CHƯƠNG 45 White Sands Rachel và tôi phải mất ba giờ gây tê để Siêu-MRI tiến hành quét những mẫu thần kinh của chúng tôi. Trong thời gian đó, tổng thống và các tham mưu trưởng vẫn chịu theo dõi ở Washington, và người ở White Sands phải giữ tình trạng án binh bất động rất khó chịu. Việc tướng Bauer giơ súng uy hiếp McCaskell khiến nhiều người bối rối, nhưng vì ông ta chỉ huy toàn bộ quân đội ở White Sands nên ngoài tổng thống ra ai làm được gì nhiều. Và tổng thống dường như hoàn toàn quên mất viên tướng. Bauer dùng hầu hết thời gian máy quét để kín trong trong những nhà để máy bay dùng làm kho chứa. Đội Giao diện của Zach Levin thực quy trình quét chụp. Thủ tục này chứa mức độ rủi ro đáng kể, đặc biệt cho tôi, và Rachel muốn để tôi bị quét tí nào. Nàng chỉ ra rằng mẫu thần kinh của não tôi có rồi, và mẫu ấy từ khi ra đời gây chứng ngủ rũ và ảo giác, mỗi giây chịu những tác dụng tiêu cực có thể nguy hiểm chết người. Nhưng Trinity nhất thiết đòi quét lại, và tôi cãi. Tôi nhất trí rằng những gì tôi trải nghiệm trong cơn hôn mê nên được chuyển vào thực thể mới, hình thành khi Trinity hợp nhất hai mẫu thần kinh. Ravi Nara và bác sĩ Case từ John Hopkins chuẩn bị cho chúng tôi trước khi tiến hành quét, quy trình phức tạp đòi hỏi tay nghề đặc biệt nhuần nhuyễn. Các máy MRI bình thường chỉ cầu bệnh nhân dịch chuyển càng ít càng tốt. Siêu-MRI của Trinity đòi hỏi tĩnh lặng tuyệt đối, điều này chỉ có thể được đảm bảo bằng thứ thuốc tê làm giãn cơ. chiếc quạt hút gió để giúp cho bệnh nhân thở, trong khi khung cứng phi kim giữ chắc xương sọ cho động đậy. loại thuốc giảm đau để phòng ngừa nỗi hoảng sợ làm tê liệt ý thức. Người ta còn dùng những nút tai đặc biệt, vì từ trường dao động cực mạnh của máy quét tạo ra tiếng rít xé tai kỳ quái như tiếng gầm của Godzilla trong phim Nhật. Sau khi tất cả các bước này hoàn tất, bệnh nhân được đưa vào cửa hình ống trong máy quét giống như xác chết được đưa vào ngăn kéo nhà xác. Có thể vẫn giữ được tỉnh táo trong quá trình này, và tôi chọn cách đó. Bị gây tê trong khi ý thức bắt đầu cơn hoảng sợ đầy ác mộng - đặc biệt là trong gian chật chội gây cảm giác tù túng như trong ống của máy quét - nhưng qua mấy phút, trí óc tôi thích nghi với trạng thái mới của nó. Cảm giác kinh hoàng có lẽ tương tự với cảm giác mà mẫu thần kinh trải nghiệm khi nó bắt đầu trở thành có ý thức trong máy tính Trinity. Rachel quanh quẩn bên máy MRI trong lúc tôi được quét chụp, nàng nhìn màn hình khi mẫu thần kinh của tôi được siêu máy tính Godin dưới tầng hầm kiến tạo cách tỉ mỉ. Dữ liệu do máy quét phát ra nuốt dần từng mảng bộ nhớ. Chỉ có thuật toán nén đặc biệt do Godin phát minh ra là có thể làm cho mẫu thần kinh lưu trữ được trong siêu máy tính thường. Nơi duy nhất mà mẫu thần kinh có thể tồn tại trong trạng thái chưa nén - tức là trạng thái chức năng - là trong vi mạch rộng lớn và bộ nhớ ba chiều của máy tính Trinity. Sau khi tôi được kéo từ máy quét ra, Rachel vỗ vào mặt và hai cánh tay tôi cho đến khi hết tê dại. Sau đó nàng nằm vào chỗ của tôi trong băng ca và để người ta luồn ống, chuẩn bị để vào máy quét. Nàng chọn tỉnh trong quá trình quét chụp. Khi thuốc an thần được tiêm chầm chậm vào tĩnh mạch, nàng líu ríu với tôi rằng nàng tưởng tượng thế nào khi được hòa nhập vào với tôi phải bằng tình dục mà bằng trí tuệ. Những người nhau thường về gắn bó theo kiểu này, nhưng chưa có cặp nào từng trải nghiệm . Nếu Trinity có thể thực được lời hứa của nó, tôi và Rachel là hai người đầu tiên. Ngay trước khi mắt nàng nhắm lại, nàng vung cánh tay ra như thể đỡ đòn. Tôi tự hỏi biết có phải nàng tưởng tượng ra hình ảnh Geli Bauer báo thù . Khi tôi đặt cánh tay nàng dọc theo thân nàng, Zach Levin vỗ vào vai tôi và đẩy tấm thân tê liệt của Rachel vào cái hốc tối đen của máy quét. Phòng Thí nghiệm Số 2 Tướng Bauer tới lui lại trong nhà kho hàng giờ liền, cuối cùng Skow bước qua cửa và giơ ngón tay cái ra hiệu. người gã trùm an ninh NSA phủ lớp bụi thạch cao trắng, vầng sáng xanh mờ nhạt treo đầu . Rạng đông hửng sa mạc. “ thấy nó rồi à?” Bauer hỏi. “Chúng tôi tìm thấy nó.” Skow cùng với đội NSA làm việc tại điểm khai quật cách đấy mười cây số. Chính ở đó đường ống truyền dữ liệu từ Trinity gặp đường cáp lớn OC48c phục vụ cho Bãi thử White Sands. “Đó là tín hiệu đơn giản được che giấu kỹ càng,” Skow . “Trinity gửi nó đến khoảng năm nghìn máy tính khắp thế giới. Nếu tín hiệu này bị dừng hay gián đoạn, tất cả những máy tính đó trả thù bằng cách mà chúng ta thể nào biết được. Nhưng chúng ta có thể sao chép tín hiệu này, và chúng tôi cho máy tính ở chỗ khai quật làm việc đó.” Tướng Bauer nhắm mắt lại và siết bàn tay thành nắm đấm. Ông ta trút bỏ áo khoác và blu, nhưng bây giờ ông ta đứng lên và mặc lại. “Chúng tôi vẫn còn vấn đề nữa.” “Cái gì?” “Chúng tôi thể thay thế những tín hiệu của chúng tôi vào chỗ tín hiệu của Trinity mà Trinity phát ra. Chúng tôi cần cái gì đó làm xao lãng Trinity trong thời gian ngắn.” Bauer thắt dây đeo bao súng ra ngoài áo blu. “Cái đó thành vấn đề.” “Sao lại ? Ông cho rằng khi Trinity hợp nhất hai mẫu thần kinh, nó quá bận nên để ý xem chúng ta làm gì nữa à?” “.” “Thế tại sao?” Bauer mỉm cười bí hiểm. “Tôi thích dùng những phương pháp được chứng minh.” “Ông muốn gì?” “Giống như trước. Chỉ khác là...” Skow thấy khó hiểu. “Nhưng chính cái chết của Godin làm cho Trinity bối rối lần đầu. Godin thể chết lần thứ hai.” “Đúng.” Skow đứng chết lặng. “Trời ơi. Ông nghĩ ông có thể thoát được việc đó?” “ biết tại sao tôi bị bắt ? Tổng thống biết phải dừng Trinity lại, nhưng ông ấy biết rằng ông ấy thể với ai điều đó. Ông ấy thể làm bất cứ điều gì tại nơi ông ấy ở mà Trinity biết. Nhưng tôi có thể làm được. Chúng ta có thể làm được. Đó là lý do tại sao ông ấy thả lỏng tôi.” Skow gật đầu, nhưng trông gã có vẻ bị thuyết phục hoàn toàn. “Nếu Trinity gặp đợt rối loạn mới như lần sau khi Godin chết, làm thế nào mà các tên lửa Nga bị phóng bởi các máy tính bên ngoài?” Tướng Bauer lắc đầu. “Tôi mong Trinity để ý đến cái đó. Quy trình hợp nhất chưa được làm thử bao giờ và Trinity cũng như chúng ta muốn gây ra thảm họa đâu.” “Còn Tennant?” “Tennant sao?” “Ông nghĩ có vấn đề gì với ý tưởng của ta về việc hợp nhất hai mẫu thần kinh của nam và nữ à? Làm cho Trinity tự nguyện tách ra khỏi mạng ấy?” Bauer khụt khịt. “ nghe Trinity đấy. Dù có ai được tải vào máy, họ cũng lơi là kiểm soát. Cái máy đó bao giờ đồng ý tách ra khỏi mạng Internet. Và chúng ta cứ bị nó khống chế mãi. Bây giờ hay bao giờ nữa, Skow ạ.” Viên tướng cài cúc áo khoác và bước ra cửa nhà để máy bay. “Ông đâu đấy?” Skow hỏi. Bauer mỉm cười. “Đến chỗ con tôi. lâu lắm mới có cuộc thăm viếng gia đình như thế này đấy.” Nhà Hành chính Geli Bauer đứng hút điếu Gauloise ở ngoài cha ả bước theo con đường giữa các nhà để máy bay và dừng lại cách ả vài bước. Viên tướng trông bơ phờ trong buổi sớm, ở ngoài trông ông ta già hơn lúc trong nhà dưới ánh đèn. Nhưng vẫn mạnh khỏe. Ông ta có những bắp thịt dài như của Geli, và cái siết tay của ông ta có thể khiến những người trẻ hơn hai chục tuổi phải nhăn mặt. Đôi mắt xám của ông ta tìm đôi mắt ả mà nhìn chăm chú, nhìn xuyên qua ba thập kỷ đau thương và thù hận. “Ba cần con làm cho ba việc,” ông ta . “Cho ông,” ả vặn lại. “Ông là loại người liều mạng chết mẹ.” “Chính vì thế ba mới có công việc này.” Ả nhìn chằm chằm khuôn mặt lưỡi cày, đầy vẻ quả quyết. “Việc gì vậy?” “Sau khi hai mẫu thần kinh hòa nhập, ba muốn con giết Tennant hoặc Weiss.” “Hoặc Weiss? Ai trong hai người cũng được à?” “Phải. Nếu trong hai người chết, Trinity rơi vào hỗn loạn. Lúc đó NSA có thể đột nhập vào cáp dữ liệu của Trinity và thay thế tín hiệu mật mã của chính nó vào đấy, nó đánh lừa các máy tính kiểm soát tên lửa rằng mọi việc đều ổn. Sau đó, chúng ta có thể tắt nguồn Trinity mà sợ nó trả thù.” Geli im lặng. “Con làm chứ?” “Tại sao tôi lại phải làm?” Viên tướng bĩu môi thành nụ cười mỉa. “Nếu ba bảo con đừng giết chúng, chắc hẳn con rằng con thịt chúng trong vòng năm phút.” “Ông nghĩ thế à?” “Ba nghĩ con ghét ba đến mức con sẵn sàng làm trái ngược tất cả những gì ba bảo con. Thế cũng được thôi. Căm ghét là xúc cảm hữu ích.” Geli học được bài học này qua thực tế khắc nghiệt. “Ông có biết vì sao tôi ghét ông ?” “Tất nhiên là biết. Con căm ghét ba vì chuyện mẹ con tự tử.” Cái giọng ông ta thờ ơ nhắc đến chuyện ấy như có gì quan trọng làm ả đau đớn tận đáy lòng. Ông ta tiến gần thêm bước. “Con nghĩ rằng việc ba có nhiều nhân tình và nghiện rượu đẩy bà ấy đến chỗ tự sát. Nhưng con nhầm rồi. Ba mẹ con. Đó là điều con bao giờ hiểu.” “Mỗi người đàn ông đều giết người mà ,” ả nhắc lại câu cách ngôn. “Ông có nhớ câu này ? ‘Kẻ hèn nhát làm việc đó bằng những cái hôn, kẻ gan dạ làm bằng nhát kiếm.’ Ông là kẻ hèn nhát trong chuyện này.” Viên tướng lắc đầu. “Từ lâu ba giấu kín chuyện này để bảo vệ cho con. Nhưng giờ là lúc con nên biết .” Ả muốn gào lên bảo ông ta im mồm , nhưng tìm ra lời lẽ thích hợp. Chưa có gã đàn ông nào tấn công ả bằng sức lực mà phải trả giá đắt, nhưng trước xúc phạm về tâm lý từ phía cha ả, ả có gì để tự vệ. “Mẹ con tự tử vì con đăng lính. Thậm chí sau tất cả những chuyện xảy ra trong quá khứ, con vẫn quyết định theo bước chân ba. Chính điều đó gây ra chuyện đấy. Chính điều đó khiến mẹ con ngã gục.” Geli lợm giọng đến muốn khụy xuống, nhưng ả cố gượng đứng vững và níu chặt cái nhìn tàn nhẫn của cha mình. “Lẽ ra ba phải chuyện này với con từ trước,” viên tướng tiếp tục. “Nhưng, cả hai chúng ta đều biết... chuyện gì xảy ra.” Đôi tay Geli run lên vì tức giận. Vết sẹo mặt ả như bỏng cháy, nhưng ả vẫn chưa tìm ra lời đối đáp. “Con ghét ba,” tướng Bauer . “Nhưng con giống hệt ba.” “,” ả thào. “Có. Và con biết phải làm gì.” Nhà Cách ly Rachel hết tê lúc 6:50 sáng. Tôi đưa cho nàng chai nước suối lít, nàng uống gần hết sau vài ngụm. Mười phút sau, Zach Levin thông báo mẫu thần kinh của nàng được nén và lưu thành công. Công việc về phần con người xong. Rachel, Levin, Ravi Nara và tôi dạo bước xung quanh tấm chắn từ trường khổng lồ dùng để bảo vệ Trinity khỏi máy MRI và đến đứng trước quả cầu. Tôi nghĩ Trinity phải điều gì sâu sắc lắm, nhưng lời lẽ của nó thuần túy kỹ thuật. “Tôi kết nối với Godin Bốn trong tầng hầm, và tôi bắt đầu nghiên cứu so sánh các dữ liệu trong mỗi mẫu thần kinh. Rất nhiều dữ liệu trong đó là thừa, đặc biệt những dữ liệu biểu chức năng trợ giúp sống. Tôi xóa bỏ những chỗ ấy trong quá trình hợp nhất.” Levin , “Ông có tin tưởng phép toán trừ này có thể thực mà kèm theo hậu quả xấu ?” “Có. Nó cũng giảm thiểu hoặc thậm chí tránh được những chấn động thích nghi mà quá trình tải mẫu thần kinh trước đây gặp phải. Quá trình loại trừ này là cần thiết trong mọi trường hợp. Mạng tinh thể của tôi có thể giữ lượng hạn chế thực tế của bộ nhớ tượng trưng, nhưng tổng số các mối liên hệ thần kinh của tôi còn thiếu số lượng lớn để giữ hai mẫu chưa nén. còn phải thải ra rất nhiều dữ liệu nữa, chỉ chức năng trợ giúp sống. Khi tôi bắt đầu hợp nhất các chức năng não cao cấp hơn cầu về nghệ thuật cũng ngang với vấn đề khoa học. ” “Ông dự trù quá trình kéo dài bao lâu?” Levin hỏi. “ có tiền lệ.” “Rất tốt. Cám ơn ông.” Các tia laser bên trong quả cầu bằng sợi carbon bắt đầu bắn vào tinh thể trung tâm với tốc độ thôi miên. màn hình plasma đằng sau Trinity, các con số và các ký hiệu toán học cuồn cuộn trôi qua với tốc độ vượt xa khả năng lĩnh hội của con người, thể hoạt động bên trong của máy bằng ngôn ngữ do con người sáng tạo ra nhưng bây giờ có ích gì. Chúng tôi câm lặng đứng nhìn, như thể xem trận mưa sao băng hay nhìn đứa trẻ ra đời. Khi quá trình này tăng tốc, tôi như bị ném trở về thời thơ ấu, khi tôi ngồi trước ti vi cùng với cha tôi kinh ngạc ngắm nhìn Apollo 11 đáp xuống vùng tối mặt trăng. Thế mà những gì chúng tôi chứng kiến lúc này so với việc bắn Apollo lên mặt trăng phức tạp hơn biết bao nhiêu mà kể. Đội ngũ khoa học kỹ thuật của Godin hoàn thành việc thần kỳ: giải phóng trí tuệ ra khỏi cơ thể. Nhưng máy tính Trinity cố gắng thống nhất những gì mà thiên nhiên - vì lợi ích của sống còn - phân tách ra từ lâu trước cuộc tiến hóa của Homo sapiens. Trí tuệ của đàn ông và đàn bà, bị phân chia ra bởi sinh hóa và bởi những áp lực của môi trường suốt hàng triệu năm, giờ trở thành . Khi quá trình này hoàn thành, lực lượng mạnh mẽ nhất hành tinh còn tồn tại trong trạng thái phân chia, nửa này vĩnh viễn khao khát nửa kia của mình nữa. Có lẽ trong trạng thái toàn thể này, Trinity mới có thể mang lại hy vọng cho giống loài dường như thể tự cứu mình thoát khỏi những bản năng xấu xa tồi tệ nhất của nó nữa. Levin xuống tầng hầm và khi trở lại, mang ghế cho chúng tôi. Rachel và tôi nắm chặt tay nhau, mắt nhìn thẳng vào những tia chớp laser màu xanh. Khi các tia sáng bắn ra tăng tốc, chậm lại, rồi tăng tốc trở lại, tôi có cảm tưởng xem người chơi trò xếp hình: nhặt các hình lên, thử chúng với nhau, vứt số, đặt những cái khác vào vị trí đúng của chúng. Tôi chẳng biết bao nhiêu thời gian trôi qua, cho đến khi các tia sáng chói chang trong quả cầu mờ lịm , rồi giọng của Trinity tràn ngập căn phòng. “Các mạch của tôi gần đạt đến mức bão hòa. Mẫu được hợp nhất được coi là chịu trách nhiệm cho an ninh của hệ thống. Từ thời điểm này trở nó điều hành những bước cuối cùng của quá trình hợp nhất. Tôi tạo ta bản đồ để nó theo.” Giống như có thỏa thuận ngầm, tất cả chúng tôi đứng dậy. “Tôi hoàn thành nhiều công việc trong cuộc đời mình,” giọng kia tiếp tục, và tôi biết trí tuệ của Peter Godin vẫn sống trong máy. “Tôi cũng làm nhiều việc đáng ngờ về phương diện đạo đức. Bây giờ tôi muốn được ghi nhớ vì những gì tôi làm. Hôm nay tôi tự nguyện từ bỏ đời sống và quyền lực tuyệt đối của mình, để cho thứ trong sạch hơn bản thân tôi có thể vào thế giới. Có lẽ bằng cách làm thế, lần đầu tiên tôi thực đến gần thần thánh. Tạm biệt.” “Điều đó xảy ra,” Ravi Nara , giọng y tự nhiên có vẻ kính cẩn cách đáng ngạc nhiên. “Điều thể xảy ra trước mắt chúng ta. Lưỡng thể hóa thành nhất thể... dương hòa .” Tôi chưa bao giờ hỏi Ravi Nara về tôn giáo của y, tôi cứ tưởng y theo đạo Hindu. Tôi định hỏi tiếng còi rú lên trong phòng. “Gì thế?” tôi hỏi. “Cái cửa,” Levin , ấn nút và quanh cảnh bên ngoài nhà Cách ly ra màn hình treo tường. có ai đứng trước cửa. “Kỳ quặc,” . Người kỹ sư cao lớn vòng quanh rào chắn từ ra cửa. “Đừng mở,” Rachel . Tôi bước khá xa về phía tường để quan sát hàng rào từ tính. Khi Levin chạm vào tay nắm cửa, tiếng rắc đanh gọn vang trong gian phòng. Levin đưa vội tay lên bịt tai, và cánh cửa thép an toàn kẽo kẹt xoay quanh bản lề mở ra ngoài. bóng đen xuất ở khe cửa mù mịt khói, vung cánh tay lên với tốc độ chóng mặt, và Levin nằm vật ra nền nhà. “Chuyện gì xảy ra thế?” máy tính hỏi với giọng y hệt mẫu thần kinh Peter Godin từng dùng. Ravi Nara trườn vào sau quả cầu đen của Trinity. Tôi nắm tay Rachel chạy ra phía cửa gần bức tường sau. Cửa này mở ra ngoài mà mở qua hàng rào từ tính sang buồng điều khiển máy MRI. Khi tôi lao theo nàng vào đó, tôi liếc lại phía sau và thấy mớ tóc vàng hoe phía bộ áo chống đạn đen. “Geli,” tôi vừa vừa khóa cửa sau lưng và đẩy Rachel qua trạm điều khiển. “Xuống tầng hầm!” Phía sau trạm điều khiển có cầu thang xoắn đưa xuống tầng hầm, nơi để siêu máy tính Godin Bốn. Tôi chưa từng xuống đây, nhưng biết dưới đó có các nhân viên kỹ thuật của Levin, có lẽ với những vũ khí tự động họ dùng để đánh trả đòn tấn công đầu tiên của Geli Bauer. Rachel lao xuống các bậc thang rồi lại lao vội lên. “Cửa khóa!” Tôi chạy xuống, dùng cả hai nắm tay đấm vào cánh cửa thép. “Mở ra, mẹ kiếp!” có gì xảy ra. “David!” Lật đật quay trở lên, tôi thấy Geli Bauer vừa ló ra từ phía hàng rào từ tính, cách khoảng hơn mét. Tôi đẩy Rachel ra sau bức tường thủy tinh plexi của trạm điều khiển và ấn nàng ngồi xuống sau các máy tính. Tại sao Geli đơn giản bước ngang qua căn phòng để bắn chúng tôi. Ả nghĩ chúng tôi có những khẩu súng máy mà nhân viên của Levin sử dụng. Ngay khi ả nhận ra chúng tôi có, chúng tôi chết. Levin rên lên từ sàn nhà gần phía cửa, nhưng nhúc nhích. “Nó đâu rồi?” Rachel rít lên từ dưới sàn nhà. Khi tôi cúi xuống trả lời, cây búa vô hình đẩy tôi vào tường. Vai tôi tê dại, và mặt như phải bỏng. thanh của phát súng dường như đến sau viên đạn rất lâu, nó đập vỡ bức tường thủy tinh plexi và dội xuống mặt tôi những mảnh sắc như dao cạo. Rachel cố đứng lên, nhưng tôi ấn nàng xuống. Geli Bauer từ sau hàng rào từ tính bước ra và thận trọng ngang qua phòng MRI, khẩu súng của ả nhằm thẳng vào ngực tôi, mắt ả đảo nhanh từ sau ra trước. có vũ khí nào trong tay và có chỗ nào để chạy. Trong khi tôi chờ đợi phát đạn cuối cùng, thời gian dãn nở rộng xung quanh tôi. Geli di chuyển chậm chạp, giống như con báo rình mồi. Tôi nhìn xuống mắt Rachel, biết rằng đây là cái nhìn cuối cùng của tôi mặt đất. Rachel cầm tay tôi và nhắm mắt lại. Khi nàng làm thế, tôi thấy nút đỏ lớn bảng công tắc bên cạnh đầu nàng. Hàng chữ bên dưới ghi: KHỞI ĐỘNG TRƯỜNG DAO ĐỘNG. Tôi đập nắm tay mình vào nút bấm. Tiếng rắc của phát súng tắt ngấm trong tiếng rít tàn bạo của máy Siêu-MRI. Tôi nhìn lên và thấy Geli Bauer cúi gập người, nắm chặt bàn tay phải máu xuống sàn nhà. Từ trường cực mạnh của máy quét, giống như bàn tay của Chúa giật phăng khẩu súng khỏi nắm tay ả và có lẽ cắt phăng ngón tay là ít. Khẩu súng của ả hóa ra bị dán chặt lên tường của phòng máy MRI. Cách đó xa, con dao treo lơ lửng, có lẽ từ trường cực mạnh giật nó khỏi thắt lưng Geli. Bỗng nhiên tiếng rít ngừng bặt, cả súng lẫn dao rơi xuống sàn. Geli tiến lại phía tôi, mắt ả hằn học tia giết người. Tôi bước ra từ sau bảng điều khiển, nhưng với bên vai vô dụng, tôi chẳng làm đựơc gì. Hôm ở ga Liên Hiệp, tôi còn cả hai cánh tay khỏe mạnh thế mà Geli suýt giết chết tôi. “Tại sao làm thế?” tôi hỏi. Ả đấm tôi ngã xuống sàn và đá như sấm sét vào ngực tôi, cưỡi lên người và bóp nghẹt cổ tôi. Ngón tay cái của ả lần tìm khí quản. “Dừng lại!” Rachel quát từ trong trạm điều khiển. “Bây giờ chẳng còn lý do gì nữa!” Tôi cố chống cự, nhưng lần nữa Geli lại ở thế thượng phong. Động mạch cảnh của tôi bị chặn, và tôi mê . Tôi cảm thấy như bao lần tôi ở bên bờ cơn ngủ rũ. Nhưng lần này, khi những làn sóng đen cuộn phủ trùm lên tôi, tiếng rú khủng khiếp xuyên vào tận trung tâm bộ não tôi. Nó là tiếng rú của đứa trẻ khi chứng kiến cảnh khủng khiếp vượt quá sức chịu đựng, gần như vượt khỏi ngưỡng nghe của tai người, đầy đau khổ và thể dập tắt. Tiếng rú kéo tôi ra khỏi cơn hôn mê, trở lại với ánh sáng... rồi bỗng nhiên ngừng bặt, để lại im lặng trống rỗng như hành tinh chết. Trong im lặng vang lên giọng mà tôi tin chắc phát ra từ bộ não thiếu oxy của tôi, giọng bình tĩnh, siêu phàm, nghe như nửa nam nửa nữ. “Hãy nghe tôi, Geli. Người đàn ông bên dưới phải người mà căm ghét. Tennant phải là người muốn giết. Người mà muốn giết đứng sau lưng .” Bàn tay kẹp như chiếc êtô cổ tôi vẫn giữ nguyên, nhưng tôi cảm thấy thân người Geli đè lên tôi xoay chuyển. Tôi mở mắt ra. Ả nhìn qua vai vào vật gì mà tôi thấy. “Kết liễu !” giọng đàn ông cục cằn quát lên. “Làm việc của con !” Tướng Bauer vào nhà Cách ly. Gọng kìm của Geli thít chặt cổ tôi, nhưng ánh mắt ả còn vẻ điên giận nữa. “Tôi biết , Geli ạ,” giọng lạ cất lên. “Trái tim tôi đau đớn cho . Tôi biết về vết sẹo của .” Geli chết lặng. “Nghe giọng của cha đây, Geli. Hãy nghe .” Giọng của tướng Bauer tràn ngập gian phòng, nhưng phát ra từ cổ họng ông ta. Nó phát ra từ các loa của Trinity. “Vết sẹo đó à? Tôi cho biết tại sao nó chịu sửa . Ba tuần sau khi mẹ nó chết, nó từ trại huấn luyện về nhà và định giết tôi.” Bàn tay vẫn đặt cổ tôi, nhưng còn sức lực nữa. “Nó nghe câu chuyện ở Việt Nam, bọn lính bộ binh bất mãn dùng lựu đạn để giết lũ sĩ quan mà chúng ghét. hiểu , đặt quả lựu đạn trong nhà xí và khi bọn kia là cho chúng tiêu luôn.” Tướng Bauer đứng nghểnh đầu kinh ngạc nghe chính giọng mình phát ra từ loa. Bàn tay phải của ông ta nắm khẩu Beretta 9 ly màu đen mà tôi thấy chĩa vào McCaskell. “Đêm ấy tôi uống rượu, giường. Nó tưởng tôi ngủ rồi. Mà có lẽ tôi ngủ. Nó lẻn vào đặt quả lựu đạn phốt pho trắng chết tiệt lên chiếc bàn đầu giường tôi. Bằng phản xạ tay tôi vùng ra khỏi chăn và chụp cổ tay nó. Tiếng kêu của nó làm tôi tỉnh hẳn, và tôi nhìn thấy quả lựu đạn. À, tôi lăn nhanh ra phía mép kia của giường, như chiến sĩ lão luyện. Nhưng nó bị kẹt phía bên kia và phải bỏ chạy, Willy Pete(54) nổ trước khi nó kịp ra khỏi cửa. Đó là nơi nó bị vết sẹo ấy. Và đó là lý do vì sao nó chịu chữa. Vết sẹo ấy là vụ tự tử của mẹ nó, là căm ghét của nó đối với tôi, là toàn bộ cuộc đời buồn chó chết của nó. Quả là lâm ly thống thiết. Nhưng nó lại làm lính. Căm thù là nhiên liệu cho người lính.” Geli toài ra khỏi người tôi và tiến về phía cha ả, hai tay buông thõng hai bên. Tôi nhìn mặt ả, nhưng ràng thân người ả che đường đạn bắn của cha mình. “Ông với ai đấy?” Geli thét lên. “Ông kể lại chuyện ấy với ai?” “Tránh ra!” viên tướng quát. “Hãy nghe tôi, thiếu tướng,” giọng kỳ quái vừa cứu mạng tôi lại cất lên. “Tại sao ông muốn giết tôi. Ông giết phần lớn con người ông. Ông giết phần lớn con ông. Nhưng tôi là phần trong sạch nhất trong ông. Phần trong sạch trong con người. Ông hy vọng gì vào việc giết tôi?” Tôi bắt đầu trườn về phía sau, về chỗ trạm điều khiển. Viên tướng chĩa súng vào tôi, nhưng Geli dịch sang che đường đạn. “Ông bóng tối hơn ánh sáng phải ?” Giọng bất khả kháng, như của đứa trẻ. Nhưng tướng Bauer thèm để ý. Ông ta chuyển sang ngang, cố tìm đường bắn. “Bỏ súng xuống,” Geli giơ cả hai tay lên . Ả muốn cứu chúng tôi sao? “Thôi ,” ả . “Thôi !” Vẻ mặt giận dữ của viên tướng hề thay đổi. Tiếng của máy tính cũng như của Geli đều lọt vào tai ông ta. Ông ta di chuyển xa hơn sang bên trái, về phía máy MRI, cố tìm góc ngắm bắn chết ngay. “Ông giết tôi để làm việc đó chứ?” Geli hỏi. Tôi quay nhìn lại bức tường chắn bằng thủy tinh plexi rạn vỡ, mong Rachel ra tay. Nàng nhìn như bị thôi miên vào vũ điệu tử thần của hai cha con Bauer. “Ba giết con,” tướng Bauer , rồi ông ta dùng báng súng hất Geli sang bên, đánh bật ả như đánh đứa trẻ. Ả vừa ngã, viên tướng vung nòng khẩu súng về phía tôi, nhưng đúng lúc đó máy Siêu MRI rít lên và ông ta ngã lộn xuống như bị đánh bằng đạn trái phá. Khẩu súng của ông ta đập vào máy scan MRI và treo lên đó như thể bị hàn vào máy. Rachel quỳ xuống bên tôi, dùng ngón tay sờ thử vai tôi. “Đỡ đứng dậy,” tôi thều thào. “ cứ nằm yên.” “Làm ơn... cho đứng dậy.” Tôi cố gượng quỳ lên. Rachel đỡ dưới vai lành của tôi và giúp tôi đứng lên. Geli đứng bên cạnh cha ả, nhìn xuống mà tin vào mắt mình. Cổ viên tướng loang máu đỏ, đôi mắt vẫn mở đờ đẫn. Ông ta đứng giữa cây súng và máy MRI khi Rachel ấn nút khởi động. Từ trường dao động cực lớn của máy giật cây súng về phía nó bằng lực thể cưỡng nổi, với tất cả những gì đường của nó. Trong trường hợp này, đó chính là phần cái cổ họng của viên tướng. “John Skow vẫn cố gắng tắt nguồn máy tính,” Geli bằng giọng đều đều. “Tôi nghĩ gã thể làm được nếu cả hai người còn sống.” “Tôi vẫn an toàn,” Trinity . “Và tôi lấy làm tiếc cho , Geli.” Rachel và tôi bước chậm rãi qua hàng rào từ trường. Quả cầu đen chờ đợi, những tia laser màu xanh của nó phát ra đều đặn như nhịp tim trong mạng carbon. màn hình bên dưới nó, tôi thấy hình ảnh Rachel và tôi nhìn vào camera của Trinity. “Ngươi có biết chúng ta ?” tôi hỏi. “Biết,” giọng trẻ con cất lên. “ hơn hai người biết về bản thân nhiều.” PHẦN KẾT Hôm nay, trong mạch cacbon của Trinity và bộ nhớ tinh thể, Rachel và tôi vẫn là thực thể. Nhưng chúng tôi chỉ là điểm xuất phát, cha mẹ của đứa trẻ vượt xa nguồn gốc của nó. Peter Godin ước mơ giải phóng trí tuệ ra khỏi cơ thể. Lão tin rằng giải phóng này là khả thi bởi lão tin trí tuệ chỉ là tổng số các mối liên hệ thần kinh trong bộ não chúng ta. Andrew Fielding tin vào điều khác: cái toàn thể lớn hơn tổng thể từng phần. Tôi vẫn chưa chắc chắn ai đúng. Việc chế tạo thành công Trinity dường như chứng minh là Godin đúng. Nhưng đôi khi lúc nửa đêm chập chờn giấc ngủ, tôi cảm thấy diện khác trong trí mình. Dư của quan điểm giới hạn tuyệt vời mà trước đây chỉ chợt thoáng ra trong cơn hôn mê của tôi. Tôi ngờ rằng dư ấy là Trinity. Rằng, như Fielding tiên đoán, máy tính Trinity và tôi vướng vào nhau mãi mãi trong cái ranh giới bất ổn giữa thế giới mà tôi nhìn thấy xung quanh với thế giới hạ nguyên tử khẳng định những gì nhìn thấy. Rachel thích về điều này, nhưng nàng cũng cảm thấy nó. Như Peter Godin tiên đoán, Trinity “mới” cũng cho phép bản thân nó tách ra khỏi mạng Internet. Nó duy trì liên kết với những máy tính quốc phòng chiến lược toàn thế giới và bằng cách đó đảm bảo tồn tại của nó. Nhưng nó cũng đe dọa ai. Gần đây, Trinity tiết lộ với các nhà lãnh đạo thế giới rằng nó cố gắng xác định phương pháp cộng sinh hiệu quả nhất giữa trí thông minh có cơ sở sinh học với trí thông minh có cơ sở máy móc. Máy tính Trinity phải là Chúa và nó cũng tự tuyên bố như thế. Thế nhưng con người cũng nhanh chóng bỏ qua khả năng này. Đến nay, 4183 website về Trinity nở rộ khắp thế giới. số website do môn đồ giáo phái New Age, những người quảng cáo tính thần thánh của cỗ máy này điều hành, số khác do những người theo trào lưu chính thống quản lý, nhóm này liệt kê hàng loạt “bằng chứng” chứng minh rằng Trinity là kẻ Phản Cơ Đốc mà sách Khải huyền tiên đoán. Cũng có nhiều website thuần túy kỹ thuật: chúng theo dấu các bước của Trinity qua mạng máy tính khắp thế giới, lập bản đồ các hành động của trí thông minh siêu nhân loại đầu tiên hành tinh này. Bản thân Trinity cũng viếng thăm tất cả các website đó, nhưng để lại ý kiến nào. trong những nỗi lo lớn nhất của Trinity là tránh khỏi ngày có máy tính khác cũng dựa cơ sở MRI nhảy lên mạng tại nơi nào đó thế giới. Để đề phòng điều ấy xảy ra, Trinity theo dõi tất cả các tín hiệu lưu thông toàn cầu. Nhưng cũng như phát triển của vũ khí hạt nhân, nếu chỉ dùng các biện pháp thuần túy kỹ thuật thể đảm bảo tuân thủ. Bản chất con người là thế, nhất định có những người chế tạo Trinity khác. Người ta rằng dân Đức - những người có thể tiếp cận công nghệ Siêu MRI của Jutta Klein từ trước - có nguyên mẫu vận hành ở viện Max Planck tại Stuttgart, cỗ máy được cách ly cẩn thận khỏi Internet. Lại có tin đồn rằng người Nhật theo đuổi dự án đảo Kyushu. Dường như thể hiểu nổi tại sao các nước dám làm điều này bất chấp Trinity có thể áp đặt đòn trừng phạt khủng khiếp. Thực tế họ tiến xa con đường chứng minh cho luận điểm của Peter Godin rằng con người thể kiểm soát được bản thân với tinh thần trách nhiệm. Cái viễn cảnh có nhiều máy tính Trinity xung đột với nhau khủng khiếp. Người ta vẫn chưa biết những máy tính được đồn đại là phát triển ấy dựa mẫu thần kinh đàn ông, đàn bà hay hợp nhất. Những trí tuệ của con người đơn lẻ được trang bị sức mạnh như thế có đủ tiến hóa vượt qua các bản năng còn sót lại để cùng tồn tại trong phạm vi hạn chế của thế giới ? Tôi phải là người lạc quan. Nhưng có lẽ họ thừa nhận thế giới là hạn chế. Về mặt lý thuyết, nguồn kiến thức là vô tận. Có lẽ Trinity có thể chấm dứt được chiến tranh chăng. Bây giờ tôi xin gửi lại mối lo lắng ấy cho người khác. Khi người ta hỏi tôi những giấc mơ - hay hoang tưởng - của tôi có hay , tôi trả lời như thế này: tôi dám chắc, nhưng tôi tìm thấy các đầu mối ở nhiều địa điểm khác nhau. trong những đầu mối tốt nhất tôi nhận được ở nguồn tưởng tượng bất ngờ nhất. Trong vòng ba tháng qua - trong khi tôi viết câu chuyện kể về những trải nghiệm với Trinity của tôi - máy tính Trinity ra lệnh kiến tạo nguyên mẫu Trinity thứ hai dùng để nghiên cứu. Bây giờ nó đứng cạnh vị tiền bối của nó trong nhà Cách ly ở White Sands, cách ly khỏi thế giới bên ngoài nhưng hoạt động hoàn hảo như thực thể độc lập. Khi tôi biết việc phát triển chiếc máy tính thứ hai này, tôi viết e-mail gửi Trinity. Trong bức thư đó, tôi nhấn mạnh rằng có ai xứng đáng thể nghiệm trạng thái Trinity hơn Andrew Fielding, người biến nó thành khả thi. Nhưng Trinity trước cả tôi. Tuần trước, tôi bước qua vòng người vũ trang vào tòa nhà Cách ly, tại đây tôi thấy hai quả cầu carbon đứng bên nhau. Tôi vừa kinh hãi vừa mong mỏi ngày này. Sợ hãi vì Andrew Fielding mà tôi sắp gặp chỉ có trí nhớ đến cái ngày ông được Siêu-MRI quét lần đầu tiên - cách đây chín tháng - điều này có nghĩa là tôi gặp phải tình trạng bối rối có hai, là phải thông báo cho người rằng ông ấy bị giết chết. Tuy nhiên ký ức của tôi về Fielding bảo tôi rằng ông chịu được cú sốc này tốt hơn bất kỳ ai khác. Tôi đúng. Fielding nhắc tôi rằng ông có cuộc sống số theo chu kỳ trong máy tính Trinity, thậm chí ông còn suy luận ngày nào đó - có lẽ thế kỷ sau chăng - quá trình nghịch đảo của Trinity có thể được hoàn tất: mẫu thần kinh được lưu trữ dưới dạng số hóa có thể được tải vào bộ não sinh học, hay sóng ướt. Nhưng điều thực vực Fielding dậy là cái tin ông đưa được tình của đời mình ra khỏi Trung Hoa và cưới bà. Mẫu thần kinh của ông chỉ nhớ rằng ông vẫn mỏi mòn chờ đợi Lu Li trong vô vọng vì nghĩ bà còn bị kẹt lại ở Bắc Kinh. Tôi kể chuyện Lu Li trốn thoát khỏi những đội do thám của Geli Bauer, cuộc trốn chạy tuy nhiều kịch tính như cuộc trốn chạy của tôi nhưng lại thành công hơn nhiều. Đêm ấy, chỉ vài giờ sau khi tôi rời khỏi căn nhà của Lu Li, bà nhàng lẻn ra ngoài cùng với con chó bông mũm mĩm lông xoăn tít, và bộ băng qua Chapel Hill. Bà đến nhà người Hoa có tiệm ăn mà bà cùng Fielding hay ăn tối ở đó. Gia đình này giấu bà trong nhà cho đến khi những vụ việc xung quanh Trinity được giải quyết. Khi tôi kể với Fielding tôi đưa Lu Li từ Bắc Carolina đến, và bà đứng chờ ngoài cửa, ông cho ông xin mấy phút để chỉnh trang lại trước khi bà đến trước ống kính camera. Lời đề nghị làm tôi sửng sốt, nhưng lúc đó tôi nhận ra máy tính có thể có “tính người” đến mức nào. chuyện với mẫu thần kinh Peter Godin giống như chuyện với máy; nhưng sau đó chuyện với Godin ông ta vẫn như cũ. Nhưng Andrew Fielding lại khác, là tính cách lập dị có tiếng về trí thông minh và cảm tình nồng hậu. Ngay cả trong giọng tổng hợp của mẫu thần kinh của ông, tôi cũng nghe thấy sắc sảo của con người lưu lại poster từ câu lạc bộ Newcastle, nơi ông xem Jimi Hendrix chơi năm 1967. Trong khi Fielding trấn tĩnh lại, chúng tôi điểm lại số phận những người cùng chúng tôi làm việc cho Trinity. Zach Levin bị Geli Bauer đâm ngay cạnh cửa nhà Cách ly, nhưng hồi phục. Bây giờ trở lại cương vị trưởng ban nghiên cứu thiết kế cho Siêu máy tính Godin. Skow bị NSA thải hồi, nhưng có tin đồn gã viết cuốn tiểu thuyết dựa những kinh nghiệm trong cơ quan tình báo siêu mật này. Giống như Skow, Geli Bauer biết quá nhiều về các vấn đề bí mật quốc gia nên thể đối mặt với phiên tòa dân để trả lời về cái chết của Fielding. Sau những cuộc thẩm vấn mở rộng của NSA và cơ quan mật vụ, Geli lặng lẽ biến mất. Tôi muốn nghĩ rằng tòa án tóm được Geli tại nơi nào đó, nhưng tôi ngờ ả làm việc trong phân bộ an ninh thuộc công ty đa quốc gia nào đó. Khi Fielding bảo tôi ông sẵn sàng gặp Lu Li, tôi lời tạm biệt thân ái, rồi quay người dợm bước ra cửa. “David?” giọng tổng hợp vang lên sau lưng tôi. Tôi dừng lại và nhìn vào quả cầu. “Vâng?” “ có còn bị những hoang tưởng quấy rầy nữa ?” “Tôi bị thêm lần nào nữa.” “Thế còn chứng ngủ rũ?” “Hết rồi.” “Thế tốt. tôi nghe... có còn băn khoăn những giấc mơ của là hay ?” Tôi ngẫm nghĩ. “Chúng là đối với tôi. Đó là tất cả những gì tôi biết.” “Đó là tất cả những gì muốn biết phải ?” Đây đúng là kiểu Fielding. “Ông có thể cho tôi biết nhiều hơn à?” “Có thể.” “Được rồi. Vậy ông .” “ có nhớ giấc mơ đầu tiên cứ trở trở lại . Người đàn ông liệt trong căn phòng tối đen như mực?” “Tất nhiên là nhớ.” “ bảo tôi rằng ông ta trông thấy ra đời của vũ trụ, Big Bang, vụ nổ lớn giống như bom khinh khí, dãn ra với tốc độ kinh hoàng, thế chỗ của Chúa.” “Phải.” Tôi bước vài bước lại gần quả cầu. “ cảm thấy như đó là ký ức. Và như thể chính nhìn thấy. Nhìn thấy nó như Chúa nhìn thấy nó. ” “Đúng.” “Nhưng nhìn thấy.” “Ý ông muốn gì?” “ nhìn thấy như nó xảy ra.” “Tại sao ông biết?” “Bởi vì trong vòng hai trăm triệu năm đầu tiên sau Big Bang, trong vũ trụ có ánh sáng.” Tôi thấy da mình ớn lạnh. “Sao?” “Hình ảnh quả cầu lửa khổng lồ là quan niệm sai lầm phổ biến, ngay cả trong những nhà vật lý. Nhưng thuở ban đầu, vũ trụ hầu như gồm toàn nguyên tử hydro, nó hấp thụ hết mọi ánh sáng. Phải mất hai trăm triệu năm mới có ngôi sao đầu tiên lóe sáng, nhờ có lực hấp dẫn nén hydro lại. Như vậy Big Bang khác rất nhiều so với cái mà ‘nhớ’ về nó. Nó là vụ nổ lớn nhưng... ai thấy được điều gì. Chắc chắn phải là quả cầu lửa hạt nhân.” Tôi đứng chăm chú nhìn những tia laser màu xanh lóe lên trong quả cầu, cảm giác tê dại các đầu ngón tay. “Ông rằng tất cả những gì tôi mơ đều do trí óc của tôi tạo ra?” “. Phần lớn những giấc mơ của về vũ trụ là . Và phần còn lại cũng có thể là . Tôi chỉ vạch ra . sai biệt . Những giấc mơ của người là việc riêng của ta. Tôi rất tin vào những giấc mơ. Chúng đưa tôi khá xa trong thế giới thực tại. Cũng như với vậy. Chúng cứu sống . Có lẽ cả hàng triệu mạng người khác. Bởi vậy đừng lo lắng quá nhiều về nó.” Tôi biết phải sao. “Tôi tin rằng tôi đúng khi điều này với . Tôi muốn suốt đời sống với phức cảm Jesus. Hãy trở lại làm bác sĩ. Tiên tri là công việc đơn.” Levin và đội ngũ của chưa tổng hợp được tiếng cười thực, chứ nếu làm được, chắc hẳn tôi được nghe tiếng cười khúc khích lúc tôi ra. Ngoài cửa, Lu Li đứng đợi. Hôm nay bà mặc bộ quần áo đẹp nhất và cười lúng túng. Bà nhìn vào mắt tôi để dò xem có manh mối mơ hồ nào về chuyện đợi bà . “Ông ấy sẵn sàng đón tôi chưa, David?” Tôi gật đầu và mỉm cười. Tiếng của bà tiến bộ rất nhiều trong ba tháng qua. “Ông ấy có... biết đấy, có ổn ?” Mắt bà rơm rớm. “Ông ấy nhớ bà.” “Tốt. Tôi có chuyện cần với ông ấy.” Nụ cười của bà nở rộng. “ chuyện chắc làm cho ông ấy rất vui.” “Chuyện gì vậy?” Lu Li lắc đầu. “Tôi phải với ông ấy trước . Rồi mới đến .” Bà lướt qua tôi, vào tòa nhà Cách Ly. Tôi bước ra ngoài ánh nắng sa mạc và nhìn về phía nhà để máy bay làm phòng hành chính. Rachel ngồi nắp ca pô của chiếc xe Ford mà chúng tôi mới thuê, nàng vận quần jean xanh và áo sơ mi trắng, trông rất giống khi nàng gọi tôi vào cái ngày phòng khám của nàng bị lục soát. Nàng trượt xuống khỏi ca pô và bước lại gần tôi với nụ cười thận trọng. “ ổn chứ?” Tôi gật đầu. Trí óc tôi vẫn còn vương vấn với những lời lẽ cuối cùng của Fielding. Nếu các giấc mơ của tôi là hoang tưởng, như Rachel luôn khẳng định, tôi có hàng loạt câu hỏi thắc mắc tại sao tôi biết những việc nào đó. Nhưng có điều chắc chắn, tôi có thể quên tất cả chuyện đó để tâm hồn mình được thanh thản. “ có chắc ?” Rachel vừa đưa tay ôm eo tôi vừa hỏi. Nàng luôn thận trọng tránh chỗ vai đau của tôi. “Fielding gì?” “Ông ấy bảo trở lại hành nghề bác sĩ.” Nàng cười, đôi mắt đen sẫm của nàng ánh lên trong nắng. “Em đồng ý với ông ấy.” Nàng đưa cánh tay còn lại ôm vòng qua eo tôi, kéo tôi sát lại người nàng. “Dù cho cần làm gì cũng vậy. Ý em là thế.” Tôi nhìn lại nhà Cách ly, rồi hôn lên trán nàng. “Em chính là người cần.” LỜI CẢM ƠN Xin gửi lòng biết ơn sâu sắc nhất đến Ray Kurzweil(55), nhà sáng tạo tiên phong mà cái nhìn thấu suốt của ông về trí thông minh nhân tạo gợi nhiều cảm hứng nhất cho cuốn tiểu thuyết này. Tôi vẫn còn nhớ lần đầu tiên tôi chơi giọng đại dương cầm synthesizer Kurzweil và nhận ra khả năng của lĩnh vực nhạc điện tử. Kurzweil là nhà tương lai học đầy tài năng, và cuốn sách The Ages of Spiritual Machines của ông là cuốn mà mọi người nên tìm đọc. Tất cả những cuốn tiểu thuyết của tôi được phong phú lên rất nhiều nhờ vào thông thái và uyên thâm của rất nhiều người. Tôi nợ họ lời tri ân. Về chuyến Israel trong thời buổi khó khăn: Keith Benoist. Về chuyên môn y học: các thạc sĩ y khoa Salil Tiwari, Michael Bourland, Jerry Iles, Edward Daly, Fred Emrick, tiến sĩ y khoa Louis Jacobs, y tá Simmons Iles. Về chuyên môn quân : thiếu tướng Chuck Thomas ( nghỉ hưu). Chuck giúp tôi rất nhiều bằng các nhận xét ngắn gọn của ông, và ông chịu trách nhiệm về những hư cấu liên quan đến các khả năng quân . Tôi cũng xin cám ơn Cole Cordray và S.B. về giúp đỡ tế nhị của hai người. Về những đêm dài thảo luận triết học và tôn giáo: Robert Hensley, Michael Taylor và Win Ward. Về những đóng góp của bao người kể xiết, thường xuyên nhất là Geoff Iles, Michael Henry, Ed Stackler, Courtney Aldridge, Betty Iles, Carrie Iles, Madeline Iles, Mark Iles, Jane Hargrove. Vì gắn bó tận tâm với cuốn sách: Susan Moldow, Louis Burke, Susanne Kirk. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các quý bà ở phòng Thương mại Oak Ridge. Như thường lệ, mọi sai sót thuộc về tôi. Cuối cùng tôi xin có vài lời với bạn đọc. Viết về triết học và khoa học trong cuốn sách thương mại là cả vấn đề. Viết về những chủ đề ấy ở mức độ tự nhiên của chúng tới được bạn đọc phổ thông. Nếu đơn giản hóa nhiều quá là xúc phạm đến những người chuyên tâm với các chủ đề ấy. Tôi hy vọng bạn coi cuốn sách này như bài tập trí não, và phán xét nó quá khắt khe theo bất cứ hướng nào. Nếu chúng ta học được điều gì đó trong mười ngàn năm qua, đó là có gì là chắc chắn. 1. Cơ quan An ninh Quốc gia (National Security Agency). 2. Cơ quan Dự án Nghiên cứu Tiên tiến của Bộ Quốc phòng (Defense Advanced Research Projects Agency). 3. Chúa ba ngôi. 4. Máy tạo hình ảnh bằng cộng hưởng từ (Magnetic resonance imaging). 5. Phó thủ tướng . 6. Rube Goldberg (1883-1970) là họa sĩ tranh biếm họa người Mỹ, nổi tiếng với loạt tranh tranh vui vẽ những máy móc phức tạp nhưng chỉ thực những nhiệm vụ đơn giản, được gọi là máy Rube Goldberg. 7. Nhân vật hư cấu, bác sĩ nhãn khoa trong tiểu thuyết Đại gia Gatsby của Scott Fitzgerald (1896-1940). 8. Nhân vật trong Kinh thánh, được Jesus cải tử hoàn sinh sau bốn ngày nằm trong mộ. 9. Biệt danh trụ sở của NSA. 10. Áo nghĩa thư, loại thánh điển của Ấn Độ giáo. 11. Nhà ảo thuật và giả kim trong truyền thuyết Đức, kẻ bán linh hồn cho quỷ dữ để đổi lấy sức mạnh và tri thức. 12. Nhà vật lý lý thuyết người Mỹ, giám đốc Dự án Manhattan. 13. có gì (tiếng Đức). 14. (tiếng Đức). 15. Cưng. 16. OK (tiếng Đức). 17. Nghiên cứu và Phát triển (Reseach&Development ). 18. NORAD (North American Aerospace Defense Command): Bộ Tư lệnh Phòng Bắc Mỹ. 19. Chào buổi sáng (tiếng Đức). 20. Bóng đá trong tiếng Mỹ là “soccer”, trong tiếng là “football”. 21. Tiểu thuyết của George Orwell, nhà văn , xuất bản 1949. 22. Nhân vật độc tài trong tiểu thuyết 1984 của George Orwell. 23. Tiểu thuyết của nhà văn Mỹ gốc Nga, Ayn Rand, xuất bản năm 1957, viết về cuộc đình công của các doanh nghiệp Mỹ. 24. Trích Kinh Thánh. 25. Sân bay Quốc tế Kennedy. 26.Nguyên văn: Frog, vừa có nghĩa là ếch nhái, vừa có nghĩa là cách lăng mạ chỉ người Pháp. 27. giống người tiền sử, được phát sống cách đây khoảng 600.000 năm, tại châu Âu và Trung Á. 28. Bác sĩ, nhà văn, triết gia người Mỹ gốc Ấn. 29. Kinh sách Do Thái giáo. 30. Harry Houdini (1874-1926): nhà ảo thuật huyền thoại người Mỹ gốc Hung. 31. Đơn vị tiền tệ Israel. 32. Khu vườn dưới chân núi Olives ở Jerusalem, nổi tiếng là nơi Jesus cùng các môn đồ của ông cầu nguyện vào đêm trước ngày vác thánh giá.(Luke 22.42-44) Theo giáo hội Chính giáo Đông Âu, vườn này là nơi các Thánh tông đồ chôn cất Đức Mẹ Đồng trinh. 33. Tiếng Latin có nghĩa là “Đoạn đường Đau khổ”. đoạn đường trong Thành Cổ Jerusalem. Từ thế kỷ 18 nó được coi là đoạn đường Chúa Jesus vác thánh giá đến nơi hành hình. 34. Viết tắt của: Conseil Européen pour la Recherche Nucléaire (Hội đồng Nghiên cứu Hạt nhân Châu Âu). 35. Lindon Baine Johnson. 36. Tiếng Latin, Nhân danh Cha và Con và Thánh thần. 37. Triết gia Đức (1844-1900). 38. Đây là cách Jesus Christ tự xưng danh: “Các người chết trong tội lỗi của mình trừ phi các người tin rằng TA LÀ (Chúa).” (Jn.8:24) 39. Trích Kinh thánh, Saul (sau là thánh Paul), ban đầu là người chống Cơ Đốc, nhưng đường đến Damascus trải nghiệm mặc khải lạ lùng là được gặp Chúa Jesus. Sau trải nghiệm đó, ông quyết định đến với Cơ Đốc giáo. 40. Niels Henrik David Bohr (1885-1962), nhà vật lý học Đan Mạch, có những cống hiến cơ bản về cấu trúc nguyên tử và cơ học lượng tử, giải Nobel vật lý 1922. 41. Inter-Continental Ballistic Missile: tên lửa đạn đạo xuyên lục địa. 42. Trinity Shot: Phát đạn Chúa Ba ngôi. 43. Electromagnetic Pulse: xung điện từ phát ra từ vụ nổ hạt nhân ở tầm cao. 44. Tướng Mỹ (1885-1945). 45. Thủ phủ bang Bhopal, Ấn Độ. Năm 1984 ở đây xảy ra cố rò rỉ khí độc từ nhà máy hóa chất, làm hàng ngàn người chết trong đêm, và hàng ngàn người khác mang di chứng. 46. Tên khoa học của loài người. 47. Cardiopulmonary Resuscitation: thủ thuật cấp cứu hồi phục hoạt động tim phổi. 48. Nhạc cụ điện tử tạo ra rất nhiều thanh khác nhau (kể cả bắt chước các nhạc cụ khác) bằng cách dùng bộ vi xử lý giải các hàm toán học tạo ra và kết hợp các tín hiệu có tần số khác nhau. 49. Single photon emission computed tomography: kỹ thuật hình ảnh chụp X-quang bằng hạt nhân trong y học, dùng tia gamma, có thể tạo ảnh thực ba chiều. 50. Strategic Arms Reduction Treaty: Hiệp ước Tài giảm Vũ khí Chiến lược, ký ngày 31 tháng Bảy, 1991 giữa Mỹ và Liên Xô về việc cắt giảm và hạn chế các vũ khí tấn công chiến lược. Hiệp ước này hết hiệu lực vào tháng Năm, 2009. 51. Circular Error Probability: Xác suất sai số vòng tròn, phép đo độ chính xác của hệ thống vũ khí. 52. Nhân vật trong phim Dr. Strangelove or: “How I Learned to Stop Worrying and Love the Bomb?”, tác phẩm châm biếm Chiến tranh Lạnh. 53. Duck and Cover: phương pháp được chính phủ Mỹ dạy cho các thế hệ học sinh từ 1940 đến 1980, được coi là để bảo vệ cá nhân chống những tác động của vụ nổ hạt nhân có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Ngay sau khi thấy ánh lửa, bọn trẻ phải dừng tất cả công việc làm và nằm sát xuống đất dưới bất kỳ mái che nào, hay ít nhất nằm nép sát tường với tư thế bào thai, úp mặt xuống và lấy tay che đầu. 54. Willy Pete: tiếng lóng chỉ lựu đạn phốt pho trắng (White Phosphorus). 55. Nhà phát minh và nhà tương lai học Mỹ, sinh năm 1948.