Chương 7: Bá tước Magnus Làm sao những giấy tờ ghi chép mà từ đó nó được viết ra câu chuyện có đầu có đuôi như thế này đến được tay tôi, phải đến cuối những trang sau đây các bạn mới biết được. Nhưng trước khi đưa trích dẫn của tôi về các giấy tờ đó ra, tôi cũng phải để các bạn biết hình thức của chúng như thế nào . Chúng gồm phần các sưu tập cho cuốn sách hướng dẫn du lịch kiểu như thường thấy ở những năm 40 như cuốn Quyển Nhật ký lưu lại Jutland và các đảo của Đan Mạch là ví dụ thuộc loại này. Chúng thường về những vùng hiếm người đến ở lục địa, được minh họa bằng tranh khắc gỗ hay khắc thép, cho ta biết chi tiết việc ăn ở khách sạn, phương tiện lại, tựa như ở các sách du lịch được sắp đặt đầy đủ thời nay, trong còn ghi lại các cuộc chuyện trò với những người ngoại quốc thông mình, các chủ quán nhiệt tình, những người nông dân ba hoa, chúng là những người hay chuyện. Với ý định ban đầu là thu thập tài liệu cho cuốn sách như vậy, các giấy tờ tôi thu nhặt được cho là của người duy nhất, kể lại những gì mình trải qua cho tới tận phút cuối cùng của việc. Người viết chúng là ông Wraxall nào đó. Muốn hiểu về ông, tôi chỉ còn cách dựa hoàn toàn vào những gì ông cung cấp, từ đó suy luận ra ông ta là người quá tuổi trung niên, có đôi chút tiền của, và chỉ có mình đời. Hình như ông có chỗ ở cố định tại nước , thường chỉ ở khách sạn và nhà trọ. Có thể ông cũng muốn an cư lạc nghiệp trong tương lai, tương lai bao giờ đến cả, tôi nghĩ cũng có lẽ ngọn lửa của trận hoả hoạn Pantechnicon vào đầu thập niên 70 thiêu cháy hầu hết những gì có thể cho ta biết về tổ tiên của ông, vì hai lần gì đó ông nhắc đến tài sản của mình chứa trong toà nhà ấy. Cũng thấy được ông Wraxall cho in ra quyển sách kể về kỳ nghỉ hè của ông ở Brittany, nay là vùng Bretagne của nước Pháp. thể gì thêm nữa về tác phẩm của ông. Tìm tòi kỹ trong các thư mục cũng có, nếu có, hẳn xuất bản tên hoặc dưới tên hiệu. Về tính cách ông có thể sơ bộ nhận xét như sau: ông chắc chắn thông minh và có học vấn. Hình như suýt được ở trong ban lãnh đạo của trường đại học của ông ở Oxford – trường Brasenose, theo như tôi đọc được trong quyển sổ hàng năm của trường đại học. Thói xấu sửa được của ông ràng là quá tọc mạch, ở người du lịch đó có thể là ưu điểm, nhưng chính đó là đìều khiến ông phải trả giá đắt ở hồi cuối câu chuyện. Cuộc du hành cuối cùng của ông có vẻ như để viết cuốn sách khác. Bắc Âu, nơi mà cách đây bốn chục năm người thấy rất xa lạ, được ông coi là lĩnh vực thú vị. Chắc hẳn vô tình rơi vào tay ông vài quyển sách cổ về lịch sử Thụy Điển hay vài cuốn hồi ký, thế là ông chợt nảy ra ý nghĩ có thể viết về cuốn mô tả du lịch ở Thụy Điển xen kẽ với những mẩu chuyện về lịch sử của các gia đình lớn ở nước này. Ông kiếm được thư giới thiệu tới số nhân vật tầm cỡ ở Thụy Điển và ông xuất phát đầu mùa hè 1863. Chặng đường lên phía Bắc khỏi cần , mấy tuần di trú ở Stockholm cũng vậy. Chỉ cần điều: đó là có mấy nhà thông thái ở đó khuyên ông truy tìm bộ sưu tập tài liệu thuộc các chủ sở hữu của ngôi thái ấp cổ ở vùng Eastergothland và tìm cách để được nghiên cứu các tư liệu ấy. Ngôi thái ấp, tiếng Thuỵ Điển là herrgard, được gọi là Raback (đọc theo tiếng na ná Roebeck), mặc dù đó phải là tên nó. Nó là trong những ngôi nhà đẹp nhất thuộc loại này trong cả nước, bức tranh khắc về nó in trong quyển Thụy Điển cổ đại và đại của Dahlenberg năm 1694 cho thấy hình ảnh rất giống với những gì du khách nhìn thấy ngày nay. Ngôi nhà được xây sau năm 1600 lâu, cách thô thiển, rất giống ngôi nhà ở vào thời kỳ này về mặt vật liệu xây dựng – gạch đỏ, mặt trước là đá – kiểu cách cũng vậy. Người xây nó là hậu duệ của gia đình có tiếng tăm lừng lẫy De la Gardie, con cháu của ông này vẫn sở hữu ngôi nhà. De la Gardie là tên tôi dùng để chỉ những người ấy khi cần. Họ đón tiếp ông Wraxall rất lịch , tử tế, đề nghị ông ở ngay tại đó cho đến khi nào xong việc nghiên cứu thôi. Nhưng, muốn tự do, vả lại tin ở khả năng tiếng Thụy Điển của mình, ông ra ở quán trọ trong làng, ngờ quán rất tiện nghi và ấm cúng, kể cả trong những tháng hè. Thu xếp như vậy đòi hỏi hàng ngày phải bộ tới ngôi thái ấp kể cả về gần dặm. Bản thân ngôi nhà nằm giữa công viên và được che chắn bởi cánh rừng già. Gần đó là khu vườn có tường bao quanh, sau đó đến khu rừng khép kín viền lấy trong những cái hồ lớn, vùng này vốn trũng do cái hồ đó. Cuối cùng là bức tường ngăn cách phạm vi của cả ngôi thái ấp với bên ngoài. Leo lên ngọn đồi - đồi đá phủ lớp đất mỏng – bạn tới nhà thờ đỉnh đồi bao quanh là cây cao bóng cả. đối với người , nhà thờ là toà nhà kỳ quặc. Gian giữa của giáo đường và các gian bên thấp hẳn xuống, trong kê các ghế nguyện và có rất nhiều hành lang. Trong hành lang phía Tây có chiếc đàn organ cổ rất đẹp sơn màu sáng, các ống của nó bằng bạc. Trần phẳng được hoạ sĩ thế kỷ mười bảy trang trí cảnh "phán xử cuối cùng" rất xấu xí và lạ lùng, với những ngọn lửa khủng khiếp, các thành phố hoang tàn, những tàu thuỷ cháy bừng bừng, nhiều con người kêu khóc và những con quỷ màu nâu cười. Đèn chùm bằng đồng treo ở giữa mái nhà thờ. Bục giảng kinh bé xíu như ngôi nhà búp bê, có các thiên thần và các vi khách bằng gỗ sơn, cái giá với đồng hồ cát lắp bằng bản lề vào bàn giảng đạo. Những cảnh như vậy người ta thường thấy trong nhà thờ Thụy Điển ngày nay, cái phân biệt ngồi nhà thờ này với các nha1 thờ khác là ở chỗ nó co tòa nhà phụ đính vào toà nhà chính. Ở mé đông của gian phía Bắc, chủ nhân thái ấp xây lăng mộ cho chính mình và gia đình mình. Đó là toà nhà rộng, tám cạnh với loạt cửa sổ bầu dục, mái vòm có chóp hình bí ngô vươn lên nó thành hình tháp, đây là hình thể của các kiến trúc sư Thụy Điển rất ưa chuộng. Vòm nhà bên ngoài dát đồng, sơn đen,trong khi các bức tường ngược lại trắng lồ lộ như đập vào mắt người ta. Từ nhà thờ có cửa thông sang đây. Toà nhà có cánh cửa riêng với các bậc tam cấp ở phía bắc. Qua sân nhà thờ tới con đường vào làng, mất ba bốn phút bạn tới quán trọ. Ngày đầu tiên ở Raback, ông Wraxall thấy cánh cửa nhà thờ mở, qua đó ta có thể thấy được những mô tả ở kia. Tuy nhiên, ông vào được trong lăng mộ, chỉ nhìn qua lỗ khoá thấy các hình đáp nổi bằng đá hoa cương và quan tài bằng đồng, đồ thờ hình gia huy rất quý, khiến ông rằng mong muốn có giờ vào khảo sát bên trong. Các giấy tờ ghi chép của ông về ngôi thái ấp tỏ ra đúng là thuộc dạng cần để viết sách. Có các thư từ của gia đình, các quyển nhật ký, sổ sách kế toán của những người chủ đầu tiên từ thời xa xưa, viết sách đẹp, gìn giữ cẩn thận, nhiều chi tiết vui và sinh động. Sau khi ngôi thái ấp được xây dựng thời gian ngắn vùng này đâm khốn khó, nông dân nổi dậy đánh phá các lâu đài, gây hư hại nhiều. Chủ Rãback là trong những thành phần đàn áp chính yếu đưa đến việc xử tử các lãnh tụ phe chống đối, ngoài ra còn nhiều hình phạt tàn ác nương tay. Bức chân dung của bá tước Magnus de la Gardie là bức đẹp nhất trong ngôi nhà mà ông Wraxall nghiên cứu với ít quan tâm sau cả ngày làm việc. thấy ông ta tả chi tiết, nhưng tôi đoán cái làm ông Wraxall quan tâm là sức mạnh của khuôn mặt chứ phải vẻ đẹp của nó, thực tế ông viết "Bá tước Magnus xấu đến mức kỳ quặc". Hôm đó ông Wraxall ăn cơm tối cùng với gia đình rồi thả bộ về quán trong ánh trời chiều còn sáng, tuy giờ giấc muộn. Ông viết "Tôi phải nhớ hỏi người cháu xem có được phép vào lăng mộ của gia đình mới được, ông này ràng là vào bên trong, bởi tối đó tôi nhìn thấy ông ta đứng ở bậc tam cấp của toà lăng mộ khoá hay mở khoá". Sớm hôm sau ông Wraxall có chuyện với ông chủ quán. Lúc đầu tôi hơi lạ thấy cuộc chuyện trò khá dài nhưng sau nhớ ra các giây tờ mình đọc là tư liệu để viết quyển sách mà ông suy ngẫm, thành thử nó cũng như bài báo, đủ chỗ cho việc đưa vào nội dung trò chuyện. Ông mục đích của ông là tìm ra xem có đúng là người ta vẫn còn truyền miệng về các hành động của bá tước De la Gardie hay , và ông này có được quần chúng mến mộ hay . Như ông thấy . Tá điền cày ruộg cho ông ta mà đến muộn vào ngày Rước Chúa công của thái ấp, liền bị đưa lên ngựa gỗ, bị đánh, bị đóng dấu sắt nung đỏ vào người ở trong sân thái ấp. Trong vài trường hợp, đất nông dân lấn chiếm vào đất của thái ấp, nhà người nông dân ấy đêm đông nào đó bị đốt cháy cách bí , cả nhà chết cháy ở trong. Cái làm cho ông chủ quán nhớ kỹ nhất, vì ông ta lại nhiều lần, là vị bá tước làm cuộc hành hương Đen tối và đem theo về thứ gì đó. Các bạn cũng như ông Wraxall chắc hỏi cuộc Hành hương Đen tối đó là cái gì. Ngay lúc ấy chưa trả lời được. Chủ quán muốn đáp vào vấn đề, và vì có người gọi ra, ông ta trở vào là phải Skara đến tối mới về. Vậy là ngày hôm đó ông Wraxall tới thái ấp làm việc, trong bụng vẫn chưa thoả mãn. Nhưng ông lại vừa đọc số giấy tờ lôi cuốn tư tưởng ông theo hướng khác. Đó là thư từ giữa Sophia Albertina ở Stockholm với người chị họ có chồng tên là Ulrica Leonora ở Rãback vào những năm 1705-1710. Những lá thư này rất đáng quan tâm vì chúng cho ta thấy nền văn hoá Thụy Điển thời kỳ đó. Những người đọc toàn bộ những lá thư này trong ấn phẩm của hội đồng các Bản thảo về lịch sử Thụy Điển đều có thể chứng thực. Buổi chiều đọc xong số thư từ ấy, ông cất lại vào hộp để giá, thuận tay lấy xuống vài cuôn sách để cạnh đó định xem thử ngày mai chủ yếu đọc cái gì. giá sách phần lớn là sưu tập sổ sách kế toán do chính tay bá tước Magnus viết. Trong số đó lại có quyển phải sổ kế toán mà là sách về thuật giả kim học thế kỷ mười sáu. chuyên về loại sách này thành ra ông Wraxall mất khá nhiều chỗ trong giấy tờ của mình để ghi lại tênvà khởi đầu các luận thuyết khác nhau, sách của The Phoenix, sách của Trinity Words, sách của Toad, sách của Miriam, của nhà triết học Turba, vân vân. Ông tuyên bố rằng hài lòng khi tìm ra nó trang giấy vốn để trắng ở giữa quyển sách mấy dòng chữ viết tay của bá tước Magnus mở đầu bằng "Liber nigrae peregrinationis". Tuy chỉ vài dòng, nhưng cũng đủ chứng tỏ ông chủ quán sáng hôm đó nhắc đến đức tín chí ít có từ thời bá tước Magnus, và rất có thể chính ông ta cũng tin. Tiếng hiểu qua những dòng chữ đó như sau "Nếu như có ai muốn sống lâu, muốn tìm được sứ giả trung thành và nhìn thấy máu kẻ thù, người đó trước hết phải đến thành phố Chorozin và tới chào ông hoàng ở đó…" Đến đây có chữ bị tẩy xoá mờ mờ, theo ông Wraxall ông nhìn thấy là chữ "aeris" (của khí). Sau đó thấy chép được gì nữa ngoài dòng chữ La tinh "Quaere reiqua hujus homelei inter secretiora" (xem phần cuối câu chuyện này trong những tư liệu có tinh cách riêng tư hơn) thể chối cãi được mấy dòng rọi ánh sáng khá ghê gớm vào đức tin và sở thích của bá tước, tuy nhiên ông Wraxall ở cách xa bá tước ba thế kỷ, ý nghĩ cho rằng những câu – nhằm đưa thêm thuật giả kim vào sức mạnh đầy sinh động của ông ta đồng thời đưa thêm phép thần vào thuật giả kim – khiến cho hình ảnh của ông ta càng thêm sinh động, thành ra sau khi ngắm kỹ hơn chân dung ông ta trong sảnh toà nhà rồi lên đường về quán, ông Wraxall đây hình ảnh bá tước trong đầu óc, chẳng để ý đường lối lại và cảnh vật chung quanh cũng như hương thơm buổi chiều trong rừng và bên hồ, đến lúc đột nhiên sực tỉnh mới giật mình thấy mình đến cổng nhà thờ và chỉ vài phút nữa là tới giờ cơm tối. "Ái chà", ông Wraxall "Bá tước Magnus, thế ra đến nơi ông ở. Thế nào tôi cũng phải gặp ông mới được" Wraxall viết "Giống như những người đơn, tôi có tật hay to mình, và giống những người Hy lạp và La tinh chút nào ,tôi hề chờ đợi có ai đó trả lời. Quả vậy trong trường hợp này có lẽ là may mắn. có ai hay giống của ai, chỉ có người đàn bà theo tôi là người quét nhà thờ, đánh rơi vật kim khí gì đó xuống sàn keng cái làm tôi giật thót người. Bá tước Magnus, tôi cho là còn ngủ kỹ". Ngay tối đó, ông chủ quán nghe ông Wraxall muốn gặp người trợ tế (ở Thụy Điển họ gọi như vậy) của giáo khu, bèn giới thiệu ông này với ông Wraxall trong phòng khách quán trọ. Cuộc thăm khu lăng mộ gia đình De la Gardie được sắp xếp vào sáng hôm sau. Mọi người ngồi trao đổi với nhau trong cuộc chuyện chung. Ông Wraxall nhớ ra trong các nhiệm vụ của ông thầy trợ tế ở Bắc Âu là dạy dỗ những người sắp thụ lễ Kiên tin. Ông nghĩ nên làm mới trí nhớ của mình về vài điểm trong Kinh thánh. "Thưa thầy có thể cho biết Chorazin ở đâu?" Thầy trợ tế giật nảy mình, nhưng cũng sẵn sàng kể ông ta nghe ngôi làng này từng bị đe dọa san bằng. "Vâng, tôi biết" ông Wraxall "tức là nay tàn lụi?" "Tôi nghĩ vậy" thầy trợ tế tiếp "Tôi nghe các vị tu sĩ già đó là nơi sinh ra chống lại Chúa, có nhiều chuyện kể…" "Chuyện thế nào ạ?" ông Wraxall hỏi. "Những chuyện mà tôi quên rồi" thầy trợ tế đáp, đến đó ra về. Lúc này chỉ còn lại chủ quán, mình với ông Wraxall, con người hay hỏi chuyện này tha ông ta. "Ông Nielsen" Wraxall "tôi tìm hiểu được đôi chút về cuộc Hành hương Đen tối. Ông cứ cho tôi nghe những gì ông biết. Bá tước Magnus đem theo cái gì về đây?". Người Thụy Điển thường chậm chạp khi trả lời, biết có đúng thế , hay ông chủ quán là cá tính, tôi biết ông Wraxall ghi lại rằng, ông chủ quán nhìn vào ông độ phút rồi mới . Ông ta lại gần khách, cố gắng lắm mới lên tiếng được "Ông Wraxall ạ, tôi kể cho ông câu chuyện này, chỉ chuyện mà thôi, hơn, xin ông đừng hỏi gì thêm mới được. Thời ông nội tôi tức là chín mươi năm về trước có hai người với nhau rằng "Bá tước chết rồi, cần gì. Ta cứ tối nay, tha hồ săn trộm trong rừng của lão". Rừng này chạy dài quả đồi mà ông trông thấy ở phía sau Rãback ấy. Có người nghe thấy hai người ấy thế bèn bảo "Này, đừng , dám chắc hai gặp những người , những người lẽ ra yên nghỉ chớ phải là ." Hai người kia chỉ cười. Vì ai muốn săn ở khu rừng đó nên có người gác rừng. Gia đình chủ thái ấp lại ở trong ngôi nhà do đó mấy người kia muốn làm gì làm. Thế là họ vào rừng. Ông nội tôi ngồi ở đây, trong nhà này. Đó là đêm mùa hè, trời rất sáng. Cửa sổ mở nên cụ nhìn ra ngoài rất , nghe cũng nữa." "Cụ ngồi cùng hai ba người nữa, tất cả cùng lắng nghe. Lúc đầu nghe thấy gì cả, sau đó nghe tiếng gì đó - ở rất xa –thét lên tiếng kinh hãi như thể linh hồn ta bị xoắn vặn ra ngoài cơ thể. Mấy người ngồi trong phòng ôm lấy nhau chặt suốt bốn mươi lăm phút sau. Rồi họ nghe tiếng người khác – chỉ cách độ ba chục mét, cười phá lên, người này phải trong số hai người kia, ai cũng phải tiếng cười của trong hai người họ. Cuối cùng có tiếng cánh cửa đóng lại." "Đợi lúc mặt trời lên, cả bọn tìm đến cha cố, với cha "Xin cha mặc áo chùng và đeo cổ áo xếp nếp đến chôn cho Anders Bjomsen và Hans Throbjorn!" "Ông biết chứ, mọi người tin là cả hai chết. Tất cả vào rừng – ông tôi còn nhớ là chính họ cũng như những người chết, cha cố sợ đến bệch mặt ra, lúc họ đến chính cha cũng "Tôi có nghe tiếng thét đêm qua, còn nhớ đến tiếng thét ấy tôi bao giờ có thể ngủ ngon được" "Thế là họ vào rừng và thấy hai người kia ở bìa rừng. Hans Thorbjorn đứng dựa lưng vào cái cây, hai tay cứ đưa ra phía trước như đẩy cái gì đó ra mà cái đó ai trông thấy. ta chết. Họ đưa ta về nhà ở Nyjoping, ta chết trước mùa đông, vẫn tiếp tục đưa hai tay đẩy trước mặt. Còn Anders Bjornsen nằm chết ở đó, ta là người rất đẹp trai thế mà thấy mặt đâu, mất hết thịt chỉ còn trơ xương. Ông hiểu ? Ông nội tôi nhớ mãi. Họ khiêng ta lên cái cáng mang theo, phủ tấm vải lên mặt, cha cố trước và họ hát lên bài kinh cầu nguyện cho người chết. Vừa hát xong câu người khiêng cáng phía đầu ngã xuống, mọi người nhìn theo thấy tấm vải che mặt rơi ra, và hai con mắt chàng Anders Bjornsen ngước nhìn lên. Họ bước nổi. Cha lấy tấm vải len phủ lại, cho người lấy xẻng chôn ta luôn tại đó.". Ngày hôm sau ông Wraxall ghi lại, thầy trợ tế đến tìm ông ngay sau bữa ăn sáng, đưa ông tới nhà thờ và nhà mộ. Ông để ý thấy chìa khóa nhà mộ treo cái đinh bên cạnh bục giảng kinh, vậy là ông có thể vào nhà mộ lần thứ hai thăm thú cách riêng tư hơn nếu như lần đầu chưa thấy được hết cái hay của nó, bởi vì như quy luật, cửa nhà thờ lúc nào cũng mở. Bước vào nhà mộ ông thấy nó khá là bề thế. Các tượng đài khá rộng, bản dựng thẳng đứng theo kiểu thế kỷ mười bảy và mười tám, trông rất đường hoàng, trang nghiêm nếu muốn là phong phú kể cả về mộ chí lẫn huy hiệu. Chính giữa gian phòng mái vòm là ba cỗ quan tài bằng đồng, mặt trang trí rất tinh xảo. Hai trong số quan tài, theo kiểu Đan Mạch và Thụy Điển, có chữ thập bằng kim loại nắp. Quan tài thứ ba, của bá tước Magnus như được thấy , toàn bộ chiều dài nắp khắc hình nổi của ông và chung quanh là những dải hình thể nhiều cảnh vật khác nhau, cũng được khắc như thế. là cảnh chiến trận với súng thần công vừa nhả đạn còn bốc khói, vừa các thành phố có tường vây quanh, các toán lính hoặc toán người gác ở các chỗ thu thuế đường. Cảnh khác mô tả cuộc hành quyết. Cảnh thứ ba, giữa các cây to, là người đàn ông chạy hết tốc lực, tóc bay tơi tả, hai bàn tay giơ ra, đằng sau có hình thù đuổi theo, rất khó hình dung nghệ sĩ định vẽ người đàn ông mà được giống thế hay có ý mô tả con quỷ như hình vẽ thể . Theo như tài khéo léo trổ các hình khắc khác, ông Wraxall nghiêng về ý sau này nhiều hơn. Dáng dấp thấp lùn, từ đầu đến chân trùm tùm hum cái áo dài đen có mũ trùm đầu, dài sát đất. Phần duy nhất của hình thù thò ra ngoài áo là bàn tay hay cánh tay, ông Wraxall cho là tua cảm nhận của loại quỷ cá. Ông viết "Nhìn thấy thế, tôi nghĩ đến biểu tượng quỷ sứ săn đuổi người – có thể là nguồn gốc câu chuyện về bá tước Magnus và kẻ đồng hành bí của ông ta. Giờ ta hãy nhìn vào người đàn ông săn, nhất định là con quỷ thổi tù và". Nhưng rồi lại hóa ra cái hình ảnh giật gân đó, chỉ là người mặc áo khoác dài đứng ngọn đồi , dựa vào cây gậy nhìn cảnh săn người với vẻ quan tâm mà người khắc cố tỏ ra diễn đạt thái độ ấy của ông ta. Ông Wraxall lưu ý tới ba cái khóa móc lớn được chế tạo tinh vi dùng để khóa cỗ quan tài bá tước. trong ba cái khóa đó rời ra nằm mặt đá lát gian phòng. Đến đó, muốn mất giờ của thầy trợ tế nữa, ông Wraxalll từ biệt, lên đường tới toà thái ấp. "Kể cũng lạ" Wraxall ghi chép "khi nghiên cứu ngược lại lịch sử của gia tộc người ta lại cứ bị thu hút bởi những chuyện ngoài rìa. Đêm nay là lần thứ hai tôi hoàn toàn để ý là mình đâu (tôi hoạch định trở lại nhà mộ lần thứ hai để chép lại đoạn văn bia) bỗng nhiên sực tỉnh thấy mình (như lần trước) vào cổng nhà thờ và tin là mình có hay hát lên câu gì đó đại loại như là "Bá tước Magnus, ngài thức hay ngủ?" và câu gì nữa tôi còn nhớ. Đôi khi tôi vẫn hay có những việc làm vô thức như thế" Ông tìm thấy chiếc chìa khóa nhà mộ treo ở chỗ hôm trước, ông chép lại phần lớn đoạn văn bia, ở đó đến khi tối nhìn nữa mới ra về. "Có lẽ tôi nhầm" ông viết, "khi là trong ba cái khóa móc của quan tài bá tước Magnus được mở ra. Thực tế hôm nay tôi nhìn thấy hai. Tôi nhặt cả hai lên, cẩn thận đặt chúng bờ cửa sổ, cố khoá chúng lại mà được. Cái khoá móc còn lại vẫn được khoá chặt mặc dù tôi nghĩ đây là loại khoá lò so. Nhưng biết mở cách nào, giả sử mở đến hẳn tôi dám mở chiếc quan tài ra chứ chẳng chơi. Kể cũng lạ, tôi có cảm giác sở dĩ mình quan tâm đến cái nhân vật ở trong là vì tôi cho đó là lão quý phái già tính cách phần nào man rợ và nhẫn tâm". Ngày hôm sau hoá ra lại là ngày cuối cùng ông Wraxall lưu lại Raxback. Ông nhận được mấy lá thư về việc đầu tư của ông ở , nếu ông trở về được tốt, thực tế công việc nghiên cứu của ông cũng xong mà đường lại mất nhiều giờ. Do dó ông quyết định còn gì ghi chép nốt, sau đó chia tay mọi người để trở về. Thực tế việc ghi chép và chia tay mất nhiều giờ hơn ông tưởng. gia đình hiếu khách kia nhất định mời ông dùng cơm tối – họ ăn lúc ba giờ - tới sáu giờ rưỡi ông mới ra khỏi Raxback. Ông chầm chậm từng bước bên bờ hồ để tận hưởng cho hết giờ khắc cũng như nơi chốn mà ông đó lần cuối cùng. Tới đỉnh ngọn đồi gần nhà thờ ông chần chừ ít phút nhìn vào cánh rừng vô tận như gần như xa, tối thẫm dưới bầu trời trong xanh màu lá cây. Cuối cùng khi quay , ông chợt nảy ra ý nghĩ phải từ biệt bá tước Magnus cũng như những người còn lại của ga De la Gardie. Nhà thờ còn cách đó độ hai chục mét mà chìa khóa nhà mộ ông biết nơi treo. Ông đứng bên chiếc quan tài bằng đồng và như mọi khi to lên mình "Vào thời ngài, Magnus ạ, ngài có thể là tay côn đồ bất lương" ông "nhưng vì tất cả những lý do mà tôi muốn gặp ngài, hoặc giả…" "Vừa lúc đó" ông kể "bàn chân tôi như có ai đá mạnh vào. Tôi lập tức co chân lại và vật gì đó rơi loảng xoảng nền đá. Đó là chiếc khoá móc thứ ba vốn khoá quan tài. Tôi cúi xuống nhặt nó lên – có Trời chứng giám – tôi chỉ thực, trước khi tôi đứng dậy, có tiếng kim khí động mạnh vào nhau lách cách và ràng tôi nhìn thấy nắp quan tài dựng lên. Tôi hèn nhưng quả là dám đứng thêm phút nào nữa, vọt ngay ra khỏi khu nhà mộ, và lạ quá thể nào quay chìa khóa đóng nhà mộ lại, tôi sợ phát khiếp lên. Khi ngồi trong phòng tôi để ghi chép mấy dòng này (hai mươi phút sau) tôi còn tự hỏi cái tiếng leng keng còn tiếp tục và thực tế có hay . Tôi chỉ biết rằng có cái gì đó còn đáng sợ hơn thế báo động cho tôi, đó là tiếng động hay hình ảnh tôi tài nào nhớ được. Tôi làm gi vậy?" Tội nghiệp ông Wraxall, ngày hôm sau ông lên đường về như dự định, ông về đến an toàn, ấy thế nhưng qua nét chữ viết trái tay cùng những đoạn ghi chép rời rạc, ông tỏ ra bị suy nhược. Các giấy tờ này cùng trong những sổ tay ghi chép của ông đến tay tôi cho thấy tuy phải yếu tố chủ chốt, loại thể nghiệm nào đó của ông. Vì phần lớn chuyến du hành của ông là ở thuyền, có đến sáu lần ông cố gắng vất vả mô tả hành khách cùng , theo kiểu như sau: 24 – Cha xứ làng Skane: áo chùng đen, mũ đen mềm 25 –Thương nhân từ Stockholm đến Trollhattan, áo khoác đen, mũ nâu. 26 – người đàn ông mặc áo khoác ngoài màu đen, mũ rộng vành, người rất cổ. Mục này được kẻ , và thêm vào ghi chép như sau "Cố lẽ giống với số 13, chưa nhìn thấy tận mặt" Xem đến số 13, tôi tìm ra ông ta là cha cố La Mã mặc áo thầy tu. Kết quả tính toán vẫn như nhau. Có 28 người tất cả được liệt kê ra, trong số đó vẫn là người đàn ông mặc áo khoác dài màu đen, mũ rộng, kẻ thứ hai "lùn, mặc áo khoác có mũ trùm đầu". Mặt khác ghi chép luôn kể ra chỉ có 26 hành khách có mặt trong bữa cơm, người mặc áo khoác đen thấy, người lùn cũng vắng mặt. Tới , ông Wraxall lên bờ ở Harwich và lập tức tìm cách để thoát khỏi người nào đó hoặc những người nào đó mà ông xác định được, nhưng tin chắc là đuổi theo ông. Vì vậy ông thuê cỗ xe ngựa, xe độc mã đóng ngựa, ông tinh ở tàu hoả, để băng qua miền quê tới làng là làng Belchamp St Paul. Ông đến gần làng này lúc chín giờ vào đêm tháng tám sáng trăng. Ông ngồi phía trước, qua cửa sổ nhìn ra cánh đống và các bụi cây bên ngoài lao vùn vụt – vì cũng chẳng có gì khác để ngắm. Bỗng nhiên đến ngã tư, góc đường có hai hình người đứng bất động, cả hai trùm áo khoác đen, người cao hơn đội mũ, người thấp có mũ trùm đầu. Ông kịp nhìn thấy mặt họ, vả họ cũng làm động tác nào để ông có thể nhận mặt. Con ngựa nhảy mạnh sang bên rồi phi nhanh, ông Wraxall ngã người ra sau ghế, tuyệt vọng. Hai người này trước đây ông nhìn thấy. Đến Belchamp St Paul, ông may mắn tìm được chỗ trọ đồ đạc sẵn, hai mươi bốn giờ tiếp theo có thể là ông cũng tương đối ổn. Những ghi chép cuối cùng của ông cũng là trong ngày hôm ấy. Chúng đầu đuôi, phóng ra bất kỳ, tuy nội dung đủ sáng tỏ. Ông chờ hai người theo đuổi ông tới thăm – bằng cách nào và khi nào ông biết – và lúc nào ông cũng chỉ kêu lên có mỗi câu "Tôi làm gì nào?" và " có hy vọng nào sao?" ông biết các bác sĩ cho là ông điên, cảnh sát cười vào mặt ông. Cha xứ vắng. Ông biết làm gì khác ngoài việc đóng kín cửa cầu Chúa? Năm ngoái dân ở đó vẫn còn nhớ nhiều năm trước ở Belchamp St Paul có ông quý tộc đến đó vào buổi tối đêm tháng tám, sáng hôm sau chết trong phòng, người ta có điều tra, bồi thẩm đoàn bảy người nhìn váo xác chết ngất cả bảy ai được câu là nhìn thấy cái gì, lời tuyên án là " trừng phạt của Chúa". Người coi nhà dọn chỗ khác ngay trong tuần ấy. ai tìm ra ánh sáng le lói nào của bí mật thể tìm nổi. Năm ngoái, vô tình căn nhà đó rơi vào tay tôi với phần của cải thừa kế. Suốt từ 1863 nó vẫn bị bỏ và xem ra triển vọng chẳng ai thuê, thế là tôi kéo sập nó. Các giấy tờ qua đó tôi tóm lược câu chuyện vừa rồi cho các bạn nghe, được tìm thấy trong chiếc tủ bị quên lãng nằm dưới cửa sổ gian phòng ngủ đẹp nhất của căn nhà.
Chương 8 Còi ơi, ta đến với mi, chú bé của ta "Thưa giáo sư, học kỳ hết, có lẽ ông sắp xa, phải ạ?" người, phải nhân vật trong chuyện này, hỏi vị giáo sư về Bản thể học khi hai người ngồi xuống cạnh nhau trong bữa tiệc ở gian phòng hiếu khách của Đại học St James. Vị giáo sư trẻ, ăn mặc gọn gàng, sạch , năng chính xác. "Vâng" ông ta "bạn bè tôi đợt này định hướng dẫn tôi chơi gôn, tôi định ra bờ biển phía Đông – thực tế là Burnstow (dám chắc ông biết nơi này) độ tuần hay mười ngày để tập gôn cho khá lên. Mai tôi ". "Ồ, Parkins" người ngồi cạnh ông phía bên kia " Burnstow thử đến thăm nơi mà xưa kia là giáo đường của các hiệp sĩ Templars [1] xem sao, cho tôi biết có đáng đào lên chút để khảo cổ mùa hè này nhé" Các bạn có thể hình dung đây là người theo đuổi khảo cổ học, ta cần biết chức vị và tên tuổi vì chỉ xuất ở đoạn đầu này mà thôi. "Nhất định rồi" giáo sư Parkins đáp " cứ mô tả cho tôi biết nơi này ở chỗ nào, tôi cố cho ý niệm về thể ra sao khi tôi trở về, hoặc tôi viết cho về nó, chỉ cần cho hay muốn đến đâu?" "Cám ơn , chẳng phải viết ra đâu. Chẳng là tôi nghĩ đến việc chuyển cả gia đình về hướng Long, và sực nhớ ra rất ít giáo đường được v ẽ bản đồ đâu ra đó thành ra biết đâu tôi có cơ hội làm điều gì đó, hữu ích dựa những ngày xa xưa". Vị giáo sư khịt mũi trước ý nghĩ việc vẽ bản đồ giáo đường thời xưa có thể đem lại ích lợi. Người kia tiếp: "Địa điểm này – tôi rất nghi biết còn vết tích gì đó mặt đất – giờ hẳn phải rất gần bãi biển. Biển ăn vào đất liền khá sâu ở riêng rẻ bờ biển Tây như biết đấy. Theo như bản đồ, tôi cho là cách quán Globe ba phần tư dặm, cái quán ở tận cùng mạn Bắc thị trấn ấy. Thế đến đó ở đâu?" " ở quán Globe chứ đâu!" Parkins "Tôi đặt phòng ở đó. Biết ở đâu được, phần lớn nhà cho thuê đóng cửa vào mùa đông, và người ta cỡ tôi muốn toàn là phòng hai giường cả, bỏ bớt giường ra biết xếp vào chỗ nào, v..v..Tuy nhiên tôi vẫn cần buồng khá rộng vì tôi mang theo nhiều sách vở, định ti ện thể làm số công việc, và mặc dù chẳng hình dung được mình có thêm chiếc giường trống để làm gì, chưa đến hai, trong những lúc gọi là làm công việc nghiên cứu.Nhưng thôi, trong thời gian ấy mà, gọi là sống tạm". "Parkins, có thêm giường trong phòng mà ông cho là sống cho qua ngày đoạn tháng?" nhân vật chất phác ngồi đối diện "Để tôi xuống đó ở vài ngày, làm bạn cùng với ông". Vị giáo sư run nhưng cố cười xã giao. "Rogers, mời cứ việc xuống, còn gì hơn, chỉ sợ chịu thôi, chơi gôn, đúng ?" ", nhờ Trời!" ông Rogers cục mịch đáp. "Những lúc viết lách, tôi ở ngoài sân gôn, ở nhà mình chán chết!" "Ồ, tôi cũng chưa biết, thế nào ở nơi đó chẳng có người tôi quen, nhưng dĩ nhiên, Parkins, nếu thích cứ nhé, tôi tự ái đâu. , như vẫn bảo chúng tôi, bao giờ làm mếch lòng ai". Quả Parkins là người hết sức lễ phép nhưng cũng vô cùng chân . Rogers đánh trúng vào tính cách này. Trong lòng Parkins mâu thuẫn giằng xé, mất độ lát mới trả lời được. "Rogers, nếu muốn biết thực để tôi xem căn phòng có đủ rộng cho hai người ở thoải mái , vả lại để xem (sở dĩ tôi vì cứ thúc ép tôi) có gây trở ngại gì cho công việc của tôi " Rogers cười to. "Parkins! Xin hứa làm trở ngại công việc của , đừng lo. , mà muốn, tôi đến đâu, nhưng tôi nghĩ ít nhất tôi cũng giữ cho ma khỏi vào phòng ". đến đây ông ta nháy mắt và thúc khuỷu tay vào người bên cạnh. Parkins có lẽ trông thấy, đỏ mặt lên. "Xin lỗi Parkins," Rogers tiếp "tôi nên vậy. Tôi biết thích ai khinh suất trong những vấn đề như thế". "Phải," Parkins "nhân tiện tôi cũng thừa nhận luôn là tôi thích ai cách khinh suất đến cái thứ mà gọi là ma. người ở cương vị tôi" ông ta tiếp, hơi cao giọng " thể được coi là thận trọng khi tỏ ra ủng hộ những niềm tin vào đề tài đó. biết đấy, Rogers, hẳn là phải biết chứ, bởi có bao giờ tôi giấu giếm những quan điểm của mình đâu…" ", quả là giấu" Rogers , giọng . "Tôi cho là nếu như nhượng bộ hoặc gần như nhượng bộ quan điểm rằng những thứ đó có thể vẫn tồn tại chẳng khác nào từ bỏ những gì tôi vẫn cho là thiêng liêng nhất. Nhưng có lẽ tôi thành công trong việc làm cho chú ý phải" "Hoàn toàn chú ý đúng hơn, như Dr. Blimber " Rogers ngắt lời, muốn lời của mình chính xác "nhưng xin lỗi Parkins, tôi làm ngừng lời" ", đâu" Parkins "Tôi nhớ Blimber, có lẽ ông ta sống trước thời đại tôi. Nhưng tôi cần thêm. quá hiểu tôi gì". "Vâng, vâng" Rogers vội " cứ , ta tiếp ở Burnstow hay ở đâu đó sau" . Nhắc lại cuộc đối thoại đây là tôi cố truyền đạt cho các bạn cảm tưởng của tôi về Parkins, ông ta có vẻ gì đó của mụ già – tính đàn bà, lề mề, với các lề thói nhặt và – Hỡi ôi! chút hài hước, tuy nhiên niềm tin của ông rất dũng cảm và chân thành, và ông là người đàn ông đáng trọng. Ông là người như vậy hay bạn đọc cứ suy luận ra biết. Ngày hôm sau Parkins rời trường Đại học, tới Burnstow, được quán Globe chào đón, xếp vào phòng rộng hai giường mà ta nghe thấy ở kia, thoải mái nghỉ ngơi để sắp đặt các tư liệu dùng cho công việc cách hết sức gọn gàng, ngăn nắp, cái bàn thuận tiện đặt ở góc xa của gian phòng có ba cửa sổ vây xung quanh, cửa giữa trông thẳng ra biển, cửa bên trái và bên phải quay ra phía Bắc và phía Nam của bờ biển. Phía Nam nhìn thấy làng Burnstow. Phía Bắc nhìn thấy nhà cửa gì hết chỉ thấy bãi biển tựa vào vách đá thấp màu đen. Ngay trước mặt là dải cỏ lớn lắm, đây đó điểm những cái neo, cái tời…sau đến con đường rộng, tiếp theo là bãi biển. biết lúc khởi thủy nó như thế nào chứ nay khoảng cách giữa quán Globe và biển đầy sáu chục mét. Người sống trong quán đa số, dĩ nhiên, là dân đánh gôn, có gì cần mô tả kỹ lắm. Có lẽ người đáng chú ý nhất là cựu quân nhân (ancien millitaire) thư ký của Câu lạc bộ London. Giọng của ông ta toát ra sức mạnh khó tin, ông thuộc loại người theo quan điểm Tin lành ràng. Những quan điểm này có điều kiện thuận lợi đ ể được phát biểu ra sau khi ông tham dự vào việc giúp cha xứ - người đáng mến có xu hướng theo các lễ nghi sinh động ngược lại truyền thống nhà thờ Tân giáo . Giáo sư Parkins, người mà trong những đặc tính chính là can trường, sau hôm đến Burnstow để tập gôn cho khá lên, dành phần lớn giờ trong ngày đầu ở cạnh ông đại tá Wilson này. Buổi chiều – chẳng hiểu quá trình tập luyện có làm ông khá lên chút nào , tôi dám chắc – phong thái của đại tá mang màu sắc ghê gớm quá khiến Parkins dám có ý nghĩ cùng từ chỗ gôn về nhà. Thoáng liếc nhìn bộ ria sáng bóng lên và nét mặt nhuộm màu hồng tươi của Đại tá, Parkins quyết định mình nên khôn ngoan để mặc cho ảnh hưởng của trà và thuốc lá nên ông ta ra sao ra, trước khi bắt buộc phải gặp ông ta vào bữa tối. "Đêm nay ta thả bộ dọc theo bờ biển" Parkins nghĩ " phải đấy, có ánh sáng khá tỏ mà, nhìn cảnh đổ nát mà ông Disney với ta xem thế nào. Chẳng biết chính xác ở đâu, nhưng thế nào ta chẳng phải đụng nó" Parkins thực được điều này. Từ sân gôn ông theo con đường ra bờ biển nhìều đá cuội, chân đạp vào rễ cây kim tước và các tảng đá lớn, cứ thế . Cho đến lúc đứng thẳng lên, nhìn quanh, ông thấy mình đứng mảnh đất nhiều chỗ lồi lõm, các chỗ lồi lên nhìn kỹ là những tảng đá lửa có vữa gắn vào, là lớp đất mặt. Hẳn ông ta đến địa điểm giáo đường rồi đây, ông nghĩ và nghĩ đúng. Xem ra người khám phá phải là được đền đáp, móng còn đủ để chẳng mất công gì mấy cũng hình dung ra được bản đồ chung của giáo đường. Ông mang máng nhớ lại các hiệp sĩ Templars, những người sở hữu nơi này – thường có xu hướng xây cất nhà thờ tròn, các ụ đất gần chỗ ông đứng có vẻ như hình vòng tròn. Thường ít người ngăn nổi mình bị cám dỗ nghiên cứu theo chút kiểu nghệ sĩ sang lĩnh vực phải của họ, chẳng qua muốn tỏ ra nếu làm việc nghiêm túc họ cũng thành công chứ chẳng thua kém gì. Vị giáo sư của chúng ta, nếu như có chút ý nghĩ mọn nào kiểu này chỉ là vì lo lắng muốn làm vừa lòng ông Disney mà thôi. Ông lại từng bước rất cẩn thận trong khu vực vòng tròn, ghi vào sổ tay các đánh giá sơ bộ về kích thước. Sau đó ông bắt đầu xem xét mô đất dài hình thuôn nằm phía Đông vòng tròn theo ông nghĩ là nền của cái bậc hay của bàn thờ. Đầu phía Bắc của mô đất dài, lớp đất mặt bị bong – có lẽ do trẻ con hay sinh vật tự nhiên nào khác. Ông nghĩ, ta thử thăm dò chỗ đất này xem có chứng cứ gì của việc xây cất ngày xưa , ông lấy dao từ trong túi ra và nạo đất. Tự nhiên đưa đến khám phá khác. Nạo đến đâu đất tụt xuống đến đấy, lộ cái hang bé xíu. Ông bật diêm xem cái lỗ này như thế nào nhưng gió quá mạnh nên thực được. Ông dùng dao nạo thêm bốn phía xung quanh thấy đó là cái lỗ nhân tạo được xây hình chữ nhật, đáy và bốn phía chung quanh nhẵ!n. Dĩ nhiên bên trong có gì. Ồ, mà này, nhấc con dao ra thấy chạm tiếng leng keng của kim loại. Đưa tay vào, ông sờ phải vật hình ống nằm dưới đáy. Đương nhiên ông cầm lên, đưa ra ánh sáng – lúc này trời mờ tối – thấy là vật do con người tạo nên, ống kim loại dài độ 10cm, ràng là vật dụng rất cổ đại. còn thấy gì trong chỗ chứa ấy cả mà thời gian muộn, ông muốn tìm tòi thêm nữa. việc ông làm tỏ ra thú vị ngờ đến độ ông quyết định sáng mai bớt ít thời gian vào việc khảo cổ. Ông dám chắc cái vật mình vừa tìm thấy là vật phần nào có giá trị. Trước khi quay về ông nhìn lại nơi đó lần cuối. Trông ảm đạm và trang nghiêm. ánh sáng yếu ớt màu vàng ở phía Tây mờ chiếu sân gôn nơi còn trông thấy cái bóng dáng về câu lạc bộ, tháp bảo vệ bờ biển, đường ánh đèn của làng Aldsey, dải cát nhợt nhạt bị đứt quãng nhiều đoạn bởi con đê biển bằng gỗ đen, biển cả rì rào nhè . Gió lạnh như cắt từ phía bắc thổi phía sau ông khi ông về quán Globe. Sỏi lạo xạo dưới chân ông. Tới bãi cát êm hơn, còn phải vượt qua mấy đoạn đê vắt ngang qua nữa. Nhìn lại lần cuối cùng để ước lượng khoảng cách từ di tích nhà thờ của các hiệp sĩ Templars đến chỗ đứng là bao nhiêu, ông thấy mừng vì triển vọng sắp có bạn cùng đường, dáng hình rất , có vẻ như cố gắng theo kịp ông nhưng tiến lên được bao nhiêu. Tôi muốn ràng là có người chạy nhưng khoảng cách giữa người đó và ông Parkins thay đổi. Ít nhất Parkins nghĩ vậy, và cho rằng mình quen người đó chờ cũng vô ích. Kể ra nơi bờ biển quạnh hiu này mà có người cùng hay quá. Trong những ngày trí óc ông còn tăm tối, ông đọc những truyện gặp gỡ ở những nơi như thế này, nhưng ông muốn nghĩ đến. Tuy nhiên cố nghĩ mà được, ông vẫn cứ nghĩ đến cho tận khi về nhà, đặc biệt là truyện khá giật gân đối với tuổi "Lúc này, trong giấc mơ, tôi trông thấy khi Christian được đoạn ngắn có con quỷ băng qua cánh đồng đến gặp nó" Parkins nghĩ "Ta làm gì nếu như quay lại nhìn thấy dáng hình đen ngòm in nền trời màu vàng và trông nó mang sừng và có cánh? Ta đứng lại hay co cẳng chạy? May mắn là vị quý phái đàng sau ta phải loại ấy và cách ta còn xa lắm. Ừ, mà với tốc độ này về ăn cơm tối kịp. Còn mười lăm phút nữa! Ta phải chạy mất thôi!" Thực tế Parkins còn rất ít thời gian để chỉnh đốn quần áo xuống ăn cơm. Đến khi gặp ông đại tá trong bữa tối, ông mới lây lại được trạng thái bình ổn, và bình ổn này kéo dài trong suốt buổi đánh bài bridge sau đó, bởi giáo sư Parkins của chúng ta là tay chơi bài bridge cừ khôi. Mười hai giờ về ngủ, ông cảm thấy trôi qua buổi tối mãn nguyện. Cứ thế này sống ở Globe hai hay ba tuần trong hoàn cảnh như tối nay, ta chịu được quá chứ, "nhất là" ông nghĩ "ta lại còn tập được cho món chơi gôn khá lên" Dọc hành lang ông gặp người đánh giày ở khách sạn. Người này dừng lại "Xin lỗi ông, khi chải áo cho ông tôi thấy có cái gì ở túi rơi ra, có vẻ mẩu ống gì đó, cảm ơn ông, tôi để lại tủ com mốt, thưa ông, vâng, chúc ông ngủ ngon". Parkins nhớ lại vật mình tìm thấy buổi chiều.Ông tò mò quay , quay lại nó dưới ánh nến. Nhìn ra, nó bằng đúng kiểu cách giống cái còi huýt chó săn, thực tế, mà đúng nó là vậy – cái còi. Ông đặt nó lên môi nhưng vì nó bị lớp cát mỏng lấp kín kêu được ông phải lấy dao cậy lớp cát ra. Vốn là người ngăn nắp, Parkins cạy lớp cát lên mảnh giấy, đem mảnh giấy đó ra cửa sổ đổ. Đêm sáng rực rỡ khi ông mở khung cửa sổ nhìn ra ngoài và đứng lại ngắm cảnh trí ngoài biển, những kẻ chơi đêm muộn còn lang thang ngoài ấy ngay trước cửa quán. Rồi ông đóng cửa sổ lại, hơi ngạc nhiên thấy ở Burnstow người ta thức khuya đến thế, sau đó đem cái còi lại gần cây nến. Có vết đó, phải vết, mà là chữ. Ông lau chút chữ khắc sâu lộ ra, vị giáo sư phải thú tuy nghĩ mãi rồi mà ý nghĩa của nó vẫn tối tăm như những chữ viết bức tường Belshazzar. Có chữ cả ở mặt trước lẫn mặt sau cái còi. mặt là: FLA FUR BIS FLE Mặt kia là: QUIS EST ISTE QUI UENIT "Ta phải nghĩ cho ra mới được" ông nghĩ "nhưng ta hơi kém tiếng La tinh. Ta chẳng biết còi tiếng La tinh nghĩa là gì nữa. Dòng chữ dài hơn kia đơn giản hơn. "Người đến đó là ai?" phải, cách tốt nhất là thổi còi lên gọi tới". Ông thử thổi rồi dừng ngay, vừa ngạc nhiên vừa thấy thích khi nghe tiếng kêu của nó. Tiếng kêu mang vẻ xa xôi đến vô tận, và tuy khẽ khàng dịu dàng, có thể vang xa hàng nhiều dặm xung quanh. Nó là tiếng động mang quyền lực (cũng như số mùi hương) và tạo ra được những hình ảnh trong óc. Trong lúc ông thấy mình nhìn vào khoảng tối mênh mông trong đêm, gió lạnh thổi, chính giữa là bóng hình đơn độc – bận tâm điều gì thể được. Có lẽ ông còn nhìn quang cảnh này thêm nếu như trận gió rất mạnh ùa tới cửa sổ, mạnh và đột ngột đến nỗi ông phải nhìn lên vừa vặn thấy lấp lánh trăng trắng cánh con chim biển đậu ở bên ngoài ô kính tối om. Tiếng còi làm ông mê quá, ông lại thổi thêm lần nữa, lần này mạnh dạn hơn. Tiếng còi to hơn lần trước và nó làm mất ảo ảnh chứ làm thêm như ông nghĩ. Nhưng cái gì vậy? Trời ơi! Làm sao chỉ có vài phút mà gió lạnh đến thế? Luồng gió mới khiếp chứ! Trời! Chốt cửa sổ ăn thua gì! Ái chà! Tắt cả nến! Như sắp thổi tung cả gian phòng này ra! Việc đầu tiên phải đóng cửa sổ lại . Trong thời gian bạn đếm đến hai mươi, Parkins vật lộn với cái cửa sổ, có ảo giác bị áp lực mạnh như phải đẩy tên đạo tặc ra nogài. Cuối cùng tôi lỏng ra, tự cửa sổ đóng vào và cài chốt lại. Giờ ta thắp nến lên thử xem có bị hư hại gì . ! thiếu cái gì cả, ô kính cửa sổ nào bị vỡ. Tuy nhiên tiếng động ít nhất cũng làm cho người trong quán thức giấc. Ông Đại tá giậm chân bên gác và càu nhàu. Gió nổi lên nhanh thế nhưng yếu rất lâu. Nó cứ thổi rầu rì ùa qua ngôi nhà, thỉnh thoảng bật lên tiếng kêu hoang vắng, khiến cho Parkins, dù động lòng cũng phải là nó làm cho những người giàu trí tưởng tượng cảm thấy bất ổn, ngay cả đến những người có chút đầu óc tưởng tượng nào cũng cảm thấy nếu có nó thoải mái hơn. Parkins ngủ được, biết là vì gió, vì kích thích của chơi gôn, hay vì những tìm tòi ở khu giáo đường. Dù sao mất ngủ như thế, ông cứ tưởng tượng ra (bản thân tôi thường trong hoàn cảnh ấy cũng vậy) mình là nạn nhân của nhiều rối loạn tai hại. Ông nằm đếm nhịp tim, tin chắc nó ngừng đập biết lúc nào, rồi nghĩ đến các bệnh phổi, gan, não, v…v…những nghi ngại mà chắc chắn ông xua tan nếu vào lúc ban ngày ban mặt, nhưng ngay lúc đó thể gạt sang bên. Ông có cảm giác đôi chút ấm cúng, nhờ người khác mang tới, khi nghĩ rằng có ai đó cùng hội cùng thuyền với mình. vị khách láng giềng nào đó gần ông (trong bóng tối khó biết ở hướng nào) trở mình sột soạt trong giường họ, giống như ông vậy. Sau đó Parkins nhắm mắt lại và quyết tâm ngủ. Đến đây trạng thái kích thích quá độ lại thể ra bằng những hình ảnh trong óc. Expento Crede – tin tưởng do có kinh nghiệm rồi – hình ảnh bây giờ cảm giác xuất trong óc người nhắm mắt rồi vốn hợp thị hiếu ông cho nên ông lại mở mắt ra rồi cố xua đuổi nó. Kinh nghiệm của Parkins trong trường hợp này đáng nản. Hình ảnh trước mắt ông vẫn tiếp tục, dĩ nhiên khi ông mở mắt ra hết, cứ nhắm lại là đâu lại vào đó, và cứ thế diễn biến nhanh hơn cũng chậm hơn. Ông trông thấy như sau: đoạn dài bờ biển đá sỏi xen cát, bị con đê đen ngăn thành nhiều khúc, chạy thẳng xuống nước – cảnh sao mà giống buổi dạo của ông lúc ban chiều, chỉ vì có cột mốc nào nên ở đâu. Trời tối, có cảm giác sắp bão, vào lúc chiều đông, mưa và lạnh. bãi biển hoang vắng đó ban đầu có ai. Sau đó ở tít xa có vật gì đen đen bập bềnh, lát sau lộ ra người chạy, nhảy, vượt qua các con đê, cứ vài giây lại quay nhìn ra đằng sau. Càng đến gần, người đó càng tỏ ra những lo lắng mà còn hoảng sợ, mặc dù khuôn mặt phân biệt được là ai, người đó hầu như kiệt lực, nhưng vẫn cứ tới, các trở ngại bên đường càng ngày càng khó vượt qua. "Liệu ta qua được như lần trước ?" Parkins nghĩ "vì nó có vẻ cao hơn vật chắn trước ". Có đấy. Nửa trèo, nửa lao người, ta rơi ầm xuống bên (bên người đứng thôi). Đến chỗ này thể dậy được nữa rồi, ta nằm phủ phục bờ đê nhìn lên với nỗi đau đớn đầy lo âu khắc khoải. biết được là người chạy này vì sao mà sợ, nhưng bây giờ nhìn thấy rồi. Ở xa tận cùng bờ biển có cái gì nhạt màu cứ rung rinh như như , thoắt thoắt lại nhàng, đều đặn, hình ảnh ngày càng làm lộ ra hình người nhợt nhạt, áo quần phấp phới khó xác định. Cái cách nó cử động khiến Parkins muốn nhìn cận cảnh. Nó đứng lại, giơ cao hai cánh tay, cúi mình xuống cát, sau đó chạy lom khom qua bãi biển xuống mé nước rồi lại chạy lên, rồi thẳng mình lại tiếp tục chạy thẳng về phía trước với tốc độ phát sợ làm người ta phải ngạc nhiên. Đến lúc kẻ đuổi theo hết liệng sang phải lại liệng sang trái chỉ cách con đê nơi người chạy trốn nấp có vài mét. Sau mấy lần liệng qua liệng lại vẫn có hiệu quả, dừng, đứng thẳng lên, hai tay giơ cao rồi cứ thế đâm thẳng vào con đê. Đến đây Parkins lại bị lay chuyển quyết tâm cố nhắm mắt. Với bao nỗi lo ngại, thị giác chớm mắt bệnh não làm việc quá nhiều, hút thuốc lá vô độ, v…v.. Ông quyết định dậy thắp nến, lấy quyển sách ra, thà thức đêm còn hơn bị giày vò bởi cảnh trí diễn ra ngừng ấy mà ông thấy khá nó phản ảnh cách khốn khổ cuộc dạo chơi của ông cũng như những ý nghĩ của ông lúc ban ngày. Tiếng diêm quẹt vào vỏ hộp diêm và ánh sáng loé lên hẳn làm cho các sinh vật đêm – chuột hay con gì đó giật mình, bởi ông nghe thấy có tiếng chạy băng qua sàn từ phía cái giường có tiếng loạt soạt. Trời ơi, diêm tắt rồi! là khổ! May thay que diêm thứ hai cháy tốt hơn, nến được thắp sáng được lấy ra. Parkins đăm đăm nhìn vào đó chẳng bao lâu ngủ thiếp ngon lành. Lần đầu tiên trong cuộc đời ngăn nắp khôn ngoan của mình, ông quên tắt nến thành ra vẫn le lói nơi cái giá và nhiều giọt mỡ nến bị dây lại mặt bàn. Ăn sáng xong, ông trở về phòng, mặc quần áo chơi gôn. Ông lại may mắn có ông Đại tá làm bạn chơi gôn.Vừa xong tớ bước vào. "Ồ thưa ông, ông có muốn thêm chăn ạ?" "A, cám ơn . Vâng, thêm cho chiếc. Trời hơi gió lạnh". đầy tớ mang chăn lại rất nhanh. "Thưa để vào giường nào ạ?" ta hỏi. "Giường nào ư? Giường tôi ngủ tối qua ấy!" Ông giơ tay chỉ. "Ồ, xin lỗi ông, hình như ông sử dụng cả hai giường phải, hôm nay chúng tôi phải dọn giường cả hai bên" " ? Lạ quá nhỉ? Rất vô lý. Tôi hề đụng chạm vào cái giường bên kia, chỉ đặt có ít đồ đạc lên đấy thôi. Trông có vẻ như có người ngủ ở đó à?" "Vâng" đáp "mọi thứ nhàu nát cả, ném lung tung, xin lỗi ông, người nằm trong đó có vẻ ngủ được ngon giấc" "Trời ơi" ông Parkins "có lẽ khi dỡ đồ đạc ra khỏi vali và sắp xếp chúng, tôi để lộn xộn hơn tôi tưởng. Xin lỗi làm phiền mất công thêm. Tôi đợi người bạn, quý ông từ Cambridge đến ở cùng hai hôm, có được ?" "Ô thưa ông được ạ. Cám ơn ông. có gì phiền đâu ạ." ta ra, khúc khích cười với mấy tớ khác. Parkins ra , quyết tâm luyện cho khá môn gôn. Tôi rất vui mà với các bạn rằng, ông ta khá thành công trong vụ này, thành ra ông Đại tá, hơn ngán ngẩm với triển vọng cặp với Parkins ngày thứ hai, trở nên vui chuyện khi buổi sáng qua dần. Giọng ông oang oang vang các ngôi nhà, đúng như các thi sĩ loại xoàng của chúng ta "chẳng khác gì tiếng chuông lớn vang trong tháp chuông nhà thờ. Ông ta : "Đêm qua có cơn gió kỳ quái. Ở ngôi nhà cổ của tôi chúng tôi hẳn phải bảo có ai huýt còi gọi gió về". " ư ông?" ông Parkins bảo "Thế ra vùng ông ở, người ta vẫn còn dị đoan tin vào chuyện đó ư thưa ông?" "Tôi biết gì về dị đoan lắm" ông Đại tá trả lời Ở Đan Mạch hay Na uy cũng như bờ biển phía tây cũng tin như vậy cả. Theo kinh nghiệm của tôi thể nào cũng có cái gì đó ở tận gốc rễ những gì mà người nông thôn tin, nó truyền từ thế kỷ này sang thế kỷ khác kia đấy. Nhưng kìa, đến lượt kìa" Khi cuộc chuyện tiếp tục, Parkins hơi ngập ngừng : "Về chuyện ông vừa rồi ấy mà, Đại tá à, tôi phải với ông là quan điểm của tôi về những chuyện như thế này rất mạnh mẽ, thực tế tôi là người bao giờ tin ở cái gọi là "siêu nhiên"" "Ủa!" ông Đại tá "ông định bảo tôi ông tin là người ta nhìn được tương lai, hoặc thấy ma, hoặc đại loại như vậy?" "Bất cứ cái gì đại loại như vậy" Parkins đáp, chắc như đinh đóng cột "Hừ" ông Đại tá "đến mức ấy ông chẳng hơn gì tay Sadducees [2] là mấy" Parkins định đáp lại là theo ý kiến ông, Sadduccees là những người lý trí nhất mà ông được đọc trong Kinh Cựu Ước, nhưng cảm thấy nghi hoặc biết có phải Kinh Cựu Ước quá nhiều về những người đó nên ông chỉ cười trừ trước buộc tội đó. "Vâng, có lẽ tôi như vậy thực" ông "Nhưng…Ở đây, nhóc con, đưa cái móc ấy đây! Xin lỗi Đại tá…Giờ tôi với ông về lý thuyết huýt còi gọi gió. Những quy luật điều chỉnh gió thực tế ai biết gì đâu. Những người đánh cá chẳng hạn, cũng biết. người đàn ông hay đàn bà lập dị nào đó, hoặc người lạ nào đó, cứ thường xuyên có mặt ở bờ biển vào giờ bất thường, vẫn bị người ta nghe thấy huýt còi, sau lúc gió lên rất mạnh, người biết nhìn trời hoặc có phong vũ biểu, có thể tiên đoán gió nổi. Dân ở làng đánh cá bình thường làm gì có phong vũ biểu, chỉ nắm được số quy luật thô thiển về dự đoán thời tiết. Người lập dị được coi là có thể gọi gió cũng là điều hiển nhiên, biết đâu ta hoặc chị ta cố tình muốn được mệnh danh có tài ấy? Bây giờ về trận gió đêm qua, chính tôi thổi còi. Tôi thổi hai lần vào cái còi ông ạ, và ràng là gió trả lời tôi. Giá như có ai trông thấy tôi". Thính giả của Parkins xem ra hơi sốt ruột, bồn chồn trước bài diễn thuyết, còn Parkins, tôi sợ rơi vào tình cảnh diễn giả, nhưng đến câu cuối cùng ông đại tá ngừng hẳn lại. " huýt còi ấy ư?" ông ta hỏi " dùng cái còi nào vậy? Đánh cú này " "Về cái còi mà ông hỏi ấy, khá lạ lùng. Tôi để trong…À , ở phòng tôi. Thực tế tôi mới tìm thấy nó tối hôm qua" . Rồi Parkins kể lại tích tìm ra cái còi, nghe thấy thế, ông Đại tá làu bàu, bảo là ở địa vị của Parkins ông ta hẳn phải thận trọng lắm khi sử dụng những vật của lô những kẻ theo Giáo hoàng, những người mà chung, ta có thể khẳng định nào ta có biết họ định giở trò gì. Từ đề tài này ông Đại tá lại nghĩ sang những trò ác ý của Cha xứ, người mà Chủ nhật tuần trước cho biết thứ sáu là ngày Thánh Tông đồ St Thomas, và ở nhà thờ có làm lễ lúc mười giờ. Những trò như vậy khiến ông Đại tá suy ra rằng Cha xứ này là người lén lút theo Giáo hoàng, nếu phải là tu sĩ dòng Tên, và Parkins, ý nghĩ theo kịp vị Đại tá trong lĩnh vực này, tán đồng quan điểm của ông ta. Tóm lại, buổi sáng hôm đó họ hợp nhau quá đỗi, đến nỗi ai tới việc xa nhau sau bữa ăn trưa nữa. Cả hai lại cùng chơi gôn với nhau buổi chiều, cách khác, họ quên mọi cho đến khi ánh sáng dần tắt. Parkins nghĩ đến việc tiếp tục thám hiểm khu tàn tích giáo đường, nhưng chẳng có gì quan trọng, hôm nay ngày khác, thế nào chẳng có lúc về cùng đường với ông Đại tá. Đến góc đường rẽ về nhà, ông Đại tá suýt ngã vì đứa bé chạy xổ tới hết tốc lực, gặp ông rồi nó cứ túm chặt lấy ông mà thở hổn hển. Vị quân nhân lúc đầu còn trách móc tới khi nhận ra đứa bé hoảng sợ được nên lời, nó mãi ra đầu đuôi gì cả. Lúc đứa bé thở lại bình tĩnh nó tru lên và ôm chặt lấy chân ông. Cuối cùng nó thả chân ông ra, nhưng vẫn tiếp tục kêu thét. "Chuyện gì xảy ra với cháu vậy? Cháu làm gì? Cháu trông thấy cái gì?" Hai người đàn ông hỏi. "Trời, nó vẫy cháu qua cửa sổ" thằng bé than vãn, "cháu chẳng thích thế tí nào" "Cửa sổ nào?" Đại tá hỏi "Cứ bình tĩnh nào" "Cửa sổ mặt trước của khách sạn ấy" thằng bé . Đến đây Parkins nghĩ nên cho thằng bé về nhà là hơn nhưng ông Đại tá chấp thuận, muốn hiểu đến nơi đến chốn việc, để đứa trẻ hoảng sợ như vậy rất nguy hiểm bởi nếu người lớn nghe chuyện chế giễu nó khổ cho nó. Và ông ta hỏi hỏi lại thằng bé, được biết câu chuyện đầu đuôi như sau. Nó chơi bãi cỏ trước khách sạn Globe với vài đứa nữa, chúng chuẩn bị về nhà uống trà chợt nó nhìn lên cửa sổ phòng trước khách sạn có cái gì vẫy vẫy nó. Đó là dáng người hay sao ấy - ở xa quá mặt – nó cứ vẫy, mà phải là người . Phòng có ánh sáng hay ư? . thấy ánh sáng trong phòng. Cửa sổ nào? Tầng trệt hay tầng hai? Tầng hai, cái cửa sổ to mà hai bên có hai cái nữa ấy. "Thôi được rồi cháu" ông Đại tá sau khi hỏi thêm vài câu nữa "Giờ chạy về nhà . Có lẽ có người nào đó có ý định làm cháu giật mình thôi. Lần sau, như đứa bé trai quốc dũng cảm, ném cho hòn đá, mà , gặp bồi, hay chính ông Simpson, chủ quán ấy, ông ta bảo cháu nên làm gì." Mặt đứa bé lộ vẻ nghi ngờ, chắc gì ông Simpson tin lời nó, nhưng ông Đại tá làm như để ý thấy, tiếp tục . "Đây, cho cháu đồng sáu xu, à mà đồng silling, về nhà , đừng nghĩ đến chuyện ấy làm gì nữa". Đứa bé chạy , cám ơn rối rít. Đại tá và ông Parkins vòng ra trước mặt quán Globe thăm dò tình hình. Chỉ có mỗi cái cửa sổ theo đúng mô tả họ vừa được nghe. "Lạ " Parkins bảo "chính là cái cửa sổ phòng tôi thằng bé vừa . Đại tá, ông lên buồng với tôi chút. Để xem thử có ai dám tự do vào buồng tôi ?" Họ tới hành lang, Parkins tiến tới làm động tác mở cửa, sau đó dừng lại tìm trong túi. "Lạ hơn tôi tưởng đấy" ông nhận xét thêm "Sáng nay tôi khoá cửa cơ mà. Bây giờ vẫn khoá, mà chìa khoá đây" ông giơ chìa khoá lên "Nào, nếu như đầy tớ có thói quen vào buồng khách buổi sáng trong khi khách vắng tôi tán thành chút nào" Ý thức được tình hình, ông mở khoá cửa (cửa có khoá ), rồi thắp nến lên. , mọi thứ vẫn đâu vào đó cả. "Kìa, cái giường của " Đại tá Wilson . "Xin lỗi, đây phải là giường tôi" Parkins . "Tôi dùng cái giường này.Nhưng quả có ai nghịch ở đây" Quả vậy, khăn giường chất thành đống và bị xoắn vặn nhàu nát. Parkins suy nghĩ. "Hẳn là" cuối cùng ông "hôm qua dỡ đồ đạc ra tôi làm nát khăn giường mà họ chưa xếp lại cho gon ghẽ. Có lẽ đây tớ vào dọn giường, thằng bé trông thấy họ qua cửa sổ, họ gọi thằng bé, sau đó khoá cửa ra. là vậy rồi" " ông gọi chuông hỏi xem sao" Đại tá bảo vậy và Parkins nghe lời. đầy tớ xuất , ngắn gọn lại, khai là dọn giường buổi sáng, lúc ông Parkins còn ở nhà, sau đó hề vào lại trong phòng. ta cũng có chìa khoá. Ông Simpson giữ chìa khoá. Thử hỏi ông Simpson xem có ai lên phòng này . rối tinh rối mù. Điều tra mất vật gì, Parkins nhớ lại để bàn các vật nào, có vụ chơi khăm nào cả. Ông bà Simpson đều để cho bất cứ ai giữ chìa khoá dự trữ của căn phòng trong người. Parkins nhìn nhìn lại thấy trong cử chỉ của ông chủ, bà chủ, tớ nét tội lỗi nào, ông nghĩ rằng đứa trẻ bịp ông Đại tá. Ông Đại tá, dù có thói quen, cứ im lặng và trầm ngâm suy nghĩ suốt bữa cơm tối cũng như suốt buổi tối ấy. Khi tạm biệt Parkins để ngủ, ông ta thầm khá cộc lốc. " biết phải tìm tôi ở đâu rồi, nhỡ ra đêm hôm cần…" "À vâng, cám ơn Đại tá, nếu cần tôi gọi nhưng chắc chẳng có chuyện gì làm phiền ông đâu. Nhân đây" Parkins "Tôi chưa cho ông xem chiếc còi cổ mà tôi chuyện với ông phải ? Đây, nó đây" Ông Đại tá xoay xoay lại cái còi dưới ánh nến cách thận trọng. "Ông có nhìn các chữ viết đó ?" Parkins hỏi, rồi cầm lại cái còi. ", ánh sáng này nhìn thấy gì được! định làm gì với nó?" "Ồ, khi về đến Cambridge, tôi đưa cho nhà khảo cổ để xem họ nghĩ thế nào, rất có thể nếu nó đáng giá tôi biếu nó cho viện bảo tàng nào đó" "Hừ" ông Đại tá "Phải, có thể đúng. Theo tất cả những gì mà tôi biết , nếu nó là của tôi ấy à, tôi vứt nó xuống biển. Nhưng thôi chuyện làm gì, tôi mong đây là bài học cho trong cuộc đời. Hy vọng có thể. Tôi chắc thế. Thôi, chúc ngủ ngon" Ông ta quay , để mặc Parkins đứng ở lại chân cầu thang định gì đó mà vẫn chưa kịp. Chẳng mấy chốc ai về phòng nấy. Rất may cửa sổ phòng vị giáo sư chẳng có treo màn. Đêm trước ông nghĩ tới điều này nhưng đêm nay triển vọng trăng sáng, nếu trăng lên cao soi đúng vào giường ông nằm đánh thức ông dậy. Nhận thấy thế, ông ngán ngẩm quá nhưng vì là người có biệt tài, ông cuối cùng cũng tạo nên được màn chắn bằng tấm mền du lịch, cái gậy và cái ô, chúng mà đứng vững là hoàn toàn che được ánh trăng khỏi chiếu vào giường. Sau đó ông cảm thấy rất ấm cúng trong chiếc giường của mình. Sau khi đọc tài liệu khá căng và dài để tạo cơn buồn ngủ, ông đưa ánh mắt ngái ngủ liếc quanh phòng lượt, thổi tắt ngọn nến rồi ngả đầu xuống gối. Ông ngủ say khoảng hay hai tiếng chợt thức giấc vì tiếng lạch cạch rất khó chịu. Trong lúc ông hiểu ra cái màn cửa do ông công phu chế tạo bị đổ, trăng vằng vặc soi vào giữa mặt ông. Chán quá mất! Dậy để làm lại cái màn cửa chăng? Hay cố ngủ nếu như ngủ được? Mất mấy phút nằm suy nghĩ, ông bỗng quay người mở to mắt lắng nghe. Chắc chắn có tiếng động ở phía cái giường trống phía bên kia căn phòng. Ngày mai ông bảo cho khiêng bởi ràng có chuột hay con gì chơi đùa đó. Lại yên rồi. Mà ! Lại rung chuyển. Loạt tiếng động rung lên quá mức chuột hành. Tôi có thể hình dung hoang mang hoảng sợ của vị giáo sư bởi cách đây ba mươi năm tôi có giấc mơ như thế, nhưng có lẽ độc giả khó hình dung được hoảng loạn của ông khi ông nhìn thấy hình người đột ngột ngồi dậy chiếc giường bỏ . Ông nhảy vọt cái khỏi giường, chạy ra cửa sổ, nơi có thứ vũ khí duy nhất của ông là cái gậy đó dựng cái màn cửa mới tạo thành. thể quay ra chiều hướng vô cùng tệ hại, làm như vậy, ông khiến cho cái nhân vật giường bên kia nhàng trượt khỏi giường êm ru và đứng tấn, hai cánh tay duỗi ra tại vị trí giữa hai giường, và trước cánh cửa ra vào. Nhìn thấy thế Parkins bối rối. Ý định chạy qua nó để thoát ra cửa cũng khó lòng lắm. Chạm vào nó ư? thể được, còn nếu như chạm vào ông thà ông lao ra cửa sổ. Nó đứng lúc trong dải bóng tối thành ra thấy mặt. Bây giờ nó bắt đầu cử động, cúi người xuống và ngay lập tức bất cứ ai nhìn vào cũng hiểu được , nỗi niềm kinh hãi nhưng mình, là nó mù bởi hai cánh tay bọc vải của nó sờ soạng theo kiểu thấy đường. Quay nửa người, nó sực nhớ ra chiếc giường mà nó vừa rời bỏ, thế là nó chạy tới đó, cúi xuống sờ tìm gối theo cách làm Parkins tưởng tượng nổi, phát rùng mình. Khoảng vài phút nó thấy cái giường trống trơn, thế là nó chuyển ra vùng có ánh sáng và quay ra phía cửa sổ, lần đầu tiên bộc lộ mình là cái giống gì. Parkins thích ai hỏi ông về điều này, nhưng có lần ông tả cho tôi nghe, theo tôi hiểu ông chỉ nhớ nó kinh tởm. Kinh tởm đến cùng cực, tức là cái mặt đó giống cái khăn giường nhăn nhúm, vẻ mặt đó thể cái gì, ông nhìn ra được hoặc muốn kể lại, chỉ biết chắc điều, ông sợ nó gần phát điên. Nhưng ông có giờ ngắm nhìn nó lâu. Nó vút ra giữa phòng nhanh tưởng tượng được, và rồi nó cứ dò dẫm, khua khoắng, mảnh vải khăn gì dó quệt vào mặt Parkins. Parkins dừng được, kêu lên tiếng kinh tởm – dù biết rằng tiếng kêu lúc này rằng nguy hiểm. Quả nhiên nó làm cho nhân vật kia định hướng được chỗ ông đứng. Nó nhảy bước tới chỗ ông thế là ông đành lùi lại phía cửa sổ ở đàng sau, thét lên tiếng the thé cao hết cỡ, cùng lúc, bộ mặt bằng vải kia ghé sát vào mặt ông. Vừa vặn, có thể vào đúng giây phút cuối cùng, giải thoát tới, như các bạn đoán được, ông Đại tá đá bung cửa ra, bắt gặp nhóm người kinh khủng ở bên cạnh cửa sổ. Tới gần cái chỉ còn lại tức là ông Parkins. Ông này ngã ngất phòng, cạnh bên là đống khăn giường. Đại tá Wilson hỏi han gì hết, lo giữ cho đừng có ai vào buồng rồi đưa Parkins vào giường, bản thân ông đắp tạm tâm thảm rồi nằm luôn ở giường bên kia cả đêm. Sớm hôm sau Rogers đến, được đón tiếp long trọng hơn nhiều so vừa giá như đến sớm ngày, cả ba hội lại trong phòng vị giáo sư. Cuối cùng ông Đại tá rời khỏi khách sạn mang theo vật gì đó giữa ngón tay cái và ngón trỏ rồi ném mạnh ra biển tới nơi xa nhất mà cánh tay khoẻ mạnh có thể ném được. Sau đó cái gì đó bị đốt cháy ở sau khách sạn Globe vì có khói bốc lên. thể chính xác được thêu dệt chắp vá thế nào để giải thích cho nhân viên khách sạn cũng như khách trọ tôi biết lắm. Có điều, vị giáo sư được giải toả khỏi dư luận cho là bị điên, cũng như khách sạn khỏi mang tiếng là có ma ám. Có lẽ chẳng cần phải hỏi cái gì xảy đến cho Parkins nếu như ông Đại tá đến kịp thời. Chắc hẳn rơi ra ngoài cửa sổ hoặc mất trí khôn. Nhưng cũng cái sinh vật được còi gọi tới có thể làm được gì ngoài việc làm cho người ta sợ. Cũng chẳng có vật chứng nào cụ thể ngoài cái khăn giường nó dùng làm chính thân nó. Vị Đại tá nhớ lại việc gần giống thế ở Ân Độ, nghĩ rằng nếu Parkins đến gần nó giáp lá cà hẳn nó cũng chẳng làm gì được nhiều ngoài việc gây sợ. Toàn bộ việc, ông , nó có thể dùng để chứng minh cho ý kiến của ông về nhà thờ La Mã. Chẳng cần phải các bạn cũng hiểu số quan điểm của vị giáo sư bớt rạch ròi hơn trước. Hệ thần kinh của ông cũng bị ảnh hưởng. Ông thể nhìn vào cái áo choàng thâm treo cánh cửa bất động, cảnh thằng bé nhìn rách rưới đứng giữa cánh đồng chiều đông lạnh cũng làm ông mất ngủ nhiều đêm. Chú thích: [1] Templars hay Các Hiệp sĩ của Giáo đường, thuộc tổ chức nửa tôn giáo nửa quân đội rất có thế lực được thành lập ở Jesusalem vào năm 1119, bao gồm các thành phần giàu có sau trở thành các chủ ngân hàng hoặc các ông hoàng châu Âu. Năm 1312 giáo hoàng Clement V giải tán tổ chức này theo xúi giục của vua nước Pháp [2] Thành phần giáo phái Do Thái ngược lại với phái Do Thái sùng tín.
Chương 9: Kho tàng của tu viện trưởng Thomas "Verum usque in praesentem diem mutla garriunt inter se Canonici de abscondito quadam istius Abbatis Thomae thesauro, quem saepe, quan quam adjuc incassum, quaesiverunt Steinfeldenses. Ipsum enim thomam adjuc florida in aetate exsitentem ingentem quri massam circa monasterrium defosise perhibent, de quo multoties interrogatus ubi esset, cum risu resondere solitus erat "Job, Johammes, et Zacharias vel vobis vel posteris indicabunt", idemque aliquando adiicerce se invernturis minime invisurum. Inter alia huisus Abberto opera, hoc memoria praecipue dignum iudico quest fenstrammagnam in orientali parte alae australis de ecclesia sua imaginibus ptiome in vitro deiectre impleverit: id quod et ipsius effigies et insignia ibideum posita demonstrant. Domum quoque Abbatialem dem totam restaruravit, puteo in atrio ipsius effosso et lapidelem marmoreis pulchre caelatis exornato. Decessit atuerim morte aliquantulum subitanea perculsus, aetatis mort anno lxxxii, incarnationis veo Dominicae mdxxix" "Chắc ta phải dịch đọan này ra thôi" nhà khảo cổ học tự nhủ sau khi chép xong mấy dòng chữ của quyển sách quý hiếm và được truyền bá rất rộng Sertum Stindeldum Norbertinum ( quyển sách miêu tả tu viện Premonstratensis cùng cbsn của các tu viện trưởng xuất bản ở Cologne năm 1712 bởi Albert Erhard, người sống tại nơi này. Tên gọi Norbertinum là từ tên tu viện trưởng Nobert xây dựng nên dòng tu này – dòng tu mà th' Norbert lập ra năm 1120 ở Premonte gần Laon) "Làm gì trước hết cũng cứ phải dịch nó ra " và vì vậy đoạn được nhanh chóng dịch ra như sau: "Cho tới nay, có rất nhiều lời đồn đại giữa các giáo sĩ về kho tàng bí mật nào đó của Tu viện thánh Thomas, nhiều tu sĩ ở Steinfeld tìm mà thấy. Truyện kể rằng Thomas, hồi còn trẻ khoẻ, có giấu lượng vàng rất lớn ở dâu đó, ngay trong tu viện. Người thường hay hỏi ông nó ở đâu, ông chỉ cười bảo "Hỏi Julius và Zechariah bảo cho các ông hoặc các tu sĩ nối nghiệp các ông" Đôi khi ông thêm rằng chẳng có gì mà hài lòng với người nào tìm ra nó. Trong số các công trình mà vị tu viện trưởng này thực , tôi phải đặc biệt kể đến việc ông cho sơn nhiều hình ảnh rằng đẹp ô kính cửa sổ lớn phía đông nam của nhà thở có hình nộm và gia huy của ông chiếc cửa sổ làm chứng. Ông phục hồi lại phần lớn nơi ở của tu viện trưởng, đào cái giếng trong sân, trang trí nhiều hình ảnh rất đẹp bằng đá hoa cương. Ông chết đột ngột năm 62 tuổi, đó là năm 1529 sau Công nguyên". Vậy mà nhà khảo cổ có trước mặt là tài liệu để dò xem các cửa sổ sơnó của nhà thờ tu viện Steinfeld đến ở những đâu. lâu sau cách mạng, khối lượng lớn các cửa sổ được đưa từ các tu viện bị tan rã ở Pháp và Bỉ tới đất nước này, có lẽ giờ chúng được dùng để trang trí nhiều nhà thờ của giáo khu, nhà thờ lớn, cũng như nhiều nhà thờ của tư nhân. Tu viện Steinfeld là trong những kẻ cống hiến miễn cưỡng nhất các của vật nghệ thuật của chúng ta (tôi trích dẫn đoạn mở đầu nặng nề chán ngắt của quyển sách mà nhà khảo cổ học) phần lớn các ô kính cửa sổ của tu viện này được xác định mấy khó khăn nhờ ở những chữ viết kính đề cập đến thư viện, hoặc chủ đề của các hình vẽ mà nhờ đó người ta biết các câu chuyện kể nằm trong hệ tác động nào. Đoạn bắt đầu của câu chuyện này hướng nhà khảo cổ theo luồng xác định khác. Ông nhìn thấy trong nhà thờ của tư nhân ba tấm hình lớn, mỗi tấm chiếm trọn cửa sổ, ràng do cùng nghệ sĩ với phong cách Đức thế kỷ mười sáu, nhưng cho đến nay là người địa phương nào. Chúng thể – hẳn làm bạn ngạc nhiên – ba vị thánh JOB PATRAIRCH, JOHANNES EVANGELISTA, ZACHARIAS PROPHETA, mỗi người cầm quyển sách hoặc cuộn giấy, trong đó viết câu trong tác phẩm của họ. Nhà khảo cổ ghi nhận điều lạ là nó khác với những gì trích từ sách Vulgild ông có dịp đọc. cuộn giấy trongtay Job ghi "Autor locus in quo absonditur" (lẽ ra thành phố là 'conflatur', [1] ", cuốn sách của John là "Habent in vestimentis suis scriptum quam nemo novit" [2] ("investimento scriptum" là trích câu thơ khác), Zacharias có câu "Syper lapslide unum Septem oculi sunt" [3] (duy nhất câu này đúng với trong văn bản) Rồi hơn nữa là hiểu vì lý do gì mà ba vị đó cùng đứng với nhau trong cái cửa sổ. Chẳng có mối liên hệ nào giữa họ, kể cả về mặt lịch sử, điển hình là học thuyết, thành ra nhà khảo cổ chỉ có thể cho rằng họ nằm trong cả khối lớn các giáo đồ và các Tông đồ được vẽ đầy kịt toàn bộ các cửa sổ của phòng ghi chép của ngôi nhà thờ lớn. Nhưng đoạn trong sách "Sertum" lại thay đổi quan niệm này, bởi nó dẫn ra rằng tên của ba nhân vật được vẽ kính cửa sổ nhà thờ của Chúa công ở luôn môi của Tu viện trưởng Thomas von Bauhausen ở Steinfeld, thành ra ông ta mới cho sơn lên cánh cửa sổ như thế chứ, có thể là vào năm 1520. Cửa sổ ở phía Nam nhà thờ tu viện ông . Chẳng phải đoán được hình ành này nhất định là phần công trình của tu viện trưởng Thomas rồi, cần xem xét kỹ tấm kính mới khẳng định được hoặc loại bỏ giả thiết này . Và vì ông Somerton là người rỗi rãi, ông lên đường ngay, thăm lại ngôi nhà thờ kia. Phỏng đoán của ông được khẳng định hoàn toàn. những phong cách và kỹ thuật sơn tấm kính phù hợp với niên đại và vị trí đòi hỏi, mà tấm kính cửa sổ khác của nhà thờ ông tìm thấy số tấm kính được biết bán cùng với những hình ảnh , có vẽ gia huy của tu viện trưởng Thomas . Trong những thời kỳ xen kẽ, các tìm kiếm của ông Somerson bị ám ảnh dữ dội bởi những lời xì xào về kho tàng được chôn giấu, ông suy nghĩ lại và ngày càng cho rằng nếu như tu viện trưởng Thomas có ý gì đó trong câu trả lời bí hiểm cho những người đặt câu hỏi hẳn ông ta nó rằng, bí mật này nằm ở cánh cửa sổ nào đó tại nhà thờ tu viện của ông. Hơn nữa thể chối cãi được là đoạn đầu tiên trong số những đoạn văn được chọn lọc cách khó hiểu trong các cuộn giấy vẽ ô kính cửa sổ thế nào cũng có liên quan đến nơi chôn giấu của. Vì vậy mỗi vết tích, mỗi nét nổi bật nào có thể giúp làm sáng tỏ điều bí mà ông chắc chắn tu viện trưởng Thomas để lại cho hậu thế, ông đều ghi chép vô cùng tỉ mỉ, sau đó quay về ngôi thái ấp của mình ở Berkshire, mất khá nhiều dầu đèn nghiên cứu các dấu vết và hình vẽ. Sau ba tuần, hôm ông Somerton gọi người hầu đến thu xếp hành lý cho chủ và cho bản thân ta du lịch chuyến ngắn ngày ra nước ngoài. Ta chưa cần theo chân ông ta vội. Ông Gregory, mục sư của Parsbury, ra ngoài trước giờ ăn sáng. Đó là buổi sáng mùa thu rất đẹp, ông bộ tới tận cánh cổng dẫn vào con đường cho xe ngựa lên toà nhà, với mục đích gặp người đưa thư, đồng thời hít thở khí trong lành. Hai việc tốt cả. trước khi kịp trả lời đến hơn chục câu hỏi linh tinh mà mấy đứa cháu theo ông ngây thơ đưa ra, trông thấy người đưa thư, trong số thư từ gửi đến có bức mang dấu bưu điện ngoại quốc, tem ngoại quốc (đám trẻ con nhà Gregory tha hồ tranh nhau) và gửi đến tên ông, chữ viết đúng là của người , nhưng là người học vấn. Khi mục sư mở ra và nhìn chữ ký, ông nhận ra bức thư là từ tên hầu cận thân tín của bạn ông, điền chủ Somerton. Nó như sau: Thưa ngài kính mến, Tôi vô cùng lo lắng về ông chủ của tôi nên mong ngài rủ lòng đến ngay cho. Ông ấy bị sốc nặng, phải nằm tại giường. Chưa bao giờ tôi thấy ông ấy như vậy và chỉ có ngài mới có thể giải quyết được. Ông ấy bảo tôi chỉ cho ngài con đường ngắn nhất tới đây. tàu đến Cobblince rồi lên xe ngựa. Hy vọng ông hiểu, tôi hoảng loạn vì lo lắng, thức trắng đêm, chỉ mong được gặp bộ mặt của người lương thiện tại cái nơi toàn người ngoại quốc này. Kính chào ngài, Kẻ nô bộc trung thành, William Brown T.B. làng tôi ở gần cái thị trấn tên là Steenfeld Độc giả có thể hình dung ngạc nhiên, hoang mang, và rồi vội vã thu xếp ra ra sao của ông mục sư khi nhận được lá thư như vậy, ông ta vốn chỉ là mục sư sống yên bình ở Berkshire vào năm 1859. Tôi có ông Gregory lên tàu hỏa thị trấn ngay trong ngày hôm ấy cũng là chưa đầy đủ, ông còn đăng ký được cabin tàu thủy Antwerp, và chỗ chuyến tàu hoả tới Coblentz. Từ đây đến Steinfeld khó khăn gì. Bản thân có bất lợi lớn, với tư cách người kể chuyện, là biết Steinfeld như thế nào vì chưa đến đó bao giờ, những nhân vật chính trong chuyện kể này (mà từ họ tôi thu thập được các thông tin) cũng chỉ có thể cho tôi biết ý niệm sơ sài và mơ hồ. Tôi nghĩ đó là nơi bé, có ngôi nhà thờ, trong dó mọi tiện nghi bị cướp đoạt hết, nhiều toà nhà lớn đổ nát, hầu hết xây từ thế kỷ mười bảy nằm xung quanh nhà thờ. Còn tu viện, giống như hầu hết các tu viện ở lục địa, được xây lại khá hào nhoáng bởi cư dân thời kỳ đó. Tôi nghĩ chẳng hoài tiễn mà thăm nơi như vậy, bởi vì cho dù nó có thể hấp dẫn hơn là ông Somerton hoặc ông Gregory nghĩ, ràng chẳng có gì thượng hạng để mà để mắt tới, trừ điều, có lẽ vậy, mà tôi chẳng nên bận tâm làm gì. Quán trọ nơi vị quý tộc cùng người hầu ở, là nơi duy nhất tạm ở được trong làng. Ông Gregory được người đánh xe đưa tới đó ngay, thấy Brown đứng nơi cửa. Ông Brown là mẫu người vùng Berkshire có ria, mặt lạnh tanh, ai cũng biết là loại người hầu tin cẩn, lúc này ăn mặc hơi quá mức so với cương vị của ông. Comlê sáng vải tuýt, trông vẻ mặt lo âu tức bực nhưng ràng là làm chủ tình thế, ta hẳn người khi trông thấy "bộ mặt quốc lương thiện" nhưng lên được gì cả ngoài câu: "Tôi vui mừng được gặp ngài. Chủ tôi chắc cũng vậy" "Chủ ra sao, Brown?" ông Gregory vội hỏi. "Thưa ngài tôi nghĩ ông ấy khá hơn, nhưng qua giai đoạn kinh khủng. Có lẽ bây giờ ông ấy chợp mắt được chút, nhưng…" "Nhưng có chuyện gì? Qua thư tôi chẳng hiểu gì cả? Bị tai nạn nào ư?" "Vâng, thưa ngài, nhưng có lẽ tôi hơn. Để chủ tôi về chuyện đó. May là bị gãy cái xương nào…" "Thế bác sĩ bảo thế nào?" Lúc ấy họ đứng trước cửa buồng ông Somerton, với nhau khe khẽ. Vừa lúc ông Gregory đứng ở phía trước, đưa tay dò tìm quả đấm cửa và thử ấn ngón tay vào cánh cửa, Brown chưa kịp trả lời có tiếng kêu thét từ bên trong. "Lạy trời, ai ngoài đó thế?" mấy tiếng đầu họ nghe thấy là như vậy "Brown phải ?" "Dạ vâng, thưa tôi đây ạ, cả ông Gregory nữa" Brown vội trả lời, đáp lại có tiếng rên rỉ tỏ vẻ hài lòng. Họ vào phòng, phòng tối om trong ánh trời chiều, ông Gregory thương tâm nhận ra khuôn mặt ông bạn thân ngồi thẳng dậy giường, giơ cánh tay run run ra đón ông. Khuôn mặt xưa kia bình thản là thế, nay nhăn nhó, vã mồ hôi vì sợ. "May mà gặp được , Gregory thân mến" ông mục sư đáp lời như vậy và gì tỏ ra thực hơn. Sau năm phút chuyện trò ông Somerton trở lại là chính mình chứ còn như mấy hôm trước – như sau đó Brown kể lại. Ông có thể ăn bữa cơm tối đàng hoàng và tin rằng mình đủ sức về Coblentz trong vòng hai mươi bốn giờ nữa. "Nhưng có điều" đến đây ông ta có vẻ hoảng hốt bồn chồn mà ông Gregory thích tí nào, "là Gregory ạ, phải làm giúp tôi việc này" Ông đưa bàn tay đặt lên tay Gregory sợ ông này ngắt lời "Xin đừng hỏi tôi đó là việc gì và vì sao tôi muốn làm việc này. ngay tôi chưa giải thích được, ra chắc tôi trở lại tâm trạng cũ – phí công đến đây. lời duy nhất tôi cần là làm việc này gặp nguy hiểm nào cả, ngày mai Brown cho nó là việc gì. Chỉ cần đặt lại vật về chỗ cũ của nó. Mà , tôi chưa thể về nó được. gọi Brown hộ tôi với". "Được" ông Gregory bảo, vừa băng qua gian phòng "Tôi cầu giải thích chừng nào chưa đủ sức khoẻ. Còn về chút việc nhờ tôi, nghe đơn giản như thế, tôi xin vui lòng làm ngay sáng sớm mai trước mọi việc khác". "Ồ, tôi biết mà, Gregory thân mến, giờ tôi yên tâm có thể dựa vào , tôi biết ơn vô cùng. À Brown đây rồi. Brown, tôi bảo cái này" "Tôi ra ngoài nhé" ông Gregory hỏi. ". Trời ơi, Brown, việc đầu tiên sáng sớm mai ( Gregory à, tôi biết ngại dậy sớm) là đưa ngài mục sư đây tới… cái chỗ ấy, biết đấy. phải sợ gì hết, ban ngày hoàn toàn an toàn, hiểu tôi gì chứ? Nó nằm ngay chỗ bậc thang chỗ chúng ta để nó ấy. (Brown chỉ cúi đầu, nuốt nước bọt hai lần, được gì) Và… thế, chỉ có thế. lời này nữa, Gregory, nếu như có thể cố đừng hỏi gì Brown về việc này tôi càng cám ơn hơn nữa. Chiều tối mai, nếu mọi ổn cả, tôi tin là có thể kể nghe từ đầu đến đuôi câu chuyện này. Còn bây giờ xin chúc ngủ ngon. Brown ngủ trong phòng này với tôi, và hãy khoá cửa phòng lại, nhớ nhé. Họ, họ thích như vậy, những người ở đây ấy mà, và như vậy hay hơn. Thôi chào ". Họ chia tay nhau, và nếu như ông Gregory nửa đêm về sáng có hai lần tỉnh giấc và có cảm giác ai đó sờ soạng bên dưới chỗ cửa khoá, chắc chỉ vì vốn là người sống yên bình nay bị ném vào cái giường xa lạ và ở vào trung tâm của bí . Nhưng ông nghĩ chắc chắn là – cho đến suốt đời ông – ông có nghe tiếng sờ soạng như vậy , hai, ba lần gì đó quãng sau nửa đêm cho đến bình minh. Mặt trời lên, ông dậy ngay theo Brown. Việc ông Somerton đòi hỏi dù phức tạp cũng phải việc khó khăn nguy hiểm, cho nên chỉ nửa giờ đồng hồ sau khi rời quán trọ, nó được hoàn thành. Đó là việc gì, tôi chưa ra vội. Cuối buổi sáng, ông Somerton hầu như trở lại bình thường, có thể lên đường Steinfeld, và tối hôm ấy, tại Coblentz hay chặng dừng chân nào đường, tôi biết chắc lắm, ông Somerton giữ lời hứa, giải thích câu chuyện. Brown cũng ngồi nghe nhưng với hiểu biết của mình, ta hiểu được đến đâu tôi chịu đoán được. Đây là câu chuyện của ông Somerton "Hai vị chắc sơ bộ biết rằng chuyến này của tôi được thực với mục đích lần theo dấu vết việc liên quan tới tấm kính sơn màu ở nhà thờ của Chúa công D. Phải, khởi điểm của toàn bộ chuyện này nằm trong đoạn sách cổ, xin lưu ý cho" Đến đây ông Somerton nêu vài cơ sở ta biết ở . "Lần thứ hai trở lại nhà thờ của Chúa công D." ông tiếp "tôi nhằm mục đích ghi chép cặn kẽ về các hình người, các dòng chữ, các vết cắt bằng kim cương kính, kể cả các dấu hiệu bất chợt lộ ra. Điểm tôi giải quyết đầu tiên là các dòng chữ. Tôi nghi ngờ gì về dòng chữ đầu tiên của Job. " Có nơi dấu váng với sửa đổi cố ý, chắc để tới kho báu, thế là tôi tự tin tập trung vào câu thứ hai của thánh John ". áo họ có chữ ai hiểu được. Tất nhiên bạn hỏi, có chữ ở chiếc áo chùng của họ ư? Tôi chẳng nhìn thấy gì cả. Cả ba vị thánh đều có diềm áo rộng màu đen lồ lộ ra khiến cho hình vẽ cửa sổ bị xấu . Phải thừa nhận tôi cũng lúng túng khó xử, may thay mặt đường kính có rất nhiều bụi – nếu vì vậy hẳn tôi bỏ cuộc giống như các tu sĩ ở Steinfeld trước đây, bởi vì Chúa công D vô tình qua thấy tay tôi đen bẩn bèn cho người cầm đến cái chổi để quét cửa sổ. Trong cái chổi có chỗ bị cứng thế nào đó, để lại vết rạch dài, lộ ra bên dưới ánh vàng nơi diềm áo. Tôi bèn bảo người lao công hãy dừng tay, tự mình trèo lên thang quan sát. Vết vàng hãy còn đó, phủ lên là chất nhuộm màu đen khá dày nay vừa bị cái chổi gọt , chắc là ám khói sau khi nhà thờ bị cháy, bây giờ cậy sạch chẳng có vấn đề gì, chắc bạn đoán được tôi thấy dưới lớp màu đen đó vài ba chữ cái màu vàng rất nét nền sáng. Chẳng phải bạn cũng biết tôi vui mừng đến thế nào". Tôi bảo với Chúa công D. là tôi tìm ra mấy chữ có lẽ rất hay ho, xin phép ông ta được làm lộ toàn bộ dòng chữ ra. Ông ta đồng ý, bảo tôi muốn làm gì cứ làm, ông ta bận thể đứng đó được. Tôi lập tức vào cuộc và thấy cũng dễ thôi. Chưa đến hai giờ đồng hồ sau làm được ba cái diềm áo màu đen lộ ra dưới ánh sáng. Theo như lời ghi mỗi ông đêu có " chữ ghi áo mà ai hiểu được ". "Phát ra điều đó rồi tôi biết chắc mình đúng hướng. Còn bây giờ, các chữ nghĩa là gì đây? Trong khi cậy sạch lớp màu đen bên tôi cố nhìn vào các chữ đó, đợi xong hẳn mới đọc thể. Đến khi xong rồi Gregory ạ, tôi hầu như kêu thét lên vì tuyệt vọng bởi chúng chỉ là nhúm chữ cái mà ta đặt vào trong cái mũ rồi xóc lên. Nó như thế này: Job. DREVICIOPERDMOOMSMVIVLISLCAV IBASTBATAOVT St. John. RDIIEAMRLESIPVSPODSEEIRSETIAAES GIANVNNR Zachariah. FTEEAILNQDPVAIVMTLEEATTOON VMCAAT H.Q.E Mấy phút đầu tiên nhìn vào đó đầu óc tôi trống rỗng, nhưng rồi thất vọng tồn tại lâu. Tôi lập tức hiểu ra phải giải mật mã, mà mật mã có từ lâu đời như thế chắc đơn giản thôi. Thế là tôi cẩn thận chép lại những chữ đó. Phải thêm là trong quá trình này xảy ra kiện chứng tỏ nó đúng mật mã. Sau khi chép xong dòng chữ tay áo Job, tôi đếm chúng xem có đủ . Tất cả là ba mươi tám chữ, và đúng lúc đếm xong tôi chạm phải vết gì đó được tạo ra bằng dầu ghim nhọn ở bờ diềm áo, chữ số La mã XXXVIII. Tóm lại, cả ba dòng chữ ở ba chiếc áo đều giống nhau, ràng là thợ khắc tuân thủ cách ngặt nghèo lệnh của tu viện trưởng Thomas là phải làm sao khắc cho đủ số chữ. Vâng, phát này xong rồi tôi kiểm tra kỹ càng mặt kính biết thế nào mà kể để tìm xem còn ánh sáng nào khác . Dĩ nhiên tôi quên dòng chữ cuộn giấy của Zachariah, " phiến đá có bảy con mắt ", nhưng tôi nghĩ ngay ra nó đến dấu hiệu phiến đá tại nơi giấu của. Tóm lại tôi hoàn thành việc ghi chép, vẽ lại, và lần theo các dấu vết, nay tôi trở về Parsbury ngồi thư thả mà giải cho ra mật mã đó. Ôi chao! Vất vả biết thế nào kể xiết! Lúc đầu cứ tiếng mình thông minh, cách giải mã tìm được trong quyển sách cổ nào đó về cách viết mật mã. Quyển Stegaraphia của Joachim Thrithemiusm người sống cùng thời với tu viện trưởng Thomas (hơi sớm hơn chút), có vẻ đặc biệt hứa hẹn, rồi quyển Cryptographia của Selnius, quyển De Augmentis Scientiarum của Bacon, và vài quyển khác nữa. Nhưng tôi được đến đâu. Cuối cùng tôi lần theo nguyên tắc "chữ thông thường nhất", lúc đầu lấy chữ La tinh sau đó chữ Đức, làm cơ sở. Cũng xong. Mà tại sao lại phải làm thế tôi cũng biết. Cuối cùng tôi lại trở lại chỗ cái cửa sổ, đọc lại các ghi chép, hy vọng ở đâu dó chính tu viện trưởng Thomas cung cấp cho tôi chìa khoá giải mật mã mong muốn. Đằng sau hình ba người chẳng có nền phong cảnh nào với hình vẽ gì khác, màn trướng cũng chẳng thấy gì. Bây giờ chỉ còn mỗi nguồn duy nhất là thái độ của ba vị thánh. "Job" tôi đọc lên, cuộn giấy trong tay trái, ngón trỏ bên phải chỉ lên trời, John, giữ quyển sách trong tay trái, bàn tay phải giáng phúc với hai ngón tay. tóm lại, Job giơ ngón tay, John hai và Zechariah là ba. Biết đâu khoá số nằm ở chỗ này? Gregory ạ" ông Somerton , đặt bàn tay lên đầu gối bạn " Đúng nó là cái khóa đấy. Lúc đầu tôi chưa hiểu, sau hai, ba lần thử, tôi hiểu nó nghĩa gì. Sau chữ đầu của dòng chữ nhảy cách dòng chữ, sau chữ thứ hai nhảy cách hai dòng chữ, và sau đó nhảy cách ba dòng. nhìn vào kết quả đây, tôi gạch dưới những chữ cái tạo thành từ mà ta cần: D RE VIC IOPE DM OOM SMVI VL ISL CAVI BA SBA TAOV T R DII EAMR LE SIP VSPO DS EEI RSET TAA ES GIAV NN R FI EEAI LN QDP VAIV MT LEE ATTO HIOON VMCA AT .H .Q.E. " thấy chưa? Decem millia auri reposita sunt in peteo in at." (mười ngàn đồng vàng được để dưới giếng ở…) theo sau đó là từ gì đó trông bắt đầu bằng 'ở'. Ngày càng tốt rồi. Tôi lại thử kiểu đó với các chữ còn lại nhưng ra đầu đuôi gì. Tôi nghĩ có lẽ ba cái chấm đặt sau ba chữ cuối cùng phải có ý nghĩa gì đó. Rồi tôi nghĩ "Có phải cái giếng là cái giếng của tu viện trưởng Thomas trong đoạn văn ở quyển Sertum?" Đúng rồi. Ông ta có xây puteus in atrio ( cái giếng trong sân. Đây chính là từ atrio (riêng chữ trio có nghĩa là bộ ba) đây. Bước sau, tôi chép lại những chữ còn lại, bỏ những chữ dùng. Còn lại như sau: RVIIOPDOOSMVVISCAVBSBTAOTDIEAMLSIV SPDEERSETAEGIANRFEEALQDVAIMLEATTHOOVMCA .H.Q.E. Vậylà tôi biết ba chữ đầu tôi muốn – tức là rio – để điền vào cho đủ chữ atrio, và thấy đấy, tất cả đều được tìm thấy trong năm chữ đầu. Tôi hơi bối rối bởi hai chữ I's nhưng chẳng mấy chốc thấy ra chữ mà mỗi chữ bỏ cách đều phải được sử dụng trong phân còn lại. Các bạn thử làm lấy mà xem. Kết quả sau khi 'vòng' đầu bị loại, còn lại như sau 'rio domus abbatialis de Steinfeld a me, Thoam, qui posui custodem super ea.Gare a qui la touche.' Vậy là toàn bộ bí mật có nghĩa sau: "Mười ngàn đồng vàng được để trong cái giếng trong sân nhà tu viện trưởng Steinfeld bởi tôi, Thomas, người đặt người canh giữ ở đó. Ai mà động đến liệu hồn". "Phải câu cuối cùng là phương sách mà tu viện trưởng Thomas lựa chọn. Tôi tìm thấy câu này trong huy hiệu của ông ta miếng kính khác trong nhà thờ riêng của chúa côngD, ông ta mạnh dạn đưa nó vào trong mật mã, tuy hoàn toàn chuẩn về mặt ngữ pháp". "Vậy là Gregory thân mến, là con người ở địa vị tôi, người ta bị cám dỗ làm gì nào? Lẽ nào lên đường Steinfeld như tôi để mà tìm ra bí mật những dòng chữ cho đến tận ngọn tận nguồn? Tôi thể dừng được. Chẳng cần cũng hiểu, bằng những phương tiện mới nhất của nền văn minh, tôi tới Steinfeld nhanh nhất có thể, tới ở quán trọ này như thấy. Chẳng phải tôi hoàn toàn có linh tính báo trước, phần vì có thể đến thất vọng, phần có thể nguy hiểm. Rất có khả năng cái giếng của tu viện trưởng Thomas nay còn vết tích gì , hoặc biết đâu, có người nào đó, chẳng hiểu gì về mật mã nhưng vô tình gặp may, đụng phải kho vàng đó trước tôi? Và rồi – đến dây giọng ông ta run rẩy – tôi làm sao hoàn toàn thoải mái, phải thú như vậy, về câu cuối về kẻ canh giữ kho tàng. Nhưng nếu cho phép, tôi chưa về chuyện đó chừng nào chưa cần thiết." "Hoàn cảnh cho phép là tôi và Brown khảo sát địa hình ngay. Tôi làm như mình là người quan tâm được tàn tích của tu viện. chúng tôi đành phải đến thăm nhà thờ tuy sốt ruột muốn đến chỗ khác kia. Tuy nhiên tôi rất tò mò muốn xem chỗ cũ của các ô cửa sổ sơn, đặc biệt chú ý đến cuối phía Đông của cánh nam nhà thờ. Tôi ngạc nhiên thấy vẫn còn những mảnh kính có huy hiệu – cái khiên của tu viện trưởng Thomas, hình trang trí với cuộn giấy mang dòng chữ "Oculis habent, et non videbunt" (Họ có mắt nhưng nhìn thấy) mà tôi cho rằng đây chính là lời chỉ trích cay độc của tu viện trưởng đối với các tu sĩ ở trong tu viện của ông. Nhưng cái quan trọng nhất cần tìm là ngôi nhà của tu viện trưởng. Trong sơ đồ của tu viện, thường bao giờ ấn định nó ở chỗ nào để người ta có hướng mà tìm, giống như nhà của Tăng hội thường bao giờ cũng ở phía Đông của tu viện hoặc phòng ngủ tập thể của các tu sĩ thường thông với cánh ngang trong nhà thờ. Tôi nghĩ nếu mình hỏi nhiều quá làm người ta chợt nhớ lại ký ức về kho tàng, do đó đành tự tìm lấy. Nhưng tìm cũng lâu gì. Cái sân có ba mặt, ở phía Đông Nam nhà thờ, quanh có nhiều cột nhà bỏ hoang với vỉa lát có cỏ mọc mà trông thấy sáng nay chính là nhà ông ta xưa kia đấy. Tôi rất mừng thấy nó nay được sử dụng, lại cũng xa quán trọ là bao và có người nào ở quanh đó nhìn vào cả, toàn bộ vườn cây ăn quả và các bãi cỏ nuôi ngựa mọc sườn dồi phía Đông nhà thờ. Tôi có thể chỉ cho tảng đá rất đẹp sáng bóng dưới hoàng hôn vàng long lanh vào chiều hôm thứ ba." "Còn cái giếng sao? Chẳng còn gì phải nghi ngờ, bởi nó rất đáng chú ý. Thành giếng bằng đá hoa cương Ý, có hình chạm đó cũng kiểu Ý luôn. Có lẽ còn nhớ những kiểu chạm khắc nổi hình Eliezer và Rebekah, và hình Jacob mở giếng cho Rachel và những kiểu đại loại như thế, nhưng chắc là để tránh gây nghi ngờ nên Tu viện trưởng dùng ở dưới những câu chữ bóng gió". "Tôi xem xét cặn kẽ toàn bộ cấu trúc cái giếng – dĩ nhiên, chỗ lấy nước xây vuông, phía để ngỏ, có vòm cung, với bánh xe để dây thừng vắt qua, ràng vẫn còn có thể dùng được vì được dùng suốt sáu mươi năm trước hoặc gần đây hơn tuy chưa phải là gần đây lắm. Đến vấn đề chiều sâu và đường xuống giếng. Tôi cho là sâu độ hai mươi mét, vấn đề xuống giếng chẳng khác gì tu viện trưởng Thomas muốn đưa kẻ tìm của tới tận cửa kho tàng của ông, vì như chính thấy đấy, có rất nhiều tảng đá do thợ nề xây dẫn xuống thành cầu thang đều đặn vòng quanh mctrong thành giếng" "Chẳng lẽ chuyện này có sao? Hay có cái bẫy nào trong đó – giá như các tảng đá được sắp đặt sao cho vừa có khối nặng nào đặt lên là đổ ụp xuống nhẽ, đằng này tôi thử dẫm lên mấy lần, kể cả thọc gậy vào vẫn thấy nó hoàn toàn chắc chắn. Dĩ nhiên tôi và Brown quyết định đêm đó thử luôn" "Tôi chuẩn bị rất kỹ. Biết mình sắp thám hiểm nơi như thế nào, tôi mang theo rất nhiều thừng và đai vải buộc quanh mình, cả các thanh ngang làm tay vịn, đèn, nến, xà beng, tất cả nằm trong cái túi dày khỏi gây ngờ vực. Thừng của tôi đủ dài, cái thừng ở chỗ bánh xe cũng còn tốt lắm". "Trong bữa cơm tối, tôi chuyện với chủ quán là ra ngoài chơi với người hầu lúc chín giờ tối để vẽ phác thảo tu viện dưới ánh trăng (Trời tha tội cho tôi!) Tôi hỏi chút gì về cái giếng, tôi nghĩ tôi biết đủ về nó như bất cứ ai ở Steinfeld này. Ít nhất – với cái nhún vai – tôi cần biết thêm gì về nó nữa" "Đến đây mới là lúc cao trào. Và dù tôi ghét nghĩ về nó phải là gợi nhớ lại nó đúng như nó xảy ra lại là điều tốt cho tôi. Tôi và Brown lên đường lúc chín giờ tối, đem theo cái túi, gây cho ai chú ý gì cả và chúng tôi lẻn từ sau quán ra con đường đến bìa làng. Chỉ lúc sau đến cái giếng. Chúng tôi ngồi ít phút ở chỗ lấy nước, chắc chắn ai rình mò mình, chỉ nghe thấy tiếng ngựa ăn cỏ ở sườn đồi phía Đông. Hoàn toàn có ai quan sát chúng tôi, trăng tròn sáng vằng vặc, giúp chúng tôi luồn dây thừng vào bánh xe rất chắc. Tôi buộc thừng quanh người bên dưới cánh tay, buộc đầu thừng vào cái vòng ở tảng đá. Brown mang đèn sáng theo tôi, tôi cầm xà beng. Rồi cả hai thận trọng từng bước, đặt chân lên từng viên đá, sờ tường hai bên xem có dấu đá nào ". "Tôi vừa xuống vừa đếm khá to số bậc thang, đến số ba tám vẫn chưa thấy dấu vết nào đặc biệt, tôi hơi chột dạ, chỉ sợ mật mã của tu viện trưởng là trò lừa bịp để chơi khăm người ta. Đến bậc bốn mươi chín là hết, buồn quá tôi lại leo trở lại, đến bậc ba mươi tám – Brown lúc đó cầm đèn lên trước tôi , hai bậc – tôi nhìn kỹ và thấy hình viên đá có chút đều tuy nhiên có dấu vết gì" "Có điều mặt nó nhẵn hơn những viên đá kia, có nghĩa hơi khác, tôi bèn lấy xà beng bổ vào, nghe tiếng đùng đục, có thể do ở trong giếng. Nhưng hơn thế nữa, có lớp xi măng rớt ra, bên dưới có vết. Thế là lần được theo ông tu viện trưởng rồi, tôi rất tự hào, kể cả bây giờ nghĩ lại cũng vậy. Thúc thêm vài nhát xà beng nữa cho lớp xi măng rời hết ra, tôi thấy phiến đá mỗi chiều 60 cm , đó khắc chữ thập. Lại thất vọng nhưng chỉ ít phút, vì chính Brown, đúng phải nào, đưa ra nhận xét vô tình "Chữ thập gì mà kỳ quá, trông như là những con mắt". Phải thế Brown?" . "Tôi bèn giật lấy cái đèn từ tay Brown và nhìn vào đó, sướng khôn tả khi thấy chữ thập gồm có bảy con mắt, bốn xếp theo chiều dọc, ba theo chiều ngang. Vậy là giải thích xong dòng chữ thứ ba cửa sổ. Đây chính là 'viên đá có bảy con mắt' rồi còn gì! Nếu như các dữ liệu của tu viện trưởng đều chính xác thành phố lo đến 'kẻ giữ của' rồi đây. Nỗi lo ngày càng tăng nhưng tôi bỏ cuộc" . "Chẳng kịp suy nghĩ tôi đập hết lớp xi măng quanh tảng đá có dấu chữ thập đó, dùng xa beng nậy nó từ bên phía phải. Nó di chuyển ngay, hoá ra là tấm đá , tay tôi nhấc lên được, và lộ ra lối vào cái hang. Tôi nhấc nó cẩn thận để vỡ, đặt nó lên bậc thang, vì sau này còn cần đóng lại. Rồi tôi lên bậc đứng chờ lát. Chẳng biết tại sao nhưng tôi cứ tưởng như có con vật nào đó xổ ra. Chẳng thấy gì cả. Tôi thắp ngọn nến, đặt khéo vào trong hang xem bên trong có luồng khí nào với lại cũng muốn liếc vào chút. Quả là có luồng khí hôi hám phụt ra suýt tắt ngọn nến nhưng sau đó ngọn lửa đứng yên. Hang này hơi thụt ra sau và rộng sang phải sang trái ít. Bên trong tôi nhìn thấy những vật tròn màu sáng như là những túi gì đó. Còn chờ đợi gì nữa. Tôi thò mặt vào trong hang. Ngay phía ngoài có gì. Tôi đưa cánh tay thọc vào bên phải và bên trái cách hăm hở…". "Brown, cho tôi ly nhắc, chờ tôi tí, Gregory…" "Rồi sờ vào bên phải, tôi thấy cái gì cong cong, bằng da ẩm, ràng là của cái túi nặng, chẳng có gì đáng sợ, tôi mạnh dạn cho cả hai tay vào kéo nó về phía mình. Tuy nặng nhưng nó di chuyển dễ dàng hơn tôi tưởng. Ra đến cửa hang, khuỷu tay trái tôi chạm vào ngọn nến làm cho nó đổ và tắt mất. Tôi tiếp tục kéo vật kia từ cửa hang ra ngoài. Đúng lúc này Brown văng ra tiếng gì đó rồi cầm đèn chạy tuốt lên . ta cho hay ta thấy cái gì. Tôi giật mình nhìn theo ta, thấy ta đứng bờ giếng lúc rồi xa ra mấy mét. Rồi tôi nghe tiếng ta khẽ "Thưa ông sao", tôi tiếp tục kéo cái túi tròn to kia trong bóng tối mịt mùng. Nó nằm ở cửa hang lát, sau đó lăn lên ngực tôi và thò các tay của nó ra chẹt lấy cổ tôi!" . Gregory ạ, tôi với thực hoàn toàn. Lúc này tôi khiếp đảm đến cùng cực, chỉ chưa đến nỗi mất trí mà thôi. Tôi chỉ cố lại cho nghe những nét lớn. Tôi ý thức được có mùi rất kinh tởm của hình thù, cái mặt lạnh ngắt áp vào mặt tôi rồi cứ thế mà chuyển động, với bao nhiêu tay chân – là bao nhiêu – hay là những vòi tua gì đó, quấn chặt vào người tôi. Tôi kêu thét lên, Brown kể lại, như con vật, ngã khỏi bậc thang mình đứng, sinh vật kia cũng tuột xuống theo. Nhờ Trời cái đai quấn quanh tôi rất chắc. Brown hề mất tỉnh táo, lại đủ khoẻ để kéo tôi lên và đưa tôi qua thành giếng, cũng chẳng hiểu là bằng cách nào, có lẽ ta cũng khó kể lại cho . ta giấu các dụng cụ của chúng tôi trong ngôi nhà bỏ hoang gần dưới và khó khăn lắm mới đưa nổi tôi về lại lữ quán. Tôi chưa thể giải thích được gì, Brown lại biết tưởng Đức, sáng hôm sau tôi kể với mọi người chung quanh là bị ngã trong đống đổ nát của tu viện, họ tin. Và bây giờ, trước khi kể tiếp, tôi mong hãy nghe Brown tường thuật. Brown, kể cho mục sư nghe , những gì với tôi…". Brown kể, giọng rất bồn chồn, khẽ khàng: "Vâng, nó là thế này, ông chủ bận ở trước miệng cái lỗ , còn tôi cầm đèn đứng canh chừng nghe có cái gì từ cao rơi tõm xuống nước. Nhìn lên tôi thấy dường như có khuôn mặt của người nào đó nhìn xuống chúng tôi. Tôi cái gì đó biết, rồi giơ đèn lên, ánh sáng soi vào mặt . lão già có bộ mặt kinh hoàng, chưa thấy cái mặt nào như vậy, sâu hoắm, tàn ác. Tôi lập cập chạy lên cho nhanh, nhưng lên khỏi giếng nhưng chẳng thấy ai cả, mà với thời gian ấy, ai chăng nữa cũng chưa thể khỏi được huống chi là người già, mà tôi chắc chắn phải là xuống nằm phục ở dưới giếng. Sau đó nghe tiếng chủ tôi kêu lên tiếng khủng khiếp, chạy ra xem thấy ông bị treo lủng lẳng ở sợi dây thừng, làm sao kéo ông lên, đưa ông ra khỏi giếng, tôi cũng biết kể thế nào, như chủ tôi vừa vậy." " nghe thấy chưa, Gregory?" ông Somerton "Theo giải thích như thế nào?" "Toàn bộ câu chuyện nghe rùng rợn quá, bất thường quá khiến tôi cũng đâm hoảng loạn cả tinh thần, nhưng tôi đồ rằng cái người chăng cái bẫy này chạy ra xem kế hoạch của thành công ra sao" "Đúng vậy, đúng vậy Gregory à. Tôi cũng nghĩ là như vậy, hầu như là vậy đấy, tôi nghĩ dó chính là lão Tu viện trưởng…Phải, chẳng còn gì để kể cho nữa, tôi qua đêm khốn khổ với Brown ngồi bên cạnh. Ngày hôm sau cũng khá hơn, ngồi dậy được, ở đó có bác sĩ mà có cũng chẳng giúp gì được tôi, tôi bảo Brown viết thư cho , sống qua đêm khốn khổ nữa, bởi vì, Gregory ạ, tôi còn sốc lần thứ hai, nó kéo dài hơn lần đầu. Có ai hay cái gì đó cứ rình tôi ở ngoài cửa suốt đêm. Tôi mường tượng thấy hai người. Luôn có những tiếng động nho , thêm nữa là cái mùi hôi hám của sinh vật dưới giếng. Mọi thứ tôi mặc người vào cái đêm khủng khiếp ấy tôi lột hết, bảo Brown đem chỗ khác. Tôi biết ta vứt chúng vào lò hết rồi, ấy thế nhưng cái mùi ấy vẫn còn đó và nồng nặc lên cứ như là ở dưới giếng vậy, tệ hơn nữa là từ ngoài cửa xông vào. Nhưng cứ rạng sáng là mất hết mùi và các tiếng động. Tôi dám chắc sinh vật đêm chịu được ánh sáng ban ngày, và tôi nghĩ giá như có ai đó đậy hộ tôi tảng đá chúng bị vô hiệu cho tới khi có ai đó lại nhấc tảng đá ra. Tôi chờ đến để làm hộ việc đó. Dĩ nhiên thể nhờ chính Brown làm được, lại càng thể với ai ở nơi đó." "Đó, câu chuyện của tôi là thế, nếu tin tôi đành chịu, nhưng tôi nghĩ là tin" "Tôi tin chứ" ông Gregory đáp "Còn cách nào khác nữa đâu. Tôi phải tin chứ! Chính mắt tôi nhìn thấy cái giếng đó và tôi cũng liếc mắt vào cái túi và các thứ đồ trong cái lỗ. Tôi với nhé, Somerton, tôi tin là cánh cửa của tôi đêm qua cũng có người canh đấy" "Tôi chắc vậy, Gregory ạ, nhưng may nhờ trời, câu chuyện qua. Riêng có gì để về chuyến đến thăm cái nơi kinh khủng đó ?" "Chẳng có gì mấy" ông Gregory đáp "Brown và tôi đặt lại phiến đá tương đối dễ dàng, lại còn lấy sắt và các mảnh chêm chèn chặt nó vào đó theo ý muốn, chúng tôi còn trát bùn lên mặt nó cho giống với tường giếng nữa. Có thứ ở chỗ lấy nước làm tôi chú ý, nó được khắc vào đó mà để ý. hình thù thô thiển trông khiếp vía lên được ấy – có lẽ giống con cóc là đúng nhất – và bên cạnh nó có cái nhãn viết hai chữ Depositum custodi" [4] Chú thích [1] Có nơi dấu vàng [2] áo họ có dòng chữ ai hiểu [3] phiến dá có bảy con mắt [4] Hãy giữ gìn những gì được giao phó cho mi
Chương 10: chuyện ở Trường học Hai người đàn ông ngồi trong phòng hút thuốc lá, chuyện với nhau về những ngày học ở trường tư thục. "Ở trường chúng tôi ấy mà" A. "chúng tôi có vết chân ma cầu thang. Ồ, cũng chẳng có gì thuyết phục lắm. Chỉ là vết chiếc giày, với ngón chân, nếu như tôi nhớ đúng. Cầu thang bằng đá. Tôi chưa bao giờ nghe chuyện gì như thế. Nghĩ lại kể cũng kỳ . sao người ta lại cứ bịa ra thế nhỉ?" "Với học trò chẳng biết thế nào mà . Chúng có huyền thoại của chúng. Này, có thể là đề tài cho đó. Truyện Dân Gian ở các trường tư thục." "Phải, nhưng cũng chẳng nhiều lắm đâu. Nếu cứ nghiên cứu riêng chủ đề ma chẳng hạn, thấy những chuyện mà bọn học trò trường tư kể cho nhau nghe hầu hết là những chuyện đọng lại từ các truyện trong sách cả thôi" "Những sách bây giờ như là của Strand và Peanut đều rút ra từ nơi khác cả" "Còn nghi ngờ gì nữa, thời tôi những chuyện đó có và được nghĩ đến như vậy đâu. Để tôi xem có nhớ số chất liệu cho chuyện ma mà người ta hay kể nhé. Trước hết, có ngôi nhà, trong có phòng mà nhóm người tình nguyện ở qua đêm, sáng hôm sau người nào cũng được tìm thấy quỳ trong góc, chỉ kịp mỗi câu "Tôi nhìn thấy nó" là lăn đùng ra chết" "Có phải ngôi nhà ở Berkeley Square ?" "Đúng đấy. Lại có người nghe tiếng động ở ngoài hành lang, mở cửa ra thấy người bò bằng cả chân tiến lại phía mình, con mắt lủng loẳng mặt. Ngoài ra…để tôi nghĩ . À, phải rồi! Căn phòng trong có người đàn ông chết giường, trán có in hình móng ngựa và sàn nhà còn nhiều hình móng ngựa khác, chẳng hiểu tại sao lại còn có bà đến đêm đóng cửa phòng ngủ - ở trong ngôi nhà lạ - nghe tiếng khe khẽ vẳng ra từ những tấm màn che giường "Nào ta đóng cửa lại ! Cùng thức đêm nay". chuyện nào trong số đó đưa đến giải thích hay kết luận nào cả. Chẳng hiểu những chuyện ấy bây giờ có còn hay ?" "Ồ, vẫn có đấy – các tạp chí còn thêm thắt vào nữa, như tôi . Thế ông bao giờ nghe có con ma tại trường tư thục chưa nhỉ? Tôi cho là chưa, chưa ai ngoài tôi vô tình gặp chuyện đó". "Theo như mỗi mình gặp chuyện đó thôi chứ gì?" "Tôi cũng biết. Nhưng trong đầu tôi vẫn nhớ nguyên câu chuyện xảy ra ba mươi năm về trước, tôi biết giải thích ra sao" "Trường tôi ở gần London, đó là toà nhà rộng, lối cổ, toà nhà màu trắng, chung quanh là đất đai rất rộng. Vườn có những cây tuyết tùng cao to như người ta thường thấy trong nhiều khu vườn cổ ở thung lũng Thames, ba bốn khu đất dùng làm sân chơi cho chúng tôi và có những cây du từ lâu đời. Theo tôi đây là nơi rất hấp dẫn, nhưng bọn học trò con trai mấy khi thừa nhận trường chúng chỉ có những thứ tàm tạm!" "Tôi đến trường vào tháng Chín, sau năm 1870 bao lâu, trong số hoặc trò đến học cùng ngày với tôi có cậu người vùng cao nguyên, tôi gọi tên là Mc Leod. Chẳng cần mất giờ mô tả làm gì, chỉ biết tôi rất thân với cậu ta, cậu ta chẳng có gì đặc biệt nhưng hợp với tôi" "Trường to, có từ 120 đến 130 học sinh theo quy định vì vậy cần khá nhiều thầy giáo, và các thầy giáo thường thay đổi luôn" "Vào học kỳ nào đó – thứ ba hoặc thứ tư – của tuần, thầy giáo mới được chuyển đến, tên là Sampson, người dong dỏng, mập mạp, nước da trắng nhợt với bộ râu đen. Chúng tôi thích thầy lắm. Thầy du lịch nhiều nơi, thầy kể chúng tôi nghe nhiều chuyện vui trong những buổi dạo, ai cũng mong được gần thầy để nghe cho . Tôi còn nhớ - suốt từ đó đến nay, bây giờ tôi mới nhớ lại – thầy có vật rất duyên sợi dây đồng hồ làm tôi chú ý. Thầy cho tôi xem: nó như đồng vàng Byzantine, bên có đắp nổi hình ông vua nào đó, bên do dùng nhiều nhẵn thín, chính thầy tự khắc lên đó mấy chữ tên đầu của mình: G.W.S., cùng với ngày tháng 24-7-1865. Tôi còn nhớ lắm, thầy bảo là kiếm được ở Constanthinople, cỡ bằng đồng florine hoặc to hơn. Chuyện kỳ quặc đó là như thế này. Thầy Sampson dạy tôi ngữ pháp La tinh. phương pháp thầy ưa chuộng – có lẽ phương pháp đó rất tốt – là cho chúng tôi tự đặt câu minh họạ quy luật về ngữ pháp thầy vừa dạy. Dĩ nhiên đây cũng lại là dịp cho những học sinh dốt có cơ hội láo xược – biết bao chuyện như vậy xảy ra ở các trường. Nhưng Sampson rất nghiêm, chúng tôi dám chơi nhả. Hôm ấy thầy dạy chúng tôi chia động từ "nhớ" tiếng La tinh, thầy ra lệnh cho chúng tôi mỗi người tự đặt câu với động từ memini – nhớ. "Tôi nhớ" chẳng hạn. Hầu hết chúng tôi đặt những câu đơn giản. "Tôi còn nhớ cha tôi", "Nó nhớ lại quyển sách của nó" hoặc đại loại như vậy, chẳng hay ho gì như thế, phải rất nhiều đứa đặt câu "Tôi nhớ quyển sách của tôi", vân vân, nhưng cậu bạn của tôi là Leod lại cố nghĩ câu gì phức tạp hơn thế. Hầu hết bọn tôi chỉ muốn làm cho xong để còn làm việc khác, do đó có đứa đá vào chân cậu ta ở dưới gầm bàn, tôi ngồi gần cậu ta thúc vào cậu ta và thầm vào tai cậu ta "nhanh nhanh lên". Nhưng cậu ta làm như để ý. Nhìn vào tờ giấy thấy cậu ta chưa viết được cầu nào. Tôi lại hích mạnh hơn trước, trách cứ cậu ta nặng nề vì để chúng tôi phải chờ. Quả nhiên có tác dụng. Cậu ta giật mình bừng tỉnh và ngoáy mấy chữ nhanh lên giấy rồi nộp cho thầy. Vì là người nộp bài cuối cùng hoặc gần thế mà Sampson có số điều thành phố với những học sinh viết meminiscimus patri meo – tôi nhớ cha tôi – và số điểm nữa. Chuông điểm mười hai giờ trước khi đến bài của Mc Leod. McLeod phải đợi đến sau mới được thầy chữa cho bài cậu viết. Ra ngoài tôi chờ cậu ta, mãi lâu cậu ta mới ra và tôi đoán có lủng củng gì đó. "Này", tôi hỏi "thế cậu bị làm sao vậy?" "Ồ, mình biết, chẳng vấn đề gì lớn nhưng Sampson có vẻ ớn mình lắm" "Cậu lại làm chuyện dại dột chứ gì?" "Đâu nào, mình viết nghiêm chỉnh, này nhé, nó như thế này, có thuộc cách Genitive [1] ở trong câu memento putei inter quattuor taxos. "Sao cậu viết vớ vẩn thế! Sao lại đưa câu đó ra? Nó nghĩa là gì vậy?" "Đó mới là chỗ buồn cười" McLeod bảo "mình cũng có biết chắc nó nghĩa gì đâu. Tự nhiên nghĩ ra thế là mình viết vào. Mình cứ tưởng là hiểu nghĩa nó bởi trước khi viết xuống giấy có hình ảnh ra trong óc mình. Mình nghe nó nghĩa là "Hãy nhớ đến cái giếng ở giữa bốn…". Này, có loại cây gì màu thẫm có quả dâu đỏ ở ấy nhỉ?" "Tần bì núi ấy à?" "Mình chưa nghe thấy bao giờ" McLeod "À, để mình bảo cậu, cây thủy tùng!" "Được rồi, nhưng thầy Sampson bảo thế nào?" "Rất lạ. Đọc xong câu ấy, thầy đứng lên, đến bệ lò sưởi đứng im lúc quay lại rồi mới rất nhàng "Em thế có nghĩa là thế nào?", mình với thầy mình nghĩ gì, chỉ có điều nhớ cái chỗ ấy tên là gì mà thôi, sau đó thầy muốn biết tại sao mình lại viết câu đó ra, mình đành phải cái gì đó. Sau đó thầy đến chuyện đó nữa mà hỏi mình đến đây từ bao giờ, gia đình mình sống ở đâu, những thứ đại loại như vậy, cuối cùng mình ra, nhưng trông thầy thấy khác ". "Tôi nhớ sau đó hai chúng tôi còn gì với nhau về chuyện này nữa . Hôm sau McLeod ốm, hình như bị cảm lạnh, phải nằm trong giường tuần hoặc hơn tuần mới học lại được. tháng trôi qua có gì xảy ra. Thầy Sampson có thực chột dạ như McLeod nghĩ , ông ta hề để lộ ra. Phần tôi đến bây giờ tôi dám chắc, dĩ nhiên, có vấn đề gì kỳ quặc trong quá khứ của ông ta rồi. Tuy nhiên, tôi giả vờ như là bọn trẻ con học trò chúng tôi đủ sắc sảo để đoán ra việc như thế" "Lại còn kiện cùng loại giống như kiện cuối cùng tôi kể cho nghe. Từ sau lần đó học sinh lớp chúng tôi phải làm nhiều thí dụ để minh họa các quy luật về ngữ pháp nữa nhưng xảy ra tranh luận nào trừ trường hợp chúng tôi sai. Cuối cùng đến ngày chúng tôi phải học đến mục 'Câu có điều kiện, là mục khó nhớ và ảm đạm của ngữ pháp, chúng tôi phải đặt câu có điều kiện thể hậu quả trong tương lai. Chúng tôi làm bài, chẳng biết sai hay đúng, ai cũng nộp bài và Sampson bắt đầu xem bài của chúng tôi. Vừa để mắt xuống thầy đứng phắt dậy, tiếng nghẹn ngào trong cổ sau đó thầy chạy vụt ra ngoài qua cửa ngách cạnh bàn thầy giáo. Chúng tôi ngồi im độ hai phút và rồi biết là đúng nhưng chúng tôi vẫn cứ đứng dậy, lên bàn thầy ngó tập giấy nộp bài. Tôi nghĩ có đứa nào viết bậy bạ do đó Sampson bỏ chạy báo cáo. Nhưng các tờ giấy còn nguyên, thầy cầm theo khi chạy ra. Trang giấy cùng viết mực đỏ - trò nào dùng mực đỏ - cũng phải chữ bất kỳ ai trong lớp. Tất cả đều nhìn vào đó – kể cả McLeod và tôi – và thế phải chữ chúng tôi. Tôi bèn đếm số tờ giấy, có 17 tất cả mà chỉ có 16 học trò. Tôi nhét luôn tờ thừa đó vào cặp và giữ mãi đến tận bây giờ. Chắc ai muốn biết đó viết gì. Đơn giản thôi, phải chẳng có gì gây tổn hại: "Si tu non veneris ad me, ego veniam ad te" nghĩa là "nếu đến tôi, tôi đến ". " cho tôi xem tờ giấy được ?" Người nghe chuyện hỏi. "Được thôi, nhưng nó lại có vấn đề kỳ quặc thế này. Chiều hôm đó tôi lấy tờ giấy từ trong cái tủ có khoá và dám chắc là chinh tờ đó vì có vết tay tôi đó mà – còn vết tích gì của dòng chữ nữa. Tôi vẫn giữ nó mãi và từ đó dùng biết bao nhiêu thử nghiệm xem có phải mực dùng là mực hoá học , nhưng tuyệt đôi có kết quả". "Thế, đó là về chuyện tờ giấy. Nửa giờ sau Sampson trở vào, thầy thầy khó ở, chúng tôi có thể về. Thầy bước tới bàn giấy cách hăm hở và liếc nhìn vào tờ giấy cùng. Tôi nghĩ thầy cho là mình nằm mơ vì dỉ nhiên thấy thầy hỏi gì cả" "Hôm ấy chúng tôi chỉ phải học có buổi, hôm sau nữa Sampson dạy học như bình thường. Đêm đó xảy ra kiện cuối cùng của câu chuyện". "Chúng tôi – tôi và McLeod – ngủ trong phòng ngủ của ký túc xá nằm thẳng góc với toà nhà chính. Sampson ngủ trong toà nhà chính ở tầng hai. Đêm trăng tròn, sáng rực rỡ. Vào lúc biết chính xác mấy giờ, khoảng giữa đến hai giờ sáng, có ai lay tôi dậy. Đó là McLeod và cậu ta ở trong trạng thái tinh thần mới hay ho chứ. "Dậy, dậy!" cậu ta "Dậy xem, có tên cướp đột nhập vào cửa sổ của Sampson kìa!" thành tiếng được lúc tôi bảo ngay "Sao gọi to lên đánh thức mọi người dậy?" ", , mình dám chắc đó là gì. Đừng cãi vã nữa, dậy nhìn xem". Dĩ nhiên tôi thức dậy nhìn ra ngoài và cũng dĩ nhiên là chẳng thấy ai cả. Tôi tức cả mình, mắng McLeod trận – chỏ có điều tôi hiểu tại sao, tôi cảm thấy hình như có cái gì đó bình thường – cái gi đó mà tôi mừng phải mình đối phó (chúng tôi vẫn đứng bên cửa sổ nhìn ra, và ngay khi có thể tôi hỏi McLeod nhìn và nghe thấy gì" "Tôi nghe thấy gì cả" cậu ta bảo, "nhưng độ dăm phút trước khi đánh thức cậu dậy, tôi cũng đứng ở đây và nhìn ra như thế này này, thấy người ngồi hay quỳ ở ngưỡng cửa sổ của Sampson ấy, nhìn vào bên trong như vẫy gọi Sampson" "Loại người như thế nào?" McLeod quanh: "Tôi biết, nhưng chỉ có thể với cậu điều là rất gầy và người sũng nước, và" đến đây cậu nhìn quanh rồi thào như thê muốn nghe thấy chính tiếng mình nữa, "mình tin đó là người còn sống!" "Chúng tôi còn thầm với nhau lúc nữa, cuối cùng vào giường. Suốt thời gian đó trong phòng ngủ có ai động cựa. Tôi nghĩ chúng tôi có chợp mắt lúc nhưng hôm sau rất phờ phạc. "Và ngày hôm sau thấy ông Sampson đâu. tìm thấy ở đâu hết và suốt từ đó đến nay ai lần ra dấu vết. Nghĩ lại điều quái lạ nhất là cả McLeod lẫn tôi ai hở với người thứ ba về những gì chúng tôi nhìn thấy. Dĩ nhiên chẳng ai hỏi, giả sử có người hỏi tôi cũng tin chúng tôi trả lời. Chúng tôi được lên lời vì chuyện này" "Đó, câu chuyện của tôi đó" Người kể chuyện "Câu chuyện duy nhất về ma gắn với trường học mà tôi biết, tuy nhiên tôi nghĩ đây vẫn chỉ là mon men tiến tới gần với chuyện ma liên quan đến học đường mà thôi. Phần kết của câu chuyện này được coi là hết sức theo lối cổ truyền, thế nhưng có nó, và nó phải ra như thế. chỉ có người được nghe câu chuyện này. Vào cuối năm ấy hay năm sau cũng chẳng nữa, người trong số những người được nghe chuyện, tới sống ở ngôi nhà thôn quê ở Ireland. buổi tối, chủ nhà dốc cái ngăn kéo toàn những thứ linh tinh ra trong phòng hút thuốc lá. Chợt ông ta đặt tay lên cái hộp. "Này , vốn hiểu biết về các đồ cổ, xem giùm tôi cái gì đây". Bạn tôi mở cái hộp ra và thấy sợi dây vàng rất mảnh, có cái gì đó. Ông ta thoáng nhìn vật đó rồi giương mục kỉnh lên để nhìn cho . "Lịch sử của nó thế nào hả ông?" Ông ta hỏi. Chú nhà đáp "Khá kỳ. Ông biết đám thủy tùng dày đặc ngoài bụi cây kia chứ? Cách đây hai năm chúng tôi khơi lại cái giếng vẫn nằm trong khoảng rừng ấy, ông biết chúng tôi tìm thấy cái gì ?" " xác người ư?" khách hỏi với cảm giác bồn chồn kỳ lạ. "Đúng đấy. Nhưng còn hơn thế nữa. Với tất cả mọi ý nghĩa của từ này: chúng tôi tìm thấy hai". "Trời ơi! Hai! Có cái gì chứng tỏ họ đến đây bằng cách nào? Vật này tìm thấy cùng với họ chăng?" "Đúng. Nằm lẫn trong mảnh quần áo rách còn lại xác hai người. Chuyện thế nào nhưng chắc là chuyện hay. Cánh tay thây người ôm chặt quanh người kia. Họ phải chết hơn ba mươi năm nay rồi, trước khi chúng tôi đến ở ngôi nhà này. Chúng tôi lấp ngay cái giếng , chắc ông cũng cho là nên như vậy. Ông có nhìn mặt đồng tiền khắc chữ gì ?" "Có. Tôi nhìn ra được" Bạn tôi , giơ nó ra chỗ sáng (mặc dù ông ta đọc lên chẳng khó khăn gì) "hình như là G.W.S.24-7-1865" Chú thích : [1] trong các cách của ngữ pháp La tinh Chương 11 Vườn hồng Ông và bà Anstruther ngồi ăn sáng trong phòng khách ở Westfield, thuộc hạt Essex. Họ bàn chương trình cho ngày hôm đó. "George" bà Anstruther "em nghĩ có lẽ nên lái xe hơi đến Maldon xem thử có mua được mấy thứ đồ dùng em đó để dùng cho quầy của em ở hội chợ từ thiện được ?" "Ồ được, nếu em muốn. Mary, làm việc đó, nhưng phần nào thoả thuận với Geoffrey Williamson chơi ván gôn sáng nay rồi. Hội chợ từ thiện vào tối thứ Năm tuần tới kia mà?" "Cũng thế thôi. Hẳn biết nếu kiếm được mấy thứ đó ở Maldon, em phải mua ở các cửa hàng thị trấn. Họ gửi đến những thứ kém chất lượng và đắt nữa, như lần trước ấy. Nhưng nếu hứa với ông Williamson phải giữ lời thôi, lẽ ra phải cho em biết" "Ồ đâu, chưa hứa. hiểu em muốn gì. . Còn em làm gì?" "Khi nào việc nội trợ thu xếp xong, em xem việc sắp đặt vườn hồng mới của em ra sao. Nhân tiện, trước khi đến Maldon, đưa Collins đến xem chỗ đó, biết ở đâu rồi đấy" " chưa biết chắc chỗ ấy đâu Mary ạ, có phải ở mạn cuối, về phía làng ?" "Lạy trời . George thân , em tưởng rồi còn gì. Nó là khu đất trống ngay cạnh con đường có nhiều bụi cây dẫn đến nhà thờ ấy" "Ồ phải, nơi chúng ta bảo trước đây hẳn từng là căn nhà mùa hè chứ gì? Có ghế ngồi cũ rích với cây cột chứ gì? Nhưng em có cho là chỗ ấy đủ ánh sáng ?" "Ồ George, lý trí chút nào , đừng hỏi gì, phải tin vào mấy cái ý nghĩ của về căn nhà màu hè ấy. Ánh nắng mặt trời thừa đủ khi ta phạt bớt số bụi cây . Em biết sắp gì rồi, em cũng muốn cho phạt sạch các bụi cây. Em chỉ muốn Collins dẹp hết các ghế ngồi cũ rích với các cây cột trước khi em ra đấy trong vòng giờ nữa. Em cũng mong sơm sớm lên. Cơm trưa xong em tới nhà thờ vẽ phác thảo, do đó có thể tới sân gôn, hoặc…" "Hay đấy, hay lắm! Em hoàn thành bức phác thảo, chơi ván gôn" " có thể vào chỗ đức Giám mục, nhưng thôi, đừng để tâm đến các đề xuất của em làm gì, chuẩn bị , ngày sắp trôi qua rồi còn gì!" Mặt ông Anstruther có xu hướng dài ra, liền thu ngắn lại ngay, ông vội vã rời khỏi phòng và bảo ban người làm ngoài hành lang. Bà Anstruther con người oai nghiêm khoảng năm mươi, mùa hè sau khi xem qua thư từ buổi sáng, liền bắt tay vào tiến hành công việc gia đình… Ít phút sau ông Anstruther tìm thấy Collins trong nhà kho, họ đến nơi định trồng vườn hồng. Tôi hiểu nhiều về điều kiện ươm hồng, nhưng có xu hướng tin rằng bà Anstruther, tuy tự cho mình là "người làm vườn hồng" chọn nơi trồng hồng thích hợp lắm. Khu vườn thực , ẩm thấp, phía giáp với con đường, những phía kia đầy bụi cây rậm rạp, những cây dương xỉ và nhiều loại cây khác nữa. Đất có cỏ mọc, trông có vẻ tăm tối. Vẫn còn lại các ghế ngồi kiểu thôn quê, cây cột gỗ sồi nham nhở đứng gần giáp khu vực khiến ông Astruther liên tưởng xưa kia ở đây có nhà nghỉ mùa hè. ràng Collins tán thành ý bà Anstruther về mảnh đất này. Nghe qua lời ông Anstruther, ông tỏ vẻ nhiệt tình. "Dĩ nhiên dẹp cái ghế kia nhanh thôi" ông ta "để chúng trông chẳng đẹp đẽ gì, mà chúng cũng cũ rồi. Ông xem này – ông ta đập ra mảng lớn – mục nát rồi còn gì. Phải dẹp chúng, tôi làm được ngay ấy mà". "Còn cây cột" ông Anstruther "ông cũng cho dẹp luôn cả thể" Collins tiến đến, dùng cả hai tay lắc lắc cái cột rồi xoa cằm. "Chắc lắm ông ạ" ông ta bảo "Chôn từ nhiều năm rồi. nhanh như nhổ đám ghế ngồi kia đâu" "Nhưng bà chủ muốn nhổ xong trong giờ đồng hồ đấy" ông Anstruther . Collins cười mỉm, lắc đầu: "Ông tha lỗi cho chứ, ông cứ tự tay thử xem này, làm sao làm được việc thể làm, hả ông? Phải đến giờ dùng trà mới xong, còn phải đào lên khá nhiều để làm cho đất chung quanh lỏng ra , tôi và thằng bé nữa mất số thời gian. Riêng mấy cái ghế "Collins thấy phần kế hoạch này phù hợp với năng lực của mình " giờ là xong. Có điều…" "Có điều sao, Collins?" " phải là tôi muốn tuân lệnh hay là tôi vì lười nhác, nhưng xin lỗi ông chứ, tôi tôi chẳng cọn nơi đây làm vườn hồng . Các bụi cây khóm liễu che hết ánh sáng…" "Nhưng dĩ nhiên ta phát quang số chứ…" "Vâng, dĩ nhiên là phạt bớt, nhưng xin lỗi ông Anstruther…" "Thôi xin lỗi, tôi phải đây, Collins. Tôi nghe tiếng ô tô đỗ trước cửa rồi kìa. Bà chủ bảo ông chính xác bà ấy muốn gì. Tôi với bà ấy ông dẹp ngay các ghế ngồi, việc để buổi chiều. Chào ông" Collins bị bỏ lại đứng xoa cằm. Bà Anstruther nghe lại, được hài lòng lắm nhưng vẫn cứ để kế hoạch như vậy. Bốn giờ chiều bà để chồng đánh gôn sau khi ông hoàn thành việc sai bảo Collins và những nhiệm vụ khác, bà cho đưa ghế đẩu và dù ra đúng địa điểm để từ các bụi cây bà có thể vẽ phác thảo nhà thờ theo góc độ ấy, vừa lúc đó đầy tớ chạy đến có Wilkins đến thăm. Wilkins là trong vài người của gia đình sở hữu ngôi nhà Westfield mà ông bà Anstruther vừa mua lại vài năm trước đây. còn ở nán lại gần khu vực đó, nay đến chia tay để hẳn. "Có lẽ mời ấy đến đây cũng được" bà Anstruther bảo, và ít phút sau Wilkins, ở tủôi trung niên, tiến lại gần. "Thưa mai tôi rời Ashes. Tôi kể tôi nghe là bà tân trang khu này như thế nào. Khu vườn nay đẹp quá. Thế nào tôi cũng có chút luyến tiếc, ngôi nhà cũng vậy" " thế tôi vui quá. Nhưng mọi việc cải thiện hoàn tất đâu. Để tôi chỉ cho xem khu vực tôi định biến thành vườn hồng. Ngay cạnh đây thôi" Chi tiết đề án được phần nào cho Wilkins nghe nhng này tâm trí để tận đâu đâu. "Vâng, tuyệt" ta có vẻ lơ đãng "Nhưng bà Anstruther ạ, bà có biết , tôi nghĩ về những ngày xa xưa, tôi rất mừng còn được nhìn lại nó trước khi bà thay đổi nó. Frank và tôi có câu chuyện kỳ lạ ở đây đấy" "Vậy ư?" bà Anstruther mỉm cười bảo " kể tôi nghe xem nào. Chắc lạ lùng và dễ thương lắm" " dễ thương đâu ạ. Đối với tôi khá kỳ quặc. Hồi hai em tôi lúc nào cũng chơi giỡn bên nhau. Chuyện này khó thành lời – nhất là tôi – chứng kiến nghe nó huyễn hoặc thế nào ấy" "Có kiện làm chúng tôi đâm sợ khu vực này mỗi khi chỉ có hai đứa với nhau. tối mùa thu nóng bức, tự nhiên Frank biến mất quanh chỗ này cách khá bí mật. Tôi tìm ấy về dùng trà, xuống con đường này tôi trông thấy ấy – phải trốn sau bụi cây như tôi tưởng – mà ngồi cái ghế dài của căn nhà mùa hè cũ - ở đây xưa có căn nhà mùa hè bằng gỗ mà – chúi vào góc ghế mà ngủ, mặt trông kinh khiếp như người ốm hoặc người chết. Tôi chạy lại, lay ấy dậy, ấy thức giấc và thét lên tiếng. Cậu bé lúc ấy còn phải là mình nữa. Hai em chạy về nhà, đêm đó ở trong tình trạng khủng hoảng, thức trắng ngủ. Như tôi còn nhớ, phải có người ngồi bên cạnh . hồi phục nhanh thôi, nhiều ngày sau cậy răng ấy cũng tại sao lại bị như vậy. Cuối cùng mới vỡ lẽ, chiều hôm ấy buồn ngủ quá và có giấc mơ kỳ lạ đầu đuôi. nhìn thấy gì đó ở xung quanh, chỉ cảm thấy quang cảnh sinh động. Lúc đầu ở trong gian phòng rộng quanh có đông người, người nào đó rất có thế lúc đứng đối diện với , hỏi nhiều câu hỏi cho là rất quan trọng, lúc trả lời lại có ai đó – hoặc người cũng ở trong phòng phía đối diện hoặc ai đó, bẻ lại. Mọi tiếng nghe rất xa xôi nhưng còn nhớ đôi câu "Ngày 19 tháng 10 ở đâu?" và 'Đây có phải chữ ?' v.. v..Bây giờ tôi hiểu ra đứng trước phiên toà, nhưng được xem giấy tờ gì cả, và quái quỷ, đứa trẻ lên tám hiểu gì về phiên toà đâu. kể lại lúc nào cũng như bị áp lực dồn nén, căng thẳng và vô vọng (dĩ nhiên lúc ấy kể với tôi bằng những từ ngữ ấy). Sau đó, sau thời gian, cách quãng nhưng yên ổn chút nào, hoàn toàn khốn khổ là khác, lại đến hình ảnh khác, được dẫn từ trong nhà ra ngoài vào buổi sáng tối tăm có tuyết rơi. Có đường phố giữa các ngôi nhà hay sao ấy, người rất đông, được dẫn lên những bậc thang gỗ kêu cọt kẹt và đứng cái bệ, thứ duy nhất trông thấy là ngọn lửa cháy ở gần đâu đó. Người giữ cánh tay của thả tay ra rồi về phía ngọn lửa, đến đây là lúc đáng sợ nhất trong cả cơn mê, nếu được tôi đánh thức hiểu ra sao! đứa trẻ mà mơ thấy thế lạ . Lạ quá ấy chứ. Đến cuối năm Frank và tôi lại ở đây. Tôi ngồi chỗ bụi cây lúc hoàng hôn, để ý thấy mặt trời lặn, tôi bảo Frank chạy về nhà xem trà pha xong chưa để về uống, còn tôi đọc nốt chương sách. Frank lâu hơn tôi tưởng, trời tối quá nhanh, tôi phải ghé mặt sát vào quyển sách. Bỗng nhiên từ bụi cây như có ai thầm bên tai tôi, tôi chỉ phân biệt được có mấy chữ hay tưởng là như vậy, mấy chữ như là 'Kéo, kéo . Tôi đẩy, kéo. "Tôi hoảng cả người. Giọng thầm, nghe có vẻ bực bội và khàn khàn cứ như vang tới từ nơi xa xôi nào đó như trong giấc mơ của Frank. Tuy tôi sợ nhưng vẫn đủ tỉnh táo để nhìn quanh xem nó từ phía nào tới. Và, nghe như bị điên đấy, nhưng thực là vậy, tôi dám chắc khi ghé tai vào cái cây cột ở đầu ghế nghe nhất. Tôi chắc đến nỗi chính tôi vạch mấy cái dấu lên cây cột bằng cây kéo trong rổ khâu của tôi. Chẳng hiểu tại sao. Tôi tự hỏi có phải chính cây cột phát ra giọng …Có thể chứ. Có rất nhiều dấu, vết rạch đó – nhưng cũng biết thế nào. Có vẻ như nó chính là cây cột mà bà thấy đây. Cha tôi biết chúng tôi gặp chuyện hoảng sợ từ chỗ vườn cây, chiều tối kia ăn cơm xong ông xuống đốn hết . Tôi còn nhớ nghe cha tôi với ông cụ làm những việc vặt quanh đó, ông cụ bảo "Đừng sợ ông ạ, ông ấy cho đóng cọc chặt vào đó rồi, nếu ai nhổ chúng ta được" Khi tôi hỏi 'ông ấy' là ai ai trả lời cho câu thích đáng. Có thể đợi tôi lớn lên, cha mẹ tôi giải thích cho tôi nhưng như bà biết đấy, các cụ mất khi chúng tôi còn . Tôi vẫn cứ thấy lạ, vẫn cứ hỏi các người già trong làng xem họ có thấy gì lạ . Nhưng họ thấy, mà có thấy cũng bảo chúng tôi. "Thôi, tôi làm bận lòng bà với bao chuyện trẻ con hồi xưa, nhưng quả là cái lùm cây này ám ảnh tâm trí chúng tôi biết bao nhiêu lâu! Hẳn bà hình dung được những chuyện trẻ con chúng tôi cứ thêu dệt ra với nhau. Chào bà Anstruther, tôi phải rồi. Mùa đông ta gặp nhau tỉnh, phải ạ?". Đến chiều lần lượt các ghế dài và cây cột bị nhổ lên hết. Khí hậu chiều hè rất tráo trở. Trong bữa cơm, bà Collins phải sai người lấy chút rượu mạnh vì ông chồng bỗng rét run, bà sợ ngày mai ông phải nghỉ việc. Sáng hôm sau, ý nghĩ của bà Anstruther hoàn toàn thanh thản. Bà chắc có mấy thằng du côn đột nhập vào trong địa sản. "Và, điều này nữa, George" bà bảo ông Anstruther "bao giờ Collins khỏi, phải bảo ông ta đem con cú , nghe nó kêu kinh quá, có con cú đậu ngay ngoài cửa sổ phòng chúng ta. Nó mà bay vào trong nhà em loạn trí luôn, cứ xem tiếng kêu của nó hẳn nó to lắm. có nghe thấy nhỉ? Chắc là . Xưa nay vẫn ngủ say mà. Nhưng mà, trông cứ như đêm qua mất ngủ ấy nhỉ?" "Em , mà còn có giấc mơ giống như đêm hôm qua nữa hẳn cũng hoá điên. Em biết mơ thấy gì đâu. Lúc tỉnh dậy sao về nó được, gian phòng ta nắng sáng rực rỡ thế này chắc về nó cũng dám" "Ồ, xưa nay có thế bao giờ đâu? Hẳn là … à phải…mà em cũng vậy cơ mà, hay là tại dùng nước ở cái câu lạc bộ thổ tả ấy?" ", chỉ ly trà với bánh mì bơ. Mà kể lại giấc mơ cho ra đầu đuôi cũng khó cơ đấy – cứ như tập hợp bao việc linh tinh mình nhìn thấy hoặc đọc thấy trong sách. Này nhé, Mary, để kể em nghe. Nếu em phiền…" "Em muốn được nghe ấy chứ, George. Khi nào muốn nghe nữa em bảo " "Được. Phải ngay nó giống những cơn ác mộng khác, nhìn thấy ai, cũng chẳng ai với hay chạm vào người , ấy thế mà vẫn bị ấn tượng kinh khủng như là mọi chuyện xảy ra thực. Lúc đầu ngồi, , lại lại trong cái phòng có giát ván gỗ. Có cái lò sưởi, trong có nhiều giấy tờ bị đốt cháy và ở trong trạng thái lo sợ kể xiết về cái gì đó. Có người hình như là đầy tớ, cho là vậy vì nhớ bảo ta"Lấy ngựa, nhanh lên" rồi chờ chút, thế là thấy bao nhiêu người lên cầu thang, tiếng động như đinh thúc ngựa bước vào sàn gỗ, cửa mở ra, điều gí đó mà chờ đợi tới" "Nhưng nó là cái gì vậy?" " thể được, loại sốc làm hoảng loạn trong cơn mơ. Hoặc tỉnh dậy hoặc là tất cả tối mịt. Đó là điều xảy tới với . Sau đó ở trong căn phòng tường thẫm màu, đóng panel, giống như căn phòng kia, và số người nữa và ràng là …" " bị xử ở phiên toà chứ gì?" "Trời ơi, đúng thế Mary ạ! Em cũng mơ vậy sao? Kinh quá!" ", . Em có ngủ được mấy đâu mà nằm mơ? cứ tiếp , rồi em kể cho nghe sau" "Ừ, thế này nhé, bị đem ra xử trong bối cảnh mà với tả, ai hộ lời nào, gần đâu đó có tay vô cùng đáng sợ, ngồi cái ghế dài phải, cứ lao vào ma đả kích rằng bất công, cái gì bẻ quẹo cái đó, tra hỏi những câu hỏi khủng khiếp." "Về chuyện gì mới được kia chứ?" "Ngày này tháng nọ ở đâu, ở đâu? Những bức thư có phải do viết , tại sao lại hủy bỏ số lá thư ? vẫn còn nhớ cười lên như thể đáp đối với những câu trả lời của làm nhụt chí. Nghe có vẻ gì ghê gớm nhưng phải là sợ, lúc nào cũng sợ. tin xưa kia đúng là người như vậy, thằng cha kinh khủng, tàn ác, những điêu …" "Thôi cảm ơn, em muốn nghe thêm nữa. Để còn có thể tự ra sân gôn ngày nào cũng được. Cuối cùng thế nào?" "Chống lại , mục đích của là vậy à. rằng mong diễn tả được cho em nghe tình trạng căng thẳng cho dù nó kéo dài biết bao nhiêu ngày, cứ chờ, cứ đợi, đôi khi phải viết lách nhiều thứ mà biết vô cùng quan trọng đối với , cứ chờ đợi trả lời, thấy gì nữa, cuối cùng ra…" "Ái chà!" "Sao em lại vậy? Em biết trông thấy gì ư?" " ngày tối tăm ảm đạm, ngoài phố có tuyết, gần đâu đó có ngọn lửa cháy, đúng ?" "Lạy thánh George, đúng là như thế. Em cũng mơ thấy vậy sao? phải chứ? Đây mới là điều kỳ quặc nhất. bị hành quyết vì tội lừa đảo. nằm rơm, bị đau dữ dội, sau dó bước lên mấy bậc tam cấp, có ai đó túm lấy cánh tay , còn nhớ nhìn thấy cái bóng và nghe tiếng người lao xao. tưởng như chịu đựng nổi khi lại phải vào đám đông và nghe tiếng họ ồn ào. Tuy nhiên, may mắn làm sao phải thực vào câu chuyện. Giấc mơ qua với tiếng như tiếng sấm trong đầu . Nhưng, Mary…" "Em biết định hỏi gì rồi. Đây là ví dụ cho việc đọc được ý nghĩ của người khác. Hôm qua, Wilkins tới, kể cho em nghe giấc mơ mà ta gặp phải lúc còn là cậu bé con sống tại đây, có lẽ chính vì nghĩ đến nó mà em thức dậy và nghe tiếng những con cú kêu khủng khiếp, hơn nữa em còn nghe thấy tiếng người cười trong các bụi cây ( xem thử cây cối có hư hại gì , nếu có phải báo cho cảnh sát), và biết đâu từ óc em nó chuyển đến óc trong khi ngủ. Lạ đấy, em rất tiếc làm cho ngủ ngon, hôm nay phải ra khí trời thoáng đãng ". "Phải đấy, nhưng nghĩ Lodge xem có ai đánh gôn với . Còn em?" "Em có đủ việc làm sáng hôm nay rồi. Buổi chiều em vẽ nốt" " rằng mong em chóng hoàn thành" Trong bụi cây thấy gì hư hỏng cả, ông Anstruther quan tâm qua loa đến khu vườn hồng nơi cây cột bị nhổ, còn nằm đấy, lỗ trống hoác. Về Collins, hỏi thăm nghe khá hơn nhưng vẫn chưa lại được. Qua lời vợ ông ta, ông ta tỏ ý hy vọng làm gì sai trái trong việc dẹp các ghế và nhổ cây cọc. Bà Collins còn những người hay chuyện ở Westfield này có nhiều lắm, nhất là những người già cả sống trong khu này lâu hơn tất cả những người khác. Những lời họ chắc chắn làm Collins hoảng loạn cả đầu óc, nhưng toàn là những chuyện vớ vẩn cả thôi. Lấy lại sức khoẻ sau bữa ăn trưa và giấc ngủ ngắn, bà Anstruther ngồi thoải mái chiếc ghế ngồi vẽ đặt canh con đường dẫn qua bụi cây tới cổng nhà thờ. Cây cối và nhà cửa vốn là đề tài thích của bà và ở đây bà nghiên cứu kỹ cả hai. Bà làm việc cật lực, cho đến lúc mặt trời khuất sau những ngọn đồi có rừng che phủ ở phía xa, bức tranh trông rất vui mắt. Bà còn muốn vẽ nữa, nhưng ánh sáng thay đổi nhanh quá, ràng nếu còn nét vẽ nào đành phải đợi đến mai. Bà đứng dậy quay về phía cánh đồng lát tận hưởng niềm vui dưới bầu trời xanh ngăn ngắt. Rồi bà qua những bụi cây rậm rạp, tới chỗ con đường đổ ra bãi cỏ, lại đứng lại lần nữa thưởng thức cảnh chiều tà, ghi nhớ trong óc cảnh tháp chuông nhà thờ vùng Roothing. Bỗng nhiên có con chim (bà cho là thế) sột soạt trong bụi cây bên trái, bà quay lại giật mình nhìn thấy cái gì đó mà thoạt đầu bà cứ tưởng là cái mặt nạ của ngày mùng năm tháng Mười , thò ra. Bà lại gần nhìn cho kỹ. Đó phải là mặt nạ - mà là bộ mặt , tròn, nhẵn thín, màu hồng. Bà còn nhớ rất những giọt mồ hôi xíu giỏ xuống từ trán nó. Hàm râu được cạo sạch , đôi mắt nhắm nghiền. Bà cũng nhớ chính xác đến mức chỉ nghĩ đến thôi chịu nổi, miệng rộng ngoác ra, hàm có mỗi cái răng. Thấy bà, cái mặt lùi lại rút vào trong bụi. Bà chạy về nhà đóng cửa lại rồi ngất . Ông và bà Anstruther phải Brighton nghỉ ngơi tuần cho lại sức. Sau đó họ nhận được công văn của Hội Sưu tầm của Essex hỏi xem họ có giữ đến tấm chân dung lịch sử nào đó của Essex mà Hội sưu tầm để đặt công trình khảo cổ của Essex về mặt chân dung nào ? Chân dung được in ra dưới bảo trợ của hội. Kèm theo có bức thư của Thư ký Hội có đoạn như sau "Chúng tôi thiết tha muốn biết ông bà có bản in khắc gỗ của chân dung Ngài…, Quan toà dưới thời Charles II mà, chắc ông bà biết, phải về nghỉ ở Westfield sau khi bị thất sủng và nghe chết tại đó trong ân hận giày vò. Hẳn ông bà lưu tâm khi biết trong các sổ sách mới được tìm thấy – của trưởng tu viện ở Roothing chứ phải ở Westfield – có ghi lại rằng sau khi vị chánh án chết, giáo khu bị xáo động ghê quá, đến nỗi mục sư ở Westfield phải mời các cha xứ toàn vùng Roothing đến yểm , và họ làm như vậy. Đọan ghi chép kết luận rằng "Cái cọc đó ở cánh đồng ngay cạnh nhà thờ Westfield, bên phía Tây". Có lẽ ông bà cũng cho biết luôn còn gì được truyền tụng ở trong vùng về ảnh hưởng của chuyện này ". Bức ảnh gửi kèm làm bà Anstruther lên cơn sốt đến nỗi mùa thu bà phải ra nước ngoài nghỉ. Ông Anstruther khi xuống Westfield thu xếp công việc, kể lại chuyện này cho ông mục sư ( vị quý tộc già), ông ta chẳng lấy gì làm lạ. "Dĩ nhiên tôi được nghe kể lại câu chuyện xảy ra qua lời những bậc lão thành và cũng như những gì tôi mục kích. Quả là chúng tôi phải chịu đựng nhiều, lúc đầu nào cú kêu, tiếng người thầm trong vườn này, lúc trong các nhà tranh, rồi hết dần. Tôi tưởng hết. Trong sổ sách, chúng tôi ghi lại cuộc mai táng, suốt thời gian dài tôi coi chuyện đó như phương châm gia đình phải tuân theo, nhưng lần lần rồi nhìn vào sổ tôi mới để ý bên cạnh có ghi thêm cái gì đó bởi bàn tay lạ với hai chữ đầu tên mục sư ở thế kỷ mười bảy – A.C. – Agustine Crompton. Đây ông xem "quieta non movere" – yên lặng đừng khuấy động – Tôi cho là…Phải, kể cũng phải chính xác tôi thấy chuyện đó ra sao".
Chương 12: Luận văn MIDDOTH Vào cuối buổi chiều thu, người đàn ông già, mặt gầy, tóc mai dài và bạc, đẩy cánh cửa chính dẫn vào tiền sảnh của thư viện có tiếng, với nhân viên rằng ông có đặc quyền vào thư viện, và đề nghị cho mượn quyển sách. Vâng, nếu như ông ta có tên trong danh sách những người có đặc quyền ở thư viện này. Ông ta bèn đưa thẻ ra – ông John Eldred – tra sổ xong, người nhân viên trả lời đồng ý. "Vâng, thưa còn có vấn đề nữa" ông ta " lâu lắm tôi mới lại tới đây, do đó tôi quên cả đường lối lại trong toà nhà, và mười giờ, tôi chạy lên chạy xuống e kịp. Tôi có tên quyển sách tôi cần đây, liệu có ai rảnh có thể lấy giúp tôi được ?". Sau thoáng suy nghĩ, người giữ cửa gật đầu ra hiệu cho người đàn ông trẻ tuổi ngang qua "Ông Garret ạ, ông có rảnh để giúp quý ông này việc được ?" "Vâng được", thanh niên có tên Garret trả lời. Mảnh giấy ghi tên quyển sách được đưa cho ta. "Tôi nghĩ tôi tìm được, vô tình nó ở đúng vào khu vực tôi kiểm tra tháng vừa rồi, để tôi xem lại trong catalog xem có đúng thế . Thưa, ông có đúng sách xuất bản năm này ạ?" "Vâng, ông giúp cho, chỉ quyển ấy quyển nào khác", ông Eldred "Cám ơn ông nhiều". " có gì, thưa ông" Garret , vội vàng chạy . "Mình nghĩ đúng mà" Garret tự nhủ khí ngón tay chỉ đúng vào chỗ trong quyển catalog "Talmud – luận văn Middoth, cùng các bình luận của Nachmas Amsterdam, 1707.11.3.34. Dĩ nhiên là khu vực sách Do thái rồi. Tìm chẳng khó gì". Ông Eldred ngồi trong chiếc ghế ở tiền sảnh sốt ruột chờ vị sứ giả trở lại. Ông ta thất vọng khi thấy Garret tay chạy từ cầu thang xuống. "Rất tiếc làm ông thất vọng" thanh niên "Nhưng quyển sách có người mượn rồi" "Ồ trời", ông Eldred "Vậy ông có chắc ?" "Theo tôi nhiều phần chắc, nếu ông cảm phiền chờ chút, có thể ông gặp gặp quý ông vừa lấy quyển sách, ông ta phải ra khỏi thư viện ngay sau đây thôi, tôi nghĩ mình vừa trông thấy ông ta nhấc quyển sách đặc biệt ấy ra khỏi giá sách" "Thế ạ, ông nhận ra ông ta là ai ạ? Đó là giáo sư hay là sinh viên ạ?" "Tôi nghĩ vậy, giáo sư chắc là phải rồi, nếu vậy tôi phải biết ông ta chứ. Tuy nhiên lúc đó thư viện hơi tối, tôi nhìn mặt, tôi có thể ông ta là vị quý tộc già hơi thấp, có lẽ thầy tu mặc áo choàng. Ông chờ cho chút, để tôi xem ông ấy có thực cần quyển sách lắm ?" "Thôi, thôi" ông Eldred vội "Bây giờ tôi thể chờ được, cảm ơn ông, tôi phải ngay. Nhưng có thể khi nào tôi quay lại, có lẽ ông tìm ra ai là người cầm nó." "Vâng, chắc chắn, chúng tôi có quyển sách đưa ông, nếu như chúng tôi…" Nhưng ông Eldred mất, vội vã đến mức ai nghĩ ông ta vội như thế. Garret còn ít thời gian, nghĩ "Ta trở lại chỗ ấy xem còn thấy ông già . Có thể ông ta để lại đó vài ngày nữa mới dùng sao. Ngay cả ông kia cũng hình như cần giữ nó lâu lắm phải". Thế à lên khu vực sách Do Thái. Đến có chẳng thấy ai, quyển sách vẫn ở chỗ của nó, mang dấu 11.3.34. Garret hơi bị tốn thương lòng tự trọng giúp được người mượn chỉ lý do quá . muốn cầm quyển sách chạy xuống tầng dưới để sẵn ở đó, ông Eldred quay lại có ngay, nhưng nội quy thư viện cho phép. Tuy nhiên, sáng mai để ý đến việc này, dặn ông giữ cửa khi ông ta đến, báo cho biết ngay. Thực tế sáng sớm hôm sau, thư viện vừa mở cửa ông ta đến và ở trong tiền sảnh, lúc ấy hầu như mới chỉ có các nhân viên, chưa có bạn đọc nào đến. " xin lỗi ông" "ít khi tôi nhầm lẫn đâu như thế, nhưng tôi dám chắc quý ông hôm qua nhấc quyển sách ra cầm trong tay, bỏ ra, kiểu người ta cứ hay nhấc ra như vậy nhưng chắc mình dùng. Lần này, tôi chạy lên lấy ngay cho ông" Ông Eldred lại lại chỗ đường vào, đọc các cáo thị, xem đồng hồ, ngồi xuống, nhìn chăm chăm lên cầu thang, rất sốt ruột, hai mươi phút trôi qua. Cuối cùng hỏi người coi cửa xem quãng đường từ sảnh đến chỗ Garret lấy sách có xa lắm ? "Tôi thấy lạ đấy" ông coi cửa đáp "mọi khi ấy nhanh lắm, chắc ông thư viện trưởng lại sai ấy làm việc gì rồi nhưng hẳn ấy phải bảo có ông chờ chứ? Để tôi gọi với ấy qua đường ông như thế nào" Người này vào đường ống và sau khi nghe mặt biến sắc, hỏi thêm vài câu ngắn, sau đó, đến quầy của mình với vị độc giả: "Thưa ông, rất tiếc tôi được biết có cố vừa mới xảy ra với Garret. ấy bị khó thở, thư viện trưởng đưa ông ấy về nhà qua lối bên kia rồi. Nghe như bị thứ bạo bệnh gì đó" "Thực sao, có người nào làm ông ấy bị thương ?" "Dạ , có chuyện bạo lực, phải là ông ấy bị ai tấn công, chỉ là cơn bệnh thôi. Ông ấy vốn thể lực được khoẻ lắm. Còn về quyển sách, ông tự lên tìm được ? Hai lần rồi mà ông đều bị thất vọng…" "À vâng, nhưng tôi ân hận quá, vì tôi mà ông ấy ốm, thôi tôi mượn sách vội, mà đến thăm ông ấy . Ông cho tôi địa chỉ của ông ấy được ?" "Việc này dễ thôi, ông Garret ngủ trong nhà trọ đâu đó gần đây" "Và, xin hỏi thêm câu này nữa. Ông có để ý thấy hôm qua sau khi tôi rời thư viện có cụ già nom rất giống nhà tu hành, phải, mặc áo choàng, ra về sau tôi ? Tôi nghĩ có thể là ông ở…hoặc tôi biết ông ta cũng nên" " có ai mặc áo choàng đen cả, thưa ông. Sau khi ông có hai vị khác ra về, người trẻ cả. Đó là ông mượn về quyển sách nhạc và vị giáo sư đem về mấy cuốn tiểu thuyết. Ồ, ông cho nhiều quá, để tôi uống trà, cám ơn ông" Ông Eldred vẫn còn lo lắng, lên xe ngựa tới nhà ông Garret. Ông này chưa ở trong tình trạng tiếp khách được tuy khá hơn, bà chủ nhà là ông bị cơn sốc nặng. Theo lời bác sĩ, bà cho là mai ông ấy có thể tiếp ông Eldred được. Ông này trở về khách sạn lúc hoàng hôn, tôi cho rằng ông trải qua buổi tối rất buồn nản. Ngày hôm sau ông gặp ông Garret, vốn bình thường là thanh niên vui tươi trông dễ thương, nay tái nhợt, run rẩy, ngồi thù lù trong ghế bành cạnh lò sưởi, lúc nào cũng lẩy bẩy nhìn ra bên ngoài, có lẽ Garret chờ vị khách nào khác kia chứ phải ông Eldred. "Thực ra tôi phải đến xin lỗi ông" Garret "nhưng tôi biết địa chỉ ông, tuy nhiên tôi rất mừng thấy ông đến thăm. đáng tiếc gây ra mọi rối ren, nhưng ông biết cho, tôi làm sao lường trước được căn bệnh này?" "Dĩ nhiên, tôi cũng là thầy thuốc đấy, ông tha lỗi cho lời tôi sắp hỏi ông, bởi tôi chắc chắn ông nhận lấy nhiều những lời khuyên thích đáng rồi. Có phải ông bị ốm ạ?" ", tôi ngã sàn , nhưng phải từ cao xuống. Thực là cơn sốc". "Ông muốn ông gặp chuyện làm ông ngạc nhiên ư? Ông có nghĩ là ông nhìn thấy cái gì đó ?" " nghĩ hẳn đúng, vâng, tôi nhìn thấy cái gì đó . Ông còn nhớ lần đầu ông đến thư viện ?" "Dĩ nhiên là có, nhưng thôi, xin ông đừng tả lại, tôi thấy gợi lại chỉ có hại cho ông" "Nhưng giá kể lại được cho người như ông cũng mình. Vì có lẽ ông giải thích được. Tôi vừa đến khu vực có quyển sách của ông…" ", ông Garret, đừng…Với lại muộn giờ để lấy hành lý ra tàu. Xin đừng thêm gì nữa, tệ cho ông hơn là ông tưởng. Chỉ xin với ông câu, tôi cảm thấy mình gián tiếp làm cho ông bị ốm, xin được thanh toán chi phí thuốc men cho ông…". Đề nghị này dĩ nhiên bị từ chối. Ông Eldred cũng ra về ngay lập tức, tuy nhiên trước đó ông Garret cố đề nghị giữ lại số hiệu về quyển luận văn Middoth này để khi rảnh ông Eldred có thể tự đến mà lấy. Tuy nhiên ông ta bao giờ trở lại thư viện nữa. Ngày hôm ấy William Garret còn có người khách khác nữa đến thăm, đồng nghiệp của ở thư viện, tên là George Earle. Earle là trong những người trông thấy Garret nằm bất tỉnh sàn ngay tại khu vực đó – đúng ra là ở cái góc mở ra lối chính giữa hành lang đầy ắp sách tiếng Do Thái. Earle rất lo về tình trạng của bạn mình. Thư viện đóng cửa, đến ngay nhà trọ của Garret. vài câu chuyện xong ta bảo: "Mình hiểu cái gì làm cho bạn ốm nhưng có lẽ là khí của thư viện. Mình dọc hành lang cùng với David trước khi phát ra bạn, mình bảo David 'Cậu có thấy cái mùi mốc meo ở đâu kinh như chỗ này ? Mùi độc hại quá!' Phải cả ngày sống trong khí với cái mùi như vậy ( ngờ nó tệ đến như thế) phải ảnh hưởng thần kinh và có ngày ốm thôi, đúng ?" Garret lắc đầu: "Đúng là có mùi như vậy nhưng nó vẫn ở đó mấy hôm nay – mùi rất lạ của bụi, tuy nhiên phải vì thế mà mình ngất. Mà vì thứ mình trông thấy. Để mình kể cho bạn nghe. Mình vào phòng sách Do Thái tìm quyển sách cho độc giả chờ dưới nhà. Chính quyển sách này gây ra lầm lẫn cho mình hôm trước. Mình cũng cố tìm quyển sách này cho chính vị độc giả ấy và ràng trông thấy ông cha xứ mặc áo choàng lấy quyển sách đó ra. Mình bảo ông khách, ông ta ra về và hẹn mai đến. Mình quay lại tìm ông cha xứ xem có lấy được quyển sách từ ông ta . thấy cha xứ đâu nữa mà quyển sách vẫn ở giá. Hôm qua mình lại lên lấy sách. Lần này – lúc đó khoảng 10 giờ sáng, mình còn nhớ khu để sách rất sáng, mình trông thấy ông cha xứ, lưng quay lại mình, nhìn lên cái giá sách mình định tìm. Mũ ông ta để bàn, đầu hói. Mình nhìn kỹ ông ta trong hoặc hai phút. Như mình , đầu ông ta hói trụi trông khô khốc đầy bụi bặm, vài sợi tóc lơ thơ như mạng nhện. Mình cố tình gây tiếng động, ho lên, chân bước tới. Ông ta quay lại khiến mình nhìn được bộ mặt, quả chưa thấy như thế bao giờ, mình thể nhầm được, chẳng hiểu sao mình nhìn vào phía dưới của bộ mặt mà chỉ nhìn vào phần . Nó hoàn toàn khô, hai mắt sâu hoắm, từ lông mày xuống má chỉ là đám mạng nhện, dày, thế là mình ngã ngất " tượng này Eale giải thích thế nào ta cần quan tâm, dĩ nhiên thuyết phục sao được Garret bởi ta đâu có nhìn thấy những gi Garret nhìn thấy. Trước khi William Garret trở lại thư viện làm việc, ông thư viện trưởng khăng khăng đề nghị nghỉ tuần để thay đổi khí. Thế là mấy hôm sau, túi du lịch vai, ra ga, tìm toa hút thuốc, tàu tới Bridge-on-Sea, nơi này chưa từng đến. Nhưng vừa đến gần toa tàu nhìn thấy ở ngay cửa toa hình bóng rất giống với những kỷ niệm vui của . Rồi nôn nao cả người, gần như vô thức mở cánh cửa toa bên cạnh và lao vào đó như thể thần chết đuổi đàng sau. Tàu lăn bánh, muốn xỉu, chợt ngửi thấy mùi lọ nước thơm đặt cạnh mũi – thầy thuốc chính là bà già đẹp đẽ cùng con , cả toa tàu thứ hai này chỉ có hai hành khách này mà thôi. bắt chuyện với hai người đồng hành nhờ kiện này, dĩ nhiên cảm ơn, hỏi han nhau, qua đó biết bà già những là bác sĩ của mà còn là bà chủ nhà. Bà Simpson có phòng cho thuê ở Burnstow và phòng này hợp ý với . Lúc này vắng khách, Garret tới ở với hai mẹ con, họ và rất hợp nhau, buổi tối ngày thứ hai ở đó, được mời tới phòng khách của họ. Trong cuộc trò chuyện họ biết làm việc tại thư viện. "A, thư viện, nơi dễ chịu" bà Simpson bỏ đồ đan xuống thở dài "Tuy nhiên, sách vở chơi tôi cú đáng buồn, đúng hơn, quyển sách làm tôi bệnh" "Bà Simpson ạ, sách là nguồn sinh nhai của tôi, tôi làm sao tệ về chúng được, tôi muốn chúng làm điều xấu cho bà" Simpson bảo: "Mẹ ạ, biết đâu ông Garret giải được nỗi khó khăn lúng túng của chúng ta?" "Mẹ muốn ông Garret lao vào cuộc săn lùng có thể dâu dài hơn cả đời người, cũng muốn ông ấy bận tâm về việc riêng của chúng ta" "Nhưng bà Simpson, nếu bà nghĩ tôi có thể có chút xíu nào có ích, xin cứ việc lúng túng ấy là gì. Ví dụ như cần tìm quyển sách nào đó, nhiều khả năng tôi có thể giúp được" "Vâng, tôi biết, vấn đề là tôi biết tên quyển sách đó" "Sách về cái gì bà cũng biết ạ?" "" "Ngoài việc chúng ta nghĩ nó là sách tiếng , phải mẹ, đó cũng chẳng là đầu mối gì lớn lao" "Thế này, ông Garret ạ" bà Simpson vẫn bỏ dở đan lát, "Để tôi kể cho ông nghe câu chuyện. Ông giữ kín cho nhé. Tôi xin ông. Vốn tôi có ông chú già, tiến sĩ Rant. Có thể ông nghe tên cụ. Chẳng phải vì cụ đặc biệt gì đâu mà vì cái cách cụ cầu được chôn ấy." "Hình như tôi có được được tên này trong quyển sách hướng dẫn nào đó phải" "Có thể lắm" bà Simpson "cụ để lại hướng dẫn – kinh khủng – để người ta chôn cụ ngồi trước bàn, mặc quần áo bình thường trong căn nhà xây bằng gạch ở dưới tầng hầm nơi cánh đồng gần nhà chúng tôi, dĩ nhiên dân trong vùng là vẫn thấy cụ quanh quẩn đâu đấy mặc áo choàng đen". "Tôi chuyện này lắm" bà Simpson tiếp "tuy nhiên, dẫu sao cụ cũng mất từ hơn ba mươi năm rồi. Cụ là nhà tu hành, tôi hình nổi làm sao mà cụ trở thành cha cố, nhưng cuối đời cụ thừa hành nhiệm vụ này, tôi cho vậy là tốt. Cụ sống bằng tài sản riêng, địa sản cách đây bao xa. Cụ có gia đình con cái, mỗi cháu là tôi, và cháu trai – cụ đặc biệt thích ai trong số chúng tôi mà cũng chẳng thích khác, có lẽ cụ thích họ tôi hơn – tính này giống cụ, rất khắt khe. thể hẳn khác nếu tôi lấy chồng, nhưng tôi lập gia đình và cụ rất ghét điều đó. Cụ sở hữu địa sản và rất nhiều tiền, sau mới ra là như vậy, cụ được toàn quyền sử dụng, và ai cũng hiểu là tài sản ấy được chia đều cho hai chúng tôi sau khi cụ mất. Hơn hai mươi năm trước, vào mùa đông, cụ bị đau và tôi được cử đến chăm nuôi cụ. Lúc ấy nhà tôi còn sống nhưng cụ đồng ý cho ông nhà tôi đến. Khi đến nơi tôi nhìn thấy ông họ John từ trong nhà ra qua phía cửa ngách, mặt mày hớn hở. Tôi vào nhà, làm tất cả những gì có thể được để trông nom cụ nhưng xem ra cụ khó qua khỏi và cụ cũng biết thế. Trước hôm mất, cụ gọi tôi lại ngồi bên cụ suốt, tôi đoán có việc gì đó, có lẽ là việc vui mà cụ để mãi tiện ra, cứ cố cầm cự chừng nào cụ còn sức. Cuối cùng cụ mới ra "Mary", cụ "Chú làm di chúc có lợi cho John, nó được tất cả cháu ạ" Dĩ nhiên tôi hơi sốc, bởi vì tôi lấy chồng tôi, chẳng giàu có gì, thực tế sống khá hơn chút nhà tôi chưa phải chết sớm như thế. Nhưng tôi gì với chú tôi cả ngoài việc chú có quyền làm bất cứ gì chú thích, phần vì tôi biết gì hơn, phần tôi cảm thấy cụ chưa hết. Đúng như thế "Nhưng Mary ạ" cụ "chú mấy ưa John, nên chú làm di chúc khác có lợi cho cháu. Cháu có thể có tất cả, có điều cháu phải tìm ra di chúc đó, mà chú lại định bảo cháu nó ở đâu", Rồi cụ cười khoái trá. "Cháu là cháu ngoan" cụ sau lát "cháu hãy cứ để chú cho cháu biết những điều đúng như chú bảo thôi. Nhưng chú bảo riêng cháu điều này. Ra toà với những điều chú đây là hoàn toàn vô ích, cháu có bằng cớ nào khác ngoài lời của chính chú, mà John là tay cần thề láo nó cũng làm được. Vậy là cháu hiểu. Chúc thư đó chú viết theo cách bình thường, mà viết trong quyển sách, sách in. Ở trong nhà nay hàng bao nhiều ngàn cuốn sách, nhưng cháu cần tìm trong số đó làm gì. Nó được giữ an toàn ở nơi khác kia, nơi mà John có thể tìm nếu như ngày kia nó biết trong khi cháu biết. Chúc thư đó làm nghiêm chỉnh, ký và làm đúng hợp thức, nhưng chú nghĩ cháu tìm được người làm chứng nhanh đâu" Tôi vẫn gì. Nếu có cử động hẳn tôi giữ cái ông cụ già quá tệ ấy mà lắc! Cụ cứ nằm cười mình. Cuối cùng cụ bảo: "Cháu chấp nhận việc rất bình thản đấy nhỉ, và vì lúc đầu chú có ý định cho hai người bằng phần nhau, John óc số lợi tức đủ để đến chỗ có quyển sách, chú thêm với cháu hai điều mà chú bảo John. Di chúc làm bằng tiếng , điều thứ hai là sa khi chú rồi, cháu thấy bàn có chiếc phong bì dành cho cháu, trong có cái gì đó giúp cháu tìm ra quyển sách nếu cháu đủ thông minh để sử dụng nó" "Vài giờ sau cụ mất, và cho dù tôi có kêu rộng lượng của John Eldred về chuyện này…" "John Eldred? Xin lỗi bà Simpson, tôi tưởng tôi gặp ông ta ở đâu đó rồi phải. Trông ông ta như thế nào ạ?" " mười năm nay tôi chưa gặp lại ông ta. Ông ta người gày, già, để tóc mai dài – trừ phi ông ta cạo , loại tóc mai mà người ta thường gọi là Dundrery hoặc Piccad … gì đó ấy" "…weepers phải ạ? Đúng là ông ta rồi!" "Ông gặp ông ấy ở đâu ạ, thưa ông Garret?" "Tôi cũng nhớ nữa" Garret dối "có lẽ là ở nơi công cộng nào đó. Nhưng bà chưa hết câu chuyện" "Thực ra chẳng có gì nhiều ,trừ việc John Eldred, dĩ nhiên, chẳng thèm quan tâm đến các lá thư kêu gào và mình thừa hưởng địa sảnh trong khi tôi và con tôi phải thuê nhà trọ ở đây, kể ra công việc hoá ra cũng đến nỗi tệ lắm như tôi tưởng". "Nhưng còn phong bì?" "Hẳn rồi. Đấy, cái câu đố, cái khó khăn là ở đó. Con lấy đưa cho ông Garret xem, bàn ấy" Đó là mẩu giấy chẳng có chữ gì ngoài mấy con số mà lại phân cách nhau ra ở chỗ nào cả: 11334. Garret su nghĩ, có luồng ánh sáng trong mắt . Chợt nhăn mặt hỏi: "Thế bà có cho ông Eldred hơn bà ở chỗ ông biết cuốn sách ?" "Đôi khi tôi nghĩ ông ấy biết" bà Simpson "bằng chứng nơi đây, chú tôi làm di chúc này chỉ ít ngày trước khi chết, ông vậy, sau đó cất quyển sách đâu biết. Nhưng toàn bộ số sách trong nhà ông cụ được ghi rất đầy đủ trong catalog, mà John có cuốn catalog này. John tuyệt đối để mất quyển sách nào, ông ấy cẩn thận lắm. Nghe suốt ngày ông ấy tìm ở các hiệu sách và các thư viện, hẳn ông ấy tìm ra những quyển sách nào ghi lại trong catalog mà thấy trong nhà và hẳn săn lùng chúng" "Chắc thế, chắc thế" Garret , rồi lại chìm vào suy nghĩ. Sáng hôm sau với bà Simpson nhận được thư cần phải cắt ngắn chuyến nghỉ ở Burnstow, lấy làm tiếc phải chia tay với họ (và họ cũng lấy làm tiếc phải chia tay với ). đường trở về, cảm thấy rất có thể kiện nào đó có tính cách cao trào xảy ra, mà kiện đó rất quan trọng đối với bà Simpson (ta có thể thêm là với Simpson). Lúc ở tàu cứ có cảm giác khó chịu và xúc động. nát óc suy nghĩ xem số hiệu ghi quyển sách ông Eldred cầu có liên quan gì tới con số trong mảnh giấy của bà Simpson .Nhưng con số gặp phải tuần qua khiến còn nhớ tí dấu vết gì của quyển sách, nó như thế nào, số hiệu ra sao, và nó nằm ở ngăn nào nữa, trong khi các khu vực khác của thư viện nhớ mồn . Còn việc nữa, chán quá, lúc đầu ngại, rồi quên, hỏi bà Simpson nơi ở của ông Eldred để có gì còn viết thư Ít nhất cũng còn chút manh mối từ mấy con số mảnh giấy của bà Simpson. Nếu liên quan đến số hiệu của quyển sách trong thư viện các số hiệu này chỉ nằm trong giới hạn nào đó, có thể chia ra mấy loại như sau: 11.33.4 hoặc 11.3.34. Chỉ vài phút sau là xác định được ngay thôi, mà tìm thấy sách vẫn có cách. vội làm ngay việc đó sau khi giải thích với bà chủ và các đồng nghiệp vì sao trở về sớm. 1.13.34 có gì xáo trộn và có tác phẩm tiếng nước ngoài. Tới gần khoảng 11 cùng hành lang liên tưởng gì đó làm ớn lạnh. Nhưng phải tiến tới. Sau thoáng nhìn 11.33.4 (dây là lần đầu tiên để ý tới và hoàn toàn mới lạ) đưa mắt nhìn lướt qua dày sách khổ bốn xếp đầy ngăn 11.3. Khoảng trống sợ hãi bỗng ra4 còn nữa. Kiểm tra kỹ lại biết mình nhầm, xuống tiền sảnh. "Số 11.3.34 đâu rồi? còn nhớ về con số này ?" "Nhớ hay ấy ư? coi tôi là người thế nào hả Garret? tự nhìn lấy các tích kê xem, nếu có thôi". "Thế ông Eldred có quay lại ? Cái ông đến đây vào hôm tôi bị ốm đấy? Cố nhớ lại xem. nhớ ông ta chứ?" "Nhớ chứ. Ông ấy đến suốt từ hôm nghỉ đến giờ. À, nhưng Robert biết. Robert, nhớ tên ai là Eldred ?" Robert trả lời: "Có người gửi silling đến để trả cước phí gửi sách ấy ư? Ai cũng làm thế tốt quá!" " gửi sách cho ông Eldred à? xem thế nào? Phải ?" "Ô hay Garret, nếu người gửi tích kê đến theo đúng quy cách, thư ký cho biết quyển sách có thể gửi được, lại có cả hộp ghi sẵn địa chỉ được gửi đến kèm theo với thư cầu, và khoản tiền đủ trả cước phi vận chuyển làm gì hả Garret? có thực nào? Hay vứt cầu của người ta xuống dưới quầy?" "Dĩ nhiên làm đúng rồi, Hodgson – hoàn toàn đúng, chỉ muốn phiền đưa tôi xem cái tích kê, và cho tôi biết địa chỉ của ông Eldred". "Chắc chắn xưa nay chưa ai bảo tôi là biết nhiệm vụ của mình. Đây tích kê đây: Ông J.Eldred, 11.3.34. tên sách T–a-l-m, liệu mà đọc ra, phải tiểu thuyết, tôi đoán thế. Và đây là giấy cầu mà ông Eldred điền vào để xin lấy quyển sách ông là dùng tra cứu". "Được, cám ơn , cám ơn. Nhưng có địa chỉ ư?" "À, quả vậy, có tờ địa chỉ kèm theo…nhưng dán luôn cái hộp có sách ở trong thành ra gửi luôn rồi và nếu như tôi có sai lầm gì đó là ở chỗ quên ghi vào sổ tay, nhưng có giờ ghi vào, số thường chỉ ghi lại tên và địa chỉ nếu như tôi muốn làm thôi" " cẩn thận lắm, sao, cám ơn. Nhưng quyển sách được gửi lúc nào nhỉ?" "Mười giờ sáng nay" "Ô, may, bây giờ mới có giờ". Garret lên gác, vừa vừa suy nghĩ. Làm sao có được địa chỉ bây giờ. Đánh điện cho bà Simpson lỡ tàu vì phải chờ trả lời. Chi còn cách. Bà ta Eldred ở địa chỉ của ông chú. Nếu vậy, ta tìm địa chỉ người cho sách. kiểm tra nhanh thôi, vì biết tên sách. Đem sổ đăng ký và biết ông già chết hơn hai mươi năm về trước ah nhớ lại và tra từ năm 1870. Chỉ có mỗi lần vào sổ "1875, tháng tám ngày 14, Talmud: Trasctatus Middoth cum R. Nachmanidae, Amstelod 1707. Người biếu ông J.Rant D.D. ở thái ấp Bretfield". từ điển địa lý chỉ ra Bretfield cách ga của đường tàu chính ba dặm. Giờ để hỏi người coi cổng xem có goi sách gửi có địa chỉ nơi nhận là Bretfield . ", ông hỏi tôi nhớ ra Bredfield hay Britfield gì đó chứ giống tên ông đâu" Thế là tốt quá rồi. Tiếp theo đến bảng giờ tàu. Hai mươi phút nữa có chuyến tàu, cả thảy mất hai giờ. Cơ hội duy nhất thể lỡ được. lên tàu. Lúc bắt đầu bồn chồn, nhưng ngồi chuyến tàu rồi đâm ra rối trí. Tìm thấy Eldred rồi sao? Đó là quyển sách hiếm quý cần lấy lại? ràng thực. Hay vì trong đó có bản viết tay quý trọng? Eldred đưa quyển sách ra trong đó tờ kia bị lấy rồi. có thể tìm ra vết xé – của tờ vốn để trống chẳng hạn, nhưng Eldred là nó bị xé từ trước. Tóm lại cuộc săn đuổi này có vẻ vô vọng. Chỉ còn có mỗi khả năng may mắn. Quyển sách rời khỏi thư viện lúc mười giờ ba mươi phút, lên tàu sớm nhất chuyến mười giờ hai mươi phút, nếu vậy có thể đến cùng lúc với nó và kiếm chuyện gì đó khiến Eldred phải trả lại quyển sách. Mãi tới chiều mới đứng sân ga, cũng như nhiều ga xe lửa khác ở thôn quê, nó là vắng vẻ. chờ vài hành khách cùng xuống với xa rồi mới đến chỗ trưởng ga hỏi xem có đúng là ông Eldred ở gần đây . "Vâng, gần lắm, hôm nay ông ấy định đến tận đây nhận cái gói gì đấy mà ông ấy chờ. đến nhiều lần rồi, Bob nhỉ?" (Bob là tên người phu khuân vác). "Vâng thưa ông, nhưng chuyến tàu hai giờ có cái gói ấy. tôi có nó cho ông ấy ở đây rồi" xong người phu đưa lên gói vuông vắn, nhìn vào Garret biết ngay chính là cái gói quan trọng nhất đối với lúc này. "Bretfield ạ? Cách đây khoảng ba dặm. tắt qua ba cánh đồng này chỉ nửa dặm. Kìa, xe ông Eldred tới". cái xe chó kéo tiến đến, xe có hai người đàn ông mà Garret dễ dàng nhận ra . Eldred xe phần nào thuận lợi cho – lão ta nhiều khả năng mở cái gói trước mặt đầy tớ. Mặt khác, lão phải vù về cho nhanh, nếu Garret theo kịp lão về nhà vài phút trước . phải gấp lên. Con đường tắt đưa theo cạnh của hình tam giác trong khi cái xe phải chạy qua hai cạnh kia rồi mới tới được chỗ , xe phải dừng lúc ở nhà ga, do đó đến cánh đồng thứ ba nghe tiếng bánh xe tiến lại gần. cố nhanh nhất nhưng tốc độ xe làm thất vọng quá. Với tốc độ này lão về đến nhà trước mười phút, mà mười phút thừa sức cho Eldred hoàn thành sứ mệnh. Vừa đúng lúc này cơ may xảy tới. Buổi tối rất yên tình nên mọi tiếng động nghe rất . Ít khi có tiếng động nào làm cho mình hơn là tiếng cái xe dừng lại. Có những lời trao đổi, rồi xe lại tiếp. Garret thở hổn hển vi lo, thấy qua cái bệ chắn (gần chỗ đứng) cái xe lăn bánh. Nhưng trong xe chỉ còn tay đầy tớ, thấy Eldred. biết lão ta bộ theo sau. Qua hàng rào cây cạnh bệ chắn, nhìn ra được thấy dáng người gầy đét, cứng đơ rất nhanh, tay cắp cái gói, tay kia cầm cái gì đó. Vừa qua cái bệ chắn vật từ sau lưng lão ta rơi xuống cỏ nghe rất khẽ nên lão để ý. Chờ tí Garret ra nhặt lên: bao diêm. Eldred vẫn tiếp, vừa tay lão vừa làm động tác rất nhanh nhẹn, hiểu lão làm gì vì lấp bóng cây. Nhưng vì Garret theo dõi rất sát, nhận ra mẩu dây gai buộc cái gói được ném qua hàng rào, tuy nhiên nó bị vướng vào đấy. Lúc này Eldred chậm lại, chỉ có thể đoán được là lão giở quyển sách ra từng trang . Lão đứng lại có lẽ vì tối quá, Garret lẻn vào cái cổng, vẫn canh nhìn. Còn Eldred nhìn trước nhìn sau thấy ai vội ngồi xuống thân cây đổ bên đường, đưa trang sách lên sát mặt. Bỗng nhiên lão để quyển sách mở ra đầu gối, lục tim các túi, ràng vô ích và có vẻ chán ngán. "Ông ơi, ông mà có diêm lúc này khoái đấy – Garret nghĩ" Lão ta nắm vào tờ giấy, cẩn thận đưa ra xa. Tự nhiên có hai việc xảy tới. Trước tiên vật màu đen ở đâu rơi xuống trang giấy trắng và chạy đó khiến cho Eldred giật mình. Việc thứ hai, khi Eldred giật mình và quay lại đàng sau hình thù màu đen bước ra từ khoảng tối phía sau thân cây, từ hình thù ấy giơ ra hai cánh tay ôm lấy đống đen ngòm tiến tới khuôn mặt Eldred phủ lên đầu và cổ lão ta. Hai chân tay lão giãy giụa lung tung nhưng phát ra tiếng động. lát sau lão cử động gì nữa. Còn lại mỗi mình Eldred. Lão gục xuống bãi cỏ bên cạnh cái thân cây để quyển sách văng ra giữa đường. Garret lúc này hoảng sợ nên lấn quên cả giận dữ và nghi ngại trước cảnh tượng khủng khiếp đó, vội chạy xô ra kêu ầm lên "Cứu với!" và may thay nông dân vừa nhô ra khỏi cánh đồng đôi diện. Ông ta chạy lại đỡ Eldred nhưng chẳng còn làm gì được nữa, lão ta chết . "Tội nghiệp ông già" Garret bảo người nôngdân khi họ đặt lão xuống "Theo ông chuyện gì xảy đến cho ông ta vậy?" người đàn ông đáp "Tôi ở cách xa chưa đầy trăm mét, tôi thấy ngài Eldred ngồi xuống đọc sách và theo tôi, tự nhiên ông bị lên cơn thần kinh – xem mặt ông ta đen kịt lại kia kìa." "Chắc vậy" Garret "Lúc đó ông có trông thấy ai ở gần ông ta ? Hay là ông ta bị tấn công?" " thể được.Làm gì có ai khỏi đây mà tôi nhìn thấy?" "Tôi cũng nghĩ thế, thôi ta bây giờ phải nhờ ai đó giúp tay, phải gọi bác sĩ và cảnh sát, và có lẽ tôi trao cho họ quyển sách" ràng là trường hợp cần phải điều tra về cái chết bất thường và Garret phải ở lại Bretfield làm nhân chứng. bác sĩ cho biết mặc dù mặt có phủ lớp bụi đen, cả mũi miệng người chết cũng vậy, nhưng nguyên nhân chết là có gì đó xảy ra ở người yếu tim, phải do ngạt thở. Quyển sách định mệnh được đưa ra, quyển sách hoàn toàn là chữ Do Thái, hề có chút gì gọi là lạ lùng ngay cả đối với người nhạy cảm nhất. "Ông Garret, ông ông Eldred trước khi bị cơn đột quỵ có vẻ xé tờ giấy từ quyển sách ra?" "Vâng, tôi nghĩ là tờ vốn để trắng trong sách". "Đây, có tờ bị xé ra phần đây, toàn chữ Do Thái, ông xem thử xem". "Có ba cái tên , có cả ngày tháng. Rất tiếc tôi đọc được chữ Do Thái". "Cám ơn ông. Mấy cái tên tên đó như là chữ ký phải. Đó là John Rant, Walter Gibson, James Frost, ngày tháng 20-7-1875. Có ai ở đây biết mấy cái tên này ?" Quyển sách được đưa cho mục sư, ông này "Trông chẳng hề giống chữ Do Thái mà trước đây tôi có học qua" "Ông chắc đó là chữ Do Thái ?" "Gì cơ ạ? Vâng. Tôi cho là vậy…Nhưng mà thưa ông, ông đúng. Dĩ nhiên dây phải chữ Do Thái tí nào. Chính là tiếng . Và nó là bản di chúc. Chẳng mấy chốc người ta biết đó là bản di chúc của tiến sĩ John Rant để lại toàn bộ gia sản mới đây còn do John Eldred nắm giữ cho bà Mary Simpson. Chức trách tìm thấy tài liệu như thế khiến cho ông Eldred chao đảo. Còn phần bị xé rách, cảnh sát cho biết có tác dụng hữu ích, xem xét đủ chính bản tất cả rồi. Bản luận văn Middoth dĩ nhiên được cảnh sát tư pháp giữ lại điều tra thêm, ông Garret có riêng với cảnh sát về lịch sử cuốn sách này cùng mọi tình hình mình suy diễn ra. Garret trở về làm việc ngày hôm sau, đường ra ga qua nơi thảm hoạ xảy đến cho lão Eldred, thể nhìn lại lần nữa, tuy việc nhớ lại những gì nhìn thấy làm run rẩy cả người dù trong buổi sáng nắng ấm. quanh cái thân cây đổ, lòng đầy nghi ngại. Có vật đen đen vẫn nằm lù lù ở đó làm lùi lại. Nhưng nó động đậy nữa rồi. Nhìn gần ra là đống mạng nhện, lấy gậy khều khều, con nhện rất to từ đó chạy ra bãi cỏ. Chẳng khó khăn gì ta cũng hình dung được vì sao mà William Garret, từ nhân viên của thư viện lớn, đạt tới vị trí ông chủ tương lai của thái ấp Bretfield, nơi mà lúc này bà mẹ vợ của ta ở đó, bà Mary Simpson.