1. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Emily trên dải cầu vồng - Lucy Maud Montgomery (25 Chương)

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 17: “Nếu người hôn người”




      mười rưỡi và Emily thở dài nhận ra đến lúc ngủ. Khi từ bữa tiệc may vá của Alice Kennedy trở về lúc chín rưỡi, xin phép bà Ruth ngồi thêm nửa giờ để hoàn thành bài tập đặc biệt. Bà Ruth chấp thuận với thái độ miễn cưỡng và hoài nghi, rồi ngủ mình, kèm theo lời cảnh báo vặt rằng hãy cẩn thận để ý nến diêm. Emily cần mẫn học trong bốn mươi lắm phút và dành mười lăm phút viết thơ. Bài thơ hừng hực khao khát được hoàn thành, nhưng Emily vẫn kiên quyết đẩy cặp giấy tờ sang bên.

      Đến lúc đó, mới nhớ ra mình để cuốn sổ Jimmy trong cặp sách ở phòng ăn. Thế này ổn rồi. Buổi sáng, bà Ruth xuống nhà trước và thể nào cũng khám xét cặp sách, tìm thấy cuốn sổ Jimmy và đọc nó cho xem. Trong cuốn sổ Jimmy có những thứ nên để bà Ruth đọc được. phải lên xuống dưới nhà mang nó lên mới được.

      hết sức khẽ khàng mở cửa và rón rén leo xuống cầu thang, thót tim trước mỗi tiếng bước chân cọt kẹt. Bà Ruth, ngủ trong phòng ngủ lớn cuối hành lang, chắc chắn nghe thấy những tiếng cọt kẹt này. Chúng đủ sức dựng cả người chết dậy ấy chứ. Tuy nhiên, chúng lại đánh thức bà Ruth, và Emily tiến được tới phòng ăn, tìm thấy cặp sách, và đúng lúc định quay trở về phòng tình cờ liếc mắt về phía bệ lò sưởi. Ở đó, dựa vào cạnh đồng hồ, là bức thư gửi cho có vẻ như được đưa đến vào chuyến thư tối; bức thư mỏng đẹp đẽ ghi địa chỉ của tờ tạp chí ở góc. Emily để cây nến lên bàn, xé mở phong bì, tìm thấy thông báo chấp thuận bài thơ và tấm séc ba đô la. Những thư chấp thuận – đặc biệt thư chấp thuận kèm theo séc – vẫn là những kiện quá hiếm hoi đối với bé Emily của chúng ta đến mức luôn khiến bé hơi quá phấn khích. bé quên luôn bà Ruth… bé quên luôn cái thực tế gần mười giờ đêm rồi: bé thất thần đứng đó, đọc đọc lại bức thư ngắn ngủi của tòa soạn… ngắn ngủi, nhưng, chao ôi, ngọt ngào xiết bao! “Bài thơ hấp dẫn của ”… “chúng tôi rất mong được đọc thêm nhiều tác phẩm của ”… Ôi chao, đúng vậy, quả tình, họ nên được đọc thêm nhiều tác phẩm nữa.

      Emily quay ngoắt người lại. Có phải có tiếng gõ cửa nhỉ? phải… ở cửa sổ. Ai vậy? Cái gì vậy? Ngay lúc đó, bé nhận thấy Perry đứng bên hiên, toét miệng cười với qua ô cửa sổ. bé lập tức bước lại bên cửa sổ và vẫn chìm đắm trong niềm hân hoan vì tác phẩm được chấp thuận, hề ngừng lại suy nghĩ, bé lướt tới bên chốt cửa và đẩy cửa sổ lên cao. bé biết Perry ở đâu, và vẫn thèm muốn đến chết được biết cậu ấy xử lý mọi chuyện như thế nào. Cậu được mời đến ăn tối cùng tiến sĩ Hardy tại ngôi nhà đẹp đẽ phố Queen. Đây được xem như vinh dự lớn lao mà chẳng mấy học sinh được nhận. Perry nhận được lời mời nhờ bài diễn thuyết xuất sắc tại cuộc thi hùng biện liên trường. Tiến sĩ Hardy nghe được tin này và quyết định rằng đây là chàng trai có triển vọng.

      Perry hãnh diện vô cùng vì lời mời này và khoe khoang hết lời về nó với Teddy và Emily – phải với Ilse, vốn vẫn chưa chịu tha thứ cho cậu ấy vì cách cư xử hề khéo léo trong buổi tối diễn ra cuộc thi hùng biện đó. Emily mừng cho cậu, nhưng vẫn cảnh báo Perry phải cẩn thận mọi đường nước bước khi ở nhà tiến sĩ Hardy. khỏi có đôi chút e ngại đối với cách ứng xử xã giao của Perry, nhưng cậu chàng lại chẳng cảm thấy gì sất. Cậu ổn cả thôi, cậu ngạo mạn tuyên bố. Perry ngồi vắt vẻo bệ cửa sổ còn Emily ngồi góc ghế sofa phía dưới, tự nhủ rằng có lẽ chỉ mất phút thôi.

      “Lúc qua tớ nhìn thấy có ánh sáng bên cửa sổ,” Perry . “vậy nên tớ nghĩ cứ thử ngó nghiêng bên cạnh xem liệu có phải là cậu . Chỉ muốn kể cho cậu nghe mọi chuyện khi nó vẫn còn nóng hôi hổi. Phải , Emily ạ, cậu đúng… đ…ú…n…g! Tớ nên mỉm cười. Cho dù có các trăm đô tớ cũng trải qua buổi tối này lần nữa.”

      “Cậu xử lý mọi chuyện như thế nào?” Emily lo lắng hỏi. Theo nghĩa nào đó, bé cảm thấy mình phải chịu trách nhiệm cho cung cách ứng xử của Perry. Cung cách ứng xử của cậu đều là được rèn luyện từ Trăng Non cả.

      Perry toét miệng cười.

      “Chuyện não lòng lắm. Tớ bớt được vô khối tính tự phụ rồi đây này. Tớ đoán cậu thấy chuyện thế là tốt.”

      “Có thể cậu vẫn còn để sót lại chút ít đấy,” Emily lạnh lùng .

      Perry nhún vai.

      “Được rồi, tớ kể hết mọi chuyện cho cậu, miễn là cậu lại với Ilse hay Teddy. Tớ để họ cười vào mũi tớ đâu. Tớ đến chỗ phố Queen đúng giờ… tớ vẫn nhớ như in tất cả mọi chuyện cậu dặn dò và giày ủng, cà vạt, móng tay, khăn tay và lúc tớ ở bên ngoài đều ổn thỏa cả. Đến lúc tớ tới ngôi nhà rắc rối bắt đầu xuất . Ngôi nhà lớn và lộng lẫy đến độ tớ thấy kỳ kỳ… phải sợ đâu… lúc đó tớ thấy sợ… mà chỉ hơi giật mình như thể tớ chỉ chực nhảy phắt ấy… giống như con mèo xa lạ khi cậu tìm cách vỗ về nó ấy. Tớ rung chuông; tất nhiên, nó bị kẹt và cứ thế kêu như điên ấy. Tớ có thể nghe thấy tiếng nó vang khắp hành lang, và tớ nghĩ, ‘Rồi họ cho là mình chẳng biết làm gì ra hồn ngoài việc cứ giữ chuông reo ngừng cho tới tận khi có người đến cho xem,’ và thế nên tớ thấy bối rối quá. hầu còn làm tớ bối rối hơn nữa. Tớ biết liệu có nên bắt tay ấy hay .”

      “Ôi, Perry!”

      “Ôi, tớ biết mà. Trước đây bao giờ tớ có mặt ở ngôi nhà nào có người hầu như thế đâu, ăn diện bảnh bao với mũ vải và tạp dề nhắn cầu kỳ. Nhìn ấy, tớ cảm thấy mình rẻ rúng.”

      “Cậu bắt tay ấy ?”

      .”

      Emily thở dài nhõm.

      ấy giữ cửa mở và tớ bước vào trong nhà. Lúc đó, tớ biết phải làm gì nữa. Phỏng chừng tớ cứ đứng đó tới mọc rễ ra cho tới tận khi đích thân tiến sĩ Hardy đến – đến – băng qua hành lang. Ông ấy bắt tay tớ và chỉ cho tớ chỗ cất mũ và áo khoác rồi dẫn tớ vào phòng khách gặp vợ ông ấy. Sàn nhà trơn như băng ấy… và đúng lúc tớ đặt chân lên tấm thảm cửa phòng khách nó trượt khỏi chân tớ và tớ ngã xuống trượt sàn nhà, chân trước đầu theo sau, dừng lại ngay cạnh bà Hardy. Tớ nằm ngửa, chú úp sấp xuống, nếu đầu u cục rồi ấy chứ nhỉ?”

      Emily cười nổi.

      “Ôi, Perry!”

      “Tức điên lên được mất, Emily ạ, có phải lỗi của tớ đâu cơ chứ. Tất tật phép xã giao đời này cũng chẳng thể ngăn cản chuyện đó xảy ra được. Tất nhiên, tớ thấy mình chẳng khác gì tên ngốc, nhưng tớ vẫn đứng dậy và cười phá lên. Ngoài tớ ra chẳng ai cười hết. Tất cả bọn họ đều tỏ vẻ nhã nhặn lịch . Bà Hardy dịu dàng như nước vậy – hy vọng tớ tự gây thương tích cho bản thân, còn tiến sĩ Hardy ông ấy chỉ lần trượt ngã đúng theo cách đó từ sau hồi họ bỏ loại thảm to bám dính sàn để dùng thảm và sàn gỗ cứng. Tớ sợ dám di chuyển, vậy nên tớ ngồi xuống cái ghế gần nhất, mà đó lại có sẵn con chó rồi… con Peke do bà Hardy nuôi. Ôi, tớ làm nó chết đâu… giữa tớ với nó chính tớ mới là kẻ sợ mất mật. Đến lúc tớ chuyển được sang cái ghế khác tị nạn bồ hôi… mồ hôi mồ kê vã ròng ròng mặt. Đúng lúc đó có thêm mấy người nữa đến, vậy nên đại loại giúp tớ thoát khỏi cơn nguy khốn, và tớ có thời gian chỉnh lại tác phong của mình. Tớ thấy tay chân thừa thãi quá. Còn ủng của tớ vừa quá khổ vừa tồi tàn. Rồi tớ phát ra mình đút hai tay vào túi quần và huýt sáo.”

      Emily dợm giọng, “Ôi, Perry,” nhưng rồi dừng lại, nuốt lời định vào trong lòng. Còn biết bất kỳ điều gì được nữa?

      “Tớ biết hành động đó thích hợp chút nào, vậy nên tớ ngừng lại và rút tay ra khỏi túi… rồi bắt đầu gặm móng tay. Cuối cùng, tớ nhét tay xuống dưới mông và ngồi đè lên . Tớ quặp chân dưới ghế, và cứ ngồi như thế cho tới tận khi bọn tớ ăn tối… vẫn ngồi như thế khi bà béo lạch bạch bước vào và tất cả mọi người đều đứng dậy. Tớ đứng… chẳng thấy có lý do gì để làm thế cả… có cả đống ghế ra đấy còn gì. Nhưng sau đó tớ chợt hiểu ra rằng đó là trò xã giao và tớ cũng phải đứng dậy. Tớ có nên đứng dậy ?”

      “Tất nhiên rồi,” Emily , vẻ mệt mỏi. “Cậu nhớ Ilse thường rầy la cậu như thế nào về chính vấn đề đó à?”

      “Ôi, tớ quên mất rồi… Ilse lúc nào mà chẳng lải nhải hết chuyện này chuyện kia chứ. Nhưng có sống qua mới biết. Tớ quên lần nữa đâu, cậu có thể cá như vậy đấy. Ở đó có ba bốn người con trai khác – giáo viên tiếng Pháp mới và hai người chủ ngân hàng – cùng với mấy người phụ nữ. Tớ tới chỗ bàn ăn tối mà ngã lăn ra sàn và ngồi vào chiếc ghế đặt giữa tiểu thư Hardy và bà già tớ mới nhắc đến đấy. Tớ liếc nhìn quanh bàn – và rồi, Emily ạ, cuối cùng tớ cũng biết sợ là gì rồi. Thực lòng mà trước nay tớ chưa bao giờ biết sợ. Cảm giác đó kinh khủng. Tớ sợ hãi trăm phần trăm. Hồi xưa tớ cứ tưởng cung cách của mọi người ở Trăng Non nhà cậu mỗi khi có khách đáng sợ lắm rồi, nhưng tớ chưa bao giờ nhìn thấy bất cứ thứ gì giống như cái bàn đó – hết thảy đều chói lóa, lấp lánh, và đủ thìa nĩa và mọi thứ để chỗ của ai cũng cũng có phần. Có mẩu bánh mì được bọc trong khăn ăn của tớ và nó rơi ra rồi lăn sàn nhà. Tớ có thể cảm thấy cả cổ lẫn mặt mình đều đỏ bừng lên. Chắc hẳn cậu gọi thế là xấu hổ đến đỏ mặt. Trước nay… trước đây… tớ chưa bao giờ xấu hổ đến đỏ mặt cả - theo tớ nhớ là thế. Tớ biết liệu tớ có nên đứng dậy ra nhặt nó lên hay . Rồi hầu bàn mang đến cho tớ mẩu bánh khác. Tớ dùng sai thìa để ăn xúp, nhưng tớ cố gắng nhớ xem bác Laura gì về cách ăn xúp đúng chuẩn. Tớ tiếp tục yên ổn ăn thêm vài thìa đầy nữa… rồi tớ bị thu hút bởi chuyện mà ai đó … và rồi nuốt chửng.”

      “Cậu có nghiêng đĩa để vét nốt thìa xúp cuối cùng đấy?” Emily tuyệt vọng hỏi.

      , tớ định làm thế sực nhớ ra hành động đó thích hợp. Tớ cũng ghét bỏ phí nó lắm. Xúp ngon kinh lên được mà tớ lại đói meo. Bà góa già đứng đắn ngồi cạnh tớ làm thế đấy. Tớ xử lý khá ổn món thịt và rau, ngoại trừ lần. Tớ xiên nĩa đầy ụ thịt và khoai tây và đúng lúc nhấc nĩa lên tớ thấy bà Hardy nhìn, và rồi tớ nhớ ra mình nên xiên nhiều thức ăn như vậy… vậy là tớ giật nảy mình… và nó rơi hết vào trong khăn ăn của tớ. Tớ biết nếu gạt nó lên bỏ trở lại vào đĩa của tớ có đúng phép xã giao , vậy nên tớ cứ để mặc nó ở đó. Món bánh pudding rất ổn… chỉ có điều tớ dùng thìa để ăn – cái thìa xúp của tớ ấy – trong khi tất cả những người khác ăn bằng nĩa. Nhưng ăn bằng cách này hay cách khác nó vẫn ngon y như vậy thôi, và tớ dần dần còn lo lắng nữa. Ở Trăng Non, nhà cậu lúc nào cũng dùng thìa để ăn bánh pudding còn gì.”

      “Sao cậu quan sát xem người khác làm gì rồi bắt chước theo họ?”

      “Quá hồi hộp. Nhưng để tớ cậu nghe nhé… xem hết mọi loại, đồ ăn ngon hơn chút xíu nào so với ở Trăng Non của cậu đâu… hề, ngon bằng cũng luôn, đời nào. Tài nấu nướng của bác Elizabeth vĩnh viễn ăn đứt nhà Hardy – và họ để cậu ăn bất kỳ món gì quá nhiều! Sau bữa tối, mọi người quay trở lại phòng sinh hoạt – họ gọi nó là phòng khách… và mọi chuyện đến nỗi quá tệ hại. Tớ chẳng làm gì hợp quy cách hết, ngoại trừ việc ngã nhào lên cái giá sách.”

      “Perry!”

      “Ôi chao, nó vốn lung lay rồi. Trong lúc chuyện với ông Hardy, tớ dựa người vào nó, và có lẽ tớ dựa hơi mạnh, vì cái món đồ bằng thép đó đổ nhào. Nhưng, dường như việc dựng nó đứng lại ngay ngắn và đem sách trả lại chỗ cũ giúp tớ buông lỏng tâm tư, và sau đó tớ đến nỗi im thin thít như ngậm hột thị nữa. Mọi chuyện về sau đến mức tệ quá… chỉ có điều cứ thỉnh thoảng chưa kịp kiềm chế gì tớ lại buột miệng bật ra từ lóng. cho cậu biết nhé, lúc đó tớ chỉ ước gì nghe theo lời khuyên của cậu về chuyện tiếng lóng. lần, bà béo kia đồng ý với điều tớ vừa … bà ấy thấy biết liệu bà ấy quả có ba cái cằm hay … và tớ phấn khích quá độ khi phát ra bà ấy ủng hộ mình, đến nỗi chưa kịp nghĩ gì tớ hứng lên mà với bà ấy, ‘Chuẩn cần chỉnh luôn.’ Với cả tớ đoán là tớ hơi ba hoa. Tớ có ba hoa quá , Emily?”

      Trước đây câu hỏi này chưa bao giờ nảy sinh trong tâm trí Perry.

      đấy,” Emily thẳng thắn , “và đó là lối cư xử rất đúng lề thói.”

      “Chà, sau khi hành động như thế tớ cảm thấy hơi khó chịu. Hẳn là tớ còn vô khối thứ cần phải học hỏi, Emily ạ. Tớ mua cuốn sách dạy xã giao và chân thành học từ đầu đến cuối. Trong đời tớ còn những buổi tối như thế này nữa. Nhưng đến lúc cuối mọi chuyện khá khẩm hơn nhiêu. Ông Jim Hardy dẫn tớ vào phòng riêng rồi chúng tớ chơi cờ với nhau và tớ oánh cho ông ấy thua tơi tả. Tớ cho cậu biết nhé, cung cách chơi cờ của tớ có gì phù hợp lề thói hết. Và bà Hardy bài hùng biện của tớ ở cuộc thi hùng biện là bài xuất sắc nhất bà ấy từng được nghe từ cậu con trai tầm tuổi tớ, và bà ấy muốn biết tớ theo đuổi mục tiêu nào. Bà ấy là phu nhân nhắn vĩ đại và hiểu biết sâu sắc về các phép giao tiếp xã hội. Đó chính là lý do khiến tớ muốn sau này đến thời điểm phù hợp cưới cậu, Emily ạ… tớ phải có người vợ có đầu óc.”

      “Đừng có nhăng cuội, Perry,” Emily giọng kiêu ngạo.

      “Nhăng cuội cái gì chứ,” Perry bướng bỉnh . “Và đến lúc chúng mình giải quyết chuyện rồi. Cậu cần phải tỏ ra kiêu căng ngạo mạn với tớ vì cậu là người nhà Murray. ngày nào đó tớ vị hôn phu đáng giá… ngay cả với người nhà Murray nữa. Thôi nào, tớ muốn nghe cậu trả lời đến chết được rồi đây.”

      Emily khinh khỉnh đứng dậy. Giống như hết thảy các khác, bé cũng từng ôm giấc mộng về tình lãng mạn, nhưng Perry Miller dự phần trong những giấc mộng đó.

      “Tớ phải người nhà Murray… và tớ lên lầu đây. Chúc cậu ngủ ngon.”

      “Đợi nửa giây thôi,” Perry , toét miệng cười. “Khi chuông đồng hồ điểm mười giờ, tớ hôn cậu.”




      Nhất thời, Emily tin nổi Perry lại nhắc đến dù chỉ là thoáng qua hành động kiểu đó… mà thế mới thấy ngu ngốc làm sao, vì Perry vốn quen thói luôn luôn gì làm nấy. Nhưng, tính đến thời điểm đó, cậu chưa bao giờ tỏ ra là con người ủy mị. phớt lờ lời nhắn nhủ của cậu, nhưng lại nấn ná thêm lúc để hỏi câu nữa về bữa tối ở nhà Hardy. Perry trả lời câu hỏi: đúng lúc lên tiếng đồng hồ bắt đầu điểm mười giờ… cậu vung chân qua bậu cửa sổ và bước vào trong phòng. Emily nhận ra quá muộn rằng cậu định làm y như . Chỉ đủ thời gian thụp đầu xuống và nụ hôn mạnh mẽ nồng nhiệt của Perry – các nụ hôn của Perry chẳng mang chút tinh tế nào hết – rơi xuống tai thay vì đậu vào má bé.

      Đúng lúc Perry hôn và trước khi lời phản đối đầy phẫn nộ của bé kịp bật ra đầu môi, hai chuyện đồng loạt xảy ra. cơn gió từ ngoài hiên quét vào phòng thổi tắt ngọn nến cánh cửa phòng ăn bật mở, rồi bà Ruth xuất bên ngưỡng cửa, quấn người trong chiếc váy ngủ bằng vải flannel màu hồng, cầm theo cây nến khác, ánh sáng của nó hất ngược lên , khiến khuôn mặt nghiêm nghị được bao giữa vầng hào quang là những cái lô cuốn tóc toát lên vẻ đáng sợ.

      Đây chính là trong những trường hợp khiến nhà viết tiểu sử tận tâm nảy sinh cảm nghĩ, theo như lối sáng suốt của người xưa, ngòi bút đủ sức đánh giá đúng hoàn cảnh.

      Emily và Perry đứng im như hóa đá. Và, trong thoáng, chính bà Ruth cũng vậy. Bà chắc mẩm tìm thấy Emily viết lách ở đây, y như làm vào buổi tối hồi tháng trước, khi Emily nảy sinh cảm hứng đúng vào giờ ngủ nên lén xuống phòng ăn ấm áp để chép lại vào cuốn sổ Jimmy. Nhưng còn cái này! Tôi phải thừa nhận rằng nó quả có vẻ tệ . lòng mà , tôi cho là chúng ta khó có thể đổ lỗi cho bà Ruth vì phẫn nộ chính đáng của bà.

      Bà Ruth nhìn cặp đôi thiếu may mắn này.

      “Cậu làm gì ở dây?” bà hỏi Perry.

      Thị trấn Stovepipe mắc phải sai lầm.

      “Ồ, tìm món ăn tròn trịa ạ,” Perry đáp lại cách tự nhiên, đôi mắt đột nhiên sáng rỡ với nét láu cá và tinh quái vô thiên vô pháp.

      “láo xược” của Perry – bà Ruth gọi nó như vậy đấy, và, lòng mà , tôi nghĩ cậu quả là xấc láo – lẽ tự nhiên khiến tình hình càng thêm tồi tệ. Bà Ruth quay sang phía Emily.

      “Có lẽ cháu có thể giải thích tại sao cháu lại ở đây, vào giờ này, hôn cậu chàng này trong bóng tối?”

      Câu hỏi thô lỗ sống sượng ấy khiến Emily lùi lại như thể vừa bị bà Ruth đánh cú. quên mất nếu chỉ dựa vào kiện bày ra trước mắt chẳng dễ gì oán trách bà Ruth, vậy nên để mặc cho linh hồn ngang ngạnh chui vào ám lấy . bé ngạo nghễ ngẩng cao đầu.

      “Cháu có gì để giải thích trước câu hỏi như thế, bác Ruth ạ.”

      “Ta nghĩ là cháu có cách giải thích nào.”

      Bà Ruth bật lên tiếng cười lộ vẻ khó chịu ràng, phảng phất thanh nghịch tai hàm chứa đắc thắng. Người ta hẳn có thể nghĩ rằng, sâu dưới cơn giận dữ của bà, điều gì đó khiến bà Ruth hài lòng. Nó chính hài lòng khi chứng minh được ý kiến mà chúng ta vẫn luôn luôn ấp ủ trong lòng về bất kỳ ai. “Chà, có lẽ cháu rộng lượng trả lời vài câu hỏi. Làm sao chàng này lại đến được đây?”

      “Cửa sổ ạ,” Perry ngắn gọn, nhận thấy Emily có ý định trả lời.

      “Tôi hỏi cậu, thưa cậu. ,” bà Ruth , chỉ về phía cửa sổ với vẻ rất kịch.

      “Cháu nhấc chân bước ra khỏi căn phòng này trừ phi cháu thấy bà định làm gì Emily,” Perry bướng bỉnh .

      Tôi,” Ruth , với vẻ thờ ơ đáng sợ, “ làm gì Emily hết.”

      “Bà Dutton, bà hãy cư xử theo đúng tinh thần thượng võ ạ,” Perry ngon ngọt khẩn cầu. “Toàn bộ chuyện này là lỗi của cháu… thực như vậy đấy ạ! Emily đáng bị khiển trách. Bà thấy đấy, chuyện như thế này ạ…”

      Nhưng Perry quá muộn.

      “Ta cầu cháu của ta giải thích nhưng nó từ chối. Ta muốn nghe cậu.”

      “Nhưng…” Perry vẫn kiên trì.

      “Cậu hơn, Perry,” Emily , khuôn mặt vẫn tản mát những dấu vết giận dữ. khẽ khàng, nhưng ngay cả những người đậm chất Murray nhất trong số những người nhà Murray cũng thể diễn đạt cầu kiên quyết hơn. Trong cầu ấy có sắc thái đặc biệt nào đó khiến Perry dám phản đối. Cậu ngoan ngoãn lồm cồm bò ra ngoài cửa sổ lẫn vào trong màn đêm. Bà Ruth tiến lên phía trước và đóng chặt cửa lại. Rồi, triệt để phớt lờ Emily, bà oai vệ hướng thân hình bé bọc trong chiếc váy flannel hồng lên tầng.

      Tối đó Emily ngủ ngon… và tôi phải thừa nhận xứng đáng được giấc ngủ say. Sau khi cơn giận dữ bột phát của tiêu tan, nỗi xấu hổ như ngọn roi quất vào tâm hồn . Emily nhận ra quả là vô cùng ngu ngốc mới từ chối giải thích với bà Ruth. Khi tình huống kiểu thế phát sinh dưới chính mái nhà của bà, bà có quyền được nghe giải thích, cần biết cách bà đòi hỏi nó có đáng ghét và khó chịu đến mức nào. Tất nhiên, bà tin lấy lời; nhưng Emily, nếu giải thích, làm lối suy diễn sai lầm của bà phức tạp thêm.

      Emily tuyệt đối tin chắc mình bị tống cổ về Trăng Non trong nỗi nhục nhã. Bà Ruth chút lưu tình mà từ chối giữ đứa con như thế ở lại nhà mình lâu hơn nữa… bà Elizabeth tán thành ý kiến của bà… bà Laura tan vỡ trái tim. Thậm chí, lòng trung thành của ông Jimmy liệu có còn duy trì được ? Viễn cảnh cay đắng xiết bao. Cũng chẳng có gì lạ khi Emily phải trằn trọc cả đêm. bé khổ sở đến nỗi mỗi nhịp tim đập dường như cũng đều khiến đau đớn. Và, tôi phải lại lần nữa, cách ràng tột bực, bé xứng đáng phải nhận điều đó. Tôi có bất kỳ lời cảm thông hay biện hộ nào dành cho .

    2. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 18: Bằng chứng gián tiếp




      Sáng thứ Bảy, tại bàn ăn, bà Ruth vẫn duy trì im lặng lạnh lùng, nhưng vừa phết bơ và ăn bánh mì, bà vừa cười mình vẻ độc ác. Ai cũng có thể nhìn thấy ràng bà Ruth hài lòng - và, cũng rò ràng kém, rằng Emily được như thế. Bà Ruth chuyển bánh mì và mứt cam sang cho Emily với vẻ lịch chết người, như thể ,

      “Ta bỏ qua chút xíu xiu hành động đúng đắn nào. Ta có thể tống cháu khỏi nhà ta, nhưng nếu cháu ăn sáng đó là lỗi của cháu.”

      Sau bữa sáng, bà Ruth lên khu phố thượng. Emily ngờ rằng bà gọi điện cho bác sĩ Burnley nhờ chuyển tin tới Trăng Non. bé tin chắc khi bà Ruth quay trở lại, nhận được thông báo đóng gói hành lý. Nhưng bà Ruth vẫn gì. Tầm giữa buổi chiều, ông Jimmy đến, đánh theo cỗ xe trượt tuyết hai chỗ ngồi. Bà Ruth ra ngoài hội ý với ông. Rồi bà vào nhà và cuối cùng cũng phá tan im lặng.

      “Mặc áo khoác vào,” bà . “Chúng ta đến Trăng Non.”

      Emily lẳng lặng tuân lời. bước vào ghế sau cỗ xe trượt tuyết còn bà Ruth ngồi lên ghế trước cạnh ông Jimmy. Ông Jimmy ngoái đầu lại, nhìn Emily từ phía cổ áo choàng lông của ông và “Chào Mèo Con,” với vẻ tươi cười khích lệ hơi quá nồng đậm. Có vẻ như ông Jimmy tin rằng có chuyện gì đó rất nghiêm trọng xảy ra, mặc dù ông biết cụ thể là chuyện gì.

      Chuyến xe băng qua những khoảng xám, những ngọc ngà sương khói đẹp đẽ của buổi chiều đông mang lại cảm giác dễ chịu. Lúc xe đến Trăng Non, khí cũng hề dễ chịu. Bà Elizabeth trông có vẻ nghiêm nghị. Bà Laura trông có vẻ sợ hãi.

      “Tôi đưa Emily về đây,” bà Ruth , “vì tôi cảm thấy mình đủ khả năng mình ứng phó với con bé. Chị và Laura, Elizabeth ạ, phải tự mình đánh giá lối cư xử của con bé.”

      Vậy ra sắp có buổi xét xử tại gia đình, trong đó , Emily, trình diện trước tòa án công lý. Công lý... liệu có nhận được công lý ? Chà, đấu tranh vì nó. hất cao đầu và sắc màu hồng hào bắt đầu trở lại khuôn mặt.

      Lúc từ phòng riêng bước xuống dưới tầng mọi người tề tựu trong phòng khách. Bà Elizabeth ngồi cạnh bàn. Bà Laura nước mắt ngắn nước mắt dài ngồi sofa. Bà Ruth đứng tấm thảm trước lò sưởi, cáu kỉnh nhìn ông Jimmy, lúc này yên vị ở góc phía sau thay vì tới kho thóc như đáng lẽ phải thế, kiên quyết, y hệt Perry, muốn xem xem mọi người định làm gì Emily. Bà Ruth khó chịu. Bà chỉ ước gì bà Elizabeth đừng có lúc nào cũng khăng khăng chấp thuận cho ông Jimmy tham gia vào các buổi họp gia đình riêng tư mỗi khi ông muốn có mặt. phi lý khi cho rằng đứa trẻ to xác như ông Jimmy lại có bất kỳ quyền gì ở đó.

      Emily ngồi xuống. bé đến đứng cạnh cửa sổ, mái đầu đen nổi bật nền rèm màu đỏ thẫm, tối sẫm và dịu dàng như cây thông in hình nền trời hoàng hôn mùa xuân. Ngoài kia, cả thế giới trắng xóa tê cóng trải dải dưới ánh chạng vạng buốt giá đầu tháng Ba. Phía bên kia khu vườn và hàng dương Lombardy, những cánh đồng của trang trại Trăng Non toát lên nét đơn và thê lương, đằng sau nó, bầu trời lúc chiều tà hằn lên vệt màu đỏ ối. Emily rùng mình.

      “Chà,” ông Jimmy , “bắt đầu thôi để giải quyết chuyện này cho xong. Chắc hẳn Emily muốn ăn tối rồi.”

      khi cậu biết điều mà tôi biết về con bé, cậu thấy con bé chỉ cần bữa tối thôi đâu,” bà Dutton giọng cay độc.

      “Tôi biết tất cả mọi điều mà bất kỳ người nào cần biết về Emily,” ông Jimmy bật lại.

      “Jimmy Murray, cậu là đồ con lừa,” bà Ruth giận dữ .

      “Ái chà, chúng ta là họ hàng mà,” ông Jimmy tán thành với vẻ mãn nguyện.

      “Jimmy, im ,” bà Elizabeth oai nghiêm , “Ruth, bà cần cho chúng tôi nghe xem nào.”

      Bà Ruth kể lại toàn bộ câu chuyện. Bà bám sát thực tế, nhưng thái độ tường thuật của bà khiến tình thậm chí còn có vẻ đen tối hơn thực chất. Thực ra, bà trù tính để nhào nặn từ đó câu chuyện vô cùng xấu xa, và Emily rùng mình lần nữa khi nghe kể lại. Trong khi câu chuyện được tường thuật lại, khuôn mặt bà Elizabeth càng lúc càng nghiêm nghị và lạnh lùng, bà Laura bật khóc, còn ông Jimmy bắt đầu huýt sáo.

      “Cậu ta hôn lên cổ con bé,” bà Ruth kết luận. Bà nhấn mạnh vào chuyện đó như thể, hôn lên những chỗ bình thường người ta vẫn hôn xấu xa lắm rồi nhưng hôn lên cổ là chuyện còn ghê tởm và đáng hổ thẹn hơn gấp ngàn lần.

      ra là ở tai cháu chứ,” Emily lầm bầm, kịp kiềm chế nụ cười toe bất chợt nở rộ khuôn mặt. Bên dưới hết thảy những lo lắng sợ hãi lan toả trong , vẫn có Thứ Gì Đó đứng ở phía sau mà thưởng thức chuyện này - cái kịch tính, khía cạnh hài kịch của nó. Nhưng bột phát của nó lại là tột cùng thiếu may mắn. Nó khiến bé có vẻ xấc láo và biết xấu hổ.

      “Nào, tôi hỏi các chị,” bà Ruth , vung hai bàn tay mập mạp, “liệu các chị có thể trông đợi tôi giữ đứa con như nó ở lại nhà tôi lâu hơn nữa ?”

      , tôi cho là chúng tôi có thể làm thế,” bà Elizabeth chậm rãi .

      Bà Laura bắt đầu nức nở chút kiềm chế. Ông Jimmy dập hai chân ghế trước xuống đánh rầm cái.

      Emily xoay người khỏi cửa sổ và đối diện với tất cả bọn họ.

      “Cháu muốn giải thích chuyện xảy ra, bác Elizabeth.”

      “Ta nghĩ chúng ta nghe chuyện này đủ rồi,” bà Elizabeth lạnh lùng - càng lạnh lùng hơn vì trái tim bà bị nỗi thất vọng cay đắng nào đó lấp kín. Bà dần dần trở nên quý và tự hào về Emily, theo cái cách kín đáo, dè dặt của người mang trong mình dòng máu Murray: bằng việc phát ra hạnh kiểm của bé có thể đến mức này, bà Elizabeth khác gì bị giáng cho đòn trí mạng. Nỗi đau đớn sâu sắc ấy càng khiến bà trở nên tàn nhẫn hơn

      đâu, giờ thái độ này hiệu quả nữa rồi, bác Elizabeth ạ,” Emily bình tĩnh . “Cháu quá tuổi để bị đối xử như thế rồi. Các bác phải nghe câu chuyện từ góc nhìn của cháu.”

      Khuôn mặt bé toát lên cái sắc thái Murray đó - cái sắc thái mà bà Elizabeth từng biết và vẫn còn nhớ mồn từ rất lâu rồi. Bà thấy dao động.

      “Tối qua cháu có cơ hội giải thích rồi,” bà Ruth cắm cảu, “và cháu tận dùng nó.”

      “Bởi vì cháu bị tổn thương và giận dữ do bác suy nghĩ về cháu cách tồi tệ hết mức như thế,” Emily . “Thêm nữa, cháu biết bác tin cháu.”

      “Ta tin cháu nếu cháu kể thực,” bà Ruth . “Lý do khiến cháu giải thích vào buổi tối hôm qua là vì dưới tình thế cấp bách đó, cháu thể nghĩ ra được lời bao biện nào cho hạnh kiểm của cháu. Phỏng chừng từ lúc đó đến giờ cháu có đủ thời gian để bịa ra điều gì đó rồi.”

      “Chị bao giờ biết Emily dối lần nào chưa?” ông Jimmy hỏi.

      Bà Dutton hé môi định “Rồi”. Nhưng rồi lại khép miệng lại. Hẳn là ông Jimmy muốn hỏi ví dụ cụ thể? Bà tin chắc Emily với bà... những chuyện bịa đặt... vài lần, nhưng bà có bằng chứng gì chứng minh điều đó chứ?

      “Chị có biết ?” Gã Jimmy xấu xa đó vẫn chịu nhượng bộ.

      “Ta để cậu tra hỏi ta.” Bà Ruth quay lưng lại phía ông. “Elizabeth, tôi vẫn với chị rằng đứa con đó rất khó lường và ranh mãnh phải ?”

      “Đúng,” bà Elizabeth tội nghiệp thừa nhận, có phần cảm tạ trời đất vì cần phải do dự khi xác nhận điểm đó. Chắc chắn bà Ruth với bà như thế biết bao nhiêu lần.

      “Và chẳng phải chuyện này chứng tỏ tôi đúng sao?”

      “Tôi... e là... vậy.” Bà Elizabeth Murray cảm thấy đây là thời khắc cay đắng xiết bao.

      “Vậy chị phải quyết định cần xử lý chuyện này ra sao,” bà Ruth đắc thắng .

      “Vẫn chưa đâu,” ông Jimmy kiên quyết chen ngang. “Các chị vẫn chưa cho Emily chút xíu cơ hội giải thích nào. Như thế phải là cách xét xử công bằng. Giờ hãy cho bé mười phút chuyện mà ngắt ngang lần nào hết.”

      “Làm thế cho công bằng ,” bà Elizabeth , bất ngờ trở nên kiên quyết. Trong lòng bà nảy sinh niềm hy vọng điên rồ, phi lý rằng, sau rốt, Emily có lẽ có khả năng tự trả lại trong sạch cho bản thân.

      “Ồ... vậy ...” phu nhân Dutton miễn cưỡng đầu hàng và ngồi uỵch xuống cái ghế của cụ Archibald Murray.

      “Nào, Emily, kể cho các bác nghe xem thực ra có chuyện gì nào,” ông Jimmy .

      “Này, tôi lấy danh dự ra mà thề đấy!” bà Ruth bùng nổ. “Có phải ý cậu là chuyện tôi kể phải chuyện thực xảy ra?”

      Ông Jimmy giơ bàn tay lên.

      “Nào... nào... cháu có cơ hội rồi đấy. xem nào, Mèo Con.”

      Emily kể lại từ đầu đến cuối câu chuyện. Có điều gì đó trong câu chuyện bé kể lại mang đến thuyết phục. Ít nhất trong số các thính giả cũng có ba người tin tưởng và cảm thấy sức nặng khổng lồ được nhấc ra khỏi tâm trí. Thậm chí bà Ruth, tận trong thâm tâm, cũng biết Emily kể lại thực, chỉ có điều bà thừa nhận như thế.

      câu chuyện được bịa đặt đến là tài tình, xin thề danh dự của tôi đấy,” bà giọng giễu cợt.

      Ông Jimmy đứng dậy băng ngang qua căn phòng. Ông cúi người xuống trước mặt phu nhân Dutton và gí bộ mặt hồng hào với chòm râu hình chạc và đôi mắt nâu thơ trẻ dưới mái tóc hoa râm xoăn tít bù xù vào sát sạt mặt bà.

      “Ruth Murray,” ông , “chị có còn nhớ câu chuyện lan truyền khắp nơi bốn mươi năm trước về chị và Fred Blair ? Chị nhớ ?”

      Bà Ruth xô cái ghế ra phía sau. Ông Jimmy bám sát theo bà.

      “Chị có còn nhớ rằng chính chị bị bắt gặp trong tình cảnh khó xử còn tồi tệ hơn chuyện này nhiều ? Có phải thế ?”

      lần nữa, bà Ruth tội nghiệp lại xô cái ghế về phía sau. lần nữa, ông Jimmy lại bám theo.

      “Chị có còn nhớ chị phát điên phát rồ đến mức nào vì mọi người tin chị ? Ấy vậy nhưng cha chị tin chị... ông ấy tin tưởng máu thịt của mình. Ông ấy như thế ?”

      Lần này bà Ruth tiến sát đến bức tường và đành phải đầu hàng vô điều kiện.

      “Tôi... tôi... vẫn nhớ khá ,” bà ngắn gọn.

      Hai gò má của bà đỏ như tôm luộc. Emily nhìn bà thích thú. Có phải bà Ruth đỏ mặt vì xấu hổ ? Thực ra, trong thời thanh xuân xa xăm của đời mình, bà Ruth Dutton từng trải qua mấy tháng trời khổ sở vật vã. Hồi còn mười tám, bà bị mắc kẹt trong tình huống tồi tệ hết mức. Mà bà lại là người vô tội... vô tội trăm phần trăm. Bà là nạn nhân bất lực của loạt tình huống quỷ quái bậc nhất. Cha bà tin tưởng câu chuyện của bà, gia đình bà ủng hộ bà. Nhưng suốt bao nhiêu năm trời, những người cùng thời với bà vẫn tin tưởng vào bằng chứng từ những kiện được người ta biết đến - và có lẽ nếu có khi nào họ bất chợt nhớ về câu chuyện ấy, niềm tin của họ vẫn vẹn nguyên như xưa. Bà Ruth Dutton rùng mình nhớ lại quãng đời khổ sở phải chịu đựng đả kích gay gắt của vụ bê bối ấy. Bà còn đủ dũng khí từ chối tin tưởng câu chuyện của Emily, nhưng bà cũng chẳng thể nhàng mà hạ vũ khí đầu hàng.

      “Jimmy,” bà đanh giọng , “liệu cậu có thể vui lòng tránh ra và ngồi xuống ? Tôi cho là Emily thực... đáng tiếc là con bé phải mất bằng ấy thời gian mới đưa ra quyết định kể lại câu chuyện. Và tôi dám chắc kẻ đó con bé.”

      đâu, cậu ấy chỉ đề nghị cháu cưới cậu ấy thôi,” Emily lạnh lùng .

      Các bạn có thể nghe thấy ba tiếng thở hổn hển trong căn phòng. Chỉ mình bà Ruth có đủ khả năng cất lời.

      “Mạn phép cho ta hỏi, cháu có định thế ?”

      . Cháu thế với cậu ấy hàng bao nhiêu lần rồi.”

      “Chà, ta lấy làm mừng vì cháu sáng suốt như thế. Thị trấn Stovepipe à, tình!”

      “Thị trấn Stovepipe chẳng liên quan gì đến chuyện này hết. Mười năm nữa, Perry Miller trở thành người mà ngay cả người nhà Murray cũng vui vẻ được bày tỏ lòng kính trọng. Nhưng cậu ấy phải mẫu người mà cháu thích, chỉ thế thôi.”

      Người này liệu có thể nào là Emily - thiếu nữ cao ráo lạnh lùng đưa ra lý do từ chối lời cầu hôn... và về “những mẫu người” mà thích? Bà Elizabeth, bà Laura, thậm chí cả bà Ruth cũng nhìn bé như thể chưa từng nhìn thấy bao giờ. Và trong đôi mắt họ ánh lên tôn trọng mới mẻ. Tất nhiên họ biết Andrew ... ... thế đấy, tóm lại Andrew rồi. Nhưng chắc chắn còn nghi ngờ gì nữa, phải nhiều năm sau Andrew mới ... ... thế đấy, ! Còn giờ chuyện xảy ra với người theo đuổi khác... xin nhớ cho rằng xảy ra “hàng bao nhiêu lần” rồi! Tại thời điểm đó, mặc dù vẫn chưa ý thức được ràng, nhưng họ còn coi bé là đứa trẻ nữa. Bằng bước nhảy vọt, bước vào thế giới của họ và kể từ giờ trở ắt hẳn phải được đối xử cách ngang hàng. Chắc chắn còn những buổi xét xử gia đình nữa. Dù hiểu được nhưng họ vẫn cảm thấy điều này. Nhận xét tiếp theo của bà Ruth chứng tỏ điều đó. Bà bằng giọng điệu gần giống với giọng điệu hẳn bà dùng để với bà Laura hay bà Elizabeth, nếu bà cho rằng bà có nghĩa vụ phải khuyên nhủ họ.

      “Cứ giả sử như, Emily, nếu có bất kỳ ai ngang qua lại nhìn thấy Perry Miller đứng trong cái cửa sổ đó vào cái giờ khuya khoắt đó sao?”

      “Vâng, tất nhiên rồi. Cháu hiểu góc nhìn của bác, bác Ruth ạ. Tất cả những gì cháu muốn là các bác hiểu được góc nhìn của cháu.Cháu đúng là ngu ngốc khi mở cửa sổ ra chuyện với Perry... giờ cháu thấy thế rồi. Chỉ là khi ấy cháu nghĩ gì cả... rồi sau đó cháu lại quá chú tâm nghe cậu ấy kể về những rủi ro cậu ấy gặp phải tại bữa tối ở nhà tiến sĩ Hardy, thành ra chẳng để ý gì đến thời gian hết.”

      “Perry Miller đến ăn tối tại nhà tiến sĩ Hardy hả?” bà Elizabeth hỏi lại. Lại thêm tin tức khiến bà sửng sốt. Thế giới này - thế giới của nhà Murray - ắt hẳn lộn ngược theo đúng nghĩa đen, kẻ ở thị trấn Stovepipe mới được mời ăn tối tại phố Queen. Cùng lúc đó, bà Ruth hoảng sợ đến thót tim khi nhớ lại Perry Miller nhìn thấy bà trong chiếc váy ngủ flanen màu hồng. Lúc trước, chuyện này chẳng có gì quan trọng cả... cậu ta chỉ là chàng giúp việc ở trang trại Trăng Non. Nhưng bây giờ cậu là khách của tiến sĩ Hardy.

      “Vâng ạ. Tiến sĩ Hardy nghĩ cậu ấy là nhà hùng biện rất sáng láng và bảo cậu ấy có triển vọng,” Emily .

      “Chà,” bà Ruth cáu kỉnh , “ta chỉ mong sao từ giờ về sau cháu đừng có vơ vẩn trong nhà ta và viết tiểu thuyết nữa. Nếu lúc đó cháu nằm yên giường, đúng như đáng nhẽ phải thế, có phải chẳng bao giờ có chuyện như thế này .”

      “Cháu viết tiểu thuyết,” Emily kêu lên. “Cháu chưa từng viết bất cứ câu từ hư cấu nào kể từ khi cháu hứa với bác Elizabeth. Lúc đó cháu viết bất kỳ cái gì hết. Cháu kể với bác là cháu chỉ xuống nhà lấy cuốn sổ Jimmy của cháu thôi.”

      Tại sao cháu thể để nó lại đó cho tới sáng?” bà Ruth cố chấp hỏi.

      “Thôi nào, thôi nào,” ông Jimmy , “đừng có khơi mào cuộc tranh luận nữa . Tôi muốn ăn tối rồi. Cánh phụ nữ các chị cũng ăn thôi.”

      Bà Elizabeth và bà Laura rời khỏi phòng chút kháng cực, cứ như thể chính ông cụ Archibald Murray đưa ra mệnh lệnh đó vậy. lúc sau, bà Ruth cũng nối gót theo sau. Rốt cuộc tình theo chiều hướng bà dự tính, nhưng xét cho cùng, bà đành cam chịu. chẳng có gì hay ho nếu vụ bê bối như thế này dính dáng đến người nhà Murray bị bung bét khắp nơi, tương lai chẳng thể nào tránh được nếu người ta phát ra Emily bị kết tội.

      “Vậy là chuyện đó được thu xếp xong xuôi rôi,” ông Jimmy với Emily khi cánh cửa khép lại.

      Emily thở dài thườn thượt. Đột nhiên, cảm thấy căn phòng cũ kỹ tĩnh lặng oai nghiêm này dường như xinh đẹp và thân thiện xiết bao.

      “Vâng, cảm ơn bác,” , nhảy bật từ đầu này sang đầu kia căn phòng để nồng nhiệt ôm chầm lấy ông. “Giờ , hãy mắng cháu , bác Jimmy, hãy trách mắng cháu nặng vào.”

      đâu, đâu. Nhưng giờ ngẫm lại mà xem, nếu thận trọng hơn cháu mở cái cửa sổ đó ra, phải Mèo Con?”

      “Tất nhiên là vậy rồi ạ. Nhưng thỉnh thoảng thận trọng cũng được xem như tính xấu, bác Jimmy ạ. Người ta lấy làm xấu hổ về nó... người ta thích cứ thế mà tiến về phía trước và... và...”

      “Và cứ treo hậu quả đấy,” ông Jimmy bổ sung.

      “Đại loại thế ạ,” Emily bật cười. “Cháu thích cả đời phải năng uốn éo, chẳng dám bước bước dài vì sợ có người nhìn ngó. Cháu muốn ‘vẫy cái đuôi tự do và bước trong đơn tự do’. có chút xíu tổn hại đích thực nào trong việc cháu mở cửa sổ ra chuyện với Perry. Thậm chí cũng chẳng có bất kỳ tổn hại nào trong việc cậu ấy cố hôn cháu. Cậu ấy làm thế chỉ để trêu chọc cháu thôi. Ôi chao, cháu ghét các tục lệ lắm. Như bác đấy... cứ treo hậu quả đấy.”

      “Nhưng chúng ta thể treo chúng được, Mèo Con ạ... như thế chỉ gây thêm rắc rối thôi. Xét cho đúng ra chúng treo chúng ta ấy chứ. Để bác cháu nghe nhé, Mèo Con... giả sử... chỉ giả sử thôi chẳng có hại gì đâu đúng nào... giả sử rằng cháu trưởng thành, lấy chồng và có đứa con tầm tuổi cháu bây giờ, rồi buổi tối, cháu xuống nhà dười và phát ra con cháu trong tình cảnh như bác Ruth phát ra cháu và Perry ấy. Cháu thích chuyện đó ? Cháu thấy dễ chịu ? lòng nào?”

      Trong lúc, Emily nhìn chằm chằm vào lò sưởi.

      , cháu thích,” cuối cùng . “Nhưng mà... chuyện này khác chứ ạ. Cháu có biết đâu.”

      Ông Jimmy cười cùng cục.

      “Thế mới là vấn đề, Mèo Con ạ. Người khác thể biết được. Vậy nên chúng ta mới phải thận trọng trong mỗi hành động của mình. Ôi chao, bác chỉ là ông Jimmy Murray ngờ nghệch, nhưng bác có thể thấy chúng ta phải thận trọng trong mỗi hành động của mình. Mèo Con này, tối nay chúng ta có món sườn nướng đấy.”

      Đúng lúc đó, mùi thơm tỏa ra từ nhà bếp... mùi vị ấm áp, dễ chịu có bất kỳ liên hệ nào với những tình huống gây tổn thương và những bộ xương khô của dòng họ. Emily lại ôm chầm ông Jimmy thêm lần nữa.

      “Thà ăn bữa cơm rau dưa cùng bác Jimmy còn hơn được ăn sườn nướng với bác Ruth,” .

    3. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 19: “Những giọng từ cao”




      “03 tháng Tư, 19...

      “Có nhiều khi tôi chỉ mong sao mình có thể tin vào sức ảnh hưởng của những sao xấu hay tính xác thực của những ngày đen đủi. Nếu làm sao những chuyện quỷ quái có thể xảy ra như nó vẫn thường xảy ra với những người thiện chí chứ? Bác Ruth chỉ vừa tỏ ra chán chẳng buồn nhắc lại cái đêm bác ấy phát Perry hôn tôi trong phòng ăn thôi tôi lại dính phải tình huống gian nan kỳ cục khác.

      “Tôi trung thực. phải vì tôi làm rơi ô nên mới ra cơ thế, cũng phải bởi vì thứ Bảy vừa rồi tôi làm rơi vỡ cái gương trong bếp ở Trăng Non. Chuyện thuần túy chỉ bắt nguồn từ bất cẩn của tôi.

      “Nhà thờ Giáo hội Trưởng lão Thánh John ở Shrewsbury này khuyết vị trí mục sư từ hồi đầu năm và nghe ngóng các ứng cử viên. Ngài Towers của tờ Thời đại đề nghị tôi tận dụng các ngày Chủ nhật ở Hồ Blair để ghi chép lại các bài giảng đạo đăng tờ báo của ông ấy. Bài giảng đạo đầu tiên khá ổn thỏa và tôi ghi chép lại với thích thú. Bài thứ hai vô hại, rất vô hại, và tôi ghi chép lại chẳng chút đau khổ gì. Nhưng đến bài thứ ba, bài giảng tôi nghe vào Chủ nhật vừa rồi, lại đến là lố bịch. đường từ nhà thờ về nhà, tôi thế với bác Ruth và bác ấy hỏi, ‘Cháu nghĩ cháu có đủ trình độ để chỉ trích bài giảng đạo ?’

      “Ái chà, có chứ, tôi có đủ trình độ đấy!

      “Chưa từng thấy bài giảng đạo nào mâu thuẫn đến mức đó. Ông Wickham tự cãi lại mình đến gần chục lần. Ông ấy trộn nháo trộn nhào các phép dụ... câu của Shakespeare ông lại gán cho Thánh Paul... ông ấy gần như phạm phải hết thảy mọi tội lỗi thông thường có thể tưởng tượng được, bao gồm cả cái tội lỗi thể tha thứ là biến mình thành con người dốt nát chết người. Dẫu vậy, công việc của tôi là đưa tin về bài thuyết giảng, vậy nên tôi viết tin. Khi ấy, tôi cần phải làm gì đó để xóa bỏ tâm trạng khó chịu này, bởi vậy, tôi viết bài phân tích cho vui. Đó là hành động điên rồ nhưng đầy hứng thú. Tôi chỉ ra tất tật những điểm mâu thuẫn, những chỗ trích dẫn sai, những điểm yếu và thiếu chắc chắn của bài thuyết giảng. Tôi viết cách hào hứng... tôi vận hết khả năng châm chọc, nhạo báng và khả năng ăn độc địa của mình... ái chà, tôi phải thừa nhận rằng đó là văn bản rất cay độc.

      “Rồi tôi lại gửi nhầm tới tờ Thời đại!

      “Ông Towers chẳng buồn đọc mà gửi luôn cho nhân viên đánh máy. Ông ấy luôn dành cho tác phẩm của tôi tin tưởng đáng cảm động, mà giờ chẳng bao giờ còn được như vậy nữa. Bài báo được đăng tải vào ngày hôm sau.

      “Đến khi tỉnh lại, tôi phát ra mình tai tiếng ngập tràn rồi.

      “Tôi những tưởng ông Towers giận điên lên; ấy vậy nhưng ông ấy chỉ hơi bực bội thôi... và còn thầm thích thú nữa. Tất nhiên, ông Wickham vẫn chưa phải là mục sư chính thức ở đây. Chẳng ai buồn quan tâm đến ông ấy hay bài thuyết giảng của ông ấy, còn ông Towers lại là tín đồ Giáo hội Trưởng lão, vậy nên mọi người ở nhà thờ Thánh John chẳng thể quy cho ông ấy cái tội muốn sỉ nhục họ. Chính Emily Byrd Starr tội nghiệp là người phải gánh chịu toàn bộ sức nặng tội lỗi. Có vẻ như hầu hết bọn họ nghĩ rằng tôi làm thế ‘để khoe khoang’. Bác Ruth giận điên lên, bác Elizabeth phẫn nộ, bác Laura buồn rầu ủ rũ, bác Jimmy hoảng sợ. Chỉ trích bài thuyết giảng của mục sư là hành động tồi tệ đến mức nào kia chứ. Theo truyền thống của nhà Murray, các bài giảng của mục sư - đặc biệt là của các mục sư Giáo hội Trưởng lão - là thứ bất khả xâm phạm. Rồi táo tợn và thái độ tự cao tự đại của tôi hủy hoại tôi cho xem, bác Elizabeth lạnh lùng thông báo với tôi thế. Người duy nhất có vẻ hài lòng là thầy Carpenter. (Chú Dean ở mãi New York. Tôi biết chú ấy thể nào cũng thích nó.) Thầy Carpenter với tất cả mọi người rằng ‘mẩu tin’ của tôi là mẩu tin xuất sắc nhất thuộc kiểu đó thầy từng được đọc. Nhưng thầy Carpenter vốn bị ngờ là người dị giáo, vậy nên lời ngợi khen của thầy ấy cũng chẳng đạt được đến cái hiệu quả làm tôi hồi phục lại.

      “Tôi cảm thấy đau khổ vô cùng trước vụ việc này. Đôi khi, những nhầm lẫn của tôi còn khiến tôi lo nghĩ nhiều hơn cả tội lỗi của tôi nữa. Tuy nhiên, sâu thẳm trong tôi, thứ xấu xa tội lỗi nào đó cười ngạo trước chuyện này. Từng câu từng từ trong ‘mẩu tin’ ấy đều đúng thực. Và còn hơn cả thực - đều thích đáng. Tôi hề trộn nháo trộn nhào các phép dụ.

      “Nào, hãy để thời gian xóa nhòa câu chuyện này !”




      “20 tháng Tư, 19...

      “ ‘Nổi lên nào, gió Bắc và đến nào gió Nam. Hãy thổi trong vườn tôi, để mùi thơm từ đó bay ra.’[1]

      [1] Trích Nhã ca 4-16

      “Tối nay, tôi vừa ngân nga vừa băng qua Miền Chính Trực... chỉ có điều, tôi thay từ vườn bằng từ ‘rừng’. Vì mùa xuân quẩn quanh khắp nơi nơi và tôi quên hết mọi thứ, chỉ còn niềm hân hoan ở lại.

      “Lúc sáng sớm, trời sầm sì và có mưa, nhưng đến chiều mặt trời lên, và tối nay, màn sương giá tháng Tư giăng - chỉ vừa đủ khiến cho đất đai vững chắc. Đối với tôi, dường như trong đêm nay, các vị thần cổ xưa có thể gặp gỡ tại những chốn hoang vu. Nhưng tôi chẳng nhìn thấy gì ngoài vài vật vể ranh mãnh lẩn khuất giữa những thân linh sam, nếu phải thuần túy chỉ là những chiếc bóng rất có thể chúng chính là đoàn tinh.

      “(Tôi biết tại sao tinh lại là từ quyến rũ đến thế trong khi tinh linh lại là từ đáng sợ biết bao. Và tại sao bóng tối khơi gợi vẻ đẹp trọn vẹn trong khi bóng râm lại xấu xí thế?)

      “Nhưng trong lúc leo lên đồi, tôi nghe thấy vô vàn thanh thần tiên và mỗi thanh đều khơi dậy trong tôi niềm hân hoan thấm thía dần tiêu tan. Lần nào leo lên ngọn đồi, tôi cũng đều có cảm giác mãn nguyện nào đó. Và đây lại còn là ngọn đồi tôi thích nữa. Khi lên đến đỉnh, tôi đứng yên lặng, để mặc cho vẻ kiều của buổi đêm tuôn chảy khắp châu thân như dòng nhạc. Kia Bà Gió ngân nga giữa vạt bu lô quanh tôi... kìa bà huýt sáo giữa những ngọn cây hình răng cưa in bóng nền trời! trong mười ba vầng trăng non bàng bạc của năm treo lơ lửng bến cảng. Tôi đứng đó, ngẫm ngợi về vô vàn, vô vàn điều đẹp đẽ... về những con suối hoang dã gì ràng buộc chạy xuyên qua những cánh đồng tháng Tư lấp lánh ánh sao... về mặt biển khoác tấm áo choàng xám mịn màng gợn sóng... về cây du duyên dáng vươn mình dưới ánh trăng... về những rễ cây rùng mình chuyển động trong lòng đất... những con cú cười khanh khách trong bóng đêm... dải sóng tung bọt dọc bờ cát dài... vầng trăng mới mọc treo phía ngọn đồi thẳm tối... những cơn bão xám xịt vùng vịnh.

      “Tôi chỉ có bảy mươi lăm xu trần thế những Thiên đường nào có mua được bằng tiền.

      “Rồi tôi ngồi xuống tảng đá mang đậm dấu ấn thời gian, cố gắng chuyển những phút giây hạnh phúc tao nhã này vào bài thơ. Tôi cảm thấy mình nắm bắt được hình dáng của chúng khá tốt... nhưng tâm hồn chúng . Nó trốn khỏi tầm với của tôi.

      “Đến khi tôi quay về, trời khá tối và dường như toàn bộ tính cách của Miền Chính Trực thay đổi. Nó kỳ quái... gần như đầy sát khí. Nếu có đủ dũng khí tôi co chân mà chạy rồi. Cây cối, những người bạn thân thuộc của tôi, đều xa cách và kỳ lạ. Những thanh tôi nghe thấy phải là những thanh vui vẻ thân thiện của ban ngày... cũng phải những thanh thần tiên thân mật của buổi hoàng hôn... chúng lén lút và kỳ lạ, như thể đột nhiên cuộc sống của khu rừng này bỗng trở thành thứ gì đó gần như thù địch với tôi... thứ gì đó ít nhất cũng đầy bí mật, xa lạ và thiếu thân thiện. Tôi có thể tưởng tượng ra mình nghe thấy những bước chân vụng trộm vang khắp xung quanh... những đôi mắt xa lạ dõi theo từng bước chân tôi xuyên qua những cành cây. Khi tôi bước tới khoảng rừng trống và nhảy qua hàng rào vào sân sau nhà bác Ruth, tôi cảm thấy y như mình vừa trốn thoát khỏi nơi chốn nào đó dẫu thú vị nhưng hề linh thiêng - nơi được sang tay cho những kẻ tà giáo và những buổi tiệc tùng say sưa của các vị thần rừng. Tôi nghĩ rằng trong bóng tối, khu rừng hoàn toàn thuộc về đạo Cơ Đốc. Nó luôn luôn giấu đời sống bí mật nào đó vốn dám bộc lộ mình trước ánh mặt trời mà chỉ dám tìm về bản chất của mình dưới đêm đen.

      “ ‘Với chứng ho của cháu đừng có ra ngoài trời hứng khí ẩm ướt làm gì,’ bác Ruth .

      “Nhưng đâu phải vì khí ẩm ướt mà tôi bị tổn thương chứ... vì tôi bị tổn thương rồi. Chính là do tiếng huýt khẽ khàng quyến rũ của thứ xấu xa nào đó. Tôi sợ nó... ấy vậy nhưng tôi lại nó. Đem so với nó, vẻ đẹp tôi đỉnh đồi dường như đột ngột trở nên vô vị. Tôi ngồi trong phòng viết bài thơ nữa. Khi viết bài thơ ấy, tôi cảm thấy như thể mình yểm trừ thứ gì đó ra khỏi tâm hồn mình, và dường như Emily – trong – gương còn là người xa lạ với tôi nữa.

      “Bác Ruth vừa mang cốc sữa nóng pha với ớt bột cay để chữa bệnh ho cho tôi. Nó nằm bàn trước mặt tôi, tôi phải uống nó, và nó khiến cho cả thiên đường lẫn vùng đất tà giáo dường như đều trở nên vô cùng ngu ngốc và thực!”

      “25 tháng Năm, 19...

      “Thứ Sáu vừa rồi chú Dean từ New York trở về nhà và tối đó hai chú cháu tản bộ trò chuyện trong khu vườn Trăng Non dưới ánh hoàng hôn kỳ lạ, huyền bí sau cả ngày mưa. Tôi mặc chiếc váy sáng màu và lúc bước con đường mòn, chú Dean bảo,

      “ ‘Lần đầu tiên nhìn thấy cháu, ta cứ nghĩ cháu chính là cây đào dại trắng tinh... giống như cái cây kia kìa’ - và chú ấy chỉ về cây đào nghiêng nghiêng vẫy gọi như bóng ma dưới ánh trời chạng vạng, giữa rừng cây bụi nhà ông John Ngạo Mạn.

      “Cái cây ấy đẹp đến nổi chỉ cần được so sánh xa xa với nó thôi cũng khiến tôi cảm thấy vô cùng mãn nguyện với bản thân, và dễ chịu xiết bao khi chú Deal già dấu quay trở lại. Vậy là chúng tôi buổi tối vui vẻ, hái được cả ôm to hoa bướm của bác Jimmy, ngắm nhìn những đám mây dông xám xịt tụ lại với nhau thành khối màu tím phía đằng Đông, bỏ lại bầu trời đằng Tây quang đãng bóng mây và lắc rắc những vì sao.

      “ ‘Mỗi khi được bầu bạn cùng cháu,’ chú Dean , ‘luôn có điều gì đó khiến cho các vì sao dường như sáng lấp lánh hơn, những bông hoa bướm dường như tím hơn.’

      “Chẳng phải chú ấy tốt lắm sao! Ý kiến của chú ấy về tôi và ý kiến của bác Ruth về tôi sao mà khác xa nhau đến vậy chứ?

      “Chú ấy kẹp dưới cánh tay cái gói mỏng, và lúc chào tạm biệt, chú ấy đưa nó cho tôi.

      “ ‘Ta mang cho cháu cái này để giảm bớt sức ảnh hưởng của ngày Byron,’ chú ấy .

      “Đó là bức tranh lồng khung ‘Chân dung Giovanna Degli Albizzi, vợ của Lorenzo Tornabuoni Ghirlanjo’ - phu nhân của thời kỳ văn hóa nghệ thuật Quatro Cento. Tôi mang nó về Shrewsbury treo trong phòng ngủ. Tôi rất thích nhìn phu nhân Giovanna - người phụ nữ trẻ mảnh mai xinh đẹp với búi tóc bóng mượt màu vàng nhạt và những lọn tóc xoăn gọn gàng với nét mặt nhìn nghiêng thanh tú, cao quý( liệu họa sĩ có tâng bốc bà ấy lên ?) và cần cổ trắng ngần, vầng trán để trần vướng chút bóng mờ, và phủ trùm lên tất cả là bầu khí mơ hồ đượm vẻ thiêng liêng, xa cách và nhuốm màu định mệnh, vì phu nhân Giovanna qua đời khi còn trẻ.

      hai bên tay áo nhung thêu của bà ấy nữa, được xẻ khía và bồng lên, vô cùng đẹp đẽ và ôm vừa khít cánh tay. Phu nhân Giovanna ắt hẳn phải có người may trang phục tài ba, và, dẫu từ bà toát lên vẻ thánh thiện như thế, người ta vẫn đoán chắc bà ý thức khá thực tế. Tôi luôn ước mong sao bà quay đầu lại, để tôi nhìn được trọn vẹn khuôn mặt bà.

      “Bác Ruth cho rằng bà ấy trông khá kỳ dị và ràng bác ấy thấy nghi ngờ tính phù hợp của việc trong cùng căn phòng lại có diện của cả bà ấy lẫn bức tranh thạch bản lộng lẫy có hình nữ hoàng Alexandra.

      “Chính tôi cũng thấy nghi ngờ điều đó.

      “10 tháng Sáu, 19...

      “Dạo này, mọi bài tập đều được tôi hoàn thành bên bờ hồ trong Miền Chính Trực, giữa những thân cây cao mảnh dẻ tuyệt vời ấy. Tôi là nữ tư tế trong khu rừng, tôi quan tâm đến cây cối bằng thứ tình cảm còn vượt lên cả tình ... tôn thờ.

      “Và rồi, cây cối, giống với bao nhiêu con người khác, luôn luôn trở nên thân thiết hơn theo thời gian. Cho dù lúc đầu ta quý chúng đến mức nào cũng vậy thôi, chắc chắn càng lúc ta càng quý chúng hơn, và may mắn nhất là khi bạn quen biết chúng trong suốt nhiều năm và được giao thiệp với chúng suốt cả bốn mùa. Giờ đây, tôi biết được hàng trăm điều mến ở những cây cối giữa Miền Chính Trực mà tôi chưa hề biết khi đến đây hồi hai năm trước.

      “Cây cối cũng có những đặc điểm riêng biệt như con người. Chẳng cây vân sam nào giống cây vân sam nào. Bao giờ cũng vậy, luôn có nút xoắn, đường cong hay chỗ nổi cành để phân biệt cái cây với bạn bè nó. vài cây thích sinh trưởng cùng nhau trong bầu khí chan hòa, cành lá của nó quấn quít, như Ilse và tôi khoác tay nhau, thầm dứt những bí mật của chúng. Rồi còn có những nhóm riêng biệt hơn gồm bốn năm cây Murray; lại có những cây dật chọn cách đứng tách biệt trong độc, chỉ bầu bạn với những ngọn gió chốn thiên đường. Tuy nhiên, những cây này thường lại đáng được tìm hiểu nhất. Giành được tin tưởng của chúng là chiến thắng khiến người ta cảm thấy vẻ vang hơn nhiều so với chiếm được tình cảm của những cây dễ tính. Tối nay, tôi bất chợt nhìn thấy vì sao lớn phập phồng nhịp thở, nghỉ ngơi chính ngọn cây linh sam khổng lồ đứng độc ở góc rừng phía Đông, và tôi chợt nảy sinh cảm giác đây chính là cuộc tụ họp của hai vị vua, cuộc tụ họp khiến tôi vương vấn suốt nhiều ngày và bỏ bùa lên hết thảy mọi thứ - thậm chí đến cả lề thói trong lớp học, chuyện rửa bát đĩa và việc dọn vệ sinh ngày thứ Bảy của bác Ruth.

      “25 tháng Sáu, 19...

      “Hôm nay chúng tôi có bài kiểm tra môn Lịch sử - về triều đại Tudor. Tôi thấy nó rất thú vị, nhưng phần lớn là vì những chuyện ngoài lề chứ phải những thứ nằm trong các bài học lịch sử. Chúng ... chúng thể kể cho bạn nghe những điều bạn thực lòng muốn biết. Hoàng hậu Jane Seymour nghĩ gì khi tỉnh dậy trong bóng tối? Còn cả hoàng hậu Anne bị giết kia, hay hoàng hậu Katherien nhợt nhạt bị bỏ rơi kia? Hay đơn giản là về phong cách thời trang cổ áo xếp nếp mới mẻ của bà? Bà ấy có bao giờ nghĩ rằng bà ấy phải trả giá quá đắt cho chiếc vương miện, hay bà ấy thỏa mãn với thỏa thuận của mình? Và liệu bà ấy có hạnh phúc trong mấy tiếng đồng hồ ngắn ngủi sau khi đứa con trai bé bỏng của bà ấy chào đời... hay bà ấy liệu có nhìn thấy đoàn bóng ma vẫy gọi bà ấy tiến về phía trước cùng họ? Liệu tiểu thư Jane Gray có được bạn bè coi là ‘Janie” hay , liệu bà ấy có khi nào giận dữ hay ? Vợ của Shakespeare lòng nghĩ gì về ông ấy? Và liệu có bất cứ người đàn ông nào từng thực tâm nữ hoàng Elizabeth ? Tôi luôn hỏi những câu hỏi kiểu này mỗi khi học về cái thời đại hoành tráng với các vị vua, các nữ hoàng, các thiên tài và con rối chính trị vốn được nhắc đến trong chương trình giảng dạy ở trường dưới cái tên ‘Triều đại Tudor’.”

      “7 tháng Bảy, 19...

      “Hai năm trung học kết thúc. Kết quả kỳ thi của tôi đủ sức làm hài lòng ngay cả bác Ruth, khiến bác ấy phải hạ cố nhận xét rằng bác ấy vẫn luôn biết tôi có thể học hành ra trò nếu chịu khó để tâm. cách ngắn gọn, tôi dẫn đầu lớp. Và tôi lấy làm hài lòng. Nhưng tôi bắt đầu hiểu được ý của chú Dean khi chú ấy rằng giáo dục đích thực là những thứ ta tự mình khai thác được từ đời sống. Xét cho cùng, trong hai năm vừa rồi, những thứ dạy cho tôi nhiều điều nhất chính là những chuyến lang thang trong Miền Chính Trực, là cái đêm đống cỏ khô, là phu nhân Giovanna và bà cụ đét mông đức vua, là việc cố gắng viết gì ngoài thực tế, và những thứ đại loại thế. Ngay cả những bài viết bị loại bỏ và nỗi căm ghét dành cho Evelyn Blake cũng dạy cho tôi điều gì đó. Nhân nhắc đến Evelyn - ta thi trượt và phải học lại năm thứ hai. Tôi thực lòng lấy làm tiếc.

      như thế cứ như thể tôi là kẻ thân thiện độ lượng nhất trần đời vậy. Để tôi cách chân thành nhất nhé. Tôi lấy làm tiếc vì ta thi trượt, bởi vì nếu thi đỗ, năm sau ta có mặt ở trường nữa.”

      “20 tháng Bảy, 19...

      “Dạo này, ngày nào Ilse và tôi cũng tắm biển. Bác Laura luôn rất cẩn thận xem xét xem liệu chúng tôi có mang quần áo tắm phù hợp . Tôi biết liệu bác ấy có bao giờ phong thanh nghe thấy bất kỳ lời đồn thổi xa xăm nào về vụ mặc váy lót tắm dưới trăng của chúng tôi .

      “Nhưng tính đến nay những chuyến tắm của chúng tôi đều diễn ra vào buổi chiều. Và sau đó chúng tôi hân hoan đắm mình dưới ánh mặt trời ấm áp, với cát vàng óng ánh, với những đụn cát mỏng đằng sau lưng trải dài tới tận bến cảng, và biển xanh biếng lười trước mắt, lấm chấm những cánh buồn lấp lánh vảy bạc nhờ phép thuật của ánh mặt trời. Ôi, cuộc sống dễ chịu... dễ chịu... dễ chịu. Ngay cả ba thông báo từ chối đăng bài vừa đến cũng chẳng nhằm nhò gì. Rồi ngày chính những tòa soạn này phải xin tôi gửi tác phẩm đến! Trong lúc đó, bác Laura vẫn dạy tôi cách làm loại bánh sô la béo ngậy phức tạp theo công thức được người bạn của bác ấy ở Virginia gửi cho từ ba mươi năm trước. Chưa có bất kỳ cư dân Hồ Blair nào lấy được công thức này, và bác Laura bắt tôi phải trang trọng hứa bao giờ tiết lộ nó.

      “Loại bánh này thực ra có tên là Thức ăn của quỷ, nhưng bác Elizabeth cho phép gọi nó bằng cái tên đó đâu.”

      “2 tháng Tám, 19...

      “Tối nay tôi xuống gặp thầy Carpenter. Thầy bị bệnh thấp khớp hành hạ, và ai cũng có thể nhìn ra thầy mỗi ngày già . Năm ngoái thầy thường xuyên cáu bẳn với học trò và vài ý kiến phản đối, cho thầy tiếp tục dạy học, nhưng chuyện qua rồi. Hầu hết dân làng Hồ Blair đều đủ khôn ngoan để nhận ra rằng dẫu có gàn dở đến thế nào chăng nữa, thấy Carpenter vẫn là người thầy có đốt đuốc cũng chẳng dễ tìm ra được.

      “ ‘Làm thế nào mà hòa nhã được khi dạy dỗ bọn ngốc chứ,’ thầy gầm gừ khi ban quản trị trường cho biết người ta phàn nàn về tính khắt khe của thầy.

      “Có lẽ tại thầy mắc bệnh thấp khớp nên mỗi khi tôi nhờ thầy đánh giá các bài thơ của tôi, thầy lại nhận xét có phần cộc cằn. Lúc đọc bài thơ tôi sáng tác về buổi tối tháng Tư đỉnh đồi, thày bèn ném toẹt nó lại cho tôi - ‘ thứ khá hời hợt,’ thầy .

      “Ấy vậy mà tôi còn thực lòng đinh ninh bài thơ đó lột tả được ở mức độ nào đó mê hoặc của buổi tối hôm ấy. Tôi mới sai lầm đến mức nào kia chứ!

      “Sau đó tôi đưa cho thầy xem bài thơ tôi viết khi trở về tối hôm đó. Thầy đọc hai lần, rồi dứt khoát xé nó thành từng mảnh.

      “ ‘Kìa... sao vậy ạ?’ tôi hỏi, hơi bực mình. ‘Bài thơ ấy có gì ổn đâu chứ, thầy Carpenter.’

      “ ‘Bề ngoài ,’ thầy . ‘Mỗi dòng thơ, đứng cách độc lập, đều có thể được đọc trong trường giáo lý. Nhưng linh hồn của nó kìa... trò viết bài thơ đó bằng tâm trạng nào vậy hả?’

      “ ‘Tâm trạng của Thời đại Vàng ạ,’ tôi .

      “ ‘ hề... của thời đại trước nó xa lắc xa lơ ấy chứ. Bài thơ đó đặc sệt chất tà giáo, ạ, mặc dù ta nghĩ là trò ý thức được điều đó. Chắc chắn, xét theo quan điểm văn chương, nó đáng giá giá bằng cả nghìn bài ca hay ho của trò. Đồng thời, nguy hiểm lại cũng từ đó mà ra. Tốt hơn hết hãy bám chắc vào thời đại của trò. Trò là phần của nó và có thể chiếm hữu nó chứ để nó chiếm hữu trò. Emily, bài thơ đó toát lên sắc thái ma quái. Nó đủ đậm nét để ta có thể tin chắc rằng các nhà thơ bị truyền cảm hứng... bởi những linh hồn nào đó thuộc về họ. Khi viết bài thơ ấy, trò cảm thấy trò bị chiếm hữu linh hồn ư?’

      “ ‘Có ạ,’ tôi , thầm nhớ lại. Tôi lấy làm mừng vì thầy Carpenter xé nát bài thơ. Tôi chẳng bao giờ có thể tự mình hành động như thế. Tôi phá hủy vô số bài thơ mặc dù do tôi sáng tác nhưng sau này đọc lại, tôi thấy chúng chỉ là đồ rác rưởi, nhưng bài thơ này dường như chẳng bao giờ theo chiều hướng ấy và lần nào cũng vậy, nó luôn mang vẻ quyến rũ kỳ lạ cũng như kinh hoàng của chuyến đó quay trở lại. Nhưng thầy Carpenter đúng... tôi cảm nhận được điều đó.

      “Thầy ấy còn mắng cho tôi trận vì tôi tình cờ nhắc đến chuyện tôi đọc thơ của bà Hemans. Bác Laura có tập thơ thích bọc bìa màu vàng và màu xanh dương phai màu, có kèm lời đề tặng từ người hâm mộ. Hồi bác Laura còn trẻ, tập thơ chính là món quà sinh nhật ấn tượng dành tặng cho mình ngưỡng mộ. Những điều thầy Carpenter về bà Hemans thích hợp để viết vào trong nhật ký của thiếu nữ. Tôi cho là về cơ bản thầy ấy đúng... dẫu thế tôi vẫn thích vài bài thơ của bà ấy. Rải rác đây đó, lại có câu hay khổ thơ ám ảnh tôi suốt nhiều ngày, cách sung sướng.

      “ ‘Đoàn quân diễu hành khi vua Alaric băng hà’

      câu như thế, mặc dù tôi thể đưa ra bất kỳ lý do nào lý giải được vì sao tôi thích nó, người ta chẳng bao giờ có thể đưa ra lý do cho say mê, và ví dụ khác nữa,

      “ ‘ thanh của biển, thanh của đêm

      Bao bọc nàng Clotilde quỳ gối cầu nguyện

      Trong nhà thờ nơi an nghỉ những con người vĩ đại

      bờ biển Provence cổ xưa.’

      “Bài thơ thuộc dạng xuất sắc, nhưng dẫu vậy nó vẫn phảng phất ma lực nào đó... tập trung ở dòng cuối cùng, tôi nghĩ thế. Từ trước tới giờ, mỗi khi đọc bài thơ này, tôi lại cảm thấy tôi chính là Clotilde, quỳ ở đó - ‘ bờ biển Provence cổ xưa’ - đầu phấp phới những ngọn cờ của bao cuộc chiến tranh chìm vào quên lãng.

      “Thầy Carpenter chế nhạo tôi ‘thích những thứ cặn bã’ và bảo tôi hãy đọc sách của Elsie ! Nhưng đến lúc tôi ra về, lần đầu tiên trong đời thầy cho tôi lời khen ngợi riêng tư,

      “ ‘Ta thích cái váy xanh trò mặc. Và trò biết cách mặc nó đấy. Tốt lắm. Ta thể chịu nổi nếu phải nhìn thấy người phụ nữ ăn mặc xấu xí. Điều đó khiến ta đau lòng... và ắt hẳn đến cả đấng Sáng tạo cũng đau lòng ấy chứ. Ta sao ưa nổi những người ăn mặc nhếch nhác, và ta dám chắc Ngài cũng vậy. Xét cho cùng, nếu trò biết cách ăn mặc trò có thích bà Hemans cũng chẳng sao cả.’

      đường về nhà tôi gặp Già Kelly, ông ấy dừng lại, cho tôi túi kẹo và nhờ tôi gửi ‘lòng kính trọng tới cậu trai kia’.

      “15 tháng Tám, 19...

      “Năm nay là năm tuyệt vời đối với loài hoa lâu đẩu. Vườn cây ăn quả cũ tràn ngập hoa lâu đẩu; cả vườn hoa đắm chìm trong sắc trắng sắc đỏ thẫm đáng , trong màu xanh thần tiên và màu hồng mơ màng. Những bông lâu đẩu có phần hoang dã và bởi thế mà thấm đẫm nét quyến rũ mà có bất kỳ loại hoa vườn thuần hóa nào sở hữu được. Lại còn cái tên nữa chứ, tự cái tên lâu đẩu ấy cũng nên thơ xiết bao. Những cái tên hoa thông dụng mới đáng biết bao so với những cái tên Latin mà các nhà trồng hoa ấn định cho chúng trong danh mục. Hoa bướm dại, sứ điệp hỏa tiễn, hồng thảo, mõm chó, cỏ chua, cúc ngân diệp, trúc mai, baby, tình trong sương... ôi chao, tôi hết thảy những loài hoa này.”

      “1 tháng Chín, 19...

      “Hôm nay xảy ra hai chuyện. là bà Nancy gửi thư cho bác Elizabeth. Bà Nancy chưa từng để tâm đến tồn tại của tôi kể từ hồi tôi đến thăm Ao Linh Mục bốn năm về trước. Nhưng bà vẫn sống, chín mươi tư tuổi, và xét từ mọi nguồn tin thu thập được, bà vẫn còn tràn đầy sinh lực. Trong bức thư, bà Nancy viết số câu châm chích, về cả tôi lẫn bác Elizabeth, nhưng bà kết thúc bằng việc đề nghị chi trả toàn bộ chi phí của tôi tại Shrewsbury trong năm tới, bao gồm cả chi phí sinh hoạt của tôi tại nhà bác Ruth.

      “Tôi rất vui. Bất chấp thái độ mỉa mai giễu cợt của bà Nancy, tôi có cảm giác áy náy mắc nợ bà. chưa bao giờ chì chiết hay ra vẻ kể cả với tôi... hay làm bất cứ điều gì cho tôi bởi vì bà cảm thấy đó là ‘nghĩa vụ’ của bà. ‘Bỏ qua vấn đề nghĩa vụ ,’ cụ trong thư. ‘Ta làm thế này cốt để chọc tức vài kẻ nhà Priest, và bởi vì Wallace vênh vang thái quá vì “ hỗ trợ giáo dục Emily”. Ta đoán chắc chị vẫn cho rằng chị làm tốt rồi. Bảo Emily quay lại Shrewsbury và có thể học được gì học hết ... nhưng che giấu điều đó và trưng hai cái mắt cá chân ra.’ Đọc xong mà bác Elizabeth hết cả hồn và chịu cho tôi xem bức thư. Nhưng bác Jimmy kể cho tôi biết nội dung.

      “Chuyện thứ hai đó là bác Elizabeth thông báo với tôi rằng, bởi vì bà Nancy trả chi phí cho tôi nên bác ấy, bác Elizabeth, cảm thấy có quyền bắt tôi giữ lời hứa liên quan đến việc sáng tác truyện nữa. Tôi, bác ấy bảo thế, được tự do muốn làm gì làm trong vấn đề này.

      “ ‘Dẫu vậy, ta bao giờ tán thành cháu viết truyện,’ bác ấy nghiêm trang . ‘Ít nhất ta hy vọng cháu lơ là chuyện học tập.’

      “Ôi, đâu, bác Elizabeth dấu, cháu lơ là chuyện học tập. Nhưng tôi cảm thấy mình chẳng khác gì tù nhân vừa được phóng thích. Ngón tay tôi vẫn luôn ngứa ngáy khát khao được siết chặt cây bút, trong óc tôi ngồn ngộn những cốt truyện. Tôi có hàng tá nhân vật tưởng tượng thú vị mà tôi muốn viết. Ôi chao, giá như cáo cái vực sâu thẳm đến thế giữa nhìn thấy vật việc với viết nó lên trang giấy!

      “ ‘Từ lúc cháu nhận được tấm séc nhuận bút viết truyện hồi mùa đông vừa rồi, chị Elizabeth cứ băn khoăn mãi biết có nên để cháu viết lách ,’ bác Jimmy bảo tôi. ‘Nhưng chị ấy thể tự mình nhượng bộ cho tới khi tìm được cái cớ nhờ bức thư của cụ Nancy. Có tiền mua cả Murray cũng được, Emily ạ. Cháu muốn có thêm mấy cái tem Hoa Kỳ nữa ?”

      “Bà Kent bảo Teddy rằng cậu ấy có thể thêm năm nữa. Còn về sau đó cậu ấy cũng chẳng biết rồi có chuyện gì. Vậy nên tất cả chúng tôi đều trở lại trường và tôi quá hạnh phúc đến nỗi chỉ muốn viết nghiêng những từ đó.”

      “10 tháng Chín, 19...

      “Năm nay, tôi được bầu làm lớp trưởng lớp cuối cấp. Và hội Đầu lâu và Cú gửi thông báo cho tôi biết tôi được chọn làm thành viên hội từ tháng Tám mà qua nộp đơn đăng ký như bình thường.

      “Nhân tiện, dạo này, Evelyn Blake bị sưng a mi đan!

      “Tôi đồng ý làm lớp trưởng; nhưng tôi gửi thư cho Đầu lâu và Cú, từ chối tư cách thành viên với thái độ lịch kinh khủng khiếp.

      “Sau khi loại tôi hồi năm ngoái sao, tình!”

      “07 tháng Mười, 19...

      “Hôm nay cả lớp vô cùng phấn khích khi nghe được thông báo chắc chắn từ tiến sĩ Hardy. Bác của Kathleen Darcy, vốn là giáo sư trường McGill, ghé thăm thị trấn, và ông ấy nảy sinh ý tưởng trao giải thưởng cho bài thơ đặc sắc nhất, được viết bởi học sinh trường trung học Shrewsbury - nghe giải thưởng là bộ tổng tập Parkman. Các bài thơ phải được nộp vào ngày 1 tháng Mười , và ‘ ngắn dưới hai mươi dòng, dài quá sáu mươi dòng’. Nghe như thể độ dài là điều kiện tiên quyết vậy. Tối nay tôi sục sạo khắp lượt các cuốn sổ Jimmy vào quyết định gửi bài Nho dại. Đây là bài thơ đặc sắc thứ nhì của tôi. Bài ca về đồng sáu xu là bài thơ đặc sắc nhất, nhưng nó chỉ dài có mười lăm dòng và nếu thêm bất kỳ dòng nào chỉ làm hỏng nó mà thôi. Tôi nghĩ tôi có thể trau chuốt thêm chút nữa cho bài Nho dại. Trong bài thơ có đôi ba từ vẫn luôn khiến tôi cảm thấy chắc chắn. Chúng diễn tả chính xác, đầy đủ suy nghĩ của tôi, tuy nhiên tôi cũng chẳng thể tìm ra bất kỳ cách diễn đạt nào khác. Giá như người ta có thể sáng tạo từ ngữ, giống như tôi vẫn làm từ hồi xưa khi viết thư cho cha, cứ thế mà sáng tạo từ mới bất cứ khi nào tôi muốn. Tuy nhiên, cha ắt hẳn hiểu những từ ấy khi cha đọc thư, trong khi tôi e là ban giám khảo cuộc thi chẳng hiểu được đâu.

      Nho dại xứng đáng giành giải thưởng. Tôi thế này phải do tự cao tự đại, mơ mộng hão huyền hay suy đoán lung tung. Mà chỉ đơn giản là biết thế thôi. Nếu đây là giải thưởng Toán học Kath Darcy hẳn giành được giải. Nếu là giải thưởng về nhan sắc ắt hẳn Hazel Ellis thắng cuộc. Còn nếu là về đa tài, ắt hẳn là Perry Miller; về tài năng diễn thuyết, Ilse; về hội họa, Teddy. Nhưng vì đây là cuộc thi thơ, người đó hẳn phải là Emily Byrd Starr!

      “Năm nay, trong chương trình văn học lớp Hai, chúng tôi nghiên cứu Tennyson và Keats. Tôi thích Tennyson nhưng có nhiều khi ông ấy khiến tôi phát điên. Ông ấy đẹp; quá đẹp giống như Keats; Nghệ sĩ Hoàn hảo. Nhưng ông ấy bao giờ để chúng ta quên mất người nghệ sĩ; chúng ta luôn luôn ý thức được điều đó; ông ấy bao giờ bị gạt hẳn sang bên bởi cơn lũ cảm xúc cuồn cuộn tuôn trào nào đó. Ông ấy như vậy; ông ấy bình thản chảy trôi giữa những bờ nước gọn gàng và những khu vườn được bố trí cẩn thận chu đáo. Và bất kể có khu vườn đến đâu chăng nữa, người ta cũng muốn lúc nàocũng bị giam cầm trong đó; người ta vẫn mong muốn thỉnh thoảng được ngao du vào chốn hoang dã. Ít nhất Emily Byrd Starr là người như vậy; trước nỗi phiền muộn của họ hàng.

      “Keats quả thực quá dồi dào vẻ đẹp. Khi đọc thơ của ông ấy, tôi gần như ngạt thở vì hoa hồng và chỉ khát khao luồng khí giá lạnh hay khắc khổ của đỉnh núi rét căm căm. Nhưng, ôi chà, ông ấy có vài câu thơ...

      “ ‘Khung cửa sổ nhiệm mầu mở toang bọt sóng của đại dương tầng tầng nguy hiểm, giữa mảnh đất thần tiên hoang vắng...’

      “Mỗi khi đọc những câu này, tôi đều cảm thấy nỗi tuyệt vọng nào đó! Rốt cuộc, có ích lợi khi cứ cố gắng thực điều vốn được thực rồi?

      “Nhưng tôi vẫn tìm thấy vài câu thơ khác khơi nguồn cảm hứng cho mình; tôi chép lại những câu này vào trang chỉ mục của cuốn sổ Jimmy mới.

      “ ‘ ta bao giờ được ban cho bất tử

      E sợ dám theo

      dẫn dắt của những giọng từ cao.’

      “Ôi chao, đúng vậy. Chúng ta phải theo ‘những giọng từ cao’, theo chúng băng qua hết thảy mọi hèn nhát, ngờ vực, hoài nghi, cho tới khi chúng dẫn ta đến với Thành phố Mãn nguyện, bất kể nó ở đâu cũng vậy.

      “Hôm nay, tôi nhận được bốn thư từ chối, khàn giọng gào lên báo cho tôi tin thất bại. Những Giọng Từ Cao nhạt nhòa dần giữa bầu khí ồn ào nhường ấy. Nhưng tôi rồi lại nghe thấy chúng thôi. Và tôi theo; tôi hèn nhát. Nhiều năm về trước tôi từng viết ‘lời thề’; hôm nọ tôi tìm thấy nó trong gói đồ cũ cất trong tủ của tôi; rằng tôi ‘leo lên Đường Alps và đề tên mình lên bảng danh vọng’.

      “Tôi tiếp tục leo lên!”

      “20 tháng Mười, 19...

      “Hôm nọ, tôi thức thâu đêm đọc tác phẩm Biên niên sử khu vườn lâu năm do tôi sáng tác. Tôi thấy giờ đây, khi bác Elizabeth bãi bỏ lệnh cấm vận, hẳn là tôi có thể trau chuốt ra trò cho nó. Tôi muốn thầy Carpenter đọc nó, nhưng thầy ấy bảo,

      “ ‘Chúa ôi, này, làm sao ta có thể trầy trật đọc cho hết cái thứ đó được chứ. Mắt ta kém lắm. Nó là cái gì vậy... cuốn sách à? Ngọc Bích ạ, phải mười năm nữa mới đến lúc trò viết sách.’

      “ ‘Con phải thực hành chứ ạ,’ tôi phẫn nộ .

      “ ‘Ôi chà, thực hành ; cứ thực hành ; nhưng đừng có tìm kiếm đáp án ở ta. Ta già quá rồi; ta già rồi, Ngọc Bích ạ. Ta phiền nếu đọc truyện ngắn... rất ngắn... thỉnh thoảng thôi... nhưng hãy để lão già tội nghiệp tránh xa đám sách nhé.’

      “Tôi có thể hỏi xem chú Dean nghĩ gì về nó. Nhưng chú Dean giờ đây lại bật cười trước những tham vọng của tôi - cách rất thận trọng và tử tế - nhưng chú ấy cười. Còn Teddy cho rằng tất cả những gì tôi viết đều hoàn hào, vậy nên chẳng ích lợi gì nếu nhờ cậu ấy làm người phê bình. Tôi băn khoăn mãi... tôi băn khoăn mãi biết liệu có bất kỳ nhà xuất bản nào chấp nhận Biên niên sử ? Tôi dám chắc thấy nhiều cuốn sách tương tự cũng chẳng xuất sắc hơn nhiều lắm.

      “11 tháng Mười , 19...

      “Tối nay, tôi dành thời gian giúp ông Towers ‘cắt gọt’ cuốn tiểu thuyết. Hồi tháng Tám, khi ông Towers nghỉ, phó tổng biên tập, ông Grady, bắt đầu cho đăng tải tờ Thời đại loạt bài Trái tim đẫm máu. Thay vì đăng bài viết khoa học trình bày đúng chuẩn, giống như ông Towers luôn làm vậy, ông Grady chỉ đơn giản mua ở hiệu sách bản sách in lại của cuốn tiểu thuyết tiếng vô cùng sướt mướt giật gân và bắt đầu đăng tải nó. Cuốn tiểu thuyết rất dài và mới chỉ được trình làng nửa. Ông Towers nhận thấy nếu cứ để nguyên theo hình thức thời phải mất cả mùa đông mới đăng hết truyện. Vậy nên ông ấy thuê tôi xem xét cắt ‘tất tật những thứ cần thiết’. Tôi tuân thủ lời chỉ dẫn này cách hề khoan nhượng; ‘cắt bỏ’ phần lớn cảnh hôn hít ôm ấp, cắt hai phần ba cảnh đương ân ái và tất tật những đoạn miêu tả, dẫn đến kết quả đáng vui mừng là tôi rút gọn nó xuống chỉ còn bằng phần tư độ dài ban đầu; và tôi chỉ có thể rằng hẳn Chúa ban phúc cho người thợ sắp xếp chữ phải trình bày nó trong tình trạng bị cắt xén thời.

      “Mùa hè và mùa thu trôi qua. Tôi cứ có cảm giác dường như chúng tôi nhanh hơn thường lệ. Cúc hoàng chuyển màu trắng xóa trong những ngóc ngách của Miền Chính Trực, và sáng sáng sương giá như tấm khăn choàng màu bạc phủ mặt đất. Những ngọn gió đêm tung tăng ‘réo rắt khắp thung lũng hoang dại’ là những nhà tìm kiếm đau khổ tìm kiếm những thứ được thương và mất, vô vọng kêu gọi tinh và tiên nữ. Vì trong những câu chuyện thần tiên, nếu họ trốn biệt về tít tận miền Nam ắn hẳn cuộn mình ngủ say trong tim những cây linh sam hoặc giữa rễ cây dương xỉ.

      “Và tối nào cũng vậy, hoàng hôn đỏ ối đốt cháy cả bến cảng trong sắc đỏ thẫm sương khói, còn bầu trời, vì sao như linh hồn cứu rỗi hướng đôi mắt tràn ngập xót thương chằm chằm nhìn vào những vực sâu đau khổ, nơi bao linh hồn tội lỗi gột rửa những vết nhơ từ chuyến hành hương nơi trần thế.

      “Liệu tôi có dám cho thầy Carpenter nhìn thấy câu ? Hẳn là rồi. Bởi vậy, nó ổn cách đáng sợ. Nó được ‘viết cách cầu kỳ’. Tuy nhiên, đó đúng là cảm giác nảy sinh trong tôi khi tôi đứng ngọn đồi phía bên kia Miền Chính Trực tối nay và nhìn bao quát bến cảng. Và ai thèm quan tâm cái cuốn nhật ký cũ rích này nghĩ gì cơ chứ?”

      “02 tháng Mười hai, 19...

      “Hôm nay, người ta công bố kết quả cuộc thi thơ. Evelyn Blake giành chiến thắng với bài thơ được đặt tên Huyền thoại Abegweit.

      “Chẳng có gì để nữa... vậy nên tôi thế thôi.

      “Thêm nữa, bác Ruth hết cả rồi!”

      “15 tháng Mười hai, 19...

      “Bài thơ đoạt giải của Evelyn được đăng tải tờ Thời đại số ra tuần này, kèm theo bức ảnh chân dung và trích tiểu sử của ta. Bộ Parkman được bày trong tủ trưng bày ở hiệu sách.

      Huyền thoại Abegweit quả là bài thơ khá hay. Nó được viết theo phong cách ballad, và vần nhịp đều chuẩn; điều tôi thể dùng để về bất kỳ bài thơ nào khác tôi từng được đọc của Evelyn.

      “Hễ thấy tôi có bất kỳ tác phẩm nào được xuất bản là thể nào Evelyn Blake cũng bảo ta chắc chắn tôi sao chép nó từ đâu đó. Tôi thích bắt chước ta; nhưng tôi biết thừa ta bao giờ viết được bài thơ đó. Nó thể bất kỳ biểu cảm nào của ta. ta dễ có khả năng bắt chước chữ viết tay của tiến sĩ Hardy mà tự nhận là của ta lắm. Lối viết hoa mỹ đều nét của ta giống với lối viết tháu mạnh mẽ của tiến sĩ Hardy cũng ngang với bài thơ ấy giống như bài thơ của ta vậy.

      “Ngoài ra, mặc dù Huyền thoại Abegweit cũng khá hay nhưng nó đặc sắc bằng Nho dại.

      “Tôi thế với bất cứ ai mà chỉ viết vào cuốn nhật ký này thôi. Bởi vì nó là .

      “20 tháng Mười hai, 19...

      “Tôi đưa cho thầy Carpenter đọc Huyền thoại AbegweitNho dại. Đọc xong cả hai bài thơ rồi, thầy hỏi, ‘Ban giám khảo gồm những ai?’.

      “Tôi cho thầy biết.

      “ ‘Trò hãy gửi lời thăm hỏi của ta tới họ nhé, và cho họ biết họ chỉ là lũ lừa,’ thầy .

      “Tôi thấy dễ chịu hẳn. Tôi với ban giám khảo - hay bất kỳ ai - rằng họ là lũ lừa. Nhưng biết được điều đó cũng khiến tôi được an ủi nhiều.

      “Lạ điều, bác Elizabeth muốn đọc Nho dại, và đọc xong rồi, bác ấy bảo,

      “ ‘Tất nhiên ta phải giám khảo thơ, nhưng theo ta thấy bài thơ của cháu xứng đáng được xếp hạng cao hơn.’”




      “04 tháng , 19...

      “Tôi trải qua tuần Giáng sinh ở nhà bác Oliver. Tôi thích kỳ nghỉ này. Nó quá ồn ào. Nhiều năm về trước tôi thích thế , nhưng hồi đó họ có bao giờ hỏi ý kiến tôi đâu. Tôi phải ăn khi chẳng hề đói bụng; thích mà vẫn phải chơi trò cá ngựa; trò chuyện trong khi chỉ muốn lặng im. Suốt thời gian ở đó, tôi chẳng bao giờ có giây phút nào được ở mình. Thêm nữa, Andrew càng ngày càng trở nên khó chịu tả nổi. Còn bác Addie ra cái vẻ tử tế tràn đầy tình mẫu tử đến là đáng ghét. Lúc nào cũng vậy, tôi chí có độc cảm giác mình giống như con mèo miễn cưỡng bị giữ trong lòng người ta và được vuốt ve nhàng, kiên quyết. Tôi phải ngủ cùng Jen, bà chị họ ngang tuổi luôn thầm nghĩ tôi quá kém cỏi xứng đáng với Andrew nhưng dẫu vậy, dưới ban phước của Chúa, cố gắng vui vẻ chấp nhận. Jen là tử tế, nhạy cảm, và chúng tôi trở thành bạn bè chút chút. Đây là khái niệm do tôi sáng tạo ra. Jen và tôi thân thiết hơn so với mối quan hệ họ hàng thuần túy, nhưng vẫn chưa đích thực là bạn bè của nhau. Chúng tôi luôn luôn là bạn bè chút chút. Chúng tôi tìm được tiếng chung.

      “Khi trở về mái nhà Trăng Non dấu, tôi leo lên phòng, đóng cửa lại và hân hoan chìm trong độc.

      “Hôm qua trường vào học kỳ mới. Hôm nay, ở hiệu sách, tôi được cười thầm trận. Bà Rodney và bà Elder tìm mấy cuốn sách, rồi bà Elder bảo,

      “ ‘Cái câu chuyện tờ Thời đại ấy - Trái tim đẫm máu - là câu chuyện kỳ lạ nhất tôi từng được đọc. Nó cứ lan ma lan man, hết chương này đến chương khác, hết tuần này sang tuần khác, dường như chẳng bao giờ dẫn đến đâu cả, thế rồi đùng cái nó kết thúc sau tám chương. Tôi tài nào hiểu nổi nó.’

      “Lẽ ra tôi có thể vén màn bí mật cho bà ấy nhưng tôi làm thế.”

    4. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 20: Trong nhà cũ của John




      Khi Người phụ nữ từng đét mông đức vua được chấp thuận và đăng tải tạp chí New York khá danh tiếng, cả làng Hồ Blair và Shrewsbury xôn xao ít, nhất là khi người ta thầm rỉ tai báo cho nhau tin tức khó có thể tin nổi, rằng Emily quả thực được trả nhuận bút bốn mươi đô la. Lần đầu tiên trong đời, họ hàng bắt đầu xem xét niềm say mê viết lách của với thái độ khá nghiêm túc, rồi cuối cùng và mãi mãi, bà Ruth đành từ bỏ hết thảy mọi lời gièm pha về chuyện lãng phí thời gian. Tin chấp thuận này đến đúng thời điểm tâm lý phù hợp, khi lòng tin của Emily xuống thấp đáng kể. Suốt cả mùa thu rồi mùa đông, mọi tác phẩm của đều bị gửi trả lại, chỉ trừ những tác phẩm gửi cho hai tạp chí mà tòa soạn ắt hẳn cho rằng văn chương bản thân nó là giải thưởng và chẳng mấy liên quan đến những cân nhắc sặc mùi tiền bạc làm giảm giá trị của nó.

      Ban đầu, luôn cảm thấy khổ sở vật vã mỗi khi bài thơ hoặc câu chuyện thấm đẫm nỗ lực của lại bị trả về kèm theo mẩu giấy từ chối lạnh lùng hay đôi lời ca ngợi nhạt nhòa - những từ chối “nhưng mà”, Emily gọi chúng như vậy, và căm ghét chúng hơn cả những thư từ chối được đánh máy. Nước mắt tuyệt vọng rơi. Nhưng thời gian sau, càng lúc càng trở nên cứng cỏi, và còn phiền muộn... quá nhiều... nữa. chỉ nhìn lá thư của tòa soạn ấy bằng vẻ Murray và “Tôi thành công”. Và chưa giây phút nào tâm nghi ngờ chuyện mình thành công. Trong sâu thẳm, tận đáy lòng, cái gì đó nhắc nhủ rằng rồi có lúc, đến thời của . Vậy nên, dẫu nhất thời nao núng trước mỗi từ chối ấy, giống như khi chùn bước trước ngọn roi quất , vẫn ngồi xuống và... viết câu chuyện khác.

      Dẫu vậy, tiếng nội tâm của càng lúc càng yếu ớt dưới tác động của bao nhiêu nản lòng như thế. Bằng việc Người phụ nữ từng đét mông đức vua được chấp thuận, tiếng ấy đột nhiên lại được nâng lên thành bài ca tụng hân hoan mạnh mẽ. Tấm séc mang ý nghĩa lớn lao đấy, nhưng sức công phá của tờ tạp chí ấy còn mang ý nghĩa mãnh liệt hơn nhiều. cảm thấy chắc chắn mình đạt được chỗ đứng vững vàng. Thầy Carpenter cười khúc khích suốt khi đọc truyện và bảo rằng nó thực “xuất sắc chê vào đâu được”.

      “Phần đặc sắc nhất trong câu chuyện này là của bà McIntyre đấy ạ,” Emily rầu rĩ . “Con thể gọi nó là tác phẩm của con được.”

      “Bố cục là của trò; và những thêm thắt của trò hài hòa đến mức hoàn hảo với nền móng trò xây dựng. Và trò đánh bóng thái quá câu chuyện của bà ấy; điều đó cho thấy tố chất của người nghệ sĩ. Trò có bị ham muốn đó cám dỗ ?”

      “Có chứ ạ. Có rất nhiều chỗ con cho rằng con có thể trau chuốt lên rất nhiều.”

      “Nhưng trò tìm cách làm thế; chính điều đó khiến nó thành tác phẩm của trò,” thầy Carpenter , rồi để lại mình giải mã ý nghĩa câu của ông.

      Emily tiêu ba mươi lăm đô la trong số tiền nhận được cách hợp lý đến nỗi ngay cả bà Ruth cũng thể tìm ra sai lầm nào ở tiền quỹ của . Nhưng với năm đô la còn lại, dùng để mua bộ Parkman. Bộ này còn hay hơn nhiều so với bộ được đưa ra làm giải thưởng - thực ra là bộ được nhà tài trợ chọn lọc từ danh sách đặt hàng qua bưu điện; và Emily cảm thấy tự hào hơn nhiều so với việc giành được nó nhờ chiến thắng trong cuộc thi tài. Xét cho cùng, tự mình mua được đồ cho mình bao giờ mà chẳng hay hơn. Emily vẫn còn giữ những tập Parkman ấy; bây giờ có phần cũ sờn và chữ in còn sắc nét nữa, nhưng lại thân thương với hơn tất cả những tác phẩm khác trong thư viện của . Suốt mấy tuần liền, chìm trong cảm giác hạnh phúc và hưng phấn. Người nhà Murray tự hào về . Hiệu trưởng Hardy khen ngợi , nhà diễn thuyết địa phương khá tiếng tăm đọc truyện của tại buổi hòa nhạc ở Charlottetown. Và, tuyệt vời hơn hết thảy, độc giả từ Mexico xa xăm viết thư cho , bày tỏ niềm vui thích mà Người phụ nữ từng đét mông đức vua mang lại cho ông ta. Emily đọc đọc lại bức thư cho tới khi thuộc nằm lòng nội dung, và nhét nó xuống dưới gối mỗi khi ngủ. Chưa từng có bức thư tình nào được đối xử bằng thái độ âu yếm hơn mức đó.

      Rồi vụ căn nhà cũ của ông John xảy đến như đám mây dông, làm tối sầm toàn bộ bầu trời xanh ngắt của .

      tối thứ Sáu, buổi hòa nhạc và “giao lưu” được tổ chức ở Ao Thành Kiến và Ilse được mời lên đọc thơ. Bác sĩ Burnley chở Ilse, Emily, Perry và Teddy chiếc xe trượt rộng rãi của ông, và họ đánh xe suốt tám dặm đường băng qua màn tuyết vừa bắt đầu giăng trong bầu khí vui vẻ rộn ràng. Nửa chừng buổi hòa nhạc, bác sĩ Burnley bị gọi ra ngoài. Trong gia đình ở Ao Thành Kiến, có người đột nhiên lâm bệnh nặng. Bác sĩ rời , dặn Teddy phải đánh xe đưa cả nhóm về nhà. Bác sĩ Burnley hể nghi ngại khi đưa ra quyết định này. Ở Shrewsbury và Charlottetown, người ta có ít quy định ngu ngốc về chuyện hộ tống các thiếu nữ, nhưng ở Hồ Blair và Ao Thành Kiến . Teddy và Perry là những chàng trai tử tể; Emily là người mang dòng máu Murray; Ilse phải kẻ ngốc. Ngài bác sĩ hẳn đúc rút cách ngắn gọn về họ như thế nếu ông suy nghĩ về vấn đề này.

      Kết thúc buổi hòa nhạc, họ lên đường về nhà. Lúc này tuyết rơi dày và gió cuồn cuộn thổi, nhưng ba dặm đường đầu tiên, nhóm bạn dưới che chở của rừng cây và cũng thiếu phần thú vị. vẻ đẹp hoang dã bí hiểm trùm khắp những hàng cây khoác áo choàng tuyết đứng dưới ánh sáng bằng bạc của vầng trăng nấp sau những đám mây dông. Chiếc chuông đeo cổ con ngựa kéo xe trượt tuyết rung lên ngạo nghễ trước tiếng gió rít gào xa tít trung. Teddy dễ dàng điều khiển cỗ xe ngựa của ngài bác sĩ. Có những lúc, Emily đồ rằng cậu chỉ đánh xe bằng tay. băn khoăn mãi biết liệu cậu có để ý thấy tối hôm đó lần đầu tiên bới tóc “cao”, thành búi tóc đen như gỗ mun bên dưới chiếc mũ đỏ thẫm. lần nữa, Emily lại thấy chuyện gió bão cũng có gì đó khá thú vị.

      Tuy nhiên, đến khi họ ra khỏi rừng rắc rối bắt đầu. Cơn bão ào ạt xô về phía họ trọn vẹn cơn cuồng nộ của nó. Con đường mùa đông cắt ngang các cánh đồng, uốn lượn quanh co khúc khuỷu với những khúc cua tay áo vào vào ra ra rồi lượn quanh các ngóc ngách, các khoảnh vân sam - con đường hẳn “làm gãy lưng rắn”, như cách của Perry. Con đường gần như bị tuyết bịt kín và đàn ngựa bị lún xuống tới tận đầu gối. Còn chưa được dặm Perry mất hết nhuệ khí mà rít lên.

      “Chúng ta thể nào về đến Hồ Blair trong tối nay được đâu, Ted.”

      “Chúng ta phải kiếm chỗ nào đó thôi,” Ted hét to. “Chúng ta thể hạ trại ở đây được. Mà chẳng có ngôi nhà nào đâu, trừ phi chúng ta quay về được con đường mùa hè ở phía bên kia đồi Shaw. Rúc sâu vào trong áo choàng nhé, các . Cậu vào trong với Ilse hơn, Emily ạ, còn Perry ra đây ngồi với tớ.”

      chuyển giao này phát huy tác dụng, Emily còn cảm thấy cơn bão thú vị như trước nữa. Cả Perry lẫn Teddy đều vô cùng lo ngại. Họ biết lũ ngựa thể tiến xa quá khi tuyết dày đặc thế này; con đường mùa hè phía bên kia đồi Shaw bị tuyết bịt kín, và những ngọn đồi cao trống trải nằm giữa các thung lũng của Ao Thành Kiến và Hồ Blair, khí lạnh căm căm.

      “Chỉ cần đến được chỗ Malcolm Shaw là chúng ta ổn cả thôi,” Perry lầm bầm.”

      “Chúng ta chẳng thể nào xa đến thế được đâu. Đến giờ quả đồi nhà Shaw ngập đến tận đỉnh hàng rào rồi ấy chứ,” Teddy . “Ngôi nhà cũ của ông John ở ngay đây này. Cậu thấy chúng ta có ở lại đây được ?”

      “Lạnh như cái chuồng ngựa ấy,” Perry . “Hai đóng băng mất thôi. Chúng ta phải cố gắng đến cho được chỗ ông Malcolm.”

      Khi lũ ngựa lặn lội được đến chỗ con đường mùa hè, hai cậu bé chỉ cần liếc mắt nhận ra ngay quả đồi nhà ông Shaw là phương án vô vọng. Mọi dấu vết của con đường bị lớp tuyết trùm lên cả đỉnh hàng rào xóa sạch. Các cột điện thoại bị gió quật đổ lạc sang tận phía bên kia đường, và cây to đổ xuống chắn ngang lỗ hổng thông từ con đường đồng ra đường cái.

      “Chẳng thể làm được gì ngoài cách quay lại ngôi nhà cũ của ông John,” Perry . “Chúng ta thể lang thang đồng ngược chiều cơn bão này để tìm đường băng tới chỗ đồi nhà Malcolm được. Thể nào chúng ta cũng mắc kẹt và chết cóng mất.”

      Teddy đánh ngựa vòng lại. Tuyết rơi dày đặc hơn bao giờ hết. Mỗi phút trôi qua, lớp tuyết đóng mặt đất lại càng dày hơn. Dấu vết con đường hoàn toàn biến mất, và nếu ngôi nhà cũ của ông John ở cách đó quá xa ắt hẳn nhóm bạn chẳng bao giờ tìm thấy nó. May mắn thay, ngôi nhà lại ở ngay gần đó, và sau chặng đường cuối cùng loạng choạng băng qua lớp tuyết rắn chắc, có lúc khiến hai cậu con trai phải rời khỏi xe dò dẫm bộ, nhóm bạn tiến được đến khoảng đất trống tương đối yên bình giữa rừng vân sam non, nơi tọa lạc ngôi nhà của ông John.

      “Ngôi nhà cũ của ông John” vốn cũ kỹ từ bốn mươi năm trước, hồi John Shaw chuyển đến cùng dâu trẻ tuổi của mình. Kể từ hồi đó, ngôi nhà trở thành chốn hiu quạnh, cách xa đường cái, và gần như mất hút dưới bao bọc của rừng vân sam. Ông John Shaw từng sống ở nơi này năm năm; sau đó vợ ông qua đời; ông bèn bán trang trại cho người em Malcolm và chuyển tới miền Tây. Ông Malcolm trồng trọt khu đất và tu sửa kha khá kho thóc , nhưng riêng ngôi nhà từ thời đó đến giờ vẫn chưa từng có ai đến ở, chỉ trừ vài tuần mùa đông, mấy người con trai của ông Malcolm đến nghỉ tạm trong thời gian họ “ra ngoài kiếm củi”. Ngôi nhà thậm chí còn chẳng bị khóa. Ở Ao Thành Kiến, người ta chẳng tìm đâu ra kẻ trộm cắp và người lang thang. Nhóm người lỡ độ đường của chúng ta dễ dàng tìm thấy đường vào qua cánh cửa của mái hiên xập xệ, và ai nấy đều thở phào nhõm nhận ra mình thoát khỏi cơn gió rít gào và trận bão tuyết quay cuồng.

      “Dù sao nữa chúng ta cũng chết cóng được,” Perry . “Ted và tớ tìm cách cho lũ ngựa vào trong kho thóc rồi sau đó quay lại xem liệu chúng ta có thu xếp thoải mái cho mình được . Tớ có diêm đây rồi mà tớ trước nay chưa từng lâm vào thế bí bao giờ.”

      Perry chẳng gặp mấy khó khăn trong việc chứng minh lời khoe khoang của mình. Que diêm được cậu thắp sáng chiếu tỏ hai cây nến cháy dở cắm trong giá nến thấp bằng thiếc, cái lò sưởi Waterloo cổ lỗ dù rạn nứt và han gỉ nhưng vẫn tương đối sử dụng được, cộng thêm ba cái ghế tựa, cái ghế dài, cái sofa và cái bàn.

      “Chuyện này có gì ổn đâu nhỉ?” Perry cật vấn.

      “Mọi người ở nhà lo lắng cho chúng ta lắm lắm, có vậy thôi,” Emily vừa vừa rũ cho tuyết rơi khỏi quần áo khoác.”

      “Họ chẳng chết vì lo lắng sau tối được đâu,” Perry . “Dù sao mai chúng ta cũng về được nhà rồi.”

      “Còn từ giờ đến lúc đó đây quả là chuyến phiêu lưu,” Emily bật cười. “Hãy cố hết sức tận hưởng vui thú từ nó nào.”

      Ilse gì; mà với Ilse như thế quả tình rất kỳ quặc. Nhìn sang, Emily nhận thấy bạn xanh như tàu lá, và chợt nhớ ra từ lúc họ rời khỏi hội trường buổi hòa nhạc, Ilse yên lặng đến là bất thường.

      “Cậu sao đấy chứ, Ilse?” lo lắng hỏi.

      “Tớ ổn chút nào cả,” Ilse , kèm theo nụ cười nhợt nhạt. “Tớ... tớ mệt mỏi và buồn nôn,” bổ sung bằng giọng mãnh liệt chứ hề tao nhã.

      “Ôi, Ilse...”

      “Đừng có bốc hỏa lên,” Ilse mất kiên nhẫn . “Tớ nhiễm bệnh viêm phổi hay viêm ruột thừa đâu. Tớ chỉ buồn nôn thôi. Có lẽ tại cái bánh tớ ăn ở buổi hòa nhạc ấy ngậy quá. Nó làm cái dạ dày bé của tớ lộn tùng phèo cả lên rồi. Ọe.... e...e.”

      “Cậu nằm xuống sofa ,” Emily hối thúc. “Có lẽ cậu thấy khá hơn đấy.”

      Khổ sở nhún vai, Ilse nằm xuống. “Đau bụng” phải vụ ốm đau vớ vẩn viển vông mà cũng chẳng phải trận ốm nặng đe dọa đến tính mạng, nhưng chắc chắn trong thời gian nhiễm bệnh, bệnh nhân bị nó hút cạn mọi nhiệt tình hứng khởi.

      Cánh con trai tìm thấy thùng củi đầy phía sau lò sưởi, bèn nhanh chóng đốt được đống lửa bập bùng. Perry cầm lấy cây nến và thám hiểm ngôi nhà . Trong căn phòng thông từ bếp ra, có cái giường khung gỗ theo kiểu cổ phủ tấm đệm bện bằng dây thừng. Căn phòng khác - thời xưa từng là phòng khách của Almira Shaw - ngập lưng lửng rơm yến mạch. gác chẳng có gì ngoài trống trải và bụi bặm. Nhưng Perry khám phá ra vài thứ trong cái chạn .

      “Ở đây có hộp thịt lợn và đậu,” cậu thông báo, “và nửa hộp bánh quy nữa. Tớ tìm thấy bữa sáng cho chúng ta rồi. Hẳn là mấy người con trai nhà Shaw bỏ chúng lại đây. Gì nữa này?”

      Perry mang ra cái chai , mở nút và ngửi khịt khịt vẻ nghiêm trọng.

      “Whisky, chắc như bắp. nhiều, nhưng cũng đủ đấy. Thuốc của cậu đây rồi này, Ilse. Pha vào ít nước nóng, rồi nhoắng cái là nó làm bụng cậu êm như ru luôn.”

      “Tớ ghét vị whisky,” Ilse rên rỉ. “Cha tớ chẳng bao giờ uống thứ đó... cha thích whisky.”

      “Bác Tom có đấy,” Perry , như thể thế là xong chuyện vậy. “Nó là phương thuốc đảm bảo đấy. Cứ thử mà xem.”

      “Nhưng làm gì có nước chứ,” Ilse .

      “Vậy cậu cứ thế mà uống thôi. Trong chai này chỉ còn khoảng hai thìa con thôi. Cứ thử xem. Nếu chữa khỏi nó cũng chẳng giết chết cậu đâu mà lo.”

      Ilse tội nghiệp đau đớn khổ sở quá mức, đâm ra sẵn sàng dùng bất cứ thứ gì, trừ thuốc độc, chỉ cần cho rằng nó có khả năng giúp khá hơn. bò ra khỏi sofa, ngồi xuống cái ghế trước lò sưởi và uống liều thuốc này. Đây là loại whisky vừa mạnh vừa ngon, Malcolm Shaw có thể cho bạn biết thế. Và theo ý tôi thực ra trong chai chỉ còn có hai thìa con, mặc dù Perry luôn nhất mực quả quyết rằng thể nhiều hơn được. Ilse cuộn người ngồi ghế thêm mấy phút nữa, sau đó đứng dậy, ngập ngừng đặt tay lên vai Emily.

      “Cậu có thấy ổn chỗ nào ?” Emily lo lắng hỏi.

      “Tớ... tớ say rồi,” Ilse . “Giúp tớ quay lại sofa . Tớ sắp ngã khuỵu xuống rồi. Gã Scotland ở Malvern nào từng rằng gã chẳng bao giờ say rượu nhưng whisky lúc nào cũng chôn trong đầu gối gã ấy nhỉ? Nhưng whisky của tớ còn ở cả trong đầu tớ nữa. Nó quay mòng mòng đây này.”

      Cả Perry lẫn Teddy đều vọt tới giúp , và dưới kèm cặp của hai người, Ilse chân nam đá chân chiêu trở về tư thế an toàn sofa.

      “Chúng tớ có làm gì được ?” Emily khẩn nài.

      làm nhiều lắm rồi còn gì,” Ilse với vẻ phi thường trang nghiêm. nhắm mắt lại và dẫu ai khẩn khoản đến thế nào cũng chẳng hề đáp lời. Cuối cùng, đành phải thấy rằng tốt hơn hết là cứ để mặc đấy.

      “Cậu ấy ngủ giấc là xong ấy mà, và đằng nào nữa, tớ đoán là nó giúp bụng dạ cậu ấy ổn định lại thôi,” Perry .

      Emily chẳng tài nào nhìn nhận việc bằng thái độ bình thản thế được. Mãi nửa tiếng sau, khi tiếng thở êm ái của Ilse chứng tỏ quả thực ngủ say, Emily mới bắt đầu nhấm nháp mùi vị chuyến “phiêu lưu”. Gió quần quật quanh ngôi nhà cũ, lắc cửa sổ rung lên cành cạch như thể điên cuồng phẫn nộ vì các bạn trẻ thoát khỏi móng vuốt của nó. dễ chịu xiết bao khi được ngồi trước lò sưởi, lắng nghe giai điệu hoang dã của cơn bão bại trận; dễ chịu xiết bao khi nghĩ về quãng đời qua của ngôi nhà cũ chết này, trong những tháng năm nó vẫn còn ngập tràn tình và tiếng cười; dễ chịu xiết bao khi chuyện trò cùng Perry và Teddy về đủ mọi thứ đời, dưới ánh nến chập chờn; dễ chịu xiết bao khi thỉnh thoảng lại được ngồi lặng im, chăm chăm nhìn ánh lửa nhấp nháy đầy mê hoặc chiếu vầng trán trắng như sữa cùng đôi mắt mơ màng ám ảnh của Emily. Bất chợt nhìn lên, lần nữa Emily phát ra Teddy nhìn bằng ánh mắt lạ kỳ. Trong thoáng, ánh mắt hai người giao nhau và dẫu hai ánh mắt chỉ giam cầm nhau trong thoáng chốc, nhưng vẫn đủ khiến Emily mãi mãi bao giờ trở về con người cũ được nữa. sửng sốt hiểu có chuyện gì. Từ nơi nào mà tuôn trào ngọn sóng ngọt ngào khôn tả dường như nuốt trọn cả tâm hồn lẫn thể xác đây? run rẩy... sợ hãi. Dường như nó mở bung những tiềm năng thay đổi đủ khiến người ta choáng váng. Suy nghĩ mạch lạc duy nhất lên từ tâm trí hỗn loạn của muốn được cùng Teddy ngồi trước ánh lửa như thế này mỗi tối cho đến tận cuối đời; và mặc xác bão với bùng! dám nhìn Teddy lần nữa, nhưng run lên bởi cảm giác ngọt ngào về gần gũi của cậu; ý thức cách sâu sắc về dáng người cao ráo thẳng tắp trẻ trung của cậu, về mái tóc đen bóng mượt, đôi mắt xanh sẫm long lanh của cậu. Từ trước tới giờ, vẫn luôn biết mình quý Teddy hơn bất kỳ sinh vật giống đực nào lọt vào tầm mắt; nhưng đây cảm xúc khác hẳn so với quý thông thường; cảm giác thân thuộc với cậu như máu thịt này nảy sinh cùng trao đổi ánh mắt đầy ý nghĩa ấy. Đột nhiên, dường như hiểu lý do tại sao luôn lạnh nhạt với bất kỳ cậu trai nào ở trường trung học mong muốn được thành bồ của . hân hoan của câu thần chú vừa đột ngột hạ người quá choáng ngợp đến độ thể phá vỡ nó. vụt đứng dậy bước đến bên cửa sổ. Tiếng tuyết thầm huýt khẽ bên những giọt băng trắng xanh đậu bệ cửa dường như nhàng tỏ ý khinh thị trước nỗi hoang mang của . Ba đụn cỏ khô to lợp tuyết lên lờ mờ nơi góc kho, dường như cười rung bần bật trước tình thế khó xử của . Lửa trong lò phản chiếu ra bên ngoài khoảng đất trống có phần giống như đống lửa mừng của loài tinh cười cợt dưới gốc linh sam. Đằng sau nó, phía bên kia khu rừng, là những khoảng trống khôn dò thấu của cơn bão trắng xóa. Trong thoáng, Emily thầm ước sao được ở ngoài trời giữa vòng vây của chúng; ở ngoài đó, để được giải thoát khỏi giam cầm của niềm hân hoan đáng sợ bất ngờ vô duyên vô cớ biến thành tù nhân - , con người vốn căm ghét mọi ràng buộc.

      “Liệu có phải mình Teddy rồi hay ?” nghĩ. “ phải đâu... phải thế đâu.”

      Perry, hề ý thức được hết thảy vấn đề chớp nhoáng xảy ra giữa Teddy và Emily, ngáp dài và vươn người.

      “Có lẽ tốt hơn hết chúng ta nên kiếm cỏ khô thôi; nến sắp cháy hết rồi. Tớ cho là chúng ta có thể lấy rơm làm cái giường ngon lành thực đấy, Ted ạ. Mang đủ ra ngoài kia rồi chất lên khung giường để làm cho các chỗ ngủ dễ chịu thôi. Phủ lên bằng trong những tấm thảm lông kia nữa là đến nỗi quá tệ đâu. Tôi nay chúng ta thể nào cũng có những giấc mơ đẹp cho xem, đặc biệt là Ilse. biết cậu ấy tỉnh rượu chưa?”

      “Tớ có cả rổ giấc mơ để đem bán đây rồi,” Teddy , có chút khác lạ, trong giọng và thái độ toát lên niềm hân hoan mới mẻ tài nào cân đong đo đếm được. “Cậu thiếu gì nào? Cậu thiếu gì đây? giấc mơ về thành công; giấc mơ phiêu lưu; giấc mơ về biển cả; giấc mơ về miền rừng; bất kỳ giấc mơ nào cậu muốn với cái giá hợp lý, kể cả vài cơn ác mộng vặt vãnh độc nhất vô nhị. Cậu lấy gì để đổi lấy giấc mơ đây?”

      Emily quay lại; nhìn cậu chớp mắt hồi; và rồi quên hết thảy mọi nỗi xúc động và bất an để chìm trong nỗi khát khao cuồng nhiệt có cuốn sổ Jimmy. Như thể câu hỏi của cậu, “Cậu lấy gì để đổi lấy giấc mơ đây?” là phương thức nhiệm mầu mở tung căn phòng nào đó vốn bị niêm phong trong trí óc , để nhìn thấy hiển ngay trước mắt ý tưởng sáng chói cho câu chuyện trọn vẹn, thậm chí đến cả cái tên cũng có - Người bán giấc mơ. Kể từ lúc đó cho tới hết buổi tối, Emily chẳng nghĩ về bất kỳ điều gì khác.

      Hai chàng trai bỏ ra chỗ cái trường kỷ lót rơm, còn Emily, sau khi quyết định để mặc Ilse - có vẻ chừng nào còn ngủ chừng đó vẫn được thoải mái chiếc sofa - bèn nằm xuống cái giường trong căn phòng . Nhưng phải để ngủ. chưa bao giờ cảm thấy tỉnh táo chút buồn ngủ hơn lúc này. muốn ngủ. quên béng mất chuyện mình Teddy; quên hết thảy mọi thứ, chỉ giữ lại cái ý tưởng tuyệt với; chương nối tiếp chương; trang kéo theo trang, nó cứ thế trải mình ra trước mắt trong bóng tối. Các nhân vật của sống, cười đùa, trò chuyện, sinh hoạt, vui sướng và đau khổ; nhìn thấy họ cái phông nền cơn bão ấy. Hai gò má bừng cháy, trái tim đập thình thịch, toàn thân râm ran bởi cảm hứng sáng tạo ngây ngất, niềm hân hoan tuôn trào như thác lũ, như thể từ trong sâu thẳm tâm hồn, dường như tách biệt hoàn toàn với hết thảy mọi vật việc nơi trần thế. Ilse say vì món whisky Scotland bị bỏ quên của Malcolm Shaw, còn Emily bị say ngất ngây vì thứ rượu bất tử.

    5. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 21: giọt máu đào hơn ao nước lã




      Mãi tới gần sáng Emily mới chợp mắt được. Bão tan và cảnh vật quanh nhà cũ của ông John toát lên vẻ ma mị dưới ánh trăng lặn khi cuối cùng cũng trôi vào giấc ngủ, mang theo niềm vui vì hoàn thành công việc; vì nghĩ xong về câu chuyện của mình. Giờ chẳng còn phải làm gì nữa, chỉ cần ghi lại cốt truyện vào cuốn sổ Jimmy thôi. cảm thấy an ổn chừng nào còn chưa viết được chúng ra giấy trắng mực đen. tìm cách viết truyện này ngay bây giờ; ồ, viết cho tới nhiều năm nữa. phải đợi cho tới khi thời gian và kinh nghiệm biến ngòi bút của thành công cụ có khả năng mang công bằng đến cho nhận thức của - bởi vì theo đuổi ý tưởng suốt cả đêm xuất thần là điều quan trọng, nhưng cũng quan trọng kém là ghi lại ý tưởng đó ra giấy theo bút pháp tái tạo được phần mười sức quyến rũ và ý nghĩa ban đầu của nó.

      Emily bị đánh thức bởi Ilse, lúc này ngồi bên mé giường, trông nhợt nhạt và tiều tụy, nhưng đôi mắt màu hổ phách lại tràn ngập niềm vui thể chế ngự.

      “Chà, ngủ giấc xong là tớ rũ sạch cơn trác táng rồi, Emily Starr ạ. Và sáng nay dạ dày tớ ổn định. Món rượu whisky của ông Malcolm làm nó yên ổn rồi; dẫu rằng theo ý tớ ba phần khổ vì bệnh còn bảy phần khổ vì phương thuốc ấy đấy. Có lẽ cậu vẫn băn khoăn hiểu tại sao tối qua tớ chẳng chuyện trò gì.”

      “Tớ nghĩ cậu say quá rồi chẳng trò chuyện gì được,” Emily thẳng thắn .

      Ilse cười khúc khích.

      “Có mà tớ say quá rồi nên thể ấy chứ. Lúc đến chỗ sofa, tớ qua cơn choáng váng rồi và tớ muốn , Emily ạ; chao ôi, tớ muốn ! Và tớ muốn những chuyện ngu ngốc nhất, kể ra hết những điều tớ biết hay suy nghĩ. Chỉ có điều, tớ vẫn còn đủ lý trí để biết rằng tớ được phép những chuyện đó, nếu tớ vĩnh viễn biến mình thành con ngốc; và tớ cảm thấy nếu tớ dù chỉ lời nó cũng chẳng khác nào vừa tháo nút chai; tất cả tuôn ra tồng tộc. Vậy nên tớ khóa miệng lại, năng gì. Tớ rùng cả mình khi nghĩ đến những chuyện mình có thể ... và trước mặt Perry nữa chứ. Cậu bao giờ còn bắt gặp Ilse bé bỏng chè chén lu bù nữa đâu. Từ hôm nay trở , tớ sửa mình.”

      “Tớ chỉ hiểu được,” Emily , “làm sao mà với cái gì cũng vậy, chỉ cần lượng xíu như thế cũng khiến đầu óc cậu đảo lộn hết cả lên.”

      “Ôi chao, cậu biết mẹ tớ là người nhà Mitchell rồi còn gì. Ai mà chẳng biết người nhà Mitchell chỉ cần nhấp thìa rượu là ngã lăn cu chiêng ra rồi. Đó chính là trong những trở ngại mang tính dòng họ đấy. Nào, tỉnh táo lên, tình của tôi, người bạn thẳng thắn của tôi. Cánh con trai đốt lửa rồi, và Perry chúng ta có thể chế được bữa ngon lành từ thịt lợn, đậu và bánh quy. Tớ đói ngấu đến nỗi có thể ăn sạch bách cả hộp đây này.”

      Chính lúc Emily khua khoắng trong chạn tìm ít muối, khám phá vĩ đại. Ở tận trong góc ngăn chạn cùng, có chồng sách cũ bụi bặm, hẳn là từ thời ông bà John và Almira Shaw - những sổ sách kế toán, niên giám, nhật ký mốc meo cũ rích. Emily lôi chồng sách xuống và khi nhặt lên xem, phát ra trong đó có cuốn sổ lưu bút cũ. tờ giấy xộc xệch long cả ra ngoài. Khi Emily đặt tờ giấy về chỗ cũ, đôi mắt rơi xuống tên bài thơ được dán lên . cầm bài thơ lên, và lập tức hơi trở nên dồn dập hẳn. Huyền thoại Abegweit - bài thơ giúp Evelyn giành giải thưởng! Nó nằm đây, trong cuốn lưu bút ngả vàng cũ kỹ ít nhất hai mươi năm tuổi - chính xác đến từng từ, chỉ có điều Evelyn cắt bớt hai khổ để phù hợp với cầu về độ dài.

      “Mà lại là hai khổ thơ hay nhất chứ,” Emily khinh thường nghĩ. “Đúng kiểu Evelyn! ta ràng có con mắt văn chương gì cả.”

      Emily đặt lại đống sách vào trong kệ, nhưng tuồn trang giấy bị long khỏi sổ kia vào túi, và lơ đãng ăn phần bữa sáng được dành cho mình. Giờ cánh con trai bắt tay vào mở đường. Perry và Teddy tìm thấy cái xẻng trong kho và chẳng mấy chốc khai thông được lối dẫn ra đường cái. Cuối cùng, sau cuốc xe dẫu chậm chạp nhưng yên ổn, nhóm bạn cũng về đến nhà và nhận thấy ở trang trại Trăng Non, mọi người vẫn bồn chồn lo lắng biết số phận bốn cậu ra sao, và ai nấy đều có phần hốt hoảng khi được biết họ phải qua đêm trong ngôi nhà cũ của ông John.

      “Cháu có khả năng bị cảm lạnh chết mất ấy chứ,” bà Elizabeth nghiêm nghị .

      cũng có cách nào khác đâu ạ. Nếu vậy bị chết cóng giữa trời tuyết mất,” Emily , và chẳng ai gì về vấn đề này nữa. Vì họ về nhà an toàn và chẳng ai cảm lạnh, còn cần phải khác nữa chứ? Đó chính là cách nhìn nhận vấn đề theo kiểu Trăng Non. Cách nhìn Shrewsbury có phần khác. Nhưng cách nhìn Shrewsbury lộ ngay lập tức. Đến tối thứ Hai, toàn bộ câu chuyện lan khắp Shrewsbury - Ilse kể lại nó ở trường và miêu tả trận say rượu của mình bằng thái độ hăm hở tột độ, giữa những tiếng cười đùa hú hét của bạn bè. Tối hôm đó, lần đầu tiên trong đời chủ động tìm gặp Evelyn Blake, Emily thấy Evelyn có vẻ khá hài lòng với chuyện này.

      “Cậu thể khiến Ilse ngừng kể câu chuyện đó được à, bạn thân mến?”

      “Câu chuyện nào?”

      “Sao chứ, chuyện say rượu tối thứ Sáu vừa rồi ấy - buổi tối cậu và cậu ta ở cùng Teddy Kent và Perry Miller trong cái ngôi nhà cũ Ao Thành Kiến đó đấy,” Evelyn nhàng.

      Emily bất chợt đỏ bừng cả mặt. Trong giọng Evelyn có cái gì đó - dường như cái thực tế trong sáng bỗng nhiên bị khoác lên sắc thái ý nghĩa đầy nham hiểm. Liệu có phải Evelyn chủ tâm tỏ ra xấc láo?

      “Tôi chẳng hiểu tại sao bạn ấy lại nên kể câu chuyện đó chứ.” Emily lạnh nhạt . “Đấy là chuyện đùa hay ho về bạn ấy mà.”

      “Nhưng cậu biết thừa mọi người gì rồi đấy,” Evelyn , giọng lịch . “Mọi chuyện có hơi... phù hợp. Tất nhiên, cậu đâu thể ngăn mình bị kẹt giữa cơn bão... tôi cho là thế... nhưng Ilse chỉ làm mọi chuyện tệ hơn thôi. Cậu ta quá bất cẩn... chẳng lẽ cậu bất kỳ ảnh hưởng nào đối với cậu ta hay sao, Emily?”

      “Tôi đến đây để thảo luận về vấn đề đó,” Emily thẳng thừng. “Tôi đến để chỉ cho cậu xem thứ tôi tìm thấy trong căn nhà cũ của ông John.

      chìa tờ lưu bút ra. Evelyn thất thần nhìn tờ giấy lát. Rồi khuôn mặt nàng đỏ lên, chỗ hồng chỗ tía đầy khả nghi. kịp suy nghĩ, nàng giơ tay ra như thể muốn chộp lấy tờ giấy, nhưng Emily nhanh chóng thu nó lại. Đôi mắt hai người gặp nhau. Trong giây phút đó, Emily cảm thấy cuối cùng họ cũng hòa điểm với nhau.

      đợi Evelyn lên tiếng. Sau lúc, Evelyn cũng ; giọng sưng sỉa:

      “Thế đấy, cậu định làm gì với nó hả?”

      “Tôi vẫn chưa quyết định,” Emily .

      Đôi mắt nâu dài xảo trá của Evelyn quét lên khuôn mặt Emily, vẻ xảo quyệt và dò hỏi.

      “Hẳn là cậu định đưa nó cho tiến sĩ Hardy và làm tôi mất mặt trước cả trường chứ gì?”

      “Ái chà, chẳng phải cậu xứng đáng bị thế còn gì?” Emily phán xét.

      “Tôi... muốn giành được giải thưởng đó vì cha tôi hứa nếu tôi chiến thắng hè năm tới cho tôi đến Vancouver chơi,” Evelyn lẩm bẩm, đột nhiên trở nên suy sụp. “Tôi... tôi muốn đến phát điên lên được. Ôi, đừng tiết lộ chuyện của tôi, Emily... cha tôi giận dữ lắm. Tôi... tôi cho cậu bộ Parkman... tôi làm bất kỳ điều gì... miễn là đừng...”

      Evelyn òa khóc. Emily chẳng muốn nhìn thấy cảnh tượng này.

      “Tôi muốn bộ Parkman của cậu,” . “Nhưng có chuyện cậu cần phải làm. Cậu phải thú nhận với bác Ruth rằng chính cậu vẽ râu lên mặt tôi hôm có bài thi tiếng chứ phải Ilse.”

      Evelyn lau sạch nước mắt, nuốt lời muốn vào trong lòng.

      “Đấy chỉ là chuyện đùa thôi mà,” nàng nức nở.

      “Đến mức dối về chuyện đó còn là đùa nữa,” Emily lạnh lùng .

      “Sao cậu... sao cậu... thẳng thừng thế.” Evelyn săm soi hồi cũng tìm ra được điểm khô ráo chiếc khăn tay. “Chỉ thuần túy trêu đùa thôi mà. Tôi phải chạy từ hiệu sách về để làm thế đấy. Tất nhiên, tôi cứ tưởng lúc tỉnh dậy cậu soi gương chứ. Tôi kh... nghĩ là cậu cứ thế mà đến trường. Mà tôi cũng biết là bác cậu lại coi chuyện này to tát thế. Tất nhiên... tôi với bác ấy... nếu cậu... nếu cậu...”

      “Viết ra và ký tên vào ,” Emily , chẳng chút lưu tình.

      Evelyn viết ra và ký tên.

      “Cậu đưa cho tôi... cái đó chứ,” nàng khẩn nài, bàn tay khẩn khoản vươn về phía tờ lưu bút.

      “Ồ, đâu, tôi giữ cái này,” Emily .

      “Vậy xét cho cùng, có gì đảm bảo là cậu ... ngày nào đó?” Evelyn khịt khịt mũi.

      “Cậu có lời hứa của người nhà Starr rồi,” Emily ngạo mạn .

      mỉm cười ra. Cuối cùng, giành chiến thắng trong cuộc chiến trường kỳ. Và nắm trong tay bằng chứng cuối cùng cũng rửa sạch tội lỗi của Ilse trong mắt bà Ruth.

      Bà Ruth khịt mũi liên hồi trước tờ giấy Evelyn viết và hỏi hết câu này đến câu khác nhằm tìm xem Emily dọa dẫm cách nào mà lại kiếm được lời thú nhận ấy. Nhưng vì chẳng thể giội gáo nước lạnh lên niềm thỏa mãn của Emily trước chiến thắng này và biết ông Allan Burnley vẫn luôn khó chịu với bà từ hồi bà xua đuổi con ông, bà thầm lấy làm mừng vì lý do phá bỏ lệnh cấm này.

      “Vậy tốt rồi. Ta với cháu rằng Ilse có thể đến đây khi nào cháu tìm ra bằng chứng thích đáng chứng minh cho ta thấy con bé chơi trò đó. Cháu chứng minh được, và ta giữ lời. Ta vốn là người công bằng mà,” bà Ruth kết luận - có lẽ lúc này chính bà mới là người phụ nữ bất công nhất đời.




      Cho đến lúc đó mọi chuyện ổn thỏa cả. Nhưng nếu Evelyn muốn trả thù nàng được thưởng thức trọn vẹn men say của nó vào ba tuần sau, mà chẳng cần phải nhấc ngón tay hay uốn tấc lưỡi nào để đổ thêm dầu vào lửa. Toàn thể Shewsbury sôi sục với lời đồn thổi về cái đêm bão gió đó - nào là bóng gió, nào là bóp méo việc và cả bịa đặt hoàn toàn. Emily bị mất mặt tại buổi trà chiều ở nhà Janet Thompson đến độ phải về nhà trong cảnh mặt mày trắng bệch vì nhục nhã. Ilse giận dữ đến phát điên.

      “Tớ chẳng buồn bận tâm nếu quả thực tớ say sưa bê bết và sung sướng với nó,” giậm chân tuyên bố hùng hồn. “Nhưng tớ đâu có say đến độ thấy sung sướng chứ; mà chỉ say đủ để thấy mình lố bịch thôi. Có nhiều khi, Emily ạ, tớ cảm thấy tuyệt vời xiết bao nếu tớ là con mèo, còn những mụ già Shrewsbury này chỉ là lũ chuột nhắt. Nhưng hãy cứ vui vẻ . lòng mà , tớ chẳng thèm quan tâm. Chuyện này chẳng mấy chốc trôi vào quên lãng. Chúng ta chiến đấu.”

      “Cậu đâu thể chiến đấu với những lời bóng gió chứ,” Emily chua chát .

      Ilse quan tâm; nhưng Emily lại vô cùng để tâm. Lòng kiêu hãnh Murray buốt nhói đến mức thể nào chịu nổi. Và càng lúc, nó càng nhức nhối hơn. Câu chuyện đêm bão đó còn được biến thành chuyện cười đăng tờ báo lá cải xuất bản ở thị trấn vùng nội địa và được xào xáo từ các bức thư “giật gân” gửi đến tòa soạn từ khắp mọi nơi miền duyên hải. Chưa từng có bất kỳ ai thừa nhận đọc nó, nhưng gần như tất cả mọi người đểu biết tất cả mọi thứ được viết ở đó; ngoại trừ bà Ruth, vốn chẳng bao giờ thèm mó đến báo với chí. cái tên nào được nhắc đến, nhưng tất cả mọi người đều biết bài báo muốn ám chỉ ai, và chẳng ai nhận ra cái nọc độc đầy nham hiểm mà nó tiết ra. Emily những tưởng mình chết vì nhục nhã mất. Và cú đòn hiểm ác nhất là câu chuyện được kể lại ấy quá thô tục, quá xấu xí; và nó biến cái buổi tối đẹp đẽ tràn ngập niềm vui, khám phá cùng sáng tạo mê ly trong ngôi nhà cũ của ông John trở nên thô tục và xấu xí. những tưởng thời khắc đó mãi mãi là trong những ký ức đẹp đẽ nhất của . Và giờ thế này đây! Teddy và Perry tức điên lên và chỉ muốn giết người, nhưng các cậu ấy có thể giết ai bây giờ? Như Emily với hai cậu, dẫu họ có gì làm gì cũng chỉ làm tình hình thêm tồi tệ mà thôi. Sau vụ đăng tải bài báo đó, chuyện đủ tệ hại lắm rồi. Emily được mời đến buổi vũ hội của Florence Blake diễn ra vào tuần sau - kiện xã hội trọng đại của mùa đông. bị gạt ra khỏi bữa tiệc trượt băng của Hattie Denoon. vài mệnh phụ phu nhân ở Shewsbury chẳng thèm nhìn ngó gì khi họ gặp nhau phố. Những người khác đẩy ra xa cả ngàn dặm bằng cái vẻ lịch lạnh lùng, nhạt nhẽo. Có mấy cậu thanh niên quanh thị trấn lại tỏ thái độ thân thiện đến kỳ cục. người trong số đó, vốn hoàn toàn quen biết gì với , bắt chuyện với ở bưu điện tối nọ. Emily quay người nhìn cậu ta. Dẫu khổ sở và xấu hổ đến thế, vẫn là cháu của Archibald Murray. Mãi cho tới tận khi cách bưu điện tận ba khối nhà, cậu thanh niên tội nghiệp ấy mới có thể bình thường trở lại và ý thức được mình ở đâu. Cho tới tận giờ, cậu vẫn tài nào quên được khi Emily Byrd Starr tức giận, đôi mắt trông như thế nào.

      Nhưng cho dù cái ánh mắt Murray ấy có thể phá hủy hoàn toàn kẻ phạm tội vô cùng cứng rắn nó lại vẫn thể ngăn chặn những câu chuyện giật gân. đau khổ cảm thấy tất cả mọi người đều tin vào những câu chuyện đó. Theo Emily được nghe kể lại, Percy ở thư viện cho biết ta luôn thấy thể tin tưởng nụ cười của Emily Starr; rằng ta luôn cảm thấy chắc chắn nó được chủ tâm khoác cho cái vẻ khêu gợi và cám dỗ. Emily có cảm giác , cũng giống y như đức vua Henry tội nghiệp, chẳng bao giờ còn mỉm cười trở lại được nữa. Người ta nhớ lại rằng hồi bảy mươi năm trước, bà cụ Nancy Priest cũng ngông cuồng bừa bãi ra trò; và chẳng phải hồi còn trẻ, chính phu nhân Dutton cũng dính phải tai tiếng đấy thôi? Con nhà tông giống lông cũng giống cánh, các vị biết đấy. Mẹ cũng từng bỏ nhà theo trai, đúng nào? Lại còn mẹ Ilse nữa chứ? Tất nhiên, bà ta chết vì bị ngã xuống cái giếng cũ nhà ông Lee, nhưng nếu bị thế ai mà biết được bà ta làm gì cơ chứ? Rồi còn cái câu chuyện từ thời nảo thời nào về vụ tắm trần bãi cát ở Hồ Blair. tóm lại, còn lâu các vị mới thấy có đứng đắn nào lại có cái mắt cá chân giống như của Emily. Chắc chắn họ chẳng có cái thứ đấy đâu.

      Thậm chí, chàng Andrew ngây thơ và được chào đón cũng còn ghé qua vào các tối thứ Sáu nữa. Chuyện này thực cú đòn đau. Emily vẫn luôn thấy Andrew là kẻ phiền phức và sợ chết khiếp những buổi tối thứ Sáu ta ghé thăm. Hễ chộp được cơ hội nào là chỉ nhăm nhăm tống khứ ta cho nhanh. Nhưng bạn cần phải thấy rằng việc Andrew tự nguyện khăn gói ra lại mang phong vị khác hẳn. Emily khỏi siết chặt hai bàn tay khi nghĩ đến chuyện này.

      còn nhận được tin tức cay đắng rằng Hiệu trưởng Hardy tuyên bố nên rút lui khỏi cương vị lớp trưởng lớp cuối cấp. Emily hất cao đầu. Từ chức? Thú nhận thất bại và thừa nhận tội lỗi? Còn lâu mới làm thế?

      “Tớ có thể táng cho lão ấy phát vào đầu,” Ilse . “Emily Starr, đừng có lo lắng về chuyện này. Cái đám lừa già lập cập nghĩ như thế nào có gì quan trọng chứ? Tớ mặc xác cho các vị thần địa ngục xử trí họ. tháng nữa là họ lại có vô khối thứ để mà xâu xé cho thỏa thích và quên chuyện này thôi.”

      Tớ bao giờ quên được,” Emily xúc động . “Từ giờ cho tới chết, tớ vẫn nhớ nỗi nhục nhã phải trải qua trong mấy tuần này. Còn bây giờ, Ilse ạ, bà Tolliver viết thư đề nghị tớ từ bỏ chỗ của mình trong cuộc bán hàng phúc thiện của nhà thờ Thánh John.”

      “Emily Starr... bà ấy làm thế chứ!”

      “Bà ấy làm thế đấy. Ồ, tất nhiên, bà ấy ngụy trang bằng cách viện cớ bà ấy muốn dành chỗ cho người họ hàng từ New York ở chơi, nhưng tớ hiểu mà. Và thư còn viết ‘ Starr thân mến’, cậu nhìn mà xem, trong khi mấy tuần trước vẫn còn là ‘Emily dấu nhất đời’. Tất cả mọi người ở nhà thờ Thánh John rồi biết tại sao tớ bị đẩy ra ngoài. Trong khi chính bà ấy suýt nữa quỳ xuống van xin bác Ruth cho tớ nhận quầy bán hàng. Bác Ruth đâu có muốn cho tớ tham gia chứ.”

      “Bác Ruth của cậu gì về chuyện này đây?”

      “Ôi, đó mới là phần tồi tệ nhất, Ilse ạ. Giờ bác ấy ắt hẳn biết thôi. Từ lúc phải nằm bẹp vì đau thần kinh tọa, bác ấy chưa nghe được gì về chuyện này hết. Tớ cứ luôn thấp thỏm chỉ sợ bác ấy phát ra rồi kinh khủng lắm. Giờ bác ấy bắt đầu lại được rồi, nên tất nhiên dù gì gì, chẳng mấy mà bác ấy nghe nhắc đến chuyện này thôi. Trong khi tớ chẳng có tinh thần đâu để mà đấu lý với bác ấy. Ôi, mọi chuyện chẳng khác gì cơn ác mộng.”

      “Dân thị trấn này toàn những kẻ đầu óc mọn, xảo quyệt, hẹp hòi, ti tiện đến thế đấy,” Ilse , và lập tức thấy dễ chịu hẳn. Nhưng Emily thể xoa dịu tâm hồn đau khổ của bằng tràng tính từ được chọn lọc. cũng chẳng thể viết lại nỗi khổ sở của mình và bởi vậy cũng cách gì giải thoát bản thân khỏi nó được. Chẳng còn thêm những dòng ghi chép nhanh trong cuốn sổ Jimmy, chẳng còn thêm những bài viết trong nhật ký, chẳng còn truyện thơ mới. Giờ ánh chớp chẳng bao giờ đến nữa... chẳng bao giờ còn trở lại nữa. bao giờ còn gặp lại những cơn phấn khích bí mật diệu kỳ ai có thể sẻ chia khi ta chìm đắm trong thấu hiểu và sáng tạo. Cuộc sống trở nên nghèo nàn hơn, nhạt nhòa hơn, mờ đục và chút đáng . Nhìn đâu cũng chẳng thấy được vẻ đẹp; thậm chí thấy ngay cả trong gian tháng Ba đượm màu trắng vàng hiu quạnh của Trăng Non, khi quay về nhà dịp cuối tuần. khát khao được về nhà, nơi chẳng ai tin những điều xấu xa về . Ở Trăng Non, ai nghe phong thanh gì về những chuyện được thầm bàn tán ở Shrewsbury. Nhưng chính biết này lại khiến Emily khổ sở yên. Chẳng mấy chốc mọi người rồi cũng biết; họ bị tổn thương, u sầu trước cái thực tế rằng Murray, thậm chí ngay cả Murray ngây thơ, cũng trở thành mục tiêu của vụ bê bối. Và ai mà biết họ nhìn nhận thế nào về cố Ilse gặp phải với món rượu Scotch của Malcolm chứ? Emily gần như thấy cả người khi quay trở lại Shrewsbury. tưởng tượng ra gièm pha trong hết thảy những lời thầy hiệu trưởng Hardy ; tưởng tượng ra sắc thái sỉ nhục kín đáo trong mọi lời bình luân, mọi ánh mắt của bạn học. Chỉ độc Evelyn Blake làm bộ làm tịch như bạn bè và người biện hộ của , và đây mới chính là nhát dao tàn nhẫn hơn cả. Emily biết liệu có gì nguy hiểm và xảo trá đằng sau cái điệu bộ giả tạo của Evelyn hay ; nhưng biết thừa thái độ khoa trương nào thân thiện, nào trung thành, nào tin tưởng chắc chắn bất chấp bằng cớ gì tranh cãi nổi ấy mới chính là thứ dường như khiến bị vấy bẩn hơn hết thảy những lời đơm đặt bàn tán. Evelyn khắp nơi cam đoan với tất cả mọi người rằng nàng tin lời nào chống lại “Emily thân mến tội nghiệp”. Emily thân mến tội nghiệp có thể cười tươi mà chứng kiến ta chết đuối; hoặc ta cho là mình có thể làm thế.

      Trong lúc đó, bà Ruth, vốn bị giam hãm trong nhà mất vài tuần vì chứng đau thần kinh tọa và bị nó hành cho thành cắm cảu đến nỗi dẫu bạn bè hay kẻ thù cũng đều dám bóng gió với bà bất cứ điều gì về lời đồn thổi dính đến cháu bà, cũng bắt đầu để ý. Chứng đau thần kinh tọa của bà dứt và để bà được thoải mái dồn toàn tâm toàn trí vào những thứ khác. Ngẫm lại, bà nhớ ra mấy ngày gần đây, Emily được ngon miệng lắm, và bà ngờ rằng cũng ngủ. Ngay khi nghi ngờ này lóe lên trong đầu, bà Ruth bèn hành động luôn. Những lo lắng bí mật được khoan dung dưới mái nhà của bà.

      “Emily, ta muốn biết cháu có chuyện gì,” bà cật vấn vào chiều thứ Bảy khi Emily, nhợt nhạt và lơ đãng, mắt thâm quầng, lần nữa ăn gì trong bữa tối.

      Chút huyết sắc ửng lên khuôn mặt Emily. Vậy là cái giây phút khiếp sợ đến rồi. Ắt hẳn bà Ruth nghe kể lại tường tận mọi chuyện. Và Emily khổ sở nhận ra đủ dũng cảm để chịu đựng cuộc chất vấn tất yếu xảy ra tiếp theo, cũng chẳng có tinh thần đâu để mà bình tĩnh tương đầu với nhưng câu hỏi tại sao, vì lí do gì của bà Ruth. biết mọi chuyện ra sao: kinh hoàng trước tình diễn ra ở nhà ông John - như thể bất kỳ ai cũng có thể ngăn chặn được nó; bực tức bởi lời đồn thổi - như thể Emily phải chịu trách nhiệm cho nó; cam đoan này nọ rằng từ xưa đến nay bà vẫn luôn tin chắc có lúc xảy ra chuyện như thế này; và rồi những tháng ngày thể chịu nổi với những nhắc nhở, những lời gièm pha về việc. Emily thầm cảm thấy kinh tởm đến buồn nôn trước toàn bộ viễn cảnh này. Mất lúc lâu, cất lên được lời nào.

      “Cháu làm gì vậy hả?” bà Ruth vẫn kiên trì hỏi.

      Emily nghiến chặt răng. thể chịu đựng nổi, nhưng vẫn phải chịu đựng thôi. Câu chuyện phải được kể ra; điều duy nhất phải làm là làm sao để nó được kể càng sớm càng tốt.

      “Cháu chẳng làm gì sai cả, bác Ruth. Cháu chỉ làm chuyện khiến người ta hiểu nhầm thôi.”

      Bà Ruth khịt mũi. Nhưng bà lắng nghe toàn bộ câu chuyện Emily mà cắt ngang lần nào. Emily kể lại cách ngắn gọn hết mức, cảm thấy mình như thể kẻ tội phạm đứng trước bục nhân chứng, còn bà Ruth vừa là thẩm phán, vừa là bổi thẩm đoàn lẫn công tố viên. Khi kể xong, ngồi im lặng, chờ đợi lời bình phẩm đặc trưng của bà Ruth.

      “Thế người ta làm om sòm hết cả lên vì cái gì vậy?” bà Ruth hỏi.

      Emily biết sao cho đúng. nhìn bà Ruth chằm chằm.

      “Họ... họ vẫn nghĩ... và đủ mọi điều kinh khủng,” ngập ngừng. “Bác biết đấy... ở dưới Shrewsbury được chở che yên ổn này, người ta đâu có nhận ra cơn bão như thế nào. Và, tất nhiên, mỗi người kể lại câu chuyện đều thêm mắm giặm muối chút; đến lúc câu chuyện lan tràn khắp Shrewsbury tất cả bọn cháu đều say cả.”

      “Điều khiến ta bực mình,” bà Ruth , “là các cháu lại rêu rao chuyện này khắp cả Shrewsbury. Vì lý do quái quỷ nào mà các cháu lại chịu giữ kín mọi chuyện vậy hả?”

      “Thế thành ranh mãnh mất,” con quỷ trong Emily đột nhiên nhảy vọt ra câu này. Giờ đây, khi câu chuyện được công khai, cảm thấy tinh thần phấn khởi đến độ suýt nữa cười phá lên.

      “Ranh mãnh! Đó là khôn ngoan,” bà Ruth khịt mũi. “Nhưng, tất nhiên, Ilse làm sao giữ mồm giữ miệng được chứ. Ta mãi với cháu rồi, Emily, người bạn ngu ngốc còn nguy hiểm gấp mười lần kẻ thù. Nhưng cháu lo lắng đến chết dần chết mòn vì cái gì kia chứ? Lương tâm cháu trong sạch. Lời đồn thổi này rồi sớm chết thôi.”

      “Hiệu trưởng Hardy cháu nên từ chức lớp trưởng,” Emily .

      “Jim Hardy! Thế đấy, cha ông ta từng làm thuê cho ông nội ta suốt nhiều năm,” bà Ruth bằng giọng khinh bỉ tột cùng, “Jim Hardy lại tưởng rằng cháu ta cư xử đúng đắn sao?”

      Emily hiểu ra làm sao nữa. nghĩ ắt hẳn mình nằm mơ. Người phụ nữ khác thường này có phải bác Ruth vậy? Đây thể là bà Ruth được. Emily phải đương đầu với trong những mâu thuẫn bản năng của nhân loại. dần dần nhận thức được rằng ta có thể chống lại họ hàng ta, bất đồng ý kiến với họ, thậm chí căm ghét họ, nhưng giữa ta và họ vẫn luôn tồn tại sợi dây liên kết. Bằng cách nào đó, các sợi gân của ta, các dây thần kinh của ta xoắn quýt cùng của họ. Bao giờ chẳng vậy, giọt máu đào hơn ao nước lã. Cứ mặc kệ cho người ngoài công kích ; thế thôi. Ít nhất bà Ruth cũng có trong những đức tính của nhà Murray - trung thành với dòng họ.

      “Đừng lo về Jim Hardy,” bà Ruth . “Ta nhanh chóng xử lý ông ta. Ta mở mắt cho mọi người thấy liệu mà giữ miệng lưỡi tránh xa nhà Murray ra.”

      “Nhưng bà Tolliver cầu cháu nhường cho họ hàng của bà ấy quầy hàng của cháu trong buổi bán hàng từ thiện,” Emily . “Bác biết như thế nghĩa là gì đấy.”

      “Ta biết Polly Tolliver là môt kẻ giàu xổi ngu ngốc,” bà Ruth độp lại. “Từ hồi Nat Tolliver lấy nhân viên tốc ký của ông ta làm vợ, nhà thờ Thánh John chẳng còn như cũ nữa. Mười năm trước, bà ta còn là nàng chân đất chạy quanh các ngõ hẻm của Charlottetown. Đến lũ mèo cũng chẳng cho bà ta vào trong. Giờ bà ta lại ra cái vẻ nữ hoàng và rắp tâm điều hành nhà thờ nữa. Ta nhanh chóng cắt hết móng vuốt của bà ta. Mấy tuần trước, bà ta còn lấy làm biết ơn vì có người nhà Murray góp mặt trong gian hàng của bà ta. Đó là thành tựu đối với bà ta.Polly Tolliver, đúng là lẫn vào đâu được. Thế giới thành ra cái gì đây chứ?”

      Bà Ruth oai vệ lên tầng, để mặc Emily hoang mang nhìn những phiền muộn dần biến mất. bà Ruth lại bước xuống, sẵn sàng cho cuộc chiến. Bà uốn tóc, đội chiếc mũ bon nê tốt nhất, mặc bộ váy lụa đen đẹp nhất và khoác chiếc áo choàng bằng da hải cẩu mới nhất. Với cách ăn vận như thế, bà rảo bước tới phố thượng, đến dinh thự Tolliver đồi. Bà lưu lại đó nửa tiếng đồng hồ, trò chuyện riêng cùng bà Nat Tolliver. Bà Ruth vốn thấp và đậm người, trông vô cùng tồi tàn và lạc hậu, bất chấp chiếc mũ bon nê mới và cái áo choàng da hải cẩu. Bà Nat ăn mặc rất thời thượng và trang nhã, với bộ váy từ Paris, chiếc kính cầm tay và mái tóc uốn xoăn xinh đẹp - thời đó, mốt uốn tóc xoăn vừa xuất và bà Nat chính là người đầu tiên theo mốt này ở Shrewsbury. Nhưng chiến thắng trong cuộc đối đầu rơi vào tay bà Tolliver. ai biết chính xác nội dung cuộc đối thoại trứ danh ấy. Chắc chắn bà Tolliver bao giờ hé môi. Nhưng khi bà Ruth rời khỏi ngôi nhà rộng lớn ấy, bà Tolliver vò nhàu bộ váy Paris, còn mái tóc xoăn của bà bồng bềnh giữa đám đệm sofa trong lúc bà lau những giọt nước mắt uất hận và tủi hổ; còn bà Ruth cầm trong bao tay bức thư ngắn bà Tolliver gửi “Emily quý”, cho biết người họ hàng của bà ta nhận gian hàng tại hội chợ từ thiện và xin “Emily quý” hãy làm ơn tiếp nhận quầy hàng như kế hoạch ban đầu. Tiến sĩ Hardy là đối tượng đối thoại tiếp theo, và lần nữa bà Ruth lại ra về, như người ta nhìn thấy, trong tư thế chiến thắng. hầu phục vụ trong nhà Hardy nghe thấy rồi sau đó kể lại cho mọi người câu trong cuộc trao đổi đó, mặc dầu chẳng ai tin nổi bà Ruth từng như thế với tiến sĩ Hardy đeo kính oai nghiêm.

      “Tôi biết ông vốn là thắng ngốc, Jim Hardy, nhưng vì Chúa, hãy giả vở tỏ ra ông phải gã ngu năm phút thôi được !”

      , đời nào có chuyện đó. Tất nhiên, chính hầu kia bịa chuyện.

      “Cháu còn gặp thêm nhiều rắc rối nữa đâu, Emily,” bà Ruth khi quay về nhà. “Polly và Jim no đủ rồi. Khi mọi người thấy cháu có mặt tại hội chợ từ thiện, họ nhanh chóng nhận ra gió thổi chiều nào để mà thuận thế giương buồm xoay theo chiều đó. Ta vẫn còn vài chuyện để với vài người trong thị trấn khi nào có cơ hội. Tình hình rồi thành gay go ra trò nếu các cậu đứng đắn thể thoát khỏi nguy cơ chết cóng mà lại bị người ta đơm đặt về chuyện đó. Đừng suy nghĩ về chuyện này nữa, Emily. Hãy nhớ là cháu luôn có gia đình hậu thuẫn.”

      Lúc bà Ruth lên tầng, Emily bước đến bên tấm gương. nghiêng tấm gương theo góc độ phù hợp và trao cho Emily - trong - gương nụ cười mỉm chậm rãi, quyến rũ và khiêu khích.

      biết mình cất cuốn sổ Jimmy ở đâu,” Emily nghĩ. “Mình phải bổ sung vài đường nét cho bản phác thảo của mình về bác Ruth mới được.”

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :