Chương 10 Tọa sàng Muốn gọi con chim, nhờ nó đưa tin đến phương xa, tiếng hót nghẹn ngào của nó dường như cho Ngài biết, nó sống chẳng hề tự do, dù nó có đôi cánh bay lượn, vậy mà thân vẫn bất do kỷ. Lại nằm mơ, trong mơ tôi đến cung Potala, trong ảo ảnh giấc mơ, tôi nhìn thấy hải thị thần lâu[1]. Rất nhiều người thành kính quỳ lạy dưới chân Phật Đà. Kinh phướn phấp phới, lay động tín ngưỡng kiếp này, kinh luân chuyển động, thức tỉnh ký ức kiếp trước. Cả tòa cung điện dưới nắng nóng hầm hập của cao nguyên, là tráng lệ huy hoàng, là độc đáo vô song. Tòa cung điện này ngưng tụ lịch sử loang lổ tang thương, cất giữ những câu chuyện tự cổ chí kim, rơi đầy bụi trần mù mịt của năm tháng. Thế nhưng nó trong sạch, thanh bạch đứng sừng sững Hồng Sơn mênh mang. Lại rất mực khoan dung, tấm lòng bao la có thể thu nạp vạn vật đời. [1] Hải thị thần lâu: tượng quang học trong tự nhiên, tia sáng khúc xạ sinh ra ảo ảnh ở cự ly xa hoặc bầu trời. Khi tỉnh lại, mới phát người ở trong cung Potala là Tsangyang Gyatso. thiếu niên xuất thân từ địa phương Monyu, nào thấy cung điện to đẹp đàng hoàng như vậy. Trong cuộc sống của Ngài, xưa nay chỉ có đất lề quê thói chất phác, chỉ có bãi cỏ, khe suối, nhà tranh, bò cừu. Mở mắt ra, Ngài nhìn thấy bạn bè thuở cùng khôn lớn, nhìn thấy nguyện lời hẹn ước làng bên, nhìn thấy mẹ hiền tha thiết thương Ngài. Cảnh tượng trước mắt giống như giấc mộng kê vàng[2], lầu gác cung điện, nhà vàng thềm ngọc, mang khí thế khoan thai và quý phái thể diễn tả thành lời. Cung Potala chính là kho báu văn hóa dân tộc Tạng cực lớn, cất giấu quá nhiều văn vật lịch sử và báu vật. Còn Tsangyang Gyatso cứ thế rơi vào giấc mơ hoa lệ của kiếp trước, ngừng nghỉ mơ tiếp, chẳng biết tới ngày nào mới có thể hoàn toàn tỉnh lại. [2] Giấc mộng kê vàng: Theo Chẩm trung ký của Trầm Ký Tế đời Đường, có chàng Lư Sinh, gặp vị đạo sĩ Lữ Ông trong quán trọ Hàm Đan, Lư Sinh than nghèo khó. Đạo sĩ cho chàng mượn chiếc gối, bảo chàng gối lên mà ngủ. Bấy giờ chủ quán nấu nồi cơm kê vàng. Trong mơ Lư Sinh hưởng trọn đời vinh hoa phú quý. Khi tỉnh dậy, cơm kê vàng vẫn chưa chín. Sau dùng để ví với vỡ mộng, chuyện tốt muốn thực rốt cuộc sôi hỏng bỏng . Tháng 10 năm 1697, điển lễ tọa sàng long trọng tổ chức ở Lhasa, Tsangyang Gyatso mười lăm tuổi chính thức vào làm chủ nhân của cung Potala, trở thành Đạt Lai Lạt Ma thứ 6. Ngài được nâng lên tầm cao của Thần Phật, được muôn người quỳ bái dù khi đó Ngài vẫn mơ hồ, vẫn bất lực, và cả chút kinh ngạc vui mừng. Ngài dập đầu cảm thán: “Làm trái lệnh của Thượng Sư[3], cảm thấy hổ thẹn”. Lúc đó, Ngài cảm giác bản thân là Phật, chúng sinh dưới chân là con dân của Ngài, sứ mệnh của Ngài chính là độ hóa họ, dốc hết tất cả, vì họ tiêu trừ khổ nạn. Thế nhưng Ngài có pháp lực vô biên của Phật chăng? Chẳng lẽ chỉ cần vừa ngồi lên ngai Phật cao ngất, Ngài liền thành Phật, có thể khiến tất thảy khiếm khuyết của thế gian biến thành trọn vẹn? [3] Thượng Sư: dịch từ tiếng Phạn “guru” nghĩa là Đạo sư, Đại sư, Đạo sĩ, đối ứng với “Lạt Ma” trong tiếng Tạng. , phải như vậy. Mãi đến sau này, Tsangyang Gyatso mới biết con đường dẫn đến cõi Phật này, Ngài độc, có người đồng hành và người xướng họa, con đường này đầy dẫy chông gai, khiến Ngài vết thương chồng chất. Đó là vì trái tim của Ngài trước sau vẫn mang tình chân nhất của nhân gian, vượt qua được rào cản của tình hồng trần, cho nên dù Ngài có linh tính của Phật, cuối cùng chỉ là rước thêm tiếc nuối. Thế gian này xưa nay có việc hoàn mỹ, giống như trăng tròn trăng khuyết, hoa nở hoa tàn, tụ hợp ly tan. Khi bạn dốc lòng lao vào, muốn bất chấp tất cả vì người, vì việc, tất nhiên phải tiếp nhận trừng phạt của vận mệnh. Vị Đạt Lai Lạt Ma trẻ tuổi tuấn Tsangyang Gyatso ngồi ngai Phật ngất ngưởng, ngay cả Đệ Ba Sangye Gyatso và Ban Thiền đương thời đều đối với Ngài rất mực cung kính. Ngài thầm nhủ với bản thân, từ đây Ngài chính là vua của cung Potala, nắm giữ từng cành cây ngọn cỏ, từng viên gạch viên ngói của nơi này. Ngài quá ngây thơ, Ngài biết rằng, bản thân chẳng qua là vị vua hữu danh vô thực, đừng thể thống trị chúng sinh, ngay cả vận mệnh của mình cũng thể làm chủ. Theo quy định điều lệ chuyển thế của Phật sống, linh đồng chuyển thế phải tròn mười tám tuổi mới có thể đích thân chủ trì chính . Lúc đó Tsangyang Gyatso mười lăm tuổi, cho nên Ngài nhất thiết phải đợi đến ba năm sau mới có thể tự mình chấp chính. Trước lúc đó, tất cả chính đều do Đệ Ba và Ban Thiền cùng xử lý. Tsangyang Gyatso giữ địa vị thủ lĩnh chính giáo Tây Tạng, sống ở cung điện cao nhất của cung Potala, được nhiều sư sãi bao quanh. Thế nhưng Ngài độc, thậm chí sống rất vất vả mệt mỏi. Vì thân phận của Ngài đặc biệt, linh đồng chuyển thế trước đây từ bốn, năm tuổi trở tọa sàng tiếp nhận giáo dục chính thức. Còn mười lăm năm này của Tsangyang Gyatso đều sống nơi làng quê bé xa xôi, bầu bạn cùng dòng suối hoa núi, cỏ dại bò cừu, những bản tình ca xao xuyến lòng người, và nụ cười khoe hàm răng trắng bóng của làng bên. Dù Ngài cũng từng học kinh văn ở tu viện Basang, nhưng thầy dạy kinh lúc đó quản thúc Ngài nghiêm, hơn nữa đó là học tập định kỳ, thuộc chế độ cả ngày. Lúc đó Tsangyang Gyatso còn chưa biết thân phận của mình, chỉ nghĩ là cha mẹ sắp đặt, muốn Ngài học kinh, tham thiền, đọc hiểu từ bi. Giờ đây, Tsangyang Gyatso hằng ngày phải đối mặt với đốc thúc nghiêm khắc của thầy dạy kinh, tất cả thời gian của Ngài đều là ngồi yên đọc kinh, rất nhiều kinh văn liên miên dứt bày trước mặt Ngài, khiến Ngài cảm thấy mệt mỏi chưa từng có. Lúc đó Sangye Gyatso bắt đầu hơi sốt ruột, y biết thiếu niên này bị gió hoang cao nguyên thấm nhuộm, muốn triệt để gột bỏ tính buông thả người Ngài, phải là chuyện có thể làm được trong sớm chiều. Ba năm, y phải dùng thời gian ba năm, thuần phục đứa trẻ bỏ bê mười lăm năm này, khiến đứa trẻ đó trở thành vị Đạt Lai thứ 6 hoàn hảo, lãnh tụ chính trị vĩ đại. Chỉ là sau ba năm, Sangye Gyatso nỡ đem chính quyền cả đời khổ tâm vun vén, hai tay dâng cho Tsangyang Gyatso hay sao? ai có thể đưa ra câu trả lời khẳng định, bao gồm bản thân Sangye Gyatso. ra chúng ta đều là nô lệ của danh lợi, biết đời người chẳng qua nổi trăm năm, vẫn phải chém giết tranh đoạt, liều mạng đến nỗi máu chảy đầu rơi. Hôm nay bạn giẫm lên hài cốt người khác ngồi hưởng thiên hạ, ngày mai ai vì bạn thu thập ván cờ tàn của giang sơn? Các bậc vua chúa lúc có thiên hạ, liền tìm kiếm thuốc tiên khắp nơi, tu luyện đan dược, hy vọng có thể trường sinh bất tử, e sợ giang sơn cực khổ dành được theo kết thúc của sinh mệnh chớp mắt hóa thành số . Họ biết đời này hề có phương thuốc bất tử, nhưng vẫn nghĩ đủ mọi cách tìm kiếm. Có lẽ đó là vì cam tâm, cam chịu tâm huyết đời của mình phó mặc cho dòng nước cuốn trôi. Thế nhưng sức người có thể làm gì được số trời? Vua chúa được tôn xưng là con trời (thiên tử), nhưng con trời và người thường cũng chẳng có phân biệt. Còn Đạt Lai Lạt Ma được tôn xưng là Phật sống, họ cũng là xương phàm thai tục, dù có linh hồn chết, lại chẳng có thể xác già. Có lẽ Tsangyang Gyatso trước giờ chưa từng nghĩ phải ngồi ôm thiên hạ, hô mây gọi gió. Từ khi vào ở trong cung Potala, Ngài mới biết, cuộc sống ở đây còn lâu mới tốt đẹp như tưởng tượng trong lòng, nhìn thấy trong mắt. Ngài như chú chim sẻ lông vàng, bị nhốt vào chiếc lồng đẹp đẽ sang trọng, mỗi ngày đợi người chủ cho ăn, thỉnh thoảng cùng y dạo trước lầu sân vắng, ngắm phong cảnh mênh mông vô biên phương xa, muốn bay lượn, lại phát giác sớm bị vận mệnh chặt đứt lìa đôi cánh. Ngài khát vọng tự do, ngày ngày độc ngóng nhìn ngoài cửa sổ, hy vọng có người qua, sinh lòng thương xót giúp Ngài trốn thoát. Lúc đó, Ngài hầu như quên mất, bản thân là Phật, quên rằng sứ mệnh Ngài vào ở trong cung Potala là để cứu rỗi chúng sinh, để họ phải chìm đắm trong bùn lầy trần thế. Đúng vậy, chìm đắm, giờ đây người chìm đắm là Ngài. Hàng ngày đọc kinh văn khô khan, tham ngộ Phật pháp phức tạp. Thầy dạy kinh của Tsangyang Gyatso đối với Ngài đặc biệt nghiêm khắc, vì chỉ cần chút lơi lỏng là bị Đệ Ba trừng phạt khắc nghiệt. Sangye Gyatso bận rộn xong chuyện chính , có lúc còn đích thân giảng bài cho Tsangyang Gyatso, điều này khiến Ngài càng thêm lo sợ yên. Chúng ta dường như có thể tưởng tượng được tình cảnh ba trăm năm trước, thiếu niên mười lăm tuổi bị nhốt trong cung điện phồn hoa của cung Potala: tay ôm sách kinh, ngồi nằm yên, Ngài luôn nghĩ cách làm sao để có thể thoát ly khỏi trói buộc, trở lại cảnh tiêu dao ngày xưa của mình. thực tế, Phật sống các đời đều từ lúc thơ ấu được chỉ định là linh đồng chuyển thế, kiếp này của họ cũng chỉ là đứa trẻ bình thường, lại phải gánh vác trách nhiệm của kiếp trước mà họ hề hay biết. Bất kể họ có bằng lòng hay , nhất định phải có khác biệt với những đứa trẻ khác. thể trưởng thành thuận theo tự nhiên, thể sống tự do tự tại; khi họ còn rất , bị nhốt vào chiếc lồng tu hành, tiếp nhận phán xét của số mệnh. Suốt đời này, ngay cả quyền lợi lựa chọn họ cũng có, định sẵn phải dùng hạnh phúc bình thường đổi lấy kính ngưỡng của muôn dân. độc ngồi ngai Phật, sách kinh là tri , tràng hạt là giai nhân, Phạn [4] là tình ca, đèn bơ là ánh sáng duy nhất. [4] Phận : chỉ tiếng đọc kinh. So ra, Tsangyang Gyatso bay nhảy ngang dọc mười lăm năm chốn phàm trần, chẳng phải may mắn hơn các linh đồng chuyển thế khác ư? Ít nhất Ngài từng có thời gian tự tại an nhàn, từng tắm trong gió núi trăng thanh dịu dàng, từng cùng xinh đẹp đa tình chuyện đương. Chỉ chẳng qua hết thảy những điều tốt đẹp này như hạc vàng xa, trở lại nữa. Đào hồng rụng rồi vẫn có khi lại nở, trăng sáng lặn xuống phía tây rồi có lúc mọc lên, người ly biệt vẫn còn có ngày gặp lại, nhưng Tsangyang Gyatso, mãi mãi vĩnh biệt cõi hồng trần rối rắm. kịp rồi, tất cả quá muộn. túc rất đẹp, nhưng khi bạn ăn vào, mới biết đó là loại thuốc chứa kịch độc. Sau khi hiểu trúng độc quá nặng. Bạn muốn trở thành vua của cung Potala, tất nhiên phải trải qua dày vò người thường thể chịu đựng. Tsangyang Gyatso quản nóng lạnh, vất vả học tập Phật pháp ở đây, dù trong lòng Ngài ít nhiều tình nguyện, thậm chí nóng nảy yên, nhưng Ngài rốt cuộc vẫn là linh đồng chuyển thế, trong cốt cách có tính Phật và linh tuệ. Trong thời gian ngắn ngủi, việc học tập của Tsangyang Gyatso tiến bộ vượt bậc, điều đó khiến Sangye Gyatso cảm thấy an ủi, đôi khi lơ đãng, mỉm cười với Ngài. Nụ cười đó đối với Tsangyang Gyatso nhợt nhạt yếu ớt. Mỗi khi màn đêm buông xuống cung Potala, mọi người tản hết, mỗi đồ vật ở đây đều tẩy hết lớp phấn son trang điểm ban ngày, tỏ ra yên tĩnh vô cùng. Lúc này lòng Tsangyang Gyatso bị nỗi độc gặm nhấm, Ngài nhớ làng miền núi cho Ngài tất cả những điều tốt đẹp. Nhớ màu bầu trời đêm ở đó, nhớ hương thơm của hoa dại, nhớ hình ảnh người dân Monpa uống rượu ca hát bên đống lửa, nhớ người mẹ khâu vá da chồn dưới đèn, càng nhớ tình cảm dịu dàng khi Ngài cùng ý trung nhân hò hẹn dưới trăng. Trong kiếp này ngắn ngủi, Được sủng hạnh vô cùng. Kiếp sau thời thơ ấu, Phải chăng lại tương phùng? Sau khi tỉnh mộng, Ngài lệ rơi đầm đìa, cả cung Potala rộng lớn này, chỉ có ánh trăng hắt xuống giường Phật của Ngài. Muốn gọi con chim, nhờ nó đưa tin đến phương xa, tiếng hót nghẹn ngào của nó dường như cho Ngài biết, nó sống chẳng hề tự do, dù nó có đôi cánh bay lượn, vậy mà thân vẫn bất do kỷ. Vạn vật đời đều sống, đều hô hấp, và cũng đều thân bất do kỷ.
Chương 11 Chim lồng Có người , người quá đỗi hoài cựu, hẳn là vì quá khứ xiết bao rực rỡ, mà là vì ta thể yên lòng với trạng. Đời người rối ren, nào ai dám khoe mình có đủ sức mạnh chặn đứng được muôn ngàn gió bụi. Chỉ vào lúc thực mất , con người mới tưởng nhớ da diết tốt đẹp từng có, những thước phim trước đây như hình với bóng, luôn lên trong tâm trí. Lúc này, chúng ta đều kìm được phải hỏi bản thân, bỏ xuống được rốt cuộc là vì ưa hoài niệm, hay là vì quá khứ đáng thương tiếc? Có người , người quá đỗi hoài cựu, hẳn là vì quá khứ xiết bao rực rỡ, mà là vì ta thể yên lòng với trạng. Đời người rối ren, nào ai dám khoe mình có đủ sức mạnh chặn đứng được muôn ngàn gió bụi. Khi bạn thể tiếp nhận phong cảnh xa lạ, thể thích ứng cuộc sống mới mẻ, tất nhiên hoài niệm vật từng quen thuộc mà ấm áp. người trông có vẻ mạnh mẽ, thực ra nội tâm ta lại là tường thành xây bằng băng mỏng, gặp lửa tan, vừa xô liền đổ. người trông có vẻ mềm yếu, nội tâm ta lại được xây bằng gạch ngói tỉ mỉ, đơn giản chất phác, kiên cố vững chắc. Thế nhưng tất cả những điều này, đều bắt nguồn từ tao ngộ của đời người, nếu dặm đường năm tháng bằng phẳng suôn sẻ, vết thương lòng ít, chẳng đến nỗi yếu đuối chịu nổi. Nếu vận mệnh gập ghềnh trắc trở, trong lòng tất nhiên ngàn trăm lỗ thủng, đến lúc đó, dù bạn vá víu thế nào, cũng thể chắp vá nên bộ dạng ban đầu. Thế gian này có những việc có thể hối hận, có những việc ngay cả tư cách hối hận cũng có. Ví như Tsangyang Gyatso, khi hàng ngày Ngài đọc thuộc kinh văn vô vị, tay cầm tràng hạt cứng ngắc, ngửi cùng loại đàn hương, sâu trong nội tâm, chắc chắn Ngài hối hận vì ban đầu làm khác . Nhưng Ngài có tư cách hối hận chăng? Năm xưa Ngài được sứ giả rước vào cung Potala, căn bản có đường nào chọn lựa, vì Ngài được số mệnh định sẵn là linh đồng chuyển thế của Đạt Lai thứ 5, kiếp này chỉ có thể sống vì kiếp trước. Bất kể Ngài bằng lòng hay , Ngài đều phải tiếp nhận điển lễ tọa sàng, tiếp nhận vinh dự chí cao vô thượng này. Nếu Ngài cũng từng có vui sướng, đó là bởi vì chàng thiếu niên mười lăm tuổi còn có trái tim non nớt. Vận mệnh đột ngột thay đổi khiến Ngài có thời gian suy nghĩ đây rốt cuộc là niềm vinh dự hay là nỗi tiếc nuối. Đây là quà tặng ông trời ban thưởng cho Ngài, phần quà tặng thể chối từ, lại nặng nề như núi. Chưa ai từng hỏi Ngài có gánh vác nổi hay , đến với thế gian này, Ngài định sẵn trở thành truyền kỳ. Khi Ngài ngồi ngai Phật của cung Potala, đứng ngồi yên đọc kinh, tham thiền, cõi lòng lại theo gió mát nhởn nhơ lượn ngoài cửa sổ bay đến phương xa. Làng hẻo lánh từng gọi là quê hương ấy cho Ngài niềm vui quên hết tất cả, lại cho nổi Ngài chốn về yên ổn bình dị. Chốn về của Ngài là ở đâu? Chốn về của thể xác Ngài nhất định là cung Potala, nhưng chốn về của tâm linh, lại là làng quê miền núi tên là Monyu ấy. Mỗi người trong lòng đều có tín ngưỡng thuộc về mình, tín ngưỡng này nhất thiết là tôn giáo. Bạn có thể tín ngưỡng gốc cây, tín ngưỡng ngọn cỏ, tín ngưỡng con cừu, còn có thể tín ngưỡng tình . Nếu để Tsangyang Gyatso lựa chọn, tôi nghĩ Ngài chọn suốt đời trông nom gian nhà đơn sơ, kề cận người của mình và cảnh vật thiên nhiên Ngài luôn thích. Mặc dù sâu trong nội tâm Ngài cũng tôn sùng Phật giáo, thích đọc kinh văn, nhưng những điều này lại thể trở thành toàn bộ cuộc sống, chỉ có thể xem là kiểu tô điểm. Sinh mệnh của Ngài định sẵn là hoàn hảo, vì Ngài bị gông xiềng dịu dàng của tình trói buộc, muốn vùng dậy thoát ra, kiếp này e rằng thể. Trước đó, chẳng ai với Ngài, người dân Monpa chất phác lãng mạn thể có tình . Khi Ngài bắt đầu biết , cùng làng bên ái mộ lẫn nhau, vì sao ai cho Ngài biết, kiếp này của Ngài định sẵn có hôn nhân trọn vẹn. Vị Phật sống trong cung Potala - Tsangyang Gyatso bi ai than thở: “Nếu đời này vĩnh viễn bị giam cầm trong tòa cung điện đẹp đẽ này, thế xin giao trả cho ta kiếp trước, có lẽ ta còn có thể chọn lựa lại lần nữa, chịu chuyển thế luân hồi lần nữa”. Lẽ nào Ngài biết, chuyển thế luân hồi sớm viết sẵn đá tam sinh[1], qua Vong Xuyên của năm tháng, chẳng ai có thể chọn lựa vận mệnh tương lai ình. [1] Theo tín ngưỡng Á Đông, Điện Diêm Vương thứ 10 ở địa ngục cai quản việc chuyển tiếp đầu thai. Tại điện này có cầu Nại Hà bắc qua sông Vong Xuyên (Sông Quên). Ven sông có tảng đá, gọi là đá Tam Sinh, ghi lại kiếp trước kiếp này kiếp sau của con người. Những linh hồn được đầu thai trở lại làm người đều phải qua Vong Đài (Đài Quên), uống canh của Mạnh Bà để quên hết chuyện kiếp trước. Sương trắng cỏ lác, Sứ giả của gió đông. Chính là hai kẻ ấy, Chia cắt hoa và ong. Thiên nga hồ nước, Muốn ở thêm hồi. Nhưng mặt hồ băng đọng, Làm buốt giá tim tôi. Mùa xuân này, mùa xuân của Lhasa, trong gió xuân dịu dàng, Tsangyang Gyatso ngửi thấy hương thơm thanh khiết thoang thoảng của cỏ xanh, nhìn thấy mây trắng nhàn nhã lướt qua trước cửa sổ. Những cảnh vật tự nhiên này lại gợi lên trong lòng Ngài khát vọng vô hạn đối với quê hương. Đều Phật là vạn năng, có thể nhìn ràng thấu suốt tất cả mọi thứ thế gian, nhưng Tsangyang Gyatso giờ đây, được xưng là Phật sống, vì sao thể xử lý ngay cả cuộc đời của chính mình? Nỗi nhớ như cỏ dại ngập tràn nơi đáy lòng, khiến Ngài lúng túng. ai hiểu được tâm của Ngài, Ngài mong chờ hoàng hôn, mong chờ đêm đến, lúc đó, cho dù quạnh quẽ, thời gian ngắn ngủi đó lại thuộc về bản thân. Ban ngày, Tsangyang Gyatso cực nhọc học tập kinh văn, dám phút lơ là. Chỉ vào lúc đêm khuya, cả tòa cung điện yên tĩnh hẳn, Ngài mới dám lấy bút mực ra, khẽ viết thơ tình. Con người chính là như thế, khi bạn có, có lẽ cảm thấy tất cả chẳng quan trọng lắm. Sau khi mất , lại ngày mong đêm nhớ, mong mỏi ngày đoạt về được báu vật thất lạc. là mâu thuẫn, nhưng biết bắt đầu từ lúc nào, chúng ta thích mâu thuẫn như vậy, bằng lòng vương vấn thôi với những tâm tư mơ hồ. Xin Lạt Ma đắc đạo, Chỉ đường sáng cho tôi. Do chẳng hồi tâm được, Lại đến bên nàng rồi. Khuôn mặt sư nghĩ mãi, Chẳng ra trong lòng. Dung nhan nàng , Dù có nghĩ hay . Chữ màu đen viết xong, Nhòe bởi mưa và nước. Tâm tư muốn viết ra, Muốn xóa xóa được. Dù là như thế, Tsangyang Gyatso cũng phải hề động lòng đối với quyền lực. Trong tòa cung điện vĩ đại này, Ngài là Phật sống, vốn phải có địa vị chí tôn và phong lưu vương giả, thống trị muôn dân trăm họ. Nhưng giờ đây, trong gian rộng lớn này, Ngài có cả tư cách chuyện. Ngài khát khao thời gian ba năm sớm qua , bản thân có thể chủ trì chính , trong điện lớn uy nghiêm này, cất lên tiếng của mình. phải Tsangyang Gyatso tham luyến quyền quý, trong cục thế thể thay đổi, Ngài chỉ biết cúi đầu khuất phục. thể trở lại được như trước, Ngài cũng thể đắm chìm trong tại, Ngài là Phật sống, cần tuân theo phương thức của Phật sống để tiếp tục sinh tồn. Do đó, ba năm nay, Tsangyang Gyatso dù quên được ngày tháng tươi đẹp của quá khứ, quên được người tình mơ xanh ngựa gỗ, nhưng Ngài cũng sống rất tỉnh táo. Ngài hiểu được sâu sắc, chỉ có học tập thành tựu, Đệ Ba Sangye Gyatso mới giao phó chính quyền cho Ngài. Cuộc sống như chim trong lồng ba năm khiến Ngài cảm thấy linh tính còn lại người mình dần dà mất , tình cảm mãnh liệt đối với cuộc sống ngày trước cũng lặng lẽ nhạt dần. Tsangyang Gyatso giống như cây cỏ khô, cần ánh nắng và mưa móc tưới nhuần mới có thể sống lại. Đúng vậy, Ngài khát khao sống lại, khát khao ngồi ngai Phật cao ngất, bàn việc với các sư trong điện lớn, lắng nghe tiếng của muôn dân, dùng sức mạnh của mình, giải nạn trừ lo cho họ. Mùa hoa nở qua, Ong chớ nên rầu rĩ. Duyên nhau tận, Ta cũng chẳng sầu bi. Nếu duyên phận quả hết, cũng cần quá đỗi bi thương. Cứ đem ký ức chôn chặt đáy lòng, lúc người, mình trầm tư, tưởng tượng từng vui vẻ bên nhau, chỉ là ngắn ngủi đến nỗi giống như lần hoa nở. Hoa lỡ mất mùa nở rộ, vẫn còn có năm sau, duyên phận Ngài bở lỡ, có thể tìm lại được ? thể nghĩ ngợi nữa, người quá đỗi chìm đắm trong ngày hôm qua là tự chuốc lấy đau khổ. Nếu đời này Tsangyang Gyatso đều thể rời cung Potala, thế lối thoát duy nhất của Ngài, chính là giải thoát bản thân. Hồng trần và cõi Phật, cách nhau dãy núi, dòng sông, Ngài hoặc là tung người nhảy qua, hoặc là ngồi thuyền vượt sông. Tuy nhiên, Tsangyang Gyatso cuối cùng cũng chịu đựng qua ba năm, gian khổ ba năm, trói buộc ba năm, Ngài phải chăng nên phá kén mà ra? Làm chú bướm đẹp đẽ tự tại, kiêu ngạo nhàng bay lượn giữa trăm khóm hoa. Dẫu là đám mây trôi, gốc rễ, ít nhất cũng có thể trời cao biển rộng. Mười tám tuổi, cũng chờ đến mười tám tuổi, đây là tuổi Đạt Lai Lạt Ma tự mình chấp chính. Tsangyang Gyatso mười tám tuổi từ thiếu niên tuấn trở thành thanh niên trí tuệ sáng suốt, đọc kinh niệm Phật ba năm khiến Ngài thoát khỏi bản tính hoang dại của thảo nguyên, có học thức thâm thúy. Nhưng vì sao Sangye Gyatso cứ lần lữa chịu giao quyền trượng đến tay Ngài? Ngồi ngai Phật của cung Potala, dù ngày nào cũng có người rạp mình dưới chân Ngài, nhưng Ngài trước sau như , có mảy may quyền lực chấp chính. Ngài vẫn là con cờ do Sangye Gyatso sắp xếp, so với lúc trước, càng thêm nhu nhược, càng thêm bó tay hết cách. Chẳng lẽ chính rối rắm khiến Sangye Gyatso bận đến nỗi quên mất hay sao? Y làm sao có thể quên cơ chứ? Nhẫn nại ba năm, quên liền nét bút sổ toẹt hết thảy như thế hay sao? , Sangye Gyatso hề quên, nếu y quên, Tsangyang Gyatso vẫn phải nhốt mình trong phòng đọc kinh niệm Phật, chứ thể ngồi điện lớn, lắng nghe các sư lễ bái. Tất cả những điều này chẳng qua là cảnh giả, vì Sangye Gyatso ở sau lưng giả vờ cùng Tsangyang Gyatso bàn bạc chính ; thực tế, quyền quyết định vẫn nắm chắc trong tay Sangye Gyatso. Hơn nữa y thường vẫn nhắc đến vấn đề trả lại quyền cho Ngài, chỉ là mỗi lần Tsangyang Gyatso ngẩng đầu mong đợi, cuối cùng đều kết thúc bằng thất vọng. Tsangyang Gyatso trẻ tuổi biết nên đòi lời giải thích với ai. Nhìn Phật cầm hoa mỉm cười[2], Ngài cũng cười, chỉ là Ngài cười cách nhẫn, cười cách bất lực, cười cách hoàn toàn có vẻ ung dung và ôn hòa của nhà Phật. Ngài là vua của cung Potala, chỉ là sân khấu ai hỏi han, mình đạo diễn màn kịch buồn vui vô thường. [2] Cầm hoa mỉm cười (Niêm hoa vi tiếu): là giai thoại thiền, ghi lại kiện Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đưa cánh hoa lên khai thị, tôn giả Ca Diếp mỉm cười. Đây là biểu thị cho pháp môn lấy tâm truyền tâm, pháp môn siêu ngôn ngữ, siêu văn tự. Trong pháp môn này chỉ có giao cảm, rung động giữa hai tâm thức thầy và trò, và hai tâm thức này đồng nhất. Đó là cái tâm vi diệu Niết bàn.
Chương 12 Hỏi Phật Lời thề trong dĩ vãng đều thành mây khói. Câu chuyện của ngày hôm qua cũng kết thúc. Tsangyang Gyatso nên hiểu , tươi héo vô ý, hợp tan tùy duyên. Chỉ là khi Ngài đứng bờ sông thời gian, ngắm bóng hình của kiếp phù du, vẫn cảm khái muôn vàn. đời này quả có quá nhiều chuyện sơ suất ngẫu nhiên, rất nhiều bỏ lỡ, rất nhiều lướt vai, khiến người dở khóc dở cười. Rất nhiều người thích sắp xếp sẵn hành trình ình, ghi chép hết những việc muốn làm vào trang sách của đời người. Nhưng đời muôn vàn biến hoá, quá trình có lẽ còn có thể đoán trước, kết cuộc lại luôn nằm ngoài dự liệu. Thế là chúng ta ngừng thêm bớt sửa đổi tình tiết, ngừng nhân nhượng cầu toàn, đến cuối cùng, giữa tưởng tượng và thực thế lại khác biệt trời vực. Cung Potala, tòa cung điện đẹp đẽ cao nguyên Tây Tạng, sân khấu tô vẽ đậm mực của nhân gian. Biết bao linh đồng chuyển thế xóa quá khứ, thay đổi tâm tình ở đó. Thế nhưng phải bạn nghe theo ai, người đó cho bạn mãn nguyện. Tsangyang Gyatso dùng thời gian ba năm, muốn đổi lấy quyền trượng cho rằng theo lý đương nhiên thuộc về Ngài, cuối cùng cũng chỉ như bọt nước, chớp mắt tan. Ví như chúng ta nghĩ đủ mọi cách muốn uống tách trà, nhưng vì thời gian chờ đợi quá dài, cầm trong tay nguội lạnh, uống vào phải là mùi vị ấy nữa. Nhưng như vậy, ít nhất chúng ta vẫn ngửi được hương thơm của trà, còn Tsangyang Gyatso, ngồi trong cung điện sâu thẳm trống trải, chỉ cảm nhận được nỗi quạnh quẽ và bất lực vô biên. Có người , Tsangyang Gyatso may mắn. Giờ đây nghĩ lại, Ngài quả may mắn hơn Đạt Lai Lạt Ma mấy đời trước đó. Những linh đồng chuyển thế ấy từ phải tiếp nhận học tập Phật giáo chính quy, họ nào có tuổi thơ vô tư, thời gian lãng mạn. Còn Tsangyang Gyatso, mười lăm năm nay hề biết thân phận của mình, Ngài trải qua những ngày tháng đơn thuần đẹp đẽ nhất của đời người mà có bất cứ áp lực và gánh nặng nào. Mười lăm năm dài, dùng vui vẻ của mười lăm năm, đổi lấy năm tháng sau này thân bất do kỷ, cũng là xứng đáng. Thế nhưng ai quy định rằng, Tsangyang Gyatso phải hài lòng, phải trả giá vì quá khứ hạnh phúc của mình. Dù Ngài ở cung Potala, khổ tu ba năm, cũng thể bù đắp cơ duyên từng lỡ mất. Bắt đầu từ khi Đệ Ba Sangye Gyatso dự tính giấu phát tang đối với cái chết của Đạt Lai thứ 5, Tsangyang Gyatso mất thời cơ tốt nhất để trở thành Đạt Lai thứ 6. Sangye Gyatso làm sao nỡ dễ dàng nhường lại chính quyền nắm giữ mấy mươi năm ột đứa trẻ buông thả chốn nhân gian mười lăm năm, y yên tâm sao? Dù tại Tsangyang Gyatso có thành quả tu luyện ba năm, đối với Sangye Gyatso, còn xa mới đủ tiêu chuẩn trong lòng y. Tài thao lược kiệt xuất của Đạt Lai thứ 5 Lobsang Gyatso bén rễ sâu vững trong lòng y, những thành tựu phi phàm ấy, Tsangyang Gyatso há có thể thay thế? Do đó, dù Tsangyang Gyatso mỏi mắt trông chờ, Sangye Gyatso cũng trước sau giao cây quyền trượng đại diện cho vương giả ấy vào tay Ngài. Tsangyang Gyatso lại chật vật sống qua hai năm trong chờ đợi và nhẫn. Hai năm này, Ngài hết sức khiến mình bình tĩnh, hòa nhã đối đãi mỗi việc, mỗi người. Hai năm này, Ngài khiến mình triệt để chìm đắm trong Phật pháp mênh mông, dường như muốn quên hết mọi thứ của thời niên thiếu. phải là quên, đúng ra là gói ghém lại quá khứ cách hoàn hảo, cất kín ở góc thể dễ dàng chạm đến của nội tâm. Dù vất vả, nhưng Ngài làm được, kinh Phật khiến lòng Ngài dần dần bình tĩnh. Ngài tự nhủ rằng, lúc sức đánh trả, điều duy nhất có thể làm, chính là nhịn. Việc đời quả tối sáng khó đoán, buồn vui thất thường, Tsangyang Gyatso hết sức khiến mình bình tĩnh trong chờ đợi, lại vẫn bị tin tức bất ngờ làm tổn thương cùng cực. Mẹ và hàng xóm từ Monyu xa xôi đến thăm Ngài, mang đến cho Tsangyang Gyatso nỗi kinh ngạc như xa cách đời, đồng thời cũng mang đến tin tức khiến Ngài đau buồn mãi thôi. Tin tức này đập tan hoàn toàn niềm tin Ngài kiên định dời mấy năm nay. Từ khi rời khỏi Monyu, Tsangyang Gyatso bị nhốt trong cung Potala, chiếc lồng mỹ miều, chỉ dựa vào hồi ức đẹp đẽ ngày trước để sống qua ngày. Trong vô số giấc mơ lúc nửa đêm, Ngài đều ảo tưởng mình và ý trung nhân hò hẹn bãi cỏ dưới ánh trăng, những lời dịu dàng, trong mơ, Ngài ngửi mùi hương của nàng, ngắm nụ cười ngọt ngào của nàng. Lời thề non hẹn biển, Nàng từng trao cho ta. Lại giống như nút thắt, Chưa đụng bung ra. Đò ngang dẫu vô tâm, Đầu ngựa luôn ngoảnh lại[1]. Người tình nghĩa, Quay lưng chẳng đoái hoài. [1] Ở Tây Tạng đò ngang đều khắc ngựa gỗ, đầu ngựa ngoảnh nhìn lại phía sau. Nàng chẳng phải mẹ sinh, Lớn cây đào ấy? Sao tình của nàng, Tàn nhanh hơn hoa vậy? Giấc mơ đó bị đánh thức cách tàn nhẫn, thậm chí còn cho Ngài bất cứ cơ hội nào để nghỉ lấy hơi. Monpa cùng Ngài thề non hẹn biển khoác áo cưới làm dâu của người khác. Lòng Tsangyang Gyatso triệt để tan nát bởi tin tức này, tình cảm vui vẻ ngày xưa mồn trước mắt, lời thề trao vẫn còn quanh quẩn bên tai, vì sao chớp mắt tất cả ngấm ngầm thay đổi? Chẳng lẽ lời thề nhàng như giấy mỏng? Chẳng lẽ lòng người dễ dàng thay đổi như thế? Tình Ngài khổ sở si mê gìn giữ, ở nơi nàng, bé đáng kể như thế hay sao? Người ta tha thiết, Bị kẻ khác cưới rồi. Ta tương tư khổ sở, Còn da bọc xương thôi. Có thể dùng thòng lọng, Để bắt được ngựa hoang. Người thay đổi lòng dạ, Sức thần khó giữ nàng. Có lẽ chúng ta nên trách, thế là công bằng cho người Monpa kia, Tsangyang Gyatso năm xưa vội vã rời , thậm chí kịp cả lời từ biệt. Sau khi nàng biết tin Ngài là linh đồng chuyển thế, biết họ kiếp này còn hy vọng gặp nhau, ắt hẳn nàng khóc đến đứt từng khúc ruột. Mấy năm nay, họ hoàn toàn có tin tức của nhau, chỉ có thể giữ thước phim ấm áp của quá khứ để chữa lành vết thương. Biết là chờ đợi có kết cục, nhưng nàng vẫn si dại chờ ở ngã tư đường lúc ly biệt, lừa dối bản thân có lẽ có kỳ tích xảy ra. Nhưng nỗi si tình của nàng chỉ đổi lại ánh mắt khác thường của mọi người, và những lời nhiếc móc tàn nhẫn của người nhà. Khi nhiều cùng trang lứa với nàng lần lượt xuất giá, lý do mà nàng đưa ra là bạc nhược, yếu ớt. Tsangyang Gyatso trách lầm nàng, nàng kiên trì đến cuối cùng bằng quyết liệt của mình. Dù người dân Monpa thuần phác đôn hậu, nhưng họ cũng cho phép trẻ tuổi si dại chờ đợi vì lời ước hẹn kỳ hạn. Bất kể nàng có bao nhiêu tuổi xuân có thể lãng phí, cũng thể sánh với thời gian bất tận. Nếu Tsangyang Gyatso đặt mình vào hoàn cảnh của nàng mà nghĩ cho nàng, nhất định hối hận khi bản thân viết ra câu thơ tàn nhẫn như vậy. Nếu phụ bạc, là Ngài rời khỏi trước, tuy có nỗi khổ, nhưng rốt cuộc vẫn là Ngài phụ nàng. Từ lúc Ngài vào ở trong cung Potala, có nghĩa tất cả lời thề đều hóa thành tro bụi, Ngài chẳng có tư cách sở hữu tình , chẳng có tư cách oán trách vô tội ấy thay lòng gả làm vợ người khác. Chỉ cần Tsangyang Gyatso nhắm mắt suy nghĩ, có thể nhìn thấy tình cảnh thê lương của ý trung nhân, nàng chờ đợi trong tuyệt vọng, cuối cùng chịu đựng nổi lời chỉ trích của mọi người, rưng rưng nước mắt khoác áo cưới, làm dâu của người khác. Suốt đời này, nàng làm sao còn có thể có được hạnh phúc chân chính? Mối tình đầu chôn trong đáy lòng, mỗi năm, nỗi nhớ đều theo cỏ xuân lan tràn, linh hồn nàng định sẵn yên ổn vì Ngài. Nếu nàng đọc được bài thơ của Tsangyang Gyatso, lại thổn thức rơi lệ ra sao? Có lẽ chúng ta nên oán trách ai, duyên phận bạc bẽo ấy khiến họ đau lòng cùng cực, làm sao nỡ chỉ trích làm thương tâm thêm. Đây phải là lúc Tsangyang Gyatso sa sút nhất, đau khổ nhất. Kiếp sống con rối năm năm, khiến lý tưởng tự mình chấp chính của Ngài tan vỡ, giờ đây lại nếm trọn nỗi đau thất tình xé lòng, khiến Ngài nguội lòng nản chí. Vị Phật sống đau khổ tuyệt vọng thể tịnh tâm để suy xét mọi việc. Ngài biết, cục diện chính trị của Tây Tạng lúc đó vẫn lung lay trong gió, dã tâm của Lha-bzang Khan[2] khiến Đệ Ba Sangye Gyatso dám có mảy may sơ suất. Dù bị dục vọng quyền lực thúc đẩy, Sangye Gyatso cũng dám giao chính quyền ột đứa trẻ tiếp xúc đời chưa nhiều, chưa từng tham gia chính . Tsangyang Gyatso làm sao hiểu , đấu tranh chính trị khốc liệt vượt xa đấu tranh tình cảm, trận giết chóc đem đến tổn thương thê thảm nhất trần gian, khiến người dân khốn khổ. Tổn thương tình cảm tuy là địa ngục nhân gian, nhưng cá nhân so với chúng sinh, tỏ ra quá đỗi bé. [2] Lha-bzang Khan (La Tạng Hãn): cháu của Gushi Khan (Cố Thủy Hãn), thủ lĩnh của bộ lạc Khoshut (Hòa Thạc Đặc). Nhà Phật tin vào nhân quả, lẽ nào tất cả cảnh ngộ hôm nay của Tsangyang Gyatso là nhân Ngài từng gieo, phải gặt lấy quả? Mấy năm nay, cuộc đời Ngài có biến hóa biển biếc nương dâu, đây lẽ nào chính là đau khổ mà Phật sống phải gánh chịu, cái giá phải trả ra? Nếu phải, Ngài chẳng có lời nào để , cứ xem là phúc báo của đời này vậy. Hy vọng trải qua kiếp nạn này, ngày tháng về sau, có thể trời cao biển rộng. Nhưng Ngài vẫn cảm thấy nỗi tuyệt vọng trước giờ chưa từng có, vì Ngài uổng là Phật sống, đừng cứu giúp người đời, ngay cả bản thân mình cũng giải thoát được. Lời thề trong dĩ vãng đều thành mây khói. Câu chuyện của hôm nay cũng kết thúc. Tsangyang Gyatso nên hiểu , tươi héo vô ý, hợp tan tùy duyên. Chỉ là khi Ngài đứng bờ sông thời gian, ngắm bóng hình của kiếp phù du, vẫn cảm khái muôn vàn. Đời người, ra chính là cuốn sách kinh chữ, Tsangyang Gyatso tu luyện nhiều năm cũng đọc hiểu, tham thấu. Trong lúc bất lực, Ngài đành hướng về Đức Phật, đưa ra câu hỏi hoang mang mà tình sâu.
Chương 13 Bến đò Bất cứ ai tin vào duyên phận đều hiểu , tình duyên đời này nên hợp hợp, nên tan tan, khi duyên phận hết, khắc cũng lưu lại. Bất cứ ai tin vào duyên phận đều hiểu , tình duyên đời này nên hợp hợp, nên tan tan, khi duyên phận hết, khắc cũng lưu lại. Có lúc duyên phận giữa người với người chẳng bằng ngọn cỏ, cỏ còn có thể trải qua xuân tươi thu héo, còn duyên phận mỏng manh, ngắn ngủi như giấc mộng đêm xuân. Đúng vậy, tựa hồ có giấc mộng, sau khi tỉnh mộng, bạn đứng lặng hồi lâu trước cửa sổ trong gió lạnh, phát giác mình lại trở về buổi ban đầu của sinh mệnh, chẳng còn gì cả. Nhưng tuy rằng trắng tay, phải chăng vẫn còn trong sạch? Còn tinh khiết? Nhà thơ Đài Loan Tịch Mộ Dung từng có bài thơ, “Bến đò”. Cho em nắm lấy tay chàng, Giã từ, rồi lại nhàng rút tay. Nhớ nhung bén rễ từ đây, Lâng lâng như ở mây bồng bềnh. Núi sông vốn dĩ trang nghiêm, Vì ly biệt, bỗng trở nên dịu dàng. Cho em nắm lấy tay chàng, Giã từ, rồi lại nẹ nhàng rút tay. Tháng năm ngưng đọng từ đây, Trong tim lệ nóng sánh tày sông sâu. Muôn vàn bất lực nhìn nhau, Bến đò trống trải, tìm đâu hoa cài. Đem lời chúc phúc tặng ai, Ngày mai, hai đứa ở hai phương trời… Bến đò của Tịch Mộ Dung là bến đò của ly biệt, tràn đầy tình cảm nhớ mãi quên và tâm ý chia tay lưu luyến. Những năm qua, biết cảm động bao nhiêu người si tâm đổi vì tình . Cũng biết bắt đầu từ lúc nào, tôi thích bến đò, bến đò của đời người, bến đò của năm tháng. Thuyền bè qua lại xuất phát từ nơi này, lại từ phương xa trở về nơi này. Do đó, gặp gỡ cũng là bến đò, ly biệt cũng là bến đò, duyên đến cũng là bến đò, duyên vẫn là bến đò. Hai chữ “bến đò” chứa quá nhiều tình cảm của đời người, tụ hợp ly tan. Bến đò của tôi, có lẽ là thanh đạm, có nhiều khách qua đường lai vãng, chỉ ngẫu nhiên có kẻ lênh đênh trôi giạt ngang, mây nhạt gió . Tôi nghĩ đến bến đò của Tsangyang Gyatso, cũng là ly biệt. Khi Ngài được biết ý trung nhân làm vợ người khác, trái tim vốn tan tác tả tơi của Ngài càng bị nghiền nát thành tro bụi. ra năm xưa Ngài bị đưa vào cung Potala có nghĩa là duyên phận của họ triệt để kết thúc, có nghĩa giữa họ từ đó định sẵn mỗi người phương. Ngày thu ấy là bến đò ly biệt của đời người, người vì nợ cũ của kiếp trước xa đến chân trời, người vì ước hẹn có kết cuộc chờ đợi hư vô. Tsangyang Gyatso là vua của cung Potala, là vị vua có vương hậu. Tình trong tòa cung đẹp đẽ này trở thành truyền thuyết xa xưa. Songtsän Gampo và công chúa Văn Thành từng có tình , nhưng sau khi Đạt Lai thứ 5 xây lại cung Potala, nơi này trở thành đạo tràng bồ đề trai đương, rời xa mộng tưởng điên đảo. Đối với Tsangyang Gyatso, tất cả những điều này là quá trễ tràng. Người ta tình là thuốc độc, Ngài trúng độc quá nặng. Nếu trước giờ chưa từng có bắt đầu, nếu khi chưa tỏ việc đời Ngài bị đem vào cung Potala dốc lòng học tập kinh văn, có lẽ Ngài là vị Lạt Ma hiểu tình , có dục vọng. Trong ấn tượng của chúng ta, luôn cảm thấy Phật là vô tình, vì Người thể có tình, thể rơi lệ. Nhưng nếu Phật vô tình, sao lại đem lòng thương xót độ hóa chúng sinh? Nhà Phật có quá nhiều thanh quy giới luật, lẽ nào tuân thủ thanh quy, quy núi sâu rừng thiền, hỏi mọi việc đời, chính là đắc đạo, chính là từ bi hay sao? Còn nhà sư lưu luyến tình ái, ăn thịt uống rượu, truyền dương Phật pháp ở chốn sâu hồng trần, lại trở thành tội ác hay sao? Việc khiến nhiều người nghi hoặc thế gian này quá nhiều, chúng ta thể khắc chế dục vọng của mình, vậy vì sao phải oán trách tham sân si luyến của kẻ khác? Lẽ nào Phật phải triệt để vô tư, Phật phải sống vì đông đảo chúng sinh? Nếu như Tsangyang Gyatso phải là linh đồng chuyển thế, cuộc đời của Ngài là cảnh tượng khác, trong gian hẹp thuộc về Ngài, bình dị yên ổn, tiếng tăm. Chẳng có nếu như, Ngài ngồi ngai Phật chót vót của cung Potala, phải trả giá vì vinh dự chí tôn. Ngài bị quấy nhiễu, bị thế tục quấy nhiễu, bị tình cảm quấy nhiễu, do đó Ngài vui vẻ, do đó viết nên câu thơ bất lực dường này. là đừng gặp gỡ, để khỏi quyến luyến nhau. Hai là đừng quen biết, để khỏi tương tư nhiều[1]. [1] Đào Bạch Liên dịch Nếu thế giới này chẳng ai quen biết ai, có lẽ yên tĩnh tiếng động. Nhưng im lìm như vậy còn được xem là nhân gian khói lửa hay sao? Tsangyang Gyatso gặp nhau, biết nhau, nhưng bất cứ ai tồn tại chốn phàm trần đều thể nào chẳng gặp nhau, chẳng nợ nhau. Nhớ lại câu thơ của Nạp Lan Dung Nhược[2]: “Nhân gian nhược chích như sơ kiến (Đời người nếu chỉ như gặp gỡ lần đầu)”. Mỗi người đều mong mỏi cuộc gặp gỡ giữa người và người thuở ban đầu đều đẹp đẽ như thế, thuần nhất như thế. có tổn thương, có bụi bặm, có tình sâu đậm, cũng có oán hận thấu xương. Thử hỏi, đời người như vậy, còn có mùi vị gì? [2] Nạp Lan Tính Đức, tự Dung Nhược (1655-1685), là nhà thơ người Mãn Châu đời nhà Thanh, tài hoa nhưng yểu mệnh, được tôn là “Người viết từ hay nhất đầu đời Thanh”. Ông để lại nhiều tác phẩm thấm đẫm nỗi sầu bi, lụy khổ. lạc vào phàm trần, nên tuân thủ quy tắc của phàm trần, sợ sống chết, dám dám hận. Dù bị khói lửa cay xè đến nước mắt đầm đìa, cũng phải thúc ngựa vung roi, nhảy sóng chèo thuyền, dốc toàn lực sống mái trận, chừa đường lui. Tuy là thế, khi bạn bị gió mưa đao kiếm đả thương đến ngàn trăm lỗ thủng, ai là người trị thương cho bạn? Có mấy ai là dũng sĩ chân chính, đứng đầu sóng ngọn gió, đợi phán xét của vận mệnh, chờ thời gian đến chia cắt. ai nguyện ý nhìn thấy người dân khốn khổ, máu thịt bầy nhầy, lòng của nhiều người đều hướng đến hòa bình, hướng đến yên ổn. Cho nên mới theo đuổi lãng mạn và nhu tình, mới thích thơ của Tsangyang Gyatso, mới tha thứ tội lỗi mà Ngài, thân là Phật vẫn lưu luyến tình ái nhân gian, phạm phải. Có người , Tsangyang Gyatso là cố giữ sai lầm chịu tỉnh ngộ. Thời gian tròn năm năm, ra sức học tập kinh văn, tham ngộ Phật pháp, lại vẫn tránh khỏi trận tình kiếp to lớn này. Thơ của Ngài khiến mọi người chứng thực thân phận tình tăng của Ngài, trong cả quá trình tu Phật, Ngài trước sau quên người đẹp phấn hồng. Cũng có người , đây mới là Tsangyang Gyatso chân chính, người chí tình chí tính, người thâm nhập hồng trần, mới có thể tu luyện thành Phật. Phật phải là hư vô, Phật cũng là hóa thân của con người, vì tham thấu mọi việc đời, mới đứng ngoài cuộc, nhàn tản mây. Có lẽ trong quá trình tu hành, Tsangyang Gyatso nhất thiết phải trải qua tình kiếp mới có thể thành Phật, vị Phật trong thế giới Sa-bà[3], độ hóa chúng sinh. [3] Thế giới Sa-bà (Ta-bà, Samsara): Theo kinh điển Phật giáo, các loài chúng sinh hữu tình sinh luân hồi trong thế giới Sa-bà hay còn gọi là Tam Giới: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Chúng ta rất muốn biết, sau khi thất tình, Tsangyang Gyatso rốt cuộc lựa chọn lại phương thức sống ra sao. Phải chăng Ngài bước ra khỏi vũng bùn tình cảm, đoạt lại quyền trượng từ tay Đệ Ba Sangye Gyatso, dùng địa vị thủ lĩnh chính giáo Tây Tạng của Ngài, bắt đầu nắm giữ quyền lực chính giáo? Hoặc là từ đó an phận thủ thường nghe lệnh Như Lai, tịnh tâm tham thiền trong cung Potala? Hiển nhiên tất cả những điều này đều phải, tính tình của Ngài định sẵn cuộc đời nay mai của Ngài. Cũng giống như vở kịch, lúc bắt đầu, chúng ta có thể đoán trước kết cuộc. Dù là như thế, chẳng mấy ai có thể bình tâm tịnh khí quan sát cả quá trình, tâm tình chúng ta vẫn thấp thỏm theo từng tình tiết. ra cục diện chính trị Tây Tạng lúc đó bầu hỗn loạn, mà Tsangyang Gyatso lại chìm đắm trong cảm xúc bi thương cá nhân thể tự thoát ra. Tsangyang Gyatso hề để tâm quyền thế, thậm chí để tâm địa vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 6 của Ngài. Thế nhưng điều đó có nghĩa là Ngài chẳng có mảy may cống hiến và giáo hóa đối với chúng sinh, chỉ là phương thức Ngài lựa chọn khác hẳn. Ngài dùng tình cảm chân thành và từ bi khiến người đời cảm nhận được, Phật pháp phải là cao với tới, thiền chỉ là vì siêu độ bản thân, tu luyện kiếp sau. Kiếp này lòng của chúng ta đầy đủ nông nổi, cần thơ ca tràn đầy linh tính và nhu tình của Ngài để tịnh hóa, chỉ có kiếp này đạt được giải thoát, mới có luân hồi kiếp sau. Ngài rốt cuộc vẫn là Tsangyang Gyatso, dục vọng quyền lực và tình , Ngài chọn lựa điều sau. Đối với người hướng đến thế giới tinh thần, tình là thứ cực kỳ xa xỉ, người có thể sở hữu nó nhiều, càng huống chi là vị Phật sống thể tiêm nhiễm tình cảm nhân gian. Biết như thế, Ngài vẫn độc ngạo nghễ tiếp, xem như có mục đích, tùy tiện bay bổng, nhưng trong lòng Ngài biết mình rốt cuộc muốn điều gì. Cho dù thế giới của Ngài là gió sương mưa tuyết, những người si mê thơ tình của Ngài như chúng ta, lại có lý do gì chọn lựa nửa đường từ bỏ?
Chương 14 Quyển ba: Vì nàng tiều tụy muốn thành bụi Phong tình Có lúc thay vì tỉnh táo, nhiều người lại mong ước có thể sống mơ màng như kẻ trong mộng. Đó là vì đời người có quá nhiều gánh nặng, khi chúng ta thể trốn tránh, đôi khi cũng cần buông thả. Có lẽ chúng ta đề biết, chỉ cần sinh mệnh đứt đoạn, câu chuyện đời người vẫn tiếp tục. câu chuyện kết thúc, đồng nghĩa câu chuyện khác bắt đầu. Biết bao duyên phận đến đến , chúng ta có được những gì? Mất những gì? Nếu tất cả tình cảm mãnh liệt của người đều hao mòn hết, phải chăng thế giới của ta từ đó yên lặng vắng vẻ? Có người , nếu bạn chán ngán thành phố xô bồ, hãy chọn cách mình xa đến chân trời. Đến trấn Ô Trấn[1] mộc mạc yên tĩnh, đến thành cổ Lệ Giang[2] u nhã mà lại phong tình, hoặc đến Tây Tạng, cao nguyên cách bầu trời rất gần, có thể tiện tay hái lấy mây trắng. Nhưng những nơi ấy là yên tĩnh ư? xảy ra chuyện gì sao? Trong phim Dòng chảy thời gian[3], đến Ô Trấn lần, liền nảy sinh mối tình ghi lòng tạc dạ với cậu Văn người Ô Trấn, khó mà thoát ra. Dưới ánh mặt trời[4] Kim Đỉnh núi tuyết Ngọc Long[5]ở Lệ Giang, có đôi nam nữ dùng mạng sống khắc họa tình ở đây. Còn Tây Tạng từng có vị tăng như Đạt Lai thứ 6 Tsangyang Gyatso, mảnh đất này, dù từng hoang vu ra sao, về sau đều nở đầy hoa tình. [1] Ô Trấn: thị trấn cổ nằm ở phía bắc tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. [2] Lệ Giang: đô thành cổ nằm ở tây bắc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, là nơi sinh sống của các dân tộc Bạch, Nạp Tây và Tạng. Thành cổ Lệ Giang (bao gồm Đại Nghiên, Thúc Hà và Bạch Sa) được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới năm 1997. [3] Dòng chảy thời gian: phim truyền hình Trung Quốc, tên gốc “Tự thủy niên hoa”, các diễn viên Huỳnh Lỗi (vai Văn) và Lưu Nhược (vai ), phần ngoại cảnh được quay ở Ô Trấn. [4] Dưới ánh mặt trời: phim truyền hình Trung Quốc, tên gốc “Nhất mễ dương quang”, các diễn viên Hà Nhuận Đông, Tôn Lệ, phần ngoại cảnh được quay ở Lệ Giang. [5] Núi tuyết Ngọc Long: dãy núi gần Lệ Giang, tỉnh Vân Nam, Trung quốc, có tất cả mười hai đỉnh núi cao 5.000m quanh năm tuyết phủ, đỉnh cao nhất là Phiến Tử Đẩu cao 5.596m. Ở khu phố cổ của Lhasa, có con đường kora là phố Barkhor[6]. Người đến đây nhất định quên ghé vào nơi. Kiến trúc của phố Barkhor đa số đều là màu trắng, riêng góc đông nam của phố Barkhor có tòa lầu hai tầng sơn toàn sắc liệu màu vàng, đây chính là quán rượu Makye Ame[7] nổi tiếng, cung điện bí mật của Đạt Lai Lạt Ma thứ 6 Tsangyang Gyatso năm xưa. “Makye Ame” là truyền thuyết đẹp lưu truyền ở Tây Tạng, có ý nghĩa là “người mẹ thánh khiết, thiếu nữ thuần khiết”, hoặc có thể mở rộng là “giấc mơ đẹp đẽ”. Tsangyang Gyatso từng là chàng đẹp trai phong lưu hào phóng ở quán rượu này, Dangsang Wangpo. xuất của Ngài khiến tất cả ánh mắt trong quán Makye Ame đều ngưng đọng. [6] Phố Barkhor: hay phố Bát Giác, là con đường kora xung quanh chùa Jokhang (Đại Chiêu Tự), Lhasa. [7] Mã Cát A Mễ. Mặt trăng sáng vằng vặc, đỉnh núi phía đông. Khuôn mặt nàng rạng rỡ, lên nơi đáy lòng Bao nhiêu năm trôi qua, bài thơ Tsangyang Gyatso viết cho Makye Ame vẫn lưu truyền đến nay. Ngài chân thực bày tỏ tâm ý tốt đẹp của trai hồng trần, quán rượu Makye Ame, vì Tsangyang Gyatso, chất chứa phong tình mà nơi khác có. Biết bao khách qua đường ngang chốn này, trong quán rượu tràn trề vẻ dịu dàng, nhấm nháp ly rượu ngon, lưu lại chút ít cõi lòng. Tên tuổi xa lạ, mặt mũi xa lạ, ai quen biết ai, nhưng họ gặp nhau. Ở cùng nơi, nghĩ đến cùng người, người rời xa ba trăm năm, hồn phách của Ngài phải chăng vào lúc đèn hoa vừa thắp sáng trôi dạt đến chốn này? Ở đây, cùng trẻ tuổi thời nay, kết đoạn duyên phận mỏng manh, chỉ đêm say thôi, tới khi trời sáng lại ai đường nấy. Tsangyang Gyatso bị cung Potala giam cầm năm năm, trải qua đau khổ thất tình, chịu đựng kiếp sống con rối, trái tim của Ngài bắt đầu rạo rực, như cỏ xanh lan tràn ngoài cửa sổ, như làn gió ấm áp tháng tư. Chẳng biết là thử thách của Phật tổ đối với Ngài, hay là trong số mệnh Ngài định sẵn có giấc mơ đẹp đẽ, hoặc là vì nguyên nhân nào khác. Tsangyang Gyatso vào ngày vô ý, phát trong chiếc lồng son đẹp đẽ này hóa ra có cửa ngách nho người qua lại, người canh giữ, điều này có nghĩa là Ngài có thể từ trong cửa ngách lẻn ra ngoài, thông qua con đường này đến thành cổ Lhasa. Con đường này đem đến cho gian phòng đóng kín làn ánh sáng ấm áp, cũng tiếp dòng máu mới cho trái tim sắp sửa lạnh ngắt của Tsangyang Gyatso. Ngài vứt bỏ năm năm khép mình vào khuôn phép, nhu nhược nữa, Ngài phải nhân lúc nửa đêm người từ cửa ngách ra ngoài, đến thành Lhasa tươi đẹp, sống hết mình lần vì bản thân. Nơi náo nhiệt nhất ban đêm, chính là quán rượu phố Barkhor. Tsangyang Gyatso bước ra cửa ngách, thay trang phục hoa lệ, đội mái tóc giả đẹp đẽ, trong nháy mắt Ngài lắc mình biến thành chàng trai tuấn tiêu sái. Ngài tự đặt cái tên, gọi là Dangsang Wangpo[8]. Ngài phải đến quán rượu đèn đuốc huy hoàng, dự buổi yến tiệc thịnh soạn của tuổi thanh xuân, tạm biệt thân phận Phật sống, Ngài là tình lang đẹp nhất thành Lhasa. [8] Đăng Tang Uông Ba Khi ở trong cung Potala, Là Phật sống Tsangyang Gyatso, Mua say đường phố Lhasa, Là lãng tử Dangsang Wangpo. đường phố của thành Lhasa, Tsangyang Gyatso tuấn tú tình cờ gặp đám hát rong trẻ tuổi, họ đều có tuổi xuân phơi phới, tụ tập chỗ uống rượu ca hát, cười đùa vui chơi. Trước đây Tsangyang Gyatso chỉ ở địa phương Monyu uống rượu ca hát với người trong họ, chưa từng được chiêm ngưỡng vẻ phồn hoa của đô thị này. Ngài sớm chán ghét cuộc sống khô khan đơn điệu như kẻ tù tội suốt năm năm, đêm mua say khiến Ngài nếm được mùi vị tốt đẹp của tuổi hoa gấm vóc. Tsangyang Gyatso cảm thấy cuộc sống như vậy mới là đãi ngộ thanh niên tiêu sái hai mươi tuổi nên hưởng thụ. So ra, mỗi ngày ngồi ngai Phật của cung Potala, được mọi người cung kính lễ bái, là chẳng chút thú vị. Lẽ nào người đời đều là như thế, những thứ mình có được, đều cảm thấy hoàn mỹ. Nhữnng thứ có, lại cứ nghĩ đủ mọi cách khát khao đạt được. Con người vì có theo đuổi, có tưởng nhớ, mới vĩnh viễn có thỏa mãn. Những thanh niên lang thang đầu đường xó chợ của Lhasa kia, lại rất mực hâm mộ Tsangyang Gyatso tuổi tác tương đương với họ. Hâm mộ Ngài sinh ra có danh hiệu Phật sống cao quý, cần phiêu bạt chốn nhân gian khói lửa, cần thần phục dưới chân bất cứ người nào. Nhưng lại biết, tất cả những điều đó là khổ nạn ông trời áp đặt cho Ngài, Ngài chỉ muốn cuộc sống bình thường, tự do gò bó, có thể giống tất cả trai trẻ, ban ngày làm việc, ban đêm uống rượu vui chơi hết mình ở quán rượu. Có lúc thay vì tỉnh táo, nhiều người lại mong ước có thể sống mơ màng như kẻ trong mộng. Đó là vì đời người có quá nhiều gánh nặng, khi chúng ta thể trốn tránh, đôi khi cũng cần buông thả. Tsangyang Gyatso năm mười lăm tuổi, mơ hồ vì kiếp trước chưa biết của mình, làm Đạt Lai Lạt Ma thứ 6, gánh vác trách nhiệm. Vì đến quá gấp gáp, lại thêm cuộc sống tựa chim lồng năm năm, Ngài càng khao khát cơn say hơn bất cứ ai. Do đó khi Tsangyang Gyatso có cơ hội rời cung Potala, đường phố Lhasa, người tiêu sái nhất, phong lưu nhất, phóng túng nhất, triệt để nhất, chẳng ai ngoài Ngài. Chỉ đêm vui mặc sức khiến Tsangyang Gyatso cảm thấy hưng phấn và vui vẻ trước giờ chưa từng có. Trước khi trời sáng, Ngài đúng giờ về đến bên cửa ngách dưới chân Hồng Sơn, dùng chìa khóa mà tự mình lắp để mở cửa, vào cung Potala như chẳng có việc gì xảy ra. Trở về tẩm cung của mình, nhanh chóng gỡ tóc giả đầu xuống, thay áo sư màu đỏ, đứng trước gương, Ngài lại trở thành Đạt Lai thứ 6, vị vua lớn nhất của cung Potala. Lần đầu tiên, Ngài đứng trước gương nở nụ cười hài lòng ngọt ngào với chính mình. Dù mặt vẫn còn tràn trề ý say chưa tỉnh, nhưng Ngài hiểu cách tỉnh táo, cuối cùng cũng triệt để sống lần vì bản thân. Thế nhưng rượu ở đầu phố Lhasa tựa như ly thuốc độc, nếm lần ghiền. Người của Tsangyang Gyatso trở về cung Potala, lòng của Ngài vẫn lưu lại ở quán rượu phố Barkhor, quên được khói lửa nhân gian mù mịt nơi đó, quên được tiếng cười vui vẻ đường phố. Năm năm rồi, đây là lần đầu tiên Ngài ra cung Potala, hơn nữa là vào ban đêm, mình khẽ khàng lẻn ra ngoài. Chuyến vi hành của Ngài là kích thích, chẳng dễ dàng, điều đó khiến Ngài càng thêm lưu luyến và hướng đến thế giới bên ngoài. Trái tim được buông thả lần giống như chim ưng bay lượn cuồng dại, bay cao, xa, muốn thu về, là thể. Ban ngày, Tsangyang Gyatso ngồi nghiêm trang ngai Phật chí tôn, nghe Thượng Sư nghiêm cẩn trước mặt thảo luận việc cúng tế, tiếp nhận lễ bái của họ. Đệ Ba Sangye Gyatso trước sau mực nghiêm khắc với Ngài, nhưng còn quan trọng nữa, Tsangyang Gyatso để tâm. Ngài quý báu gì vị trí Phật sống này, quý báu gì cây quyền trượng có được kia, cũng muốn quan tâm cục diện chính trị rối rắm của Tây Tạng. Cũng muốn vì chúng sinh, đọc những kinh văn sớm vô vị, nghe tiếng niệm Phật đơn điệu. chút lưu niệm cuối cùng còn lại của cung Potala đối với Ngài, cũng bị khói lửa của phố Barkhor phủ kín. kịp nữa rồi, trái tim buông thả ấy bay quá xa. Người đa tình xưa nay đều quyết liệt, Ngài có thể cúi cái đầu cao ngạo vì danh lợi, nhưng khom người cúi đầu vì phút tự do. Chúng ta nên biết, Tsangyang Gyatso an phận thủ thường sống trong cung Potala nữa, Ngài nhất định lại chuốc say trong quán rượu phố Barkhor. Đợi đến khi màn đêm buông xuống, lúc những người kora rời khỏi, quạ sẻ im tiếng, cả cung điện trầm lắng ngủ say, Ngài thay trang phục hoa lệ, đội tóc giả, lại làm chàng trai tuấn tên Dangsang Wangpo. Mà đa tình như Ngài, lại chỉ cùng những kẻ đàn hát kia uống rượu vui tràn hay sao? Trong quán rượu đèn đuốc lờ mờ kia, nhất định có ả dạ oanh xinh đẹp chờ đợi Ngài, nhưng lần gặp gỡ tình cờ đó đem đến cho Ngài trận tình kiếp ra sao? Nếu để Tsangyang Gyatso dùng thân phận Phật sống và tu hành năm năm đổi lấy cuộc tình, Ngài chẳng chút do dự rời khỏi cung Potala. Dù lang thang đường phố Lhasa, làm lãng tử, Ngài cũng cam tâm tình nguyện. Tiếp nhận phiêu bạt, là vì e sợ trái tim bị giam cầm, dù lênh đênh trôi dạt là chốn về, Ngài cũng cố chấp hối hận. Khói lửa Tình cảm tựa nước vỡ bờ, ào ạt chảy xiết, đối với Tsangyang Gyatso, giờ đây Ngài sống trong cung Potala là Phật sống mất hồn phách, còn Dangsang Wangpo tiêu dao ở quán rượu phố Barkhor mới chân thực là mình. Gặp gỡ trong năm tháng thanh xuân chẳng cần bất cứ ước hẹn nào, ngẫu nhiên lướt qua nhau, lơ đãng ngoái nhìn thoáng đều có thể kết nên đoạn duyên phận. Chúng ta đều từng có những năm tháng vô cùng tươi đẹp, vì người mình dốc hết tất cả tình cảm mãnh liệt, thao thao thề thốt trước núi cao sông sâu. Tự cho rằng là giống đa tình, sau khi trải qua quá trình quấn quýt, bắt đầu cảm thấy chán ngán, khi đó, nhận ra thề non hẹn biển lúc trước chỉ là trò chơi của tuổi trẻ. Sống đời này, chúng ta phải tuân thủ quy tắc, quy tắc nhân sinh, quy tắc tình , bèo nước gặp nhau định sẵn là khách qua đường, khi duyên hết chớ nên khổ sở cưỡng cầu. Sau này cuối cùng tôi hiểu vì sao Tsangyang Gyatso giữ thanh quy giới luật, lưu lạc nơi đầu đường xó chợ của thành cổ Lhasa. Vì là chàng trai hai mươi tuổi, nội tâm Ngài tuôn chảy dòng máu sôi sục, buộc Ngài an phận ngồi ngai Phật chí cao vô thượng động lòng phàm, vinh dự áp đặt ấy là tàn nhẫn. Tsangyang Gyatso là Phật sống, nhưng Ngài cũng là người có máu có thịt. ngày kia Ngài cũng già cỗi rồi chết , chúng ta nhìn thấy vị Phật sống độ hóa chúng sinh, sinh mệnh tươi tắn, chỉ còn lại bộ hài cốt yên tịnh. Dù linh hồn Ngài chết, có thể chuyển thế, nhưng đó là kiếp sau, kiếp này tất cả đều chấm dứt cùng với kết thúc của sinh mệnh. Nhiều người cho rằng Tsangyang Gyatso lựa chọn tình , là vì Ngài hiểu thấu Phật pháp cao thâm, là vì Ngài vẫn chưa nhìn thấu bản chất đời người. Còn tôi lại nghĩ thế, Tsangyang Gyatso mà tôi cảm nhận, phải hiểu đời người ngắn ngủi, mọi nhường nhịn và trốn tránh đều là phụ bạc bản thân. Ngài tin nhân quả, tin kiếp sau, càng tin kiếp này là duy nhất của mình. Nhiệt tình tích tụ nơi đáy lòng Tsangyang Gyatso khi được thắp sáng, phải rừng rực bừng cháy, buông thả hết mình. Khi Tsangyang Gyatso từ cửa ngách cung Potala bước ra đường phố Lhasa vào đêm đó, có nghĩa cánh cửa tình cảm của Ngài lại bị đẩy ra. sinh mệnh bị giam cầm năm năm, có được lần cơ hội còn nhân nhượng cầu toàn sống qua ngày nữa. Tình cảm tựa nước vỡ bờ, ào ạt chảy xiết, đối với Tsangyang Gyatso, giờ đây Ngài sống trong cung Potala là Phật sống mất hồn phách, còn Dangsang Wangpo tiêu dao ở quán rượu phố Barkhor mới chân thực là chính mình. Quán rượu về đêm, đèn đuốc rực rỡ mê ly, nhiều trai trẻ tuổi trong thành Lhasa hẹn mà đến, ở đây uống rượu vui đùa, ca hát nhảy múa, chỉ để phô diễn đến cùng tuổi xuân nóng bỏng. Tựa hồ chỉ có họ có thể tùy ý làm càn, có thể say khướt trong ánh trăng trong suốt, chẳng chút bận tâm. Đây là cuộc hẹn ước vô tình, đêm đến tụ tập, trời sáng giải tán, chẳng ai hỏi ai đến từ nơi nào, và trở về nơi nào. Gặp nhau hôm nay hoặc là gặp lại ngày mai, cũng có thể là chia tay vĩnh viễn. Nhưng những điều này đều quan trọng, điều họ cần là tại, là sở hữu đương nhiên, là đoạn tuyệt đột ngột. Dangsang Wangpo chắc chắn là chàng trai phóng khoáng nhất, phong lưu nhất trong quán rượu, khuôn mặt tuấn tú, ánh mắt tựa sóng nước mùa thu và khí độ xuất sắc của chàng, khiến những xinh đẹp ở đó tim đập thình thịch. Nhưng ở đây cũng có người Qonggyai dung mạo siêu phàm như tiên nữ tên là Dawa Dolma[1], nụ cười ngọt ngào, giọng hát du dương của nàng khiến nàng đương nhiên là phượng hoàng mỹ lệ nhất trong đám người rộn ràng nhộn nhịp. đôi người ngọc như vậy, chỉ thoáng ánh mắt nhìn nhau, có giao kết tâm linh. [1] Đạt Oa Trác Mã Nàng mỉm cười tươi tắn, Nhìn khách khứa ngồi. Con ngươi đẹp xoay chuyển, Lại đăm đăm nhìn tôi. Giữa đám đông Lhasa, Người Qonggyai nổi bật. Ý trung nhân của ta, Chính là người đẹp nhất. Tsangyang Gyatso thông tuệ tất nhiên hiểu , người Qonggyai Dawa Dolma là kiếp nạn trong số mệnh của Ngài. Có lẽ do rượu trong quán quá đỗi khiến người mê say, cũng có thể nụ cười dịu dàng, sóng mắt khêu gợi của giai nhân quá đỗi khiến người si luyến, bất kể là phúc hay họa, Ngài đều phải để mình chìm đắm. Tsangyang Gyatso biết rằng, Ngài cần nàng, cần tình thương vỗ về êm ái của nàng, ngửi hơi thở thơm tho của nàng, để từ từ san bằng vết thương trong lòng Ngài. mối tình rời xa, cần mối tình khác bù đắp, dù là Phật sống cũng cam chịu tịch mịch, cũng ngăn cản nổi cám dỗ ôn nhu. Nhờ bà chủ quán rượu ân cần mai mối, họ đêm đêm gặp nhau, bên nhau như thế, quấn quít bịn rịn, nỡ chia lìa. Người đẹp Qonggyai cho Tsangyang Gyatso nhu tình và hoan lạc trước giờ chưa từng có, đó là niềm cực lạc nhân sinh được giấu kín. Ngài nghĩ, dù ở cõi Phật, tu luyện đến cảnh giới cao nhất, cũng chẳng qua đến thế mà thôi. Đến nay cũng ai có thể , khoái lạc thể xác và khoái lạc tinh thần, loại nào khiến con người càng hồn xiêu phách lạc. Có lẽ chỉ đích thân cảm thận mới ra được loại khoái lạc nào thích hợp với mình. Tsangyang Gyatso cảm thấy bản thân cách cõi Phật ngày càng xa, Ngài lúc này, chỉ nguyện ý là Dangsang Wangpo sa vào phàm trần, hưởng thụ khoái lạc tột cùng của tình . Gặp nhau dễ, tuy rằng khi màn đêm buông xuống, đợi cung Potala ngủ say Tsangyang Gyatso liền có thể xuống núi gặp gỡ Dawa Dolma. Nhưng chờ đợi luôn dài đằng đẵng, dùng chờ đợi mòn mỏi ban ngày để đổi lại giai nhân đêm, Tsangyang Gyatso vẫn cảm thấy chưa đủ thỏa ý. Tình đến lúc nồng nàn, phân ly khoảnh khắc đều là dày vò. Huống chi trong lòng Tsangyang Gyatso vẫn luôn lo lắng, chỉ sợ ngày nào đó, hành tung của mình bại lộ, lúc ấy lời thề Ngài hứa với người đẹp Qonggyai giường êm đệm ấm liệu còn có thể là vĩnh hằng? lo nổi nhiều như thế, mỗi đêm, họ đều hận đêm xuân ngắn ngủi, gà sớm gáy sáng. Gà trống đừng gáy sớm, Vì ta và người , Lời trong lòng muốn , Vẫn còn rất nhiều điều. Chụp mũ lên đầu, Bím tóc hất ra sau. Người ngồi chơi nhé, Người dặn chớ mau. Người tham lòng khó chịu, Người hẹn sớm gặp nhau. Đây chính là tình , chỉ có người lún sâu trong tình , khi bên nhau mới cảm thấy thời gian nhiều, đủ. Khi xa nhau, lại oán trách thời gian trôi quá chậm, đợi đến bao giờ mới có thể gặp lại lần nữa. Chỉ cơn gió hay ngọn cỏ lay đều kinh động đến giấc mơ của họ. Điều họ mỗi ngày mong mỏi, là đêm tối mau đến, là chú gà trống lúc sớm mai kia, phải chăng có thể quên gáy, như vậy họ giả vờ bình minh chưa đến, giả vờ đêm còn tối. Vì sao đời người hợp hợp tan tan liên tiếp như vậy? Người đẹp Qonggyai Dawa Dolma biết, sau khi trời sáng, vị tình lang đối với nàng rất đỗi dịu dàng này về chốn nào. Nàng cũng biết, trong cung Potala trang nghiêm hoa lệ, có cửa ngách bí mật, dẫn đến tẩm điện của Phật sống. Còn chàng Dangsang Wangpo tuấn là vị vua đến từ cung Potala, là Phật sống chí cao vô thượng. Nàng phải rạp mình dưới chân Ngài, vì tình kiếp này cầu xin nguyện vọng vĩnh cửu. Con người chỉ có tự cứu mình rồi mới có thể cứu người, Tsangyang Gyatso vướng sâu vào lưới tình, thể giải thoát bản thân làm sao có thể giải thoát chúng sinh? Tình cảm là nút thắt sâu nhất trong lòng, trăm quanh ngàn quấn, phải chăng nếm hết hận, mới có thể hờ hững dửng dưng chút? Tsangyang Gyatso mỗi ngày đều diễn cùng vở kịch, ban ngày Ngài là Phật sống của cung Potala, dạo bước mây, nhìn xuống chúng sinh. Ban đêm Ngài là lãng tử của đường phố Lhasa, rơi vào bụi trần, nếm thử khói lửa. Ngài ngại phiền phức hóa trang hai nhân vật, nhiều lần thay đổi trang phục, liên tục đội cởi tóc giả, về con đường núi giữa cung Phật và thế tục. Tất cả những điều này, Ngài làm chút sơ hở, kẻ biết tình chỉ có con chó vàng già nua trung thành. Chó vàng lông rậm rạp, Lòng sáng láng vô cùng. Chớ ta vắng, Trời sáng mới về cung. Con chó trung thành, trước khi bình minh đến canh giữ bên cửa ngách , đợi người chủ trẻ tuổi. Chỉ khi nhìn thấy con chó vàng già này, Tsangyang Gyatso mới yên tâm. Hoan tình đêm khiến Ngài càng thêm dồi dào tinh lực, sải chân nhanh nhẹn bước qua ngưỡng cửa, về phía thềm đá dài, trở về tẩm điện. ai biết, chiếc giường Phật này rất lâu có hơi ấm con người, mỗi tối chỉ có ánh trăng nhàng rải lên , đem bí mật phơi bày sót chút nào. Phương đông trắng, bầu trời nhuộm ráng mây sớm, đặc biệt say lòng người. Lúc này sư sãi dậy sớm quét dọn lá rụng trong sân, tưới nước cắm sen, chờ những người kora từ trời nam đất bắc xa xôi đến tòa điện Phật thánh khiết này, được tắm mình trong ánh sáng Phật. Đây là tín ngưỡng, đời người có tín ngưỡng là thiếu thốn, là nông cạn. tín ngưỡng Phật, có nghĩa là từ đó thanh đạm yên ổn; tín ngưỡng tình , có nghĩa là đòi sống đòi chết. Hôm nay tôi chọn theo đuổi hồi ức trong câu chuyện của người khác, ngày mai là ai đứng trước cửa sổ tuyết rơi, giả vờ tưởng nhớ tôi của ngày hôm nay?