1. QUY ĐỊNH BOX XUẤT BẢN :

       

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]

    ----•Nội dung cần:

    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)

    - Tác giả

    - Dịch giả

    - Đơn vị phát hành

    - Số trang ( nên có)

    - Giá bìa (nên có)

    - Ngày xuất bản (nên có)

    --- Quy định

    1 . Thành viên post có thể tự type hoặc copy từ nơi khác (để nguồn)

    2 . Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn

    3. Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ

    Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Gặp lại chốn hồng trần sâu nhất - Bạch Lạc Mai

Thảo luận trong 'Sách XB Hoàn'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Vĩnh biệt




      Khi còn trẻ, tôi từng người, cho rằng , ngày tháng rực rỡ đến mấy cũng đều tẻ nhạt vô vị. Đến khi duyên phận hết, tôi mới tỉnh ngộ, bản thân ra nặng tình đến thế.

      Đều đời này, bí mật giấu kín bao lâu, rồi đến cuối cùng cũng có ngày phơi bày giữa thanh thiên bạch nhật. Đồng thời nhiều chân tướng cũng theo dòng chảy thời gian, bị vùi lấp dưới bùn đất của lịch sử, thấy mặt trời. Cái gọi là bí mật, là điều che giấu cho ai biết, Phật giáo chỉ phép thuật sâu xa giấu kín. Xưa nay luôn cho rằng, bí mật đến lúc chín muồi, tự nhiên bóc trần hoàn hảo vô khuyết. Cố ý bới móc bí mật, đó là tàn nhẫn.Khi còn trẻ, tôi từng người, cho rằng , ngày tháng rực rỡ đến mấy cũng đều tẻ nhạt vô vị. Đến khi duyên phận hết, tôi mới tỉnh ngộ, bản thân ra nặng tình đến thế.

      Ba trăm năm trước, mẹ Tsangyang Gyatso giấu bí mật ấy trong lòng, ngày ngày lo sợ yên. Bà biết bí mật sớm muộn cũng bị vạch trần, e sợ con trai chìm đắm trong tình khó mà chịu đựng được đả kích đột ngột này. Linh đồng chuyển thế của Đạt Lai thứ 5, đối với nhiều người, là vinh dự cầu cũng được, là chính quả tu luyện ngàn năm khó đạt. Nhưng phải bất cứ ai cũng cần danh hiệu này, phải bất cứ ai cũng tiếp nhận nổi chức con nhà quý tộc này. Biết bao người sinh ra trong nhà vua chúa cảm khái muôn vàn, chỉ hy vọng kiếp sau chuyển thế, rơi vào nhà thường dân, cần chịu đựng tranh đấu và phiền nhiễu vô vị ấy.

      Năm 1696, khi bình định phiến loạn Dzungar[1], vua Khang Hy tình cờ từ miệng tù binh biết được tin Đạt Lai thứ 5 qua đời từ nhiều năm trước. Khang Hy rất đỗi phẫn nộ đối với việc Sangye Gyatso giấu kín bẩm báo, muốn phát binh chinh phạt hỏi tội. Chân tướng vừa bị vạch trần, Sangye Gyatso sống trong lo âu, phấp phỏng mười lăm năm biết rằng, rốt cuộc mình vẫn thoát khỏi kiếp nạn này. Y gắng gượng khiến mình trấn tĩnh, mặt cùng Ban Thiền thứ 5 trù hoạch, nhanh chóng công bố thân phận của linh đồng chuyển thế, đồng thời phái sứ giả rước Ngài đến cung Potala, chuẩn bị lễ lớn tọa sàng[2]. mặt khác gửi thư tâu lên triều đình, mấy năm nay giấu phát tang hoàn toàn phải là ý mình, mà là tuân theo di chúc của Đạt Lai thứ 5, vì để ổn định cục diện chính trị Tây Tạng, đợi khi bụi trần lắng đọng, mới chiếu cáo với thiên hạ thân phận của linh đồng chuyển thế.

      [1] Hãn Quốc Dzungar (Chuẩn Cát Nhĩ): là đế quốc du mục thảo nguyên châu Á, nằm khu vực trải dài từ cực tây của Vạn Lý Trường Thành đến miền đông Kazakhstan nay, và từ miền bắc Kyrgyzstan nay đến miền nam Siberia. Hãn Quốc bị nhà Thanh sáp nhập vào năm 1756-1759, phần lớn lãnh thổ của nó nay thuộc địa giới Tân Cương, Trung Quốc.

      [2] Tọa sàng: nghi thức tôn giáo trọng đại và tất yếu trong quá trình truyền thừa của Phật sống ở các tự viện Phật giáo Tạng truyền, linh đồng chuyển thế chính thức kế nhiệm Phật sống và đổi xưng hô bằng danh hiệu của Phật sống.

      Do Sangye Gyatso lời lẽ khẩn thiết, giọng điệu khiêm tốn, Khang Hy thấy lý do y đưa ra xét về tình cũng có thể tha thứ, hơn nữa mấy năm nay Đại Thanh vào trong quan ải vẫn phải chinh chiến liên miên, để ổn định cục diện chính trị Tây Tạng, nhà vua cũng đành bỏ qua. Khang Hy những trừng phạt, ngược lại còn phái sứ giả đến Tây Tạng tham gia lễ lớn tọa sàng của Đạt Lai thứ 6, và ban cho nhiều vàng bạc châu báu cùng Phật cụ pháp khí. bí mật che giấu mười lăm năm kinh động xuất đời, cho rằng dẫn đến sóng to gió lớn, ngờ lại hời hợt lướt qua rất nhanh như thế. Sangye Gyatso lòng dạ cực kỳ sâu xa, từ khi tiếp nhiệm chức vụ Đệ Ba, chưa từng có giây phút nhõm. Nhất là để giữ kín bí mật tày trời mười lăm năm, nỗi mệt nhọc y gánh chịu thua kém bất cứ ai.

      Trước đó, Sangye Gyatso chuẩn bị sẵn sàng đón nhận trừng phạt, vốn cho rằng chỉ ném đá dò đường, qua được bao nhiêu hay bấy nhiêu, lại ngờ có thể nhàng qua sông như vậy.

      Ba trăm năm trước, khi thân phận Phật sống của Tsangyang Gyatso được công khai, phải là vào mùa nào? Tôi nghĩ chắc phải là mùa thu, vì chỉ có mùa này mới hiểu được tình cảm ly biệt, chỉ có mùa này mới có thể đảm đương vai diễn sứ giả tiễn đưa. Chúng ta có thể thử tưởng tượng tình cảnh ngày nọ sứ giả Sangye Gyatso phái tới đặt chân đến làng Monyu. Mười lăm năm trước, bọn họ bí mật đến, làm phiền bất cứ người nào trong tộc Monpa. Lần này, họ tỏ ra đường hoàng, rầm rộ mà long trọng. Tin tức về linh đồng chuyển thế của Đạt Lai thứ 5 như tiếng sấm mùa xuân, kinh động bình lặng và yên ổn mấy trăm năm nay của ngôi làng miền núi. Người dân Monpa đời đời chất phác ngờ được rằng, chỉ là góc hẹp bên trời, lại giấu vì sao sáng lấp lánh. Hào quang của Ngài trong chớp mắt tỏa ra, khiến ánh nắng cao nguyên cũng theo đó ảm đạm thất sắc.

      Đây là vinh dự lớn nhường nào, ngay cả Tsangyang Gyatso cũng bị vinh quang bất ngờ này làm chấn động, nhất thời khó gánh nổi sức nặng sinh mệnh giao cho. Lúc đó, Ngài cùng ý trung nhân ngắm lá đỏ, thả bò cừu, suy nghĩ về tương lai hạnh phúc ngọn núi mùa thu. Khi Ngài biết mình được vinh quang từ trời rơi xuống nhắm trúng, quả thực cũng có vui sướng lướt qua trong lòng. Bất cứ người nào cũng đều hiểu , mỗi vị Phật sống cuối cùng đều bước lên ngai Phật cao ngất của cung Potala, được muôn dân lễ bái. Tsangyang Gyatso mười lăm tuổi, vẫn là đứa trẻ vừa mới khôn lớn, nội tâm mềm yếu của Ngài làm sao ngăn nổi cám dỗ tày trời ấy.

      Tsangyang Gyatso được sứ giả do Sangye Gyatso phái đến vội vã rước khỏi địa phương bé Monyu. Ngài thậm chí còn kịp từ giã với bà con hàng xóm, kịp câu ly biệt với mình thương, kịp lau vệt nước mắt mặt người mẹ điểm tóc bạc bên mai, liền cứ thế được sứ giả dọc đường gió bụi đưa đến Lhasa xa xôi. Chiếc mũ vàng lóng lánh của Phật sống kia đem đến cho Ngài ảo tưởng vô hạn, Ngài gần như là ngâm nga tình ca, mơ giấc mơ đẹp bước vào cung Potala vàng son rực rỡ. Thiếu niên mười lăm tuổi ấy thậm chí còn ấu trĩ cho rằng, đợi mình ngồi lên ngai Phật có thể có cả thiên hạ, có thể người mình , sống cuộc sống mình mong muốn.

      Tsangyang Gyatso mười lăm tuổi căn bản biết, chỉ cần Ngài ngồi lên ngai Phật của cung Potala, từ đó vĩnh biệt với tình nhân gian, ý trung nhân cùng Ngài trở thành người dưng nước lã vĩnh viễn. Càng biết rằng, vị Phật sống chí cao vô thượng trong mắt người đời chẳng qua là con cờ bàn cờ của Sangye Gyatso, là giao phó của trước vua Khang Hy. đời này biết bao vua chúa đều hữu danh vô thực, trở thành con rối để kẻ khác khống chế thiên hạ. Phật sống tuy phải là vua chúa, lại tôn quý tối cao như vua chúa, thậm chí càng vinh diệu thần kỳ. Trong mắt người đời, Phật sống phải có trái tim từ bi tế thế, phải có pháp lực vô biên, có thể độ hóa đông đảo chúng sinh. Thế nhưng chẳng ai tin rằng, dù là Phật, cũng có những bất lực và nỗi bi ai thân bất do kỷ.

      Năm 1697, Tsangyang Gyatso được chọn là “linh đồng chuyển thế” của Đạt Lai thứ 5, tháng 9 năm đó, từ Lhoko rước đến Lhasa, khi ngang qua huyện Nagarzê[3], tôn Ban Thiền thứ 5 Lobsang Yeshe[4] làm thầy, cạo đầu thọ giới sa di[5], lấy pháp danh Lobsang Rinchen Tsangyang Gyatso[6]. Ông trời cuối cùng đem thứ Tsangyang Gyatso vốn nên có trả lại cho Ngài, song ai từng hỏi, đây phải chăng là thứ Ngài mong muốn. Ngay cả bản thân Tsangyang Gyatso cũng hiểu , cuộc đời Ngài từ đó có được những gì, mất những gì. Chẳng lẽ người đến với nhân gian, đều là vì đòi nợ và trả nợ? Đợi đến khi đòi lại những thứ bị thiếu, trả hết những thứ cần trả, chúng ta còn theo đuổi thứ gì? Tranh chấp thứ gì?

      [3] Nagarzê (Lãng Ca Tử): huyện của địa khu Lhoka, khu tự trị Tây Tạng, Trung Quốc.

      [4] Lobsang Yeshe (La Tang Ích Hi, 1663-1737): Ban Thiền Lạt Ma thứ 5

      [5] Thọ giới sa di: Sau khi linh đồng chuyển thế vào tự viện, nhất định phải thọ giới sa di, bày tỏ bằng lòng tiếp nhận tu hành, sống cuộc sống tự viện. Khi thọ giới, có vị Phật sống cao tuổi đứng bên linh đồng, Ngài câu, linh đồng theo câu, đó là những giới luật giản đơn phải nghiêm khắc tuân thủ.

      [6] La Tang Nhân Khâm Thương Ương Gia Thố.

      Hoa rơi vẫn trôi theo nước chảy, biển biếc hóa nương dâu. Tsangyang Gyatso triệt để thoát ly với cuộc sống qua, từ đó thể quay về làng miền núi thời thơ ấu nữa. ngờ, ngày ấy vội vã rời lại thành vĩnh biệt, ngày thu đó tựa như ngày thu cuối cùng trong cuộc đời Ngài. Bởi vì, suốt đời này Tsangyang Gyatso cũng còn nhìn thấy lá đỏ đẹp đẽ như thế nữa. Trong khoảnh khắc, Ngài thốt nhiên hiểu , những nhân vật và cảnh tượng quen thuộc trong quá khứ, sau này chỉ có thể gặp được trong mơ. Mơ, Ngài bắt đầu hy vọng mình có thể ngủ thiếp , và cứ mơ mãi.





      Tọa sàng




      Muốn gọi con chim, nhờ nó đưa tin đến phương xa, tiếng hót nghẹn ngào của nó dường như cho Ngài biết, nó sống chẳng hề tự do, dù nó có đôi cánh bay lượn, vậy mà thân vẫn bất do kỷ.

      Lại nằm mơ, trong mơ tôi đến cung Potala, trong ảo ảnh giấc mơ, tôi nhìn thấy hải thị thần lâu[1]. Rất nhiều người thành kính quỳ lạy dưới chân Phật Đà. Kinh phướn phấp phới, lay động tín ngưỡng kiếp này, kinh luân chuyển động, thức tỉnh ký ức kiếp trước. Cả tòa cung điện dưới nắng nóng hầm hập của cao nguyên, là tráng lệ huy hoàng, là độc đáo vô song. Tòa cung điện này ngưng tụ lịch sử loang lổ tang thương, cất giữ những câu chuyện tự cổ chí kim, rơi đầy bụi trần mù mịt của năm tháng. Thế nhưng nó trong sạch, thanh bạch đứng sừng sững Hồng Sơn mênh mang. Lại rất mực khoan dung, tấm lòng bao la có thể thu nạp vạn vật đời.

      [1] Hải thị thần lâu: tượng quang học trong tự nhiên, tia sáng khúc xạ sinh ra ảo ảnh ở cự ly xa hoặc bầu trời.

      Khi tỉnh lại, mới phát người ở trong cung Potala là Tsangyang Gyatso. thiếu niên xuất thân từ địa phương Monyu, nào thấy cung điện to đẹp đàng hoàng như vậy. Trong cuộc sống của Ngài, xưa nay chỉ có đất lề quê thói chất phác, chỉ có bãi cỏ, khe suối, nhà tranh, bò cừu. Mở mắt ra, Ngài nhìn thấy bạn bè thuở cùng khôn lớn, nhìn thấy nguyện lời hẹn ước làng bên, nhìn thấy mẹ hiền tha thiết thương Ngài. Cảnh tượng trước mắt giống như giấc mộng kê vàng[2], lầu gác cung điện, nhà vàng thềm ngọc, mang khí thế khoan thai và quý phái thể diễn tả thành lời. Cung Potala chính là kho báu văn hóa dân tộc Tạng cực lớn, cất giấu quá nhiều văn vật lịch sử và báu vật. Còn Tsangyang Gyatso cứ thế rơi vào giấc mơ hoa lệ của kiếp trước, ngừng nghỉ mơ tiếp, chẳng biết tới ngày nào mới có thể hoàn toàn tỉnh lại.

      [2] Giấc mộng kê vàng: Theo Chẩm trung ký của Trầm Ký Tế đời Đường, có chàng Lư Sinh, gặp vị đạo sĩ Lữ Ông trong quán trọ Hàm Đan, Lư Sinh than nghèo khó. Đạo sĩ cho chàng mượn chiếc gối, bảo chàng gối lên mà ngủ. Bấy giờ chủ quán nấu nồi cơm kê vàng. Trong mơ Lư Sinh hưởng trọn đời vinh hoa phú quý. Khi tỉnh dậy, cơm kê vàng vẫn chưa chín. Sau dùng để ví với vỡ mộng, chuyện tốt muốn thực rốt cuộc sôi hỏng bỏng .

      Tháng 10 năm 1697, điển lễ tọa sàng long trọng tổ chức ở Lhasa, Tsangyang Gyatso mười lăm tuổi chính thức vào làm chủ nhân của cung Potala, trở thành Đạt Lai Lạt Ma thứ 6. Ngài được nâng lên tầm cao của Thần Phật, được muôn người quỳ bái dù khi đó Ngài vẫn mơ hồ, vẫn bất lực, và cả chút kinh ngạc vui mừng. Ngài dập đầu cảm thán: “Làm trái lệnh của Thượng Sư[3], cảm thấy hổ thẹn”. Lúc đó, Ngài cảm giác bản thân là Phật, chúng sinh dưới chân là con dân của Ngài, sứ mệnh của Ngài chính là độ hóa họ, dốc hết tất cả, vì họ tiêu trừ khổ nạn. Thế nhưng Ngài có pháp lực vô biên của Phật chăng? Chẳng lẽ chỉ cần vừa ngồi lên ngai Phật cao ngất, Ngài liền thành Phật, có thể khiến tất thảy khiếm khuyết của thế gian biến thành trọn vẹn?

      [3] Thượng Sư: dịch từ tiếng Phạn “guru” nghĩa là Đạo sư, Đại sư, Đạo sĩ, đối ứng với “Lạt Ma” trong tiếng Tạng.

      , phải như vậy. Mãi đến sau này, Tsangyang Gyatso mới biết con đường dẫn đến cõi Phật này, Ngài độc, có người đồng hành và người xướng họa, con đường này đầy dẫy chông gai, khiến Ngài vết thương chồng chất. Đó là vì trái tim của Ngài trước sau vẫn mang tình chân nhất của nhân gian, vượt qua được rào cản của tình hồng trần, cho nên dù Ngài có linh tính của Phật, cuối cùng chỉ là rước thêm tiếc nuối. Thế gian này xưa nay việc hoàn mỹ, giống như trăng tròn trăng khuyết, hoa nở hoa tàn, tụ hợp ly tan. Khi bạn dốc lòng lao vào, muốn bất chấp tất cả vì người, vì việc, tất nhiên phải tiếp nhận trừng phạt của vận mệnh.

      Vị Đạt Lai Lạt Ma trẻ tuổi tuấn Tsangyang Gyatso ngồi ngai Phật ngất ngưởng, ngay cả Đệ Ba Sangye Gyatso và Ban Thiền đương thời đều đối với Ngài rất mực cung kính. Ngài thầm nhủ với bản thân, từ đây Ngài chính là vua của cung Potala, nắm giữ từng cành cây ngọn cỏ, từng viên gạch viên ngói của nơi này. Ngài quá ngây thơ, Ngài biết rằng, bản thân chẳng qua là vị vua hữu danh vô thực, đừng thể thống trị chúng sinh, ngay cả vận mệnh của mình cũng thể làm chủ. Theo quy định điều lệ chuyển thế của Phật sống, linh đồng chuyển thế phải tròn mười tám tuổi mới có thể đích thân chủ trì chính . Lúc đó Tsangyang Gyatso mười lăm tuổi, cho nên Ngài nhất thiết phải đợi đến ba năm sau mới có thể tự mình chấp chính. Trước lúc đó, tất cả chính đều do Đệ Ba và Ban Thiền cùng xử lý.

      Tsangyang Gyatso giữ địa vị thủ lĩnh chính giáo Tây Tạng, sống ở cung điện cao nhất của cung Potala, được nhiều sư sãi bao quanh. Thế nhưng Ngài độc, thậm chí sống rất vất vả mệt mỏi. Vì thân phận của Ngài đặc biệt, linh đồng chuyển thế trước đây từ bốn, năm tuổi trở tọa sàng tiếp nhận giáo dục chính thức. Còn mười lăm năm này của Tsangyang Gyatso đều sống nơi làng quê bé xa xôi, bầu bạn cùng dòng suối hoa núi, cỏ dại bò cừu, những bản tình ca xao xuyến lòng người, và nụ cười khoe hàm răng trắng bóng của làng bên. Dù Ngài cũng từng học kinh văn ở tu viện Basang, nhưng thầy dạy kinh lúc đó quản thúc Ngài nghiêm, hơn nữa đó là học tập định kỳ, thuộc chế độ cả ngày. Lúc đó Tsangyang Gyatso còn chưa biết thân phận của mình, chỉ nghĩ là cha mẹ sắp đặt, muốn Ngài học kinh, tham thiền, đọc hiểu từ bi.

      Giờ đây, Tsangyang Gyatso hằng ngày phải đối mặt với đốc thúc nghiêm khắc của thầy dạy kinh, tất cả thời gian của Ngài đều là ngồi yên đọc kinh, rất nhiều kinh văn liên miên dứt bày trước mặt Ngài, khiến Ngài cảm thấy mệt mỏi chưa từng có. Lúc đó Sangye Gyatso bắt đầu hơi sốt ruột, y biết thiếu niên này bị gió hoang cao nguyên thấm nhuộm, muốn triệt để gột bỏ tính buông thả người Ngài, phải là chuyện có thể làm được trong sớm chiều. Ba năm, y phải dùng thời gian ba năm, thuần phục đứa trẻ bỏ bê mười lăm năm này, khiến đứa trẻ đó trở thành vị Đạt Lai thứ 6 hoàn hảo, lãnh tụ chính trị vĩ đại. Chỉ là sau ba năm, Sangye Gyatso nỡ đem chính quyền cả đời khổ tâm vun vén, hai tay dâng cho Tsangyang Gyatso hay sao? ai có thể đưa ra câu trả lời khẳng định, bao gồm bản thân Sangye Gyatso.




      ra chúng ta đều là nô lệ của danh lợi, biết đời người chẳng qua nổi trăm năm, vẫn phải chém giết tranh đoạt, liều mạng đến nỗi máu chảy đầu rơi. Hôm nay bạn giẫm lên hài cốt người khác ngồi hưởng thiên hạ, ngày mai ai vì bạn thu thập ván cờ tàn của giang sơn? Các bậc vua chúa lúc có thiên hạ, liền tìm kiếm thuốc tiên khắp nơi, tu luyện đan dược, hy vọng có thể trường sinh bất tử, e sợ giang sơn cực khổ dành được theo kết thúc của sinh mệnh chớp mắt hóa thành số . Họ biết đời này hề có phương thuốc bất tử, nhưng vẫn nghĩ đủ mọi cách tìm kiếm. Có lẽ đó là vì cam tâm, cam chịu tâm huyết đời của mình phó mặc cho dòng nước cuốn trôi. Thế nhưng sức người có thể làm gì được số trời? Vua chúa được tôn xưng là con trời (thiên tử), nhưng con trời và người thường cũng chẳng có phân biệt. Còn Đạt Lai Lạt Ma được tôn xưng là Phật sống, họ cũng là xương phàm thai tục, dù có linh hồn chết, lại chẳng có thể xác già.

      Có lẽ Tsangyang Gyatso trước giờ chưa từng nghĩ phải ngồi ôm thiên hạ, hô mây gọi gió. Từ khi vào ở trong cung Potala, Ngài mới biết, cuộc sống ở đây còn lâu mới tốt đẹp như tưởng tượng trong lòng, nhìn thấy trong mắt. Ngài như chú chim sẻ lông vàng, bị nhốt vào chiếc lồng đẹp đẽ sang trọng, mỗi ngày đợi người chủ cho ăn, thỉnh thoảng cùng y dạo trước lầu sân vắng, ngắm phong cảnh mênh mông vô biên phương xa, muốn bay lượn, lại phát giác sớm bị vận mệnh chặt đứt lìa đôi cánh. Ngài khát vọng tự do, ngày ngày độc ngóng nhìn ngoài cửa sổ, hy vọng có người qua, sinh lòng thương xót giúp Ngài trốn thoát. Lúc đó, Ngài hầu như quên mất, bản thân là Phật, quên rằng sứ mệnh Ngài vào ở trong cung Potala là để cứu rỗi chúng sinh, để họ phải chìm đắm trong bùn lầy trần thế.

      Đúng vậy, chìm đắm, giờ đây người chìm đắm là Ngài. Hàng ngày đọc kinh văn khô khan, tham ngộ Phật pháp phức tạp. Thầy dạy kinh của Tsangyang Gyatso đối với Ngài đặc biệt nghiêm khắc, vì chỉ cần chút lơi lỏng là bị Đệ Ba trừng phạt khắc nghiệt. Sangye Gyatso bận rộn xong chuyện chính , có lúc còn đích thân giảng bài cho Tsangyang Gyatso, điều này khiến Ngài càng thêm lo sợ yên. Chúng ta dường như có thể tưởng tượng được tình cảnh ba trăm năm trước, thiếu niên mười lăm tuổi bị nhốt trong cung điện phồn hoa của cung Potala: tay ôm sách kinh, ngồi nằm yên, Ngài luôn nghĩ cách làm sao để có thể thoát ly khỏi trói buộc, trở lại cảnh tiêu dao ngày xưa của mình.

      thực tế, Phật sống các đời đều từ lúc thơ ấu được chỉ định là linh đồng chuyển thế, kiếp này của họ cũng chỉ là đứa trẻ bình thường, lại phải gánh vác trách nhiệm của kiếp trước mà họ hề hay biết. Bất kể họ có bằng lòng hay , nhất định phải có khác biệt với những đứa trẻ khác. thể trưởng thành thuận theo tự nhiên, thể sống tự do tự tại; khi họ còn rất , bị nhốt vào chiếc lồng tu hành, tiếp nhận phán xét của số mệnh. Suốt đời này, ngay cả quyền lợi lựa chọn họ cũng có, định sẵn phải dùng hạnh phúc bình thường đổi lấy kính ngưỡng của muôn dân. độc ngồi ngai Phật, sách kinh là tri , tràng hạt là giai nhân, Phạn [4] là tình ca, đèn bơ là ánh sáng duy nhất.

      [4] Phận : chỉ tiếng đọc kinh.

      So ra, Tsangyang Gyatso bay nhảy ngang dọc mười lăm năm chốn phàm trần, chẳng phải may mắn hơn các linh đồng chuyển thế khác ư? Ít nhất Ngài từng có thời gian tự tại an nhàn, từng tắm trong gió núi trăng thanh dịu dàng, từng cùng xinh đẹp đa tình chuyện đương. Chỉ chẳng qua hết thảy những điều tốt đẹp này như hạc vàng xa, trở lại nữa. Đào hồng rụng rồi vẫn có khi lại nở, trăng sáng lặn xuống phía tây rồi có lúc mọc lên, người ly biệt vẫn còn có ngày gặp lại, nhưng Tsangyang Gyatso, mãi mãi vĩnh biệt cõi hồng trần rối rắm.

      kịp rồi, tất cả quá muộn. túc rất đẹp, nhưng khi bạn ăn vào, mới biết đó là loại thuốc chứa kịch độc. Sau khi hiểu trúng độc quá nặng. Bạn muốn trở thành vua của cung Potala, tất nhiên phải trải qua dày vò người thường thể chịu đựng. Tsangyang Gyatso quản nóng lạnh, vất vả học tập Phật pháp ở đây, dù trong lòng Ngài ít nhiều tình nguyện, thậm chí nóng nảy yên, nhưng Ngài rốt cuộc vẫn là linh đồng chuyển thế, trong cốt cách có tính Phật và linh tuệ. Trong thời gian ngắn ngủi, việc học tập của Tsangyang Gyatso tiến bộ vượt bậc, điều đó khiến Sangye Gyatso cảm thấy an ủi, đôi khi lơ đãng, mỉm cười với Ngài.

      Nụ cười đó đối với Tsangyang Gyatso nhợt nhạt yếu ớt. Mỗi khi màn đêm buông xuống cung Potala, mọi người tản hết, mỗi đồ vật ở đây đều tẩy hết lớp phấn son trang điểm ban ngày, tỏ ra yên tĩnh vô cùng. Lúc này lòng Tsangyang Gyatso bị nỗi độc gặm nhấm, Ngài nhớ làng miền núi cho Ngài tất cả những điều tốt đẹp. Nhớ màu bầu trời đêm ở đó, nhớ hương thơm của hoa dại, nhớ hình ảnh người dân Monpa uống rượu ca hát bên đống lửa, nhớ người mẹ khâu vá da chồn dưới đèn, càng nhớ tình cảm dịu dàng khi Ngài cùng ý trung nhân hò hẹn dưới trăng.

      Trong kiếp này ngắn ngủi,

      Được sủng hạnh vô cùng.

      Kiếp sau thời thơ ấu,

      Phải chăng lại tương phùng?

      Sau khi tỉnh mộng, Ngài lệ rơi đầm đìa, cả cung Potala rộng lớn này, chỉ có ánh trăng hắt xuống giường Phật của Ngài. Muốn gọi con chim, nhờ nó đưa tin đến phương xa, tiếng hót nghẹn ngào của nó dường như cho Ngài biết, nó sống chẳng hề tự do, dù nó có đôi cánh bay lượn, vậy mà thân vẫn bất do kỷ. Vạn vật đời đều sống, đều hô hấp, và cũng đều thân bất do kỷ.





      Chim lồng




      Có người , người quá đỗi hoài cựu, hẳn là vì quá khứ xiết bao rực rỡ, mà là vì ta thể yên lòng với trạng. Đời người rối ren, nào ai dám khoe mình có đủ sức mạnh chặn đứng được muôn ngàn gió bụi.

      Chỉ vào lúc thực mất , con người mới tưởng nhớ da diết tốt đẹp từng có, những thước phim trước đây như hình với bóng, luôn lên trong tâm trí. Lúc này, chúng ta đều kìm được phải hỏi bản thân, bỏ xuống được rốt cuộc là vì ưa hoài niệm, hay là vì quá khứ đáng thương tiếc?Có người , người quá đỗi hoài cựu, hẳn là vì quá khứ xiết bao rực rỡ, mà là vì ta thể yên lòng với trạng. Đời người rối ren, nào ai dám khoe mình có đủ sức mạnh chặn đứng được muôn ngàn gió bụi. Khi bạn thể tiếp nhận phong cảnh xa lạ, thể thích ứng cuộc sống mới mẻ, tất nhiên hoài niệm vật từng quen thuộc mà ấm áp.

      người trông có vẻ mạnh mẽ, thực ra nội tâm ta lại là tường thành xây bằng băng mỏng, gặp lửa tan, vừa xô liền đổ. người trông có vẻ mềm yếu, nội tâm ta lại được xây bằng gạch ngói tỉ mỉ, đơn giản chất phác, kiên cố vững chắc. Thế nhưng tất cả những điều này, đều bắt nguồn từ tao ngộ của đời người, nếu dặm đường năm tháng bằng phẳng suôn sẻ, vết thương lòng ít, chẳng đến nỗi yếu đuối chịu nổi. Nếu vận mệnh gập ghềnh trắc trở, trong lòng tất nhiên ngàn trăm lỗ thủng, đến lúc đó, dù bạn vá víu thế nào, cũng thể chắp vá nên bộ dạng ban đầu.

      Thế gian này có những việc có thể hối hận, có những việc ngay cả tư cách hối hận cũng có. Ví như Tsangyang Gyatso, khi hàng ngày Ngài đọc thuộc kinh văn vô vị, tay cầm tràng hạt cứng ngắc, ngửi cùng loại đàn hương, sâu trong nội tâm, chắc chắn Ngài hối hận vì ban đầu làm khác . Nhưng Ngài có tư cách hối hận chăng? Năm xưa Ngài được sứ giả rước vào cung Potala, căn bản có đường nào chọn lựa, vì Ngài được số mệnh định sẵn là linh đồng chuyển thế của Đạt Lai thứ 5, kiếp này chỉ có thể sống vì kiếp trước. Bất kể Ngài bằng lòng hay , Ngài đều phải tiếp nhận điển lễ tọa sàng, tiếp nhận vinh dự chí cao vô thượng này. Nếu Ngài cũng từng có vui sướng, đó là bởi vì chàng thiếu niên mười lăm tuổi còn có trái tim non nớt. Vận mệnh đột ngột thay đổi khiến Ngài có thời gian suy nghĩ đây rốt cuộc là niềm vinh dự hay là nỗi tiếc nuối.

      Đây là quà tặng ông trời ban thưởng cho Ngài, phần quà tặng thể chối từ, lại nặng nề như núi. Chưa ai từng hỏi Ngài có gánh vác nổi hay , đến với thế gian này, Ngài định sẵn trở thành truyền kỳ. Khi Ngài ngồi ngai Phật của cung Potala, đứng ngồi yên đọc kinh, tham thiền, cõi lòng lại theo gió mát nhởn nhơ lượn ngoài cửa sổ bay đến phương xa. Làng hẻo lánh từng gọi là quê hương ấy cho Ngài niềm vui quên hết tất cả, lại cho nổi Ngài chốn về yên ổn bình dị. Chốn về của Ngài là ở đâu? Chốn về của thể xác Ngài nhất định là cung Potala, nhưng chốn về của tâm linh, lại là làng quê miền núi tên là Monyu ấy.

      Mỗi người trong lòng đều có tín ngưỡng thuộc về mình, tín ngưỡng này nhất thiết là tôn giáo. Bạn có thể tín ngưỡng gốc cây, tín ngưỡng ngọn cỏ, tín ngưỡng con cừu, còn có thể tín ngưỡng tình . Nếu để Tsangyang Gyatso lựa chọn, tôi nghĩ Ngài chọn suốt đời trông nom gian nhà đơn sơ, kề cận người của mình và cảnh vật thiên nhiên Ngài luôn thích. Mặc dù sâu trong nội tâm Ngài cũng tôn sùng Phật giáo, thích đọc kinh văn, nhưng những điều này lại thể trở thành toàn bộ cuộc sống, chỉ có thể xem là kiểu tô điểm. Sinh mệnh của Ngài định sẵn là hoàn hảo, vì Ngài bị gông xiềng dịu dàng của tình trói buộc, muốn vùng dậy thoát ra, kiếp này e rằng thể.

      Trước đó, chẳng ai với Ngài, người dân Monpa chất phác lãng mạn thể có tình . Khi Ngài bắt đầu biết , cùng làng bên ái mộ lẫn nhau, vì sao ai cho Ngài biết, kiếp này của Ngài định sẵn có hôn nhân trọn vẹn. Vị Phật sống trong cung Potala - Tsangyang Gyatso bi ai than thở: “Nếu đời này vĩnh viễn bị giam cầm trong tòa cung điện đẹp đẽ này, thế xin giao trả cho ta kiếp trước, có lẽ ta còn có thể chọn lựa lại lần nữa, chịu chuyển thế luân hồi lần nữa”. Lẽ nào Ngài biết, chuyển thế luân hồi sớm viết sẵn đá tam sinh[1], qua Vong Xuyên của năm tháng, chẳng ai có thể chọn lựa vận mệnh tương lai cho mình.

      [1] Theo tín ngưỡng Á Đông, Điện Diêm Vương thứ 10 ở địa ngục cai quản việc chuyển tiếp đầu thai. Tại điện này có cầu Nại Hà bắc qua sông Vong Xuyên (Sông Quên). Ven sông có tảng đá, gọi là đá Tam Sinh, ghi lại kiếp trước kiếp này kiếp sau của con người. Những linh hồn được đầu thai trở lại làm người đều phải qua Vong Đài (Đài Quên), uống canh của Mạnh Bà để quên hết chuyện kiếp trước.

      Sương trắng cỏ lác,

      Sứ giả của gió đông.

      Chính là hai kẻ ấy,

      Chia cắt hoa và ong.



      Thiên nga hồ nước,

      Muốn ở thêm hồi.

      Nhưng mặt hồ băng đọng,

      Làm buốt giá tim tôi.

      Mùa xuân này, mùa xuân của Lhasa, trong gió xuân dịu dàng, Tsangyang Gyatso ngửi thấy hương thơm thanh khiết thoang thoảng của cỏ xanh, nhìn thấy mây trắng nhàn nhã lướt qua trước cửa sổ. Những cảnh vật tự nhiên này lại gợi lên trong lòng Ngài khát vọng vô hạn đối với quê hương. Đều Phật là vạn năng, có thể nhìn ràng thấu suốt tất cả mọi thứ thế gian, nhưng Tsangyang Gyatso giờ đây, được xưng là Phật sống, vì sao thể xử lý ngay cả cuộc đời của chính mình? Nỗi nhớ như cỏ dại ngập tràn nơi đáy lòng, khiến Ngài lúng túng. ai hiểu được tâm của Ngài, Ngài mong chờ hoàng hôn, mong chờ đêm đến, lúc đó, cho dù quạnh quẽ, thời gian ngắn ngủi đó lại thuộc về bản thân.




      Ban ngày, Tsangyang Gyatso cực nhọc học tập kinh văn, dám phút lơ là. Chỉ vào lúc đêm khuya, cả tòa cung điện yên tĩnh hẳn, Ngài mới dám lấy bút mực ra, khẽ viết thơ tình. Con người chính là như thế, khi bạn có, có lẽ cảm thấy tất cả chẳng quan trọng lắm. Sau khi mất , lại ngày mong đêm nhớ, mong mỏi ngày đoạt về được báu vật thất lạc. là mâu thuẫn, nhưng biết bắt đầu từ lúc nào, chúng ta thích mâu thuẫn như vậy, bằng lòng vương vấn thôi với những tâm tư mơ hồ.

      Xin Lạt Ma đắc đạo,

      Chỉ đường sáng cho tôi.

      Do chẳng hồi tâm được,

      Lại đến bên nàng rồi.



      Khuôn mặt sư nghĩ mãi,

      Chẳng ra trong lòng.

      Dung nhan nàng ,

      Dù có nghĩ hay .



      Chữ màu đen viết xong,

      Nhòe bởi mưa và nước.

      Tâm tư muốn viết ra,

      Muốn xóa xóa được.

      Dù là như thế, Tsangyang Gyatso cũng phải hề động lòng đối với quyền lực. Trong tòa cung điện vĩ đại này, Ngài là Phật sống, vốn phải có địa vị chí tôn và phong lưu vương giả, thống trị muôn dân trăm họ. Nhưng giờ đây, trong gian rộng lớn này, Ngài có cả tư cách chuyện. Ngài khát khao thời gian ba năm sớm qua , bản thân có thể chủ trì chính , trong điện lớn uy nghiêm này, cất lên tiếng của mình. phải Tsangyang Gyatso tham luyến quyền quý, trong cục thế thể thay đổi, Ngài chỉ biết cúi đầu khuất phục. thể trở lại được như trước, Ngài cũng thể đắm chìm trong tại, Ngài là Phật sống, cần tuân theo phương thức của Phật sống để tiếp tục sinh tồn.

      Do đó, ba năm nay, Tsangyang Gyatso dù quên được ngày tháng tươi đẹp của quá khứ, quên được người tình mơ xanh ngựa gỗ, nhưng Ngài cũng sống rất tỉnh táo. Ngài hiểu được sâu sắc, chỉ có học tập thành tựu, Đệ Ba Sangye Gyatso mới giao phó chính quyền cho Ngài. Cuộc sống như chim trong lồng ba năm khiến Ngài cảm thấy linh tính còn lại người mình dần dà mất , tình cảm mãnh liệt đối với cuộc sống ngày trước cũng lặng lẽ nhạt dần. Tsangyang Gyatso giống như cây cỏ khô, cần ánh nắng và mưa móc tưới nhuần mới có thể sống lại. Đúng vậy, Ngài khát khao sống lại, khát khao ngồi ngai Phật cao ngất, bàn việc với các sư trong điện lớn, lắng nghe tiếng của muôn dân, dùng sức mạnh của mình, giải nạn trừ lo cho họ.

      Mùa hoa nở qua,

      Ong chớ nên rầu rĩ.

      Duyên nhau tận,

      Ta cũng chẳng sầu bi.

      Nếu duyên phận quả hết, cũng cần quá đỗi bi thương. Cứ đem ký ức chôn chặt đáy lòng, lúc người, mình trầm tư, tưởng tượng từng vui vẻ bên nhau, chỉ là ngắn ngủi đến nỗi giống như lần hoa nở. Hoa lỡ mất mùa nở rộ, vẫn còn có năm sau, duyên phận Ngài bở lỡ, có thể tìm lại được ? thể nghĩ ngợi nữa, người quá đỗi chìm đắm trong ngày hôm qua là tự chuốc lấy đau khổ. Nếu đời này Tsangyang Gyatso đều thể rời cung Potala, thế lối thoát duy nhất của Ngài, chính là giải thoát bản thân. Hồng trần và cõi Phật, cách nhau dãy núi, dòng sông, Ngài hoặc là tung người nhảy qua, hoặc là ngồi thuyền vượt sông.

      Tuy nhiên, Tsangyang Gyatso cuối cùng cũng chịu đựng qua ba năm, gian khổ ba năm, trói buộc ba năm, Ngài phải chăng nên phá kén mà ra? Làm chú bướm đẹp đẽ tự tại, kiêu ngạo nhàng bay lượn giữa trăm khóm hoa. Dẫu là đám mây trôi, gốc rễ, ít nhất cũng có thể trời cao biển rộng. Mười tám tuổi, cũng chờ đến mười tám tuổi, đây là tuổi Đạt Lai Lạt Ma tự mình chấp chính. Tsangyang Gyatso mười tám tuổi từ thiếu niên tuấn trở thành thanh niên trí tuệ sáng suốt, đọc kinh niệm Phật ba năm khiến Ngài thoát khỏi bản tính hoang dại của thảo nguyên, có học thức thâm thúy.

      Nhưng vì sao Sangye Gyatso cứ lần lữa chịu giao quyền trượng đến tay Ngài? Ngồi ngai Phật của cung Potala, dù ngày nào cũng có người rạp mình dưới chân Ngài, nhưng Ngài trước sau như , có mảy may quyền lực chấp chính. Ngài vẫn là con cờ do Sangye Gyatso sắp xếp, so với lúc trước, càng thêm nhu nhược, càng thêm bó tay hết cách. Chẳng lẽ chính rối rắm khiến Sangye Gyatso bận đến nỗi quên mất hay sao? Y làm sao có thể quên cơ chứ? Nhẫn nại ba năm, quên liền nét bút sổ toẹt hết thảy như thế hay sao?

      , Sangye Gyatso hề quên, nếu y quên, Tsangyang Gyatso vẫn phải nhốt mình trong phòng đọc kinh niệm Phật, chứ thể ngồi điện lớn, lắng nghe các sư lễ bái. Tất cả những điều này chẳng qua là cảnh giả, vì Sangye Gyatso ở sau lưng giả vờ cùng Tsangyang Gyatso bàn bạc chính ; thực tế, quyền quyết định vẫn nắm chắc trong tay Sangye Gyatso. Hơn nữa y thường vẫn nhắc đến vấn đề trả lại quyền cho Ngài, chỉ là mỗi lần Tsangyang Gyatso ngẩng đầu mong đợi, cuối cùng đều kết thúc bằng thất vọng.

      Tsangyang Gyatso trẻ tuổi biết nên đòi lời giải thích với ai. Nhìn Phật cầm hoa mỉm cười[2], Ngài cũng cười, chỉ là Ngài cười cách nhẫn, cười cách bất lực, cười cách hoàn toàn có vẻ ung dung và ôn hòa của nhà Phật. Ngài là vua của cung Potala, chỉ là sân khấu ai hỏi han, mình đạo diễn màn kịch buồn vui vô thường.

      [2] Cầm hoa mỉm cười (Niêm hoa vi tiếu): là giai thoại thiền, ghi lại kiện Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đưa cánh hoa lên khai thị, tôn giả Ca Diếp mỉm cười. Đây là biểu thị cho pháp môn lấy tâm truyền tâm, pháp môn siêu ngôn ngữ, siêu văn tự. Trong pháp môn này chỉ có giao cảm, rung động giữa hai tâm thức thầy và trò, và hai tâm thức này đồng nhất. Đó là cái tâm vi diệu Niết bàn.

    2. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Hỏi Phật




      Lời thề trong dĩ vãng đều thành mây khói. Câu chuyện của ngày hôm qua cũng kết thúc. Tsangyang Gyatso nên hiểu , tươi héo vô ý, hợp tan tùy duyên. Chỉ là khi Ngài đứng bờ sông thời gian, ngắm bóng hình của kiếp phù du, vẫn cảm khái muôn vàn.

      đời này quả có quá nhiều chuyện sơ suất ngẫu nhiên, rất nhiều bỏ lỡ, rất nhiều lướt vai, khiến người dở khóc dở cười. Rất nhiều người thích sắp xếp sẵn hành trình cho mình, ghi chép hết những việc muốn làm vào trang sách của đời người. Nhưng đời muôn vàn biến hoá, quá trình có lẽ còn có thể đoán trước, kết cuộc lại luôn nằm ngoài dự liệu. Thế là chúng ta ngừng thêm bớt sửa đổi tình tiết, ngừng nhân nhượng cầu toàn, đến cuối cùng, giữa tưởng tượng và thực thế lại khác biệt trời vực.

      Cung Potala, tòa cung điện đẹp đẽ cao nguyên Tây Tạng, sân khấu tô vẽ đậm mực của nhân gian. Biết bao linh đồng chuyển thế xóa quá khứ, thay đổi tâm tình ở đó. Thế nhưng phải bạn nghe theo ai, người đó cho bạn mãn nguyện. Tsangyang Gyatso dùng thời gian ba năm, muốn đổi lấy quyền trượng cho rằng theo lý đương nhiên thuộc về Ngài, cuối cùng cũng chỉ như bọt nước, chớp mắt tan. Ví như chúng ta nghĩ đủ mọi cách muốn uống tách trà, nhưng vì thời gian chờ đợi quá dài, cầm trong tay nguội lạnh, uống vào phải là mùi vị ấy nữa. Nhưng như vậy, ít nhất chúng ta vẫn ngửi được hương thơm của trà, còn Tsangyang Gyatso, ngồi trong cung điện sâu thẳm trống trải, chỉ cảm nhận được nỗi quạnh quẽ và bất lực vô biên.

      Có người , Tsangyang Gyatso may mắn. Giờ đây nghĩ lại, Ngài quả may mắn hơn Đạt Lai Lạt Ma mấy đời trước đó. Những linh đồng chuyển thế ấy từ phải tiếp nhận học tập Phật giáo chính quy, họ nào có tuổi thơ vô tư, thời gian lãng mạn. Còn Tsangyang Gyatso, mười lăm năm nay hề biết thân phận của mình, Ngài trải qua những ngày tháng đơn thuần đẹp đẽ nhất của đời người mà có bất cứ áp lực và gánh nặng nào. Mười lăm năm dài, dùng vui vẻ của mười lăm năm, đổi lấy năm tháng sau này thân bất do kỷ, cũng là xứng đáng.

      Thế nhưng ai quy định rằng, Tsangyang Gyatso phải hài lòng, phải trả giá vì quá khứ hạnh phúc của mình. Dù Ngài ở cung Potala, khổ tu ba năm, cũng thể bù đắp cơ duyên từng lỡ mất. Bắt đầu từ khi Đệ Ba Sangye Gyatso dự tính giấu phát tang đối với cái chết của Đạt Lai thứ 5, Tsangyang Gyatso mất thời cơ tốt nhất để trở thành Đạt Lai thứ 6. Sangye Gyatso làm sao nỡ dễ dàng nhường lại chính quyền nắm giữ mấy mươi năm cho đứa trẻ buông thả chốn nhân gian mười lăm năm, y yên tâm sao? Dù tại Tsangyang Gyatso có thành quả tu luyện ba năm, đối với Sangye Gyatso, còn xa mới đủ tiêu chuẩn trong lòng y. Tài thao lược kiệt xuất của Đạt Lai thứ 5 Lobsang Gyatso bén rễ sâu vững trong lòng y, những thành tựu phi phàm ấy, Tsangyang Gyatso há có thể thay thế?

      Do đó, dù Tsangyang Gyatso mỏi mắt trông chờ, Sangye Gyatso cũng trước sau giao cây quyền trượng đại diện cho vương giả ấy vào tay Ngài. Tsangyang Gyatso lại chật vật sống qua hai năm trong chờ đợi và nhẫn. Hai năm này, Ngài hết sức khiến mình bình tĩnh, hòa nhã đối đãi mỗi việc, mỗi người. Hai năm này, Ngài khiến mình triệt để chìm đắm trong Phật pháp mênh mông, dường như muốn quên hết mọi thứ của thời niên thiếu. phải là quên, đúng ra là gói ghém lại quá khứ cách hoàn hảo, cất kín ở góc thể dễ dàng chạm đến của nội tâm. Dù vất vả, nhưng Ngài làm được, kinh Phật khiến lòng Ngài dần dần bình tĩnh. Ngài tự nhủ rằng, lúc sức đánh trả, điều duy nhất có thể làm, chính là nhịn.

      Việc đời quả tối sáng khó đoán, buồn vui thất thường, Tsangyang Gyatso hết sức khiến mình bình tĩnh trong chờ đợi, lại vẫn bị tin tức bất ngờ làm tổn thương cùng cực. Mẹ và hàng xóm từ Monyu xa xôi đến thăm Ngài, mang đến cho Tsangyang Gyatso nỗi kinh ngạc như xa cách đời, đồng thời cũng mang đến tin tức khiến Ngài đau buồn mãi thôi. Tin tức này đập tan hoàn toàn niềm tin Ngài kiên định dời mấy năm nay. Từ khi rời khỏi Monyu, Tsangyang Gyatso bị nhốt trong cung Potala, chiếc lồng mỹ miều, chỉ dựa vào hồi ức đẹp đẽ ngày trước để sống qua ngày. Trong vô số giấc mơ lúc nửa đêm, Ngài đều ảo tưởng mình và ý trung nhân hò hẹn bãi cỏ dưới ánh trăng, những lời dịu dàng, trong mơ, Ngài ngửi mùi hương của nàng, ngắm nụ cười ngọt ngào của nàng.

      Lời thề non hẹn biển,

      Nàng từng trao cho ta.

      Lại giống như nút thắt,

      Chưa đụng bung ra.



      Đò ngang dẫu vô tâm,

      Đầu ngựa luôn ngoảnh lại[1].

      Người tình nghĩa,

      Quay lưng chẳng đoái hoài.

      [1] Ở Tây Tạng đò ngang đều khắc ngựa gỗ, đầu ngựa ngoảnh nhìn lại phía sau.

      Nàng chẳng phải mẹ sinh,

      Lớn cây đào ấy?

      Sao tình của nàng,

      Tàn nhanh hơn hoa vậy?

      Giấc mơ đó bị đánh thức cách tàn nhẫn, thậm chí còn cho Ngài bất cứ cơ hội nào để nghỉ lấy hơi. Monpa cùng Ngài thề non hẹn biển khoác áo cưới làm dâu của người khác. Lòng Tsangyang Gyatso triệt để tan nát bởi tin tức này, tình cảm vui vẻ ngày xưa mồn trước mắt, lời thề trao vẫn còn quanh quẩn bên tai, vì sao chớp mắt tất cả ngấm ngầm thay đổi? Chẳng lẽ lời thề nhàng như giấy mỏng? Chẳng lẽ lòng người dễ dàng thay đổi như thế? Tình Ngài khổ sở si mê gìn giữ, ở nơi nàng, đáng kể như thế hay sao?

      Người ta tha thiết,

      Bị kẻ khác cưới rồi.

      Ta tương tư khổ sở,

      Còn da bọc xương thôi.



      Có thể dùng thòng lọng,

      Để bắt được ngựa hoang.

      Người thay đổi lòng dạ,

      Sức thần khó giữ nàng.

      Có lẽ chúng ta nên trách, thế là công bằng cho người Monpa kia, Tsangyang Gyatso năm xưa vội vã rời , thậm chí kịp cả lời từ biệt. Sau khi nàng biết tin Ngài là linh đồng chuyển thế, biết họ kiếp này còn hy vọng gặp nhau, ắt hẳn nàng khóc đến đứt từng khúc ruột. Mấy năm nay, họ hoàn toàn có tin tức của nhau, chỉ có thể giữ thước phim ấm áp của quá khứ để chữa lành vết thương. Biết chờ đợi có kết cục, nhưng nàng vẫn si dại chờ ở ngã tư đường lúc ly biệt, lừa dối bản thân có lẽ có kỳ tích xảy ra. Nhưng nỗi si tình của nàng chỉ đổi lại ánh mắt khác thường của mọi người, và những lời nhiếc móc tàn nhẫn của người nhà. Khi nhiều cùng trang lứa với nàng lần lượt xuất giá, lý do mà nàng đưa ra là bạc nhược, yếu ớt.

      Tsangyang Gyatso trách lầm nàng, nàng kiên trì đến cuối cùng bằng quyết liệt của mình. Dù người dân Monpa thuần phác đôn hậu, nhưng họ cũng cho phép trẻ tuổi si dại chờ đợi vì lời ước hẹn kỳ hạn. Bất kể nàng có bao nhiêu tuổi xuân có thể lãng phí, cũng thể sánh với thời gian bất tận. Nếu Tsangyang Gyatso đặt mình vào hoàn cảnh của nàng mà nghĩ cho nàng, nhất định hối hận khi bản thân viết ra câu thơ tàn nhẫn như vậy. Nếu phụ bạc, là Ngài rời khỏi trước, tuy có nỗi khổ, nhưng rốt cuộc vẫn là Ngài phụ nàng. Từ lúc Ngài vào ở trong cung Potala, có nghĩa tất cả lời thề đều hóa thành tro bụi, Ngài chẳng có tư cách sở hữu tình , chẳng có tư cách oán trách vô tội ấy thay lòng gả làm vợ người khác.




      Chỉ cần Tsangyang Gyatso nhắm mắt suy nghĩ, có thể nhìn thấy tình cảnh thê lương của ý trung nhân, nàng chờ đợi trong tuyệt vọng, cuối cùng chịu đựng nổi lời chỉ trích của mọi người, rưng rưng nước mắt khoác áo cưới, làm dâu của người khác. Suốt đời này, nàng làm sao còn có thể có được hạnh phúc chân chính? Mối tình đầu chôn trong đáy lòng, mỗi năm, nỗi nhớ đều theo cỏ xuân lan tràn, linh hồn nàng định sẵn yên ổn vì Ngài. Nếu nàng đọc được bài thơ của Tsangyang Gyatso, lại thổn thức rơi lệ ra sao? Có lẽ chúng ta nên oán trách ai, duyên phận bạc bẽo ấy khiến họ đau lòng cùng cực, làm sao nỡ chỉ trích làm thương tâm thêm.

      Đây phải là lúc Tsangyang Gyatso sa sút nhất, đau khổ nhất. Kiếp sống con rối năm năm, khiến lý tưởng tự mình chấp chính của Ngài tan vỡ, giờ đây lại nếm trọn nỗi đau thất tình xé lòng, khiến Ngài nguội lòng nản chí. Vị Phật sống đau khổ tuyệt vọng thể tịnh tâm để suy xét mọi việc. Ngài biết, cục diện chính trị của Tây Tạng lúc đó vẫn lung lay trong gió, dã tâm của Lha-bzang Khan[2] khiến Đệ Ba Sangye Gyatso dám có mảy may sơ suất. Dù bị dục vọng quyền lực thúc đẩy, Sangye Gyatso cũng dám giao chính quyền cho đứa trẻ tiếp xúc đời chưa nhiều, chưa từng tham gia chính . Tsangyang Gyatso làm sao hiểu , đấu tranh chính trị khốc liệt vượt xa đấu tranh tình cảm, trận giết chóc đem đến tổn thương thê thảm nhất trần gian, khiến người dân khốn khổ. Tổn thương tình cảm tuy là địa ngục nhân gian, nhưng cá nhân so với chúng sinh, tỏ ra quá đỗi bé.

      [2] Lha-bzang Khan (La Tạng Hãn): cháu của Gushi Khan (Cố Thủy Hãn), thủ lĩnh của bộ lạc Khoshut (Hòa Thạc Đặc).

      Nhà Phật tin vào nhân quả, lẽ nào tất cả cảnh ngộ hôm nay của Tsangyang Gyatso là nhân Ngài từng gieo, phải gặt lấy quả? Mấy năm nay, cuộc đời Ngài có biến hóa biển biếc nương dâu, đây lẽ nào chính là đau khổ mà Phật sống phải gánh chịu, cái giá phải trả ra? Nếu phải, Ngài chẳng có lời nào để , cứ xem là phúc báo của đời này vậy. Hy vọng trải qua kiếp nạn này, ngày tháng về sau, có thể trời cao biển rộng. Nhưng Ngài vẫn cảm thấy nỗi tuyệt vọng trước giờ chưa từng có, vì Ngài uổng là Phật sống, đừng cứu giúp người đời, ngay cả bản thân mình cũng giải thoát được.

      Lời thề trong dĩ vãng đều thành mây khói. Câu chuyện của hôm nay cũng kết thúc.Tsangyang Gyatso nên hiểu , tươi héo vô ý, hợp tan tùy duyên. Chỉ là khi Ngài đứng bờ sông thời gian, ngắm bóng hình của kiếp phù du, vẫn cảm khái muôn vàn. Đời người, ra chính là cuốn sách kinh chữ, Tsangyang Gyatso tu luyện nhiều năm cũng đọc hiểu, tham thấu. Trong lúc bất lực, Ngài đành hướng về Đức Phật, đưa ra câu hỏi hoang mang mà tình sâu.





      Bến đò




      Bất cứ ai tin vào duyên phận đều hiểu , tình duyên đời này nên hợp hợp, nên tan tan, khi duyên phận hết, khắc cũng lưu lại.

      Bất cứ ai tin vào duyên phận đều hiểu , tình duyên đời này nên hợp hợp, nên tan tan, khi duyên phận hết, khắc cũng lưu lại. Có lúc duyên phận giữa người với người chẳng bằng ngọn cỏ, cỏ còn có thể trải qua xuân tươi thu héo, còn duyên phận mỏng manh, ngắn ngủi như giấc mộng đêm xuân. Đúng vậy, tựa hồ có giấc mộng, sau khi tỉnh mộng, bạn đứng lặng hồi lâu trước cửa sổ trong gió lạnh, phát giác mình lại trở về buổi ban đầu của sinh mệnh, chẳng còn gì cả. Nhưng tuy rằng trắng tay, phải chăng vẫn còn trong sạch? Còn tinh khiết?

      Nhà thơ Đài Loan Tịch Mộ Dung từng có bài thơ, “Bến đò”.

      Cho em nắm lấy tay chàng,

      Giã từ, rồi lại nhàng rút tay.

      Nhớ nhung bén rễ từ đây,

      Lâng lâng như ở mây bồng bềnh.

      Núi sông vốn dĩ trang nghiêm,

      Vì ly biệt, bỗng trở nên dịu dàng.

      Cho em nắm lấy tay chàng,

      Giã từ, rồi lại nẹ nhàng rút tay.

      Tháng năm ngưng đọng từ đây,

      Trong tim lệ nóng sánh tày sông sâu.

      Muôn vàn bất lực nhìn nhau,

      Bến đò trống trải, tìm đâu hoa cài.

      Đem lời chúc phúc tặng ai,

      Ngày mai, hai đứa ở hai phương trời…

      Bến đò của Tịch Mộ Dung là bến đò của ly biệt, tràn đầy tình cảm nhớ mãi quên và tâm ý chia tay lưu luyến. Những năm qua, biết cảm động bao nhiêu người si tâm đổi vì tình . Cũng biết bắt đầu từ lúc nào, tôi thích bến đò, bến đò của đời người, bến đò của năm tháng. Thuyền bè qua lại xuất phát từ nơi này, lại từ phương xa trở về nơi này. Do đó, gặp gỡ cũng là bến đò, ly biệt cũng là bến đò, duyên đến cũng là bến đò, duyên vẫn là bến đò. Hai chữ “bến đò” chứa quá nhiều tình cảm của đời người, tụ hợp ly tan. Bến đò của tôi, có lẽ là thanh đạm, có nhiều khách qua đường lai vãng, chỉ ngẫu nhiên có kẻ lênh đênh trôi giạt ngang, mây nhạt gió .

      Tôi nghĩ đến bến đò của Tsangyang Gyatso, cũng là ly biệt. Khi Ngài được biết ý trung nhân làm vợ người khác, trái tim vốn tan tác tả tơi của Ngài càng bị nghiền nát thành tro bụi. ra năm xưa Ngài bị đưa vào cung Potala có nghĩa là duyên phận của họ triệt để kết thúc, có nghĩa giữa họ từ đó định sẵn mỗi người phương. Ngày thu ấy là bến đò ly biệt của đời người, người vì nợ cũ của kiếp trước xa đến chân trời, người vì ước hẹn có kết cuộc chờ đợi hư vô. Tsangyang Gyatso là vua của cung Potala, là vị vua có vương hậu. Tình trong tòa cung đẹp đẽ này trở thành truyền thuyết xa xưa. Songtsän Gampo và công chúa Văn Thành từng có tình , nhưng sau khi Đạt Lai thứ 5 xây lại cung Potala, nơi này trở thành đạo tràng bồ đề trai đương, rời xa mộng tưởng điên đảo.

      Đối với Tsangyang Gyatso, tất cả những điều này là quá trễ tràng. Người ta tình là thuốc độc, Ngài trúng độc quá nặng. Nếu trước giờ chưa từng có bắt đầu, nếu khi chưa tỏ việc đời Ngài bị đem vào cung Potala dốc lòng học tập kinh văn, có lẽ Ngài vị Lạt Ma hiểu tình , có dục vọng. Trong ấn tượng của chúng ta, luôn cảm thấy Phật là vô tình, vì Người thể có tình, thể rơi lệ. Nhưng nếu Phật vô tình, sao lại đem lòng thương xót độ hóa chúng sinh? Nhà Phật có quá nhiều thanh quy giới luật, lẽ nào tuân thủ thanh quy, quy núi sâu rừng thiền, hỏi mọi việc đời, chính là đắc đạo, chính là từ bi hay sao? Còn nhà sư lưu luyến tình ái, ăn thịt uống rượu, truyền dương Phật pháp ở chốn sâu hồng trần, lại trở thành tội ác hay sao?




      Việc khiến nhiều người nghi hoặc thế gian này quá nhiều, chúng ta thể khắc chế dục vọng của mình, vậy vì sao phải oán trách tham sân si luyến của kẻ khác? Lẽ nào Phật phải triệt để vô tư, Phật phải sống vì đông đảo chúng sinh? Nếu như Tsangyang Gyatso phải là linh đồng chuyển thế, cuộc đời của Ngài cảnh tượng khác, trong gian hẹp thuộc về Ngài, bình dị yên ổn, tiếng tăm. Chẳng có nếu như, Ngài ngồi ngai Phật chót vót của cung Potala, phải trả giá vì vinh dự chí tôn. Ngài bị quấy nhiễu, bị thế tục quấy nhiễu, bị tình cảm quấy nhiễu, do đó Ngài vui vẻ, do đó viết nên câu thơ bất lực dường này.

      là đừng gặp gỡ,

      để khỏi quyến luyến nhau.

      Hai là đừng quen biết,

      để khỏi tương tư nhiều[1].

      [1] Đào Bạch Liên dịch

      Nếu thế giới này chẳng ai quen biết ai, có lẽ yên tĩnh tiếng động. Nhưng im lìm như vậy còn được xem là nhân gian khói lửa hay sao? Tsangyang Gyatso gặp nhau, biết nhau, nhưng bất cứ ai tồn tại chốn phàm trần đều thể nào chẳng gặp nhau, chẳng nợ nhau. Nhớ lại câu thơ của Nạp Lan Dung Nhược[2]: “Nhân gian nhược chích như sơ kiến (Đời người nếu chỉ như gặp gỡ lần đầu)”. Mỗi người đều mong mỏi cuộc gặp gỡ giữa người và người thuở ban đầu đều đẹp đẽ như thế, thuần nhất như thế. có tổn thương, có bụi bặm, có tình sâu đậm, cũng có oán hận thấu xương. Thử hỏi, đời người như vậy, còn có mùi vị gì?

      [2] Nạp Lan Tính Đức, tự Dung Nhược (1655-1685), là nhà thơ người Mãn Châu đời nhà Thanh, tài hoa nhưng yểu mệnh, được tôn là “Người viết từ hay nhất đầu đời Thanh”. Ông để lại nhiều tác phẩm thấm đẫm nỗi sầu bi, lụy khổ.

      lạc vào phàm trần, nên tuân thủ quy tắc của phàm trần, sợ sống chết, dám dám hận. Dù bị khói lửa cay xè đến nước mắt đầm đìa, cũng phải thúc ngựa vung roi, nhảy sóng chèo thuyền, dốc toàn lực sống mái trận, chừa đường lui. Tuy là thế, khi bạn bị gió mưa đao kiếm đả thương đến ngàn trăm lỗ thủng, ai là người trị thương cho bạn? Có mấy ai là dũng sĩ chân chính, đứng đầu sóng ngọn gió, đợi phán xét của vận mệnh, chờ thời gian đến chia cắt. ai nguyện ý nhìn thấy người dân khốn khổ, máu thịt bầy nhầy, lòng của nhiều người đều hướng đến hòa bình, hướng đến yên ổn. Cho nên mới theo đuổi lãng mạn và nhu tình, mới thích thơ của Tsangyang Gyatso, mới tha thứ tội lỗi mà Ngài, thân là Phật vẫn lưu luyến tình ái nhân gian, phạm phải.

      Có người , Tsangyang Gyatso là cố giữ sai lầm chịu tỉnh ngộ. Thời gian tròn năm năm, ra sức học tập kinh văn, tham ngộ Phật pháp, lại vẫn tránh khỏi trận tình kiếp to lớn này. Thơ của Ngài khiến mọi người chứng thực thân phận tình tăng của Ngài, trong cả quá trình tu Phật, Ngài trước sau quên người đẹp phấn hồng. Cũng có người , đây mới là Tsangyang Gyatso chân chính, người chí tình chí tính, người thâm nhập hồng trần, mới có thể tu luyện thành Phật. Phật phải là hư vô, Phật cũng là hóa thân của con người, vì tham thấu mọi việc đời, mới đứng ngoài cuộc, nhàn tản mây. Có lẽ trong quá trình tu hành, Tsangyang Gyatso nhất thiết phải trải qua tình kiếp mới có thể thành Phật, vị Phật trong thế giới Sa-bà[3], độ hóa chúng sinh.

      [3] Thế giới Sa-bà (Ta-bà, Samsara): Theo kinh điển Phật giáo, các loài chúng sinh hữu tình sinh luân hồi trong thế giới Sa-bà hay còn gọi là Tam Giới: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.

      Chúng ta rất muốn biết, sau khi thất tình, Tsangyang Gyatso rốt cuộc lựa chọn lại phương thức sống ra sao. Phải chăng Ngài bước ra khỏi vũng bùn tình cảm, đoạt lại quyền trượng từ tay Đệ Ba Sangye Gyatso, dùng địa vị thủ lĩnh chính giáo Tây Tạng của Ngài, bắt đầu nắm giữ quyền lực chính giáo? Hoặc là từ đó an phận thủ thường nghe lệnh Như Lai, tịnh tâm tham thiền trong cung Potala? Hiển nhiên tất cả những điều này đều phải, tính tình của Ngài định sẵn cuộc đời nay mai của Ngài. Cũng giống như vở kịch, lúc bắt đầu, chúng ta có thể đoán trước kết cuộc. Dù là như thế, chẳng mấy ai có thể bình tâm tịnh khí quan sát cả quá trình, tâm tình chúng ta vẫn thấp thỏm theo từng tình tiết.

      ra cục diện chính trị Tây Tạng lúc đó bầu hỗn loạn, mà Tsangyang Gyatso lại chìm đắm trong cảm xúc bi thương cá nhân thể tự thoát ra. Tsangyang Gyatso hề để tâm quyền thế, thậm chí để tâm địa vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 6 của Ngài. Thế nhưng điều đó có nghĩa là Ngài chẳng có mảy may cống hiến và giáo hóa đối với chúng sinh, chỉ là phương thức Ngài lựa chọn khác hẳn. Ngài dùng tình cảm chân thành và từ bi khiến người đời cảm nhận được, Phật pháp phải là cao với tới, thiền chỉ là vì siêu độ bản thân, tu luyện kiếp sau. Kiếp này lòng của chúng ta đầy đủ nông nổi, cần thơ ca tràn đầy linh tính và nhu tình của Ngài để tịnh hóa, chỉ có kiếp này đạt được giải thoát, mới có luân hồi kiếp sau.

      Ngài rốt cuộc vẫn là Tsangyang Gyatso, dục vọng quyền lực và tình , Ngài chọn lựa điều sau. Đối với người hướng đến thế giới tinh thần, tình là thứ cực kỳ xa xỉ, người có thể sở hữu nó nhiều, càng huống chi là vị Phật sống thể tiêm nhiễm tình cảm nhân gian. Biết như thế, Ngài vẫn độc ngạo nghễ tiếp, xem như có mục đích, tùy tiện bay bổng, nhưng trong lòng Ngài biết mình rốt cuộc muốn điều gì. Cho dù thế giới của Ngài là gió sương mưa tuyết, những người si mê thơ tình của Ngài như chúng ta, lại có lý do gì chọn lựa nửa đường từ bỏ?

    3. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Quyển ba: Vì nàng tiều tụy muốn thành bụi

      Phong tình




      Có lúc thay vì tỉnh táo, nhiều người lại mong ước có thể sống mơ màng như kẻ trong mộng. Đó là vì đời người có quá nhiều gánh nặng, khi chúng ta thể trốn tránh, đôi khi cũng cần buông thả.

      Có lẽ chúng ta đề biết, chỉ cần sinh mệnh đứt đoạn, câu chuyện đời người vẫn tiếp tục. câu chuyện kết thúc, đồng nghĩa câu chuyện khác bắt đầu. Biết bao duyên phận đến đến , chúng ta có được những gì? Mất những gì? Nếu tất cả tình cảm mãnh liệt của người đều hao mòn hết, phải chăng thế giới của ta từ đó yên lặng vắng vẻ?

      Có người , nếu bạn chán ngán thành phố xô bồ, hãy chọn cách mình xa đến chân trời. Đến trấn Ô Trấn[1] mộc mạc yên tĩnh, đến thành cổ Lệ Giang[2] u nhã mà lại phong tình, hoặc đến Tây Tạng, cao nguyên cách bầu trời rất gần, có thể tiện tay hái lấy mây trắng. Nhưng những nơi ấy là yên tĩnh ư? xảy ra chuyện gì sao? Trong phim Dòng chảy thời gian[3], đến Ô Trấn lần, liền nảy sinh mối tình ghi lòng tạc dạ với cậu Văn người Ô Trấn, khó mà thoát ra. Dưới ánh mặt trời[4] Kim Đỉnh núi tuyết Ngọc Long[5] ở Lệ Giang, có đôi nam nữ dùng mạng sống khắc họa tình ở đây. Còn Tây Tạng từng có vị tăng như Đạt Lai thứ 6 Tsangyang Gyatso, mảnh đất này, dù từng hoang vu ra sao, về sau đều nở đầy hoa tình.

      [1] Ô Trấn: thị trấn cổ nằm ở phía bắc tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc.

      [2] Lệ Giang: đô thành cổ nằm ở tây bắc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, là nơi sinh sống của các dân tộc Bạch, Nạp Tây và Tạng. Thành cổ Lệ Giang (bao gồm Đại Nghiên, Thúc Hà và Bạch Sa) được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới năm 1997.

      [3] Dòng chảy thời gian: phim truyền hình Trung Quốc, tên gốc “Tự thủy niên hoa”, các diễn viên Huỳnh Lỗi (vai Văn) và Lưu Nhược (vai ), phần ngoại cảnh được quay ở Ô Trấn.

      [4] Dưới ánh mặt trời: phim truyền hình Trung Quốc, tên gốc “Nhất mễ dương quang”, các diễn viên Hà Nhuận Đông, Tôn Lệ, phần ngoại cảnh được quay ở Lệ Giang.

      [5] Núi tuyết Ngọc Long: dãy núi gần Lệ Giang, tỉnh Vân Nam, Trung quốc, có tất cả mười hai đỉnh núi cao 5.000m quanh năm tuyết phủ, đỉnh cao nhất là Phiến Tử Đẩu cao 5.596m.

      Ở khu phố cổ của Lhasa, có con đường kora là phố Barkhor[6]. Người đến đây nhất định quên ghé vào nơi. Kiến trúc của phố Barkhor đa số đều là màu trắng, riêng góc đông nam của phố Barkhor có tòa lầu hai tầng sơn toàn sắc liệu màu vàng, đây chính là quán rượu Makye Ame[7] nổi tiếng, cung điện bí mật của Đạt Lai Lạt Ma thứ 6 Tsangyang Gyatso năm xưa. “Makye Ame” là truyền thuyết đẹp lưu truyền ở Tây Tạng, có ý nghĩa là “người mẹ thánh khiết, thiếu nữ thuần khiết”, hoặc có thể mở rộng là “giấc mơ đẹp đẽ”. Tsangyang Gyatso từng là chàng đẹp trai phong lưu hào phóng ở quán rượu này, Dangsang Wangpo. xuất của Ngài khiến tất cả ánh mắt trong quán Makye Ame đều ngưng đọng.

      [6] Phố Barkhor: hay phố Bát Giác, là con đường kora xung quanh chùa Jokhang (Đại Chiêu Tự), Lhasa.

      [7] Mã Cát A Mễ.

      Mặt trăng sáng vằng vặc,

      đỉnh núi phía đông.

      Khuôn mặt nàng rạng rỡ,

      lên nơi đáy lòng

      Bao nhiêu năm trôi qua, bài thơ Tsangyang Gyatso viết cho Makye Ame vẫn lưu truyền đến nay. Ngài chân thực bày tỏ tâm ý tốt đẹp của trai hồng trần, quán rượu Makye Ame, vì Tsangyang Gyatso, chất chứa phong tình mà nơi khác có. Biết bao khách qua đường ngang chốn này, trong quán rượu tràn trề vẻ dịu dàng, nhấm nháp ly rượu ngon, lưu lại chút ít cõi lòng. Tên tuổi xa lạ, mặt mũi xa lạ, ai quen biết ai, nhưng họ gặp nhau. Ở cùng nơi, nghĩ đến cùng người, người rời xa ba trăm năm, hồn phách của Ngài phải chăng vào lúc đèn hoa vừa thắp sáng trôi dạt đến chốn này? Ở đây, cùng trẻ tuổi thời nay, kết đoạn duyên phận mỏng manh, chỉ đêm say thôi, tới khi trời sáng lại ai đường nấy.

      Tsangyang Gyatso bị cung Potala giam cầm năm năm, trải qua đau khổ thất tình, chịu đựng kiếp sống con rối, trái tim của Ngài bắt đầu rạo rực, như cỏ xanh lan tràn ngoài cửa sổ, như làn gió ấm áp tháng tư. Chẳng biết là thử thách của Phật tổ đối với Ngài, hay là trong số mệnh Ngài định sẵn giấc mơ đẹp đẽ, hoặc là vì nguyên nhân nào khác. Tsangyang Gyatso vào ngày vô ý, phát trong chiếc lồng son đẹp đẽ này hóa ra có cửa ngách nho người qua lại, người canh giữ, điều này có nghĩa là Ngài có thể từ trong cửa ngách lẻn ra ngoài, thông qua con đường này đến thành cổ Lhasa.




      Con đường này đem đến cho gian phòng đóng kín làn ánh sáng ấm áp, cũng tiếp dòng máu mới cho trái tim sắp sửa lạnh ngắt của Tsangyang Gyatso. Ngài vứt bỏ năm năm khép mình vào khuôn phép, nhu nhược nữa, Ngài phải nhân lúc nửa đêm người từ cửa ngách ra ngoài, đến thành Lhasa tươi đẹp, sống hết mình lần vì bản thân. Nơi náo nhiệt nhất ban đêm, chính là quán rượu phố Barkhor. Tsangyang Gyatso bước ra cửa ngách, thay trang phục hoa lệ, đội mái tóc giả đẹp đẽ, trong nháy mắt Ngài lắc mình biến thành chàng trai tuấn tiêu sái. Ngài tự đặt cái tên, gọi là Dangsang Wangpo[8]. Ngài phải đến quán rượu đèn đuốc huy hoàng, dự buổi yến tiệc thịnh soạn của tuổi thanh xuân, tạm biệt thân phận Phật sống, Ngài là tình lang đẹp nhất thành Lhasa.

      [8] Đăng Tang Uông Ba

      Khi ở trong cung Potala,

      Là Phật sống Tsangyang Gyatso,

      Mua say đường phố Lhasa,

      Là lãng tử Dangsang Wangpo.

      đường phố của thành Lhasa, Tsangyang Gyatso tuấn tú tình cờ gặp đám hát rong trẻ tuổi, họ đều có tuổi xuân phơi phới, tụ tập chỗ uống rượu ca hát, cười đùa vui chơi. Trước đây Tsangyang Gyatso chỉ ở địa phương Monyu uống rượu ca hát với người trong họ, chưa từng được chiêm ngưỡng vẻ phồn hoa của đô thị này. Ngài sớm chán ghét cuộc sống khô khan đơn điệu như kẻ tù tội suốt năm năm, đêm mua say khiến Ngài nếm được mùi vị tốt đẹp của tuổi hoa gấm vóc. Tsangyang Gyatso cảm thấy cuộc sống như vậy mới là đãi ngộ thanh niên tiêu sái hai mươi tuổi nên hưởng thụ. So ra, mỗi ngày ngồi ngai Phật của cung Potala, được mọi người cung kính lễ bái, là chẳng chút thú vị.

      Lẽ nào người đời đều là như thế, những thứ mình có được, đều cảm thấy hoàn mỹ. Nhữnng thứ có, lại cứ nghĩ đủ mọi cách khát khao đạt được. Con người vì có theo đuổi, có tưởng nhớ, mới vĩnh viễn có thỏa mãn. Những thanh niên lang thang đầu đường xó chợ của Lhasa kia, lại rất mực hâm mộ Tsangyang Gyatso tuổi tác tương đương với họ. Hâm mộ Ngài sinh ra có danh hiệu Phật sống cao quý, cần phiêu bạt chốn nhân gian khói lửa, cần thần phục dưới chân bất cứ người nào. Nhưng lại biết, tất cả những điều đó là khổ nạn ông trời áp đặt cho Ngài, Ngài chỉ muốn cuộc sống bình thường, tự do gò bó, có thể giống tất cả trai trẻ, ban ngày làm việc, ban đêm uống rượu vui chơi hết mình ở quán rượu.

      Có lúc thay vì tỉnh táo, nhiều người lại mong ước có thể sống mơ màng như kẻ trong mộng. Đó là vì đời người có quá nhiều gánh nặng, khi chúng ta thể trốn tránh, đôi khi cũng cần buông thả. Tsangyang Gyatso năm mười lăm tuổi, mơ hồ vì kiếp trước chưa biết của mình, làm Đạt Lai Lạt Ma thứ 6, gánh vác trách nhiệm. Vì đến quá gấp gáp, lại thêm cuộc sống tựa chim lồng năm năm, Ngài càng khao khát cơn say hơn bất cứ ai. Do đó khi Tsangyang Gyatso có cơ hội rời cung Potala, đường phố Lhasa, người tiêu sái nhất, phong lưu nhất, phóng túng nhất, triệt để nhất, chẳng ai ngoài Ngài.

      Chỉ đêm vui mặc sức khiến Tsangyang Gyatso cảm thấy hưng phấn và vui vẻ trước giờ chưa từng có. Trước khi trời sáng, Ngài đúng giờ về đến bên cửa ngách dưới chân Hồng Sơn, dùng chìa khóa mà tự mình lắp để mở cửa, vào cung Potala như chẳng có việc gì xảy ra. Trở về tẩm cung của mình, nhanh chóng gỡ tóc giả đầu xuống, thay áo sư màu đỏ, đứng trước gương, Ngài lại trở thành Đạt Lai thứ 6, vị vua lớn nhất của cung Potala. Lần đầu tiên, Ngài đứng trước gương nở nụ cười hài lòng ngọt ngào với chính mình. Dù mặt vẫn còn tràn trề ý say chưa tỉnh, nhưng Ngài hiểu cách tỉnh táo, cuối cùng cũng triệt để sống lần vì bản thân.

      Thế nhưng rượu ở đầu phố Lhasa tựa như ly thuốc độc, nếm lần ghiền. Người của Tsangyang Gyatso trở về cung Potala, lòng của Ngài vẫn lưu lại ở quán rượu phố Barkhor, quên được khói lửa nhân gian mù mịt nơi đó, quên được tiếng cười vui vẻ đường phố. Năm năm rồi, đây là lần đầu tiên Ngài ra cung Potala, hơn nữa là vào ban đêm, mình khẽ khàng lẻn ra ngoài. Chuyến vi hành của Ngài là kích thích, chẳng dễ dàng, điều đó khiến Ngài càng thêm lưu luyến và hướng đến thế giới bên ngoài. Trái tim được buông thả lần giống như chim ưng bay lượn cuồng dại, bay cao, xa, muốn thu về, thể.

      Ban ngày, Tsangyang Gyatso ngồi nghiêm trang ngai Phật chí tôn, nghe Thượng Sư nghiêm cẩn trước mặt thảo luận việc cúng tế, tiếp nhận lễ bái của họ. Đệ Ba Sangye Gyatso trước sau mực nghiêm khắc với Ngài, nhưng còn quan trọng nữa, Tsangyang Gyatso để tâm. Ngài quý báu gì vị trí Phật sống này, quý báu gì cây quyền trượng có được kia, cũng muốn quan tâm cục diện chính trị rối rắm của Tây Tạng. Cũng muốn vì chúng sinh, đọc những kinh văn sớm vô vị, nghe tiếng niệm Phật đơn điệu. chút lưu niệm cuối cùng còn lại của cung Potala đối với Ngài, cũng bị khói lửa của phố Barkhor phủ kín.

      kịp nữa rồi, trái tim buông thả ấy bay quá xa. Người đa tình xưa nay đều quyết liệt, Ngài có thể cúi cái đầu cao ngạo vì danh lợi, nhưng khom người cúi đầu vì phút tự do. Chúng ta nên biết, Tsangyang Gyatso an phận thủ thường sống trong cung Potala nữa, Ngài nhất định lại chuốc say trong quán rượu phố Barkhor. Đợi đến khi màn đêm buông xuống, lúc những người kora rời khỏi, quạ sẻ im tiếng, cả cung điện trầm lắng ngủ say, Ngài thay trang phục hoa lệ, đội tóc giả, lại làm chàng trai tuấn tên Dangsang Wangpo. Mà đa tình như Ngài, lại chỉ cùng những kẻ đàn hát kia uống rượu vui tràn hay sao? Trong quán rượu đèn đuốc lờ mờ kia, nhất định ả dạ oanh xinh đẹp chờ đợi Ngài, nhưng lần gặp gỡ tình cờ đó đem đến cho Ngài trận tình kiếp ra sao?

      Nếu để Tsangyang Gyatso dùng thân phận Phật sống và tu hành năm năm đổi lấy cuộc tình, Ngài chẳng chút do dự rời khỏi cung Potala. Dù lang thang đường phố Lhasa, làm lãng tử, Ngài cũng cam tâm tình nguyện. Tiếp nhận phiêu bạt, là vì e sợ trái tim bị giam cầm, dù lênh đênh trôi dạt là chốn về, Ngài cũng cố chấp hối hận.





      Khói lửa




      Tình cảm tựa nước vỡ bờ, ào ạt chảy xiết, đối với Tsangyang Gyatso, giờ đây Ngài sống trong cung Potala là Phật sống mất hồn phách, còn Dangsang Wangpo tiêu dao ở quán rượu phố Barkhor mới chân thực là mình.

      Gặp gỡ trong năm tháng thanh xuân chẳng cần bất cứ ước hẹn nào, ngẫu nhiên lướt qua nhau, lơ đãng ngoái nhìn thoáng đều có thể kết nên đoạn duyên phận. Chúng ta đều từng có những năm tháng vô cùng tươi đẹp, vì người mình dốc hết tất cả tình cảm mãnh liệt, thao thao thề thốt trước núi cao sông sâu. Tự cho rằng là giống đa tình, sau khi trải qua quá trình quấn quýt, bắt đầu cảm thấy chán ngán, khi đó, nhận ra thề non hẹn biển lúc trước chỉ là trò chơi của tuổi trẻ. Sống đời này, chúng ta phải tuân thủ quy tắc, quy tắc nhân sinh, quy tắc tình , bèo nước gặp nhau định sẵn là khách qua đường, khi duyên hết chớ nên khổ sở cưỡng cầu.

      Sau này cuối cùng tôi hiểu vì sao Tsangyang Gyatso giữ thanh quy giới luật, lưu lạc nơi đầu đường xó chợ của thành cổ Lhasa. Vì là chàng trai hai mươi tuổi, nội tâm Ngài tuôn chảy dòng máu sôi sục, buộc Ngài an phận ngồi ngai Phật chí cao vô thượng động lòng phàm, vinh dự áp đặt ấy là tàn nhẫn.

      Tsangyang Gyatso là Phật sống, nhưng Ngài cũng là người có máu có thịt. ngày kia Ngài cũng già cỗi rồi chết , chúng ta nhìn thấy vị Phật sống độ hóa chúng sinh, sinh mệnh tươi tắn, chỉ còn lại bộ hài cốt yên tịnh. Dù linh hồn Ngài chết, có thể chuyển thế, nhưng đó là kiếp sau, kiếp này tất cả đều chấm dứt cùng với kết thúc của sinh mệnh. Nhiều người cho rằng Tsangyang Gyatso lựa chọn tình , là vì Ngài hiểu thấu Phật pháp cao thâm, là vì Ngài vẫn chưa nhìn thấu bản chất đời người. Còn tôi lại nghĩ thế, Tsangyang Gyatso mà tôi cảm nhận, phải hiểu đời người ngắn ngủi, mọi nhường nhịn và trốn tránh đều là phụ bạc bản thân. Ngài tin nhân quả, tin kiếp sau, càng tin kiếp này là duy nhất của mình.

      Nhiệt tình tích tụ nơi đáy lòng Tsangyang Gyatso khi được thắp sáng, phải rừng rực bừng cháy, buông thả hết mình. Khi Tsangyang Gyatso từ cửa ngách cung Potala bước ra đường phố Lhasa vào đêm đó, có nghĩa cánh cửa tình cảm của Ngài lại bị đẩy ra. sinh mệnh bị giam cầm năm năm, có được lần cơ hội còn nhân nhượng cầu toàn sống qua ngày nữa. Tình cảm tựa nước vỡ bờ, ào ạt chảy xiết, đối với Tsangyang Gyatso, giờ đây Ngài sống trong cung Potala là Phật sống mất hồn phách, còn Dangsang Wangpo tiêu dao ở quán rượu phố Barkhor mới chân thực là chính mình.

      Quán rượu về đêm, đèn đuốc rực rỡ mê ly, nhiều trai trẻ tuổi trong thành Lhasa hẹn mà đến, ở đây uống rượu vui đùa, ca hát nhảy múa, chỉ để phô diễn đến cùng tuổi xuân nóng bỏng. Tựa hồ chỉ có họ có thể tùy ý làm càn, có thể say khướt trong ánh trăng trong suốt, chẳng chút bận tâm. Đây là cuộc hẹn ước vô tình, đêm đến tụ tập, trời sáng giải tán, chẳng ai hỏi ai đến từ nơi nào, và trở về nơi nào. Gặp nhau hôm nay hoặc là gặp lại ngày mai, cũng có thể là chia tay vĩnh viễn. Nhưng những điều này đều quan trọng, điều họ cần là tại, là sở hữu đương nhiên, là đoạn tuyệt đột ngột.

      Dangsang Wangpo chắc chắn là chàng trai phóng khoáng nhất, phong lưu nhất trong quán rượu, khuôn mặt tuấn tú, ánh mắt tựa sóng nước mùa thu và khí độ xuất sắc của chàng, khiến những xinh đẹp ở đó tim đập thình thịch. Nhưng ở đây cũng có người Qonggyai dung mạo siêu phàm như tiên nữ tên là Dawa Dolma[1], nụ cười ngọt ngào, giọng hát du dương của nàng khiến nàng đương nhiên là phượng hoàng mỹ lệ nhất trong đám người rộn ràng nhộn nhịp. đôi người ngọc như vậy, chỉ thoáng ánh mắt nhìn nhau, có giao kết tâm linh.

      [1] Đạt Oa Trác Mã

      Nàng mỉm cười tươi tắn,

      Nhìn khách khứa ngồi.

      Con ngươi đẹp xoay chuyển,

      Lại đăm đăm nhìn tôi.

      Giữa đám đông Lhasa,

      Người Qonggyai nổi bật.

      Ý trung nhân của ta,

      Chính là người đẹp nhất.

      Tsangyang Gyatso thông tuệ tất nhiên hiểu , người Qonggyai Dawa Dolma là kiếp nạn trong số mệnh của Ngài. Có lẽ do rượu trong quán quá đỗi khiến người mê say, cũng có thể nụ cười dịu dàng, sóng mắt khêu gợi của giai nhân quá đỗi khiến người si luyến, bất kể là phúc hay họa, Ngài đều phải để mình chìm đắm. Tsangyang Gyatso biết rằng, Ngài cần nàng, cần tình thương vỗ về êm ái của nàng, ngửi hơi thở thơm tho của nàng, để từ từ san bằng vết thương trong lòng Ngài. mối tình rời xa, cần mối tình khác bù đắp, dù là Phật sống cũng cam chịu tịch mịch, cũng ngăn cản nổi cám dỗ ôn nhu.

      Nhờ bà chủ quán rượu ân cần mai mối, họ đêm đêm gặp nhau, bên nhau như thế, quấn quít bịn rịn, nỡ chia lìa. Người đẹp Qonggyai cho Tsangyang Gyatso nhu tình và hoan lạc trước giờ chưa từng có, đó là niềm cực lạc nhân sinh được giấu kín. Ngài nghĩ, dù ở cõi Phật, tu luyện đến cảnh giới cao nhất, cũng chẳng qua đến thế mà thôi. Đến nay cũng ai có thể , khoái lạc thể xác và khoái lạc tinh thần, loại nào khiến con người càng hồn xiêu phách lạc. Có lẽ chỉ đích thân cảm thận mới ra được loại khoái lạc nào thích hợp với mình. Tsangyang Gyatso cảm thấy bản thân cách cõi Phật ngày càng xa, Ngài lúc này, chỉ nguyện ý là Dangsang Wangpo sa vào phàm trần, hưởng thụ khoái lạc tột cùng của tình .

      Gặp nhau dễ, tuy rằng khi màn đêm buông xuống, đợi cung Potala ngủ say Tsangyang Gyatso liền có thể xuống núi gặp gỡ Dawa Dolma. Nhưng chờ đợi luôn dài đằng đẵng, dùng chờ đợi mòn mỏi ban ngày để đổi lại giai nhân đêm, Tsangyang Gyatso vẫn cảm thấy chưa đủ thỏa ý. Tình đến lúc nồng nàn, phân ly khoảnh khắc đều là dày vò. Huống chi trong lòng Tsangyang Gyatso vẫn luôn lo lắng, chỉ sợ ngày nào đó, hành tung của mình bại lộ, lúc ấy lời thề Ngài hứa với người đẹp Qonggyai giường êm đệm ấm liệu còn có thể là vĩnh hằng? lo nổi nhiều như thế, mỗi đêm, họ đều hận đêm xuân ngắn ngủi, gà sớm gáy sáng.

      Gà trống đừng gáy sớm,

      Vì ta và người ,

      Lời trong lòng muốn ,

      Vẫn còn rất nhiều điều.



      Chụp mũ lên đầu,

      Bím tóc hất ra sau.

      Người ngồi chơi nhé,

      Người dặn chớ mau.

      Người tham lòng khó chịu,

      Người hẹn sớm gặp nhau.

      Đây chính là tình , chỉ có người lún sâu trong tình , khi bên nhau mới cảm thấy thời gian nhiều, đủ. Khi xa nhau, lại oán trách thời gian trôi quá chậm, đợi đến bao giờ mới có thể gặp lại lần nữa. Chỉ cơn gió hay ngọn cỏ lay đều kinh động đến giấc mơ của họ. Điều họ mỗi ngày mong mỏi, là đêm tối mau đến, là chú gà trống lúc sớm mai kia, phải chăng có thể quên gáy, như vậy họ giả vờ bình minh chưa đến, giả vờ đêm còn tối.

      Vì sao đời người hợp hợp tan tan liên tiếp như vậy? Người đẹp Qonggyai Dawa Dolma biết, sau khi trời sáng, vị tình lang đối với nàng rất đỗi dịu dàng này về chốn nào. Nàng cũng biết, trong cung Potala trang nghiêm hoa lệ, có cửa ngách bí mật, dẫn đến tẩm điện của Phật sống. Còn chàng Dangsang Wangpo tuấn là vị vua đến từ cung Potala, là Phật sống chí cao vô thượng. Nàng phải rạp mình dưới chân Ngài, vì tình kiếp này cầu xin nguyện vọng vĩnh cửu. Con người chỉ có tự cứu mình rồi mới có thể cứu người, Tsangyang Gyatso vướng sâu vào lưới tình, thể giải thoát bản thân làm sao có thể giải thoát chúng sinh? Tình cảm là nút thắt sâu nhất trong lòng, trăm quanh ngàn quấn, phải chăng nếm hết hận, mới có thể hờ hững dửng dưng chút?

      Tsangyang Gyatso mỗi ngày đều diễn cùng vở kịch, ban ngày Ngài là Phật sống của cung Potala, dạo bước mây, nhìn xuống chúng sinh. Ban đêm Ngài là lãng tử của đường phố Lhasa, rơi vào bụi trần, nếm thử khói lửa. Ngài ngại phiền phức hóa trang hai nhân vật, nhiều lần thay đổi trang phục, liên tục đội cởi tóc giả, về con đường núi giữa cung Phật và thế tục. Tất cả những điều này, Ngài làm chút sơ hở, kẻ biết tình chỉ có con chó vàng già nua trung thành.

      Chó vàng lông rậm rạp,

      Lòng sáng láng vô cùng.

      Chớ ta vắng,

      Trời sáng mới về cung.

      Con chó trung thành, trước khi bình minh đến canh giữ bên cửa ngách , đợi người chủ trẻ tuổi. Chỉ khi nhìn thấy con chó vàng già này, Tsangyang Gyatso mới yên tâm. Hoan tình đêm khiến Ngài càng thêm dồi dào tinh lực, sải chân nhanh nhẹn bước qua ngưỡng cửa, về phía thềm đá dài, trở về tẩm điện. ai biết, chiếc giường Phật này rất lâu có hơi ấm con người, mỗi tối chỉ có ánh trăng nhàng rải lên , đem bí mật phơi bày sót chút nào.

      Phương đông trắng, bầu trời nhuộm ráng mây sớm, đặc biệt say lòng người. Lúc này sư sãi dậy sớm quét dọn lá rụng trong sân, tưới nước cắm sen, chờ những người kora từ trời nam đất bắc xa xôi đến tòa điện Phật thánh khiết này, được tắm mình trong ánh sáng Phật. Đây là tín ngưỡng, đời người có tín ngưỡng là thiếu thốn, là nông cạn. tín ngưỡng Phật, có nghĩa là từ đó thanh đạm yên ổn; tín ngưỡng tình , có nghĩa là đòi sống đòi chết. Hôm nay tôi chọn theo đuổi hồi ức trong câu chuyện của người khác, ngày mai là ai đứng trước cửa sổ tuyết rơi, giả vờ tưởng nhớ tôi của ngày hôm nay?





      Tội chứng




      Có người , chúng ta trần trụi đến với thế giới này, tất cả những gì có được đều là do ông trời ban tặng. Con người phải có lòng cảm ơn, thêm chút thỏa mãn, bớt chút trách móc, có lẽ vui vẻ hơn nhiều.

      Có người , chúng ta trần trụi đến với thế giới này, tất cả những gì có được đều là do ông trời ban tặng. Con người phải có lòng cảm ơn, thêm chút thỏa mãn, bớt chút trách móc, có lẽ vui vẻ hơn nhiều. ngày kia chúng ta đều ra , khi ra vẫn phải trả lại mọi thứ có được, bất kể bạn xiết bao lưu luyến thế gian này cũng chẳng ích gì. Biết như thế, vì sao mọi người thể sống bình an vô , vì sao luôn có người khơi dậy sóng gió mặt nước êm đềm? biết phải tu luyện bao nhiêu năm mới có lần chuyển thế tôn quý là thế, vì sao cơ duyên này vừa khéo cho Ngài? Biển biếc phải ngàn năm mới có thể biến thành nương dâu, vì sao lại cứ để Ngài gặp được?

      Tsangyang Gyatso hưởng thụ mật ngọt và hạnh phúc tình đem đến cho Ngài, nhưng mỗi khi Ngài về đến cung Potala, trước lễ bái của chúng sinh, lại khó tránh khỏi buồn bã như đánh mất thứ gì. Quan hệ qua lại ấy có thể lâu dài sao? biết ngày nào, cánh cửa ngách thông đến thành Lhasa kia bị người phát giác, thậm chí con chó vàng trung thành kia cũng già chết vào đêm tuyết nào đó. Hoặc là người đẹp Qonggyai Dawa Dolma lỡ hẹn vào đêm trăng mờ gió lộng. Đời người biến ảo vô thường, Ngài thể tính trước, dù cao quý như Phật, cũng thể tự làm chủ vận mệnh của mình, thể thỏa mãn tâm nguyện nhoi của mình.

      Nếu cùng người dấu,

      Chung sống đến bạc đầu,

      Giống như từ đáy biển,

      Vớt được hạt minh châu.

      Có lúc, Tsangyang Gyatso cảm thấy mình chính là chiếc lá gốc cây của Dawa Dolma, vốn định sẵn nương tựa vào nhau, thương nhau, nhưng cuối cùng vẫn phải chấp nhận biệt ly tan tác. Các thanh niên đến với quán rượu phố Barkhor, chỉ muốn có đêm vui hết mình, chưa từng nghĩ đến trời đất lâu dài. Chỉ có Tsangyang Gyatso là khác với họ, Ngài trải qua đau khổ thất tình, khi Ngài gặp được người đẹp Qonggyai, những mong trọn đời bên nhau, vĩnh viễn thương. Nhưng vô số lần Ngài hỏi bản thân, Tsangyang Gyatso, ngươi có nổi sao? Ngươi có thể cho nàng vĩnh viễn sao?




      Lúc hoang mang, Tsangyang Gyatso bắt đầu có đôi chút mâu thuẫn, Ngài biết mình lòng trao ra, có đổi lại thêm lần ruồng bỏ hay ? Dù Ngài có đủ nhiều tuổi xuân để có thể lưu luyến quên về đường phố của thành Lhasa, nhưng Ngài phải là những thanh niên bình thường nơi đầu phố kia, có thể đến tùy ý bị gò bó. Nếu có ngày, người đời phát giác chàng Dangsang Wangpo phóng khoáng phong lưu kia chính là Tsangyang Gyatso Phật sống của cung Potala, Ngài đón nhận phán xét và chỉ trích thế nào? Ngài xem cách nhìn của người đời đều là vô nghĩa. Điều Ngài lo sợ là ý trung nhân rời xa, vì Ngài biết đời này rốt cuộc còn có bao nhiêu lòng.

      Tốt nhất gặp gỡ,

      Đỡ thần hồn đảo điên.

      quen thân cũng tốt,

      Tránh vương vấn buồn phiền.

      Làn da nàng mềm mịn,

      Gợi ôm ấp triền miên.

      Chẳng lẽ tình giả dối,

      Lừa tiền kẻ thiếu niên.

      biết người đẹp Qonggyai Dawa Dolma đọc được câu thơ tình lang Dangsang Wangpo viết, trong lòng nảy sinh bi thương thế nào. người con nguyện ý dốc hết tất cả vì chàng trai mình , đổi lại nghi ngờ và hiểu lầm của chàng, sau khi nàng biết, vẫn chung thủy dâng hiến hay sao? Nhưng nàng chẳng bao giờ biết, vì nàng chìm đắm trong hạnh phúc, quên hết tất cả. Tsangyang Gyatso mỗi đêm đều đến đúng hẹn, mang cho ý trung nhân quà tặng và châu báu tinh xảo, Ngài sủng ái nàng tựa như châu báu tay. Khi nàng dịu dàng tựa vào lòng Ngài, Tsangyang Gyatso cười nhạo tất cả nghi kỵ của mình là kẻ khờ tự chuốc lấy phiền não.

      được ngày nào hay ngày đó, vị Phật sống trẻ tuổi Tsangyang Gyatso nghĩ vậy. Dù có ngày rời xa, Ngài cũng có thể thứ lỗi cho nàng, rốt cuộc từng có dâng hiến, chẳng ai có thể áp đặt bất cứ gánh nặng nào cho ai. Dù lời thề ước còn chưa nguội lạnh, sân khấu đèn đuốc vẫn sắp tàn, vở kịch vẫn phải đến hồi kết thúc. Tsangyang Gyatso lo xuể nhiều như thế, Ngài chỉ muốn sở hữu tại. Sức nặng của người đẹp Qonggyai trong lòng Ngài, vượt xa địa vị của Phật sống, cao hơn đỉnh vàng lấp lánh của cung Potala, cao hơn tất cả trời mây đời.

      Từng , bí mật giữ kín đến đâu cũng ngày bị vạch trần. Khi bí mật còn là bí mật nữa, có gì lo lắng? Có gì lấp liếm? biết bắt đầu từ khi nào, mọi người trong thành Lhasa sôi nổi bàn tán, chàng lãng tử phong lưu Dangsang Wangpo đêm đêm lưu luyến nơi quán rượu phố Barkhor chính là vị Phật sống trẻ tuổi trong cung Potala. Tin tức kinh người ấy vốn tưởng rằng dấy lên sóng to gió lớn, nhưng người trong thành vẫn sống bình chân như vại. Họ chỉ xem chuyện này là đề tài chuyện phiếm lúc trà dư tửu hậu, có người coi như việc ấy có , có người mỉm cười cho qua.

      Còn những người trả tuổi chìm đắm ở quán rượu ban đên kia hoàn toàn để tâm những chuyện này. Họ tụ tập chỗ uống rượu ca hát, xưa nay hỏi thân phận đối phương, vì đây là đám người nhiệt tình hối, cần chịu trách nhiệm vì bất cứ hành vi phóng túng nào. Dangsang Wangpo vẫn là người nổi bật trong đám người này, họ cùng nhau vui thả cửa, sảng khoái uống cạn hết thảy phiền não đời. Chẳng ai quan tâm ngày mai ra sao, quan tâm bên mình có giấu vị Phật sống hay . Khi say túy lúy, Tsangyang Gyatso kiêng kỵ những lời đồn đại của phố chợ, thậm chí còn dùng giọng điệu khiêu khích ngạo nghễ ca rằng:

      Lời người ta đàm tiếu,

      Tự nhận chẳng sai.

      Thiếu niên chân bước,

      Vào quán rượu tìm ai.

      Tsangyang Gyatso lúc này sớm còn là thiếu niên nhu nhược, trải qua tu hành năm năm, hơn nữa quảng thời gian này được phàm trần rèn luyện, Ngài bắt đầu trở nên dũng cảm. Ngài cam tâm làm con chim trong lồng nữa, Ngài phải đủ lông đủ cánh, tìm kiếm con đường sống sáng sủa cho bản thân. Biết bao việc đời, trải qua cũng ung dung, khi bạn cho rằng trời long đất lở, phát sinh, cũng chẳng qua là nhàng như chuồn chuồn điểm nước. Nhưng có lúc, bạn vẫn phải trả cái giá thể biết trước vì số sai lầm. Tsangyang Gyatso chìm đắm trong thế giới hoan lạc, ý thức được những điều này, Ngài giận dỗi cho rằng, cho dù bị phát làm gì được ta.

      Có lẽ lời và hành động khác thường gần đây của Tsangyang Gyatso khiến Đệ Ba Sangye Gyatso sinh nghi, có lẽ những lời đồn đại kia đường phố Lhasa lọt vào tai y, có lẽ y cũng có thời trẻ tuổi, cũng từng thương lòng, cũng có lẽ y cứ giữ mãi quyền trượng, trong lòng hổ thẹn áy náy đối với đứa trẻ này. Tóm lại, Sangye Gyatso xưa nay vốn nghiêm khắc, lại giả vờ hay biết, cũng truy hỏi đối với hành vi của Tsangyang Gyatso. Ngày nào y cũng mệt nhoài với chính , chẳng còn bụng dạ nào chỉ trích hành tung kỳ lạ vào ban đêm của Tsangyang Gyatso. Y biết rằng, việc bỏ mặc của y có thể gây nên hậu quả thể sửa chữa; lòng từ bi của y, có lẽ trở thành tàn nhẫn.

      Đây là sai lầm đẹp đẽ, nhưng Tsangyang Gyatso biết là sai lầm mà vẫn để mình mắc phải. dung túng của Sangye Gyatso, khiến Tsangyang Gyatso càng chẳng chút kiêng dè, họ suy lòng khắc biết chẳng cần ra, cho rằng làm đến chút sơ hở có thể che giấu tất cả. Thế nhưng người bờ sông rồi có lúc bị nước sông tạt ướt vạt áo. Cũng giống như Tsangyang Gyatso, mỗi ngày về con đường núi giữa điện Phật và thế tục, làm sao có thể muôn lần sơ suất lần.

      Mỗi người sinh ra đều được sắp xếp sẵn mệnh số, khi bạn có quá nhiều, ông trời dùng phương thức khác đoạt vài thứ nào đó. Cũng như Tsangyang Gyatso, thời gian mấy tháng sống hết mình tiêu hao, khiến hạnh phúc còn lại của Ngài chẳng nhiều nhặn gì. Ngài lòng muốn níu giữ tình duyên, rốt cuộc vẫn là ngắn ngủi, tựa như cơn gió mát, dịu dàng mơn man mặt, lại chẳng thể nào nắm bắt được. Đều biết giấc mộng rất đẹp,nhưng sau khi tỉnh mộng, bạn phải dốc túi trả lại những thứ có được, cho đến khi cháy túi.

      Đó là đêm đông đẹp đẽ, hoa tuyết nhàng mặc sức vờn bay, quán rượu phố Barkhor dường như càng náo nhiệt hơn ngày thường. Họ quây quần bên lò hâm rượu, ngắm tuyết bay lả tả, hưởng thụ cảnh đẹp ông trời ban tặng cho nhân gian. Ngày hôm đó người đến cung Potala cầu nguyện ra về từ sớm, Tsangyang Gyatso cũng đến quán rượu sớm hơn thường ngày. người có hồn thơ chắc chắn tuyết, đêm đó Tsangyang Gyatso uống rất nhiều rượu, Ngài phải uống say mới thôi.

      Sau khi uống say, Tsangyang Gyatso cùng người đẹp Qonggyai Dawa Dolma quấn quýt mãi rời, Ngài hoàn toàn phát giác ra thần vận mệnh sắp trừng phạt thói phóng túng của Ngài. Hoan tình của đêm đó là cuối cùng, mà hoa tuyết là quà tặng đẹp nhất cao xanh ban cho họ. Khi duyên đến bạn chẳng ngăn cản nổi, khi duyên bạn cũng thể níu kéo. Duyên phận đối với mỗi người đều công bằng, dù bạn là Phật chí cao, hay là lãng tử lưu lạc đầu đường xó chợ, đều xem như nhau.

      việc bại lộ bắt nguồn từ trận tuyết lớn trắng xóa đẹp đẽ này. màu trắng tinh tì vết, lại đem đến cho Tsangyang Gyatso tai nạn thể tránh khỏi. Sáng sớm của đêm đông, Tsangyang Gyatso rời khỏi chăn êm nệm ấm, lưu luyến nỡ từ biệt người tình. Tuyết đọng dày cộp che lấp con đường lên núi, thấy trời sắp sáng hẳn, sư sãi trong cung Potala dậy sớm mở cửa quét tuyết, Tsangyang Gyatso đành vội vã gấp. Thế nhưng Ngài sơ ý, đất tuyết lưu lại hai hàng dấu chân sâu hoắm, đầu dẫn đến điện Phật trang nghiêm, đầu dẫn đến cõi trần xô bồ.

      Đây là chứng cứ phạm tội, là chứng cứ thể chối cãi. Tuyết trắng bán đứng Ngài, tiết lộ thói đa tình của Ngài. Sư sãi dậy sớm mở cửa tu viện, hai hàng dấu chân tuyết chứng thực lãng tử Dangsang Wangpo đường phố Lhasa chính là vị Phật sống Tsangyang Gyatso trong cung Potala. Vị Phật sống chí tôn giữ thanh quy, lưu luyến tình phàm trần, điều này có nghĩa Ngài đón nhận trừng phạt ra sao?

    4. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Sai lầm




      Con người có lúc bằng ngọn cỏ gốc cây, cỏ cây suốt đời cảm ơn ánh nắng và mưa móc cho nó năm tháng ấm nhuần, còn con người khi mất mát, hoàn toàn quên hết vị ngọt ngào và hạnh phúc của hoa đẹp trăng tròn.

      người trong mơ, luôn mơ thấy mất đồ, đó là vì y lo sợ mất mát. Chúng ta mỗi ngày đều đánh mất, đều bỏ lỡ, đánh mất thời gian như nước chảy róc rách, bỏ lỡ những tao ngộ đẹp đẽ trong tuổi xuân biêng biếc. Đối với nhiều người, cuộc sống của họ là chuỗi dài oán trách những thứ có được quá ít, những thứ mất lại quá nhiều, vui vẻ quá ít, bi thương quá nhiều. Con người có lúc bằng ngọn cỏ gốc cây, cỏ cây suốt đời cảm ơn ánh nắng và mưa móc cho nó năm tháng ấm nhuần, còn con người khi mất mát, hoàn toàn quên hết vị ngọt ngào và hạnh phúc của hoa đẹp trăng tròn.

      Lần này, Tsangyang Gyatso đánh mất. Ngài luôn lo lắng bí mật sớm muộn có ngày bị người phát , bèn dùng thân phận giả giả che đậy hành tung của mình. Nhưng việc càng lo sợ càng dễ xảy ra. Ngài tin tưởng hoa tuyết óng ánh, những hạt tuyết tràn trề thanh khiết ấy rơi vào câu thơ của Ngài, đồng thời cũng phản bội Ngài. Ngài cuối cùng hối hận, từng lập lời thề, bởi vì , có thể lưu đày đến chân trời, thê lương suốt quãng đời còn lại.

      Ngồi ngay ngắn trong điện lớn trang nghiêm, đối diện với vẻ hiền từ của Phật, Ngài áp sát trán nền gạch điện thờ, phải cầu xin Phật tha thứ, chỉ muốn với Phật, Ngài là vô ý. Vô ý bội bạc, vô ý phụ lòng, vốn dự định suốt đời là Phật, trong cung điện to đẹp đàng hoàng, đối diện dòng người hành hương vô tận, giảng kinh thuyết pháp cho họ, vô tư cống hiến vì họ. Tiếc rằng tình khó kìm chế, thắng cảnh diệu kỳ khôn tả này chẳng bằng lúm đồng tiền của Qonggyai. Điều Ngài cần là cùng ý trung nhân sống ở nơi thế ngoại đào nguyên[1] nho , bình yên với đồng ruộng vườn rau tự cấp tự túc. có phồn hoa nhốn nháo của thành thị, chỉ có đất lề quê thói chất phác, sống những ngày tháng cần quan tâm thế giới bên ngoài thay đổi thế nào.

      [1] Thế ngoại đào nguyên: Đào Tiềm đời Tấn trong “Ký Suối Hoa Đào” miêu tả miền đất cách tuyệt với đời, chịu tai họa chiến tranh, yên vui đẹp đẽ. Người sau mượn đó để chỉ miền đất chịu ảnh hưởng của bên ngoài hoặc thế giới đẹp đẽ trong ảo tưởng.

      Ngày bí mật bị vạch trần, vị Phật sống trẻ tuổi Tsangyang Gyatso còn bình tĩnh hơn trước, dù con đường tình cảm đến tận cùng hay , ít nhất Ngài vẫn sở hữu tại. Ngài đọc kinh văn, viết tình ca dưới ánh đèn chập chờn. Nếu có ngày Ngài chẳng còn gì cả, những bài tình ca này giống như gió từ cung điện cao ngất bay ra, vượt qua núi tuyết hoang nguyên, lan tỏa đến mỗi ngóc ngách của Thanh Tạng. Dù là giữa chợ đông, trong quán rượu, trong lều vải, những người đa tình cao nguyên đều truyền xướng nó ngừng. Vì có tình , mới có từ bi và khoan dung. Mỗi đóa hoa sen đều cần tình cảm vun tưới; mỗi ngọn đèn dầu thơm đều cần ấm áp thắp sáng; mỗi con người đều cần bồ đề độ hóa.

      Đêm hôm đó, Tsangyang Gyatso nghe thấy tiếng ca của mình được đống lửa thắp sáng, hương thơm của dầu bơ lan tràn giữa bầu trời trong suốt. Những chiếc chuyển kinh luân kia cứ thế ngày đêm xoay vòng biết mệt mỏi, chúng vốn có ý tốt, dẫn dắt nhiều người chìm đắm trong cõi trần rời xa rối ren. Tsangyang Gyatso thích nơi này, nếu cuộc sống có thể bị trói buộc, nếu ngày tháng có thể pha trộn gia vị tình , Ngài cam nguyện suốt đời bầu bạn với Đức Phật, cống hiến tất cả tư tưởng. Thế nhưng đời người có biết bao điều như ý, việc Ngài phải đối diện rốt cuộc cũng là lựa chọn. Nếu chọn mai lạnh cao ngạo, nghĩa là có duyên với hoa sen mát lành. Nếu chọn tuyết trắng dương xuân, nghĩa là mất rừng phong thu muộn.

      Cho rằng chẳng qua là cố chấp với tình của người trẻ tuổi, nhất thời mê man tâm tính, chỉ cần từ đó giữ nghiêm thanh quy, Ngài vẫn là Đạt Lai Lạt Ma tôn quý vô song của cung Potala. Tsangyang Gyatso biết thói buông thả và đa tình của mình trở thành cái cớ hoàn mỹ mà Lha-bzang Khan dùng để đánh dẹp Sangye Gyatso. phản bội của Ngài đối với Phật tổ trở thành lưỡi dao sắc bén để đối phó Ngài trong tay Lha-bzang Khan. Nếu Ngài chỉ là người dân bình thường, dù phạm phải tội lớn tày trời, cũng chẳng qua là lấy mạng đền mạng thôi. Nhưng Ngài phải, Ngài là thủ lĩnh chính giáo Tây Tạng, liên quan muôn ngàn chúng sinh. sinh diệt, đều là chuyện xưa mây khói.




      Lha-bzang Khan dâng thư cho vua Khang Hy ở xa tận thành Bắc Kinh, chỉ ra việc xấu Ngài vi phạm thanh quy, lừa dối chúng sinh. Và thâm độc rằng lãng tử chẳng có chút đạo hạnh tu hành thể là linh đồng chuyển thế của Đạt Lai thứ 5 thao lược kiệt xuất. Tsangyang Gyatso chỉ chẳng qua là món hàng giả mạo mà năm xưa Đệ Ba Sangye Gyatso tìm đến để ứng phó nhà vua, là con cờ y dùng để độc chiếm chính quyền Tây Tạng. Mấy năm nay, Tsangyang Gyatso là con rối của Đệ Ba Sangye Gyatso, trước giờ dính dáng đến chính . Đệ Ba Sangye Gyatso lừa dối chúng sinh thiên hạ, lừa dối vua Đại Thanh, hành vi dối lừa dưới này phải chịu xử phạt nghiêm khắc.

      câu “ phải là linh đồng chuyển thế của Đạt Lai thứ 5”, rất hùng hồn, dường như là tội chứng xác thực, cho phép giảo biện. Tấu chương này khiến vua Khang Hy hơi dao động, năm xưa Đệ Ba Sangye Gyatso giấu phát tang suốt mười lăm năm tròn đối với cái chết của Đạt Lai thứ năm, sau đó là vì Khang Hy tra ra, y mới đưa linh đồng chuyển thế trở về, cử hành điển lễ tọa sàng. Giờ đây bản tấu của Lha-bzang Khan thể khiến Khang Hy hoài nghi thân phận chân thực của Tsangyang Gyatso. Chẳng lẽ Sangye Gyatso quả to gan làm xằng, che giấu chân tướng của linh đồng chuyển thế? Tìm thiếu niên lai lịch ở dân gian tới giữ chức Phật sống?

      Trước khi chân tướng chưa làm sáng tỏ, Khang Hy đa mưu túc trí tin lời phiến diện của Lha-bzang Khan, nhà vua phái sứ giả đến Tây tạng để điều tra giả vị Phật sống trẻ tuổi này. Khi sứ giả nhìn thấy Tsangyang Gyatso phong thái khác thường, thông tuệ hơn người, nghi hoặc dường như thay đổi. Sứ giả dâng thư trình báo Khang Hy: “Lạt Ma này biết có phải là hóa thân của Đạt Lai thứ 5 hay , nhưng quả có pháp tướng thánh thể viên mãn.” Đồng thời còn đính kèm thơ tình của vị Phật sống này lưu truyền trong thành Lhasa, những câu thơ tươi đẹp, rung động lòng người, là độc, cũng là thuốc. Chẳng lẽ Ngài là linh đồng chuyển thế của Đạt Lai thứ 5? Chẳng lẽ hành vi lãng tử của Ngài chỉ là vì Phật động lòng phàm? Thế nhưng Phật có thể động lòng phàm chăng?

      Vị Phật sống vi phạm thanh quy Tsangyang Gyatso vốn nên chịu trừng phạt của giới luật. Nhưng vì lẽ gì thơ tình của Ngài lại sưởi ấm tâm ý con người như thế, đó phải là kinh văn tối nghĩa khó hiểu, phải là điều lệ đạo đức nhạt nhẽo hư vô, mà là cảm động, diễn giải bởi sinh mệnh và tình cảm mãnh liệt, là tiếng gọi đến từ linh hồn. Bắt đầu có những trái tim mềm yếu xúc động vì nó, lỗi Ngài phạm dường như chẳng phải là tội thể tha. Có lẽ đáy lòng mỗi người đều xao xuyến tình cảm êm đềm, có lẽ trong lòng mỗi người đều có bóng hình ghi lòng tạc dạ, có lẽ kiếp số của Tsangyang Gyatso cũng là kiếp số của đời người.

      Có điều sai rốt cuộc vẫn là sai, những ai từng phạm sai lầm đều phải gánh vác hậu quả vì sai lầm của mình. Dù Khang Hy lập tức trừng phạt Tsangyang Gyatso, nhưng Đệ Ba Sangye Gyatso lại dám dung túng Ngài tùy tiện làm càn nữa. Mà cung Potala dường như khóa nổi trái tim phóng đãng vì tình của Ngài, quản thúc lỏng lẻo đối với Ngài ngày xưa của Sangye Gyatso khiến thói ngỗ ngược của Tsangyang Gyatso ngày càng tăng thêm. Con ngựa hoang bị thả lỏng thoát cương mà , giờ nên làm sao để thu phục nó?

      Trong lúc bất lực, Sangye Gyatso đành cầu xin Ban Thiều thứ 5 Lobsang Yeshe giúp đỡ, y hy vọng Tsangyang Gyatso nghe theo lời khuyên của Ban Thiền, cứu với Ngài thoát khỏi biển tình cuồn cuộn. Đợi đến ngày kia sau khi tỉnh ngộ, có lẽ Tsangyang Gyatso phát ra rằng, thế gian có thể hoàn toàn đổi mới. thực tế, Sangye Gyatso hiểu hơn bất cứ ai, đứa trẻ này bướng bỉnh dường nào, đa tình dường nào. Nhưng Sangye Gyatso còn cách nào khác, Lha-bzang Khan làm sao chịu để yên cho họ?

      Tu viện Tashilhunpo[2] ở Shigatse[3], là trụ sở của Ban Thiền Lạt Ma các đời. Ban Thiền thứ 5 Lobsang Yeshe cũng có nghe về hành vi kinh hãi thế tục của Tsangyang Gyatso, Ngài phải khuyên nhủ, làm lễ thọ giới tỳ khưu[4] cho Tsangyang Gyatso. Ngài hy vọng nhìn thấy vị Phật sống trẻ tuổi này vì tình mất đứt tiền đồ, sa vào đầm lầy sâu thẳm khôn lường. mê loạn của Phật sống khiến cả Hoàng Giáo gió mây biến ảo, lúc đó, tước cục thế sóng lớn cuồn cuộn, ai còn có thể ra sức cứu vãn?

      [2] Tu viện Tashilhunpo (Trác Thập Luân Bố): xây năm 1447 bởi đệ tử của Tsongkhapa.

      [3] Shigatse hay Xigazê (Nhật Khách Tắc): là địa khu của Khu tự trị Tây Tạng, Trung Quốc. Về mặt lịch sử, hầu hết địa khu từng là phần của tỉnh Tsang, thuộc Tây Tạng cũ. Trung tâm hành chính của địa khu là thành phố Shigatse.

      [4] Giới tỳ khưu: còn gọi là giới cụ túc, chỉ giới luật các vị tỳ khưu và tỳ khưu ni phải tiếp nhận và tuân thủ, thọ giới tỳ khưu là chính thức có được tư cách tỳ khưu, tỳ khưu ni.

      Năm 1702, Tsangyang Gyatso hai mươi tuổi đến Shigatse. Tu viện Tashilhunpo dưới ánh nắng lấp lánh hào quang rực rỡ, nó chỉ thẳng lên trời xanh, dường như biết trước ý trời, quang ảnh mê ly, soi rọi cơn sóng nhấp nhô trong lòng Tsangyang Gyatso. Còn Ngài vẫn giữ vẻ mặt bình tĩnh điềm đạm, dường như người đến đây thọ giới là nhà sư liên quan gì với Ngài. Thượng Sư theo bên cạnh thấy thần sắc khác thường của Ngài lại sinh lòng bất an, vì họ biết vị Phật sống trẻ tuổi này rốt cuộc nghĩ gì. Vẻ trầm mặc của Ngài tựa như mặt trời lặn chầm chậm chìm xuống phía tây, mang theo nỗi độc cách biệt với đời và đoạn tuyệt lạnh lẽo.

      Đêm nay tôi bắt đầu cảm thấy bất an vì cái tên Tsangyang Gyatso. Đọc qua thơ tình của Ngài, tôi hiểu, đời Ngài thể thoát ly biển tình được nữa, dù linh hồn Ngài rất cố gắng đến gần bên Phật. Tôi từng thề ước, đời này chỉ làm trong cõi trần, kiếp sau lại nghe Phật giảng thiền. Nhưng thời khắc này tôi lại muốn làm người hành hương vô danh của cung Potala, mình thềm đá dài hun hút. Hoặc vượt ra khỏi hồng trần muôn trượng, cùng Ngài đến đạo tràng bồ đề; hoặc vì Ngài ở chốn hồng trần sâu nhất, soi gương trang điểm.





      Chấp mê




      Tạm thời ném trách nhiệm và sứ mệnh sang bên, Ngài còn là vị vua lớn nhất của cung Potala, Ngài chỉ muốn làm lãng tử tên đường phố Lhasa, làm tình lang tuấn tú của Dawa Dolma.

      số nơi mà đời này nhất định phải , chỉ có đích thân thăm thú non nước phương xa, khiến giấc mơ hư ảo trở thành chân thực sống động, mới uổng công đến nhân gian này chuyến. Nhưng khi chúng ta nhìn thấy tình cảnh trong mơ, phong cảnh tuyệt đẹp như vậy, liệu chúng ta có thể yên lặng lời hay chăng? Há chẳng biết, mỗi hạt bụi trần rơi xuống đều quấy nhiễu nó. Khi chúng ta bước vào tu viện Tashilhunpo ở Shigatse Tây Tạng, nên hiểu rằng, từng cành cây ngọn cỏ, từng viên gạch ngói, từng vị sư vị sãi ở đây, đều nên bị làm phiền.

      Màu sắc của mặt trời khi lặn rất đẹp, tu viện Tashilhunpo biết được ai tráng lên lớp màu đỏ rực, tựa như hoàng hôn uống say. Con đường lát đá được năm tháng mài bóng kia cất giữ biết bao nỗi lưỡng lự hoang mang và cố chấp của khách hành hương. Chúng ta nên tin rằng, ở đây trước sau đều có lá kinh phướn phấp phới, chờ đợi bạn và tôi. Chỉ là đứng lặng hồi lâu trước điện Phật trang nghiêm, ngắm trời xanh mênh mông rộng lớn, nghe tiếng chuông đồng trong trẻo lay tỉnh ký ức kiếp trước, biết những người đột nhập đất thánh này vào cảnh thiền, còn có thể bước ra hay ?

      Ba trăm năm trước, vị Phật sống tên là Tsangyang Gyatso ấy thọ giới ở đây, ngọn đèn bơ cũ kỹ của tu viện Tashilhunpo nhớ được tình cảnh năm đó. Tsangyang Gyatso trẻ tuổi ngồi trang nghiêm trước mặt Ban Thiền thứ 5 và mấy vị Thượng Sư, Ngài nhắm mắt niệm kinh, sắc mặt lạnh nhạt như băng. Mặc cho đại sư khuyên giải và hướng dẫn, vẻ bình tĩnh của Ngài khiến mọi người cảm thấy hết sức lúng túng và đáng tiếc. Thời khắc đó Ban Thiền thứ 5 hiểu , đời người trăm dạng, dù bước vào cửa Phật, đông đảo sư sãi vẫn mội người có duyên pháp và số mệnh riêng. Có người muốn danh lợi, có người muốn tình , có người chỉ nguyện suốt đời ở bên Phật tổ, mong cầu. Ngắm vị Phật sống bình tĩnh trước mặt, Ban Thiền bắt đầu cảm thấy lời của mình yếu ớt, bất lực.

      Tsangyang Gyatso rốt cuộc cũng quỳ bái dưới gối Ban Thiền thứ 5, dập đầu sâu, kiên định rằng: “Làm trái mệnh lệnh của Thượng Sư, thực hổ thẹn. Đệ tử biết chân tướng đời đều là , nhưng đệ tử thể quay đầu, kính xin Thượng Sư thu hồi sa di thọ trước đây, để đệ tử hoàn tục.” Tsangyang Gyatso như hồ nước phẳng lặng, dáng bình tĩnh và kiên định của Ngài, lại khiến cả tu viện Tashilhunpo lập tức sóng lớn cuồn cuộn, các sư theo đó đồng loạt quỳ xuống. Họ chẳng ai lường được, vị Phật sống trẻ tuổi này lại cam nguyện vứt bỏ địa vị chí cao vô thượng, chọn lưu lạc cõi tục, làm người hát rong bình thường mua say đường phố.

      Lẽ nào Ngài bị tình làm mờ hai mắt, làm rối thần trí? Nếu sao Ngài lại có thể chẳng chút do dự từ bỏ mọi thứ có, buông bỏ Phật tổ mà Ngài kính, và cả những con dân ngày ngày về chầu Ngài. Phật lẽ nào từ bi khoan dung? Nhưng Ngài ràng quá đỗi ích kỷ, chỉ vì tình cá nhân, vì Qonggyai, bỏ rơi đông đảo chúng sinh. Ngài còn là vị Phật sống muôn dân kính mộ chăng? Song nhìn vào ánh mắt u uất của Ngài, vì sao chẳng ai nỡ trách tội Ngài? Đó là vì chẳng ai có thể giữ được lòng dạ sắt đá trước tình cảm chân thực. Lúc này tình ca của Tsangyang Gyatso từ cung Potala lan đến bầu trời tu viện Tashilhunpo. Các sư quỳ mãi đứng dậy, mắt ngấn lệ, chẳng biết nên xử lý thế nào.




      Tsangyang Gyatso cầu trả giới sa di hoàn tục, quả khiến các sư có mặt ở đó kinh hãi, ánh mắt sợ sệt của Ngài toát lên vẻ quyết liệt thề chịu thôi. Đúng thế, Ngài nhu nhược quá lâu, lần này Ngài thể cho phép bản thân nhẫn nhịn tiếp nữa. Tạm thời ném trách nhiệm và sứ mệnh sang bên, Ngài còn là vị vua lớn nhất cung Potala, Ngài chỉ muốn làm lãng tử tên đường phố Lhasa, làm tình lang tuấn tú của Dawa Dolma. Ngài muốn vì bản thân sống tốt lần, đời người phải vui hết mình, phải rồi, vui hết mình.

      thanh niên nếm trộm quả cấm, đứng trước những cám dỗ, thể nào ngoảnh mặt làm ngơ. Tsangyang Gyatso dùng mạng sống bảo vệ tình cảm, bị người đời vạch trần, lại đâu cam lòng cúi đầu nhận tội. Vì cấm kỵ, lòng Ngài càng thêm khao khát hướng đến tình cảm mãnh liệt và cám dỗ phong phú. Dù Ngài đối diện đao thương búa rìu, xông vào đầm rồng hang hổ, Ngài cũng vì nghĩa chùn bước. Do đó Ngài có dũng khí chống đối Thượng Sư, có gan quay lưng với Phật tổ, có dự tính đương đầu với Sangye Gyatso.

      Từng là thiếu niên độc hoang mang, bị năm tháng thôi thúc trưởng thành, Ngài học được cách cự tuyệt, hiểu được thói ích kỷ. Nhưng chúng ta nên tin là Ngài vô tâm, Ngài vốn có ý làm khó bất cứ ai, phụ lòng bất cứ ai, Ngài chẳng qua chỉ muốn làm chính mình. Nhưng mang linh hồn của kiếp trước người, Ngài phải trả giá suốt đời vì kiếp trước mà Ngài muốn có, đây là trách nhiệm Ngài thể chối bỏ. Khi chúng ta cho rằng Tsangyang Gyatso từ đây có thể giống như chim ưng, dang cánh bay lượn dưới trời xanh, số phận với Ngài tiếng: Xin lỗi.

      Từ khi Tsangyang Gyatso đến với nhân gian, cuộc đời Ngài viết sẵn sách phán quyết. Sangye Gyatso luôn nghiêm khắc quản thúc Ngài đột nhiên có chút lo sợ, e rằng đứa trẻ bướng bỉnh này chống cự đến chết. Nhưng y muốn Tsangyang Gyatso chết sao? Nếu Tsangyang Gyatso chết rồi, cục diện chính trị của Tây Tạng há chẳng danh chính ngôn thuận rơi vào tay y? Lúc đó, y có thể tiếp tục tìm linh đồng chuyển thế, làm con rối của y. Nhưng Lha-bzang Khan chịu tha cho y chăng? Vua Đại Thanh có thể bỏ qua cho y chăng? , Sangye Gyatso nhất thiết buộc Tsangyang Gyatso ở lại, tiếp tục làm con cờ trong tay y, khi qua sông, y cần Ngài.

      Lha-bzang Khan nghe được chuyện này, cũng vội vàng đuổi đến, y phải chặn đứng quyết định của Tsangyang Gyatso, vì y lo lắng Tsangyang Gyatso ra , khiến Sangye Gyatso có cơ hội để lợi dụng. Đối với Lha-bzang Khan, vị Phật sống hữu danh vô thực này cũng phải là mục tiêu y muốn đối phó, cung tên y giương lên kia, là muốn nhắm chuẩn trái tim Sangye Gyatso bắn ra. Đến lúc đó muốn đánh bại Tsangyang Gyatso, đương nhiên dễ như trở bàn tay, phí chút sức lực nào. việc là buồn cười, Lha-bzang Khan chẳng phải dâng thư cho vua Khang Hy, tố cáo Tsangyang Gyatso là Phật sống giả mạo ư? Vì sao lúc này lại lo sợ Ngài kiên quyết ra , có thể thấy người vì ham muốn quyền lực, hề tiếc rẻ bất chấp thủ đoạn, nuốt lời lật lọng.

      Chẳng ai biết vì lý do nào khiến Tsangyang Gyatso thu hồi lời Ngài ra ở tu viện Tashilhunpo. Là bởi nhẫn nhịn Sangye Gyatso? Là bởi e sợ quyền uy của Lha-bzang Khan? Bởi Ngài trước sau bỏ được những người hành hương nườm nượp dứt? Hay vì Sangye Gyatso đáp ứng Ngài điều kiện gì đó? Tóm lại, Tsangyang Gyatso tiếp tục ở lại trong cung Potala, làm Phật sống chí tôn của Ngài, tâm nguyện nhoi đáng kể kia rốt cuộc thể thực . Bộ áo sư màu đỏ kia khoác lên người, vì sao luôn khiến Ngài phiền lòng rối ý?

      Tsangyang Gyatso mưu đồ chạy trốn trong mưa, nhưng vòng, lại trở về chỗ cũ. Khách hành hương của cung Potala mảy may giảm bớt vì tin đồn chốn phố chợ, họ tin, tin lời đơm đặt của Lha-bzang Khan, trong lòng họ, Tsangyang Gyatso chính là Phật sống của họ. vị tình tăng có thể viết ra những câu thơ tuyệt đẹp như thế sao có thể là Đạt Lai giả được? Ngài ràng chính là hóa thân của Thần Phật, những câu thơ của Ngài chính là đống lửa rừng rực trong đêm tuyết, là đốm xanh trong sa mạc, là tia sáng bừng nở trong tăm tối.

      Những bài tình ca sinh động này được truyền xướng ngày càng vang dội đường phố Lhasa. Quán rượu phố Barkhor, vì từng được thanh niên phong lưu tên Dangsang Wangpo ghé thăm nên đêm đêm đông nghịt khách. Họ đều biết, chàng lãng tử chìm đắm ở quán rượu này chính là vị Phật sống Tsangyang Gyatso ở trong cung Potala. Nhưng điều này hề ảnh hưởng lòng kính mến của họ đối với Ngài, ngược lại khiến họ cảm thấy, vị Phật này là từ bi nhất, vì Ngài đứng ở nơi cao xa với tới, đợi họ ngước đầu mong ngóng, mà thâm nhập dân gian, cùng họ hưởng thụ vẻ đẹp của khói lửa mịt mờ.

      Hóa ra lòng người đều mềm yếu, khao khát tình cảm êm dịu và hạnh phúc như thế. Chúng ta xưa nay đều muốn thấy thế giới này chìm đắm trong giết chóc, muốn phải gánhh chịu nạn cướp bóc to lớn mà chiến tranh mang đến. Nếu mỗi người đều có lòng lương thiện, yên vui với nếp sống bình dị, ở thành thị thuộc về mình cười tươi như hoa nở, ca hát như oanh yến, thế đẹp biết bao! Có lẽ cần chờ đến khi giong hết ngàn cánh buồm, nếm đủ trăm mùi vị, mới cam nguyện kề cận đồng quê non xanh nước biếc, sống những ngày tháng thanh đạm nhất. Lúc ấy, phải chăng có cây bút nặng tình ghi lại bầu trời xanh thẳm, áng mây tinh khiết, và những câu chuyện êm đềm kia giữa xóm làng với xóm làng cổ xưa?





      Tan vỡ




      Đây chẳng phải là vô tình, mà là phép tắc sinh tồn, mỗi ngày, đều có những người khác nhau đến đến , chúng ta cần ghi nhớ quá nhiều, chỉ cần thuận hòa bên nhau, mỉm cười ly biệt.

      Đeo tay nải lên, tôi vẫn ở phương xa, phương xa của tâm linh, phương xa của cảnh mộng. Tôi biết, mỗi tấc đất ở đây đều thuộc về tôi, dù tôi rất muốn trân trọng, xem nó là đất nước của tôi, thành phố của tôi, nhưng rốt cuộc chỉ là mối tình đơn phương. Sau khi trời sáng, tôi phải rời khỏi nơi đây, rời khỏi quán rượu phố Barkhor, mặt trời ngày mai liên quan đến tôi, vì tôi là khách lạ chốn chân trời. Ở đây, tôi chẳng lưu lại bất cứ dấu vết nào, tôi hy vọng sau này có ngày, ai đó đến đây gọi ra tên họ của tôi, rồi vô tình trở thành người nhung nhớ trong cuộc đời ta. Tôi bằng lòng, tôi là khách qua đường vội vã, tay áo phất phơ, tỏ lòng ung dung hờ hững của tôi.

      Khi có người, năm tháng hoang phế ba trăm năm, biết bao lần oanh bay cỏ mọc, biết bao lần sen tuyết nở hoa, song người xa. Sau khi người rời xa, quán rượu vẫn mở cửa đón khách, vẫn cười vui vẻ, khách khứa ngồi đầy. Tuy đời người trống trải, nhưng kẻ sống vẫn cứ vui vẻ, chỉ có kẻ chết trầm mặc im lìm. Bi thương là ngắn ngủi, chúng ta có thể hoài niệm, nhưng chẳng ai vĩnh viễn chìm đắm vì nó. Đây chẳng phải là vô tình, mà là phép tắc sinh tồn, mỗi ngày, đều có những người khác nhau đến đến , chúng ta cần ghi nhớ quá nhiều, chỉ cần thuận hòa bên nhau, mỉm cười ly biệt.

      Khi nào dắt nàng dạo bước hồng trần. Tôi như nghe thấy ba trăm năm trước Tsangyang Gyatso bất lực than thở với Qonggyai Dawa Dolma. Ngài nắm chặt tay nàng, thắm thiết : “Hãy tin ta, có ngày nhất định dắt nàng dạo bước hồng trần”. Lúc đó, họ vẫn quấn quýt trong gian phòng ở quán rượu. Cuối cùng Ngài vẫn cho nàng biết, Ngài là Phật sống chí tôn của cung Potala. Khi tin đồn xôn xao, nàng biết , chàng trai giống như đứa trẻ nằm bên cạnh ra chính là Đức Phật nàng từng quỳ bái. Nàng im lặng, . Chỉ nghĩ, được ngày nào hay ngày ấy, vì nàng hiểu hơn bất cứ ai, ngày kia Ngài thực rời khỏi, đến vương quốc thuộc về Ngài, thế giới của Ngài. Nàng hối hận vì cuộc gặp gỡ với Phật kiếp này. Chỉ là tâm nguyện được dắt nàng dạo bước hồng trần trong kiếp này còn có thể hoàn thành hay chăng?

      Từ tu viện Tashilhunpo trở về cung Potala, Tsangyang Gyatso càng thêm trầm mặc. Mỗi ngày ngoài việc tụng niệm kinh văn, ngồi xếp bằng tham thiền, Ngài đứng ở khung cửa sổ của tẩm điện nhìn về phương xa, ngắm núi đồi nhấp nhô, mây trắng nhởn nhơ. Trọn đời này, Ngài chẳng có bao nhiêu khát vọng, việc hoàn tục thất bại ở tu viện Tashilhunpo cũng đập nát giấc mơ cuối cùng của Ngài. Biết bao người tỉnh mộng hồng trần, hy vọng gõ mở cửa Phật, từ đó thanh đạm qua ngày, cầm hoa mỉm cười, nhặt lá hoan hỉ. Mà Ngài lại muốn chạy trốn khỏi cũi tù của cõi Phật, sống cuộc sống chăn thả cùng người thân nơi quê nhà. Ngài nén được nhớ nhung người mẹ cho Ngài bú mớm, bạn bè chơi đùa với Ngài, và cả Ngài từng ôm hôn. Quá xa xôi rồi, xa xôi đến nỗi tưởng như cách mấy đời, mọi thứ trước mắt đều chứng thực Ngài chẳng có gì cả.

      Tsangyang Gyatso rốt cuộc chỉ là quân cờ hết sức quan trọng giữa Sangye Gyatso và Lha-bzang Khan, Ngài kẹt giữa cuộc đấu tranh của họ, phiền muộn đến gần như ngạt thở. Mỗi ngày, Ngài đều chờ cơ hội, hy vọng mình có thể chạy khỏi cung Potala, đến quán rượu Makye Ame trong thành Lhasa. Tsangyang Gyatso tin rằng, ý trung nhân của Ngài vẫn chờ Ngài trở về chốn đó, nàng dễ tin lời đồn của thế tục, họ từng thề non hẹn biển, cùng dắt tay nhau dạo bước hồng trần. Nhưng Ngài rốt cuộc vẫn phải phụ nàng, làm được lãng tử đường phố, Ngài đau lòng khôn xiết.

      Đêm đó, Tsangyang Gyatso cầu Sangye Gyatso cho phép Ngài tới phố Barkhor của Lhasa lần nữa, vẻn vẹn lần nữa thôi, rồi sau này Ngài chỉ kề cận bên Phật. Sangye Gyatso đáp ứng thỉnh cầu của Ngài, y muốn Ngài triệt để cắt đứt si niệm, từ đó an lòng sống trong cung Potala, tiếp tục nghe theo sắp xếp của y. Tsangyang Gyatso biết rằng, trước đó lâu, Sangye Gyatso phái người bí mật đến quán rượu , đưa Dawa Dolma về Qonggyai. Ra lệnh cha nàng tìm kiếm đối tượng cho nàng, nhanh chóng gả , nếu đem đến vận rủi cho cả gia tộc. Cách làm của Sangye Gyatso chính là nhằm triệt để đập tan hy vọng cuối cùng ở hồng trần của Tsangyang Gyatso, phải do y tàn nhẫn, mà là cục thế ép buộc. Đao kiếm của Lha-bzang Khan lúc nào cũng có thể đâm vào trái tim họ, mọi từ bi và lơi lỏng đều là vô trách nhiệm với chính bản thân.

      Mặt trời lặn xuống núi phía Tây, sắc chiều u bao phủ bốn bề, Tsangyang Gyatso cởi áo sư, thay y phục hoa lệ lâu mặc, đội mái tóc giả lên. Ngài trong gương vẫn tuấn tú như thế, nhưng gầy guộc hơn ngày trước rất nhiều, thần sắc của Ngài có mong đợi, có vui mừng, có sợ hãi, cũng có buồn rầu. Cuối cùng Ngài cũng có thể gặp ngày mong đêm nhớ, song lần gặp gỡ này là vĩnh biệt sao? Thề ước của quá khứ, Ngài nên lấy gì để thực ? thể nghĩ nữa, lúc này Tsangyang Gyatso chỉ muốn nhanh chóng xuống núi, đến quán rượu Makye Ame, cùng người đẹp Qonggyai uống thỏa thích. Chỉ cần đêm khuynh thành, đêm là được.

      Màn đêm xưa nay vẫn nghiêng thành như thế, chỉ về đêm con người mới có thể buông thả bản thân, cần đeo đẳng gánh nặng vì hành vi cuồng vọng của mình. Ban ngày là dành cho những người có chuẩn bị, ban đêm là để linh hồn được phóng túng mặc ý. Biết bao khách cầm ca trẻ tuổi trong thành Lhasa như nước triều đổ về nơi này, uống rượu nếp nồng đượm, hát những bài hát tình ca cảm động, chỉ để ngày nào đó về già, có thể với người khác rằng, tuổi thanh xuân của tôi trôi qua hối tiếc.




      Bước chân vào quán rượu , Tsangyang Gyatso trông thấy đám thanh niên vui tràn, ngâm nga bài hát mình viết. Tất cả quang ảnh như hôm qua lại, dù họ mê đắm trong hoan lạc của mình, vẫn có người nhìn thấy lãng tử phong lưu Dangsang Wangpo bước đến. Lúc này họ biết thân phận của Dangsang Wangpo, hiểu Ngài chính là Phật sống tôn quý của cung Potala. Họ hướng ánh mắt nhiệt liệt về phía Ngài, nhưng ai quỳ bái Ngài, ở nơi này, Ngài chỉ là lãng tử, là khách qua đường cùng họ duy hý nhân sinh. Những người trẻ tuổi xem đời như vở kịch này hoàn toàn muốn để ý tới thân phận của ai, điều họ cần chỉ là niềm khoan khoái đêm nay có rượu, đêm nay say.

      nhìn thấy bóng dáng xinh đẹp của Dawa Dolma, bóng dáng khiến Ngài hồn bướm mơ tiên ấy, vì sao đêm nay xuất nữa? Bà chủ quán cũng biết thân phận chân thực của Dangsang Wangpo, nhưng bà vạch trần, chỉ nhàng cho Ngài biết tin tức. Dawa Dolma của Ngài sau này cũng trở lại nữa, nửa tháng trước, nàng bị người ta đưa khỏi quán rượu, rất đỗi gấp gáp, để lại lời nhắn nhủ nào. Mấy ngày trước, nghe người ta đồn, cha Dawa Dolma tìm được đối tượng cho nàng, lâu sau, nàng làm dâu của người khác.

      Cảnh ngộ tương tự lại xảy ra với cùng người, lần này Tsangyang Gyatso vô cùng bình tĩnh, vì Ngài biết dù trời long đất lở cũng thể thay đổi được kết cục. Mấy năm nay, Ngài học cách nhẫn, chỉ là trái tim bị tình cứa đứt, chảy máu ngừng, Ngài nỡ chạm đến. Ngài hồn bay phách lạc lang thang đường phố Lhasa, đêm nay, Ngài là lãng tử chân chính, ôm bầu tâm đau lòng đứt ruột, tỏ cùng ai. Ngài là Phật sống, thể quang minh chính đại vội tới Qonggyai, đưa Dawa Dolma trốn đến chân trời. Sau khi trời sáng, Ngài mang vết thương trở về cung Potala, từ nay về sau, ngày đêm chặm máu tự trị thương.

      Ngài vẫn nhớ lời bà chủ quán, từ khi Ngài rời khỏi quán rượu, phố có quá nhiều tin đồn về Ngài. Nhưng Dawa Dolma mỗi ngày vẫn si dại chờ đợi Ngài, nàng vững tin, tình lang của nàng quay trở lại, cùng nàng nắm tay dạo bước hồng trần. Lời thề thành tuyết bay lả tả, gặp nước liền tan. biết đời này vì sao lại có nhiều tên đao phủ như thế, vì sao cứ tàn nhẫn vung đao chặt đứt tình duyên vốn tốt đẹp như thế. Lòng chúng đau xót chút nào ư? Gió lạnh lướt qua, Tsangyang Gyatso phát giác mình đầm đìa nước mắt.

      Ong sinh ra sớm quá,

      Hoa nở rộ muộn rồi.

      Gặp nhau trễ,

      Duyên phận bạc như vôi.



      Mặt trời chiếu bốn châu,

      Vòng quanh núi, trở lại.

      Còn người ta thương,

      Biền biệt ra mãi.



      Người như bến ngóng đợi,

      Lòng như phướn bay tung.

      Tên ta và người ấy,

      Sách vận mệnh ghi chung.

      thể trách tội, chỉ than duyên bạc. Cứ xem là chuyện ngoài ý muốn trong đời người, nhau ngoài ý muốn, biệt ly ngoài ý muốn. Nhưng quyển sách sổ mệnh chắc chắn góc viết song song tên của họ, dù có ngày họ gặp nhau hay , tên của Dangsang Wangpo và Dawa Dolma vĩnh viễn ở bên nhau, ở bên nhau.

    5. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Quyển bốn: Chuyến này đừng hận chân trời xa

      Thành bại

      Những câu thơ bay tới tấp như bươm bướm, vượt qua thảo nguyên, bay qua biển xanh, dừng lại ở những nơi cần tình cảm ấm áp. Chỉ là những bài thơ tình này có nhiều bản dịch, chúng ta có thể lựa chọn bản mình thích, sao chép cầm đọc.

      kẻ hờ hững tín ngưỡng hiểu tín ngưỡng trong lòng người chiếm vị trí quan trọng đến thế nào. truyền hình và tranh ảnh mạng, chúng ta thường được thấy cảnh nhiều người Tạng hành hương đến tu viện làm lễ. Họ nhất bộ nhất bái, vái lạy trời xanh, cúi đầu xuống đất mẹ, thành kính đến nỗi khiến người xem rơi lệ. Những người này, kể nam nữ, kể già trẻ, kể sang hèn, đều dùng cùng phương thức, đến điện thờ thần thánh trong lòng. Họ cần phải thề ước, chỉ vì tín ngưỡng trong lòng, nguyện ý gió mưa vẫn lên đường, quỳ mãi dậy.

      Trong lòng những người này, Phật là thần thánh thể xâm phạm, là ký thác lâu dài về tinh thần kiếp này của họ. Trước lòng thành kính và si tình của họ, vẻ cao quý của chúng ta trở nên là hèn mọn. Mỗi khi tôi nhìn thấy những hình ảnh này, thường nén nổi xúc động mà hỏi bản thân: “Ngươi hạnh phúc ?” Được sống yên ổn là việc hạnh phúc biết bao. Đây là nhóm người hiền lành, lòng từ bi của họ khiến chúng ta dạt dào cảm động. Mọi tội ác và chiến tranh, đều là trừng phạt đối với bản thân, là tượng trưng của nhu nhược bi ai và vô tri ngang ngược. mảnh đấy tràn trề linh tính này, mọi người đều trở nên tươi cười rạng rỡ, mọi trái tim đều nên tinh khiết vương bụi trần.

      đường đến Tây Tạng, hay ở mỗi ngóc ngách của cõi trần, đều lưu truyền thơ của Đạt Lai thứ 6 Tsangyang Gyatso. Những câu thơ bay tới tấp như bươm bướm, vượt qua thảo nguyên, bay qua biển xanh, dừng lại ở những nơi cần tình cảm ấm áp. Chỉ là những bài thơ tình này có nhiều bản dịch, chúng ta có thể lựa chọn bản mình thích, sao chép cầm đọc. Thậm chí thêm bớt sửa đổi theo sở thích và cảm giác của mình, dốc hết khả năng khiến mình cảm động. Những bài thơ tình và thiền hòa quyện này, giống như làn gió mát dịu, vuốt ve lòng người. Nơi chúng đến, hoang nguyên mọc lên đầy hoa, sa mạc tuôn chảy suối mát.

      Lúc đó, hai con bò Yak[1] giận dữ cao nguyên, Lha-bzang Khan và Sangye Gyatso mở màn cuộc chiến lớn đẫm máu long trời lở đất. Còn Tsangyang Gyatso ngồi điện mé bên của cung Potala, nhắm mắt niệm kinh, viết tiếp những bản tình ca, bình tĩnh chờ đợi kết cục liên quan với Ngài. Nếu Phật muốn Ngài trả hết nợ của kiếp trước, thế tình ca chính là an ủi duy nhất của Ngài trong kiếp này. Có người , Tsangyang Gyatso sinh ra vì Phật, cũng có người , Ngài sinh ra vì tình, cũng có người Ngài sinh ra vì văn chương, xưa nay chưa ai từng Ngài sinh ra vì bản thân.

      [1] Bò Yak hay Bò Tây Tạng là loài bò lông dài được tìm thấy trong suốt khu vực Himalaya ở miền nam Trung Á, bao gồm cao nguyên Thanh Tạng và xa về phía bắc tới tận Mông Cổ. Bộ lông dài và rậm bờm xờm giúp chúng bị lạnh.

      Dù trong mắt Sangye Gyatso, Tsangyang Gyatso là Đạt Lai Lạt Ma ích kỷ, Ngài kém xa Đạt Lai thứ 5 thao lược kiệt xuất, nhưng có lúc y lại thể cảm động bởi đa tình của đứa trẻ này. Chỉ đáng tiếc họ sinh ra bị cuốn vào trong cục diện chính trị rối ren, muốn thoát thân là điều thể. Sangye Gyatso biết, y chẳng còn sức khuyên nhủ thuyết phục Tsangyang Gyatso, tất cả quá muộn. Số mệnh Ngài định sẵn chỉ thích hợp làm vị tình tăng, dùng tình cảm lay động lòng người, đối với Ngài, mọi tranh đấu đều là tàn nhẫn.

      Trước uy hiếp hùng hổ của Lha-bzang Khan, Sangye Gyatso xưa nay vốn thâm trầm nhiều mưu lại có đôi chút cảm giác lực bất tòng tâm. Chẳng lẽ y già rồi sao? , Sangye Gyatso tuổi bốn mươi, có tinh lực dồi dào và sinh mệnh thịnh vượng. mình nắm giữ chính quyền Tây Tạng hai mươi năm, trải qua biết bao gió mưa, chẳng phải đều là mình y tự gánh vác vượt qua hay sao? Nhưng y dường như chán nản với tranh đấu và sát phạt, mỗi lần y tĩnh tọa trong điện thờ cung Potala, phát ra cố gắng đời của mình cũng chỉ là làm công cho người khác hưởng. Người chúng sinh quỳ bái vẫn là vị Phật sống lo chính kia, dù Ngài phạm phải sai lầm thể tha thứ, cũng hề ảnh hưởng đến địa vị tôn quý của Ngài trong lòng người đời.

      Sangye Gyatso là người chiến thắng sao? Y có quyền lực tối cao, Phật sống là con rối của y, thế nhưng y rốt cuộc cũng chỉ là Đệ Ba, vĩnh viễn cũng thể trở thành Phật sống, thể danh chính ngôn thuận ngồi ngai Phật cao ngất, được khách hành hương thành kính quỳ bái. đến lúc cần phân thắng bại, bất kể thành công hay thất bại, y đều phải dốc hết toàn lực sống mái trận. Tranh đoạt kéo dài khiến y mệt mỏi chịu nổi, cuộc sống cả ngày lo sợ yên, trải qua quá đủ rồi.

      Khi Lha-bzang Khan còn chưa phát động tiến công đối với Sangye Gyatso, Sangye Gyatso chọn hành động trước. Năm 1705, Sangye Gyatso mua chuộc nội thị phủ Khan, hạ độc vào thức ăn nước uống của Lha-bzang Khan. Ván cờ y tự cho là mưu tính tỉ mỉ, dễ dàng bị Lha-bzang Khan xảo quyệt nhìn thấu, gian tế phái giữ lời hứa, bán đứng y. cuộc chiến tranh thể tránh khỏi mở màn trong đêm tối. Vùng đất thánh khiết bình yên mấy mươi năm lại phải nhuộm máu tanh.

      Đây là điều Tsangyang Gyatso muốn nhìn thấy, dù Ngài xem thường kết cuộc của mình, nhưng muốn nhìn thấy ngày càng nhiều chúng sinh hài cốt chất chồng, lưu lạc khốn khổ vì kiếp nạn lớn này. Thực ra trận chiến này kéo dài bao lâu, Lha-bzang Khan như con sói đói khát, lòng đầy thù hận và dục vọng tham lam, giương ngọn cờ “Thanh quân trắc[2]”, rầm rộ cử binh đánh dẹp Sangye Gyatso. Những người lương thiện bao giờ muốn chứng kiến cuộc chiến tranh tàn khốc ấy, muốn nghe thấy tiếng mài dao xoèn xoẹt trong đêm vắng, muốn nhìn thấy mảnh đất kia bị nhuộm đỏ bởi máu tươi.

      [2] Thanh trừ loạn thần tặc tử bên cạnh nhà vua.

      Bao nhiêu người khuyên ngăn đều vô ích, Lha-bzang Khan bị dục vọng quyền lực bành trướng lấp đầy suy nghĩ, thể bỏ đao kiếm xuống dàn hòa. Y quyết chí phải giành được thắng lợi, lúc này y làm sao nỡ từ bỏ quyền lực trong tầm tay, trở lại sống những ngày yên ổn vô ? Mưu tính nhiều năm, tâm huyết nhiều năm, há chẳng phải trôi theo dòng nước chảy về đông? , tận mắt nhìn thấy Sangye Gyatso đầu rơi xuống đất, kiếp này của y được yên ổn. người sinh ra vì dục vọng quyền lực, nhất định phải dùng máu tươi tế lễ chặng đường sinh mệnh trắc trở của y. Quyết đấu giữa tôn giáo và thế tục, oanh liệt mở màn, lạnh lẽo hạ màn.

      Sangye Gyatso thua, thua thê thảm, khi chiến tranh còn chưa bắt đầu, y đoán trước được kết cuộc. Khoảnh khắc đầu rơi xuống đất, y dường như chẳng mảy may lưu luyến đối với thế gian tràn đầy ánh nắng này. Thứ y có thể có được, sớm có được; thứ có được, dù cố gắng hết sức ra sao, cũng thuộc về y. Có lẽ người đời biết, cuộc chiến tranh này do Sangye Gyatso cố ý khiêu khích gây nên, y là hùng, hùng tất nhiên có cách chết của hùng, do đó y phải chết ở chiến trường. Chỉ có con bò Yak ngang ngạnh Lha-bzang Khan có thể đối kháng với y, Sangye Gyatso hy vọng dòng máu của mình tuôn chảy mảnh đất y quyến luyến suốt đời.

      Cái chết là bi tráng thê lương. Kẻ chiến thắng Lha-bzang Khan, giây phút nhìn thấy Sangye Gyatso đầu rơi xuống đất, phải chăng khoái chí đến sung sướng lâm ly? Có lẽ y hiểu hơn bất cứ ai, ngày kia, y cũng phải đối mặt với cái chết bi tráng như vậy. Dù y ngông nghênh càn rỡ cỡ nào, trước cái chết đều phải đón nhận cuộc chiến tranh đẫm máu, dùng nó để chứng thực ý nghĩa sinh tồn của y. Nhưng tuyệt đối phải lúc này, Lha-bzang Khan lúc này nên kiêu ngạo tự mãn hướng lên trời cười lớn, xưng vương xưng bá với người đời, cúi đầu xưng thần trước dục vọng quyền lực.

      Khoảnh khắc Sangye Gyatso chết, tràng hạt tay Tsangyang Gyatso bị đứt, đây là điềm báo, Tsangyang Gyatso biết trước kết cuộc. Kết cuộc của Sangye Gyatso chính là kết cuộc của Ngài, Ngài mất người bảo vệ cuối cùng. Nhiều năm nay, Sangye Gyatso đoạt mất quyền lợi Ngài nên hưởng, nhưng lại cho Ngài bến cảng tránh gió vững chãi. Tsangyang Gyatso hận y, lại sinh lòng đau buồn và thương xót. Nếu nhiều năm nay có Sangye Gyatso chủ trì cục diện chính trị Tây Tạng, Ngài làm sao có cuộc gặp gỡ đẹp đẽ đường phố Lhasa? Bất kể rời xa của Qonggyai có liên quan đến Sangye Gyatso hay , Tsangyang Gyatso đều muốn ghi nhớ thù hận. Ngài thực và sở hữu, hạnh phúc ấy bất cứ Đạt Lai Lạt Ma nào cũng chưa từng có.

      Quỳ trước Phật, Tsangyang Gyatso lần đầu tiên thành kính thừa nhận sai lầm của mình, cũng bình tĩnh chờ đợi kết cuộc bản thân có thể đoán trước. Ngài sợ chết, nhưng dáng vẻ của Ngài mang cả tiếc nuối. Chết rồi thể tụng kinh, thể làm thơ, thể gặp lại ý trung nhân, thể nhìn thấy khách hành hương quỳ bái dưới chân Ngài. Ngài đột nhiên hối hận vì thói tùy tiện trong quá khứ, Ngài là Phật sống, nên vì tình cá nhân, bỏ rơi chúng sinh quan tâm. quá muộn, Sangye Gyatso vừa chết, cả cung Potala liền trở nên tòa thành trống rỗng, còn ai có thể chỉ điểm non sông trong tòa thành này?

      Dưới ánh trăng lạnh lẽo, Tsangyang Gyatso nhìn thấy bóng của mình, cái bóng tịch mịch. Rất muốn ra , rời xa tòa thành này, cùng mình nắm tay dạo bước hồng trần. trở về được nữa, điều giờ đây Ngài có thể làm, chính là bó tay chịu trói. Số phận cho Ngài phán quyết cuối cùng, dù công bằng hay công bằng, tội của Ngài, tự mình chịu.





      Khói mây




      Dạo bước chốn hồng trần, cười ngắm cõi đời trôi nổi, chẳng qua chỉ là áng khói mây. Nhưng mấy ai có thể hờ hững quên nhau, quên danh lợi, quên tình cảm, quên mọi thứ mình từng có?

      Dạo bước chốn hồng trần, cười ngắm cõi đời trôi nổi, chẳng qua chỉ là áng khói mây. Nhưng mấy ai có thể hờ hững quên nhau, quên danh lợi, quên tình cảm, quên mọi thứ mình từng có? Khi ngày kia, bạn muốn bình yên sinh tồn đời, từ đó sống những ngày phiền nhiễu, phải chăng như vậy, có thể sổ toẹt những hết thảy những rối ren trong dĩ vãng? Người từng , có thể vứt bỏ, lỗi phạm, có thể tha thứ, lời hứa trao, có thể nhất thiết thực .

      Chết là giải thoát, sống là gánh vác. Có người cái chết của Sangye Gyatso, là vì người đàn bà, người đàn bà từng bị y cự tuyệt. Người đàn bà này vì sinh hận, lúc y rơi vào nguy hiểm, quyết liệt vung đao thay y kết liễu tất cả. Còn tôi cũng bằng lòng thêm vào đoạn chuyện đẹp đẽ cho cái chết của Sangye Gyatso, tô vẽ sắc thái tình cảm cho cuộc sống chính trị hai mươi năm của y. Có lẽ cái chết như thế cũng là đẹp đẽ. Cái chết của hùng nên là chiến trường, da ngựa bọc thây. hùng còn có cách chết khác, chính là chết dưới kiếm của hồng nhan, làm quỷ cũng phong lưu.

      mảnh đất tình ca lan tỏa khắp trời ấy, dù cốt cách cứng rắn, cũng khó tránh mềm lòng trước phong hoa tuyết nguyệt. cao nguyên, những con người đa tình kia mỗi ngày hát lại tình ca của Tsangyang Gyatso, xinh đẹp, chàng trai dũng, kể cả sư sãi trong cung Potala cũng bị tiếng hát ban đêm hấp dẫn, thường quên lật giở quyển sách kinh tay. Trước khi Sangye Gyatso xuống tay với Lha-bzang Khan, phải chăng vì nghe tình ca của Tsangyang Gyatso, mà có cảm ngộ mới đối với đời người? Phải chăng y nhớ tới thời trẻ phụ bạc mà sinh lòng tiếc nuối và áy náy, do đó muốn nhanh chóng kết thúc tất cả?

      Cái chết của vị hùng thảo nguyên Sangye Gyatso khiến tôi cảm thấy xót xa. Dù nắm quyền của y thay đổi số phận đời của Tsangyang Gyatso, nhưng y lại hiểu được đạo lý nước đầy tràn, thịnh cực tất suy. Vào lúc bản thân lừng lẫy nhất, y lựa chọn kiên quyết quay người, hoàn toàn bất chấp lãnh thổ mà y tốn tâm lực cả đời xây dựng nên. Lẽ nào y xem chuyện cái chết của y đem đến nạn hủy diệt mới cho Tsangyang Gyatso, hơn nữa chính quyền Tây Tạng rơi vào trong tay Lha-bzang Khan? cam tâm như vậy ư? Nghiệp bá ngàn xưa đều cùng chìm xuống theo mặt trời lặn, mây khói tan biến, còn có gì cam tâm?




      Còn Lha-bzang Khan ngùn ngụt ý chí chiến đấu, bị thắng lợi và vui sướng bao bọc, làm sao chấp nhận được việc đắp xong núi đất chỉ vì thiếu sọt đất vào lúc này. Y trừ mối hiểm họa lớn ỉ khó đối phó là Đệ Ba Sangye Gyatso, có thể giống như trút bỏ gánh nặng, còn con cờ Tsangyang Gyatso, đối với y còn giá trị lợi dụng, Tsangyang Gyatso lúc này trở thành hòn đá ngáng chân Lha-bzang Khan mình nắm lấy quyền lực chính trị Tây Tạng. Vị Phật sống trẻ tuổi, thân thể bạc nhược, làm sao cản nổi muôn ngàn người ngựa của Lha-bzang Khan? Muốn trừ Tsangyang Gyatso, đối với Lha-bzang Khan, chẳng tốn mảy may sức lực.

      Ngài sợ, ngồi nghiêm trang ngai Phật cao ngất, lần đầu tiên Tsangyang Gyatso cảm thấy mình giống Phật, hiền từ, ôn hòa, an lành, điềm tĩnh, thương xót. Khách hành hương đến cung Potala vẫn nườm nượp ngớt, họ vì cái chết của Sangye Gyatso mà rời bỏ Phật, vì thói phóng đãng đa tình của Phật sống mà mất lòng kính trọng với Ngài. Họ càng tin lời đơm đặt Lha-bzang Khan tung ra, tin người viết những câu thơ tình cảm sâu đậm như vậy lại là Phật sống giả mạo. Chúng sinh thương tiếc Tsangyang Gyatso nặng tình và bi thương, Ngài có gút mắc tình cảm giống như dân thường, cam nguyện lưu lạc xuống nhân gian, cùng sống chết với cõi phàm, hướng đến tự do, theo đuổi tình . Do đó, Tsangyang Gyatso chính là vị Phật sống chí cao vô thượng trong lòng họ, dù chuyện đời thay đổi ra sao, họ đều ủng hộ, kính Ngài đến chết.

      Nhưng những người hành hương lương thiện làm sao chống nổi Lha-bzang Khan hung mãnh bạo ngược? Y quyết chí phải giành được chính quyền Tây Tạng thèm muốn lâu, giờ đây bất cứ ai cũng thể ngăn cản quyết định của y. Thử hỏi, ai có thể khiến nước lũ vỡ bờ dừng bước trong chớp mắt? Dù lúc này để y dùng sinh mạng đánh đổi, y cũng tiếc. Từ xưa đến nay, biết bao người vì cây quyền trượng, chiếc ngai báu, khối ngọc tỷ[1] tan xương nát thịt, máu tung ba thước mà hề nuối tiếc. Dục vọng quyền lực là độc dược, trước khi nhiễm độc, có thể bạn còn trong sạch, sau khi nhiễm rồi, nó xâm nhập vào xương tủy bạn, cả tư tưởng cũng bị ăn mòn.

      [1] Ngọc tỷ truyền quốc là ấn triện của hoàng đế Trung Quốc, bắt đầu từ thời nhà Tần, được truyền qua nhiều triều đại, tượng trưng cho quyền lực tối cao của hoàng đế, cũng được coi là quốc bảo. Muốn củng cố tư cách hoàng đế của mình, các vua chúa dù là cướp ngôi hay được nhường ngôi, thường tìm cách chiếm cho được ngọc tỷ.

      Lha-bzang Khan trúng loại độc này, thuốc nào giải được, chỉ có thỏa mãn lòng tham của y, ngày kia khi y sở hữu tất cả, còn gì để theo đuổi nữa mới có thể bình tâm. Nhưng con hổ hung mãnh, kể từ ngày làm vua chốn rừng sâu, liền sinh lòng từ bi, mong cầu ư?

      Con người cần phải giác ngộ, Đức Phật thương xót con người, chỉ dẫn dắt bạn làm sao ra khỏi cảnh mê, chứ thể thay thế suy nghĩ của bạn. Phật tha thứ sai lầm của bạn, nhưng thể ngăn cản hành vi của bạn. Đối với Tsangyang Gyatso như nhược, đối với Lha-bzang Khan dũng mãnh, hoặc đối với chúng sinh như cây cỏ, Phật đều công bằng như nhau, mảy may thiên vị. Song mỗi người có duyên phận và tạo hóa của mình, người lỡ bước vào đường mê, nghe khuyên giải, Phật cũng bất lực. Cũng giống như Tsangyang Gyatso, Ngài mỗi ngày đều tụng niệm kinh văn, lắng nghe Phật hiệu[2], vẫn đặt tình xuống được. Lẽ nào duyên Phật của Tsangyang Gyatso sâu? Ngộ tính của Ngài cao? , đều phải, tất cả những điều này đều là cục diện định sẵn trong số mệnh, thoát ra được, chỉ có thể chấp nhận.

      [2] Phật hiệu: chỉ danh hiệu “A Di Đà Phật” mà những người tin Phật thường tụng niệm.

      Lha-bzang Khan muốn trừ khử Tsangyang Gyatso, cần thu thập chứng cứ phạm tội, những bản tình ca bay lượn đầy trời kia có thể dễ dàng gỡ chiếc mũ Phật sống của Ngài. Nhưng loại bỏ Đạt Lai Lạt Ma thứ 6 phải là chuyện tùy theo ý muốn. Suy cho cùng Ngài vẫn là người thống trị cao nhất của chính giáo Tây Tạng, hơn nữa địa vị của Ngài trong lòng dân chúng Tây Tạng thể lay chuyển, lòng kính của họ đối với Ngài đạt đến mức gần như si mê. Lha-bzang Khan biết thể lôi kéo sư sãi trong cung Potala và dân chúng Tây Tạng, y cần mượn con dao, dùng dao người khác danh chính ngôn thuận chặt cái đầu của Tsangyang Gyatso xuống.

      ra Lha-bzang Khan hề muốn Tsangyang Gyatso chết, vị Phật sống đa tình vô tội này từ đầu đến cuối đều chỉ là con rối của Sangye Gyatso. tồn tại hữu danh vô thực của Ngài xưa nay phải là uy hiếp đối với Lha-bzang Khan. Thứ Lha-bzang Khan tham luyến chính là ngai báu của Ngài, dù y cũng thể danh chính ngôn thuận ngồi lên, nhưng có thể tìm vị Phật sống giống Tsangyang Gyatso, làm con rối của y, tỉ mỉ đạo diễn màn kịch như Sangye Gyatso năm xưa. Vì quyền lực của y, hy sinh Tsangyang Gyatso cũng chẳng có gì đáng tiếc.

      Tất cả những điều này, Tsangyang Gyatso thể biết, dù Ngài tham gia chính , hiền lành đến nỗi hiểu thói đời hiểm ác, nhưng trong lòng Ngài tỏ tường, Ngài biết những điều đó, chỉ ra mà thôi. Ngài hiểu năm xưa Sangye Gyatso luôn coi Ngài là quân cờ để khống chế cục diện chính trị Tây Tạng, cũng hiểu Lha-bzang Khan trăm phương ngàn kế muốn lôi Ngài từ ngai báu xuống. Nhưng Ngài mực bình tĩnh, Ngài đột nhiên rất muốn trân trọng chiếc ngai báu rung rinh trước gió mưa này. Quỳ trước Phật, ngước đầu nhìn Phật, Phật hiền hòa từ bi trước sau như . Thưa Đức Phật, nếu còn có kiếp sau, con nguyện suốt đời vì Người. Ngài khóc, khóc thành tiếng.

      Lha-bzang Khan nhẫn nhịn nhiều năm nôn nóng thể chờ đợi được nữa, y phái thân tín cấp tốc vào quan ải, y phải báo cáo với vua Khang Hy ở thành Bắc Kinh, Đệ Ba Sangye Gyatso có ý đồ cấu kết người Dzungar mưu phản, bị y xử tử. Đồng thời trong thư liệt kê các thói hư tật xấu của Tsangyang Gyatso, hành vi buông thả chịu ràng buộc, bản tính mê rượu háo sắc, người giữ thanh quy giới luật thể là linh đồng chuyển thế của Đại Lai thứ 5. Y khẩn xin vua Khang Hy phế truất Đạt Lai giả Tsangyang Gyatso do Sangye Gyatso lập nên, triệt để vạch trần trò lừa dối nhiều năm này. Đồng thời cầu lần nữa tìm kiếm Đạt Lai Lạt Ma chân chính, trả lại cho Tây Tạng thời buổi thái bình trong sáng.

      Thế giới này giả giả, ai có thể phân biệt ràng? Đều giả được, là giả xong, nhưng đến cuối cùng ai định chắc tiêu chuẩn cho giả. Bao nhiêu kẻ dối đời trộm tên, vẫn vinh quang sống trọn đời, lại có bao nhiêu người khư khư giữ lấy hư danh, sống tạm bợ vất vả. Có câu kẻ thắng làm vua, thua làm giặc, dù dòng máu chảy người bạn cao quý dường nào, khi sa sút, chỉ có thể làm bụi trần dưới chân kẻ khác mà thôi. giả của thân phận Tsangyang Gyatso cách nào phân biệt, Lha-bzang Khan nằng nặc khẳng định Ngài là Đạt Lai giả, Tsangyang Gyatso mất chỗ dựa, lập viện trợ, còn có thể gắng gượng chèo chống bao lâu trong cung Potala?

      Hóa ra con dao Lha-bzang Khan muốn mượn chính là vua Đại Thanh. Duy chỉ có nhà vua có thể dùng tờ giấy mỏng, con dấu đỏ để đuổi Tsangyang Gyatso từ ngai Phật cao ngất, gỡ xuống chiếc mũ vàng cùa Ngài, cởi xuống áo sư của Ngài, khiến Ngài trong nháy mắt từ Phật sống tôn quý trở thành bá tánh bình thường. Đời người chính là vở kịch, hôm nay diễn vai vua chúa, ngày mai có thể là áo vải. Phật sống có số mệnh của Phật sống, nhà vua có bất lực của nhà vua, Lha-bzang Khan cũng có bi ai của Lha-bzang Khan. Việc họ làm chẳng qua là cố gắng diễn nốt vở kịch này, còn phụ lòng ai, làm tổn thương ai, bản thân cũng cách nào nắm bắt.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :