Sợ lão tiêu rồi" Thế là điện tin được lại ở quầy tiếp tân của khách sạn.

      Chẳng biết điện tín có đến được tới nơi , chỉ biết là chiều 23 tháng bảy khách du lịch người đứng trước nhà thờ St Wulfram, ở Abbéville – lúc ấy được sửa chữa cho rộng ra – bị hòn gạch từ giàn giáo mé tây bắc rơi trúng đầu chết ngay, mà giàn giáo có người thợ nào cả, giấy tờ xác định ông ta tên là Karswell.

      Còn chi tiết cần thêm. Harrington mua được bộ sách Bewick ở cuộc bán đấu giá đồ cũ nhà Karswell. Trang có bản in khắc gỗ hình người bộ và con quỷ bị xé mất. Đồng thời sau lúc ngập ngừng, Harrington định kể cho Dunning nghe những gì ông khi nằm mơ, chưa được mấy lời Dunning bảo thôi.

      Chú thích :

      [1] loại chữ cổ xưa của dân tộc Bắc Âu

      [2] King 's Counsel: cố vấn của vua về luật pháp ở nước

    2. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 14: Ghế ngồi hát thành ca ở nhà thờ Barchester

      Tôi chú ý đến câu chuyện này khi đọc đoạn cáo phó sau đây trong tờ tạp chí Gentleman's Magazien vào năm đầu thế kỷ mười chín:

      "Ngày 26 tháng hai, tại tư gia trong khuôn viên nhà thờ Barchester, ông John Benwell Haynes đáng kính, tiến sĩ Thần học (Doctor of Divinity), 57 tuổi, phó chủ giáo của Sowerbride, mục sư của Pickhill và Candley. Ông tốt nghiệp đại học…, Cambridge, được các bạn thâm niên mến mộ vì tài năng và tính cần cù, ngay kỳ tốt nghiệp đầu tiên có tên trong danh sách các sinh viên đỗ đầu về toán. Thành tích Hàn Lâm chẳng bao lâu đưa ông lên cương vị thành viên ban Giám đốc của trường đại học. Năm 1783 ông được nhậm chức giám mục và lâu sau đó được bạn bè và người bảo trợ của ông là ngài cố Giám mục đáng kính Lichfield tiến cử lên chức cha phó thường nhiệm ở Ranxton –Sub-Ashe… thăng chức vùn vụt của ông từ giáo sĩ được hưởng lộc thánh lên đến người chỉ huy Ban thánh ca chứng tỏ ông được trân trọng và tín nhiệm nhờ khả năng xuất sắc của mình. Ông tiếp quản chức Phó chủ giáo sau cái chết đột ngột của Phó chủ giáo Pulteny năm 1810. Những lời tuyên thệ của ông phù hợp tuyệt vời với những nguyên tắc của tôn giáo và nhà thờ mà ông tô điểm, được thể ở trình độ phi thường, tinh tế của học giả được kết hợp với nhuần nhuyễn của Cơ đốc giáo. hề mang vẻ nhiệt tình hăm hở, bạo lực bè phái, chỉ thấm đượm tinh thần nhân ái trong trẻo, những lời ấy còn khắc sâu mãi mãi trong tâm trí người nghe.

      Ngòi bút của ông bảo vệ thành công chế độ giám mục quản lý nhà thờ, chế độ mà kẻ viết bài tưởng niệm này cho dù dày công nghiên cứu, chỉ có thể xem như ví dụ của lòng khao khát tự do và tổ chức có nhiều nét đặc trưng giống với các nhà xuất bản thế hệ chúng ta. Thực vậy, những tác phẩm xuất bản của ông gồm bản dịch với lời lẽ linh hoạt tao nhã, cuốn Argonautica [1] của Valerius Flaccus, tập Nghị luận về vài kiện xảy ra trong cuộc đời của Joshua do Nhà thờ phát hành, ngoài ra là những huấn thị ông đọc tại các cuộc viếng thăm giới tăng lữ trong giáo khu nơi ông làm phó chủ giáo. Chúng nổi bật về v.. v..Phong cách tao nhã, mến khách của những dòng chữ ấy, những đề tài ấy, những người quen biết ông thể nào quên ngay được. quan tâm của ông đến toà nhà đáng kính oai nghiêm, nơi mà bên dưới cái vòm uy nghi của nó, ông lui tới rất đúng giờ để tham dự các lễ nghi, đặc biệt quan tâm đến phần nhạc lễ, có thể coi là lòng hiếu hạnh của đứa con đối với cha, trái ngược mạnh mẽ đáng mừng với thái độ lạnh nhạt, chừng mực mà các quan chức nhà thờ thời đại chúng ta thường hay bày tỏ".

      Đoạn cuối, khi cho biết tiến sĩ J.Haynes sống độc thân, viết tiếp:

      "Lẽ ra cuộc đời bình thản và nhân đức như thế phải được kết thúc bằng tuổi già đại thọ và ra từ từ, yên ổn. Nhưng tạo hoá khôn lường! Cuộc đời lui về dật sống bình an trong buổi chiều tà của ông tiến sĩ lẽ ra cứ dịu dần để đến chỗ chín muồi, lại bị số phận làm cho rối loạn, có thể tan hoang, bởi bi kịch vừa bất ngờ vừa kinh hoàng. Sáng ngày 26 tháng hai…".

      Nhưng có lẽ tôi chưa nốt vội, đợi kể cho các bạn nghe những hoàn cảnh dần dắt tôi đến với việc, nó xuất phát từ nguồn khác.

      Tôi đọc đoạn cáo phó hoàn toàn vô tình, cùng nhiều cáp phó khác ở thời kỳ ấy. Nó làm trí óc tôi nảy sinh phán đoán nào đó, tuy nhiên ngoài việc nghĩ vậy ra, giả sử có điều kiện xem xét các hồ sơ của địa phương trong cùng giai đoạn, tôi cố nhớ tới tiến sĩ J.Haynes chứ mất công sức theo dõi trường hợp này làm gì.

      Số là, gần đây tôi lập catalog cho các bản thảo trong thư viện trường đại học trước đây ông ta làm việc. Sắp hoàn thành xong với các tập sách có đánh số các giá sách, tôi hỏi thư viện trưởng xem còn quyển sách nào ông cho tôi cần phải đưa vào tài liệu của mình . "Có lẽ đâu. Nhưng ta cứ đến khu vực bản thảo xem lại cho chắc chắn. có thời gian ?" Tôi có thời gian. Thế là chúng tôi đến khu bản thảo, đưa hết chúng ra, cuối cùng còn cái giá có gì hết, mà chỉ có phần lớn là các lời tuyên thệ, các gói gồm những mẫu giấy rớt, các bài thực tập ở trường, Cyrus – thiên trường thi hùng ca, chia ra nhiều đoạn (sản phẩm của mục sư miền quê nhàn rỗi), các bản luận văn ngắn về toán học của giáo sư quá cố và nhiều loại khác quá quen thuộc đối với tôi. Tôi ghi chép tóm tắt lại. Cuối cùng là cái hộp thiếc được đem ra phủi bụi , có dán nhãn mờ "Giấy tờ của đức Phó chủ giáo Haynes do chị ông là Letitia Haynes đem cho năm 1834".

      Tôi nhận ra ngay cái tên gặp ở đâu đó và xác định rất mau "Đây hẳn là phó chủ giáo Haynes người kết thúc cuộc đời cách rất kỳ quặc ở Barchester. Tôi có đọc cáo phó đăng trong tờ tạp chí Gentleman's Magazine. Tôi đem cái hộp này về nhà được ? Ông có biết trong đó có gì ?"

      Thư viện trưởng rất mong tôi cầm nó về, khi nào rảnh rỗi xem xét. "Bản thân tôi cũng chưa nhìn vào đó bao giờ, tôi rất muốn" ông ta "Tôi dám chắc đây là cái hộp mà hiệu trưởng của chúng tôi bảo lẽ ra trường nên nhận. Ông bảo Martin như vậy nhiều năm về trước, ông cũng chừng nào ông còn là hiệu trưởng ở đây ai được mở ra. Martin với tôi, ông ta cũng rất muốn biết bên trong có gì, nhưng hiệu trưởng luôn để trong tủ có khoá, thời ông ai sờ vào được, sau khi ông mất chẳng biết lầm lẫn thế nào đó, các vị nối nghiệp ông mới đem để vào chỗ nào biết, vài năm nay nó mới quay lại đây. hiểu sao tôi chưa mở ra, nhưng hôm nay tôi phải rời Cambridge, cứ mở ra mà xem thử . Tôi tin là đăng cái gì hay ho trong catalog của chúng ta".

      Tôi mang cái hộp về nhà, bỏ các thứ ở trong ra xem, sau đó tham khảo ý kiến thư viện trưởng xem có thể in ra thế nào. Ông cho phép tôi được toàn quyền viết câu chuyện từ đó ra, miễn là phải che giấu danh tính của những người có liên quan. Tôi cố xem có thể làm được gì.

      Bên trong hộp chủ yếu là thư từ và nhật ký. Bao nhiêu kể ra, bao nhiêu tóm tắt, là tuỳ theo truyện dài hay ngắn. Nhằm hiểu đúng hoàn cảnh cần nghiên cứu chút, cũng chẳng cần miệt mài lắm, vì có tập mô tả nhà thờ Barchester với đủ cả hình ảnh minh hoạ - của Bell (trong Bộ sách về các nhà thờ) làm cho mọi việc dễ dàng hơn rất nhiều.

      Bây giờ mà bạn vào khu hát thánh ca của nhà thờ Barchester, bạn phải qua tấm chắn bằng kim loại và đá hoa cương màu, do Sir Gillbert Scott tạo mẫu, sau đó tới nơi trơ trụi, đồ đạc xấu kinh khủng. Ghế ngồi kiểu tân tiến che màn trướng gì cả. Chỗ ngồi của các vị tai to mặt lớn và tên những người lĩnh xướng Thánh ca may thay vẫn còn, được ghi vào những tấm đồng gắnvào các ghế. Cây đàn organ nằm trong hành lang ở gác, hộp chứa nó kiểu Gô tích. Tấm bình phong trang trí án thờ và các thứ quanh đó chẳng có gì đặc biệt.

      Những chạm khắc tỉ mỉ cách dây hàng trăm năm khác với thị hiếu bây giờ nhiều. Đàn organ nằm màn chắn lớn kiểu cổ điển. Các ghế ngồi cũng lại cổ và to lớn nặng nề. Có tấm trướng bằng gỗ treo phía bàn thờ, bốn góc có các bình đựng cốt. Xa tít phía Đông là cái màn che bàn thờ rất chắc chắn, kiểu dáng cổ điển bằng gỗ, với cán trán tường bên là hinh tam giác có các tia sáng vây quanh, bọc lấy mấy chữ Do Thái bằng vàng. Các thiên sứ bay ngắm nhìn mấy chữ này. Phía bắc có bục giảng Kinh với màn hướng kê ở mạn Đông, cuối các ghế ngồi. Mặt sàn lát đá hoa cương đen trắng. Hai phu nhân và quý ông ngắm ngía toàn bộ quang cảnh. Từ nhiều mối khác tôi được biết ghế ngồi của Phó chủ giáo lúc đó ở bên cạnh ngai của Đức giám mục, tức là ở mạn Đông nam, cuối các dãy ghế ngồi khác. Nhà ở của ông ta nhìn ra mặt tiền phía Tây của nhà thờ, đó là ngôi nhà gạch đỏ xinh xắn xây từ thời William đệ tam.

      Tiến sĩ Haynes và bà em đến đây từ năm 1810. Chức phó chủ giáo vốn là niềm mong ước của ông, nhưng vị tiền nhiệm của ông chín mươi hai tuổi đời vẫn chưa chịu rút lui cho. tuần sau lễ sinh nhật đơn giản của ngài mừng chín mươi hai tuổi, vào buổi sáng cuối năm, tiến sĩ Haynes vui vẻ vào phòng ăn sáng, hai tay xoa vào nhau, ngân nga điệu nhạc, ông được đón chào bởi hình ảnh bà em , ngồi ở chỗ mọi khi, trước mặt là ấm trà, đầu gục xuống nức nở ngừng vào chiếc khăn tay "Có chuyện gì vậy? Có tin xấu chăng?" "Ồ, Johnny, chưa nghe gì sao? Ôi, tội nghiệp đức phó chủ giáo!" "Đức Phó chủ giáo? Làm sao? Ông ta bị ốm chăng?" ", , họ tìm thấy ông nơi chân cầu thang sáng nay, là sốc!" "Có thể lắm! Ngài phó chủ giáo Pulteney tội nghiệp! cơn động kinh ư?" "Họ nghĩ vậy, đó mới là vấn đề. Hình như lỗi tại người ở, Jane ngốc nghếch". Tiến sĩ Haynes ngừng hỏi mấy giây " hiểu gì cả, Letitia. Tại sao người ở lại có lỗi?" "Theo như em biết khuyết than chặn thảm ở cầu thang mà ta chẳng gì cả, vị phó chủ giáo tội nghiệp bước đúng vào gỗ bậc thang – mà gỗ sồi nó trơn ghê lắm – hình như ngài trượt xuống chân cầu thang gẫy cổ. Đáng thương cho Pulteney quá! Dĩ nhiên họ đuổi ngay người ở. Em chẳng ưa gì ta. " Haynes còn đau khổ nhiều hơn nữa, song cuối cùng cũng dịu , ăn sáng được. Ấy nhưng ông lại . Đứng im bên cửa sổ ít phút, ông rời khỏi phòng và sáng hôm ấy thấy xuất nữa. Tôi chỉ cần thêm bị đuổi nhưng ngay sau đó thanh chận thảm cầu thang được tìm thấy dưới tấm thảm – thêm lý do, nếu cần – cho ngu dốt cùng cực và vô ý tứ của này.

      Trong nhiều năm, tiến sĩ Haynes tỏ năng lực của mình – quả thực năng lực sáng tạo của ông rất đáng kể ở cương vị người kế tục phó chủ giáo Pulteney, ai cũng hài lòng về ông. Ông nhậm chức cách chính đáng, và nhiệt tình lao vào hoàn thành các chức năng, nhiệm vụ thích hợp với người ở cương vị ông. chỗ đáng kể trong nghành báo chí hàng ngày của ông được dành để cất các thư từ có liên quan đến công việc của nhà thờ, chủ yếu là thư từ phàn nàn về các vấn đề mà ngài Phó chủ giáo để lại. Như Wringham và Barnswood chẳng hạn, hội phí nhà thờ chừng mười hai năm nay thu, phần nhiều còn có thể thu lại được, ai tới thăm nơi đó bảy năm ròng, bốn thánh đường hầu như còn sửa chữa được nữa. Những phụ tá được Phó chủ giáo Pulteney chỉ định hầu như có năng lực gì, cũng như chính ngài vậy. may mắn mà tình trạng này còn được phép tiếp diễn nữa. lá thư của người bạn xác nhận quan điểm này, bức thư viết gửi (chẳng khác lời ám chỉ khá độc ác tới thư của Sứ đồ thứ hai gửi cho Thessalonians) "cuối cùng mọi việc được dọn dẹp sạch . bạn tội nghiệp của tôi! Hẳn bạn phải bước vào đống hỗn độn! Xin thề với , lần cuối cùng tôi bước qua ngưỡng cửa phòng ông ấy, ông ấy động tay, để mắt đến bất cứ giấy tờ nào, ông ấy nghe thấy lời nào tôi , nhớ việc gì tôi đưa ra. Nhưng nay, nhờ đầy tớ vô tâm vô tính và tấm thảm cầu thang lỏng lẻo, triển vọng có vẻ tốt đẹp, những việc cần thiết có thể được chuyển giao trơn tru tổn thất". Bức thư này được nhét vào túi bìa trong các quyển nhật ký.

      Chẳng còn phải nghi ngờ gì về hăng hái đầy nhiệt huyết của Phó chủ giáo mới. "Chỉ cần cho tôi thời gian để làm giảm bớt hầu như vô vàn sai lầm và rắc rối mà tôi phải đương đầu, và rồi tôi vui vẻ và chân thành hoà giọng ca cùng các bậc Do thái cao niên để hát lên bài Thánh ca mà tôi e rằng chính họ phải hát lên". Ý tưởng này tôi đọc thấy phải trong nhật ký, mà trong bức thư, bạn bè của ông Tiến sĩ có vẻ như trả lại thư từ của ông cho bà em còn sống. Phó chủ giáo chỉ giới hạn bản thân trong phạm vi các suy nghĩ mà thôi. Điều tra của ông về các quyền lợi và nghĩa vụ của nhà thờ rất triệt để và có tổ chức. Ban đầu ông tính cần thời gian là ba năm để đưa công việc của Ngài phó chủ giáo trở lại đâu vào đấy và tạo cho mình vị trí thích đáng. Dự liệu này gần như là đúng. Chỉ cần ba năm tiến hành cải cách, tuy nhiên đến cuối thời gian này tôi tìm mãi mà thấy cái Nunc dimittis – đưa trở lại như cũ – hứa. Hoá ra ông phát lãnh vực hoạt động mới.

      Từ trước đến nay do bận nhiệm vụ, ông ít khi lui tới nhà thờ để dự các cuộc hành lễ. Bây giờ ông quan tâm đến các công trình kiến trúc và nhạc. Những tranh cãi của ông với người chơi đàn organ, cụ già quý tộc chơi đàn ở nhà thờ từ năm 1786 tôi giờ sâu, xem ra đưa đến kết quả rệt. Thêm nữa, tự nhiên ông đâm ra hứng thú với bản thân nhà thờ và đồ đạc của nó. Trong bức thư đề gửi cho Sylvanus Urban (tôi tin được gửi ) mô tả các ghế ngồi hát thánh ca – như tôi – được chế tạo khá lâu đời, thực tế từ năm 1700 phải.

      "Chiếc ghế của Phó chủ giáo, nằm ở mé Đông Nam, phía Tây cái ngai của Đức giám mục (nay xứng đáng là chỗ ngồi của vị chủ giáo thực xuất sắc, người tô điểm thêm cho toà giám mục Barchester), được trang trí hơi kỳ quặc. Ngoài hai tay ghế lo lắng linh mục địa phận phía tây, nhờ ông này mà nội thất của ban thánh ca được hoàn thiện, phía bàn cầu kinh còn có ba bức tượng thô thỉên đặt ở tận cùng mép phía đông. là hình con mèo sống động trong thế quỳ, thể tuyệt vời thái độ luồn cúi, tính cảnh giác, và mưu mô xảo quyệt của giống loài Mus. Đối diện với nó là hình người ngồi ngai, ăn mặc như ông vua, nhưng giống với vị vua trần tục nào. Hai chân trùm kín bởi áo chùng, cả vương miện lẫn mũ mão đều che nổi hai cái tai vểnh và hai cái sừng cong của giống quỷ địa ngục, bàn tay đặt đầu gối có móng dài và sắc nhọn dễ sợ. Giữa hai tượng là hình dáng mặc áo khoác dài, thoáng nhìn tưởng vị tu hành nào hoặc "thầy dòng áo xám" bởi vì đầu trùm chiếc mũ thầy tu có dây buộc thả xuống tận lưng. Nhưng nhìn kỹ chút thấy đây chính là sợi dây dài thòng lọng được bàn tay giấu trong áo choàng giữ lấy, mặt hóp, hai má trũng sâu xuống trông rất khủng khiếp, với kẽ nứt của thịt hai xương gò má, đây đúng là thể của "vua kinh hoàng". Những bức tượng ràng là sản phẩm của nghệ thuật điêu khắc phải là tài tình, và nếu may mắn có ai trong số những người có quan hệ thư từ với các vị có khả năng soi sáng nguồn gốc cũng như ý nghĩa của chúng năng lực đáng giá của họ khiến chúng tôi cảm kích vô cùng"

      Ngoài ra trang giấy còn có nhiều mô tả nữa, rất đáng quý bởi nay các đồ gỗ ấy còn. Đoạn cuối như sau:

      " vài tìm hiểu gần đây qua kế toán của Tăng hội cho thấy tác phẩm điêu khắc các ghế ngồi hát thánh ca này phải là, như thường thấy, của các nghệ sĩ Hà Lan, mà là của người dân vùng này tên là Austin. Gỗ được lấy từ cây sồi vùng lân cận, thuộc lãnh địa của linh mục địa phận và tăng hội, gọi là Holywood – rừng thiêng. Nhân chuyến viếng thăm giáo khu này và các ranh giới của nó, tôi được biết qua các thánh chức cao niên đáng kính. vẫn còn những lời truyền tụng dân gian trong cư dân nơi đây về các cây sồi cổ thụ có đường kính lớn được dùng làm đồ đạc cho các nơi chốn trang nghiêm giống như ta mô tả kia (tuy các lời truyền tụng này thấy lạc khá nhiều). Về cây sồi bắt đầu gần đó, mọc gần trung tâm khu rừng, nay còn nhớ được gọi là Cây sồi treo cổ - Hanging Oak. Xuất xứ của cái tên này là từ chỗ lẫn vào trong đất quanh rễ cây có nhiều xương người và vào những thời điểm nhất định trong năm, muốn cho công việc làm ăn của mình thành công, hoặc vì tình, hoặc vì những việc bình thường cuộc sống, người ta vẫn đem treo ở các cành cây những hình nhân làm bằng rơm, tóc giả, hoặc các vật dụng thô sơ quê mùa"

      Vậy là điều tra về khảo cổ của vị Phó chủ giáo khá đầy đủ. Trở lại nghiệp của ông qua nhật ký. Những công việc khó khăn và thận trọng trong ba năm đầu tỏ ra ông ta là người phấn chấn, nổi danh về phong cách tao nhã, mến khách, xứng đáng với lời tưởng niệm trong cáo phó. Sau đó , cứ dần dần qua năm tháng, tôi thấy như có cái bóng mờ trong đời ông – nó được định mệnh cho phát triển thành cái bóng đen ngòm – mà tôi thể nghĩ nó chắc hẳn phải được thể qua các tác phong, cử chỉ bên ngoài của ông. Trong nhật ký, ông xác nhận bị hoảng sợ, rối loạn tinh thần rất nhiều và có lôi nào thoát ra được. Ông lấy vợ, bà em thường xuyên ở cùng ông. Thực ra qua nhật ký, ông lên tất cả những gì có thể ra được. Xin trích sau đây số đoạn:

      " Ngày 30-8-1816: Ngày càng nhận thức được, từng ngày trôi qua, các giấy tờ của Phó chủ giáo sắp xếp đâu vào đấy, phải tìm cái gì khác để qua nổi những chiều tối thu và đông. Sức khoẻ của Lettia là đòn giáng mạnh vào tôi, ấy thể cùng ở với tôi nhiều tháng ròng. Có lẽ tôi tiếp tục bài viết Bảo vệ chế độ Giám mụ quản lý nhà thờ chăng? Có ích đấy.

      Ngày 15 tháng chín: Lettia Brigton.

      Ngày 11 tháng mười: lần đầu tiên thắp nến trong khu vực hát kinh cho những người cầu nguyện buổi tối. Tôi sốc quá, mới mùa lạnh co quắp cả người.

      Ngày 17 tháng mười : bàn cầu kinh của tôi có mấy bức tượng làm tôi giật mình. Trước đây tôi để ý lắm có thể nhờ cố mà tôi nhận ra chúng. Đó là trong giờ tụng bài Đức mẹ đồng trinh, tôi thiu thiu ngủ (rất tiếc phải thừa nhận). Bàn tay tôi tỳ vào lưng con mèo chạm trổ. Con mèo là gần gũi tôi nhất trong số ba hình chạm khắc. Tôi hề biết, vì tôi nhìn về phía đó, rồi bỗng nhiên tôi giật mình vì cảm giác chạm với lớp lông mềm nhưng thô ráp và cử động vặn mình như thể con mèo muốn xoay lại cắn tôi. Tôi lập tức tỉnh ngủ và tin chắc mình bật ra tiếng kêu to, vì tôi trông thấy ông thủ quỹ quay đầu về phía tôi. Cảm giác ấy mạnh đến nỗi tôi phải chùi bàn tay vào áo lễ. Cầu kinh xong tôi chú ý nhìn vào ba hình chạm khắc, lần đầu tiên thấy chúng được làm sao mà khéo léo.

      Ngày 6 tháng mười hai: tôi thấy thiếu vắng Lettia quá! Thời gian của buổi tối, sau khi làm việc rất khuya với bài viết Bảo vệ xong, trôi qua nhọc nhằn. Toà nhà quá rộng cho người ở, khách khứa cũng hiếm. Cứ mỗi lần về phòng ngủ tôi lại có cảm tưởng có ai đó cùng. Thực tế tôi nghe thấy cả tiếng . Tôi biết rất đó là triệu chứng thông thường của chứng suy não, nhưng kể ra tôi nên lo lắng quá vì chẳng có lý do gì để nghĩ tôi bị như vậy. Gia đình tôi ai mắc chứng này. Chỉ còn cách làm việc, chăm chỉ làm việc, chú ý đến mọi bổn phận của mình mới là cách chữa trị tốt nhất, nhất định là vậy.

      Ngày 1 tháng Giêng: phải thú là những rối loạn như vậy ngày càng tăng. Đêm qua sau khi trở về từ chỗ linh mục địa phận sau nửa đêm, tôi thắp nến lên gác. Gần đến đầu cầu thang, có ai thầm vào tai tôi "Xin chúc ông năm mới tốt lành" Nhầm sao được, từng tiếng, cả những chỗ nhấn mạnh. Giả sử đánh rơi cây nến hiểu tôi còn hoảng sợ đến đâu. Tôi cố lên nốt cầu thang, mau mau vào phòng khoá trái cửa lại. thấy gì thêm.

      Ngày 15 tháng giêng: Đêm qua tôi xuống phòng làm việc lấy chiếc đồng hồ đeo tay bỏ quên. Lúc lên ngủ, tới đầu cầu thang lại có tiếng thào sát tai "Cân thẩn đấy!" Tôi nắm chặt tay vịn nhìn quanh. Tất nhiên chẳng thấy gì hết. Sau lát tôi tiếp, dám quay đầu nhìn lại, suýt ngã: con mèo – tôi có cảm giác mèo rất to – trượt giữa hai bàn chân tôi, nhưng dĩ nhiên, lần nữa tôi chẳng trông thấy gì hết. Hay là con mèo dưới bếp, nhưng tôi nghĩ phải.

      Ngày 27 tháng hai: Đêm qua có kiện kỳ lạ tôi chỉ muốn quên – nhưng có lẽ cứ viết ra đây để đánh giá cho đúng mức độ. Tôi làm việc trong thư viện từ chín giờ đến mười giờ. Trong sảnh cũng như cầu thang, lạ lùng, tôi thấy cứ như đầy những người lên xuống tiếng động: tôi muốn mỗi khi tôi ngừng viết, nghe ngóng hoặc nhìn ra sảnh ngoài đó vẫn tuyệt đối yên tĩnh. Tôi vào giường sớm hơn bình thường – khoảng mười giờ rưỡi – và ràng thấy có tiếng động nào. Vì được dặn tới phòng tôi lấy thư mai gửi sớm cho Giám mục, nên hẳn John thức chờ tôi, thấy tôi về phòng ngủ ta tới. Do đó, khi nghe có tiếng gõ cửa và tiếng khẽ "Tôi vào được ạ?" Tôi cầm lá thư từ bàn gương, bảo "Được, vào !" chẳng thấy ai vào cả. Tôi làm việc mà nay nhìn lại, quả là sai lầm, tôi mở cánh cửa đưa lá thư ra. Ngoài hành lang có ai đứng, trong khi đó cánh cửa cuối phòng lại mở ra, John cầm nến vào. Tôi hỏi có phải ta vừa tới trước cửa phòng tôi . ta . Tôi thích tình trạng này chút nào. Mặc dù sau đó tôi cảnh giác và nằm mãi mới ngủ được, tôi gặp thêm thái độ khiếm nhã nào khác." .
      Mùa xuân tới, bà em tới ở với ông vài tháng. Tiến sĩ Haynes trở nên vui vẻ hơn, còn những triệu chứng suy nhược thần kinh thấy thấy ở . Cho tới đầu tháng chín, ông lại ở mình. Lúc này ràng ông lại bất ổn và căng thẳng hơn lần trước. Tôi trở lại vấn đề này lát nữa đây, bây giờ đành lạc đề đưa ra tài liệu mà đúng sai gì chưa biết, nhưng tôi tin có liên quan đến mạch câu chuyện.

      Các sổ kế toán của tiến sĩ Haynes, cũng được giữ gìn như những giấy tờ khác, có ghi, kể từ sau ngày ông được làm Phó chủ giáo ít lâu, mỗi quý chi cho J.L. 25 bảng. hiểu vì việc gì, chỉ có thế. Nhưng tôi lại gắn nó với lá thư khác, viết rất bẩn và nguệch ngoạc, cũng cất trong túi bià quyển nhật ký. ngày đóng dấu bưu điện, rất khó đọc. Nó như sau:

      "Thưa ông,

      Tôi chờ tin tức ông mấy tuần nay, thấy gì tôi đoán ông nhận được thư tôi trong đó kể tình hình về chồng tôi bị mất mùa, chỉ còn trông vào tiền lợi tức, chúng tôi gay go nếu nhận được bốn mươi bảng, nhận được muốn tôi phải tiến hành các bước tiếp theo. Tôi vì ông mà mất việc làm ở chỗ tiến sĩ Pulteney, vì vậy đòi hỏi của tôi là chính đáng, ông thừa biết tôi ra cái gì nhưng tôi muốn những việc vui cho người xưa nay chỉ mang cho tôi những điều tốt đẹp.

      Kính thư

      Jane Lee"

      Cùng thời gian mà tôi cho là lá thư này được viết ra, thực tế có biên lai gửi số tiền 40 bảng cho J.L…

      Trở lại nhật ký:

      "Ngày 22 tháng 10: vào buổi cầu kinh tối, trong lúc hát thánh ca, tôi gặp lại chuyện năm ngoái. Giống lần trước, bàn tay tôi đặt lên trong mấy bức tượng khắc (lúc này tôi thường tránh con mèo), và tôi phải ra – có thay đổi, gỗ trở thành lạnh ngắt và mềm như lanh ẩm. Tôi có thể xác định được từ lúc nào mình có cảm giác ấy. Ban đồng ca hát đúng đến những từ ấy (Hãy để ngươi, kẻ tín ngưỡng ngự trị lên , hãy để quỷ Sa tăng đứng bàn tay phải của ).

      Đêm nay tiếng thầm trong nhà tôi càng liên tục hơn bao giờ hết. Buồng tôi sao thoát khỏi những thứ tiếng này. Trước đây chưa đến nỗi như thế. Nó làm cho con người tính tình nóng nảy ( phải tôi và hy vọng tôi trở nên như vậy) ngán ngẩm ghê lắm nếu muốn là hoảng hốt. Lại có con mèo ở đầu cầu thang. Hình như lúc nào nó cũng ngồi ở đấy, mà bếp nhà này làm gì có mèo.

      Ngày 15 tháng mười : Tôi phải ghi lại đây việc mà tôi hiểu được. Đêm tôi ngủ ngon. có ai cụ thể xuất , nhưng tôi thấy mình bị theo đuổi bởi đôi môi ẩm ướt luôn thào bên tai, vừa nhanh vừa luôn nhấn mạnh. Sau đó, có lẽ, tôi ngủ thiếp và bừng tỉnh bởi cái cảm giác có bàn tay đặt lên vai mình. Vô cùng hoảng sợ, tự nhiên tôi thấy mình đứng bậc cầu thang cuối cùng. Ánh trăng rất sáng chiếu qua cửa sổ khiến tôi nhìn con mèo rất to ngồi bậc cầu thang thứ hai nước thứ ba. gì được, tôi đành bò vào giường mà hiểu bằng cách nào. Ôi, tôi phải gánh gánh nặng kinh khủng! (Sau đó đến đôi dòng bị gạch xoá. Tôi đọc thấy như "hành động sao cho được tốt nhất").
      lâu sau đó ràng lòng quyết tâm của vị phó chủ giáo nhường bước cho những áp lực của tượng đè nặng lên mình. Tôi muốn đến những lời cầu nguyện đột nhiên xuất rồi ngày càng thường xuyên trong tháng mười hai và tháng giêng. Suốt thời gian này ông vẫn nhất quyết bám lấy vị trí chịu nghỉ ở Bath hoặc Brighton, lấy lý do bị ốm chẳng hạn, có lẽ ông cho như vậy là tốt vì thừa nhận mình bị đánh quỵ và gục ngay từ lúc ban đầu. Ông cải thiện tình hình bằng cách mời khách khứa đến ở với mình. Kết quả như sau:

      "Ngày 7 tháng giêng: tôi thuyết phục em họ tôi là Allen đến ở với tôi vài ngày,ở phòng ngay cạnh phòng tôi.

      Ngày 8 tháng giêng: đêm yên tĩnh. Allen ngủ được nhưng phàn nàn có gió. Tôi vẫn gặp những tiếng thầm như trước, ta muốn gì nhỉ?

      Ngày 9 tháng giêng: Allen nghĩ ngôi nhà này có nhiều tiếng động lớn và con mèo của tôi giống đẹp nhưng quá to và rất dữ.

      Ngày 10 tháng giêng: Allen và tôi ở thư viện đến mười giờ. ta ra ngoài hai lần xem bọn hầu làm gì trong bếp. Lần thứ hai trở vào là trông thấy trong số đó vừa qua cánh cửa cuối hành lang, nếu như vợ ta có đấy phải đưa bọn họ vào trật tự. Tôi hỏi ta mặc áo màu gì, ta bảo trắng và xám. Tôi cho rằng vậy.

      Ngày 11 tháng giêng: Allen về. Tôi phải cứng rắn lên mới được."
      Những từ "phải cứng rắn lên" luôn luôn được nhắc lại trong những ngày tiếp theo, đôi khi chỉ có câu ấy trong cả đoạn nhật ký, chữ rất to, ngòi bút gài sâu vào giấy tưởng phải gãy bút.

      Bề ngoài, bạn bè ông chẳng nhận thấy có gì thay đổi, chứng tỏ ông là người can đảm và vững chí. Nhật ký cho thấy những ngày cuối cùng của đời ông, cuộc đời được kết thúc bằng những dòng trơn tru của bài cáo phó:

      "Buổi sáng ngày 26 tháng hai lạnh lẽo và bão táp. Sáng sớm đầy tớ có dịp ra sảnh trước của toà nhà mà nhân vật bất hạnh này cư ngụ. Họ kinh hoàng biết mấy khi nhìn thấy ông chủ kính mến nằm nơi bậc nghỉ cầu thang chính, trong tư thế dễ sợ nhất. Mọi người chạy đến nâng ông dậy, phát ra ông bị tấn công tàn bạo đến chết. Cột sống gãy nhiều nơi, có lẽ kết quả của ngã cầu thang, thảm cầu thang có chỗ bị lỏng ra. Ngoài ra còn có nhiều thương tích mắt, mũi, miệng tựa như bị con vật hoang dại gây ra, kinh khủng đến nỗi biến dạng tất cả mặt mày. Theo quan chức y tế, cái chết xảy ra nhiều giờ rồi. Thủ phạm hay những thủ phạm của bi kịch bí này hoàn toàn nằm trong bức màn bí mật, cho tới nay chưa có phỏng đoán nào giải thích được cố đáng sợ của câu chuyện đau buồn này".

      Tác giả viết tiếp rằng có khả năng các tác phẩm của các ông Shelley, Lord Byron và M. Voltaire là công cụ dẫn đến thảm hoạ và kết luận bằng hy vọng mơ hồ rằng kiện có thể được coi như " tấm gương cho thế hệ sau", phần này tôi trích đăng toàn bộ ra đây.

      Tôi gần như tin rằng tiến sĩ Haynes là người gây ra cái chết của tiến sĩ Pulteney. Nhưng kiện gắn với bức tượng khắc gỗ mang tử khí ở ghế ngồi nơi hát kinh của Phó chủ giáo khó hiểu. Phỏng đoán nó được làm bằng gỗ Cây sồi Treo cổ khó khăn gì nhưng chứng minh được. Tuy thế tôi cũng về thăm Barchester, phần để tìm mối liên hệ với cây gỗ. tu sĩ giới thiệu tôi với người phụ trách nhà bảo tàng địa phương, là chỉ có ông này mới có thể cung cấp thông tin cho tôi, còn ai khác. Tôi kể với ông ta về mấy bức tượng gỗ chạm trổ và những tay ghế ở chô ngồi hát kinh của nhà thờ xưa kia, và hỏi ông liệu chúng còn tồn tại .Ông ấy cho tôi xem những tay ghế của linh mục miền Tây cùng vài mảnh gỗ khác, do người xưa ngụ tại đây đem cho – người này còn có cả bức chạm bằng gỗ, có lẽ là cái tôi muốn tìm chăng? Ông ấy bức chạm đó rất lạ. "Cụ già sở hữu nó kể với tôi rằng cụ nhặt được nó trong kho gỗ, cùng những mảnh gỗ còn đây, bèn đem về cho trẻ con chơi. đường về cụ lật lật lại nó, mảnh giấy rơi ra. Cụ nhặt lên thấy có chữ viết bèn cất vào túi, rồi đem bỏ vào bình hoa mặt lò sưởi. Cách đây lâu tôi đến nhà cụ ấy, vô tình cầm bình hoa lên xem có dấu gì , tờ giấy rơi vào tay tôi. Thấy tôi cầm mảnh giấy, cụ già kể cho tôi nghe câu chuyện mà tôi vừa mới kể với ông. Cụ bảo tôi cứ giữ mảnh giấy ấy. Nó nhàu nát lắm, có chỗ rách, tôi đem về dán lên tờ bìa. Nó vẫn còn đây và nếu ông cho biết nó về cái gì tôi vui sướng vô cùng và đối với tôi là điêu rất ngạc nhiên"

      Ông đưa tôi tờ bìa. Mảnh giấy có chữ có thể đọc được , do bàn tay cổ xưa viết, và như sau:

      Khi ta mọc trong Rừng

      Ta được tưới bằng Máu

      Bây giờ đứng trong Nhà thờ

      Bàn tay kẻ nào chạm vào ta

      Mà vấy máu

      Ta khuyên hãy đề phòng

      E rằng bị tìm đến

      Dù ngày hoặc đêm

      Nhất là ngày gió to

      Vào tháng Hai

      John Austin viết vào ngày 26 tháng hai năm 1699
      Ông phụ trách bảo tàng hỏi "Ông có cho rằng đây là bùa ngải gì đó ?"

      Tôi trả lời "Vâng, tôi cho là như vậy. Thế còn hình gỗ chạm trổ mà tờ giấy này được giấu ở trong đâu?"

      "Ô tôi quên" ông ta "Cụ già bảo là trông nó xấu xí và trẻ con sợ quá nên cụ đốt rồi"

      Chú thích :

      [1] Thần thoại Hy lạp, là vị thần hùng theo Fason chinh phục Bộ lông cừu vàng của con cừu có cánh được con rồng ở Colchide canh giữ.

    3. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 15: Khu đất có rào Martin

      Cách đây mấy năm tôi có tới ở chơi với mục sư giáo khu miền Tây, nơi đó những người trong tầng lớp xã hội của tôi có sở hữu địa sản. Tôi phải thăm số miền ở vùng đất này. Buổi sáng đầu tiên sau bữa điểm tâm, ông thợ mộc cùng người lo toan các với vặt của điền trang, John Hill, đề nghị được cùng tôi. Mục sư hỏi sáng hôm ấy tôi định những đâu. Bản đồ được mở ra, sau khi biết hành trình dự kiến của chúng tôi, ông ta đưa ngón tay chỉ vào điểm "Đừng quên hỏi John Hill về khu đất có rào Martin khi đến đó nhé! Tôi rất muốn biết ta kể với những gì."

      "Thế ta kể gì?" tôi hỏi.

      "Tôi cũng chưa biết" mục sư "Nhưng nếu hẳn như thế, đến giờ cơm trưa". đến đây có người gọi ông ta .

      Chúng tôi lên đường, John Hill phải là người biết giữ kín những thông tin mà mình biết, bạn có thể moi ra từ ta nhiều chuyện rất lý thú về những người ở đây cũng như các chuyện kể của họ. Cứ đến chữ lạ hoặc chữ mà ta nghĩ bạn biết, ta đánh vần lên, thí dụ như cob: C-O-B, v..v..Tuy nhiên tiện ghi chép mọi chuyện dọc đường , mãi tới khu đất có rào Martin, tôi mới có dịp. Mẫu đất này rất dễ nhận ra vì chư khu đất nào có rào giậu lại đến như thế. Mỗi bề chỉ vài mét mà rào giậu kín tứ phía kẽ hở nào hoặc lối vào nào. Bạn có thể nhầm đó là khu vườn hoang của căn nhà tranh nào đó. Nhưng nó ở cách làng xóm và có lấy dấu hiệu của trồng trọt. Cách đường cái bao xa, nó là phần của nơi mà người vùng này gọi là dồng hoang, tóm lại là bãi chăn thả gia súc cằn cỗi phần đất cao, được chia thành những cánh đồng khá lớn.

      "Tại sao cái mảnh đất rào giậu bé xíu này lại ở xa tít tận đây vậy?" Tôi hỏi và John Hill (câu trả lời của ta thể coi là hoàn chỉnh như tôi mong muốn) hề ngơ ngác "Đây là nơi người ta gọi là khu đất có rào Martin đấy ạ, có chuyện lạ lùng về mẩu đất này đấy ông ạ. Martin, M.A.R.T.I.N. xin lỗi, có phải mục sư bảo ông hỏi tôi về nó chứ gì?" "Phải, đúng thế" "Thảo nào, tôi cũng nghi vậy. Tuần trước tôi vừa kể với ông ấy xong, ông ấy có vẻ thích thú lắm. Hinh như ở đây chôn kẻ sát nhân tên là Martin. Già Samuel Suanders trước sống ở vùng này, chúng tôi gọi là Nam thị trấn, hay về nó lắm. vụ ám sát phụ nữ trẻ rất khủng khiếp, cắt cổ rồi bỏ ta xuống cái ao ngay đây" " có bị treo cổ ?" "Vâng, ngay cạnh con đường này như tôi được nghe, vào đúng ngày lễ thánh của những người vô tội (Holy Innocents Day) nhiều trăm năm về trước, bị xử bởi người mà người ta gọi là vị quan toà khát máu (Bloody), Khát máu và cực kỳ nóng nảy nữa" "Tên ông ta là Jeffreys đúng ?" "Có lẽ đúng đấy ạ, Jeffreys – J.e.f…Jeffreys. Tôi đoán thế đấy, Sanders kể cho tôi nghe câu chuyện này nhiều lần – chàng trẻ tuổi George Martin bị rối loạn quấy đảo ra sao vì hồn ma của người đàn bà, trước lúc việc bị đưa ra ánh sáng" "Như thế nào, có biết ?" "Dạ , biết chính xác, chỉ biết ta bị giày vò đáng kể, và cũng đúng thôi. Già Sanders kể hồn ma ấy nằm trong cái tủ trong quán New Inn. Theo già hồn ma ra từ trong cái tủ ấy, tôi nhớ toàn bộ câu chuyện".

      Tất cả thông tin của John Hill chỉ có thế. Tôi kể lại những gì nghe với mục sư. Mục sư cho tôi xem sổ kế toán của giáo khu còn lại từ 1684, giá treo cổ được mua, với tiền chi cho đào huyệt – cả hai dùng cho George Martin, tuy nhiên giờ đây già Sanders mất, tìm được ai trong giáo khu làm sáng tỏ thêm câu chuyện này nữa.

      Dĩ nhiên, trở về tôi có đến các thư viện lân cận tìm hiểu thêm. thấy tài liệu nào ghi lại vụ xử này. Duy có tờ báo thời đó cùng vài bản tin đưa tin ngắn về thành kiến của dân địa phương đối với tên tù (được mô tả như trang công tử quý tộc ở địa sản giàu có), nơi xử kiện được chuyển từ Exeter lên London, quan toà là Jeffreys, tuyên án tử hình, ngoài ra trong phần chứng cớ có "những đoạn rất là đặc biệt". người bạn biết tôi quan tâm đến Jeffreys bèn gửi cho tôi trang giấy xé ra từ cuốn catalog của hiệu sách cũ, trong có: Jeffreys, quan toà, bản thảo cổ lý thú về vụ xử tội sát nhân, mà tôi có thể mua được với vài silling. Hình như đây là bản chép tay tốc ký về vụ Martin.

      Tôi điện cho hiệu sách, bản thảo được gửi tới. Đó là cuốn sách mỏng được đóng lại từ nhiều tập, đầu đề viết tay bình thường của ai đó thế kỷ mười tám kèm theo ghi chú "Cha tôi, người ghi tốc ký ở phiên toà, có bảo tôi rằng bạn bè tên tù có lưu ý quan toà Jeffreys để báo cáo nào về vụ này được in ra. Cha tôi đợi tình hình sáng sủa hơn tự tay ông in sau, ông đưa cha cố Glanvil xem, Cha rất khuyến khích ý khiến này. Tuy nhiên cả hai đều mất khi chưa kịp hoàn tất công trình".

      Hai chữ đầu tên W.G. ghi ở phụ lục, tôi được biết phóng viên khởi thủy là lo lắng T.Gurney, người có dịp tham dự nhiều phiên toà của nhà nước với tư cách nhà báo.

      Đó là tất cả những gì tôi đọc được. Sau đó bao lâu, tôi nghe người biết giải mã các bản tốc ký thế kỷ mười bảy, và bản đánh máy bằng chữ thông thường của bản thảo kia chẳng mấy chốc được đặt trước mặt tôi. Những đoạn tôi viết ra đây hoàn tất những nét chính chưa đầy đủ tồn tại trong trí nhớ của John Hill hoặc tồn tại trong trí nhớ của những người sống ở nơi diễn ra kiện .

      Bản báo cáo bắt đầu bằng đoạn lời tựa, đại ý dây phải chỉ là ghi chép thực tế diễn biến ở toà án mà tác giả còn thêm vào số "đoạn rất đáng lưu ý" xảy ra trong thời gian xử kiện, để sau này đem công bố bản thảo hoàn chỉnh, tuy nhiên phải giữ nguyên tốc ký, sợ rằng nó rơi vào tay những người có thẩm quyền khiến cho tác giả và gia đình bị mất quyền lợi hưởng thụ.

      Sau đây là bản báo cáo:

      Vụ này được xử ngày thứ tư 19 tháng mười giữa chúa tể tối cao của chúng ta, Nhà vua, và ông George Martin, ở…(tôi lược bớt số tên địa danh)tại phiên Đại hình. Bị cáo là tù nhân ở New Gate thuộc Old Bailey, được đưa ra trước vành móng ngựa.

      Thư ký toà: George Martin, giơ tay lên ( giơ tay).

      Bản cáo trạng được đọc lên, trong đó "tên tù nhân sợ gì Chúa và bị quỷ dữ rủ rê cám dỗ, vào ngày 15 tháng Năm năm thứ 36 triều Vua Charles Đệ Nhị dùng vũ lực và vũ khí, tại địa điểm , giết hại chưa chồng Ann Clark, sống tại địa điểm đó, cách cố tình và ác độc, bằng con dao nhíp giá penny, cắt cổ ta rồi ném ta xuống cái ao trong giáo khu, chống lại xứ sở thanh bình của nhà Vua, vương miện Người, phẩm giá Người"

      Tù nhân xin có bản sao của cáo trạng.

      Quan toà (tức là ngài George Jeffreys): Cái gì? thừa biết được phép. Hơn nữa đây là bản cáo trạng rất ràng, chỉ còn việc muốn cãi gì cãi.

      Tù nhân: Thưa ngài, tôi được biết có thể có những vấn đề về pháp luật nảy sinh từ bản cáo trạng, do đó kính cẩn xin toà xem xét đề nghị của tôi. Hơn nữa, tôi tin rằng có trường hợp được phép có bản sao như vậy.

      Quan toà: trường hợp nào?

      Tù nhân: Thưa ngài, từ khi tôi được chuyển từ lâu đài Exeter tới đây tôi hoàn toàn bị giam kín được tiếp xúc hay tham khảo ý kiến của ai.

      Quan toà: Nhưng vừa rồi định viện dẫn trường hợp nào?

      Tù nhân: thưa quan toà, tôi thể tên chính xác ra đây, nhưng tôi biết có trường hợp như vậy, do đó tôi xin….

      Quan toà: Chuyện đâu! cứ nêu tên, chúng tôi cho biết có liên quan tới ? có mọi thứ mà luật pháp cho phép, nhưng việc này luật cấm, tôi phải chấp hành.

      Chưởng lý (ngài Robert Sawyer): Thưa quan toà, xin cầu ông ta bào chữa.

      Quan toà: có tội ám sát nêu hay có tội?

      Tù nhân: Thưa ngài, tôi xin bào chữa trước toà. Nhưng nếu tôi bào chữa sau đó tôi có quyền phản đối bản cáo trạng hay ?

      Quan toà: Được, sau khi tuyên án. Việc đó được dành cho , nếu như có vấn đề về luật trong đó. Nhưng lúc này đây, việc của là tự bào chữa.

      Sau sô lời trình bày với toà (hơi lạ so với bản cáo trạng rành rành như vậy) tù nhân tự cho là mình có tội.

      Thư ký toà: Bị cáo! muốn được xử như thế nào?

      Tù nhân: Bởi Chúa và bởi quê hương tôi.

      Thư ký toà: Chúa gửi cho lời phán quyết đúng đắn rồi.

      Quan toà: Ô hay sao lại thế? mất bao công sức về việc bị xử ở Exeter bởi quê hương , để chuyển lên London , lại đòi được xử ở quê? Chúng tôi lại gửi về Exeter chắc?

      Tù nhân: Theo tôi hiểu thế là hình thức thôi.

      Quan toà: Thôi được rồi, tôi đùa thôi. Ta tiếp tục.

      Bồi thẩm đoàn tuyên thệ.

      Họ tuyên thệ. Tôi kể tên ra đây. Về phần tù nhân, có vấn đề gì thừa nhận. Vì như ta , ta quen ai trong số bồi thẩm. Tù nhân xin giấy, bút, mực. Quan toà bảo "Cho ta".Như thường lệ, lời buộc tội được đọc trước Bồi thẩm đoàn, và vụ xử mở màn bởi cố vấn pháp luật trường của nhà Vua, ông Dolben.

      Quan chưởng lý nối tiếp như sau:

      - Thưa quan toà, thưa các vị trong bồi thẩm đoàn, tôi là luật sư của nhà Vua, đứng ra buộc tội tù nhân trong phiên toà này. Quý vị nghe ta bị kết tội giết trẻ. Những tội ác như thế này các vị có thể cho là hiếm gặp, và quả , trong thời đại bây giờ, tôi rất tiếc phải rằng ít khi xảy ra tội ác nào quá dã man và phi tự nhiên, ngoài những chuyện ta nghe thường ngày. Tuy nhiên tôi phải thú là trong vụ ám sát mà tù nhận bị buộc tội thực đây có nhiều điểm ít khi thấy phạm phải ở nước . Người bị ám sát là quê nghèo khổ (trong khi tù nhân lại là nhà quý tộc ở điền trang giàu có). Hơn thế nữa, Thượng đế lại cho ta đầy đủ trí thông minh – ta thường gọi là ngây ngô bẩm sinh. Trong khi ai cũng tiếng vị quý tộc như tù nhân đây thèm nhìn tới, có chú ý chăng chẳng qua là vì thương hại cho hoàn cảnh khốn cùng của ta chứ phải để ra tay giết hại cách man rợ như chúng tôi trình bày sau đây.

      Tuần tự việc ra sau: Khoảng dịp Giáng sinh năm ngoái, tức năm 1683, chàng quý tộc Martin trở về quê từ trường đại học Cambridge . Bạn bè địa phương muốn tỏ ra đây cũng văn minh ( ta thuộc gia đình giàu có và tiếng tăm trong nước) đưa ta đây đó vui chơi Giáng sinh, cưỡi ngựa hết nhà này nhà khác dự hội hè đình đám, xa quá phải ngủ lại ở quán trọ. Sau lễ Giáng sinh hai hôm, họ tới chỗ sống cùng cha mẹ, cha mẹ mở quán rượu gọi là New Inn. Theo chỗ tôi biết, đây là gia đình tử tế. Họ khiêu vũ với dân địa phương, Ann Clark tham dự, có chị kèm. em, như tôi , vừa ngờ nghệch vừa vô duyên, xem ra hưởng thụ cuộc vui được bao nhiêu, chỉ đứng ở góc phòng. Tù nhân đứng ở bar rượu trông thấy , có lẽ chỉ đùa, mời nhảy, chị và nhiều người cản ngăn…

      Quan toà: Chưởng lý, chúng tôi ngồi đây nghe chuyện kể về các cuộc liên hoan Giáng sinh trong quán rượu. Tôi muốn ngắt lời ông, nhưng xin ông vào việc chính cho. Ông đừng sau đó họ nhảy điệu gì.

      Chưởng lý: thưa quan toà, tôi làm mất giờ của quan toà nếu nó thiết thực. Chính là nó thiết thực vì nó cho biết họ quen nhau ra sao, còn về điệu nhạc, ấy thưa, các chứng cớ lại cho thấy nó liên quan mật thiết đến vấn đề đấy ạ.

      Quan tòa: Thôi mời ông, mời ông, nhưng xin đừng lạc đề.

      Chưởng lý: Quả vậy, thưa ngài, tôi đúng trọng tâm. Nhưng thưa quý vị, vậy là quý vị lần đầu tiên họ gặp gỡ nhau như thế nào, tôi xin ngắn gọn từ đó hai người gặp nhau luôn. rất thích thú ( ta thấy mình được coi là người ),còn chàng, tuần nào cũng có thói quen qua nhà ta, ta cứ đứng chờ, họ ra hiệu với nhau: chàng ta huýt sáo điệu nhạc chơi ở quán rượu hôm ấy, tức là điệu nhảy rất quen thuộc ở vùng này, có điệp khúc "Madame, bà có dạo, có chuyện với tôi ?"

      Quan toà: Chà, tôi nhớ ở quê tôi, Shropshire , cũng có điệu nhạc ấy, có phải như thế này ? (đến đây ngài huýt sáo điệu rất đáng chú ý nhưng xem ra xứng đáng với phẩm cách của quan toà và vì có lẽ cũng cảm thấy thế, nên ngài tiếp) Nhưng tôi nghĩ đây là lần đầu chúng ta được nghe điệu nhạc khiêu vũ ở phòng xử án. Phần lớn nhảy điệu này là ở Tyburn (Nhìn tù nhân, ông thấy ta rối loạn tinh thần ghê gớm) Ông Chưởng lý, ông bảo điệu nhạc rất thực tiễn trong vụ này, tôi nghĩ ông Martin đồng ý với ông đấy. Kìa Martin, làm sao thế? Nhìn cứ như là thấy ma thế sao?

      Tù nhân: Thưa ngài, tôi ngạc nhiên khi nghe những chuyện vớ vẩn điên rồ người ta buộc cho tôi.

      Quan toà: Thôi được rồi, để xem ông chưởng lý có đưa ra những việc vớ vẩn hay , nhưng tôi phải rằng, nếu như lời ông ấy mang ý chẳng có lý do gì khiến ngạc nhiên quá mức như vậy. Xin ông chưởng lý tiếp tục.

      Chưởng lý: quả những điều tôi vừa trình bày các vị có thể cho là những chuyện nhặt. Vâng, thể đáng lẽ tốt đẹp nếu như vị quý tộc trẻ trung, danh giá đừng xa hơn việc đem lại niềm vui cho quê ngốc nghếch. Xin tiếp. Sau đó ba, bốn tuần vị quý tộc kia đính ước với nàng cùng giai cấp với mình trong vùng này, đám môn đăng hộ đối, hứa hẹn cuộc đời cao sang hạnh phúc. Nhưng chẳng mấy chốc quý tộc kia nghe được những lời đàm tiếu trong vùng về tù nhân và Ann Clark, coi đó là xử đứng đắn của người – tên tuổi ta là trò đùa nơi quán rượu – xúc phạm đến danh dự , do đó được phép cha mẹ, cắt đứt với chàng. Biết tin, chàng tức giận Ann Clark đưa đến bất hạnh của mình (thực tế chẳng ai đáng giận hơn là chính ta) ta mắng mỏ và đe doạ , kết quả đưa đến chỗ khi gặp , vừa lợi dụng vừa đánh bằng roi ngựa. Nhưng ,vốn ngây thơ tội nghiệp, sao dứt được ta, cứ theo ta nức nở phân trần tình thương của , đến mức trở thành tai hoạ quấy rầy ta. Và cũng vì lễ đính ước của đòi hỏi ta thường xuyên qua gần chỗ , thể (mặc dù tôi cho là có thể) tránh thỉnh thoảng vẫn gặp . Tình hình này dẫn đến ngày 15 tháng Năm cùng năm, tù nhân cưỡi ngựa qua làng như mọi khi, và gặp . Lẽ ra phớt lờ thẳng như gần đây vẫn làm ta dừng chân, với cái gì đó khiến ta rất vui mừng, sau đó mất, và kể từ hôm đó thấy ta đâu nữa. Lần sau ngang qua, tù nhân được gia đình hỏi thăm xem có biết đâu , nhưng ta hoàn toàn chối. Họ với ta là họ rất sợ cho , do trí khôn bình thường nên thấy ta chú ý đặc biệt đến như vậy, lại đâm hoảng hốt, tự hại đời mình bằng hành động dại dột gì chăng, cầu khẩn từ nay đừng để ý đến nữa, chỉ cười bỏ . Tuy nhiên, mặc dù ta luôn tỏ ra vô tư vui vẻ như vậy mọi người. Thấy thái độ, phong cách của ta đổi khác, cứ như người bị rối loạn tâm thần. Đến đây, xin để các nhân chứng trình bày. Riêng tôi, tôi cho là có trả thù của Chúa đối với kẻ sát nhân. Người đòi trả nợ máu cho người vô tội.

      (Đến đây chưởng lý nghĩ lát, lật lật các tờ giấy. Tôi và nhiều khác hơi lấy làm lạ, ông này dễ gì bị bối rối)

      Quan toà: ông chưởng lý, ông định đưa ra chứng cớ gì vậy?

      Chưởng lý: Thưa ngài, đây là loại chứng cớ rất lạ, nhưng nó là thực, trong tất cả những vụ tôi tham gia quả tôi nhớ có cái gì giống nó. Nhưng tóm lại, thưa quý vị, chúng tôi xin đưa ra bằng cớ chứng minh rằng ngày 15 tháng Năm người ta vẫn còn nhìn thấy Ann Clark, dĩ nhiên lúc này phải người còn sống nữa rồi.

      (Mọi người ư hừm, có những tràng cười nổi lên, toà phải kêu gọi im lặng và khi im lặng rồi..)

      Quan toà: Ông chưởng lý, có lẽ ông nên gác câu chuyện này lại tuần nữa, đúng đến Giáng sinh, ông có thể làm các bà bếp sợ mẻ (mọi người lại cười và hình như tên tù nhân cũng cười phải) Lạy Trời, ông huyên thuyên cái gì vậy, chuyện ma ư, chuyện các điệu nhảy Jig của Giáng sinh ư? Chuyện quán rượu ư, trong khi đấy là tính mạng của con người! ( với tù nhân), và ông nữa, thưa ông, tôi muốn biết là chẳng có mấy khi ông vui vẻ đâu. Ông được đưa đến đây phải để vui, tôi chưa biết ông Chưởng lý còn có gì thêm ngoài bản cáo trạng . Xin ông chưởng lý cứ tiếp tục. Tôi, có lẽ, nên quá nghiêm khắc, nhưng phải thú chứng cớ của ông khá bất thường.

      Chưởng lý: chẳng ai biết điều ấy hơn tôi, thưa ngài, nhưng thôi, xin đưa đến kết thúc có đầu đuôi như sau. Thưa quý vị, xác Ann Clark được tìm thấy vào tháng bảy, cổ bị cắt, trong cái ao, trong ao còn thấy cả con dao nhíp của tù nhân. Tù nhân ra sức tìm lại con dao này, và chính vì thế điều tra của cảnh sát tư pháp mới có thể buộc tội ta ở phiên toà tại, phiên toà lẽ ra xử ở Exeter nhưng vì tìm đủ nửa số bồi thẩm ở quê ta, theo cầu của ta, vụ này được đưa đến London, tức là được ưu tiên đặc biệt. Chúng tôi xin gọi các nhân chứng.

      Sau đó đến phần các nhân chứng lên xác nhận mối quen biết giữa tù nhân và Ann Clark, cũng như bản điều tra của cảnh sát tư pháp. có gì đặc biệt nên tôi cho qua.

      Rồi Sarah Ascott được gọi lên tuyên thệ.

      Chưởng lý: Bà làm nghề gì?

      Sarah: tôi trông quán New Inn, ở…

      Chưởng lý: bà có quen tù nhân trước vành móng ngựa ?

      Sarah: Có. ta hay đến quán rượu chúng tôi kể từ Giáng sinh năm ngoái.

      Chưởng lý: Bà quen với Ann Clark ?

      Sarah: Có ạ. Rất quen.

      Chưởng lý: ta trông thế nào?

      Sarah: Thấp béo. biết ông muốn tôi trả lời thế nào?

      Chưởng lý: Có duyên dáng dễ thương ?

      Sarah: Còn xa mới dễ thương. Tội nghiệp ! Mặt to, hàm trễ, da xám ngoét cứ như con puddock.

      Quan toà: Là nghĩa thế nào, thưa bà?

      Sarah: Xin lỗi ngài, tôi nghe ông Martin bảo mặt ta to như mặt con puddock, và đúng như vậy .

      Quan toà: Thế là cái gì ông Chưởng lý? Xin ông giải thích hộ cho.

      Chưởng lý: Ở đấy, người ta gọi thế có nghĩa là con cóc.

      Quan toà: À, con cóc! Thôi tiếp .

      Chưởng lý: Bà có biết chuyện gì xảy ra giữa bà và tù nhân ở quán rượu hồi tháng Năm năm ngoái?

      Sarah: Thế này ạ. Sau hôm Ann Clark về lúc chín giờ tối, tôi làm việc trong nhà, chỉ có ông Thomas Snell trong quán, thời tiết rất xấu. Ông Martin tới gọi đồ uống, tôi đùa "Thưa ông, ông tìm người ông chăng?" Thế là ông ta nổi cáu, cầu tôi đừng có gọi như thế nữa. Tôi rất ngạc nhiên, chúng tôi vốn thường đùa với ông ta về .

      Quan toà: nào?

      Sarah: Thưa Ann Clark ạ. Vì chúng tôi chưa nghe tin ta đính ước với nhà quý tộc ở đâu đó, chứ nếu tôi dùng từ ngữ ấy. Tôi bèn im, nhưng vì hơi lúng túng, tôi bèn cất tiếng hát điệu nhạc họ nhảy với nhau lần đầu ở quán, nghĩ nó châm chọc ông ta. Cũng là đoạn ông ta hay huýt sáo khi ông ta tới ngoài đường. "Madame, bà có dạo cùng tôi, có chuyện trò cùng tôi ?" Lúc ấy nhớ tôi cần thứ gì đó bèn vào trong bếp, vừa vừa hát và ngày càng hát to. Bỗng dưng tôi nghe tiếng trả lời ở ngoài đường, tuy chắc lắm vì gió ở ngoài rất mạnh. Thế là tôi ngừng hát và nghe "Vâng, thưa ông. tôi dạo và chuyện trò cùng ông" Chính là giọng của Ann Clark

      Chưởng lý: Tại sao bà biết đó là giọng của ta?

      Sarah: Làm sao tôi nghe nhầm được! giọng ta nghe the thé, nhất là khi hát. Nhiều người trong làng giả tiếng ta mà được. Nghe thấy thế tôi mừng quá vì chưa biết chuyện gì xảy ra với . Tuy ta ngớ ngẩn bẩm sinh nhưng tính tình tốt, dễ bảo. Tôi mình "À thế ra về rồi đấy hả?" và chạy ra cửa trước, qua mặt ông Martin, tôi bảo "Kìa, người của ông về rồi kia kìa, tôi gọi ta vào nhé", sau đó ra mở cửa. Nhưng ông Martin giữ tay tôi lại, ông ta hầu như loạn trí "Này, đừng" ông ta "Hãy vì Chúa, xin đừng!" Ông ta run bắn lên như cầy sấy. Tôi bực mình "Ông vui khi tìm thấy em nó à?" và tôi gọi Thomas Snell "Nếu ông đây bằng lòng ra mở cửa ", Thomas Snell ra mở cửa, gió ùa vào thổi tắt phụt hai ngọn nến chúng tôi vừa thắp. Ông Martin bỏ tay tôi ngã lăn xuống đất, nhưng tối mò, hai phút sau mới có ánh sáng, trong khi mò mẫm tìm diêm, tôi nghe có tiếng bước chân qua sàn nhà vào chỗ cái tủ ở phía trong và tiếng cửa tủ mở ra rồi đóng sập lại. Nến thắp lên, ông Martin ngồi chiếc ghế dài, mặt trắng nhợt, mồ hôi vã ra như người mất hồn, hai tay thõng xuống. Định chạy lại giúp ông tôi chợt trông thấy có mảnh áo kẹt ở cánh cửa tủ, tôi sực nhớ lúc nãy có nghe tiếng cánh tủ đóng. Thế là tôi nghĩ lúc tắt đèn có ai chạy vào trong đó. Đến gần tôi để ý nhìn. Tôi thấy mảnh áo choàng màu đen ở dưới có viền, đúng như viền của chiếc áo vải nâu, mắc kẹt ở cửa tủ, cả miếng vải lẫn viền áo ở dưới thấp tựa như có người quỳ xổm trong tủ.

      Chưởng lý: Thế bà cho là cái gì?

      Sarah: Là áo của người đàn bà.

      Chưởng lý: Bà đoán là áo của ai? Bà có biết ai có cái áo như thế ?

      Sarah: Vải này nhiều phụ nữ trong giáo khu mặc.

      Chưởng lý: Có giống áo của Ann Clark ?

      Sarah: Ann Clark thường mặc cái áo giống như thế nhưng tôi tuyên thệ, tôi thể đoán chắc dưới là áo của ta.

      Chưởng lý: Bà còn thấy gì khác nữa ngoài mảnh vải đó?

      Sarah: Nó ướt sũng, nhưng bên ngoài mưa gió..

      Quan toà: Bà có sờ vào nó ?

      Sarah: ạ, tôi muốn.

      Quan toà: muốn? Bà tao nhã quá dám sờ vào cái áo ướt?

      Sarah: phải vậy, nhưng nó có nét gì ghê khiếp lắm.

      Quan toà: Tiếp tục.

      Sarah: Thế là tôi gọi Thomas Snell, bảo lại gần và lưu ý, tôi mở cửa tủ ra hãy tóm lấy người chạy ra "vì có kẻ trong đó, chưa biết họ muốn gì". Nghe thấy thế ông Martin kêu lên tiếng và chạy vụt ra cửa trong đêm tối. Nhưng khi đó cửa tủ bị đẩy ra dù tôi giữ chặt, cả Thomas Snell cũng lao vào cùng giữ với tôi, tuy thế cửa tủ vẫn bị bật mạnh ra khiến chúng tôi ngã vật ra.

      Quan toà: Con chuột chạy ra chăng?

      Sarah: Dạ , to hơn con chuột nhiều, nhưng tôi nhìn thấy gì cả, chỉ thấy cái gì đó vượt ra cửa băng qua sàn nhà.

      Quan toà: Nhưng trông nó như thế nào mới được chứ? Như người ư?

      Sarah: Thưa, chắc được, nó chạy chậm thôi và đen đen. Cả tôi và Thomas Snell hoảng cả người, nhưng đều chạy theo, nhìn qua cánh cửa bỏ ngỏ chỉ thấy tối đen chẳng thấy gì cả.

      Quan toà: còn vết tích gì sàn nhà à? Sàn là sàn gì?

      Sarah: Sàn lát đá phiến, thưa ngài, còn vết ướt nhưng hai chúng tôi chẳng hiểu thế nào vì thời tiết mưa gió mà.

      Quan toà: Hừ. Về phần tôi – tuy dám chắc chuyện nhân chứng là chuyện lạ đấy – tôi chưa hiểu ông chưởng lý muốn gì với nhân chứng này.

      Chưởng lý: Thưa ngài, để chứng tỏ thái độ kỳ quặc của tù nhân ngay sau khi nhân vật bị ám sát mất tích. Bồ thẩm đoàn lưu ý việc này cho, cùng với giọng hát nghe thấy bên ngoài ngôi nhà.

      Sau đó tù nhân đặt vài câu hỏi lấy gì làm thiết thực lắm, rồi Thomas Snell được gọi lên, này cũng đưa những chứng cớ kiểu như của bà Ascott, thêm vào đó.

      Chưởng lý: Sau khi bà Ascott ra khỏi phòng giữa bà ấy và tù nhân có xảy ra chuyện gì ?

      Thomas: Tôi có nhúm thuốc lá sợi trong túi.

      Chưởng lý: Nhúm thuốc lá sợi?

      Thomas: Tôi bỗng muốn hút tẩu thuốc, tôi bèn lấy cái tẩu mặt lò sưởi, và vì có nhúm thuốc lá sợi nhưng lại để quên con dao nhíp ở nhà, răng chẳng còn mấy mà cắn, như quan toà và các ngài trông thấy đấy.

      Quan toà: Cái này cái gì vậy nhỉ? vào việc cho! Chúng tôi ngồi đây để nhìn răng à?

      Thomas: Dạ phải thế. Có Trời biết! Tôi biết ngài có việc làm tốt hơn, răng tốt hơn và tôi lấy thế làm lạ.

      Quan toà: Trời ơi! này làm sao vậy? Vâng, răng tôi tốt hơn, vào việc biết răng tôi thế nào.

      Thomas: Xin ngài tha lỗi, việc đúng là như vậy, tôi hỏi mượn ông Martin con dao nhíp của ông ấy để cắt sợi thuốc lá ra. Ông ấy tìm hết túi nọ đến túi kia. Tôi hỏi, "Ông mất con dao rồi ạ?" Ông ấy đứng hẳn dậy tìm rồi ngồi xuống rên rỉ "Thôi chết tôi rồi! hẳn tôi để lại đó rồi!" Tôi "Nhưng có ở đó đâu ạ? Có đáng bao nhiêu đâu mà ông phải kêu lên thế" Ông ta cứ ngồi đó hai tay ôm đầu, chẳng để ý gì đến lời tôi . Thế rồi bà Ascott từ trong bếp ra.

      Được hỏi có nghe thấy tiếng hát ở ngoài đường , ta bảo "" tuy nhiên cửa vào bếp lúc đó đóng và bên ngoài gió rất mạnh, về giọng của Ann Clark ai có thể nhầm được.

      Sau đó đến đứa trẻ con, William Reddaway, khoảng mười ba tuổi được gọi lên, quan toà đưa ra những câu hỏi thông thường, biết nó hiểu thế nào là tuyên thệ. Nó tuyên thệ. Nó làm chứng cho kiện xảy ra tuần sau đó.

      Chưởng lý: Nào, bé con, đừng sợ. Ở đây ai làm hại em cả nếu em đúng .

      Quan tòa: Nếu nó đúng ? Bé con, nhớ đây, em ở trước Đức Chúa của Trời đất nắm giữ chìa khoá địa nguc. Em ở trước chúng ta là các quan chức của nhà Vua nắm giữ chìa khoá của nhà tù Newgate, nhớ, đây là chuyện sống chết của con người. Nếu sai, em đưa ta đến chỗ chết, cũng như thể em là kẻ sát nhân, vậy em phải .

      Chưởng lý: Cứ với bồi thẩm đoàn những gì em biết. . Chiều 23 tháng Năm vừa rồi em ở đâu?

      Quan toà: Trẻ con nó biết gì về ngày tháng. Em có biết ngày tháng ?

      W(William): Thưa quan toà có. Đó là ngày trước ngày tiệc tùng của chúng cháu. Cháu có đồng sáu xu để tiêu, đúng vào ngày trước ngày Hạ chí tháng.

      vị bồi thẩm: Chúng tôi hiểu.

      Quan toà: Nó nó nhớ cái ngày đó bởi lẽ đó là trước cái ngày có hội hè tiệc tùng, và nó có sáu xu để tiêu. Đặt đồng sáu xu lên bàn nào. Nào, thế lúc đó cháu ở đâu?

      W: Cháu chăn bò đồng truông ạ.

      Nhưng thằng bé toàn tiếng địa phương, quan toà chẳng hiểu lắm, phải có người phiên dịch, may thay giáo xứ của giáo khu có mặt tại đó, bản thân cha xứ cũng tuyên thệ. Lời thằng bé "Tôi ở đồng ruộng đến sáu giờ, ngồi sau bụi kim tước gần cái ao. Tù nhân thận trọng tới, nhìn quanh nhìn quất, tay cầm cây sào dài, đứng yên lúc nghe ngóng. Sau đó lấy sào khều dưới nước. Tôi ngồi cách bờ ao có năm mét, thấy cây sào chạm vào vật gì đó kêu oạp oạp. Ông ta bỏ sào quăng mình xuống đất, lăn lộn rất kỳ quặc, hai tay ôm lấy đầu, lúc sau đứng dậy bỏ "

      Được hỏi có trao đổi gì với tù nhân , nó " hai ngày trước đó, biết tôi vẫn thường ở đồng truông, ông ta hỏi tôi có thấy con dao nhíp nằm ở đâu đó cánh đồng , nếu thấy đưa ông ta được đồng sáu xu. Tôi bảo , nhưng tôi hỏi xem, thế là ông ta cho tôi sáu xu bảo là đừng hỏi gì cả"

      Quan tòa: Tức là đồng sáu xu em định đem tiêu trong bữa tiệc chứ gì?

      W: Thưa quan toà vâng ạ

      Được hỏi có thấy gì lạ ở cái , nó bảo , trừ việc "nó bắt đầu có mùi kinh khủng, suốt mấy ngày bò đến ao uống nước nữa"

      Được hỏi có thấy tù nhân và Ann Clark cùng với nhau , nó cứ khóc hoài, mãi mới làm nó nín khóc và được lời (cuối cùng ông Matthews, cha xứ của giáo xứ làm nó trấn tĩnh lại để nghe người ta hỏi tiếp) Nó nó thấy Ann Clark chờ tù nhân ở đồng truông xa xa, rất nhiều lần, kể từ Giáng sinh năm ngoái.

      Chưởng lý: Em có nhìn ấy để chắc chắn là ấy?

      W: Có. Chắc chắn ạ.

      Quan toà: Chắc chắn như thế nào?

      W: Vì ấy đứng và nhảy lên xuống, hai cánh tay đập đập như con ngỗng (chỗ này đứa trẻ dùng tiếng địa phương nhưng ông cha xứ giải thích là con ngỗng) tư thế ấy lẫn với ai khác được.

      Chưởng lý: Lần cuối cùng em trông thấy ấy là khi nào?

      Đến đây thằng bé lại khóc ròng và cứ bám chặt lấy ông Matthews, ông này bảo nó đừng sợ. cuối cùng nó kể câu chuyện sau đây: Vào đúng cái ngày trước bữa tiệc (cũng là buổi chiều tối nó kể kia), sau khi tù nhân khỏi, vì hoàng hôn nó rất muốn về nhà nhưng lại sợ ra khỏi bụi kim tước bị tù nhân nhìn thấy nên đàng đứng sau bụi cây ít phút nhìn ra cái ao. Nó thấy hình thù đen đen từ ao nhô lên, rồi lên bờ. Khi lên đến chỗ cao nhất bờ ao in hình nét bầu trời và đứng thẳng lên vỗ cánh tay lên xuống sau đó nhàng chạy theo hướng tù nhân. Khi được hỏi theo nó đó là ai nó bảo chính là Ann Clark chứ phải ai khác.

      Rồi đến ông chủ của thằng bé được gọi lên, ông ta kể lại tối đó thằng bé về muộn và bị quở trách nhưng nó chỉ có vẻ sửng sốt chứ lý do.

      Chưởng lý: Thưa quan toà, chúng tôi đưa xong các nhân chứng vào

      Quan toà bèn gọi tù nhân lên tự bào chữa. dài nhưng vừa vừa thở hổn hển, rằng hy vọng bồi thẩm đoàn quyết định tính mạng dựa nhúm người nhà quê và trẻ con vốn tin vào bất cứ chuyện vớ vẩn nào, và rằng trong vụ xử này ngay từ đầu bị có thành kiến. Quan toà ngắt lời, được đặc biệt ưu đãi chuyển vụ xử từ Exeter đến đây, thừa nhận, ấy thế nhưng lại cảm ơn bằng cách là từ khi bị đem lên London chẳng ai trông nom chu đáo khiến luôn bị quấy rầy, bị gây rối. Nghe vậy quan toà bèn cho gọi Cảnh sát trưởng, hỏi về việc giữ an toàn tù nhân ra sao. Thực tế làm gì có chuyện đó. Tuy nhiên, cảnh sát trưởng là có nghe cai ngục kể lại nhìn thấy người trước cửa buồng , hoặc là lên cầu thang tới buồng , nhưng thực ra ai có thể vào được bên trong. Được hỏi thêm người đó thuộc loại người nào ông cảnh sát trưởng bào là chỉ nghe , mà nghe được phép ra đây. Về phần tên tù nhân, được hỏi có phải đó là người định bảo , biết gì về chuyện đó cả, người sống chết chưa biết thế nào sao tránh khỏi cảm thấy được yên ổn. Xem ra lời dối trá này có vẻ hấp tấp. Sau đó gì thêm, cũng ai gọi ra làm chứng. Ông chưởng lý với bồi thẩm đoàn ( đoạn dài, nếu có thời gian tôi xin trích phần, trong đó sâu vào xuất của nạn nhân bị ám hại. Ông được pha vài chuyên gia cổ điển như là St Agustinne De cura pro mortuis genenda – do chăm sóc sức khoẻ mà sinh ra yếu đuối ( quyển sách rất nay được các nhà văn tham khảo khi viết về đề tài siêu tự nhiên) đồng thời cũng kể ra số trường hợp có thể đọc thấy trong ghi chép của Glanvil, thích hợp nhất là sách của Lang. Tuy nhiên ông thêm gì nhiều ngoài các trường hợp như in trong sách)

      Quan toà tóm tắt các chứng cứ cho bồi thẩm đoàn nghe. Bài của ông có gì đáng để tôi ghi lại đây nhưng ràng ông rất ấn tượng bởi tính cách đặc biệt của các chứng cớ mà các nhân chứng đưa ra. Trong cuộc đời hành nghề ông chưa từng nghe thấy như vậy bao giờ. Tuy nhiên luật pháp dựa đó, bồi thẩm đoàn tin vào các nhân chứng hay là tuỳ.

      Bồi thẩm đoàn cân nhắc lâu, đến nhất trí tù nhân có tội.

      Tù nhân được hỏi còn muốn gì nữa về phán xét này, tên trong bản cáo trạng viết chữ Martin viết I ngắn trong khi thực ra là phải Y dài. Chưởng lý việc này thực tế, hơn nữa, thỉnh thoảng chính tù nhân cũng viết vậy. Tù nhân còn gì để thêm nữa. bị kết tội tử hình và bị treo cổ ở giá treo cổ gần nơi thực tội ác, ngày hành quyết là ngày 28 tháng Mười hai sau đó, vào ngày lễ Thánh của những người vô tội.

      Lúc ngày tù nhân thể tình trạng vô cùng tuyệt vọng, hỏi quan toà xem thân nhân có được phép thăm trong những ngày còn lại ?

      Quan toà: À, tôi sẵn lòng cho phép, nhưng phải có viên cai ngục và Ann Clark nữa, cũng có thể đến thăm .

      Nghe thế tù nhân quay , khóc lóc xin quan toà đừng dùng lời lẽ ấy, quan toà bực mình đáng hưởng bất kỳ đối xử tủ tế nào, dịu dàng nào, là tên đồ tể, tên sát nhân hèn nhát, mình làm mình chịu kêu mà ai thương. "Tôi hy vọng Chúa để cho ta đến với cả ngày lẫn đêm cho đến lúc lìa đời"

      Tù nhân được đem ra, và theo như tôi biết, lịm , phiên toà thế là bế mạc.

      Tôi thể nhận xét, suốt phiên toà tù nhân trông vẻ bất ổn và bồn chồn, khác hẳn nhiều thủ phạm bị tử hình khác. Lúc nào cũng nhìn kỹ vào từng người, đôi khi đột ngột quay ngoắt mặt tựa như có ai thầm với mình. điều đáng chú ý nữa là phiên toà tuyệt đối yên lặng và hơn nữa phòng xử tối tăm mờ mịt khác thường (dĩ nhiên mùa này trời sáng sủa cũng đúng thôi), mới hai giờ chiều phải thắp đèn trong phòng xử, tuy bên ngoài chưa có sương mù.

      Còn có điều đáng chú ý nữa, gần đây vài thanh niên tổ chức hoà nhạc trong ngôi làng mà tôi kia, có kể là các thính giả tiếp đón rất lạnh nhạt điệu nhạc "Madame, bà có dạo…" Sáng hôm sau họ chuyện với dân địa phương mới biết ở đây người ta ghê tởm nó. Ở North Tawton đến nỗi thế nhưng họ cho rằng nó đem đến điều may. Vì sao như vậy ai có ý niệm nào cả.

    4. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 16: Ông Humphreys và địa sản thừa kế
      Khoảng mười lăm năm về trước, ngày cuối tháng Tám hoặc đầu tháng Chín, chuyến tàu hoả lăn bánh vào Wilsthorpe, nhà ga vùng quê miền Đông nước . Cùng số hành khách khác, người trẻ tuổii bước ra, ta khá đep trai, cao, tay xách cái tu du lịch cùng số giấy tờ được buộc thành cái gói. Có vẻ như ta được chờ đón, theo cái kiểu ta nhìn quanh biết, và quả vậy. Ông trưởng ga chạy xuống vài bậc tam cấp, và hình như chợt nhớ ra, quay lại gật với ông mập mạp có bộ râu ngắn hoang mang nhìn vào con tàu như tìm ai. "Ông Cooper"trưởng ga gọi "có lẽ quý ông của ông đây này", sau đó sống với chàng thanh niên hành khách vừa bước ra khỏi ánh sáng "Ông Humphreys phải ạ? Chào mừng ông tới Wilsthorpe. Trong sảnh có xe bò chở hành lý cho ông rồi còn đây là ông Cooper, chắc ông biết". Ông Cooper vội tiến lại, nâng mũ chào rồi bắt tay "Hân hạnh được lặp lại lời ông Palmer. Lẽ ra tôi phải là người đầu tiên những lời đó nhưng vì chưa biết mặt ông, ông Humphreys ạ. Mong cho những ngày ông ở đây toàn là những ngày lịch đỏ. "Cám ơn ông Cooper về lời chúc của ông, cũng xin cám ơn ông Palmer. Tôi hy vọng việc thay đổi người quản lý đất đai – hẳn các ông chắc đều lấy làm tất cả - đến nỗi làm những người sắp tới đây mất vui" ngừng lời cảm thấy những lời của mình hợp với niềm vui chung lắm. Ông Cooper cũng ngắt lời "Ồ, ông yên tâm , xin bảo đảm với ông đón tiếp nồng nhiệt chờ đợi ông từ tứ phía. Về việc thay đổi người quản lý địa sản có ảnh hưởng xấu đến hàng xóm láng giềng , vâng, ông chú quá cố của …" đến đây ông Cooper cũng dừng, có thể do lời khuyên từ bên trong và cũng có thể vì ông Palmer hắng giọng, hỏi ông Humphreys đưa vé. Hai người rời nhà ga. Theo đề nghị của Humphreys, họ di bộ về nhà ông Cooper, cơm trưa chờ họ.

      Quan hệ giữa hai nhân vật xin gặp bằng mấy dòng sau đây. Humphreys được thừa hưởng địa sản của ông chú. Việc này hoàn toàn đột ngột, chưa đến đây cũng chưa nhìn thấy ông chú bao giờ. chỉ có mình đời này. Là người nhiều năng lực lại tốt nết và là nhân viên của cơ quan nhà nước từ bốn năm năm nay, chưa đủ điều kiện sống như nhà quý tộc thôn quê. Là người chăm chỉ nhưng khá nhút nhát, it khi có những thú vui ngoài trừ chơi gôn và làm vườn. Đây là lần đầu xuống Wilsthorpe để bàn việc với ông Cooper, người quản lý địa sản. Có những việc cần lưu tâm đến. Ta hỏi tại sao là lần đâu? Chẳng lẽ ta tệ đến thế về dự đám tang ông chú nhỉ? Câu trả lời dễ thôi, lúc chú mất, ở nước ngoài, địa chỉ của người ta tìm được ngay. Vì vậy đợi khi mọi việc sẵn sàng chờ đợi, mới về. Lúc này đây về đến căn nhà ấm cúng của ông Cooper, đối diện nhà cha xứ, và vừa bắt tay bà Cooper và Cooper xong.

      Trong chờ dọn ăn tối, mọi người ngồi trong phòng khách, riêng Humphreys thầm toát mồ hôi, biết người ta nhận xét, đánh giá mình.

      "Mình ạ," ông Cooper bảo vợ "tôi vừa bảo ông Humphreys là tôi hy vọng và tin rằng mỗi ngày ông sống ở Wilsthorpe cùng chúng ta được đánh dấu như ngày lịch đỏ"

      "Nhất định rồi, em chắc thế" bà Cooper vui vẻ , "và là rất nhiều, rất nhiều ngày như thế"

      Cooper cũng khẽ mấy lời tương tự, Humphreys đùa bôi cuốn lịch thành màu đỏ hết, ai nấy đều cười xoà nhưng ràng họ hiểu hoàn toàn. Đến đây bữa ăn được dọn xong.

      Sau lát im lặng, bà Cooper hỏi "Ông có biết gì về vùng này ạ?" Câu hỏi dùng để mở đầu này rất khéo.

      "Dạ , rất tiếc là " Humphreys đáp "Tôi thấy vui mắt, nếu nhìn từ tàu xuống"

      "Ồ, đúng là nơi vui mắt, đôi khi tôi trong cả nước chưa thấy vùng nào đẹp hơn, dân ở đây cũng rất đông. Tiếc rằng ông đến hơi muộn hơn các cuộc liên hoan trong vườn"

      "Vâng, tiếc quá!" Humphreys , thoáng có vẻ mình, và rồi cảm thấy phải ra khỏi đề tài này "Nhưng thưa bà, giả sử tôi có về đây sớm hơn, chắc tôi cũng tham dự được, có tang.."

      "Ồ chết chửa, tôi gì vậy? (ông Cooper và Cooper im lặng đồng tình) Ông tha lỗi cho! Ông nghĩ về tôi thế nào đây"

      "Dạ sao thưa bà. Tôi dám . Chú tôi mất tôi quá đau lòng, tôi chưa bao giờ gặp ông ấy cả, chẳng qua tôi chỉ cho rằng trong thời gian có lẽ tôi nên tham gia các cuộc vui chơi đó hơn"

      "Phải, ông nghĩ như vậy phải lắm, phải George? Ông thực lòng tha thứ cho tôi chứ? Nhưng nghĩ lạ quá, thế ông chưa bao giờ gặp cụ Wilson ?"

      "Dạ chưa từng, và cũng chưa bao giờ nhận được lá thư nào của cụ. Nhưng thưa bà, tôi cũng có việc cần được bà tha thứ đây. Tôi chưa có dịp nào cám ơn bà, trừ thư, về việc khiến bà phải bận lòng tìm người trông nom cho tôi ở ngôi nhà trong địa sản của chú tôi"

      "Có gì đâu thưa ông Humphreys? Xin bảo đảm hai người này làm ông hài lòng. Hai vợ chồng. Chồng coi như quản gia, vợ trông coi việc nhà. Tôi biết họ từ rất lâu, họ rất tử tế. Ông Cooper lo cho ông những người hầu ngựa và làm vườn"

      "Đúng đấy ạ. Bồi ngựa và người làm vườn nhiều, chỉ mỗi ông làm vườn chính là ở lại từ thời cụ Wilson còn sống thôi. Phần lớn gia nhân, như ông thấy trong di chúc, đều được hưởng ít tiền, nên họ về nghỉ cả. Như vợ tôi đấy, ông quản gia và vợ ông ấy khiến ông hoàn toàn vừa ý."

      "Vậy là ông Humphreys ạ, mọi thứ sẵn sàng ngay từ ngày hôm nay, theo đúng như ông muốn" bà Cooper "như thế trừ việc thiếu người ở, thành ra tôi sợ có thể ông cảm thấy mọi việc tạm ngừng trệ. Có điều chúng tôi biết chắc ông muốn tới ở ngay, chúng tôi lấy thế làm sung sướng lắm"

      "Vâng thưa bà, cám ơn bà rất nhiều. Tôi muốn lao vào cuộc ngay cho xong. Tôi quen sống mình, tối tối tôi cũng có nhiều việc lắm, xem sách báo, giấy tờ trong những ngày sắp tới. Riêng chiều nay, giá ông Cooper có thời gian cùng tôi thăm ngôi nhà và khu đất…"

      "Nhất định rồi. Nhất định rồi. Ông muốn giờ nào cũng được"

      "Cho tới giờ ăn tối thôi, thưa cha!" Cooper . "Và đừng quên tối nay nhà mình tới nhà Barnett đấy nhé. Và cha có tất cả các chìa khoá vườn chưa?"

      Humpheys hỏi " Coper, có làm vườn giỏi , thưa ? Mong cho biết tôi có thể chờ đợi gì ở ngôi nhà đó?"

      "Ô, ông Humphreys, tôi biết thế nào là làm vườn giỏi. Tôi tôi thích hoa lắm – nhưng vườn bên nhà ấy cũng đẹp lắm. hơi cổ chút, toàn là bụi dâu. Lại còn có cái miếu, thêm vào đó là mê cung (maze) nữa chứ"

      " ạ? Thế khảo sát nó bao giờ chưa?"

      "Khô-ô-ng." Cổ Cooper trề môi, lắc đầu " từ lâu tôi muốn lắm, nhưng cụ Wilson lúc nào cũng khoá nó lại, cho cả phu nhân Wardrop vào xem (phu nhân sống gần đây, ở Bentley, mà ông biết , bà ấy là người làm với tuyệt vời đấy). Chính vì vậy mà tôi vừa hỏi cha tôi có tất cả các chìa khoá hay "

      "À ra thế. Thế nào tôi cũng phải ngó vào đó mới được, mà học được đường trong đó rồi tôi hướng dẫn vào xem"

      "Ồ, cám ơn ông quá, ông Humphreys! Vậy là tôi được cười lại Foster rồi ( ấy là con ông mục sư, họ nghỉ hè, những người rất thú vị) Chúng tôi vẫn đùa với nhau xem ai được vào mê cung trước"

      "Có lẽ chìa khoá vườn để ở nhà bên ấy" ông Cooper , mắt vừa nhìn vào chùm chìa khóa lớn có ý tìm. "Có số trong thư viện đây rồi. Nào, ông Humphreys, ta tạm biệt các bà, lên đường thám hiểm nào"

      Ra khỏi cửa trước nhà ông Cooper, Humphreys phải bước giữa hai hàng người trịnh trọng – cho đúng chẳng phải đoàn tuần hành có tổ chức gì, nhưng phải giở mũ chào rất nhiều người và bị nhìn ngắm bởi khá nhiều đàn ông đàn bà tập trung đông đảo hơi bất thường đường . còn trao đổi vài lời với vợ ông gác công viên và với chính ông này đứng con đường qua công viên. Tôi giờ mô tả suốt đoạn đường, nhưng dọc theo nửa dặm từ công viên đến ngôi nhà, Humphreys tranh thủ hỏi người bạn đường về ông chú mới qua đời của mình. Ông Cooper nhanh chóng vào bài bình luận khá dài.

      "Kể cũng lạ, như vợ tôi lúc nãy, ông chưa bao giờ gặp cụ! Ông hiểu lầm tôi chứ, ông Humphreys? Tôi tin vậy, nếu tôi ông và cụ chẳng có gì là hợp nhau. Chẳng phải tôi có ý phản đối gì cụ. Tuyệt đối . Tôi ông nghe về cụ" Ông Cooper nhìn thẳng vào mặt Humphreys "giống như tục ngữ , cụ sống trong vỏ sò. Cứ như người ốm yếu nằm dưỡng bệnh. Chính xác như thế. Hoàn toàn như thế. tham gia vào việc gì xung quanh. tờ báo địa phương, nhân dịp cụ mất, có đăng số lời về cụ với ý chính như vậy, để rồi tôi đưa cho ông xem, nếu có dịp. Nhưng thưa ông" ông Cooper lấy tay đập đập vào ngực mình "Ở cụ có điểm đáng ca ngợi vô cùng – đáng khen nhất – cụ thẳng thắn cởi mở như ban ngày, xử lý việc gì cũng thoải mái, hào phóng, thành kiến. Cụ có trái tim để thông cảm, bàn tay để dàn xếp. Chỉ vướng mỗi chuyện may là sức khoẻ của cụ, cho đúng, tình trạng thiếu sức khoẻ của cụ."

      "Vâng, tội nghiệp cho cụ. hiểu cụ có mắc bệnh hiểm nghèo gì ngoài bệnh già?"

      ", , chỉ có thế thôi. Như ngọn đèn lụi dần. Về câu hỏi kia của ông, câu trả lời phủ định. Hay là cụ mắc chứng thiếu linh hoạt? phải đấy. Duy có điều cụ bị ho ghê lắm. À ta đến nhà rồi đây. Toà nhà đẹp đấy chứ, ông có thấy thế , ông Humphreys?"

      Nhìn chung, nó đáng được gọi là toà nhà đẹp, chỉ mỗi bị mất cân đối. Nhà cao, bằng gạch đỏ, có lan can kiểu đơn giản, che khuất gần hết cả mái nhà, cứ như thể toà nhà thành thị xây ở chốn thôn quê, có tầng hầm, có bậc tam cấp khá bề thế dẫn lên cửa trước. Lẽ ra với chiều cao đó toà nhà phải có hai chái, nhưng . Chuồng ngựa, các phòng khác bị cây cao che lấp. Humphreys đoán nó được xây khoảng năm 1770.

      Đôi vợ chồng già làm quản gia và bà coi nhà chờ sẵn bên trong cửa trước. Cửa mở ra khi ông chủ mới tới. Tên họ là Calton. Nhìn vẻ mặt, phong cách của họ và qua tiếp xúc, Humphreys có ấn tượng tốt. Ngày mai thăm tầng mái và hầm rượu với ông Calton, bà Calton cũng trình bày với về đồ vải, giường chiêu. Những gì có, những gì cần có. và ông Cooper ho họ lui, rồi thăm toàn cảnh ngôi nhà. Bản đồ địa hình cần. Các phòng lớn dưới nhà rất đẹp, nhất là thư viện, rộng ngang phòng ăn, có ba cửa sổ cao trông ra phía Đông. Phòng ngủ của Humphreys ngay nóc thư viện. Các bức tranh rất đẹp, đều là tranh cổ. Đồ đạc cũ cả, sách vở thế kỷ mười bảy. Sau khi nghe ông Cooper , xem qua vài sửa chữa thực cho ngôi nhà và ngắm chân dung cụ Wilson treo trong phòng khách, Humphreys cuộc phải thừa nhận với Cooper là vị tiền bối của có gì hấp dẫn cả. buồn, cảm thấy có gì tiếc thương – dolebat se dorer non posse – Khổ cho thể đau đớn, cho con nhầm, hiểu có hay có thiện chí, với người cháu ông hề biết, giúp có được cơ ngơi sung túc như thế này. cảm thấy ở Wilsthorpe này hạnh phúc và đặc biệt là ở trong thư viện.

      Bây giờ đến lúc ra vườn. Khu chuồng ngựa trống trơn hãy để đó , nhà giặt cũng vậy. Thế là họ tiến ra vườn và quả như Cooper nghĩ, khu vườn rất nhiều tiềm năng. Ông Coper giữ ông làm vườn ở lại là phải. Cụ Wilson quá cố ràng là chẳng thấm nhuần những quan điểm mới mẻ nhất về làm vườn. Ấy nhưng dưới mắt của người hiểu biết khu vườn cho thấy có chăm nom và sửa sang, dụng cụ làm vườn tuyệt hảo. Cooper rất sung sướng khi thấy Humphreys tỏ ra vui thích, "Tôi có thể nhìn thấy cái thú của ông ở đây, chắc chắn ông làm chốn ày trở thành nơi thường được lui tới bao lâu nữa đâu. Tiếc rằng hôm nay có Clutterham ở đây – ông làm vườn chính – lẽ ra ông ấy phải có mặt rồi nếu con trai ông ấy bị sốt, giá ông ấy được thấy khu này tác động mạnh đến ông như thế nào"

      "Vâng, ông tôi biết lý do vì sao ông ấy có mặt, tôi rất tiếc khi biết lý do, nhưng mai còn có giờ mà. Thế còn cái nhà trắng xây mô đất cuối bãi cỏ kia? Có phải cái miếu mà Cooper tới ?"

      "Đúng đấy ạ. Gọi là đền Hữu Nghị. Ông nội của chú ông cho xây toàn bằng đá hoa cương Ý. Có lẽ ta quay lại đó chăng. Ông nhìn thấy toàn cảnh rất đẹp"

      Đường nét lớn của ngôi đền giống như đền Sibyl ở Tivoli , có vòm, chỉ khác ở chỗ nó hơn nhiều. Vài bức chạm nổi lăng mộ cổ được gắn vào tường, nhìn toàn bộ có hơi hướng của chuyến du lịch sang lục địa. Cooper tra chìa khoá vào ổ, loay hoay lúc mới mở được cánh cửa nặng. Bên trong trần nhà rất đẹp, đồ đạc có gì. đống những viên đá lớn, hình tròn, choán gần hết diện tích sàn nhà, mỗi viên đá khắc khá sâu chữ cái. Humphreys hỏi "Nghĩa của chúng như thế nào nhỉ?"

      "Nghĩa ấy ạ? Chúng ta đều biết cai gi cũng có ý nghĩa của nó, tôi cho đống đá này cũng vậy. Nhưng dù mục đích nó là cái gì chăng nữa" thái độ ông Cooper lúc này có vẻ mô phạm " tôi chịu giải thích cho ông được. Tất cả những gì tôi biết về chúng được tóm tắt trong mấy từ thôi. Là thế này, chúng được chú ông cho khiêng từ mê cung tới đây, thời tôi còn chưa vào làm cho cụ kia, mê cung ấy, ông Humphreys, là…"

      "Ồ, mê cung!" Humphreys kêu lên "Tôi quên khuấy mất. Ta phải xem chỗ ấy cái. Ở đâu hả ông?"

      Cooper kéo ra cửa đền, dùng gậy chỉ "Hướng mắt ông về phía này nhé" ông ta (kiếu cách hơi giống "The second Elder trong "Susana" của Handel – hướng đôi mắt mệt mỏi của về tít phía Tây kia, nơi có mấy cây sồi xanh cao cao nổi bật trời) "Nhìn theo cây gậy của tôi đây, đến tận cùng chỗ thẳng góc với nơi tôi đứng đây, tôi xin ông nhìn cho cái cổng tò vò ở đâu lối vào ấy. Ông thấy nó ở đúng nơi tận cùng của con đường dẫn đến cái đên này. Nếu vậy tôi phải vào trong nhà lấy chìa khoá . Ông cứ bộ ra đó trước , tôi theo kịp ông ngay."

      Thế là Humphreys thả bộ thong dong theo lối dẫn tới đến, qua vườn trước ngôi nhà, qua đoạn đường đất có cỏ mọc tới chỗ cổng tò vò ông Cooper chỉ. rằng ngạc nhiên thấy quanh khu mê cung là tường cao bao bọc, cổng tò vò có cửa sắt khoá chặt, nhớ lại Cooper có chú cấm cho ai vào khu vực này của khu vườn. đứng trước cổng của nó và chờ rất lâu thấy Cooper đến. Suốt mấy phút đứng đọc dòng chữ ở cửa vào, câu châm ngôn "Secretum meum mihi et filiis domus meae – Đây là nơi ở hẻo lánh của tôi và là ngôi nhà của tôi cho các con cháu – và cố gắng nhớ lại xem được trích dẫn từ đâu ra. sốt ruột muốn trèo qua tường vào trong, nhưng chẳng bõ, giả sử mặc bộ quần áo khác kia, hoặc giả cái khóa – cũ kỹ lắm – có thể bẻ được…, có vẻ thế, điên tiết vào cái cửa thế là nó mở ra và cái khóa rơi xuống. mở toang cửa, làm rạp xuống đám cây tầm ma, và vào trong.

      Nó là mê cung của những cây thủy tùng, hình vòng tròn, các hàng rào cây lâu ngày tỉa xén, mọc xum xuê tùm lum cao vọt lên theo chiều rộng cũng như chiều cao vô cùng phi chính thống. Các đường hầu như tắc nghẽn hết. Chỉ còn cách lao vào thục mạng bất chấp bị chà xước, bất chấp các cây tầm ma châm vào da thịt, bất chấp ẩm ướt, Humphreys mới mở được đường. Tuy nhiên, dù hoàn cảnh khó khăn mấy vẫn tin thế nào cũng quay ra được vì đường vào để lại vết tích rất . Từ xưa tới nay chừa vào mê cung nào, vậy là lúc này đây có dịp bổ sung thiếu sót. ẩm ướt tối tăm của nó cũng mùi cỏ lý gia, cành tầm ma bị giẫm nát chỉ là những điều thú vị chứ có gì khác. Chưa thấy cái gì là rối ren phức tạp cả. vào gần tới trung tâm của mê cung (tại sao vẫn chưa thấy ông Cooper đâu), chẳng hề để tâm mình theo con đường nào. Ái chà! Trung tâm đây rồi! Vào được cũng dễ thôi. Ở đây có phần đường cho . Lúc đầu cư tưởng vật trang trí ở trung tâm là chiếc đồng hồ mặt trời, nhưng khi vạch hết các cành mâm xôi và bìm bìm ra, thấy nó phải vật trang trí bình thường. cột đá cao khoảng mét hai, quả cầu kim loại – có lẽ bằng đồng vì phủ lớp gỉ đồng màu xanh – có chữ khắc vào đó, cả hình nữa, ở vòng ngoài, mà khắc rất đẹp là đàng khác.

      Thoáng nhìn vào các hình đó Humphreys nghĩ ngay đến trong những thứ bí mà người ta gọi là thiên cầu [1] từ đây chưa ai moi ra được thông tin nào về thiên đàng cả. Tuy nhiên vì tối quá – có lẽ do ở trong mê cung – chưa nhìn kỳ được cái vật kỳ lạ này, hơn nữa nghe tiếng ông Cooper, vang to như tiếng voi trong rừng rậm. Humphreys gọi ông ta theo lối mở, chẳng mấy chốc ta tới nơi, thở hổn hà, hổn hển, xin lỗi tới tấp vì đến muộn vì tìm được chìa khóa. "Nhưng đây này!" ông "chẳng khác gì tục ngữ , ông vào tới trong lòng của bí cần giúp đỡ hay rèn luyện. Tôi cho là ba, bốn mươi năm nay chưa từng có bước chân người vào đây. Tôi cũng chưa đặt chân vào tới khu cây cối tường rào bao quanh như thế này. Này ông, có câu tục ngữ thế nào ấy nhỉ, về việc thiên thần cũng dám bước chân tới ấy? Trường hợp này càng chứng tỏ câu ấy đúng" Quá quen biết với Ccoper, tuy chưa bao lâu, Humphreys tin rằng ông ta có ý ám chỉ gì xấu, trước nhận định ấy chỉ im, đề nghị nên vào nhà dùng ly trà muộn và để Coper có giờ chơi buổi tối như hẹn. Họ rời mê cung, hầu như dễ dàng trở ra theo lối ban nãy vào.

      Humphreys hỏi khi họ đường về nhà "Ông nghĩ sao về việc chú tôi khóa khu vực này cẩn thận đến thế?"

      Cooper thẳng người lên, Humphreys cảm thấy ông ta sắp sửa thổ lộ điều gì "Chắc hẳn tôi làm ông thất vọng, nhưng tôi chẳng biết tí gì cả. Hồi mới vào làm cho cụ, mười tám năm trước đây, mê cung này giống hệt như bây giờ, lần duy nhất nghe đến là như ông mới nghe con tôi ban sáng. Phu nhân Wardrop – tôi có gì chê bai bà ta cả - viết thư xin phép vào mê cung. Chú của ông đưa tôi xem thư – thư rằng lịch - về phía bà ta thể đòi hỏi gì hơn.'Cooper' cụ bảo 'ông thay mặt tôi trả lời thư này' “Thưa vấng tôi quen làm cả thư ký cho cụ, 'nhưng trả lời như thế nào ạ?” “Gửi lời chào phu nhân, với bà giá như phần đất này do tôi chịu trách nhiệm, tôi mời bà ta vào thăm ngay, đằng này nó đóng chặt từ bao giờ rồi, xin bà đừng cầu, tôi xin cảm ơn nhiều Đó là lời cuối cùng của cụ về cái mê cung ngày. Tôi chẳng còn gì để . “Trừ phi” Cooper thêm sau lát “Có thể, như tôi đoán thôi, cụ ưa gì (ai chẳng có cái mà mình ghét) kỷ niệm về ông nội cụ, người cho lập nên cái mê cung đó. Cụ cố khá kỳ quặc, và du lịch nhiều ghê lắm. đến kỳ Sabbah [2] này, ông có muốn xem bài vị của cố đặt ở nhà thờ giáo khu, sau khi cố chết ít lâu, xem”.

      “Ồ, người có cái thị hiếu xây dựng mê cung như vậy hẳn thích xây cho mình lăng tẩm riêng”.

      hẳn như ông đâu, tôi tin di hài cụ nằm tại nơi đó, trong hầm mộ gia đình đâu! Kể cũng lạ. Tôi đâu đủ cương vị với ông chuyện này! Với lại, sau rốt , ông Humphreys ạ, có gì là quan trọng, cái nơi chôn cất hình hài của thi thể ta ấy, phải ạ?”

      Đến đây họ vào nhà, ức đoán của Cooper bị ngắt quãng.

      Trà được dọn trong thư viện. Cooper lại về đề tài phù hợp với nơi này “ bộ sưu tập sách tuyệt vời! Toàn quyển hay nhất đấy, những người sành sỏi ở vùng này đều bảo thế. Tôi còn nhớ có lần chú ông cho tôi xem quyển toàn tranh các thành phố ngoại quốc, hấp dẫn lắm, phong cách hạng nhất hết. Có quyển sách viết tay, mực tươi như vừa được viết hôm qau, cụ bảo đó là di phẩm của thầy tu nhiều trăm năm trước đây. Bản thân tôi cũng rất quan tâm đến văn học. Chẳng còn gì thú vị bằng sau ngày làm việc nặng nhọc được đọc sách giờ đồng hồ, còn hơn phí thời gian tán dóc ở nhà bạn bè suốt buổi tối – À thôi chết, nhớ ra rồi, tôi phải về đây, vợ tôi lại mè nheo, để phung phí thời gian kiểu đó ở nhà bạn bè tối nay! Tôi phải về ngay, ông Humphreys ạ”

      “Và tôi cũng nhớ ra" Humphreys "nếu ngày mai tôi muốn đưa Cooper xem mê cung, ta phải phát quang chút. Ông bảo ai đó đến làm việc này được ?”

      “Được chứ ạ. Sáng mai vài người dùng liềm và phát quang thành con đường mòn ngay ấy mà, để bây giờ qua ông gác công viên tôi dặn lại, ông khỏi phải tự mình dùng gậy rẽ cây, họ cũng nên đánh dấu đường vào, cắm gậy hay đặt cuộn dây theo chân họ để lúc ra cho dễ”.

      “Ý ông hay quá, xin ông làm việc ấy cho, tôi xin chờ bà và Cooper chiều mai, còn ông, mười giờ rưỡi đúng”.

      “Rất vinh hạnh. Cả vợ và con tôi, và tôi. Xin chào ông, Humphreys. Chúc ông ngủ ngon”.

      Humphreys ăn bữa tôi lúc tám giờ. Vì là buổi tối đầu tiên ở đây, hơn nữa Calton có vẻ muốn chuyện trò, cũng vừa đọc xong quyển truyện mua dọc đường, đành ngồi nghe và trả lời Calton ít câu về hàng xóm láng giềng, mùa trong Nam . Mùa năm nay hợp thời tiết, hàng xóm thay đổi đáng kể - cũng chẳng có hại gì – Calton cả thưở sống ở đây. Cửa hiệu của làng đặc biệt tiến bộ kể từ năm 1870. Nay mua được ở đó khối thứ, rất tiện, ngộ nhỡ đột xuất cần thứ gì Calton có thể chạy xuống đó (nếu như cửa tiệm còn mở) để đặt mua, khỏi vay của nhà mục sư. Ngày xưa chỉ mua được nến, xà phòng, nước mật đường. Sách tranh cho trẻ con giá xu, mà chín mươi lần thứ người ta nên cầu là rượu Whisky kia. Nhìn chung, Humphreys thấy trong tương lai phải chuẩn bị quyển sách.

      Thư viện đúng là nơi để phục vụ cho những giờ buổi tôi sau bữa ăn. Tay cầm nến, miệng ngậm tẩu, lại lại trong phòng lúc, xem đầu đề các cuốn sách. có khuynh hướng ưa thích thư viện cổ, đây chính là dịp để làm quen cách hệ thống với thư viện như thế, vì được biết qua Cooper là có catalog, trừ catalog sơ sài, mục đích để chứng thực di chúc, giờ đây lên catalog hợp lý là cách tiêu giờ thú vị cho mùa đông. Có thể tìm ra kho tàng sách cổ cũng nên, biết đâu có cả bản thảo viết tay, như ông Cooper .

      khảo sát vòng như thế nhận thức ra (cũng như đa số chúng ta trong trường hợp ấy) phần lớn bộ sưu tập sách của chú thể nào đọc nổi. "Nhà xuất bản Cổ văn và các Cha, Các Nghi thức Tôn giáo của Picart, Tạp Văn của Harleian, cứ cho là rất hay , nhưng ai mà đọc Tostatus Abulensis, hoặc Pineda on Job,hoặc quyển nào đại loại như vậy?" nhặt lên quyển sách , giấy khổ bốn, bìa long, các chữ nhãn rơi ra hết. Nhớ ra tách cà phê chờ, ngồi vào chiếc bành rồi mở sách ra. Những lời kết tội nó hoàn toàn dựa cơ sở bề ngoài. Theo nghĩ hẳn đây phải là tập các vở kịch độc nhất vô nhị, nhưng nhìn bên ngoài thấy trống trơn, có vẻ lạnh lẽo và đầy đe doạ.

      Thực tế quyển sách gồm toàn những bài thuyết pháp, những suy tưởng, trang đầu bị xé mất, hình như thuộc nửa sau thế kỷ mười bảy. Lật các trang, mắt bắt gặp lời ghi chú bên lề " chuyện ngụ ngôn cho Hoàn cảnh bất hạnh này", tác giả giàu trí tưởng tượng trong sáng tác. Đoạn này viết "Tôi nghe hoặc đọc được ở đâu đó, hiểu là Truyện Ngụ ngôn hay Chuyện Kể, tuỳ độc giả phán xét, về Người Đàn Ông giống như Theseus [3] trong Attick Tale muốn tự mình phiêu lưu vào mê cung. Loại mê cung được thiết lập theo kiểu của các nghệ sĩ Topiary thời bây giờ, mà theo phạm vi rộng hơn nhiều, có cả hầm bẫy hay cách khác những thứ mang điềm xấu thường núp rất kỹ, gặp hay là tùy may rủi. Người Đàn Ông muốn nghe lời khuyên can của bạn bè. người bảo "Xem kìa, người vào đó, theo lời khuyên của mọi người, thế là ai còn nhìn thấy ta nữa! người Mẹ " người khác chỉ vào trong đó đoạn đường ngắn, lúc ra mất hết cả trí khôn, kể lại được trông thấy cái gì, ban đêm ngủ yên" người láng giềng kêu lên “ nghe kể về những bộ mặt như thế nào nhìn từ qua hàng rào sắt và các chấn song cổng sắt ư?” Nhưng tất cả những lời đó đều ăn thua, Người Đàn Ông vẫn cứ theo mục đích của mình. Bởi vì hình như ở đất nước này, trong những cuộc chuyện trò bên đống lửa người ta thường đồn rằng ở chính giữa trung tâm các mê cung, có thứ đá quý rất đắt tiền và hiếm gặp, người nào tìm thấy nó trở nên giàu có, vậy nên ta kiên gan vào trong đó. Còn gì nữa? Quid multa – Làm gì mà nhiều thế? Thế là Kẻ Phiêu lưu bước qua cổng, và suốt ngày trời bạn bè được tin tức gì của ta, ngoài vài tiếng kêu xa xa trong đêm tối, làm họ trằn trọc trong giường và toát mồ hôi vì sợ, chẳng còn nghi ngờ gì nữa, em họ, con trai họ được ghi thêm vào danh sách những kẻ may đắm thuyền trong cuộc phiêu lưu. Sáng hôm sau họ đến cha xứ ở giáo khu để khóc lóc xin được kéo chuông tưởng niệm. Họ đau đớn qua cánh cổng của mê cung, họ vội vàng cho mau qua vì sợ. Họ trông thấy thi thể nằm vật đồng hoang, họ tới đó (ta biết họ đoán trước được đìều gì) và thấy chính là người thân của họ mà họ tưởng mất hẳn, ta chưa chết nhưng bất tỉnh nhân như người chết. Những người đưa ma vui mừng trở về, tìm mọi cách hồi sức đứa con hoang tàng của họ, người mà tỉnh lại, nghe chuyện mọi người lo lắng chạy lung tung suốt sáng hôm sau đó, rằng: “Thôi các người đừng làm vậy nữa, tôi đem về Ngọc Quý đây ( đua họ xem và quả là ngọc quý ). Tôi mang nó về nhưng từ nay đêm quên ngủ, ngày quên vui" ngay lúc đó họ tưởng họ hiểu ý nghĩa điều , họ tưởng đau ở trong bụng, nhưng bảo “Nó là ở trong ngựcc tôi đây này, tôi sao thoát khỏi được”. Chẳng cần thầy phù thủy tài giỏi nào giúp họ phán đoán, họ cũng biết đó là vì ta nhớ lại những gì trông thấy, nó khiến ta đảo lộn hết cả tâm trí. Suốt thời gian dài họ thấy ở điều gì khác ngoài lên cơn và hoảng hốt. Sau cùng họ tìm mọi phương kế để biết được những điều sau đây: thoạt đầu, lúc mặt trời lên cao chiêu sáng rạng rỡ, vui vẻ tiến tới trung tâm khó khăn gì, và lấy ngay được ngọc quý, sung sướng trở về. Nhưng đêm xuống, lúc các con thú trong rừng hoạt động, cảm thấy có sinh vật cứ cùng với theo tốc độ của , cứ nhìn vào chằm chằm, đứng lại Bạn đồng hành cũng đứng lại, làm hoảng loạn tâm thần. Đêm càng khuya càng cảm thấy có thêm nhiều sinh vật nữa, hầu như cả đoàn tháp tùng . phỏng đoán theo tiếng lột sột, loạt soạt, răng rắc giữa các bụi cây, hơn thế nữa có tiếng thầm lao xao cứ như chúng chuyện trò bàn bạc với nhau. Chúng là ai và hình dáng thế nào, ai thuyết phục được ra là nghĩ gì. Khi được những Người Nghe hỏi: tiếng kêu nghe thấy trong đêm (như ở kia mô tả) cho là tiếng gì, bảo: Khoảng nửa đêm ( ước đoán) có nghe người gọi tên từ rất xa, thề rằng đó là tiếng của người gọi . đứng lại và reo to nhất có thể nhưng có lẽ đó chỉ là tiếng vang, tiếng vọng lại của chính giọng , nó biến dạng thành những tiếng thào chăng, vì sau đó im lặng nghe thấy gì nữa. Sau đó có tiếng chân bước như chạy đàng sau , sợ quá cứ thế cắm đầu chạy và chạy cho đến sáng. Đôi khi, lúc mệt hết hơi ngã sấp mặt xuống, hy vọng Bọn Đuổi Theo chạy vượt quá trong đêm tối, nhưng đúng lúc ấy bọn chúng cũng dừng lại, nghe thấy tiếng chúng thở hổn hển và hít hít như tiếng chó săn. Nó làm khiếp vía đến nỗi những muốn liều đổi hướng hoặc rẽ ngoặt bất thình lình để mong làm sao chúng đánh hơi được . sợ hãi do ráng sức chưa phải là tất cả, còn lo rơi vào cái Bẫy ngầm nào đó mà nghe có nhiều người đến và chính mắt cũng trông thấy có rất nhiều cái lối , cả ở giữa đường lẫn hai bên đường. chưa bao giờ có đêm nào khủng khiếp, ghê gớm hơn cho con người bằng cái đêm chịu đựng ở trong mê cung. Viên Ngọc quý nằm trong ví , đáng quý nhất, hơn hẳn những viên ngọc mang về từ Ấn độ nhưng cũng xứng đáng là phần thưởng đủ bù lại những đau đớn mà phải trải qua”

      “Tôi muốn viết thêm ra đây lời kể của con người rối loạn thần kinh đó, tôi tin thông minh của bạn đọc hiểu được ý tương đương mà tôi muốn đem ra để so sánh. Bởi chẳng phải ngọc quý cũng chỉ là biểu tượng cho thoả mãn mà Người đàn ôntg có thể có được cho mình từ Kho Tàng Những Niềm Vui của Thế giới hay sao? Còn chính mê cung là hình ảnh của bản thân Thế giới trong đó Kho tàng của cải ấy (nếu như ta tin ở tiếng chung) được cất giữ?”

      Đọc tới điểm này Humphreys thấy nên kiên trì thêm chút cho thay đổi khí, còn câu chuyện ngụ ngôn của tác giả có "tiến triển" gì nữa hãy cứ để đấy . đặt quyển sách vào chỗ cũ tự hỏi hiểu chú mình có làm thế hay khi cụ đọc đến đoạn này, nếu vậy, có lẽ nó tác động lên trí tưởng tượng của cụ để mạnh khiến cụ đâm ra ghét cái mê cung và quyết định khoá chặt mê cung trong vườn của mình.

      Sau đó lâu Humphreys vào giường.

      Sáng hôm sau làm việc với ông Cooper khá vất vả, ông này tuy năng hoa mỹ , nhưng công việc điền trang nắm vững hơn đầu ngón tay. Ông ta tỏ ra phấn chấn hồ hởi lắm, hề quên việc phát quang mê cung, công việc được tiến hành ngay, con ông muốn thăm nó mà. Ông cũng hy vọng đêm qua Humphreys ngủ ngon, thời tiết cứ tiếp tục như thế này thích hợp quá. Đến bữa trưa, ông tán sang các bức tranh ở phòng ăn, chỉ vào chân dung người cho xây đền và mê cung. Humphreys lưu tâm nhìn kỹ. Nó là tác phẩm của người Ý, được vẽ khi cụ cố Wilson sang thăm Ý thời còn trẻ (quả nó có nền là các cây cột lớn). Khuôn mặt mỏng tái xanh, đôi mắt to tướng, tay cụ cầm cuộn giấy mở dở, trong đó phân biệt được hình ngôi nhà hình tròn, có lẽ là là cái đền, và phần của mê cung. Humphreys leo hẳn lên cái ghế đứng nhìn cho kỹ nhưng tranh vẽ đủ tỏ tường sao chép lại do đó nghĩ mình phải lập bản đồ khu mê cung trong vườn để cho các khách đến thăm sử dụng, treo bản đồ đó trong sảnh.

      Quyết định này được khẳng định ngay chiều hôm đó vì khi bà Cooper và Cooper sang chơi, rất hăm hở dẫn họ vào xem mê cung, thấy rằng mình thể đưa họ vào đến trung tâm của mê cung. Những người làm vườn sau khi tiến vào bỏ tất cả các mốc họ đánh dấu, ngay cả Cluterham, lúc được gọi đến giúp, cũng chẳng giúp được gì. "Cụ Wilson, tôi muốn cụ Humprheys, cho sắp đặt những mê lộ hoàn toàn giống nhau để khiến cho người ta dễ lạc. Thôi được, tôi cố dẫn lối cho các vị, xin theo tôi. Tôi đặt cái mũ ở đây đánh dấu nơi khởi hành. Ông ta rậm rịch bởi vì và năm phút sau đưa cả đoàn an toàn về lại chỗ cái mũ. "Thế này mới lạ chứ" ông ta cười ngượng nghịu " ràng lúc nãy tôi để cái mũ cây mâm xồi mà nay, các vị thấy , làm gì có bụi cây mâm xôi nào? Ông Humphreys – phải tên ông ạ? Tôi xin được gọi tốp mấy người làm việc sáng nay ở đây, để họ đánh dấu lại"

      William Crack tới, đáp lại việc bị gọi liên tiếp. ta cũng khá khó khăn mới ra được đến chỗ cả đoàn. Lúc đầu người ta nhìn thấy trong lối mé trong, rồi gần như ngay lúc đó, lại thấy xuất con đường mé ngoài. Tuy nhiên cuối cùng cũng tới chỗ đoàn, được hỏi ý kiến cũng lớ ngớ, sau đó được cầu đứng cạnh cái mũ mà Cutterham cho rằng vẫn cứ nên đặt ở dưới đất. Chiến lược ấy cũng chẳng đến đâu, suốt bốn mười nhăm phút họ quanh quẩn trong mê cùng hoàn toàn vô ích, cuối cùng thấy bà Cooper quá mệt, Humphreys đành mời mọi người vào nhà dùng trà và xin lỗi Cooper".

      "Giá nào cũng thắng Foster" "hôm nay ở trong mê cung rồi, tôi hứa việc đầu tiên tôi làm là vẽ bản đồ có hàng lối đánh dấu hẳn hoi để qua." "Vâng thưa ông, tôi thấy đó là điều cần thiết" Clutterham "phải có người vẽ bản đồ có hàng lối. Ai vào đây vô phúc gặp mưa rào chạy ra sao kịp, hàng nhiều tiếng đồng hồ mới ra nổi ấy chứ. ngắn gọn, tôi đề nghị ông, cứ mỗi giờ hàng dọc chặt hai cây cao để có thể nhìn thông suốt vào trong. Ấy làm thế kể chẳng còn gì là mê cung nữa, chẳng hiểu ông có đồng ý ?"

      ", tôi vẽ bản đồ trước , đưa ông bản sao. Để sau hãy hay, khi nào có cơ hội tôi nghĩ đến đề nghị của ông, bây giờ chưa chặt vội"

      Humphreys vừa tự ái vừa xấu hổ về thất bại ban chiều cho nên ngay xẩm tối hôm đó tự làm cuộc thám hiểm mình cho thoả mãn. càng cáu thêm khi tìm ra trung tâm chẳng khó khăn gì. định vẽ bản đồ ngay, nhưng ánh sáng tắt, đem bút giấy vào tới nơi kịp nữa.

      Vì vậy sáng hôm sau, mang theo bảng vẽ, bút chì, compas, giấy bìa cứng.. ( số mượn Cooper và số tìm được trong tủ thư viện), tới thẳng trung tâm mê cung ( hề ngần ngại) bày vật liệu ra. Tuy nhiên chưa bắt đầu công việc ngay. Các cành mâm xôi, cỏ dại phủ quả cầu và cây cột nay được dọn sạch, lần đầu tiên nhìn bên trong. Cái cột có gì đặc biệt, giống những cây cột đó đặt đồng hồ mặt trời. Nhưng quả cầu khác. Tôi có chữ và những hình rất thanh tú khắc đó. Lúc đầu Humphreys tưởng là quả thiên cầu, nhưng mau chóng nhìn ra nó giống với quả thiên cầu mà trước đây được từng nhìn thấy. Chỉ có mỗi hình quen thuộc là con rắn có cánh – Draco – bao quanh quả cầu, tức là ở vị trí đường xích đạo của quả địa cầu, mặt khác, nửa bán cầu phần lớn bị che bởi hai cánh dang rộng của hình thù khá lớn, đầu dưới cái vòng ở chỏm quả cầu. Quanh đầu có thể đọc được mấy chữ Princeps tenebrarum – Hay nhất là ở chỗ tối om. Nửa bán cầu dưới có vùng đầy nét gạch chéo, ghi umbra mortis – bóng đen của xác chết. Gần đó là rặng núi trong có thung lũng, với những ngọn lửa dâng lên. Có cả chữ (chắc bạn ngạc nhiên khi biết) vallis filiorum Hinnom – Thung lũng của các cháu Hinnom. và dưới Draco có rất nhiều hình vẽ khác nhau, khác những tranh về các chòm sao nhưng cũng hẳn giống. người đàn ông trần truồng nâng cây gậy, như Hercules mà như Cain [4] . người nữa, nửa người ngập trong đất, vươn lên hai cánh tay tuyệt vọng ra, là Chore phải Ophiuchus. Người thứ ba, tóc buộc vào cái cây toàn rắn, là Absolon [5] . Gần người cuối cùng là người đàn ông áo dài mũ cao, đứng giữa vòng tròn, với hai con quỷ râu tóc bờm xờm bay lượn phía ngoài, được mô tả như là Hostanes Magys [6] ( nhân vật quen thuộc với Humphreys). Toàn cảnh là tập hợp của các bậc lão thành xấu xa, có lẽ phải là chịu ảnh hưởng của tiểu luận triết học của Dante. Humphreys nghĩ nó thể thị hiếu bất thường của cụ cố , nhưng lại nghĩ có khả năng nó cũng chính là thứ cụ mang về từ nước Ý và chẳng buồn quan sát kỹ bao giờ. Có điều chắc chắn, nếu cụ đánh giá nó rất cao để nó phơi ra nắng gió như thế này. gõ gõ vào kim loại, có vẻ rỗng và dày lắm. Sau đó quay làm công việc của mình. Sau nửa giờ miệt mài, nhận ra nếu có đầu mối công việc thể nào tiến triển được. bèn dùng cuộn dây của Clutterhamm, thả ra dọc theo các lối từ cửa vào cho đến trung tâm, cuối cùng buộc vào cái vòng ở đỉnh quả cầu. Nhờ vậy trước giờ ăn trưa, lập được sơ đồ tàm tạm, ăn xong vẽ lại kỹ hơn. Tới giờ uống trà, Cooper sang gặp , ông phấn khởi trước tiến bộ của "Cái này" ông Cooper , đặt tay lên quả cầu rồi vội rụt tay lại ngay "úi chà! Sao nó giữ nhiệt kinh khủng thế này nhỉ, nhiệt độ cao cách lạ thường ông Humphreys ạ. Tôi cho rằng loại kim khí này – đồng, phải ạ? – là chất dẫn nhiệt, dẫn điện gì đó mà"

      "Chiều nay mặt trời nóng ghê lắm" Humphreys , đá động gì đến khía cạnh khoa học "nhưng tôi đâu thấy nó nóng lắm đâu nhỉ. Đối với tôi nó nóng lắm phải"

      "Kỳ quặc!" Cooper "Giờ tôi đặt nổi tay lên nó nữa. Có lẽ khí chất ông và tôi khác nhau mất rồi, ông Humphreys ạ. Ông lạnh, tôi nóng, nó khác nhau như thế đấy. Suốt cả mùa hè vừa rồi, ông có tin được , tôi ngủ trần đấy nhé, chỉ tắm nước lạnh. Ngày này qua ngày khác…ông để tôi giúp ông cái dây"

      "Ông cứ để đấy, cám ơn ông. Giá như ông gom nhạt lại các bút chì, các thứ nằm kia hay hơn. Thôi ta đủ các vật dụng rồi, về thôi"

      Họ rời mê cung, Humphreys vừa vừa cuộn dây.

      Đêm hôm ấy trời mưa.

      may nhất là, chẳng biết có phải lỗi của ông Cooper hay , tấm sơ đồ bị bỏ quên tại chỗ, nước mưa làm hỏng hết. Chẳng còn cách nào, đành phải vẽ lại (nhưng điều này nhanh thôi). Cuộn dây lại được trải vào chỗ cũ, khởi từ đầu. Tuy nhiên chưa tiến hành được bao nhiêu Humphreys bị ngắt quãng bởi Calton đem tới bức điện tín, ông sếp cũ cần thẩm vấn , rất khẩn cấp nhưng kéo dài. Kể cũng chán, nhưng lấy gì làm nản lòng, trong nửa giờ nữa có chuyến tàu, nếu mọi chuyện thông đồng bén giọt có thể trở về lúc năm giờ, muộn nhất là tám giờ. đưa bản đồ cho Calton cất vào trong nhà. Dây cần cuốn, cứ để nguyên.

      Mọi việc diễn biến như mong đợi. trôi qua buổi tối khá thú vị trong thư viện, thắp đèn xem các cuốn sách quý hiếm. Khi ngủ lấy làm mừng là đầy tớ nhớ cho mở hé rèm và để ngỏ cửa sổ. Tắt đèn xong, ra đứng cạnh cửa sổ trông ra phía sau vườn và công viên. Đêm ấy trăng sáng vằng vặc. Chỉ vài tuần nữa là gió thu về, đâu còn gian yên lặng trong đêm tĩnh mịch này nữa! Giờ đây những khu rừng xa xa chìm trong yên lặng dày đặc, những thảm cỏ thoai thoải lóng lóanh bụi sương, màu sắc hoa cỏ gần như phân biệt được . Ánh trăng soi tỏ chiếc mái nhà của ngôi đền và bờ cong của cái vòng bằng chì. Humphreys phải thừa nhận rằng, qua những gì nhìn, niềm tự hào của thời đại trước quả là cái đẹp thực . Tóm lại ánh sáng, mùi hương của rừng cây, tĩnh mịch tuyệt đối gợi lên bao liên tiếng cổ kính trong tâm hồn , cứ nghiền ngẫm nó lúc lâu. Từ cửa sổ nhìn vào, cảm thấy mình chưa bao giờ được nhìn cảnh đẹp vẹn toàn như vừa rồi. Chỉ có hình ảnh hoà đồng vào quang cảnh chung là cây thủy tùng Ailen , đen, mỏng manh vươn thẳng lên các bực dâu gần cổng vào mê cung. nghĩ, phải chặt bỏ cái cây này . Mà lạ , ai thấy chướng mắt về vị trí của nó.

      Tuy nhiên sáng hôm sau, mải trả lời thư từ, soát lại sách vở với ông Cooper, quên cây thủy tùng Ailen. lá thư mới tới. Thư của phu nhân Wardrop, nó làm nhớ lại bức thư bà viết cho cụ Wilson . Bà giải thích ngay bà sắp ra quyển sách về mê cung, do đó rất muốn đưa vào sách sơ đồ mê cung Wilsthorpe, vậy nếu được ông Humphreys cho bà tham quan nó ngày gần đây bà rất cám ơn, bà sắp ra ngoại quốc nghỉ đông. Nhà bà ở Bentley xa gì lắm, Humphreys cho người đưa thư tay mời bà hôm sau hoặc hôm sau nữa tới thăm, sứ giả mang về lời biết ơn nồng nhiệt, mai bà tới.

      Ngày hôm đó bản đồ mê cung cũng được hoàn tất rất thành công.

      Đêm lại rực rỡ và êm ả, Humphreys cứ tha thẩn bên cửa sổ. Cây thủy tùng lại biểu trong đầu óc khi sắp kéo rèm cửa. Nhưng biết đêm trước nhầm hay cái cây đến nỗi chướng mặt như tưởng. Dù sao, thấy có lý do gì để can thiệp vào đó nữa. Tuy nhiên, có thứ cần loại bỏ, đó là bụi cây mọc um tùm ngay sát tường nhà, có nguy cơ che mất cửa sổ tầng dưới. Xem ra chẳng nên giữ làm gì, vừa ẩm vừa tối, mất vệ sinh, tuy chưa nhìn thấy toàn bộ nó.

      Ngày hôm sau, thứ sáu ( đến Wilsthorpe thứ hai) phu nhân Wardrop xe đến ngay sau giờ ăn trưa. Đó là bà già mập mạp, chuyện nổ như ngô rang, đủ các loại, tỏ ra muốn làm vừa lòng Humphreys, người cho phép bà tới thăm vườn. Họ cùng nhau thăm thú kỹ càng khu vườn, bà đánh giá cao khả năng làm vườn của và rất nhiệt tình với kế hoạch cải tổ vườn tược, nhưng cho rằng nên phá hoại những gì mọc quanh ngôi nhà. Bà đặc biệt thích ngôi đền "Ông Humphreys ạ, tôi nghĩ người quản lý đất đai của ông có lý khi cho rằng những viên đá có chữ này có ý nghĩa gì đó. trong các mê cung của tôi – rất tiếc bị những người ngớ ngẩn phá – là ở Hamsphire, người ta cũng đánh dấu bằng cách ấy. Ở chỗ tôi là những viên ngói, nhưng chữ đó giống như đá của ông đây, sắp đặt cho đúng trình tự trở thành câu – tôi quên mất – về Theseus và Ariadne [7] . Tôi có chép lại. Sơ đồ của mê cung ấy tôi vẫn còn. Ai đời họ làm những việc phá phách như vậy bao giờ. Chắc tôi tha thứ cho ông nếu ông phái cái mê cung này . Ông biết , ngày nay nó trở thành quý hiếm đấy. Năm nào tôi cũng nghe người ta lại phá vài nơi. Thôi bây giờ ta tới mê cung . Nếu ông bận, tôi biết đường sợ lạc đâu bởi tôi biết các mê cung lắm . Mặc dù lần tôi bỏ bữa trưa – cách đây lâu – khi vào mê cung ở Busbury. Còn nếu ông cố gắng cùng được với tôi, càng hay."

      Sau lời mào đầu tin cẩn ấy, người ta cứ tưởng phu nhân Wardrop bị lạc trong mê cung Wilsthorpe này, nhưng , chỉ có điều biết bà có vui mừng thoả lòng mong ước hay . Bà quan tâm tới nó cách thực - còn chỉ cho Humphreys những vết tích cho thấy nơi các hòn đá có chữ nằm, đất chỗ đó hơi bị nén xuống. Bà cũng bảo các mê cung khác giống nơi đây về cách sắp xếp, vàgt cho bằng cách nào người ta tính được tuổi các mê cung trong vòng hai mươi năm qua sơ đồ của chúng. Mê cung này theo bà được thiết lập từ năm 1780. Quả cầu hoàn toàn khiến bà bận trí, bà bị thu hút hết tâm tưởng vào đó. Lần đầu tiên bà biết tới nó, bà nhìn kỹ nó lâu. "Tôi muốn chà xát vào đó xem sao, nếu ông cho phép. Tôi quả muốn tự động làm bất cứ cái gì ở đây và có cảm giác làm như vậy bị oán giận. Thưa ông, ông hãy thú với tôi xem" bà quay lại đối diện với Humphreys "Có phải từ lúc ông đến đây cứ như là có ai đó theo dõi chúng ta, xem ta có quá phạm vi , nếu quá, lập tức bổ xuống đầu chúng ta ngay, ông cảm thấy ư? “Ồ, tôi cảm thấy thế đấy, thôi ta hãy mau mau ra cổng ”.

      "Sau rốt " bà khi hai người đường vào nhà, "có lẽ do ở đó thiếu khí và nóng nực nên trí não tôi bị ảnh hưởng, tuy nhiên có điều tôi cần nhắc lại, mùa xuân sang năm tôi trở về, nếu nơi đây mà bị đào xới lên tôi tha thứ cho ông đâu đấy nhé"

      "Đào xới hay bà cũng có bản đồ của nó rồi còn gì, thưa phu nhân. Tôi hoàn thành, tối nay sao bản cho bà".

      "Tuyệt vời! Tôi chỉ cần bản vẽ chì, có ghi dấu tỉ lệ, để so sánh với các bản đồ của tôi. Cám ơn ông lắm"

      "Vâng, sáng mai bà có nó. Nhưng tôi muốn bà giúp tôi giải mã về các tảng đá"

      "Ở trong nhà nghỉ mùa hè ấy ạ? Đó là câu đố chữ cần sắp xếp có trình tự mà ở đây chưa. Thường người ta đặt những viên đá vào chỗ nào là có ý đồ cả - ông tìm xem trong các giấy tờ của chú ông có tờ nào về chúng . Nếu , tôi tìm cho ông chuyên gia về các chữ đá đó"

      "Xin bà lời khuyên nữa. Cái bụi cây ngay dưới cửa sổ thư viện kia, bà có nhìn thấy ạ?"

      "Bụi cây nào nhỉ? Tôi chẳng thấy gì cả, dù tôi nhìn xa rất tốt"

      "Có lẽ bà đúng, từ cửa sổ tôi nhìn xuống thấy, ngay bên dưới đó, tôi cho rằng nó chiếm mất nhiều chỗ quá, nhưng đúng là từ đây nhìn thấy . Thôi tôi hãy tạm gác lại ".

      Dùng trà xong phu nhân Wardrop về, được nửa đường xuống cổng, bà dừng xe vẫy tay Humphreys lúc này vẫn còn đứng bậc tam cấp. chạy lại "Ông xem thử mặt dưới các tảng đá xem, có thể có đánh số" bà .

      Tối hôm đó thế nào cũng phải hoàn thành bản sao sơ đồ mê cung cho phu nhân Wardrop, mất độ hai giờ là ít nhất, Humphreys đem bút giấy vào thư viện, bắt đầu làm việc. Đêm rất oi bức nhưng yên tĩnh, cửa sổ mở, mấy lần rờn rợn như có con dơi bay vào nên có ý canh chừng cửa sổ. hai lần gì đó cho là phải dơi, cái gì đó to hơn nhiều và có ý định vào tận chỗ . khó chịu nếu có kẻ nào đó lẻn qua bậu cửa sổ vào nhà và lại núp dưới sàn!

      Bản sao vẽ xong, chỉ còn so nó với bản chính và xem các con đường để mở hay đóng lại có đúng cách hay . Hai ngón tay đặt hai tờ giấy, dò dẫm suốt từ cổng vào, có vài chỗ sai sót dọc đường, tuy nhiên vào đến trung tâm rối loạn, có lẽ do có con dơi thứ ba bay vào phòng. Trước khi chữa lại bản sao, theo dõi cẩn thận những chỗ ngoặt cuối cùng của con đường bên bản chính. Những chỗ ngoặt này đúng cả, đưa vào trung tâm vướng mắc nào. Ở đây có điểm mà có lẽ cần sao lại làm gì, vết đen tròn to bằng đồng siling. Mực chăng? phải. Cứ như thể cái lỗ. Làm sao có lỗ ở đây được? Đôi mắt mệt mỏi của nhìn chăm chăm vào đó. Việc vẽ bản đồ rất công phu, buồn ngủ, có cảm giác bị đè nén…Nhưng ràng nó là cái lỗ rất lạ, xuyên sâu qua giấy, qua cả cái bàn rồi qua cả sàn nhà bên dưới, sâu xuống mãi, mãi, mãi như vô tận. thảng thốt, vươn cổ nhìn theo. Cứ tựa như hồi ta còn bé, ta cứ nhìn đăm đăm vào ô vuông con con khăn phủ giường cho tới khi nó biến thành cả quang cảnh với những ngọn đồi có rừng che phủ, có khi còn thấy cả nhà thờ, ta mất hết cả ý niệm về kích thước, cái lỗ trong lúc ấy biến thành thứ duy nhất ở đời này đối với Humphreys. Chẳng hiểu vì lý do gì lúc đầu rất ghét nó, nhưng rồi cứ nhìn vào đó mãi, tuy nhiên cảm thấy lo lắng, cảm giác này ngày càng mạnh hơn, rồi bỗng hoảng hồn, sợ hãi dâng lên trong người , dần dần nỗi tin chắc nó hành hạ đến khổ sở. tin rằng điều khủng khiếp đường đến với khi trông thấy cái điều khủng khiếp đó thể nào thoát được. Phải, tận nơi sâu thẳm kia, động thái chuyển dịch lên phía , lên tận mặt lỗ. Nó cứ lên dần, lên dần và gần lại , màu nó màu đen. phải lỗ mà nhiều lỗ, rồi nó thành hình cái mặt – mặt người – cháy thiêu, cùng với những đau đớn quằn quại đáng ghê tởm của con ong bắp cày bò ra từ quả táo thối, nó leo lên thành hình thù vẫy vẫy hai cánh tay đen ngòm chuẩn bị siết chặt đầu người nhìn xuống.

      Humphreys tuyệt vọng vì hết đường trốn chạy, lên cơn động kinh, giật nửa người ra sau và đập đầu vào cái đèn, ngã lăn ra đất.

      Có chấn động não, hệ thần kinh bị sốc nặng, phải nằm tại giường khá lâu. Bác sĩ hoang mang chẳng hiểu gì cả. phải vì triệu chứng – mà vì lời Humphreys lúc bắt đầu được "Tôi mong ông mở quả cầu (open the ball – cũng có nghĩa là mở cuộc khiêu vũ)" Bác sĩ gắng trả lời như sau "Tôi cho là trong đó chật chỗ quá, nhưng có lẽ đó là việc của ông đúng hơn việc của tôi, chân tôi bây giờ còn nhảy nhót gì nữa". Nghe thế, Humphreys lâm bẩm gì đó rồi quay vào ngủ tiếp, bác sĩ bèn bảo các y tá bệnh nhân chưa qua khỏi nguy hiểm. Khi đủ sức diễn đạt cho mọi người hiểu ý mình, Humphreys ra, mọi người hứa thực ngay. lo lắng bồn chồn chờ kết quả. Sáng hôm sau, bác sĩ trông có vẻ nghĩ ngợi, thấy rằng cho bệnh nhân biết có lợi hơn là gây hại, bảo "Vâng, quả cầu được bổ ra rồi, lớp kim loại mỏng thôi, vừa nện nhát búa đầu tiên nó tan thành từng mảnh ngay" "Ông tiếp " Humphreys sốt ruột "À, ra muốn biết ở trong có gì. nửa nó chất đầy thứ giống như tro" "Tro? Ông làm gì với chỗ tro đó?" "Tôi chưa kịp xem kỹ vì chưa có thời gian, nhưng ông Cooper xác định, tôi dám đó là tro hoả táng người chết…Thôi ông đừng kích động thế, phải, tôi phải rằng ông Cooper đúng đấy".

      Mê cung còn nữa, phu nhân Wardrop tha thứ cho Humphreys, thực tế thành hôn với con bà. Bà đúng. Dưới các tảng đá có đánh số, số mờ, nhưng còn đủ trông để Humphreys sắp xếp theo trình tự thành câu như sau:

      PENETRANS AD INTERIORA MORTIS – LEN LỎI VÀO TỚI TẬN XÁC CHẾT.

      Mặc dù Humpheys rất biết ơn ông chú, nhưng thể tha thứ cho cụ về việc đốt hết nhật ký, thư từ của cụ cố James Wilson, người để lại ngôi đền và mê cung cho chú . Cụ cố chết ra sao và được chôn cất như thế nào, chẳng còn truyền tụng nào hết, nhưng trong di chúc của cụ (chỉ còn mỗi thứ đó trong tay) còn lại phần khá hào phóng cho người đầy tớ mang cái tên Ý.

      Quan điểm của ông Cooper là, về mặt nhân văn mà , tất cả những kiện trang trọng đều có ý nghĩa nào đó với chúng ta mà ta cứ làm chúng tan hoang do đầu óc có hạn. Cụ Wilson vừa rồi còn nhớ lại bà dì – mất – vào năm 1866 có lạc tiếng đồng hồ trong mê cung ở Covent Gardens, nay có lẽ là Hampton Court.

      Chuyện kỳ quặc nhất trong toàn bộ cả loạt việc vừa qua là quyển sách trong có truyện ngụ ngôn tự nhiên biến mất. Sau khi Humphreys chép đoạn văn cho phu nhân xong tìm đâu cũng thấy nó nữa.

      Chú thích:

      [1] Quả cầu đó người ta vẽ bản đồ của trời, khác với quả địa cầu

      [2] Kỳ nghỉ cuối tuần của người Do Thái

      [3] Theseus (thần thoại Hy lạp) – Vua Athènes, giải phóng thành phố khỏi ách của Minos (vua xứ Crète) vì giết được Minotaure, co nquỷ nửa người nửa bò sinh ra từ vợ của Minos (Pasiphae) với con bò mộng. Minotaure bị Minos giam trong mê cung

      [4] Cain: con cả của Adam và Eva, vì ghen với là Abel nên giết

      [5] Absolon: con trai của David (thế kỷ X trước công nguyên) chống lại cha bị thua chạy, tóc vướng vào cái cây và bị treo vào đó nên bị Joab chạy thoe giết chết.

      [6] Hostanes magys: thầy phù thủy Hostanes

      [7] Ariadne (thần thoại Hy lạp) là con của Minos và pasiphae, khi Theseus đến Crete để giết Mindaure, nàng cho Theseus cuộn chỉ để vào mê cung.

    5. Nữ Lâm

      Nữ Lâm Well-Known Member

      Bài viết:
      23,871
      Được thích:
      22,185
      Chương 17: Nơi cư ngụ ở Whitminster

      Tiến sĩ thần học Ashton ngồi trong phòng làm việc, khóac chiếc áo mặt trong nhà, đầu đội chiếc mũ lục che cái đầu cạo nhẵn – bộ tóc giả của ông lúc này đặt cái khuôn đựng mũ ở chiếc bàn bên cạnh. Ông là người độ năm mươi lắm tuổi, cường tráng, mặt đỏ, ánh mắt cáu kỉnh, môi dài. Mặt và mắt ông lúc này được chiếu sáng bởi tia nắng mặt trời buổi chiều chiếu qua cánh cửa sổ cao có khung kính trượt trông ra phía Tây. Gian phòng cũng cao với nhiều giá sách, vách ngăn bằng gỗ. bàn, gần khuỷu tay tiến sĩ là tấm vải xanh để khay đựng lọ mực, ít bút giấy, hai quyển sách bọc da dê, cái tẩu, hộp thuốc lá bằng đồng, bi đông bọc rơm, cốc uống rượu. Đó là vào năm 1730, tháng mười hai, hơn ba giờ chiều.

      Những điều tôi mô tả khác gì được ai đó hé cửa nhìn vào. Từ trong chiếc ghế bành da, nếu tiến sĩ Ashton nhìn ra thấy gì? Ngọn số bụi cây và cây ăn quả trong vườn, toàn bộ bức tường gạch đỏ nằm suốt chiều dài phía Tây khu vườn. Có cánh cổng sắt chạm trổ công phu cho phép tầm nhìn mở ra xa hơn. Mặt đất đổ thoai thoải xuống tận đáy con suối chảy qua, sau đó lại dốc ngược lên ở phía bờ bên kia lên cánh đồng trông giống công viên, dày đặc các cây sồi lúc này trơ lá, qua khe các thân cây thấy được bầu trời màu vàng và chân trời màu tím với những cánh rừng ở xa xa.

      Nhưng tất cả những gì tiến sĩ Ashton ra lúc này trong khi ngắm quang cảnh trong nhiều phút, chỉ là "Tồi tệ quá!".

      Sau câu đó ta nghe có tiếng bước chân bước về phía phòng làm việc. Tiếng vang của nó chứng tỏ người đến băng qua gian phòng rộng hơn. Tiến sĩ Ashton quay ghế nhìn ra, vẻ chờ đợi. Người bước vào là phu nhân mập mạp mặc quần áo thời bấy giờ. Lúc nãy tôi mô tả quần áo ông tiến sĩ này lo đến quần áo vợ ông làm gì, bởi đó chính là bà Ashton. Khuôn mặt lo lắng, cái nhìn lơ đãng buồn thương, bà Ashton cúi sát xuống chồng, thào " , nó nặng lắm rồi, em nghĩ thế!" "Nặng lắm rồi sao?" Ông dựa người ra sau nhìn thẳng vào mặt bà. Bà gật đầu. Hai tiếng chuông nghiêm nghị ngân lên cao vút ở xa lắm, báo hiệu nửa giờ đồng hồ. Bà Ashton giật mình "Ồ, có thể ra lệnh cho đồng hồ nhà thờ tu viện ngừng gõ chuông đêm nay được ? Đồng hồ ở ngay phòng nó làm nó mất cả ngủ mà chỉ có giấc ngủ là hy vọng duy nhất lúc này." "Vậy ư? Nếu như vậy có thể được nhưng chỉ là trường hợp hạn hữu. Em cho là Frank có cơ may sống được nhờ yên tĩnh sao?"

      Giọng tiến sĩ Ashton to và cứng ngắc. "Em tin như vậy," vợ ông đáp. "Vậy được, bảo Molly chạy sang Simpkins tôi ra lệnh cho chuông đồng hồ ngừng gõ kể từ lúc mặt trời lặn. Sau đó, phải, sau đó gọi Lord Saul đến ngay phòng này gặp tôi." Bà Ashton vội chạy .

      Trước khi có người khách nào khác đến đây, xin được giải thích hoàn cảnh.

      Tiến sĩ Ashton là người được hưởng lộc thánh của nhà thờ thuộc học viện tu viện Whitminster, trong những cơ ngơi sống sót qua cả thời Giải thể lẫn thời Cải cách, kể các thể chế lẫn các khoản trợ cấp cũng vẫn còn tồn tại. Mặc dù đây phải là nhà thờ lớn, nhưng nơi ở của tu viện trưởng và hai giáo sĩ được hưởng lộc thánh, khu đồng ca và các vật dụng phụ vẫn nguyên vẹn hề suy suyển. tu viện trưởng năm 1500 là nhà xây dựng tích cực, cho xây khu vuông vắn bằng gạch đỏ nối liền với nhà thờ dùng làm nhà ở cho các nhân viên. số người sau này còn cần thiết cho nhà thờ và tu viện nữa do đó nơi ở của họ tan hoang chỉ còn lại gạch ngói, nay thuộc quyền các giáo sĩ, luật sư tỉnh. Vậy là những căn nhà đủ cho tám đến mười người ở nay thuộc về ba người – tu viện trưởng và hai giáo sĩ được hưởng lộc thánh. Nhà của tiến sĩ Ashton gồm hành lang chung trước kia, cùng phòng ăn lớn của toàn bộ khu ngụ cư, bao gồm cả nửa sân, cuối sân có cửa vào nhà thờ tuổi viện, cửa kia, như ta biết, trông ra cánh đồng.

      Ngôi nhà cũng vậy. Về những người ở cùng, vì tiến sĩ Ashton khá giả lại có con cái, do đó ông nhận làm con nuôi, hay chịu trách nhiệm nuôi dưỡng, đứa trẻ mồ côi con em vợ, tên là Frank Sydall. Thằng bé đến ở trong căn nhà này từ nhiều tháng nay. Rồi ngày kia có lá thư từ vị quý tộc Ireland, tức là bá tước Kildonan (học cùng với tiến sĩ Ashton ở trường đại học) hỏi xem tiến sĩ có thể cho đứa con trai thừa tự duy nhất là Tử tước Saul đến ở trong gia đình để tiến sĩ làm giám hộ cho nó được . Ngài Kildonan sắp Lisbon nhậm chức trong sứ quán, thằng bé phù hợp với chuyến này. " phải vì cháu đủ sức khoẻ, mặc dù ông thấy tính khí cháu rất bất thường" (gần đây tôi nghi ngờ và bây giờ khẳng định điều đó). Bà vú già của nó bảo tôi là nó bị ma ám nhưng thôi, để tiến sĩ xác định đó là cái gì. Cánh tay tiến sĩ xưa mạnh, nay tôi dành thẩm quyền cho ông cần làm gì cứ làm. Thực tế nó chẳng có bạn cùng tuổi để chơi, thành ra cứ ủ rũ lang thang trong các tầng hầm, các nghĩa địa. Từ đấy tha về các chuyện kinh khủng làm bọn đầy tớ của chúng tôi hết hồn. vậy là xin trước với vợ chồng ông như vậy" có lẽ họ thấy khả năng vị trí giám mục ở Ireland (ám chỉ bởi câu trong thư của Bá tước) mà tiến sĩ Ashton nhận trách nhiệm giám hộ Tử tước Saul với hai trăm ghi nê năm trong năm tới.

      Thế là vào đêm tháng Chín, cậu tử tước đến. Ra khỏi xe ngựa, trước tiên cậu đến chuyện và cho tiền đứa đưa thư, sau đó vỗ vào cổ con ngựa. chẳng biết có phải con ngựa sợ hay , nhưng suýt xảy ra tai nạn hiểm nghèo vì con vật chồm lên, người dẫn ngựa trạm bị quật xuống đất, rơi mất tiền thù lao, mãi sau này ta mới phát ra, cột cổng bị tróc sơn, bánh xe chẹt và chân người trong nhà ra xách hành lý. Khi Lord Saul bước lên bậc tam cấp có ánh sáng đèn cổng soi vào, cậu được tiến sĩ Ashton ra đón. Cậu ta mười sáu tuổi, gày xanh, tóc đen bóng. Trước tai nạn vừa qua, cậu khá bình tĩnh và tỏ ra lo lắng cho người bị đau. Giọng cậu nhàng, vì, sắc Ireland mới lạ chứ!

      Frank Sydall là đứa trẻ tuổi hơn, mới mười , mười hai nhưng Lord Saul sẵn sàng chơi với em. Em dạy cho Saul những trò ở Ireland có, cậu học những trò này dễ dàng, cậu học chữ cũng dễ dàng tuy ở nhà chẳng thấy cậu cầm sách vở mấy khi. Chẳng mấy chốc cậu tìm phương cách giải hết các chữ các tấm bia mộ trong sân nhà thờ, đôi khi đặt những câu hỏi khá hóc búa cho ông tiến sĩ Ashton về sách vở trong thư viện. Đầy tớ thích cậu, chỉ mười ngày sau khi cậu tới, chúng răm rắp làm vừa lòng cậu. Bà Ashton thời gian này phải thay nhiều đầy tớ , gần tỉnh có, phải khá xa mới mướn được.

      Những việc tổng thể này tôi biết được qua nhật ký và thư từ của tiến sĩ. Ngoài ra còn những việc gay cấn và chi tiết hơn biết được qua những đoạn ghi chép hồi cuối năm, sau tai nạn cuối cùng, thực ra nó xảy ra trong số ít ngày thôi nhưng người viết nhớ cụ thể ngày tháng.

      Vào sáng thứ sáu, chồn hay mèo cắp mất con gà trống non màu đen rất quý của bà Ashton, nó đen tuyền, chiếc lông trắng nào. Chồng bà nó là vật hy sinh rất thích hợp cho Aesculapius – vị thần La Mã trông coi về y học. Bà rất khó chịu, nay gì an ủi được bà. Hai đứa tìm khắp nơi. Lord Saul đem về nắm lông có vẻ như bị đốt phần trong đống rác sau vườn. Ngay hôm ấy nhìn qua cửa sổ, tiến sĩ Ashton bắt gặp hai đứa trẻ chơi ở góc vườn trò mà ông hiểu. Frank hăm hở nhìn vào vật gì đó cầm trong lòng bàn tay. Saul đứng đàng sau nó, nghe ngóng.

      Sau vài phút cậu nhàng đặt bàn tay lên đầu Frank và ngay lập tức, Frank bỏ rơi luôn thứ cầm trong tay, hai bàn tay vỗ lên hai mắt rồi lăn đùng xuống cỏ. Saul, mặt mày lộ vẻ giận dữ, vội vã nhặt ngay cái vật đó lên (ông chỉ nhìn thấy nó lấp lánh) đút vào túi, bỏ , để mặc Frank phủ phục dưới đất. Tiến sĩ Ashton gõ vào cửa kính để chúng biết có mặt của ông, Saul nhìn lên hoảng hốt chạy lại chỗ Frank nhấc cánh tay nó lôi . Tới bữa ăn tôi, Saul giải thích chúng đóng vai với nhau đoạn trong vở bi kịch của Radamistus, trong đó vai nữ chính đọc được tương lai của vương quốc cha nhờ quả cầu thủy tinh cầm trong tay nên quá hoảng hốt vì tin này. Trong khi đó Frank chỉ hoang mang nhìn lên Saul, gì. Ông Ashton nghĩ, có lẽ nó bị lạnh do ngã xuống cỏ ướt, bởi vì sẩm tối nó bắt đầu sốt, vừa khó ở, vừa rối loạn tinh thần, hình như có việc cần với bà Ashton, mà hôm ấy bà lại có những việc nhà khẩn cấp lưu tâm đến nó được. Thế rồi đến lúc tối, khi bà vào phòng nó xem đèn được mang chưa và chúc nó ngủ ngon thấy nó ngủ nhưng mặt đỏ bừng khác thường, trong khi Saul tái xanh nằm thiu thiu, mỉm cười lặng lẽ.

      Sáng hôm sau tiến sĩ Ashton bận công việc bên nhà thờ dạy học cho hai cậu con trai được, giao cho chúng viết bài đưa nộp. hơn ba lần Frank gõ cửa phòng làm việc của ông, nhưng ông đều bận khách, gạt nó ra khá cộc cằn, sau này ông ân hận mãi. Tối có hai giáo sĩ tới ăn cơm, cả hai vị - đều làm cha – thấy thằng bé sốt cần cho vào giường ngay. Lúc cuối giờ buổi chiều nó ra ngoài hốt hoảng chạy vào trong nhà, kêu liên tục vẻ khủng khiếp và cứ ôm chặt lấy bà Ashton nhờ bà bảo vệ nó. "Đừng cho chúng lại gần! Đuổi chúng ra xa !" Bây giờ ràng là nó ốm nặng rồi. Nó được đưa vào căn buồng phải buồng nó mọi khi vẫn nằm, bác sĩ được mới tới. Tuyên bố nó bị rối loạn não do trận ốm, tiên lượng rất xấu cần giữ yên tĩnh tuyệt đối và cho uống thuốc an thần.

      Bây giờ ta trở lại lúc đầu. chuông đồng hồ thôi đánh giờ nữa. Lord Saul đứng trước ngưỡng cửa phòng làm việc của tiến sĩ Ashton.

      Tiến sĩ Ashton hỏi :"Tình trạng thằng bé như vậy, cậu giải thích ra sao đây?"

      "Thưa ông mà tôi có biết hơn ông chút, ngoài những gì ông thấy hôm qua. Tuy nhiên tôi tự trách mình làm nó sợ. Khi chúng tôi đóng vở kịch ấy. Hơn nữa tôi làm nó nhập tâm quá mức số điều."

      "Thế là thế nào?"

      "Tôi có kể cho nó nghe những chuyện ở Ireland mà chúng tôi gọi là khả năng nhìn thứ hai"

      "Khả năng nhìn thứ hai? Là cái gì vậy?"

      "Thưa ông, dân chúng ngu muội của chúng tôi cho rằng có số người có thể nhìn thấy trước những chuyện xảy ra – qua cái cốt thủy tinh, hay qua khí chẳng hạn. Ở Kildoan có bà già tự cho mình có quyền lực ấy. Có lẽ tôi cường điệu vấn đề lên quá. Tôi có ngờ đâu nó bị tác động mạnh đến vậy"

      "Cậu sai lầm. cậu sai lầm quá đấy khi đắm vào những chuyện mê tín dị đoan ấy, cậu nên nhớ cậu ở đây là trong nhà ai, tính cách và con người tôi ưa những chuyện như vậy. Nhưng thôi, cậu hãy cho tôi biết việc cậu làm, như cậu , là cái vở kịch ấy, vì sao lại khiến cho Frank sợ hãi đến thế?"

      "Thưa ông, quả tôi thể biết được. Chỉ trong lúc nó huênh hoang đủ mọi chuyện từ chiến trận đến những người tình, đến Cleodora và Antigenes, rồi đến những gì gì nữa tôi theo dõi kịp, cuối cùng nó giống như ông trông thấy đấy"

      "Phải, cái lúc cậu đặt tay lên đầu nó chứ gì?"

      Lúc này Lord Saul nhìn vội lên người lục vấn mình cái – nhìn hằn học và rất nhanh ai nhận biết – lần đầu tiên cậu ta chưa sẵn sàng có câu trả lời.

      "Có thể là đúng lúc ấy đấy ạ, tôi cố nhớ lại nhưng quên cả, thực ra những hành động tôi làm lúc dó chẳng có ý nghĩa gì"

      "Ái chà, phải, thưa cậu, cậu biết cho là vì sợ hãi đó mà Frank phải chịu những hậu quả tai hại. Bác sĩ tình trạng nó rất đáng nản lòng"

      Lord Saul xoắn vặn hai tay vào nhau nhìn Tiến sĩ Ashton khẩn thiết.

      "Tôi tin là cậu có ý định xấu, chắc chắn cậu chẳng có lý do gì mà chơi ác nó, nhưng tôi thể hoàn toàn trách cứ cậu trong câu chuyện này"

      Trong khi ông , lại có tiếng bước chân dồn dập tới, bà Ashton bước vào tay cầm cây nến, lúc này nửa đêm, bà hoảng sợ và bối rối ghê lắm, bà kêu lên "Lại đây ông ơi, nó rồi!"

      "! Frank ấy ư? Có thể như thế được chăng?"

      Thốt ra vài lời đầu đuôi, ông tiến sĩ cầm quyển Kinh thánh chạy theo vợ. Lord Saul đứng lại tại chỗ lúc. đầy tớ Molly nhìn thấy cậu ta cúi gập người lấy hai tay bưng mặt. Về sau kể lại, chính là cậu ta hết sức kìm nén trận cười phá lên. Sau đó Saul mới nhàng ra, theo sau mọi người.

      Quả đáng buồn, bà Ashton tiên lượng đúng. Tôi muốn kể những chi tiết của cảnh trí cuối cùng này ở đây. Những gì tiến sĩ Ashton ghi lại vô cùng quan trọng cho câu chuyện này. Họ hỏi Frank có muốn gặp bạn lần nữa . Có vẻ như thằng bé hết sức tập trung tư tưởng, trả lời ", cháu muốn gặp nó, nhưng hai bác bảo hộ cháu rằng cháu sợ nó bị lạnh đấy." "Cháu thế là nghĩa thế nào hả cháu?" bà Ashton hỏi. "Chỉ có thế thôi" Frank "nhưng hai bác cũng bảo nó là từ nay cháu thóat khỏi chúng rồi, nhưng nó phải cẩn thận. Cháu rất tiếc về con gà trống đen của bác, bác Ashton ạ, nhưng nó bảo là phải dùng con gà ấy nếu như chúng cháu muốn nhìn được những gì muốn nhìn"

      Nhiều phút sau Frank qua đời. Ông bà Ashton đau buồn vô kể, nhất là bà Ashton, nhưng tiến sĩ, vốn phải người dễ động lòng, cảm thấy được bệnh học của cái chết đột ngột này. Ông cũng nghi ngờ Saul hết với ông. Có cái gì đó thuộc sở trường của ông. Rời căn phòng người chết, ông qua khu nhà vuông vắn sang chỗ người trông nom nhà thờ và nghĩa địa. hồi chuông gióng giả báo tin có người chết, cái chuông lớn của nhà thờ rung lên, cái huyệt được đào trong sân nhà thờ tu viện. Từ bây giờ, đông hồ có thể đánh chuông báo giờ được rồi.

      Chầm chậm trở về nhà trong bóng tối, ông nghĩ thế nào cũng phải gặp Lord Saul lần nữa. Vấn đề con gà trống màu đen cần được làm sáng tỏ. Cũng có thể chỉ do trí tưởng tượng của thằng bé đau ốm, nhưng nếu , rất có thể đó là cuộc thử nghiệm phép phù thủy như ông từng đọc qua trong sách, muốn vậy phải có con vật làm vật hy sinh trong nghi lễ cúng thần. Phải, ông phải.

      Tôi đoán ra những ý nghĩ này của ông đúng hơn là biết qua những lời ông ghi chép lại. Cuộc chạm trán lần thứ hai ắt là phải có, và cũng ắt là Saul làm sáng tỏ gì hơn những lời của Frank. Tuy nhiên, lời dặn lại của Frank làm cho Saul sởn người, cậu bị tác động ghê gớm. Dù vậy có đoạn nào ghi chép chi tiết cuộc chuyện giữa hai người. Chỉ thấy cả buổi tối Saul ngồi trong thư viện và khi chào tiến sĩ Ashton để ngủ cậu ta tỏ ra hết sức miễn cưỡng, lại còn hỏi mượn quyển kinh của ông.

      Tháng Giêng sắp hết Lord Kildonam ở đại sứ quán tại Lisbon nhận được bức thư lần đầu tiên gửi cho người đàn ông vô tích và người cha sao lãng bổn phận này bồn chôn rối loạn. Saul chết. Còn về đám tang của Frank, cảnh tượng rất não lòng. Trời tối sầm và nổi gió. Những người đưa tang loạng choạng trong bóng tối mờ mịt dưới lớp vải phủ quan tài bay phần phật, họ vô cùng vất vả mới tới được cánh cổng nhà thờ dẫn ra nghĩa địa. Bà Ashton ở lại trong phòng phụ, đưa tang người thân của mình, nhưng Saul có mặt, trùm áo khoác tang thời ấy, mặt nó trắng nhợt và bất động như mặt người chết, ba bốn lần chợt quay mình đột ngột sang trái nhìn qua vai. Mặt nó biểu lộ vẻ kinh khiếp như vừa nghe thấy điều gì đáng sợ. ai nhìn thấy nó bỏ , tối đó tìm nó ở đâu cũng thấy. Cả đêm gió mạnh, đập ầm ầm vào cửa sổ nhà thờ, gào thét qua các cánh rừng. Tìm ngoài trời tìm nổi. Giả sử kêu lên cấp cứu cũng chả ai nghe thấy. Tiến sĩ Ashton thông báo cho mọi người trong học viện của tu viện biết, cả các cảnh sát của thị trấn nữa, ông thức suốt đêm chờ tin tức. Sáng sớm hôm sau có tin do người coi nhà thờ và nghĩa trang nhà thờ thông báo nhiệm vụ của ông này là mở cửa nhà thờ lúc bảy giờ cho những người đến cầu kinh sớm, ông ta sai tớ mặt dại vì sợ, tóc tai dựng ngược, chạy lên gác mời ông chủ. Hai người băng qua sân vọt sang cánh cửa phía nam tu viện thấy Lord Saul trong tư thế tuyệt vọng nắm chặt lấy cái vòng lớn của cánh cửa, đầu rụt vào hai vai, tất rách tả tơi, giày còn, chân rướm máu và bị xé nát nhiều chỗ.

      Tất cả được kể lại cho Lord Kildonan nghe và đến đây chấm dứt phần đầu câu chuyện. Mộ của Frank Sydall và tử tước Saul, con trai duy nhất, người thừa kế của bá tước William Kildonan, được chung vào làm , có chung tấm bia mộ bằng đá, nằm trong sân nhà thờ Whitminster.

      Tiến sĩ Ashton sống thêm ba mươi năm nữa, cuộc đời êm ả như thế nào nhưng thấy có gì là bị khuấy động. Người kế nhiệm ông có nhà riêng thị trấn cho nên căn nhà của ông bỏ trống. Cả hai người cùng được nhìn thế kỷ mười tám qua cũng như thế kỷ mười chín bước tới, bởi ông Hindes, người kế nhiệm ông Ashton, trở thành giáo sĩ được hưởng ân huệ Chúa năm hai mươi chín tuổi và chế năm tám mươi chín tuổi. Vì vậy cho nên đến năm 1823 hoặc 1824 người kế nhiệm lúc đó mới có ý định đến ở căn nhà. Đó là tiến sĩ Henry Oldys, tên ông ta có lẽ nhiều bạn đọc biết vì ông là tác giả bộ sách nhiều tập có tên là Oldys's Works rất được trân trọng, do rất ít người động đến nó cho nên nó nằm yên giá sách của nhiều thư viện trọng yếu.

      Tiến sĩ Oldys, cháu và các đầy tớ bỏ ra nhiều tháng để chuyển đồ đạc và sách vở từ nhà cha xứ Dorsetshire tới sân trong nơi cư ngụ ở Whitminster và xếp đặt mọi thứ đâu ra đấy. cuối cùng mọi việc xong xuôi, căn nhà (tuy có ai ở vẫn được giữ sạch bị thời tiết làm hư hại) sống lại, và giống như toà nhà của Monte-Cristo ở Auteuil, nó sống, hát ca, nở hoa lần nữa. Vào buổi sáng tháng Sáu, trông nó đặc biệt tuyệt đẹp, lúc ấy tiến sĩ Oldys dạo trong vườn trước bữa điểm tâm, nhìn lên mái ngói màu đỏ phía gác chuông nhà thờ tu viện với bốn chong chóng gió in nền trời xanh thẳm bồng bềnh những đám mây trắng.

      "Mary" ông khi ngồi xuống bàn ăn sáng, đặt vật cứng và sáng lóng lánh khăn trải bàn "Thằng ở mới tìm thấy vật này. Cháu thông minh sắc sảo hơn vậy hẳn cháu biết nó là cái gì."

      “Đó là miếng thủy tinh tròn, nhẵn, dày độ khoảng centimet rưỡi trong suốt. Mary : "Vật này trông hấp dẫn đấy chứ!"

      Mary là phụ nữ xinh đẹp, tóc nhạt màu, mắt to, xem ra là người đọc sách nhiều.

      "Phải" chú bảo "Chú cũng nghĩ là cháu thích nó. Nó là từ trong nhà này ra, nằm trong đống rác ở góc sân kia"

      "Cháu dám chắc có thích nó ," vài phút sau Mary .

      "Tại sao hả cháu?"

      "Cháu cũng biết nữa. Có lẽ tưởng tượng ra thôi."

      "Phải, dĩ nhiên, tưởng tượng và lãng mạn. Tên quyển sách ấy là gì nhỉ? Mà cháu đọc hôm qua ấy?"

      "Bùa ngải ạ. Ồ, nếu nó là thứ bùa ngải hay đấy."

      "Phải, bùa. À thế ra cháu thích nó rồi, dù nó là cái gì chăng nữa. Thôi, chú có công việc phải đây. Nhà cửa thế nào? Cháu có hài lòng ? Đầy tớ có kêu ca gì ?"

      " ạ. căn nhà nào duyên dáng hơn. Chỉ có mỗi điều đáng nghi thôi. Họ phàn nàn là tủ khăn giường và đồ vải mở được khoá – cháu với chú rồi. Ngoài ra bà Marple bảo là sao xua được những con ong cắn lá [1] ra khỏi căn phòng chú vẫn qua ở cuối gian sảnh ấy. À, chú có thích phòng ngủ của chú ạ? Cách xa tất cả mọi căn phòng khác."

      "Có thích hay ấy ư? Nhất định là có. Chú xin lỗi nhé, càng xa phòng cháu càng tốt. Còn lũ ong? Chúng có nhấm áo khoác của chú ? nếu , cứ để chúng trong phòng ấy. Ta có dùng đến đâu?"

      "Ồ, ạ. Những con ong bà Marple bảo là những con màu đỏ giống loài chân dài, nhưng hơn, nhiều vô kể, chúng cứ đậu, nhòm vào gian phòng, cháu chẳng ưa gì chúng nhưng có lẽ chúng chẳng làm hại ai."

      "Buổi sáng đẹp trời hôm nay cháu thích nhiều thứ đấy nhỉ?" Ông chú , khép cửa ra. Oldys ngồi yên ghế nhìn vào miếng thủy tinh cầm trong tay. Nụ cười môi tắt dần nét mắt chuyển sang tò mò và căng thẳng. mơ màng bà Marple bước vào, vẫn mở đầu bằng câu mọi khi "xin phép với phút được ạ?".

      Lá thư sau đây mà Oldys viết cho bạn Lichfield hai ngày trước đó, là nguồn khác của câu chuyện. Nó tỏ ra người viết có chịu ảnh hưởng của này, người lãnh đạo tư tưởng phụ nừ thời ấy, từ khi Anna Seward còn được mệnh danh là "con thiên nga của Lichfield ."

      "Hẳn Emily dễ thương của tôi vui lắm khi được biết cuối cùng chú tôi và tôi dọn tới căn nhà mà ở đây người ta gọi chúng tôi là ông chủ và chủ - cứ như thời xa xưa vậy. Tại đây chúng tôi được thưởng thức bầu khí thanh lịch đại cùng lúc với cổ kính hoang dà làm cuộc sống của chúng tôi êm dịu. Thị trấn nhưng thể chân thức – tuy mờ nhạt thôi – mối giao lưu ngọt ngào giữa vài làng quê san sát, xen lẫn với vài toà nhà nằm rải rác được tân trang hàng năm do tiếp thu cái huy hoàng của tỉnh thành, và số ngôi nhà lớn sang trọng khác vừa bề thế vừa ấm áp hiền hoà, tạo nên đôi lập có thể chấp nhận được và kém phần vui mắt. Chúng tôi chán những hành lang, phòng khách của bạn bè, sẵn sàng lui về dật tránh những chuyện tranh khôn, ngồi lê đôi mách, để trú ngụ giữa vẻ đẹp trang nghiêm của nhà thờ tu viện với tiếng chuông trong như tiếng bạc, hàng ngày nhắc nhở chúng tôi lời cầu nguyện, để dạo đấy bóng cây trong nghĩa địa của nhà thờ làm tâm hồn chúng tôi dịu , thỉnh thoảng chúng khiến mắt chúng tôi mờ lệ trước những tấm bia mộ của những người trẻ, người đẹp, người già, người khôn ngoan và người tốt bụng."

      Đến đây tự nhiên đứt hẳn cả dòng chữ lẫn phong thái viết "nhưng bạn Emily thân mến nhất ơi, tôi thể viết tiếp cho bạn theo kiểu chăm chú thận trọng xứng đáng để bạn đọc, phong cách mà cả hai ta đều ưa thích. Điều tôi muốn kể bạn nghe hoàn toàn khác với mấy ngày trước đây. Sáng nay lúc tới ăn điểm tâm, chú tôi có đem vào vật từ ngoài vườn, miếng thủy tinh hay pha lê gì đó dáng như thế này nà (có hình vẽ sơ) đưa cho tôi xem. Chú tôi khỏi, vật đó vẫn nằm trong tay tôi lúc lâu. Tôi nhìn đăm đăm vào đó, suốt mấy phút, chẳng biết vì lý do gì, cho đến lúc bị gọi giải quyết số công việc nội trợ. Hẳn bạn tin khi tôi là hình như trong miếng thủy tinh đó bắt đầu xuất những cảnh có trong gian phòng tôi ngồi. Chắc hẳn bạn ngạc nhiên khi thấy tôi cứ có điều kiện cái là ngay vào buồng riêng với cái vật tôi nghĩ là bùa ngải có nhiều sức mạnh. Tôi thất vọng. Bảo đảm với bạn, Emily ạ, vì tình thân nhất giữa chúng ta, những gì tôi trải qua chiều nay vượt quá giới hạn cái điều mà trước đây tôi cho là đáng tin. Tóm lại, những gì tôi nhìn thấy, khi ngồi trong phòng ngủ giữa ban ngày ban mặt của mùa hè, nhìn sâu vào miếng thủy tinh bé tròn trặn ấy, là như sau. Trước tiên, quang cảnh rất lạ, khoảnh đất có rào bao quanh ở nơi đồi núi có cỏ mọc, chính giữa là đống đổ nát bằng đá xám và bức tường đá thô thiển vây bọc xung quanh. Đứng trong khung cảnh đó là mụ già vô cùng xấu xí mặc áo khoác đỏ, váy rách tả tơi, chuyện với đứa bé ăn mặc theo kiểu trăm năm về trước. Mụ đặt cái gì đó lóng lánh vào bàn tay cậu bé, cậu ta đưa vào tay mụ ta thứ mà tôi nhìn ra là tiền vì có đồng rơi xuống cỏ từ bàn tay run run của mụ. Cảnh đó hết. Tôi còn có thêm nhận xét nữa là tường của khoảnh đất gồ ghề ấy có những mẩu xương nằm lung tung, trong đó cỏ cả cái sọ người. Cảnh sau là hai cậu bé. là cậu bé lúc trước, hai là cậu hơn, đứng trong khu vườn có tường vây quanh, và tuy khu vườn bố trí có khác , cây cối chưa cao to lắm tôi vẫn nhận ra đó chính là khu vườn tôi nhìn thấy từ cửa sổ phòng tôi. Có vẻ như hai đứa chơi trò chơi. Dưới đất lửa cháy ầm ĩ. Thằng lớn đưa hai bàn tay chắp lại đó rồi nâng lên như thể cầu nguyện, tôi giật mình thấy hai bàn tay nó vấy những vệt máu. Trời đầy mây. Vẫn thằng bé này quay mặt về bức tường bao quanh vườn, dùng hai tay giơ lên vẫy, tự nhiên thấy có cái gì động đậy bờ tường – là đầu hay mình, chân, tay của con vật hay người. lát sau thằng lớn quay ngoắt người lại nắm lấy cánh tay thằng (lúc này nhìn chăm chăm vào vật nằm dưới đất), cả hai vội vã chạy . Tôi nhìn thấy vết máu cỏ, đống gạch con con, lông vũ bay rải rác. Cảnh này hết. Cảnh sau đen ngòm tôi thấy có ý nghĩa gì, nhưng hình như tôi nhìn thấy hình dáng nằm phủ phục giữa các bụi cây và các cây cao, gió mạnh đập vào nó phần phật, nó chạy và cứ thường xuyên quay lại nhìn sau vai tựa như sợ có ai đuổi theo và quả có những kẻ đuổi nó sát đằng sau, hình thù chúng mờ mịt thôi – độ ba, bốn kẻ như vậy – tôi đoán như thế, nhìn chung giống những con chó, nhưng lại phải là chó, giả sử nhắm được mắt lại tôi cũng nhắm, nhưng làm sao thực được. Nạn nhân lao vào cái cổng vòm nắm chặt vào cái gì đó, đến đây bọn đuổi theo tóm được nó, nó kêu lên tiếng tuyệt vọng. Đến đây tôi như mất tri giác. Cứ như thể vừa tỉnh giấc sau đêm đem ra ánh sáng ban ngày. Emily ạ, những gì tôi nhìn thấy – thể dùng từ nào khác được – trong buổi chiều nay là như thế đó. Hãy bảo tôi, chẳng lẽ tôi chứng kiến bi kịch liên quan đến chính ngôi nhà này?"

      Hôm sau lá thư được viết tiếp như sau "Câu chuyện hôm qua hóa ra chưa hoàn tất. Tôi kể gì cho chú tôi nghe cả - bạn biết đấy, người khoẻ mạnh có lý trí làm sao tin được những chuyện như vậy, xua đuổi ám ảnh kiểu đó theo ông, chỉ cần làm hơi rượu mạnh. Sau buổi tối lặng lẽ, tôi rút về phòng nghỉ. Chưa kịp vào giường hãi hùng thay bạn ơi, tiếng rống lên từ xa xa, ràng là tiếng chú tôi, dù xưa nay chưa bao giờ chú tôi phải dùng sức đến như thế. Phòng chú ở tít đầu kia của căn nhà, muốn tới đó phải băng qua căn phòng cổ chừng hơn hai chục mét, được ngăn bởi ván ép, sau đó qua hai gian phòng ngủ bỏ trống nữa. Phòng thứ hai trong số hai gian phòng này có đồ đạc. Chú tôi ở bên trong, nến rơi xuống sàn làm phòng tối mịt. Tôi mang đèn chạy vào, chú tôi ôm chặt lấy tôi, run lên bần bật. Lạy Chúa, tôi chưa thấy thế bao giờ. Chú vội vã cùng tôi ra khỏi phòng, chỉ "Đến mai, đến mai" phòng ngủ tạm thời được dọn ngay cho chú bên cạnh phòng tôi. Hẳn đêm đó chú cũng như tôi, yên ổn. Gần sáng tôi mới ngủ được, lúc mặt trời lên cao cũng là giấc mơ của tôi đen tối nhất – đặc biệt là giấc mơ in dấu vào tâm trí tôi, có cơ hội là tôi xua tan ấn tượng về nó ngay. Đó là lúc tôi vào trong phòng, linh tính thấy thế lực xấu nào đó áp chế mình, vừa ngại ngần vừa miễn cưỡng hiểu sao tôi đến chỗ cái tủ, mở ngăn kéo đầu tiên ra, trong chỉ có khăn tay và ru băng, ngăn thứ hai có gì đáng ngại, nhưng trời ơi, ngăn thứ ba và thứ tư trong xếp đồ vải. Có cái gì động đậy, rồi bàn tay màu hồng thò ra nắm nắm trong khí. Tôi chịu nổi, chạy vọt ra ngoài khoá cửa lại, nhưng sao khóa được. Trong phòng có tưởng sột soạt lại gần cánh cửa, tôi hiểu tại sao mình vù xuống cầu thang mà cứ đứng lại nắm chặt quả đấm cửa, lúc nó bung ra khỏi tay tôi, tôi tỉnh dậy, tôi chợt thấy hoảng sợ vô cùng."

      "Bữa ăn sáng hôm ấy chú tôi rất ít lời, tôi cho là ông ngượng đêm qua làm chúng tôi hãi hùng. Rồi ông hỏi tôi ông Spearman có tỉnh , còn thêm là theo ông thanh niên này là người thông minh. Hẳn bạn biết, tôi đồng tình với ông về điểm này thành ra trả lời. Ông đến chỗ Spearman, từ lúc ấy chưa về nhà. Tôi ghi ngay chùm tin tức này tới bạn, nếu , phải đợi chuyến sau."

      Độc giả chắc ngạc nhiên khi đoán Mary và ông Spearman thành hôn với nhau lâu sau tháng Sáu. Spearman là chàng trai vui tính chưa vợ, có địa sản gần Whitminster, thường do công việc mà tới đó ở ít ngày, ở quán Kíng's Head. ta hẳn có giờ rảnh vì nhật ký của ghi chép rất đầy đủ, đặc biệt trong những ngày tôi thuật lại câu chuyện này. Theo ý tôi, có lẽ viết về giai đoạn này vô cùng tỉ mỉ theo như Mary cầu.

      "Chú Oldys (hy vọng biết bao tôi sắp được gọi ông là chú lâu nữa) đến chơi sáng nay. Sau khi chuyện tào lao lúc, ông bảo "Spearman, tôi với chuyện kỳ quặc này, hãy giữ kín thời gian đợi khi nào sáng tỏ hơn hãy hay nhé?" "Vâng, chắc chắn, ông cứ tin ở tôi." " hiểu ra làm sao cả! Phòng ngủ của tôi biết rồi đấy, xa phòng tất cả mọi người, tới phòng tôi phải qua phòng lớn và hai, ba phòng gì đó" "Có phải nó ở đầu kia của căn nhà ạ?" "Vâng, đúng sáng qua Mary bảo tôi là cạnh phòng tôi bị giống côn trùng có cánh nào đấy làm ô nhiễm, bà trông nom nhà cũng làm sao đuổi được. Theo , giải thích như thế nào?" "Xin ông cho biết giải thích về điều gì?" "Thực ra tôi cũng biết. Nhưng bọn ong cắn lá nay là những con vật gì vậy? Kích thước nó thường như thế nào?" Tôi bắt đầu nghĩ ông Oldys có vấn đề trong đầu rồi. Tôi kiên quyết "Giống này theo tôi hiểu là loại côn trùng có chân màu đỏ, lớn lắm, dài độ hai phân, thân nó rất cứng, theo tôi…" tôi định chúng ghê tởm lắm, phải sinh vật lành, ông bảo "Độ hai phân à? phải bọn ong này!" "Tôi chỉ có thể tôi hiểu về chúng như thế nào thôi. Nhưng trước hết, xin ông cho tôi biết từ đầu đến đuôi chúng làm gì khiến ông hoang mang rối trí , sau đó tôi mới góp ý cho ông được." Ông nhìn tôi suy nghĩ "Có lẽ thế . Hôm qua tôi vừa bảo Mary chỉ có là người có chút tỉnh táo." (tôi cúi đầu chấp nhận) "vấn đề ở chỗ tôi ngượng ra. Trước đây tôi chưa gặp chuyện như thế bao giờ. Khoảng mười giờ đêm, hoặc hơn, tối qua, tôi cầm cây nến về phòng, tay kia cầm quyển sách – thường tôi đọc ít trang sách trước khi ngủ. Kể ra đó là thói quen nguy hiểm. Tôi khuyến khích ai bắt chước, nhưng tôi rất cẩn thận với lửa và mùng màn. Tôi bước ra khỏi phòng làm việc, sang hành lang ngay kế bên, khi đóng cửa, nến tắt. Tôi tưởng là do đóng cửa mạnh quá tạo luồng gió, chán nản vì diêm ở tận phòng ngủ. Vì biết đường tôi cứ thế . Tiếp đến quyển sách rơi xuống đất, cứ như có ai giật khỏi tay tôi. Tôi nhặt lên, càng nản và hơi giật mình. Nhưng như biết, hành lang nhiều cửa sổ, rèm, mùa hè chỉ nhìn tỏ đồ đạc mà còn thấy có ai lại hay – mà thực ra có ai cả. Qua hành lang lớn và phòng nữa cũng có cửa sổ lớn, rồi đến những phòng dẫn vào phòng ngủ của tôi, rèm kéo kín, tôi chậm lại vì có tiếng bước chân. Lúc đến phòng thứ hai trong dãy những phòng đó, tôi suýt mất quietus – yên bình. Mở cửa ra tôi biết ngay có vấn đề bất thường…"

      "Thú là có đến hai lần tôi nghĩ nên quay lại vào phòng ngủ qua đường đó tốt hơn. Nhưng rồi tôi tự thấy xấu hổ với bản thân, thế nào là tốt hơn mới được chứ? Xin mô tả đúng những gì tôi thấy. Có tiếng động khô và , cứ sột soạt ở trong căn phòng mà tôi bước vào, và rồi ( nhớ cho là nó tối om) vật rượt đến chỗ tôi – sao bây giờ nhỉ - tay nó dài loằng ngoằng, hay là chân, hoặc bộ phận tua vòi gì đó, quấn lấy tay tôi, cổ tôi, thân mình tôi. Quấn mạnh, Spearman ạ, nhưng nó gây cảm giác ghê tởm chưa từng thấy trong đời. Nó tìm cách tống tôi ra. Tôi rú ầm lên, vứt bừa cây nến xuống, và vì đứng gần cửa sổ, tôi xé rèm ra, cho ánh sáng lọt vào. cái gì như chân loài sâu bọ vẫy vẫy, kích thước nó khổng lồ, cao to như tôi vậy. Thế mà bảo loại ong ấy dài có , hai phân? thấy sao, Spearman?"

      "Lạy Chúa, ông cứ hết , tôi chưa nghe chuyện nào như vậy bao giờ."

      "Ồ, nhưng còn gì đâu mà .Mary cầm đèn chạy đến thấy gì nữa hết. Tôi kể với nó gì cả, họ đổi phòng ngủ cho tôi."

      "Trong phòng ấy có để gì ?"

      "Phòng ấy chúng tôi sử dụng, có cái tủ cổ lắm rồi với vài đồ đạc lặt vặt."

      "Tủ đựng gì?"

      "Tôi biết. Chưa ai mở ra cả. Nhưng tôi biết là nó được khoá chặt."

      "Phải xem trong đó có gì, nếu ông có giờ ta cùng tới đó luôn."

      "Tôi dám đề nghị với , đưa ý kiến ra hay quá. Giờ nào được?"

      "Còn lúc nào tiện lợi hơn lúc này?"

      "Tôi biết ngay, biết ông muốn để lâu" Ông đứng dậy rất nhanh, nhìn tôi, vẻ nhất trí.

      "Ta thôi."

      " đường về nhà, ông gì thêm. Mary của tôi (ông vẫn gọi như vậy trước mặt mọi người, tôi tôi gọi riêng tư thôi) được gọi tới, chúng tôi vào căn phòng. Lúc trước, tuy ông tiến sĩ xa đến độ ra đêm qua bị hoảng sợ - vì chuyện gì chưa với – nay ông kể tóm tắt câu chuyện. Gần tới địa điểm quan trọng ông nhường tôi trước."

      "Đây phòng này đây, Spearman. vào , rồi ra cho chúng tôi biết có chuyện gì?" Tôi nghĩ giữa trưa cảm giác sao giống lúc nửa đêm được, tôi đẩy toang cửa, tự do bước vào. căn phòng sáng sủa, bên phải có cửa sổ to mặc dù thông khí được tốt lắm. Đồ đạc chính là cái tủ gỗ đen, cổ. cái giường có bốn cọc màn, chỉ còn bộ khung, che giấu nổi cái gì. Thêm tủ com mốt nhiều ngăn kéo. bậu cửa sổ và sàn nhà vô vàn ong cắn lá chết thẳng cẳng, còn con lờ đờ, tôi giết chết cách thích thú. Thử mở cánh cửa tủ. Nó bị đóng chặt, các ngăn kéo cũng bị khoá trái. Tôi ý thức được là quanh đó có tưởng sột soạt nhè , nhưng định vị được chỗ nào. Khi ra ngoài tôi cũng ra việc này, chỉ bảo, phải mở các ngăn kéo xem sao.

      Chú Oldys quay ra bảo Mary:"Tìm bà Marple"

      "Mary chạy , tôi dám chắc ai bước được như nàng, sau đó mau mắn trở lại với bà lớn tuổi nom kín đáo."

      "Bà Marple, bà có chìa khoá những ngăn kéo này ?" Chú Oldys chỉ có mấy chữ đó mà bà tuôn ra tràng dài ( dữ dội, chỉ nhiều lời). Giả sử ở cương vị cao hơn trong xã hội chắc bà làm mẫu cho Bates được.

      "Ồ, thưa tiến sĩ, thưa và thưa ông" bà , cúi đầu chào, nhận biết có mặt của tôi. "Chìa khoá của chúng ư? Ai đến đây ấy nhỉ, khi chúng ta lần đầu tiên nhận các thứ trong nhà này? À, doanh nhân quý tộc, tôi có mời ông ấy ăn trưa trong phòng khách vì ta chưa có mọi thứ trong phòng khách lớn như bây giờ - ăn thịt gà, bánh táo, ly rượu Maidura – trời ơi, chắc Mary bảo tôi lan man, nhưng chỉ cốt để nhớ lại thôi, à, Gardner, cũng như cách tôi nhớ lại để atisô và quyển kinh ở đâu. Ông Gardner ấy, chìa nào tôi nhận của ông ấy cũng dán nhãn mở chỗ nào trong nhà này, cửa nào chẳng hạn, có khi hai chìa, tôi cửa có nghĩa cửa ra vào chứ phải cửa tủ như thế này. Vâng, thưa Mary, tôi hiểu rồi, chỉ là để chú và ông đây biết . Nhưng lại còn có cái hộp, cũng ông ta đưa cho tôi giữ. Ông ấy rồi, biết chắc nó thuộc về chú nên liều lắc nó xem sao, chắc chắn trong có mấy cái chìa khoá, thưa ông tiến sĩ, để mở đâu đó nữa, nhưng tôi dám mở cái hộp ra."

      "Tôi rất lấy làm lạ thấy chú Oldys ngắt lời, Mary có vẻ thích thú, có lẽ chú có kinh nghiệm thà chịu đựng để cho bà ấy nó, cuối cùng mới bảo:

      "Thế cái hộp đó bà có tiện tay đem ra đây ?"

      "Thế là bà Marple lấy ngón tay chỉ vào chú như cảnh sát hoặc lấy đó làm thắng lợi u ám"

      "Này thưa ông, tôi mà được phép chọn những từ do chính ông ra chính là những từ ấy đấy. Ông dùng đến năm chục lần, kể cả năm sáu lần quở trách tôi. Thế này, nằm chong mắt giường, hoặc ngồi chiếc ghế, ông và cho tôi ngày tôi vào làm việc với nhà ta hai mươi năm – chỗ làm đâu tốt hơn – đó là , Mary ạ, ai có thể mong muốn khác . Tất cả đều tốt đẹp, tôi tự khẳng định, nhưng này, nếu như tiến sĩ hỏi bà cái hộp đó đâu bà trả lời thế nào?"

      " tiến sĩ ạ, giá như ông là ông chủ khác và tôi là đầy tớ khác kia, nó lại dễ, đàng này thể nó lại là, về mặt tình cảm con người mà , nếu như ông để Mary đến phòng tôi giúp tôi, nhờ khôn ngoan của tôi biết đâu tôi nhớ lại được những gì tuột khỏi đầu óc. cho dù cái hộp bé như thế, khó lòng ông nhìn thấy được nó trong nhiều ngày sắp tới đây."

      "Bà Marple, thế sao bà bảo tôi ngay từ đầu để tôi giúp bà nhớ lại mà tìm ra nó?" Mary của tôi .

      "Thôi đừng bảo tôi vậy làm gì, ta tới ngay phòng tôi thôi để tìm nó." Hai người vội vàng . Tôi vẫn nghe tiếng bà Marple phân trần, giải thích việc này còn kéo dài mãi tới tận góc xa nhất của khu vực mà người trông nom nhà cửa ở. Còn lại tôi và chú Oldys. Chú " đầy tớ đáng giá." Chú vừa vừa gật đầu về phia cửa, "làm việc gì cũng tốt, chỉ phải tội cái gì cũng lâu ba phút."

      Tôi hỏi:"Làm thế nào mà Oldys lại giúp bà ấy nhớ ra cái hộp được ạ?"

      "Mary ấy à? ấy bảo bà ngồi xuống, hỏi thăm về trận ốm cuối cùng của dì bà ấy, hoặc ai cho bà con chó bằng sứ để mặt lò sưởi – tức là những việc hoàn toàn chẳng liên quan. Rồi như bà Marple vẫn , chuyện này nảy sinh chuyện kia, bà nhớ dần và nhớ ra đúng cái vật tìm, nhanh hơn ta tưởng. Đó! Tôi nghe họ quay lại kia kìa!"

      "Quả vậy, bà Marple vội vã trước Mary, mặt mày rạng rỡ, tay cầm cái hộp, tới gần, bà kêu lên: "Trước khi từ Dorsetshire đến chốn này, tôi câu gì ấy nhỉ? Chẳng phải vì thân tôi là người đàn bà Dorset hoặc cần phải là đàn bà Dorset mới như vậy. Cất kỹ, thế nào cũng tìm thấy." Đúng là ở cái chỗ tôi cất nó ba tháng trước đây, dám chắc vậy."

      Bà đưa nó cho chú Oldys, tôi và chú xem xét nó với chút lưu tâm, tôi còn chú ý gì đến bà Ann Marple nữa, dù tôi biết bà sắp sửa trình bày chi tiết cái hộp nằm ở đâu và bằng cách nào Mary giúp bà nhớ ra nó."

      "Nó là cái hộp cổ lỗ buộc dây hồng và gắn xi, nắp dán cái nhãn ghi bằng thứ mực đời xưa. "Nhà của giáo sĩ cao cập hưởng lộc Chúa, Whitminster." Mở ra có hai chìa khoá cỡ vừa, với tờ giấy có chữ của cùng người viết cái nhãn "Chìa khoá tủ và bộ ngăn kéo ở trong căn buồng bỏ " Thêm vào đó "Các vật trong hai tủ này do tôi lưu giữ - sau này tiếp tục được lưu giữ bởi những kẻ kế tục tôi ở tại căn nhà này – cho gia đình quý tộc Kildonan, nếu như người nhà họ có ai còn tồn tại và hỏi đến nó. Tôi dò hỏi, tìm hiểu kỹ và biết là cả gia đình quý tộc này nay tuyệt tự. Vị bá tước Kildonan cuối cùng ai cũng biết là tử nạn ngoài biển, con cái thừa kế duy nhất của ông chết ở gần nhà tôi (giấy tờ về tai hoạ đáng buồn này để cả trong tủ, vào năm 1753 sau Công nguyên, ngày 21 tháng 3) Ý kiến của tôi là ngoại trừ trường hợp đặc biệt băn khoăn lo lắng lắm người giữ chìa khoá này – phải thuộc gia đình Kildonan – mới được mở tủ ra, còn nên nghe theo lời khuyên của tôi đừng động đến các thứ đó. Ý kiến này tôi ra sau khi cân nhắc kỹ mọi lý do, ý kiến của tôi cũng được các thành viên của học viện và nhà thờ này, những người thông tỏ việc ghi trong các giấy tờ , tán thành. Tho.Ashton, S.T.P., giáo sĩ cao cấp hưởng lộc Chúa. Will.Blake.S.T.P., tu viện trưởng, Hen.Goodman, S.T.B., giáo sĩ cấp cao hưởng lộc Chúa."

      "Ái chà!" Chú Oldys kêu lên. "Băn khoăn lo lắng lắm! Hẳn ông ta thấy là có vấn đề. Tôi nghi cậu chàng trẻ tuổi này" chú lấy chìa khoá chỉ vào chữ 'con trai thừa kế duy nhât' "Này Mary, tử tước Kildonan chính là Saul chứ ai!"

      "Làm sao mà chú biết?" Mary hỏi.

      "Còn sao nữa, trong quyển Debrett có viết cả đấy, cái quyển , dày dày ấy mà. Nhưng chú muốn ngôi mộ cạnh con đường trồng chanh kia! Cậu ta ở đấy. Chuyện như thế nào nhỉ? Bà Marple, bà có biết ? Kìa, bà nhìn lũ côn trùng của bà ở cửa sổ kìa!"

      "Bà Marple, đụng đầu với hai chủ đề cùng lúc, bà lúng túng biết nên đánh giá thế nào cho đúng cả hai. Kể ra chú Oldys cũng hơi hấp tấp khi cho bà cơ hội này. Tôi chỉ có thể đoán chú hơi ngần ngại sử dụng chiếc chìa khóa cầm ở tay."

      "Ồ, lũ ong, thưa tiến sĩ, thưa , chúng đến là tệ hại, cả ba bốn ngày nay rồi, cả ông nữa, các vị đoán nổi nó tệ hại đến thế nào đâu. Mà chúng ập đến mới ác liệt chứ! Hồi chúng tôi đến căn phòng đó, các cửa chớp mở hết có ai thấy con ong nào đâu, từ bao năm rồi ấy chứ! Chúng tôi phải khó khăn lắm mới hạ được các cửa chớp xuống, và để thế cả ngày. Hôm sau tôi cử Susan đến quét dọn, mới chỉ chưa có hai phút ta chạy bổ ra như người mù, chúng tôi thay nhau đập bọn chúng ra khỏi mũ, tóc, banh mắt ta, các vị biết màu tóc ta lúc ấy thế nào đâu. May thay ta phải người yếu bóng vía. Nếu là tôi tôi hoá rồ rồi. Ấy thế mà bây giờ chúng nằm chết la liệt. Thứ hai chúng còn sống dữ dội như thế, hôm nay mới thứ năm, à thứ sáu! Chỉ cần đến gần cánh cửa là chúng đập ầm ầm ở phía trong, mở ra cái chúng ùa đến như muốn ăn sống nuốt tươi ta. Tôi cứ nghĩ "Nếu mình là con dơi, hiểu đêm nay mình ở đâu? Mà khó lòng giết chúng như giết côn trùng bình thường. May cho ta quá! Lại còn cái ngôi mộ chung của hai cậu thanh niên nữa chứ, tội nghiệp" bà chuyển ngay sang vấn đề kia, sợ bị ai ngăn trở. "Tôi tội nghiệp vì nhớ lại hôm uống trà với bà Simpkins, bà vợ ông coi nhà thờ và nghĩa trang ấy, trước khi tiến sĩ và Mary đến đây, gia đình họ ở đây lâu đời rồi phải ạ? Tôi dám là hàng trăm năm trong khu nhà này rồi cũng nên, các vị chỉ tay lên ngôi mộ nào trong nghĩa trang là họ đọc vanh vách tên và tuổi người nằm dưới mộ ngay. Còn nhận định của ông ta về cậu thanh niên ấy ấy à, tôi muốn ý kiến của ông Simpkins ấy – …chà!" Bà mắm môi, gật gật cái đầu rất nhiều lần.

      "Kìa bà Marple, kể cho chúng tôi nghe chứ" Mary bảo. Còn chú Oldys " tiếp , bà Marple!"

      "Còn tôi sốt ruột "Cậu ta làm sao?"

      Bà Marple liền kể "Chưa bao giờ nơi đây chúng ta lại có việc như thế kể từ thời Nữ hoàng Mary và Đức Giáo Hoàng. Các vị đều biết cậu ta sống gnay chính trong ngôi nhà này – và bọn họ cùng sống ở đây mà – tôi có thể chính xác cậu ta sống trong căn phòng này" (bà khó chịu đổi chỗ hai chân sàn)"

      "Bà bảo ai sống với cậu ta kia? Bà muốn những người sống trong căn nhà này ấy à?" Chú Oldys nghi ngờ hỏi.

      "Trời ơi, , thưa tiến sĩ, gọi họ là người sống cùng kể cũng đúng," bà trả lời, "Đó là những kẻ cậu ta mang từ Ireland đến. , những người trong căn nhà này chỉ là những người cuối cùng nghe được chuyện từ những hành vi, xử lạ lùng của cậu ta mà thôi. Cả vùng này chẳng gia đình nào là biết đêm đêm cậu ta đâu. Những kẻ cùng với cậu ta là những kẻ có thể lóc thịt đứa trẻ con trong huyệt của nó. Còn theo lời ông Simpkins trái tim khô héo chỉ có thể trở thành con ma xấu xí mỏng manh. Cuối cùng lũ ma trị cậu ta, chúng tóm được cậu, ông Simpkins bảo, vết tích vẫn còn cánh cửa nhà thờ tu viện nơi chúng hạ gục cậu. Còn gì bằng chính mắt mình nhìn thấy. Tôi bảo ông ta đưa tôi ra tận nơi xem mà. Cậu ta là Lord đấy, chứ có ít đâu, tên lại là tên ông vua xấu xa, chẳng hiểu các cha đỡ đầu của cậu ta nghĩ ngợi ra sao."

      "Tên cậu ta là Saul mà," chú Oldys .

      "Dạ vâng, chính thế, cảm ơn tiến sĩ, và chẳng phải chúng ta nghe vua Saul dựng những con ma thiu thiu ngủ trong những nấm mồ của chúng lên, ông ta khuấy đảo bọn chúng đến phải dậy thôi là gì? Mà lạ lùng, Lord trẻ tuổi này cũng có cái tên như thế mới lạ chứ. Ông nội của ông Simpkins đêm nhìn ra ngoài thấy cậu ta hết từ nấm mồ này sang nấm mồ khác, tay cầm cây nến, theo sau sát gót là lũ ma lướt cỏ. đêm cậu đến thẳng cửa sổ cụ Simpkins áp mặt vào ô kính cửa sổ để xem có ai trong phòng nhìn ra thấy được cậu ta . Vừa vặn cụ Simpkins núp mình ngay dưới chân cửa sổ và im lặng đến dám thở nữa, khi cậu ta bước như thế đàng sau vang lên những tiếng bước chân khác sột soạt cỏ. Sáng hôm sau cụ nhìn ra ngoài cửa sổ thấy những vết chân của bộ xương người.Ôi, thằng bé độc ác, chắn hẳn là như vậy rồi, nhưng cuối cùng nó phải trả giá, cả sau đó nữa."

      "Cả sau đó nữa?" chú Oldys hỏi, cau mày.

      "Phải ạ, thưa tiến sĩ, đêm này qua đêm khác, thời ông nội ông Simpkins! Cả thời cụ sinh ra ông Simpkins bây giờ nữa, và ngay cả ông Simpkins! Cũng tại cánh cửa sổ đó, nhất là vào những đêm giá lạnh, họ có đốt lò sưởi trong phòng, nó áp mặt vào ô kính cửa sổ, hai bàn tay vẫy vẫy, miệng nó cứ há ra rồi ngậm lại, mấy phút liền như thế, sau đó ra nghĩa trang tối đen. Những lúc ấy mà mở cửa sổ ra họ dám, mặc dù trái tim họ đầy thương cảm đối với thằng bé tội nghiệp, tái mét, tê buốt vì giá rét, và xem ra năm này qua năm khác, tiêu còn là cái gì hết. Phải, quả vậy, tôi hoàn toàn tin là theo như lời ông Simpkins , nhắc lại lời ông nội mình " trái tim khô héo tạo nên con ma xấu xí còm cõi."

      "Tôi cũng nghĩ vậy đấy" chú Oldys đột nhiên , đột nhiên đến mức bà Marple bỗng ngừng ngay lại. "Cám ơn bà. Thôi, tất cả chúng ta ra khỏi phòng này thôi."

      "Kìa chú," Mary bảo "thế chú mở tủ ra ư?" Chú Oldys đỏ mặt lên, đỏ thực ấy. "Cháu " ông "cháu có thể cho chú là thằng hèn hoặc hoan hô chú là người khôn ngoan, tuỳ cháu. Nhưng bản thân chú bao giờ mở cái tủ đứng đó cũng như những ngăn kéo của cái com mốt này, mà cũng giao những chìa khoá này cho cháu hoặc cho ai khác. Bà Marple, bà tìm cho hai người khiêng mấy thứ đồ đạc này lên tầng áp mái cho." "Và khi họ làm việc đó," Mary bảo "tôi cảm thấy – hiểu tại sao – nàng có vẻ mình chứ thất vọng vì quyết định của ông chú, "Tôi cũng có thứ nữa muốn cất lên đó cùng với chúng, chỉ là gói thôi."

      "Chúng tôi miễn cưỡng rời căn phòng, theo tôi nghĩ. Lệnh của chú Oldys được thực xong trong ngày hôm ấy. "Và thế là" ông Spearman kết luận "Whitminster có căn phòng của Con Râu Xanh, riêng tôi vẫn cho rằng, đến lượt vị giáo sĩ cao cấp hưởng lộc Chúa kế tiếp đến ở nơi này trong tương lai, thế nào cũng lại có Jack-in-the-box [2] chờ đợi ông ta cho mà xem."

      Chú thích :

      [1] Chú thích của tác giả: nhân vật định là có vẻ là con tò vò, phải con ong cắn lá

      [2] Hộp đồ chơi có lò xo, khi mở nắp hình người bật lên. Ý điều bất ngờ

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :