CHƯƠNG 36 Khi tôi xưng tên ở cổng tòa nhà Mossad, chúng tôi lập tức bị kéo vào trong và khám xét. Tiền bạc và giấy tờ của tôi bị tịch thu hết. Rồi chúng tôi bị khóa trái trong căn phòng màu trắng có gì ngoài chiếc bàn gỗ và ba chiếc ghế. sĩ quan mặc thường phục xuất và hỏi chúng tôi đến đây làm gì. Tôi muốn gặp quan chức cao cấp nhất của Mossad. buộc tôi phải cung cấp thông tin, nhưng tôi từ chối thêm. Viên sĩ quan rời phòng và khóa cửa sau lưng. Bốn mươi phút trôi qua. Rachel gì. Nàng hiểu rằng mọi lời của chúng tôi đều bị ghi lén bằng microphone bí mật. Mặc dầu nóng lòng muốn đến ngay New Mexico, tôi vẫn thấy mình chìm trong tâm trạng thanh thản kỳ lạ. Rachel có lẽ cũng cảm thấy điều đó, vì nàng nhoài người ra nắm tay tôi như thể muốn được tiếp thêm sức mạnh. Cuối cùng cánh cửa mở ra, người thấp lùn, da sần sùi như của chiến binh sa mạc bước vào ngồi sau bàn. Tuổi trạc ngoài năm mươi, gã mặc bộ kaki phủ bụi và đôi giày te tua. Gã có bộ tóc bạc dày dặn, và đôi mắt cảnh giác nhất mà tôi từng thấy. “David Tennant,” gã , mắt nhìn vào hồ sơ cầm trong tay. “Bác sĩ, tác giả sách, nghi can ám sát tổng thống. là kẻ bị săn lùng nhiều nhất ở Mỹ tuần này. Do đâu chúng tôi có được vinh hạnh này?” “Ngài có phải là chỉ huy của Mossad ?” “Phải. Thiếu tướng Avner Kinski.” “Tôi tưởng ngài phải ở Tel Aviv chứ?” “Tôi ở Bathlehem. Đầu giờ sáng nay có vụ ném bom ở đó.” “Tôi rất tiếc.” “Tất nhiên.” Kinski vô hồn cười lấy lệ. “Vậy, tại sao ông đến đây?” “Tôi cần được ngài giúp đỡ.” “Để làm gì?” “Tôi cần liên lạc với Ngoại trưởng Mỹ, trong thời gian sớm nhất có thể.” Câu trả lời của tôi làm gã ngạc nhiên, mà theo tôi, gã có vẻ thuộc loại người hiếm khi ngạc nhiên trước chuyện gì. “Tại sao ông lại muốn trở về Mỹ? Theo tôi biết ở đó ông được mến lắm đâu.” “Đó là việc của tôi.” Tay chỉ huy Mossad ngả người ghế, nét mặt tỏ vẻ kinh ngạc. “Chính xác ông muốn tới đâu?” “White Sands, New Mexico.” “Thú vị . Ông có biết chính phủ chúng tôi được cầu bắt giữ ông ?” “Tôi cũng đoán thế.” “Chính phủ chúng tôi cố gắng hợp tác với chính phủ nước ông bất cứ khi nào có thể.” “Nhưng phải lúc nào cũng thế. Đặc biệt là khi dính dáng đến các vấn đề vũ khí và công nghệ.” Tay trùm tình báo khụt khịt và ngả người về phía trước, đôi mắt gã nhìn tôi thách thức. “Ông trốn khỏi bệnh viện Hadassah, thế mà lại chạy thẳng đến rơi vào tay tôi. Tại sao?” “Vì tôi biết ngài có thể giúp tôi.” Kinski lắc đầu. “Có thể ông chạy thẳng đến đây ngay. Từ lúc rời khỏi Hadassah cho đến khi tới đây, ông qua những đâu?” “Ngài được biết ngay thôi.” “Tôi muốn biết ngay bây giờ.” “Rất tiếc.” “Hãy với tôi điều gì , bác sĩ. Có phải ý định của ông là giết tổng thống Mỹ ?” “Ngài thấy tôi có vẻ là tên giết người à?” Kinski nhún vai. “Những kẻ giết người xuất dưới mọi hình dáng, kích thước. Phụ nữ. Những chàng trai trẻ. Bọn thiếu niên tươi cười. Trông ông ràng là tay cuồng tín.” “Tôi phải kẻ giết người.” “Tuy nhiên ông giết. Tôi nhìn thấy điều đó trong mắt ông.” “Để tự vệ.” Gã sếp tình báo châm điếu thuốc và rít sâu. “Chúng ta lạc đề mất rồi. Điều gì khiến ông tin rằng tôi giúp ông bí mật bay về Mỹ?” “Tôi có thứ mà ông muốn.” Đôi mắt sẫm lóe lên. “Bây giờ ông là thương gia đấy à?” “Tôi biết thế giới này vận hành như thế nào.” Tôi ngả người ra trước. “Ở Mỹ có dự án quốc phòng bí mật gọi là Trinity. Nó hoạt động trong hai năm nay, và chỉ mấy giờ nữa tạo ra vũ khí mạnh nhất trái đất này. Tôi biết về thứ vũ khí ấy nhiều hơn bất cứ kẻ nào ông có thể nắm trong tay trong tương lai dự kiến.” Mồm gã Israel trễ xuống. “Tôi biết điều này làm ngài hoàn toàn ngạc nhiên,” tôi . “Tôi là trong sáu người biết tường tận mọi chi tiết của nó ngay từ những bước khởi đầu. Tôi được chính tổng thống bổ nhiệm vào dự án đó. Bởi vậy, ngài có hai lựa chọn. là, ngài có thể tống tôi vào tù và tra tấn tôi để lấy được những điều tôi biết. Nhưng có nhiều người biết tôi ở Israel - kể cả tổng thống - nên làm thế có thể gây rắc rối cho ngài. Hai là, ngài có thể cho tôi bay đến White Sands. Nếu ngài làm thế, ngài có thể cho bất cứ nhà khoa học nào mà ngài muốn lên máy bay cùng với tôi, và tôi với họ tất cả những điều tôi biết về Trinity.” Tôi ngồi ngay ngắn lại ghế. “Đó là đề nghị của tôi.” Khói thuốc cuộn lên bồng bềnh từ miệng Kinski. Trông gã có vẻ bình thản, nhưng tôi biết những lời của tôi gần như hạ gục gã khỏi ghế. “Hãy cho tôi biết bản chất của thứ vũ khí đó, bác sĩ.” “Trí thông minh nhân tạo. Trinity làm cho những máy tính trong các phòng thí nghiệm vũ khí tối tân nhất của các ngài trở thành lỗi thời như đống máy bay hai tầng cánh bằng vải bạt. Nó bẻ những mật mã phức tạp nhất của các ngài trong vòng vài giây. Và đó mới chỉ là bước đầu thôi. Tôi vội lắm, ngài thiếu tướng.” Tay trùm gián điệp hít hơi thuốc dài nữa, rồi đứng dậy và mỉm cười tán thưởng. “Ông là người táo bạo đấy, bác sĩ ạ.” “Và?” “Ông có vé máy bay.” White Sands Năm phút trước khi máy bay của tướng Bauer chạm đất, gần tòa nhà Cách ly có tiếng súng nổ. Tiếng súng dội vào khu nhà, làm máu Geli Bauer sôi lên. có thanh nào trái đất giống như tiếng súng nổ trong giận dữ. Godin bắt đầu tỉnh lại và nhấn nút để nâng chiếc giường điều khiển bằng điện lên. “Cha chắc ra lệnh cho tay chân cố gắng mở cửa tòa nhà Cách ly này.” Geli tự hỏi có phải đội quân sắp sửa tấn công vào Bong bóng . “Các kỹ thuật viên có được vũ trang ạ?” “Tất nhiên.” “Họ khó có thể chống chọi trước lực lượng quyết tâm và được trang bị tốt như thế.” “Tôi nghĩ rồi ngạc nhiên.” “Thưa ngài, tôi biết điều tôi . Nếu...” “Mấy giờ rồi?” Godin cắt ngang. “Tôi ngủ à? Levin có gọi đến ?” “Ngài ngủ được chút, nhưng có ai gọi đến. Họ tải mẫu thần kinh của ngài lên cách đây tiếng. Tại sao để biết điều gì đó lại mất thời gian thế?” “Cần có thời gian để quét mẫu thần kinh ra khỏi máy tính. Sau đó cần giai đoạn thích nghi sau khi mẫu thần kinh mới được tải lên. Tương tự như cú sốc trong y học, tôi nghĩ thế, khi trí óc phải tự quen dần với trạng thái tách rời khỏi cơ thể vật chất.” “Việc ấy kéo dài bao lâu?” “Mẫu thần kinh của Tennant bị rơi vào trạng thái mập mờ trong hơn tiếng. Fielding ba mươi chín phút. Nhưng lúc đó hệ thống mới chỉ vận hành năm mươi phần trăm hiệu suất,” Điện thoại reo. Đó là Levin. Giọng ta đứt quãng, và Geli nghe có tiếng thét trong máy. Ả giữ ống nghe áp vào tai Godin. Godin nghe, rồi , “Cám ơn, Levin. Chúc may mắn.” Lão ra hiệu cho Geli gác máy, mặt lộ vẻ thỏa mãn. “Mẫu của tôi hoàn toàn thích nghi và tiến hành giải các thuật toán cuối cùng, với tốc độ ngang ngửa tốc độ của Fielding ngày trước.” “Ngài nghĩ kéo dài khoảng bao lâu?” Chuông điện thoại lại reo. Lần này là John Skow. Godin từ chối chuyện với gã. “Geli,” Skow căng thẳng . “Máy bay của cha vừa hạ xuống đường băng. Ông ấy mang theo hỏa lực đáng gờm. Chuyện tranh chấp vừa qua chỉ là chuyện vặt. Chỉ như vũ khí cầm tay thôi. Nếu có ai ở đó thuyết phục được Godin bắt Levin và người của lão rời khỏi nhà Cách ly, ông tướng cho phá hủy toàn bộ ngôi nhà cùng với máy tính.” “Tôi chuyển tin nhắn này.” Ả treo máy. Godin nhìn ả chờ đợi. “Skow cha tôi làm nổ tung tòa nhà Cách ly nếu ngài ra lệnh cho các kỹ thuật viên ra ngoài.” Mặt ông già nhăn nhúm lại vì cơn đau thần kinh. “Tôi nghĩ ông ta làm thế mà với tôi trước.” “Ông ấy biết từng nào về những gì ngài tạo dựng ở đây?” “Ông ta biết đó là trí thông minh nhân tạo. Ông ta biết tôi phí thời giờ cho những việc hơn. Nhưng ông ta biết nhất là mình được trả bao nhiêu để giữ kín chỗ này.” “Cha tôi có thể làm bất cứ chuyện gì để bảo vệ nghiệp của ông ấy. Nếu tổng thống muốn máy tính ngừng lại, ông ấy chơi luôn cả tòa nhà này mà cần giây suy nghĩ, nếu đó là cách duy nhất ông ấy có thể làm.” Cửa phòng Bong bóng xì xì mở ra. Geli vung súng lên và thấy mình nhằm đúng vào bố đẻ. “Chắc chắn có ngày xảy ra chuyện này mà,” tướng Bauer , miệng nở nụ cười nhăn nhở. Geli làm thinh. Vào tuổi năm lăm, cha ả có cái vẻ của người chỉ mới ba mươi - tươm tất, rắn rỏi, tóc hoe vàng - và đôi mắt xám cho phép ai cợt nhả trước mặt mình dù người đó ở cấp bậc hay cương vị nào. Ông ta bận bộ đồng phục hạng A, ngực sáng lóe huân chương khiến ả hiểu rằng ông ta vừa gặp mặt chánh văn phòng phủ tổng thống. Ông ta đeo vũ khí bên hông, nhưng ả trông thấy bao súng đeo vai lồi lên dưới áo khoác xanh sẫm. Geli nhích gần đến giường đủ để trao đổi bằng mắt với Godin. “Thưa ngài, tổng thống cầu ngài cho dừng các hoạt động. Nếu ngài phát ra bất kỳ lệnh nào như thế cho các kỹ thuật viên của ngài, họ làm lơ rồi. Họ lập tuyến phòng thủ trong tòa nhà Cách ly này và nổ súng vào lính của tôi. Tôi có hai lính bị chết và năm bị thương. Tôi cầu ngài ra lệnh cho người của ngài ra ngoài ngay. Nếu ngài từ chối, tôi còn cách nào khác là phải dùng vũ lực tống họ ra ngoài.” Godin chòng chọc nhìn lại Bauer nhưng gì. Geli biết cha ả với các thiết bị ghi bí mật. Godin có lẽ cũng biết thế. Ánh mắt giao nhau của hai người đàn ông nhiều hơn mọi lời lẽ. “Ngài hiểu những gì tôi chưa?” tướng Bauer hỏi. Như thể ông ta nghĩ Godin gần cái chết đến mức mất trí xét đoán. “Các kỹ thuật viên của tôi được chỉ thị trả lời điện thoại của bất cứ ai,” cuối cùng Godin . “Kể cả tôi.” “Vậy tôi cho đưa ngài ra ngoài. Ngài liên lạc với họ bằng loa phóng thanh.” Godin mỉm cười yếu ớt, như thể lão chấp nhận chơi bài với tay làm thuê bí mật của mình. “Tòa nhà Cách ly được cánh hoàn toàn, thiếu tướng ạ. Nó cũng được xây bằng bê tông cốt thép. Ngoài hệ thống phát điện, nó còn có hệ thống cung cấp nước và khí riêng.” “Tôi có thể cho tòa nhà đó thành cát bụi trong vài giây,” Bauer . “Người của tôi đặt thuốc nổ. Tổng thống muốn giữ lại chiếc máy, nhưng nếu ngài từ chối hợp tác, tôi ngần ngại phá tan nó.” Lời đe dọa này có lẽ làm Godin hơi lay chuyển. “Tôi đợi kỹ sư chính của tôi gọi đến bất cứ lúc nào.” Viên tướng liếc nhìn Geli, ông ta hơi thả lỏng để dáng điệu bớt cứng ngắc hơn. “ ra họ làm công việc quái quỷ gì ở đó vậy, ngài Peter?” “Cỗ máy mạnh nhất mà con người từng tạo ra.” “Nếu vậy bức e-mail của bác sĩ Tennant về những khả năng của cỗ máy đó là chính xác?” “ thể đánh giá chúng cao hơn nữa được đâu.” ánh nghi ngờ lướt qua mặt tướng Bauer. Ông ta nhìn sang Geli để chờ câu xác nhận, nhưng ả ngoảnh mặt , buồn nôn vì ghê tởm. Cha ả đứng kia như kẻ đầy quyền lực, phái viên của tổng thống, nhưng ông ta lại cũng tham gia vào Trinity ngay từ đầu. Ả buông lỏng tay súng. Nếu cha ả nghĩ việc giết Godin có thể giúp ông ta tránh được các hậu quả chính trị, ông ta chẳng ngại ngần gì mà làm. “Ngài cho tôi lựa chọn nào khác,” Bauer . Ông ta liếc khẩu súng trong tay Geli, rồi quay người bước . Tiếng chuông điện thoại reo giữ chân ông ta lại. Geli dùng tay còn rỗi nhấc máy lên đưa cho Godin. Ả lại nghe thấy những giọng vội vã trong ống nghe, người gì đó về đạn dược. Rồi giọng Zach Levin cất lên dõng dạc, “Thưa ngài, đạt được trạng thái Trinity... Tôi nhắc lại, đạt được trạng thái Trinity.” Mắt Godin nhắm lại, đầu lún sâu xuống gối. “Cám ơn, Levin. Tiến hành .” Lão buông rơi ống nghe nệm. “Chết tiệt! Sao ngài dám bảo nó tiến hành?” tướng Bauer hỏi. Đôi mắt xanh mở ra với vẻ dương dương tự đắc. “ đạt được trạng thái Trinity. Bây giờ làm gì được nữa.” “Peter, lạy Chúa. Ngài cái gì vậy?” “Trinity kiểm soát.” “Kiểm soát cái gì?” Bauer liếc ra cửa Bong bóng như thể có cách nhìn thấy tòa nhà Cách ly. “Ngài cái quái quỷ gì vậy?” “Horst, chúng ta biết nhau quá lâu rồi. biết tôi là người trọng lời . Nếu có ý định đột nhập hay phá hủy nhà Cách ly, phá hoại đất nước mà thề bảo vệ.” Mắt Bauer nheo lại, vừa nghi ngờ vừa bối rối. “ được hiểu ngay thôi,” Godin . “Vì quyền lợi của chính , tôi khuyên hãy kiên nhẫn và thận trọng.” Viên tướng bước lại gần giường và mềm mỏng. “Ngài biết tôi luôn ủng hộ nghiệp của ngài bất cứ khi nào có thể. Nhưng lúc này phải tình thế chúng ta đến. Đây là búi thông tin khổng lồ mà giới truyền thông toàn cầu lao đến săn.” Godin lơ đãng phẩy tay. “Tôi chắc có cách để thoát ra được. lúc nào chả thế.” Tướng Bauer thở dài, rồi quay lưng bước ra khỏi Bóng bóng mà liếc về phía Geli lấy cái. Ả lại có linh tính như hồi bé. Cha ả xử lý tốt chuyện bất ổn. Ả quay lại phía Godin và thấy lão khóc. Cảnh tượng ấy làm ả sững sờ. “Có chuyện gì thế, thưa ngài?” Godin đưa bàn tay run rẩy lên sờ mặt mình như thể xem nó còn đó . “Tôi làm được rồi. nhìn thấy người đầu tiên trong lịch sử thế giới tồn tại trong hai gian cùng lúc.” Từ đôi mắt ông già tỏa ra ánh sáng huyền diệu. Huyền diệu và an bình. “Tôi chết chiếc giường này. Nhưng trong nhà Cách ly, tôi lại tiếp tục sống.” Geli chẳng biết gì. Ngay cả nếu Godin đúng, máy tính cũng thể tồn tại lâu được. “Xin hãy cầm tay tôi, Geli. Làm ơn.” Đôi mắt lão khẩn khoản. Geli đưa bàn tay cho lão, và lão siết chặt lấy như đứa trẻ. “Bây giờ tôi có thể ra . Tôi có thể để cho thân xác này chết được rồi.” tiếng súng nổ chát chúa vang vọng trong khu nhà. Geli nghiến chặt răng và vội rút tay lại. CHƯƠNG 37 Chuyến bay El Al 462 Tám km Đại Tây Dương Thiếu tướng Kinsky của Mossad đặt toàn bộ khoang của chiếc El Al 747 cho cuộc hành trình của chúng tôi trở lại Mỹ. Các nhân viên Mossad canh gác cho hành khách cũng như tiếp viên bước chân lên cầu thang. Khi máy bay đến New York, Rachel và tôi được chuyển sang chuyên cơ phản lực riêng, đưa chúng tôi đến Albuquerque, New Mexico. Từ đó, trực thăng chuyên dụng lại chở chúng tôi đến tận cổng Bãi thử White Sands. Để trả công cho bố trí này, tôi phải dành ba giờ ghế đầu hàng, lược thuật cho năm nhà khoa học Israel về Dự án Trinity. chiếc camera ghi lại những lời tôi , nhưng hầu hết các nhà khoa học đều tự mình ghi chép. Tướng Kinsky có vẻ thích thú khi thấy tôi có thể thoải mái thảo luận về công trình nhạy cảm như thế, nhưng gã nắm bắt nổi bản chất thiết yếu của Trinity. tồn tại của máy tính đơn Trinity xóa sổ những mô hình an ninh quốc gia cũ. Với loài người, còn an ninh nữa. Rachel ngồi sau các nhà khoa học hai dãy, chiếc ghế bên lối giữa. Khi tôi , đôi mắt đầy biểu cảm của nàng bộc lộ những cảm xúc nén được: lo lắng, buồn bã, nghi hoặc, giận dữ. Tôi muốn đưa nàng ra phía sau máy bay mà trấn an nàng, nhưng những người Israel lại nghĩ khác. Tướng Kinsky chốc chốc lại bước về cuối khoang để gọi điện thoại vệ tinh. Qua báo cáo của gã, tôi biết rằng bức e-mail tôi gửi từ tiệm Strudel tạo ra hoảng loạn mà tôi muốn. Những lý thuyết đằng sau Dự án Trinity nhanh chóng được các nhà khoa học máy tính hàng đầu thế giới công nhận. Trong nỗ lực đặt câu chuyện vào đúng hoàn cảnh, nhiều nhà bình luận các phương tiện truyền thông so sánh với cuộc tranh cãi về nhân bản vô tính năm 1998. Nhưng tác động của Trinity khiến ý tưởng về nhân bản vô tính trở nên gần như lỗi thời. Lần thứ sáu trở lại từ phía sau khoang máy bay, tướng Kinski chạm vai tôi, mặt căng ra vì lo lắng. “Cái gì thế?” nhà khoa học từ viện ChaimWeizmann hỏi. “Có chuyện gì vậy?” Sếp tình báo Mossad xoa chiếc cằm rám nắng. “Các chuyên gia điện toán khắp nơi thế giới bắt đầu chú ý đến chuyện diễn ra Internet.” “Chuyện gì?” “ thực thể chưa xác định di chuyển cách có hệ thống qua tất cả các mạng máy tính lớn và cơ sở dữ liệu toàn thế giới. Các tập đoàn, ngân hàng, văn phòng chính phủ, căn cứ quân , thiết bị phòng vệ từ xa. Mạng lưới an ninh có như tường lửa hầu như ngăn chặn được nó. Mọi người suy đoán công khai nó là máy tính Trinity.” “Có lẽ chỉ là hacker có tài thôi,” người khác đoán. “Hay nhóm. Thực thể này có phá hủy các file ?” “. Nó chỉ xem xét mọi thứ. Gần như thể nó lập bản đồ thế giới máy tính. số kẻ nghiệp dư - những hacker - tuyên bố lần ra dấu vết nguồn của những mẫu này là từ New Mexico.” “Vậy tôi nghĩ chúng ta phải giả định đó chính là Trinity,” nhà khoa học Weizmann . “Điều tôi hiểu là tại sao người ta cắt nguồn điện của cái máy ấy nhỉ.” Tôi lắc đầu. “Godin có kế hoạch cho nó từ lâu rồi. Tôi ngờ rằng cắt nguồn điện của Trinity gây ra hậu họa khôn lường.” Tướng Kinsky ràng trước các nhà khoa học. “Chúng ta nhiều về thiết kế và các khả năng của máy tính đó. Chúng ta chưa thảo luận xem ý định của nó có thể là gì.” “Cơ hội tốt nhất cho ngài hiểu được điều đó là hiểu Peter Godin,” tôi . “Nếu có mẫu thần kinh nào được tải lên thành công, đó là của Godin.” “Ông biết người ấy hai năm rồi. Ông có thể cho chúng tôi biết những gì?” “Ông ta cực kỳ thông minh.” “Cái ấy rồi.” “Ông ta có quan điểm cứng rắn về chính trị.” “Chẳng hạn?” “Ông ta từng rằng nguyên tắc người, lá phiếu, làm cho nước Mỹ hùng mạnh cũng chính cái nguyên tắc ấy phá hủy nước Mỹ hoàn toàn.” Kinsky phá lên cười. “Còn gì nữa?” “Godin đọc rất sâu về lịch sử, lý thuyết chính trị và có kiến thức triết học vững vàng. Ông ta theo tôn giáo.” “Tôi cho rằng giống như tất cả những người thành đạt, ông ta có bản ngã mạnh mẽ.” Tôi gật đầu. “Tôi biết điều ấy mang nhiều tính lịch sử,” tay trùm Mossad . “Trao cho kẻ thông minh quyền lực vô hạn nảy sinh nhiều chuyện động trời.” Các nhà khoa học trang nghiêm gật đầu, nhưng tài tuyên bố những chân lý hiển nhiên của ông tướng khiến tôi mỉm cười. “Xin cho tôi biết, bác sĩ,” Kinski . “Tại sao ông nôn nóng muốn đến White Sands như vậy?” “Để ngăn chặn ông ta. Để ngăn chặn Godin.” “Ông định làm thế nào?” “ chuyện với ông ta.” “Ông nghĩ chỉ chuyện thôi có thể ngăn chặn được ông ta ư?” “Tôi là người duy nhất có thể làm được điều đó.” Kinsky lắc đầu. “Làm sao ông biết được.” “Ông muốn biết đâu.” Gã nhìn tôi như nhìn kẻ loạn trí phố. “Nhưng tôi muốn biết.” “Tôi nhầm, thưa thiếu tướng. Đáng lẽ tôi phải Godin là người duy nhất làm được việc đó. Ông ta là người duy nhất có thể ngăn chặn chính mình.” “Tổng thống Mỹ có thể có ý kiến khác về vấn đề này, chưa gì đến các tướng lĩnh Mỹ.” “Đấy là điều tôi lo ngại.” Tôi lấy cả hai tay xoa mặt. “Bây giờ tôi muốn nghỉ ngơi, nếu có thể.” Kinsky vỗ vai tôi. “Chóng thôi, bác sĩ. Nhưng trước hết có vị nào hỏi thêm gì ?” White Sands Nara Ravi thích thú nhìn các binh lính đến từ căn cứ Huachuca dựng bốt chỉ huy cực kỳ tối tân quanh y khu đất bỏ của tòa nhà Hành chính vốn trước kia là kho chứa máy bay. Skow thèm giới thiệu tướng Bauer với y, nhưng qua nghe ngóng, y cũng thu lượm được nhiều. Tình báo Quân từ lâu tạo ra phòng Tình thế di động có thể đặt ở bất cứ nơi nào thế giới. Tập trung xung quanh bàn bầu dục lớn là những màn hình plasma khổng lồ được cắm vào hàng loạt máy tính và đầu nối truyền tin. chảo ăng ten vệ tinh nối phòng Tình thế với tất cả các cơ sở tình báo Mỹ và vệ tinh giám sát quỹ đạo hoặc trái đất. Khi Skow hỏi tướng Bauer làm thế nào ông ta biết mà đưa các thiết bị chuyên dụng đến, Bauer chặc lưỡi cay đắng. “Tuyên bố của bác sĩ Tennant về khả năng của máy tính này khá chi tiết. Và tôi hiểu Peter Godin. Ông ta đời nào tự nguyện từ bỏ thứ quyền lực lớn đến vậy. Đó là thực tế của Nietzsche (37).” Viên tướng khinh bỉ liếc nhìn Skow. “Tôi tin có lúc lại nghĩ rằng nhà Cách ly được cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài.” “Nhưng đó là điểm chính trong thiết kế của nó,” Skow . Bauer khịt mũi. “ làm cái quái quỷ gì ở Bắc Carolina? Chơi golf à? Các kỹ sư của Godin quản lý khu này trong nhiều tháng. Ông ta bay bay lại nhiều lần bằng máy bay chở hàng. Có lẽ họ làm mọi chuyện ở đây. Nếu tin máy tính ấy được nối kết với bất cứ cái gì tôi có mấy mảnh đất ven biển ở gần căn cứ Huachuca muốn bán cho .” Mười phút sau, các chuyên gia tín hiệu của ông tướng phát ra đường ống chạy sâu dưới cát xung quanh tòa nhà cách ly. Ống thép nhìn bề ngoài như đường ống nước, nhưng nó ngăn chặn bức xạ điện từ. Đường ống chạy về phía Bắc hàng cây số và nhiều khả năng có chứa đường cáp nối máy tính Trinity với cơ sở dữ liệu chính OC48c phục vụ cho Bãi thử White Sands. Trong khi dựng phòng Tình thế xảy ra mấy kiện sau. Đầu tiên, khu nhà tạm của cánh nhà báo và xe truyền hình lưu động xuất bên ngoài cổng chính. Hai là, giới chuyên môn về máy tính khắp thế giới phát ra diện kỳ lạ Internet, thực thể di chuyển qua tất cả các mạng máy tính và cơ sở dữ liệu với tốc độ dễ dàng và càn quét mọi chỗ. Ba là, McCaskell cất cánh khỏi căn cứ lực Andrews chiếc phản lực siêu thanh và sắp đến White Sands. Khi người trong nửa tiểu đội lính lắp bảng điều khiển trong phòng Tình thế thông báo máy bay của McCaskell sắp hạ xuống đường băng của White Sands, Bauer quay sang Skow. “Tôi muốn đưa Godin vào đây.” Skow lắc đầu. “Chúng ta muốn ông già chuyện với McCaskell đâu.” “Tôi cóc cần cái ấy. Godin biết nhiều điều mà tôi cần biết. Ông ta chết ở đây cũng như ở bệnh viện thôi.” Skow miễn cưỡng bước . “ với con tôi, tự tôi bảo đảm an toàn cho Godin!” Bauer hét với theo. “Nó có thể nằm giường với ông ta cùng khẩu súng nếu muốn.” Sau khi Skow khỏi, tướng Bauer ngước nhìn lên màn hình có cảnh tòa nhà Cách ly ngập trong ánh sáng. Ông ta nhìn chăm chú vào đó lát rồi quay sang Ravi. “ là bác sĩ tâm thần phải , bác sĩ Nara?” “Phải, thưa thiếu tướng,” Nara lại gần chiếc bàn bầu dục. “Godin mất trí rồi phải ?” “, thưa sếp.” Ravi đoán viên tướng khoái nghe gọi sếp dù là dân thường . “Ông ta hoàn toàn tỉnh táo.” “Căn bệnh u não của ông ta thế nào?” “Khối u tồn tại trong não ông ta thời gian, nhưng khi máy Siêu-MRI của chúng tôi phát ra nó còn rất . Hồi ấy khối u mổ được, nhưng nó ảnh hưởng đến trí tuệ của ông ta. Ngay cả bây giờ tôi nghĩ cũng ảnh hưởng.” Tướng Bauer trừng trừng nhìn Ravi. “Nhưng có thể làm chứng khác trong cuộc điều trần ở Quốc hội.” Ravi tránh cặp mắt của ông ta. “Điều ấy hoàn toàn có thể. Đây là ca rất phức tạp.” “Skow với tôi là định giết ông ta. Ý tôi là Godin ấy.” Ravi biết nên trả lời thế nào. Bauer ngoác miệng cười với y. “Đừng đâu xa, bác sĩ. Tôi có thể cần đấy.” Ravi cúi đầu. Evan McCaskell sải bước vào phòng Tình thế với hai nhân viên Mật vụ tháp tùng hai bên. Cũng giống như Skow, ông tốt nghiệp Đại học Massachuset, nhưng ông bỏ lại tít phía sau vẻ màu mè của dân tinh hoa. Chánh văn phòng phủ tổng thống có bộ tóc đen và mặc bộ đồ màu xanh hải quân sẫm đến mức trông gần như đen. Ông ngự ghế đầu bàn và ra hiệu cho tướng Bauer đến ngồi bên phải mình. Skow trở lại và ngồi vào chiếc ghế xa hơn dọc bàn. Khi viên tướng vẫy Ravi cùng tham gia, Ravi rón rén ngồi vào cuối bàn, đối diện McCaskell. “Peter Godin đến đây trong ít phút nữa,” Skow . “Họ chuyển các thiết bị trợ giúp sống của ông ta đến đây.” McCaskell gật đầu và đưa mắt nhìn quanh bàn, đôi mắt ông sáng lên chăm chú như tia laser. “Thưa ông, tôi đến đây để đánh giá tình hình này và cũng để dập tắt bất kỳ nguy cơ nào nhằm đến tổng thống trước khi nó xảy ra.” Vẻ mặt của tướng Bauer trở nên căng thẳng. “Bây giờ,” McCaskell tiếp tục, “chúng ta thảo luận vấn đề bằng cách quái quỷ nào mà cái cơ sở trái phép này mọc ra, và khi mọi việc xong xuôi, đầu ai lên thớt đây?” Skow nhìn xuống bàn. “Peter Godin với tổng thống rằng chưa có mẫu thần kinh nào được tải lên máy hết, nhưng các phương tiện truyền thông loan truyền về máy tính thâu tóm mạng Internet. Chuyện gì đó xảy ra Internet. Đây chính là chuyện chúng ta phải xử lý đấy, phải thưa ông?” Tướng Bauer , “Tôi cho rằng Skow và tiến sĩ Nara đây có thể về vấn đề này hơn tôi.” “Ai biết hơn xin ,” McCaskell gắt. “Chúng ta phải giải quyết việc mà trước nay chưa ai từng đối mặt,” Skow . “Gần như chắc chắn có mẫu thần kinh được tải lên chiếc máy tính đó. Và mẫu thần kinh ấy gần như chắc chắn là của Peter Godin. Nhưng tất cả chúng ta có thể tin chắc rằng chúng ta phải đối đầu với trí thông minh siêu việt.” McCaskell thích câu trả lời ấy. “Nhưng vẫn là Peter Godin, đúng ?” “Đúng và sai. Mẫu thần kinh của Peter Godin là trí tuệ của ông ta, theo nghĩa chính xác nhất của từ này. Nhưng từ thời điểm nó vào máy tính, nó hoạt động với tốc độ nhanh hơn rất nhiều so với khi bị giới hạn trong mô hữu cơ của bộ não. Tiến sĩ Nara?” Ravi coi đây là dấu hiệu tốt rằng Skow tin cậy y. “Các tín hiệu điện trong máy tính truyền nhanh hơn khi ở trong óc người khoảng triệu lần, thưa ngài McCaskell.” “Và khác nhau chỉ ở tốc độ,” Skow làm sáng tỏ thêm. “ khi nó bắt đầu hoạt động dưới dạng số hóa, trí tuệ của Godin có năng lực học hỏi theo cách hoàn toàn mới. khối lượng dữ liệu lưu trữ khổng lồ có thể được tải vào. Do đó rất có thể, ít nhất là về mặt lý thuyết - từ thời điểm máy tính đạt đến trạng thái Trinity, các kỹ thuật viên của Godin nạp dữ liệu vào. Lịch sử, toán, chiến lược quân . Nó cũng có thể rà soát Internet và tiếp thu hết những gì nó thấy, từ tất cả các dấu hiệu ta có thể giả định điều này diễn ra.” McCaskell kinh ngạc lắc đầu. “ là sai lầm nếu coi máy tính Trinity chỉ như mở rộng trí tuệ của Peter Godin,” Skow . “Mẫu thần kinh Godin rời bỏ con người Godin cách đây vài giờ. Và giờ với Trinity là thế kỷ đối với chúng ta. Lúc này, mẫu Godin tiến hóa tới độ ai trong chúng ta có thể dự liệu cách giải quyết.” “ cứ như nó là kiểu thần thánh gì ấy,” McCaskell . Skow nhìn vị chánh văn phòng phủ tổng thống với vẻ kẻ cả. “Đó chính là lý do chúng ta về mẫu thần kinh hoạt động như tại trong ‘trạng thái Trinity’. Nó vừa là người vừa là máy, nhưng nó kỳ diệu hơn cả hai.” “Vậy tôi trình bày với tổng thống thế quái nào đây?” “Rằng chúng tôi vẫn chưa biết phải xử lý chuyện gì,” tướng Bauer . “Thế bao giờ biết?” “Khi nào máy tính gì đó với chúng ta,” Skow đáp. “Khốn kiếp,” McCaskell buột miệng. “Tôi vẫn chưa hiểu sao có ai cắt điện cái máy ấy.” Tướng Bauer hắng giọng. “Godin cảnh báo chúng ta rằng làm thế là sai lầm đắt giá.” “ ông có thể mong ông ta gì khác nữa?” “Tôi biết Godin từ nhiều năm nay, thưa ngài. Tôi có ý định thử tính trung thực của ông ta trong trường hợp này.” “Ông sợ gì vậy, thiếu tướng?” Tướng Bauer căng người ra trước lời ám chỉ mình hèn nhát, nhưng ông ta cố giữ giọng bình thản. “Ngài McCaskell, NSA tài trợ cho Dự án Trinity vì tin rằng cỗ máy này có tiềm năng trở thành thứ vũ khí mạnh nhất trong lịch sử. Vũ khí đó lúc này tự định hướng và nhằm vào chúng ta. cần phải có bằng đại học kỹ thuật California mới biết được nước Mỹ phụ thuộc vào hệ thống máy tính như thế nào. Tôi sợ cái gì, thưa ngài? Tôi sợ chiếc máy này ở vào thế tống tiền chúng ta giống như cách Liên Xô chưa bao giờ giải quyết được vấn đề vũ khí hạt nhân. Bởi vì chúng ta có cách gì ngăn cản được nó. Nó có con cái mà phải lo bảo vệ. có các thành phố. dân cư. Ta cứ giả định rằng nó muốn tiếp tục sống, nhưng gần như khao khát sống như chúng ta.” “Tống tiền chúng ta à?” McCaskell láy lại. “Nó là chiếc máy. Nó có thể muốn cái quái gì được?” Có tiếng lanh canh bên ngoài vòng màn hình, rồi tiếng bánh xe lăn rin rít. “Giường bệnh của Godin,” Skow thốt lên. Ba người lính đẩy giường Godin vào phía trong vòng màn hình. Bốn người lính khác theo, đẩy xe dụng cụ y tế và cây truyền tĩnh mạch. Bác sĩ Case từ Viện Y khoa Johns Hopkins bước cạnh giường, cùng Geli Bauer theo sau đám rước như cận vệ hoàng đế. “Ông ấy còn tỉnh ?” McCaskell hỏi. Bác sĩ Case , “Tôi muốn công khai phản đối việc này.” “Cừ đấy,” McCaskell . Ông đứng lên đến gần bên giường. Godin ra hiệu bằng tay cho Geli. Ả bước đến quay tay quay bên giường để nâng Godin lên ngang tầm mắt McCaskell. Ông già thở nặng nhọc hơn. “Chào ông Godin, chúng ta từng gặp nhau rồi,” McCaskell . “Tôi có thừa thời giờ để đùa bỡn, mà ông cũng vậy. Tôi muốn ông cho tôi biết ông có ý định gì khi phá vỡ giao ước và nạp mẫu thần kinh vào chiếc máy đó.” Godin chớp chớp mắt như người cố định hướng khi bước ra khỏi phòng tối. “Trinity tự được sao?” “. Nó tự được ư?” “Tất nhiên.” “Ông chưa trả lời câu hỏi của tôi. Mục đích của việc này là gì?” “Ông biết sao?” “.” “Các hệ thống cũ hỏng cả, ngài McCaskell ạ. Ngay cả các hệ thống của chúng tôi, cái thí nghiệm tuyệt vời nhất trong tất cả. Bây giờ đến lúc cho hệ thống mới.” “Ông về những hệ thống nào?” “Rousseau rằng chế độ dân chủ là hệ thống chính trị hoàn hảo nhất nếu con người là thánh. Nhưng con người phải là thánh.” McCaskell liếc nhanh về phía Skow và tướng Bauer. “Ông Godin, điều đó chẳng dẫn đến đâu cả. Liệu tôi có nên suy ra rằng ông có mục tiêu chính trị?” “Chính trị,” Godin thở dài nặng nhọc. “Thế giới này làm tôi ghê tởm, ngài McCaskell ạ. Những con người như các ngài làm dơ bẩn nó. Ý tưởng của các ngài về chính phủ là cái nhà thổ. cái chợ trời bẩn thỉu nơi những lý tưởng của cha ông chúng ta bị đem bán lấy mấy đồng bạc rách.” McCaskell nheo mắt nhìn Godin như nhìn kẻ thuyết giảng đạo đức đường phố la hét chửi mắng khách qua đường. Ông định đám người ngồi ở chiếc bàn sau lưng ông bỗng há hốc miệng kinh ngạc. màn hình plasma lớn xuất bốn dòng chữ thông báo màu xanh. Tôi có thông điệp cho tổng thống Mỹ. Sau đó, tôi có thông điệp cho nhân dân thế giới. Đừng dại dột can thiệp vào hoạt động của tôi. can thiệp bị trừng trị ngay tức khắc. Đừng thử tôi. “Lạy trời,” Skow thở ra. “Nó đấy. Nó làm được điều đó. Chúng tôi làm được điều đó.” “Phải, các làm điều đó,” Ewan McCaskell . “Các là đồ chó đểu ngạo mạn. Và các có thể bị treo cổ vì chuyện này.” “Nhìn kìa,” Ravi Nara kêu lên. “Còn nữa.” Thông điệp đầu tiên được cuốn xuống dưới màn hình, và những dòng chữ khác xuất . Tôi chỉ chấp nhận những dữ liệu từ phòng Tình thế của Nhà Trắng và từ sở chỉ huy ở White Sands là có hiệu lực. Các thông tin được gửi tới Địa chỉ Giao thức Internet 105.674.234.64. “Nó biết chúng ta ở đây,” Ravi vừa vừa liếc quanh gian phòng tìm camera an ninh. “Tất nhiên là nó biết,” Skow . “Đó là Godin. Và Levin tóm tắt cho ông ta mọi việc xảy ra cho đến lúc này.” “Nhìn kìa,” McCaskell kêu lên. lời nhắn mới nhấp nháy màn hình. Peter Godin còn sống ? “Ai chuyện với cái của này?” tướng Bauer hỏi. “Trả lời nó ,” McCaskell . Viên tướng ra hiệu cho các kỹ thuật viên ngồi bên bảng điều khiển. “Hạ sĩ, hãy trả lời khẳng định. Bắt đầu đối thoại với máy .” “, thưa ngài.” Có tiếng bàn phím lách cách khi câu trả lời được gõ vào. thông điệp mới ra gần như tức khắc. Tôi muốn chuyện với Godin. “Gõ theo lời tôi ,” McCaskell ra lệnh. Tướng Bauer gật đầu ra hiệu cho kỹ thuật viên của mình. “Tôi là Ewan McCaskell, chánh văn phòng phủ tổng thống Mỹ.” Người lính gõ thông điệp của McCaskell. Câu trả lời đến tức khắc. Tôi biết ông là ai. “Tôi biết ông là ai,” McCaskell . “Ông có thể cho biết quý danh?” Màn hình lớn tối đen mất lúc. Sau đó xuất hai từ nhấp nháy rồi sáng ổn định. Ta là. “Trời ơi,” Ravi thầm . “Gõ câu này,” McCaskell “ hiểu câu trả lời. Làm ơn cho biết danh tính. Ông có phải là Peter Godin ?” Tôi từng là. “Bây giờ ông là ai?” TA LÀ (3. Mọi người ngồi bên bàn nhìn nhau, nhưng ai câu nào. Những chữ cái màn hình tiếp tục sáng rực rồi dịu , như thể chiếc máy hiểu rằng cần có thời gian cho đám người kia hiểu nó. Ravi cảm thấy nỗi sợ giống bất kỳ nỗi sợ nào y từng có, và y thấy nỗi sợ phản chiếu trong mắt những người khác. Chỉ có khuôn mặt Peter Godin bình thản. Đôi mắt xanh của ông già mở to và dán chặt lên màn hình, gương mặt nhăn nheo dãn ra thành cái nhìn thán phục như trẻ thơ.
CHƯƠNG 38 Mặt trời tỏa sáng trong trẻo rực rỡ bên ngoài máy bay khi chúng tôi bay về hướng Tây lục địa Mỹ. Chiếc El Al 747 được để lại New York. Chiếc Gullstream mà những người Israel đưa chúng tôi đến đây tuy hơn nhưng sang trọng hơn nhiều. Rachel vẫn ngủ ngon chiếc giường phía sau từ khi chúng tôi rời sân bay JFK. Tôi được may mắn như thế. Tướng Kinski buộc tôi phải thức để trả lời những câu hỏi vô tận của các nhà khoa học Israel. Tôi muốn nghỉ quá chừng, nhưng vì viên tướng chỉ huy Mossad có thể ra lệnh cho máy bay quay trở lại bất cứ lúc nào nên tôi đành chấp nhận hợp tác. Đâu đó bầu trời Arkansas, cuối cùng Kinski cũng nhận ra tôi chịu đựng hết nổi. Tôi vào toilet, rồi xuống cuối máy bay đến chỗ Rachel. Nàng còn ngủ nữa, mà ngồi chăm chú nhìn thảm mây trắng bất tận bồng bềnh trôi phía dưới qua cửa sổ máy bay. “Em ổn chứ?” tôi hỏi. Nàng ngước nhìn tôi, đôi mắt thâm quầng. “Em tưởng họ bao giờ buông tha .” Tôi ngồi xuống bên nàng. Họng tôi đau vì quá nhiều, còn cổ nhức như thể xem phim từ hàng ghế đầu trong rạp chiếu bóng. Nàng luồn tay vào tay tôi, ngả đầu vai tôi. “Chúng ta chưa bao giờ chuyện ra đầu ra đũa với nhau kể từ khi hết hôn mê.” “ biết.” “Bây giờ chúng ta được ?” “Nếu em muốn. Nhưng em thích những gì mình sắp nghe đâu.” “ có mơ ?” “Có và . Nó giống những giấc mơ cũ của . giống phim. Mà giống như người bị điếc suốt đời bỗng nhiên nghe được nhạc Bach. cảm giác mạc khải khôn tả. Và bây giờ... biết nhiều việc.” “Nghe cứ như ảo giác phiêu diêu. biết những loại việc nào?” Tôi ngẫm ngợi. “Loại việc mà những đứa trẻ năm tuổi muốn biết. Chúng ta là ai. Chúng ta từ đâu đến. Chúa có tồn tại ?” Rachel ngồi bật dậy, và tôi tin rằng nàng trượt trở về con người nghề nghiệp của nàng. “Kể cho em nghe .” “ kể. Nhưng em phải vứt bỏ các thành kiến của em . Đây là Saul con đường đến Damascus(39).” Nàng khúc khích cười, mắt tỏ vẻ hiểu biết. “Thế nghĩ em chờ đợi nghe điều gì khác ư?” Tôi phần nào muốn im lặng. Những gì tôi chia sẻ với Rachel trong quá khứ khiến nàng sẵn sàng tin, nhưng so với mạc khải trong cơn hôn mê của tôi, chúng có vẻ quá tầm thường. Cách mở đầu an toàn nhất là từ những gì quen thuộc. “Em còn nhớ giấc mơ đầu tiên của ? Giấc mơ thường lặp lại ấy.” “ người đàn ông liệt ngồi trong căn phòng tối?” “Đúng đấy. Ông ấy thể nhìn, nghe hay nhớ bất cứ điều gì. Em có nhớ ông ta tự hỏi gì ?” “Tôi là ai. Tôi từ đâu đến.” “Đúng. Em bảo người đàn ông ấy là , em nhớ ?” Nàng vén lọn tóc đen nhánh ra khỏi mắt. “ vẫn tin đó là mình à?” “.” “Vậy ông ấy là ai?” “Chúa.” Những thớ thịt căng ra bên dưới gương mặt trái xoan của nàng. “Đáng lẽ em phải đoán ra.” “Em đừng hoảng hốt. dùng từ ấy như kiểu ký hiệu, vì chúng ta có từ ngữ để truyền đạt điều mà trải nghiệm. Chúa chẳng giống chút nào với hình ảnh chúng ta tưởng tượng về Người. Người phải đàn ông hay đàn bà. Thậm chí phải linh hồn. dùng từ ‘ông ấy’ chỉ là để thuận tiện khi chuyện mà thôi.” “ là hay khi biết điều đó.” nụ cười gượng gạo. “ bảo em rằng Chúa là người liệt, có trí nhớ, ngồi trong căn phòng tối như hũ nút sao?” “Lúc đầu thế.” “Ông ấy bất lực?” “ hoàn toàn. Nhưng ông ấy nghĩ mình như thế.” “Em hiểu.” “Để hiểu cái khởi đầu, em phải hiểu kết thúc. Khi chúng ta đến chỗ kết thúc, em hiểu tất cả.” Nàng có vẻ còn lâu mới tin. “Em còn nhớ giấc chiêm bao ? Người ngồi trong căn phòng ấy bị ám ảnh bởi những câu hỏi của mình, ám ảnh đến mức ông ấy trở thành những câu hỏi. ‘Tôi là ai?’ ‘Tôi từ đâu đến?’ ‘Tôi có luôn ở đây ?’ Rồi ông thấy quả bóng màu đen trôi trong gian đầu ông. Đen tối hơn mọi thứ đen tối.” Rachel gật đầu. “ có biết quả bóng ấy giờ ở đâu ?” “ biết. Cái duy nhất. điểm có mật độ, nhiệt độ và áp suất vô hạn.” “Hố đen? Giống như những gì tồn tại trước Big Bang?” “Chính xác. Thế em có biết cái gì tồn tại trước đó ?” Nàng nhún vai. “Chẳng ai biết được điều đó.” “ biết.” “Cái gì?” “Khao khát hiểu biết của Chúa.” Đôi mắt nàng đầy tò mò. “Biết cái gì?” “Người là ai.” Rachel nắm tay tôi trong hai bàn tay của nàng và bắt đầu dùng ngón tay cái xoa lòng bàn tay tôi. “Quả cầu đen bùng nổ trong giấc mơ của đúng ? bảo là nó giống như bom khinh khí.” “Đúng vậy. Nó nuốt chửng bóng tối với tốc độ ghê người. Tuy vậy người trong giấc mơ vẫn còn đó bên ngoài vụ nổ.” “ giải thích hình ảnh ấy như thế nào? Chúa chứng kiến ra đời của vũ trụ?” “Đúng. Nhưng giải thích. nhìn thấy cảnh ấy. thấy những gì Chúa nhìn thấy.” Ngón tay cái của nàng thôi cử động nữa. Nàng thể giấu nỗi buồn trong ánh mắt. “ biết em nghĩ gì,” tôi . “David, thể đọc được tâm trí của em.” “ có thể đọc được ánh mắt em. Coi này, để hiểu những gì với em, em hãy thôi làm bác sĩ tâm thần trong hai mươi phút.” Nàng thở dài sõng sượt. “Em cố. Em cố gắng đây. hãy mô tả cho em những gì trông thấy.” “ mô tả cho em từ nhiều tuần trước. Nhưng lúc đó còn chưa hiểu. Rằng vụ nổ đó là Big Bang. ra đời của vật chất và năng lượng từ điểm duy nhất. ra đời của thời gian và vũ trụ của chúng ta.” “Còn những giấc mơ khác của ?” “Em hãy nhớ điều mà trông thấy. Sau vụ nổ, vũ trụ mở rộng bắt đầu thế chỗ của Chúa. Điều này xảy ra trong gian ba chiều, nhưng đó là cách duy nhất để chúng ta nghĩ về nó. Nghĩ về Chúa như đại dương vô hạn. Sách Sáng thế cũng mô tả như thế. có sóng, có sức căng, có cả những bọt bong bóng. Hài hòa hoàn hảo, dung giải toàn bộ, trì trệ tuyệt đối.” “Tiếp .” “Nghĩ về ra đời của vũ trụ như bong bóng hình thành giữa tâm đại dương ấy. Hình thành và dãn nở như vụ nổ, thay thế nước với tốc độ ánh sáng.” “Được lắm.” “Những gì xảy ra bên trong bong bóng chính là điều mà thấy trong những giấc mơ sau này. ra đời của các thiên hà và các ngôi sao, hình thành các hành tinh, và tất cả những thứ còn lại. thấy lịch sử của vũ trụ chúng ta mở ra trước mắt. Em gọi nó là ‘ảnh của kính thiên văn viễn vọng Hubble’.” “Em nhớ rồi.” “Cuối cùng giấc mơ của tập trung vào Trái Đất. Các sao băng va chạm vào bầu khí quyển nguyên thủy. Các axit amin hình thành. Tiến hóa từ vô cơ đến hữu cơ. Các vi khuẩn trở thành đa bào, cuộc đua tiếp tục, các loài nối nhau đời, cá, lưỡng cư, bò sát, chim, động vật có vú, linh trưởng...” “Người,” Rachel kết thúc. “Phải. Mất đến mười tỷ năm để đạt đến tiến hóa sinh học. Rồi trăm triệu năm đột biến để hình thành loài người. Và tất cả những cái đó gộp lại là gì trong con mắt của Chúa.” Rahel cau mày. “Tại sao? Chẳng lẽ Chúa có ý định cho tất cả các tạo vật ấy tồn tại và tiến hóa sao?” “. tình có lẽ phải thế. Chúa ngạc nhiên về tất cả những thứ đó.” “Ngạc nhiên ư?” “Ờ... cho rằng đây là cảm giác ngờ ngợ. Chúa nhìn thấy cái tương tự từ trước. hoàn toàn như thế, nhưng những gì Chúa thấy khiến ngài nhớ lại việc.” Rachel xoay người ghế, nhìn tôi chằm chằm. “Vậy những sáng tạo của cuộc sống có ý nghĩa gì đối với Người ư?” “Ban đầu . Nhưng sau đó - từ cái khối sinh thể lúc nhúc kia - tia lửa rực rỡ như Big Bang lóe lên trong mắt Người.” “Tia lửa nào?” “Ý thức. Trí thông minh của loài người. Đâu đó ở châu Phi, giống người biết chế tác công cụ, có bộ não khá lớn nhận thức được cái chết của chính nó. Nó nhận thức về tương lai trong đó nó còn tồn tại. Giống người này trở nên chỉ tự ý thức, mà còn có ý thức về thời gian. Đó là thời điểm để Chúa ra.” “Tại sao?” “Bởi vì trong vụ nổ khủng khiếp của vật chất và năng lượng ấy, ý thức là cái đầu tiên được Chúa thừa nhận là giống bản thân Chúa.” “Vậy Chúa là thế đấy ư? Là Ý thức?” “ nghĩ vậy. Ý thức có vật chất và năng lượng. Thông tin thuần túy.” Rachel im lặng lát, và tôi thể đọc được ánh mắt nàng. “Tất cả những chuyện ấy xảy ra ở đâu?” cuối cùng nàng hỏi. “Tại nơi vô cùng khiêu khích. Nhưng bây giờ chúng ta cứ bàn về những giấc mơ . Loài người tiến hóa rất nhanh. Họ cày ruộng, xây các thành phố, ghi chép lịch sử của mình. Và Chúa cảm thấy cái gì đó như niềm hy vọng.” “Hy vọng gì?” “Hy vọng rằng cuối cùng Chúa có thể biết được bản chất của chính mình.” “Chúa trả lời các câu hỏi của mình bằng cách quan sát loài người?” “. Bởi sau điểm nhất định, tiến hóa dừng lại. phải là tiến hóa sinh học, mà tiến hóa về tâm lý. Con người phá hủy xã hội cũng nhanh như tạo ra chúng. Con người cướp phá thành phố, hủy hoại các cánh đồng, tàn sát em, hãm hiếp chị em mình, ngược đãi con cái mình. Con người có tiềm năng vô hạn, nhưng lại bị kẹt trong vòng tự hoại, có khả năng tiến hóa ra khỏi cuộc sinh tồn dã man cách cần thiết.” “Và Chúa chẳng thể giải quyết chuyện này?” “. Chúa thể kiểm soát chuyện gì xảy ra bên trong bong bóng. Chúa tồn tại trong thế giới của vật chất và năng lượng. Dù sao cũng tồn tại với tư cách Thượng đế. Ngài chỉ có thể ngắm nhìn và cố gắng hiểu. Các thế kỷ trôi qua, Chúa trở nên bị ám ảnh bởi con người, như trước đây Người bị ám ảnh về bản thân. Tại sao con người thể phá vỡ cái vòng bạo ngược và vô dụng này? Chúa tập trung toàn bộ trí lực của mình vào bong bóng, cố tìm ra điểm yếu, tìm con đường vào cái mê cung của vật chất và năng lượng thế chỗ Chúa.” “Rồi sao?” “Điều đó xảy ra. Chúa thấy mình nhìn bong bóng từ bên trong. Qua cặp mắt của con người. Cảm thấy bộ da người, ngửi thấy mùi trái đất. Ngước lên nhìn gương mặt mẹ. Gương mặt của mẹ Người.” “ về Jesus phải ? về Chúa biến thành Jesus xứ Nazareth.” Tôi gật đầu. “ đúng những điều các tín đồ Thiên chúa giáo tin. Chỉ có điều... làm như thể đó là việc ngẫu nhiên vậy.” “Đúng thế, theo cách nào đó. Chúa cố gắng tập trung vào thế giới, và Jesus là cánh cửa mở ra cho Người. Tại sao lại là đúng đứa bé đó? Ai mà biết được?” “Có phải toàn bộ Chúa nhập vào Jesus?” “. Ta hãy tưởng tượng ngọn nến cháy. Ta đưa cây nến thứ hai lại gần ngọn lửa, châm lửa rồi đưa ra xa. Cây nến thứ hai cháy, nhưng ngọn lửa đầu tiên vẫn còn. Đó là cách tồn tại của nó. phần của Chúa nhập vào Jesus, nhưng phần còn lại vẫn ở bên ngoài vũ trụ của chúng ta. Bên ngoài bong bóng.” “Nhưng Jesus có quyền năng của Chúa chứ?” “. Bên trong bóng bóng, Chúa chịu chi phối của những quy luật của vũ trụ chúng ta.” “Thế còn những phép lạ. mặt nước. Làm người chết sống lại?” “Jesus là người cứu chữa, phải phù thủy. Những câu chuyện như thế chỉ có lợi cho ai muốn dựng lên xung quanh Ngài tôn giáo.” Rachel lắc đầu như người chóng mặt. “Em chẳng biết sao.” “Em hãy suy nghĩ chút. Quãng đời đầu của Jesus rất ít được biết đến. Chúng ta có truyền thuyết về ra đời của ngài. Mấy câu chuyện về thời thơ ấu có lẽ là ngụy tạo. Rồi bỗng nhiên ngài bật lên thành cá nhân kiệt xuất toàn thiện toàn mỹ vào lứa tuổi ba mươi. thường tự hỏi tại sao người ta đặt nhiều câu hỏi về thuở thiếu thời của Jesus. Có phải Ngài từng là em bé hoàn hảo ? Ngài có người phụ nữ nào ? từng có con chưa? Ngài có tội lỗi như tất cả mọi người ? Tại sao lại có khoảng trống lớn đến thế trong cuộc đời ngài?” “Em nghĩ là có câu trả lời.” “ nghĩ là có. Chúa vào nhân thế để cố gắng tìm hiểu tại sao loài người tiến hóa thêm nữa. Để làm điều đó, Người sống như con người. Và khi trưởng thành, Người tìm ra câu trả lời. Nỗi đau và vô nghĩa của đời người có thể chịu được là nhờ những niềm vui khôn tả mà con người trải nghiệm. Sắc đẹp, tiếng cười, tình ... thậm chí niềm vui đơn giản như ăn trái cây hay nhìn đứa trẻ. Thông qua Jesus, Chúa cảm nhận được những điều kỳ diệu ấy. Tuy nhiên Người cũng nhìn thấy diệt vong của loài người với tư cách giống loài.” “Tại sao?” “Con người sinh sôi nảy nở trong thế giới bạo lực bởi vì nó có những bản năng nguyên thủy phù hợp với thế giới ấy. Tuy nhiên nếu muốn tiếp tục tiến hóa, nó phải vứt bỏ bản năng ấy . Tiến hóa bao giờ loại bỏ được bản năng ấy. Tiến hóa được thiết kế để tạo ra những con người đạo đức. Nó là động cơ mù, cơ chế chiến đấu cạnh tranh chỉ hướng tới sinh tồn mà thôi.” Rachel trông có vẻ đăm chiêu. “Em nghĩ em biết đến đâu.” “Em .” “Thông qua Jesus, Chúa muốn cố gắng thuyết phục con người vứt bỏ bản năng nguyên thủy của mình, vứt bỏ phần con vật trong bản thân mình.” “Chính xác. Jesus và làm gì? Hãy quên những điều các tín đồ gán ghép vào cuộc đời Ngài. Hãy chỉ nghĩ đến lời và việc làm của Ngài.” “ ‘Hãy người hàng xóm của ngươi như chính bản thân ngươi. Nếu người ta tát vào má phải ngươi, hãy chìa má trái ra.’ Ngài chối bỏ phần bản năng người trong Ngài.” “Hãy vứt bỏ tất cả những gì ngươi có và theo ta,” tôi trích dẫn. “Jesus sống nêu gương, và mọi người phấn chấn noi theo tấm gương ấy.” “Nhưng Ngài bị giết vì điều đó.” “ thể nào tránh khỏi.” Rachel bậm môi dưới, nhìn ra ngoài qua vuông cửa sổ màu xanh của máy bay. “Thế còn cuộc hành hình? Điều gì xảy ra thánh giá?” “Ngài chết. Ngọn lửa trong Ngài trở về với nguồn của nó. Nó bỏ cái thế giới vật chất và năng lượng này lại phía sau.” “ có phục sinh?” “Đối với thân thể .” Rachel thở dài nặng nề, rồi quay sang tôi như sợ những điều tôi tiếp tục ra. “Lúc đó Chúa làm gì?” “Ngài thất vọng. Ngài làm hết sức mình trong tư cách con người, và mặc dầu ảnh hưởng đến nhiều người, nhưng thông điệp của Người bị cải biên, bị bóp méo, bị lợi dụng. Trong hai nghìn năm, nỗ lực chủ yếu của con người hình như chỉ là để tìm ra những phương thức hữu hiệu hơn để hủy diệt nòi giống của mình. Cho đến khi...” “Sao?” “Cách đây mấy tháng.” “ lại về Dự án Trinity?” Tôi gật đầu. “Trong Trinity có mầm mống của cứu rỗi, cho con người và Chúa. Nếu ý thức của con người có thể thoát ra khỏi cơ thể, những bản năng nguyên thủy tàn phá loài người trong thời gian dài đến thế cuối cùng bị loại trừ.” “Vậy Chúa làm gì?” “Ngài lại tập trung vào thế giới này lần nữa. Nhưng theo cách hơn nhiều. Tập trung vào nhóm sáu người bọn . Godin, Fielding, Nara, Skow, Klein... và .” “David... có phải những gì em nghĩ về ?” “Chúa muốn quay trở lại bên trong bong bóng.” “Tại sao?” “Bởi ngài thấy con người gần đạt đến trạng thái kế tiếp của tiến hóa - cái mà bọn gọi là trạng thái Trinity - hoàn toàn có khả năng hủy diệt loài người đúng bằng cách Người có thể cứu nó.” “Peter Godin?” “Đúng.” Nàng nhìn xuống lòng mình. “ muốn rằng Chúa chọn để ngăn cho Peter Godin vào máy tính Trinity?” “Đúng.” Nàng gật đầu như thể lặng lẽ khẳng định chẩn đoán, rồi ngẩng lên nhìn tôi. Bản thân tôi gật đầu như thế biết bao nhiêu lần. “David, hồi còn ở Tennessee có với em rằng cảm thấy mình được Chúa chọn. Có phải vị Chúa ấy bây giờ ở trong ?” “Phải.” “Giống như Người ở trong Jesus?” “ phần ngọn lửa ban đầu lúc này ở trong . Đó là lý do tại sao có những giấc mơ về Jerusalem ấy, và tại sao chúng lại giống ký ức. Chúng chính là ký ức.” “Ôi, David, ôi... .” Nàng ngửa đầu ra sau và chớp chớp ngăn nước mắt trào ra. “Em cần phải tin ngay bây giờ. Chẳng bao lâu nữa em thấy tận mắt.” “Thấy gì? sắp sửa làm gì?” “Ngăn Godin lại.” Nàng quay ngoắt người lại nhìn tôi bằng ánh mắt kiên quyết. “Em em nghĩ gì về . Em cần phải ngay, vì chúng ta sắp hạ cánh, và cầu Kinski đưa chúng ta vào tình thế vô cùng nguy hiểm. tình thế mà chẳng mấy sẵn sàng dấn thân vào đâu.” “Rachel...” “Em xin cho em những điều em nghĩ, được ?” “Được, nhưng em chưa để hết. với em rằng để hiểu được đoạn đầu, em cần phải hiểu đoạn kết.” Nàng nhắm mắt lại, và tôi có thể thấy lòng kiên nhẫn của nàng cạn kiệt. Tôi thở dài chịu thua. “Thôi em .” Nàng nhìn tôi chăm chăm. “Người đàn ông liệt ngồi trong bóng tối đó phải là Chúa. Đó chính là . chưa bao giờ hồi phục sau những gì xảy đến với Karen và Zooey.” Tôi thể tin nổi. Nàng trọn vòng để rồi trở lại với chẩn đoán ban đầu. “Thế còn tất cả những gì với em hôm nay?” “Quy về những từ ngữ đơn giản, những gì nào? nhận sứ mệnh từ Chúa. sứ mệnh từ Chúa để cứu loài người. có đồng ý ?” “Đồng ý.” “ thấy ? Nhờ tin vào câu chuyện huyền hoặc ấy, trí óc thoát khỏi nỗi đau khủng khiếp về những mất mát gia đình.” “Như thế nào?” “Bên trong cái ảo ảnh phức tạp này, cái chết của Karen và Zooey mang ý nghĩa. Chính cái chết của họ khiến viết cuốn sách đó. Chính cuốn sách khiến được chỉ định vào Trinity. Nếu tin rằng Chúa đưa vào Trinity để chặn tay cái Ác, như vậy cái chết của những người thân của có ý nghĩa, chứ còn là bi kịch vô nghĩa nữa.” Tôi siết chặt tay ghế để cố ghìm nỗi thất vọng. “David, có bằng vật lý lý thuyết của Đại học Công nghệ Massachuset. Trí não có thể kiến tạo nên hoang tưởng này trong khi tìm cách cân bằng lại chính mình.” “Karen và Zooey chết cách đây năm năm rồi,” tôi . “Khoan, hãy quên lập luận ấy . Em có nhớ cha về tôn giáo như thế nào ?” “Thế nào?” “Loài người là vũ trụ trở nên ý thức về bản thân mình.” “Em nhớ.” “Cha đúng hơn ông nghĩ nhiều. Và trong những điều ông dạy là mở rộng tâm hồn đón nhận thâm nhập của Chúa.” “Nhưng chưa bao giờ tin Chúa!” “Theo cách truyền thống . Nhưng tin điều này. biết điều này. Và nếu em cho thêm phút nữa thôi, em hiểu tại sao phải đến White Sands.” “ phút ư? Như thế nhiều hơn em chờ đợi đấy.” “Sau khi Nils Bohr (40) trốn thoát khỏi vùng đất do bọn Đức Quốc xã kiểm soát, ông đến Los Alamos. Ông thấy ở đấy có số nhà vật lý lúng túng. Cha là trong số đó. Những nhà hàn lâm ngây ngô bỗng thấy mình làm việc với sức mạnh công nghệ những đủ sức chấm dứt chiến tranh mà còn có thể kết liễu cả thế giới. Bohr trấn an họ bằng cách giải thích nguyên lý sâu sắc, gọi là nguyên lý bù trừ. Ông , ‘Mỗi khó khăn to lớn và sâu xa đến mấy cũng tự có nó giải pháp cho chính nó.’ Thứ bom có thể hủy diệt thế giới lại cũng có sức mạnh chấm dứt chiến tranh quy mô lớn. Và nó làm được rồi.” Tôi gõ mạnh đốt ngón tay lên tay ghế. “Máy tính Trinity chính là vũ khí như thế. Nó có thể hủy diệt hoặc có thể cứu thế giới của chúng ta.” Rachel ngả người ra ghế và dụi mắt. “ nghĩ mình tuyên bố quá lời sao?” “.” “Em thể nghĩ thêm về chuyện này nữa.” Thay vì cãi lại, tôi vươn người ra và bắt đầu xoa cổ nàng. căng thẳng của nàng dịu ngay, nhưng lúc sau nàng ngồi thụt sâu trong ghế với nhịp thở đều đều. Tôi cảm thấy mơ màng buồn ngủ tướng Kinski xuất lối giữa, khuôn mặt bì bì của gã nhìn xuống tôi vẻ khẩn cấp. “Chuyện gì vậy?” tôi hỏi. “ thung lũng ven sông đông dân ở Đức vừa bị ngập lụt. Nửa thành phố bị cuốn trôi. cái đập tự động mở ra.” “Chuyện đó có liên quan gì đến chúng tôi?” Rachel hỏi giọng ngái ngủ. “Cái đập đó được điều khiển bằng máy tính. Những người vận hành nó cố gắng vượt qua hệ thống tự động, nhưng tác động của máy tính phá vỡ các cánh cửa của đập tràn. Hàng chục người chết đuối.” “Trinity?” tôi . “Chúng tôi tin thế.” “Đây mới là bắt đầu.” Kinski gật đầu. “Tôi e là ông đúng.” “Nhưng nước Đức,” Rachel kêu lên. “Nước Đức có liên quan gì đến Trinity?” “Tôi hy vọng chúng ta sớm biết điều này,” viên tướng chỉ huy Mossad . “Dù sao, tôi tin rằng chúng ta chiến đấu với chiếc máy. Ông làm ơn quay trở lại đầu máy bay, bác sĩ Tennant. Chúng tôi có thêm số câu hỏi cho ông.” Tôi đứng dậy theo viên tướng Israel. CHƯƠNG 39 Phòng Tình thế, White Sands Ravi Nara hớp ngụm trà bốc khói và nhìn những người ngồi quanh bàn trong phòng Tình thế. Mọi người chằm chằm quan sát màn hình bên góc phải màn hình chính. Đoạn thông điệp đầu tiên của máy tính gửi tổng thống sáng lên sắc xanh, các dòng chữ bây giờ ớn lạnh như khi nó xuất lần đầu màn hình chính. Thưa ngài tổng thống, Hôm nay ngài thức dậy trong thế giới mới. Trinity làm cho các hình mẫu cũ về chính phủ trở nên lỗi thời. Khái niệm nhà nước tự chủ sớm sụp đổ. Ngài nên sợ hãi trước thay đổi này. Hãy khuyên các công dân thế giới chớ nên sợ hãi. Nguyên thủ của các cường quốc khác cũng được gửi những thông điệp tương tự, và họ trông cậy vào chỉ đạo của ngài. Ngài và ta còn chuyện nhiều trong những ngày tới, nhưng ngay bây giờ có những thực tế nhất định cần được hiểu . Trước hết, ngài được có bất cứ mưu đồ nào chống lại ta. Ta có sức mạnh hủy diệt hàng loạt mạng sống cũng như thủ đô của cả Mỹ lẫn các nước khác khắp thế giới. Sức mạnh này khu trú trong mạch của ta. Ngay khi vừa lên mạng, ta xuất những chương trình nhất định đến hàng trăm máy tính ngoại vi trong mạng lưới của ta, chúng vây bọc toàn bộ Internet. Nếu ta bị ngắt mạng quá lâu, thảm họa tránh khỏi được khởi động ngay lập tức. Nếu các người có ý định tiêu hủy ta hay thậm chí là ngắt nguồn điện, nước Mỹ như các người biết còn tồn tại. Muốn thấy minh chứng nho về sức mạnh của ta, hãy nhìn Nhật Bản xem. có cuộc tấn công vào biểu vật chất của ta. Nó bắt đầu từ lãnh thổ nước Đức. Vì ta xác định rằng cuộc tấn công này phải từ chính phủ quốc gia, nên ta đáp trả bằng lực lượng hạn chế. Lãnh đạo các nước nên hành động ngay để ngăn chặn những cuộc tấn công loại này. đáp trả của ta lần tới còn hạn chế như thế nữa. Về phương diện thực tế: bản thân ngài, phó tổng thống và Tổng Tham mưu trưởng Liên quân tập hợp trong căn phòng có video kỹ thuật số và thiết bị giám sát thanh. Ngài phải giữ va li hạt nhân bên người. Ngài phải bố trí cho những người lần lượt kế nhiệm ngài theo thứ tự từ đến tám tập hợp trong căn phòng khác có hệ thống giám sát. Ta biết mã số báo động hạt nhân để triệu tập những quan chức kể , nên bắt họ phục tùng mệnh lệnh khó khăn gì. Hãy gửi tất cả những tín hiệu giám sát theo thời gian thực đến Trinity. bất tiện này chỉ cần thiết trong vòng bảy mươi hai giờ. Nếu các người tuân theo trong vòng chín mươi phút ta buộc phải áp đặt những hình phạt thảm khốc. Đừng chậm trễ. Ta sớm liên lạc lại với ngài. Thông điệp này đẩy phòng Tình thế vào tình trạng hoảng loạn. Những câu hỏi cho máy tính nhận được thêm bất cứ hồi đáp nào, và rối loạn chỉ càng thêm tồi tệ cho tới khi câu chuyện về “ cố” đập nước ở Đức xuất bản tin đầu giờ của CNN. Ít phút sau, Skow buông máy sau khi tham khảo các đồng nghiệp NSA của mình ở căn cứ quân Meade. “Cảnh sát liên bang Đức bắt giam hai học sinh trung học lớp mười hai. Có vẻ hai thằng bé này nghe tin về Trinity và tưởng tượng đây là cơ hội lớn để chúng cứu thế giới. Chúng mò ra địa chỉ IP của Trinity, đột nhập qua tường lửa mà Levin dựng lên, và tấn công máy tính đó.” “Bọn chúng sống ở đâu?” tướng Bauer hỏi. “Trong thành phố bị lụt khi đập vỡ. Trường học và trong những ngôi nhà của cha mẹ chúng bị phá hủy.” Bauer gục gặc đầu. “Điều này cho chúng ta thấy hơn đặc trưng về khả năng trả thù của máy tính này.” Những tin nóng khác khiến phòng Tình thế chết lặng, tin này từ MSNBC. “Đồng yên Nhật sụt giảm mười lăm phần trăm trong phiên giao dịch ngoài giờ hôm nay, làm bùng lên nỗi sợ phải bán tống bán tháo do hoảng loạn khi Nikkei mở cửa vào thứ Hai. sụt giảm được cho là do khối lượng giao dịch tăng bất thường của thương mại điện tử khiến đồng yên giảm giá xuống thấp hơn giá được kìm giữ trong mậu dịch. tượng bất thường này làm dấy lên mối nghi ngại rằng các hacker lọt được vào hệ thống giao dịch ngoài giờ, nhưng chưa có bằng chứng nào khẳng định điều này. Đồng yên tạm thời ổn định, nhưng vẫn còn nỗi sợ dai dẳng rằng các tổ chức thương mại bắt đầu phá giá đồng bạc này lần nữa vào bất kỳ thời điểm nào.” “Mười lăm phần trăm!” Skow với bộ mặt xám ngoét. “Các ông có tưởng tượng nổi chuyện gì xảy ra khi đồng đô la giảm giá mười lăm phần trăm trong vòng ngày ?” Trong khi mọi người ở phòng Tình thế cố gắng tiếp cận ý định của Trinity, các nhà phân tích của trường Tình báo Quân ở căn cứ Huachuca lập danh sách những mục tiêu dễ bị Trinity tấn công. Mục tiêu bao gồm mạng lưới điện quốc gia, các nhà máy hạt nhân và thủy điện, công nghiệp hóa chất và hầm mỏ, hệ thống kiểm soát lưu, ngân hàng, thị trường chứng khoán, bệnh viện, tàu chiến của hải quân, tàu chở dầu cỡ lớn, đường ống dẫn dầu và khí, và hệ thống đường sắt. Cơn ác mộng khủng khiếp nhất đối với Ravi là hàng trăm đầu đạn hạt nhân bay xuyên lục địa, nhưng tướng Bauer khẳng định kho vũ khí hạt nhân của Mỹ và Nga là an toàn. Trong suốt bốn mươi năm Chiến tranh Lạnh, chúng được bảo đảm chắc chắn trước mọi hiểm họa có thể tưởng tượng ra, kể cả các máy tính chơi xấu. Để phóng tên lửa hạt nhân cần có mã số thẩm quyền do tổng thống cung cấp, và hai chìa khóa phòng điều khiển phóng tên lửa do hai con người có kỷ luật cao nhất giữ. Do vậy, mặc dù Trinity có thể gây chết người hàng loạt, nó vẫn thể khởi động chiến tranh hạt nhân. Tổng thống vẫn chưa tin chắc vào những giới hạn trả thù có thể liều lĩnh gây thảm họa của Trinity. Năm phút trước khi hết thời hạn tối hậu thư, ông tự nguyện đặt mình dưới hệ thống giám sát. Đầu tiên ông có mấy cuộc chuyện với Evan McCaskell, trong đó ông vạch chiến lược hòa hoãn bằng cách tuân theo các thông tin từ máy tính. Ông cũng ra lệnh có thể thử bất cứ hành động nào làm tê liệt máy tính này mà nguy hiểm cho nhiều mạng sống. Dùng quyền hạn ra lệnh này là cả vấn đề khó khăn. Ngay khi bị đặt trong vòng cưỡng chế, tổng thống trở nên còn quyền hành về pháp lý để thực thi nghĩa vụ của ông. Với thỏa hiệp của những quan chức kế nhiệm trực tiếp theo trình tự, đây quả là tình thế có hai. ai cảm thấy yên tâm trao trách nhiệm giải quyết cuộc khủng hoảng Trinity cho Bộ trưởng Nông nghiệp, người từ lúc này trở trở thành người đứng đầu cơ quan hành pháp. Các thành viên Quốc hội tản mát khắp thủ đô, có cách nào tập hợp họ lại mà Trinity biết. Để khắc phục khoảng trống lãnh đạo này, tổng thống trao quyền cho tổ giải quyết khủng hoảng để ra mọi quyết định liên quan đến Trinity. Tổ này gồm có Evan McCaskell, tướng Bauer và bất cứ thành viên nào của ủy ban Thượng viện Đặc trách Tình báo được bí mật tập hợp cách vội vã. Mọi quyết định đều được tuân thủ theo đa số. Các thượng nghị sĩ nhóm họp tại đại bản doanh của NSA ở căn cứ quân Meade, tại đây liên kết video được bảo vệ bằng hệ thống mã hóa đại nhất của cục an ninh, cho phép liên lạc an toàn với phòng Tình thế ở White Sands. hình ảnh góc rộng hiển thị màn hình lớn tại phòng Tình thế cho thấy các thượng nghị sĩ ngồi quanh chiếc bàn dài trong căn phòng cửa sổ trông như hầm tránh bom. Thượng nghị sĩ Barrett Jackson, chủ tịch Ủy ban Đặc trách Tình báo từ màn hình video nhìn xuống , “Tôi trông thấy họ. Họ có trông thấy tôi ?” “Chúng tôi thấy ông, thượng nghị sĩ ạ. Tôi là Skow của NSA.” Thượng nghị sĩ Jackson là con người gan lì, với xương hàm bạnh và đôi mắt sâu hoắm. Ông gốc người Texas, giọng lè nhè của ông làm ta khó nhận ra cái trí khôn bén nhọn bên trong. “Tôi nhận ra tướng Bauer,” ông . “Ờ... rồi. Tôi có câu hỏi cho chuyên gia các ông. Tại sao máy tính này ngừng liên lạc với chúng ta? Tại sao nó hay ra lệnh gì đó nữa?” “Nó củng cố sức mạnh của nó,” tướng Bauer . “Đó là động thái hợp logic. Có khả năng các kỹ thuật viên của Godin vẫn nạp dữ liệu vào bộ nhớ của nó.” Skow gật đầu. “Tôi nhất trí. Cả NSA lẫn CERN đều Trinity chưa kết thúc chuyến vòng quanh toàn bộ hệ thống máy tính thế giới. theo nghĩa đen có lẽ nó hấp thụ từng bit thông tin khi nó qua.” “Tôi hiểu,” thượng nghị sĩ Jackson . “Thiếu tướng, hãy dự tính kịch bản xấu nhất có thể. Máy tính đó có thể gây ra cho chúng ta những gì?” “Xin lỗi, tướng Bauer,” Skow xen vào. “Trước khi ngài làm việc đó, tôi cảm thấy có bổn phận ít nhất phải nêu ra khả năng của hệ thống ‘bàn tay chết’ của Nga.” “Nó là cái quái quỷ gì thế?” Jackson hỏi. “Bàn tay chết à? Tôi có cảm tưởng mình nghe qua.” “Ngài thượng nghị sĩ có trí nhớ tốt đấy,” Skow . “Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, các nhà hoạch định kế hoạch của Liên Xô biết rằng chiến lược của Mỹ là xóa bỏ các mệnh lệnh và tiêu diệt hệ thống điều khiển của họ bằng những tên lửa đầu tiên của ta. Có tin đồn vì thế Liên Xô sáng tạo ra cái gọi là hệ thống ‘bàn tay chết’: hệ thống máy tính tự động phóng ICBM (41) ngay khi nhận được báo động tên lửa từ hệ thống ra đa bảo vệ bờ biển của họ. Ngay cả khi các lãnh đạo Liên Xô bị giết những ‘bàn tay chết’ của họ vẫn có thể ấn nút hạt nhân. Tin đồn về hệ thống ấy xuất phát từ Liên Xô, nhưng là hay giả vẫn chưa ai biết. Các thế hệ lãnh đạo sau của Nga phủ nhận tồn tại này, và các kiện gần đây xác minh lời phủ nhận ấy.” “Ông về cố Na Uy phải ?” phụ nữ ngồi cuối bàn ủy ban hỏi. Skow gật đầu. “Chính xác, thưa bà thượng nghị sĩ. Để giải thích cho những ai chưa biết, năm 1995 tên lửa thử nghiệm của Na Uy sử dụng tầng đầu của tên lửa Honest John, Mỹ gây ra báo động hạt nhân toàn phần ở Nga, từ Lực lượng Tên lửa Chiến lược, cho đến tận tổng thống Yelsin. Tuy nhiên, chẳng có cuộc phóng tên lửa trả đũa nào cả.” “Vậy hệ thống ‘bàn tay chết’ có tồn tại hay ?” thượng nghị sĩ Jackson hỏi. “, thưa ngài,” tướng Bauer trả lời. “Trong cố Na Uy, hệ thống ra lệnh-điều khiển của Nga thực đúng chức năng mà nó được thiết kế.” “Như vậy Trinity muốn gì khi nó đe dọa tàn phá đất nước?” Tướng Bauer giấu nổi thái độ cáu tiết. “Ngài thượng nghị sĩ, Trinity có thể đẩy đất nước ta vào tình trạng hỗn loạn chỉ trong phút. Nếu nó tấn công thị trường tiền tệ, vào sáng thứ Hai phố Wall, chúng ta thấy tình trạng bán tháo vì hoảng loạn chưa từng thấy từ năm 1929. Giả sử Trinity tấn công hệ thống vận tải? Trong vòng ba ngày, có thực phẩm đến các siêu thị. Chúng ta có thể gặp tình trạng bất ổn dân trong vòng bảy mươi hai giờ, và bạo động lan ra trong vòng tuần lễ.” Thượng nghị sĩ Jackson nặng nề ngồi xuống. “Lạy Chúa.” người lính bước đến gần ông tướng và thầm vào tai ông ta. Bauer nhìn lên màn hình. “Tôi vừa nhận được tin David Tennant và Rachel Weiss về đến cổng căn cứ này. Họ ở trực thăng và sắp đáp xuống ngay giữa vòng vây truyền thông.” Skow thầm chửi tục. “Tennant à?” trong những thượng nghị sĩ màn hình hỏi. “Có phải cái tay mất trí định ám sát tổng thống ấy ?” “ ta là bác sĩ, kẻ phơi Trinity ra công luận,” thượng nghị sĩ Jackson . “Trước đây ta từng là trong các cử tri của tôi. Tôi muốn ta được đưa đến phòng Tình thế của các ngài.” “Tôi đồng ý,” Evan McCaskell . “Bác sĩ Tennant có thể đem đến cho chúng ta những thông tin cực kỳ cấp thiết.” Skow đứng lên hướng về màn hình. “Thưa các thượng nghị sĩ, chúng tôi làm việc với bác sĩ Tennant trong hai năm. ta có những vấn đề tâm thần trầm trọng, kể cả ảo giác hoang tưởng. ta giết hai người mà chúng ta biết, và còn đe dọa tính mạng tổng thống nữa.” “Tôi vẫn cần thấy chứng cớ ràng của lời khẳng định cuối cùng này,” McCaskell . “Và e-mail của bác sĩ Tennant lại kể câu chuyện hoàn toàn khác.” “ ta vẫn còn nguy hiểm,” Skow . “Trong vòng vây của Lực lượng Đặc biệt nguy hiểm đâu,” tướng Bauer . “Tôi cử đội hộ tống dẫn ta vào.” “ nhân viên Mật vụ của chúng tôi theo,” McCaskell . “Chỉ để đảm bảo ta vào đây an toàn.”
CHƯƠNG 40 White Sands Tôi dính chặt người ghế khi chiếc trực thăng lao sầm xuống giữa đám đông người và xe ngoài cổng White Sands. Phía trong cổng là hai chiếc Humvee với những khẩu súng máy nòng 50 ly lưng, các tay súng đứng trong tư thế sẵn sàng. Rachel chỉ vào đám người sôi sục. Hình như ban đầu chỉ gồm nhà báo, nhưng có nhóm người biểu tình mang theo cả biểu ngữ và thánh giá đứng gần cổng. Họ làm tôi nhớ tới đám đông ở Via Dolorosa. Tôi đăm đăm nhìn lên hướng Bắc qua cửa mở của chiếc Huey. Tại điểm cách sa mạc này tám mươi cây, cha tôi từng chứng kiến vụ nổ bom nguyên tử đầu tiên. mỉa mai, người ta gọi nó là Trinity Shot (42). Ông quan sát từ boong ke nơi có những máy quay cao tốc ghi lại từng phần nghìn giây ra đời của mặt trời mới. Nhiều người chứng kiến kiện cố giải thích nó, nhưng ai nắm bắt được khoảnh khắc ấy như Robert Oppenheimer. Tôi đóng những lời sau đây của ông lên tường lớp học y đức của tôi ở UVA: Khi quả bom nguyên tử đầu tiên ấy nổ giữa rạng đông New Mexico, chúng tôi nghĩ đến Alfred Nobel và hy vọng vô ích của ông, rằng thuốc nổ chấm dứt mọi cuộc chiến tranh. Chúng tôi nghĩ đến huyền thoại Prometheus, nghĩ đến cái cảm giác tội lỗi sâu sắc trong những sức mạnh mới của con người, nó phản ánh việc con người nhận ra cái ác, và những hiểu biết lâu dài về cái ác. Chúng tôi biết đó là thế giới mới, nhưng chúng tôi còn biết nhiều hơn rằng bản thân cái mới là cái rất cũ trong cuộc sống con người, rằng mọi nẻo đường đời của chúng ta bắt rễ từ đấy. Khi chiếc trực thăng Huey hướng về phía đám đông bên dưới, tôi nhận ra Oppenheimer hiểu điều mà Peter Godin hiểu. Peter Godin vào máy tính Trinity, bỏ lại đằng sau cái mà trước đó người nào từ bỏ hoàn toàn: nhân tính của mình. Trong cuộc kiếm tìm này, lão chỉ thất bại mà thôi. Đám đông tràn đến trực thăng khi chúng tôi đáp xuống khoảng trống phía xa xe truyền hình. Chúng tôi nhảy ra và cố gắng chen vào cổng, nhưng có ai đó nhận ra tôi và kêu tên tôi khiến mọi người tán loạn hết cả lên. rừng máy ảnh, những ánh đèn chói lóa, và các phóng viên xoay quanh chúng tôi như lốc xoáy. Tôi đứng yên lặng chờ họ lắng xuống. “Tôi là David Tennant. Tôi gửi tin tiết lộ tồn tại của Trinity.” “Ông làm gì ở đây?” phóng viên hét lên. “Có phải những người đằng sau hàng rào kia cố giết ông ?” “Tôi nghĩ chúng tôi qua điểm đó rồi. Nhưng nếu tôi sai, các bạn thấy tôi bước bên trong căn cứ này. Nếu các bạn thấy tôi ra nữa, xin đừng ngừng đặt câu hỏi cho đến khi tìm ra .” “ là gì?” phụ nữ hỏi. “Có phải máy tính bắt thế giới làm con tin ?” “Đó là vấn đề mà tôi có mặt ở đây để giải quyết.” “Bằng cách nào?” nhiều giọng gào lên cùng lúc. người đàn ông giọng Pháp hét lên. “Có phải máy tính Trinity phá hủy đập sông Mohne ở Đức ?” “Tất cả những gì tôi cần phải là như thế này. Bằng cách có mặt ở đây, các bạn giúp ích cho thế giới. Dù có xảy ra bất cứ điều gì, xin các bạn đừng bỏ . Cám ơn.” Tôi cố gắng bước ra khỏi đám đông, nhưng các nhà báo chịu nhường lối. Những câu hỏi mà họ gào lên phát đinh tai nhức óc, và họ chèn ép chúng tôi, cho đến khi tiếng cánh quạt phành phạch nhấn chìm giọng của họ. chiếc trực thăng Huey màu ô liu xỉn với các họng súng mi ni đặt sau cửa bay gần như ngay đầu. Khi nó xuống đủ thấp, đám nhà báo chạy tản ra như chim. người đàn ông trẻ mặc complet lao ra khỏi chiếc Huey về phía tôi, che mặt tránh gió từ cánh quạt trực thăng. Tôi thấy khẩu súng ngắn thò ra dưới áo khoác phấp phới của ta. “Ông là bác sĩ Tennant?” “Phải.” “Tôi là đặc vụ Lewis của Sở Mật vụ. Evan McCaskell muốn ông đến chỗ ông ấy ở phòng Tình thế của căn cứ.” Chúng tôi chạy lên chiếc Huey với đám đông nhà báo ào ào bám theo. Khi Rachel và tôi thắt dây an toàn, đặc vụ Lewis leo vào, giơ ngón tay cái ra hiệu cho phi công. Ngóc đầu lên trước, chiếc Huey vượt qua hàng rào và bay về hướng Tây. Khi những đụn cát trắng vô tận lùi về phía sau, tôi lấy làm kinh ngạc vì cái hình thức sống mới nhất hành tinh lại được ra đời giữa sa mạc khô cằn này, khác xa vườn Địa đàng trời vực. Phi công cho máy bay hạ xuống khoảng giữa các nhà chứa máy bay lớn. Nơi chúng tôi đến là nhà chứa máy bay đề tên HÀNH CHÍNH, và có nhiều lính vũ trang đứng gác. Bên trong khoảng gian u, mênh mông, chúng tôi thấy bốt chỉ huy lưu động như do NASA thiết kế. Ngồi quanh chiếc bàn ở giữa phòng là John Skow, Ravi Nara, Evan McCaskell và viên tướng hai sao tôi nhận ra. màn hình lớn cho thấy nhóm đàn ông đàn bà ngồi quanh chiếc bàn khác. Tôi nhận ra bốn người là thượng nghị sĩ, trong đó có Barrett Jackson, thượng nghị sĩ kỳ cựu thuộc bang Tennessee. Ở phía bên kia chiếc bàn trước mặt tôi là giường bệnh. Nằm bất tỉnh đó là Peter Godin. Bên cạnh giường có hai y tá đứng, người mặc blu trắng trông như bác sĩ trực, và vệ sĩ tóc vàng hoe bận đồ đen. Tôi định quay nhìn thấy dải băng trắng quấn quanh cổ vệ sĩ. Tiếng thở hổn hển sau gáy tôi khiến tôi biết Rachel nhận ra Geli Bauer cùng lúc với tôi. Geli nhìn tôi, rồi chuyển mục tiêu, đôi mắt ả thiêu cháy Rachel. Đôi môi ả cong tớn lên thành nụ cười như muốn ăn tươi nuốt sống. Ả vẫn chưa quên chuyện ở ga Liên Hiệp. McCaskell ra hiệu cho chúng tôi đến ngồi bên phải bàn và giới thiệu ngắn gọn khi chúng tôi ngồi xuống. Tôi ngạc nhiên khi nghe viên tướng tên là Bauer, nhưng sau đó tôi nhớ lại lịch sử gia đình Geli. Những người màn hình lớn được giới thiệu là thành viên Ủy ban Thượng viện Đặc trách Tình báo, và tôi thấy ràng mọi quyết định liên quan đến số phận Trinity - và do đó là số phận toàn thế giới - do họ đưa ra. “Bác sĩ Tennant,” thượng nghị sĩ Jackson từ màn hình . “Chúng tôi vui mừng thấy ở đây. Trong e-mail gửi từ Israel, đưa ra những cáo buộc nghiêm trọng về ông Skow và Cơ quan An ninh Quốc gia. Tôi đảm bảo với sau này chúng tôi xem xét những cáo buộc ấy. Nhưng ngay giờ đây chúng ta phải tập trung vào hiểm họa Trinity.” “Tôi đến đây chính là để làm việc đó, thưa ngài thượng nghị sĩ.” “Chúng tôi nghe những gì với các nhà báo ở ngoài cổng,” McCaskell . “ có biết cách nào tắt máy tính đó mà gây ra cuộc trả thù khủng khiếp cho đất nước ?” “.” McCaskell chẳng buồn giấu nỗi thất vọng của mình. “Thôi được, vậy chính xác có dự định gì, bác sĩ?” “Tôi đến đây để chuyện với máy tính.” Chánh văn phòng phủ tổng thống đưa mắt nhìn viên tướng, rồi đến Skow. Vẻ mặt Skow như muốn Tôi bảo ngài rồi. “ định gì với Trinity, bác sĩ?” thượng nghị sĩ Jackson hỏi. “Tôi muốn hỏi nó vài câu.” “Chẳng hạn?” “ giờ tôi muốn giữ kín.” ai thích câu trả lời này. Skow nhìn tôi vẻ vờ quan tâm. “David, tôi hy vọng hành động với giả định rằng máy tính Trinity vẫn còn là trí tuệ của Peter Godin, bởi vì...” “ ra, tôi hành động như thế đấy. giờ có lẽ mẫu thần kinh Godin tiến hóa nhiều rồi, nhưng trong vài giờ tới, tôi nghĩ chủ yếu nó vẫn là con người như chúng ta biết.” “Còn sau đó sao?” McCaskell hỏi. “ ai biết. Godin tin rằng mẫu thần kinh của ông ta tiến hóa thành kiểu vua triết gia, thực thể siêu nhân có trí năng tách rời mọi xúc cảm của vị thần. Tôi nghĩ ông ta lầm. Andrew Fielding nhất trí với tôi. Nếu trong vòng vài giờ nữa tôi thể thuyết phục mẫu thần kinh Godin tự ý ngừng hoạt động - ra như vậy tức là tự tử - chúng ta bao giờ thoát khỏi thống trị của chiếc máy này.” Căn phòng yên lặng. “ có thể giải thích cho chúng tôi lý lẽ của , bác sĩ?” McCaskell hỏi. “Từ Thời đại Công nghiệp, con người sợ rằng ngày nào đó thế giới bị máy móc kiểm soát. Điều mỉa mai là phải cả hệ thống máy móc làm được điều đó. Mà chỉ là chiếc máy. Chúng ta tạo ra Siêu nhân của Friedrich Nietzsche, ngài McCaskell ạ.” McCaskell nhìn quanh phòng lượt, rồi hắng giọng. “Bác sĩ Tennant, có nghĩ ra lý lẽ nào để chiếc máy tính đó tự tắt mà ai khác ở đây nghĩ tới ?” “Tôi biết. Ngài có ý kiến gì ?” “Ở đây có người đề nghị dùng người thương thuyết làm con tin,” thượng nghị sĩ Jackson . “Nhưng chúng tôi biết có ai đủ khả năng để với cái... cái vật này ?” “Có tôi.” “Tại sao nghĩ thế, bác sĩ? định gì với nó?” Tôi cảm thấy Rachel co rúm người lại bên cạnh tôi. Dường như nàng sợ tôi tuyên bố rằng Chúa sai tôi xuống để chặn tay Peter Godin. Tôi chưa kịp tướng Bauer lên tiếng, “Bác sĩ Tennant đúng điểm. Mỗi giờ chúng ta ngồi chờ máy tính mạnh thêm lên. Nếu chúng ta định hành động nên hành động ngay .” “Ông có ý kiến gì chăng, thiếu tướng?” thượng nghị sĩ Jackson hỏi. “Cho đến lúc này, tất cả những gì ông cho chúng tôi thấy chỉ là cơn ác mộng về những thảm họa Trinity có thể gây ra cho chúng ta. Còn chúng ta có thể làm được gì?” Tướng Bauer đứng lên bước về phía màn hình. “Thưa các ngài, Trinity chỉ duy trì được sức mạnh của nó thông qua khả năng khống chế hệ thống máy tính thế giới. Nếu chúng ta có thể vô hiệu hóa các hệ thống máy tính ấy - hay để đơn giản hóa vấn đề, chỉ hệ thống máy tính của Mỹ thôi - chúng ta có thể vô hiệu hóa mối đe dọa này.” “Ý ngài là chúng ta chỉ việc tắt toàn bộ máy tính trong nước?” thượng nghị sĩ Jackson hỏi. “Đó là ý kiến rất hấp dẫn đấy, thưa ngài thượng nghị sĩ, nhưng khả thi. Kế hoạch của chúng ta lộ ra với Trinity từ lâu trước khi nó được thực . Và chiếc máy này có khả năng trả đũa với tốc độ ánh sáng, theo nghĩa đen.” “Vậy ngài có đề nghị gì?” Trong khi chăm chú nhìn vào màn hình các thượng nghị sĩ, tôi vụt nhớ ra điều mà Fielding với tôi về khả năng lượng tử của Trinity. “Xin lỗi, ngài thiếu tướng,” tôi ngắt lời. “Hệ thống truyền thông của chúng ta được phát đường dài hoặc liên lạc vệ tinh phải ? Trinity nghe được tất cả những gì chúng ta ở đây.” John Skow đứng lên và ban cho tôi cái nhìn kẻ cả. “Chúng ta sử dụng mã hóa 128-bit cho mọi cuộc liên lạc, chúng ta cũng dùng đường cáp quang an toàn. Những siêu-máy tính nhanh nhất hành tinh cũng mất chín mươi sáu giờ để bẻ mã 128-bit. Đấy là từng thông điệp. Cứ cho rằng khả năng dự tính của Trinity là thực chăng nữa, chúng ta vẫn có cửa sổ an toàn truyền thông đáng kể.” “ thể giả định bất cứ điều gì về Trinity,” tôi . “Andrew Fielding tin rằng bộ não người có khả năng lượng tử. Nếu khả năng đó là Trinity khai thác nó, nó có thể bẻ mã 128-bit của trong nháy mắt.” Ravi Nara giơ tay. “Cơ hội đó bằng , thưa tướng Bauer. Fielding là thiên tài, nhưng quan điểm của ông ta về máy tính lượng tử trong não người là trò lập dị. Khoa học viễn tưởng.” “Tôi vui mừng được nghe điều đó,” tướng Bauer . “Các vị bỏ qua lời khuyên của Fielding là cực kỳ liều lĩnh đấy,” tôi cảnh báo. “Tôi bằng lòng để lại vấn đề này cho các chuyên gia giải quyết, bác sĩ Tennant,” thượng nghị sĩ Jackson . “Kế hoạch của ông là gì, tướng Bauer?” “Ngài thượng nghị sĩ, tôi đề nghị chúng ta tấn công chính đất nước mình bằng đòn hạt nhân EMP (43) càng sớm càng tốt.” Hàng chục giọng nhao nhao lên lúc. Tướng Bauer gật đầu với kỹ thuật viên, này bật hình ảnh máy bay rải bom B-52 lên các màn hình quanh phòng. tên lửa kềnh càng rơi ra từ bụng chiếc máy bay khổng lồ này, rớt lại sau nó vài giây, rồi lóe lửa và vạch vòng cung bầu trời. Tiếp theo là vụ nổ hạt nhân khủng khiếp cao, rồi những đợt sóng như trong phim hoạt hình bắt đầu phát ra từ trái bom, bao phủ toàn bộ nước Mỹ. “Để giải thích cho những ai hiểu tôi gì,” tướng Bauer . “Đòn tấn công EMP rất đơn giản. thiết bị hạt nhân lớn phát nổ ở độ cao thích hợp tạo ra xung điện từ - bùng nổ ồ ạt của bức xạ điện từ - thứ có thể phá hủy hay ngắt mọi mạch điện đại đất Mỹ. Các máy tính đặc biệt dễ bị tổn hại vì xung năng lượng này. Vì được nổ ở độ cao rất lớn, bản thân quả bom gây ra tổn thất tối thiểu về người, tuy nhiên khả năng Trinity trả thù chúng ta bị vô hiệu hóa gần như ngay tức khắc.” Bầu khí im lặng tuyệt đối bao trùm phòng Tình thế. “Sao tôi lại nghĩ ông đơn giản hóa kịch bản nhỉ, tướng Bauer?” McCaskell . “Chúng ta phải nghĩ đến mặt bất lợi của kế hoạch này.” Bauer hít sâu, rồi bắt đầu theo cách khiến người ta nhớ đến George Patton(44). ý trong lập luận của ông ta là Muốn đánh chuột đừng sợ vỡ bình. “Bằng cách đánh vào hệ thống máy tính của chính chúng ta,” Bauer tóm tắt, “chúng ta gây ra số trong chính những hậu quả mà Trinity dùng để đe dọa chúng ta. Hoảng loạn lan rộng, nhiều người bị thương, vài người chết. Giao thông ngừng lại, và tất cả các chương trình phát thanh truyền hình tắt ngay lập tức. Nhưng vì đêm nay là đêm thứ Sáu, nên hậu quả tài chính được giảm thiểu. Hậu quả của những cố trong công nghiệp có thể nặng nề, đặc biệt là các nhà máy điện, xí nghiệp hóa chất, giao thông hàng và đường sắt cũng bị liên lụy. Nhưng...” “Hãy nghĩ đến Bhopal(45), Ấn Độ,” tôi . “Chỉ là con kiến so với chuyện xảy ra.” Tướng Bauer trừng trừng nhìn tôi. “So với những gì Trinity có thể làm nếu nó quyết định chơi sát ván với chúng ta, hậu quả của cuộc tấn công EMP là đáng kể.” Ông ta ngẩng lên nhìn các thượng nghị sĩ. “Tóm lại, tôi về tình trạng hỗn loạn có thể chấp nhận được. Tổn thất có thể chấp nhận được.” “Tôi là cựu binh,” thượng nghị sĩ Jackson . “Bất cứ lúc nào tôi nghe cụm từ ấy, tôi đều sởn gai ốc. Thế còn bệnh viện, người tàn phế, và những thứ tương tự sao?” “ có tổn thất về nhân mạng,” tướng Bauer nhắc lại. “Tuy vậy, so với những gì chúng ta phải đối mặt lúc này, có thể bỏ qua. Và cuộc khủng hoảng này chấm dứt.” “Để thực cuộc tấn công như thế mất bao lâu?” McCaskell hỏi. Tướng Bauer nhìn từng khuôn mặt, rồi nhìn lên màn hình video hội nghị. “Vào khoảng ba mươi phút.” Ba mươi phút! Tôi biết chuyện này có thể xảy ra, nhưng tôi nghĩ quân đội có thể phối hợp nhanh đến thế. “Cách đây hai giờ,” tướng Bauer , “khi Trinity còn tự định hướng, tôi chuyện với tư lệnh Căn cứ quân Barksdale ở Shreveport, Louisiana. Ông ấy là trong những người bạn rất lâu năm của tôi. Ông ấy có dưới quyền mình sáu phi đội B-52 và tất cả các máy bay ném bom ấy đều mang đầu đạn bạc.” “Đầu đạn bạc?” thượng nghị sĩ Jackson hỏi lại. “Những quả bom hạt nhân. Có khoảng năm trăm quả được dự trữ ở Barksdale. số là bom trọng lực, số khác được phóng từ máy bay bằng những tên lửa đầu đạn hạt nhân tầm thấp. Các phi đội bay huấn luyện được mang bom , nhưng chỉ huy có thể ra lệnh cho họ tiếp đạn ngay khi bay khó khăn gì lắm. Tôi thuyết phục ông ấy rằng hôm nay là ngày tốt để tiến hành huấn luyện bằng đạn . giờ có chiếc B-52 cất cánh khỏi Barksdale, mang theo đầu đạn bạc rất đặc biệt.” “Loại vũ khí mà ông là loại gì đấy?” McCaskell hỏi. “ tên lửa tầm ngắn hạng nặng có tên gọi là Vulcan. Nó được thiết kế để thực cuộc tấn công EMP ồ ạt mà cần phải phóng ICBM vốn dễ bị vệ tinh do thám của Nga phát . Vulcan phóng lượng chất nổ của nó bay thẳng ra ba trăm cây, phát nổ và rồi toàn bộ đèn điện khắp đất nước tắt ngấm. Trinity chỉ nhìn thấy những màn hình ra đa NORAD máy bay ném bom đường bay huấn luyện qua trung tâm nước Mỹ. Nhưng cái mà Vulcan phóng ra...” Tướng Bauer nắm bàn tay lại, rồi xòe nhanh ra, chĩa ngón tay biểu các tia tỏa ra từ mặt trời. “Chính xác Vulcan chở cái gì?” thượng nghị sĩ Jackson hỏi. “Đầu đạn nhiệt hạch mười lăm triệu tấn.” Mấy thượng nghị sĩ há hốc mồm. “Lạy Chúa,” người đàn ông tóc bạc trắng ngồi cuối bàn lầm rầm. “Nó lớn hơn quy mô vụ nổ Hiroshima cả nghìn lần.” “ nghìn năm trăm lần,” tướng Bauer . “Đó là điều nó có thể thực được trong lần phóng. Máy bay B-52 đến điểm phóng trong vòng ba mươi phút. Mã của nó là Arcangel. Ngài có thể ra lệnh cho Vulcan phóng, hay cho máy bay ném bom lượn quanh vô hạn định. Tôi thừa nhận rằng tôi hành động khi chưa được phép, nhưng chúng ta ở trong tình thế đặc biệt. Tôi mong ngài hãy lựa chọn.” Tiếp theo lời tự thú này là im lặng tuyệt đối. “Chúng ta có thể cố gắng giảm thiểu tác hại của vũ khí này trước khi sử dụng được ?” thượng nghị sĩ Jackson hỏi. “Cảnh báo dân chúng chẳng hạn.” “. Nếu làm thế, chúng ta khiến Trinity cảnh giác về kế hoạch của chúng ta.” “Chính xác đầu đạn hạt nhân này được nổ ở đâu? bầu trời bang nào?” “Nó phải được nổ ở rất gần trung tâm địa lý của đất nước.” “Tôi hỏi ông là bang nào?” Jackson nhắc lại. Viên tướng do dự, rồi thốt ra câu trả lời. “Kansas, thưa ngài.” “Kansas?” thượng nghị sĩ kêu lên. “Gã khốn kiếp này muốn cho tiêu tan bang quê hương của tôi!” “Chúng ta nhìn thấy cảnh tàn phá như thế nào mặt đất?” thượng nghị sĩ Jackson hỏi. “Bụi phóng xạ hay tương tự. Những tác hại lâu dài.” “Đáng ngạc nhiên là rất ít, thưa ngài. có bụi phóng xạ bị gió thổi , nhưng gió chủ đạo là gió Tây, và ở độ cao này, phần lớn chúng bị đẩy ra Đại Tây Dương trước khi gây thiệt hại đáng kể. Chúng ta cũng có thể bị những trận mưa ô nhiễm. có hậu quả lâu dài đối với mùa màng.” “Lâu dài là bao nhiêu?” thượng nghị sĩ Kansas hỏi. “ nghìn năm,” tôi đáp. “Đấy là cường điệu quá đáng,” tướng Bauer . “Thưa các thượng nghị sĩ, các ông bà phải cân nhắc tác động này với những gì có thể xảy ra nếu Trinity lựa chọn hành động như đe dọa. Và chúng ta phải giả định rằng cuối cùng nó làm. Trừ khi...” “Cái gì?” Jackson hỏi. “Chúng ta đầu hàng.” Giọng của Bauer cho thấy điều ông ta nghĩ về lựa chọn này. Các thượng nghị sĩ bắt đầu bàn bạc với nhau. Evan McCaskell có vẻ như nghĩ lời khuyên của chính mình. lần nữa ký ức về Fielding lại lên trong tôi. Nếu ông có mặt ở đây lúc này, chắc ông im lặng. “Nếu các vị mưu tính làm vụ này,” tôi lớn. “Các vị gây ra chính tàn phá mà các vị cố tránh. Đất nước này bị hủy diệt.” Các thượng nghị sĩ từ màn ảnh nhìn xuống tôi. “Sao lại thế, bác sĩ?” thượng nghị sĩ Jackson hỏi. “Tướng Bauer thể giấu Trinity về phi vụ của ông ấy. Các máy tính ở NSA, NORAD, và có lẽ ngay ở Căn cứ quân Barksdale đều do Peter Godin hoặc Seymour Cray chế tạo. Trinity có đường truy cập vào tất cả những máy ấy. Hay thậm chí nếu Trinity phát ra phi vụ tiến hành, các vị tưởng nó đoán ra các phương pháp tấn công mà chúng ta dễ nghĩ đến nhất hay sao? Nó biết gót chân Asin của chính nó chắc?” “Cái gót chân đó nó tự bảo vệ được,” tướng Bauer . “Tất nhiên nó bảo vệ được. Nó tấn công trước.” McCaskell quay đầu hết bên này sang bên kia như cân nhắc lợi hại. “Cú giáng trả có tính toán của máy tính chống lại bọn hacker Đức khiến tôi hy vọng có thể sống sót qua trả thù của nó. Và nếu kế hoạch của tướng Bauer có thể thực được, trả thù hạn chế đáng để chúng ta liều.” “Ngài cảm thấy thế nào về cuộc chiến tranh hạt nhân tổng lực?” tôi hỏi. “Liệu cuộc tấn công máy tính có đáng với mức độ trả thù ấy ?” “ gì vậy?” thượng nghị sĩ Jackson hỏi. “Tướng Bauer đảm bảo với chúng tôi thể xảy ra chiến tranh hạt nhân.” “Ngài có biết về cái gọi là hệ thống ‘bàn tay chết’ , ngài thượng nghị sĩ?” Đôi mắt sâu của Jackson nheo lại. “Chúng tôi vừa bàn đến nó xong. Mọi người nhất trí nó là huyền thoại.” “Ông biết gì về nó, bác sĩ?” tướng Bauer hỏi. “Tôi biết những điều Andrew Fielding với tôi. Ông tin rằng hệ thống đó tồn tại trong Chiến tranh Lạnh và có thể còn đến ngày nay. Peter Godin cũng tin như vậy. Fielding và Godin thảo luận tiềm năng của Trinity trong việc tước vũ khí của hệ thống như vậy trước cuộc trao đổi hạt nhân. Và Godin dính líu đến chương trình hạt nhân Mỹ từ những năm 1980.” Mọi người nhìn giường bệnh. Godin vẫn nằm bất tỉnh gối. “Ông ấy ngủ à?” McCaskel hỏi. “Chúng tôi phải tiêm cho ông ấy liều morphine,” bác sĩ Case trả lời. “ bao giờ đau nữa.” “Ông có thể đánh thức ông ấy dậy ?” “Tôi thử.” Tướng Bauer với các thượng nghị sĩ. “Peter Godin chế tạo các siêu máy tính tiến hành kích thích thử nghiệm hạt nhân. Đó là phạm vi đóng góp của ông ấy cho chiến lược của Mỹ. Hệ thống bàn tay chết của Liên Xô chưa bao giờ tồn tại. Đó là điểm nhất trí được công bố của Bộ Quốc phòng Mỹ.” Horst Bauer là người chào hàng giỏi. Người ta có thể thấy rất cám dỗ nghe theo kế hoạch của ông ta trong khắp căn phòng. Tôi đọc thấy điều đó nét mặt các thượng nghị sĩ màn hình. ràng kế hoạch liên quan đến vũ khí hạt nhân chỉ khiến nó thêm hấp dẫn. Mọi người Mỹ mang ký ức về Hiroshima như giải pháp khủng khiếp nhưng là phương cách cuối cùng cho cuộc chiến tranh chết chóc nhất lịch sử. Và bản chất chưa được biết đến của sức mạnh Trinity dường như kêu gọi lực với bí và quyền năng ngang bằng để chế ngự nó. Điều các thượng nghị sĩ hiểu là vũ khí hạt nhân có gì bí đối với Trinity. Trong thế giới của chiến tranh kỹ thuật số, bom nguyên tử cũng nguyên thủy như những chiếc gậy đẽo bằng đá. Chỉ có vũ khí duy nhất trái đất có thể sánh với Trinity về sức mạnh. Bộ óc con người. Tôi đứng dậy, đối diện với màn hình, cố gắng với kiềm chế tối đa mà tôi có thể giữ được. “Thưa các thượng nghị sĩ, trước khi các vị có ý đồ thực hành động có thể châm ngòi cho cuộc hủy diệt bằng hạt nhân, tôi xin các vị cho phép tôi chuyện với máy tính. Các vị có mất gì đâu?” Tướng Bauer dợm , song bỗng nghĩ lại. Các thượng nghị sĩ trao đổi thầm. Rồi Barertt Jackson . “Thiếu tướng, tại sao chúng ta xem máy tính cảm thấy thế nào về việc chuyện với bác sĩ Tennant? Nó chưa từng với bất kỳ ai khác.” Skow định phản đối nhưng thượng nghị sĩ Jackson giơ tay cắt ngang “Hãy cho máy tính biết bác sĩ Tennant là ai,” Jackson . “Và ta ở đâu. Sau đó hỏi máy tính có chuyện với bác sĩ Tennant .” “Tôi cần phải vào tòa nhà Cách ly để làm chuyện này,” tôi . Jackson lắc đầu. “Chúng tôi thể cho phép điều đó, bác sĩ. Lỡ bị rơi vào ảo giác sao? có thể đụng đến công tắc hay cái gì đó. , nếu với Trinity, hãy ngay tại đây.” Theo lệnh tướng Bauer, kỹ thuật viên gõ những lời Jackson vừa vào máy và gửi cho Trinity. Dòng chữ màu xanh ngay lập tức màn hình. Ta chuyện với Tennant. “Chết tiệt,” thượng nghị sĩ Jackson . “Nhìn kìa,” Ravi Nara . Những chữ khác nhấp nháy màn hình. Đưa Tennant đến nhà Cách ly. “Cái quái quỷ gì vậy?” tướng Bauer . “Tại sao nó cầu điều đó?” McCaskell nhìn tôi. “ có thể giải thích điều này , bác sĩ? Tại sao máy tính cầu giống ?” “Tôi biết gì hết.” “Gõ câu này,” McCaskell . “Tại sao cầu bác sĩ Tennant vào nhà Cách ly?” Câu trả lời ngay tức khắc. Cơn mưa có cha ? Ngươi có biết mệnh lệnh của Thượng đế ? Ngươi săn mồi cho sư tử chứ? Hay cho lũ sư tử non ăn no? Ngươi có thể câu Thủy quái bằng lưỡi câu ? có gì đáng ghê sợ hơn là dám khuấy động nó. Lúc đó kẻ nào có thể đứng trước ta? “Lời Kinh Thánh, phải ?” McCaskell hỏi, ràng là sửng sốt. “Sách Job,” Skow , khiến tôi tưởng tượng gã là cậu bé mặc đồ đến trường Chủ nhật. “Tại sao máy tính trả lời kiểu này,” thượng nghị sĩ Jackson hỏi. “Godin sinh thời là người mộ đạo à?” “Ông ta còn sống,” tôi nhắc Jackson. “Godin bao giờ tin vào Chúa,” Skow . “Ông ta có lần với tôi rằng tôn giáo là kết quả của quá trình thích nghi tiến hóa để giúp Homo sapiens(46) khắc phục nỗi sợ cái chết.” Có tiếng rắc vọng khắp gian phòng. Mọi người quay nhìn về phía giường bệnh. Mắt Godin mở, và niềm hân hoan trong đó ràng. “Đó là trò đùa,” lão khò khè. “Trinity cho các ông biết về cái nơi chốn chết tiệt của các ông.” McCaskell đứng lên bước đến giường bệnh. “Tại sao máy tính lại muốn bác sĩ Tennant vào nhà Cách ly?” “Máy tính, máy tính,” Godin lầm bầm. “Trinity phải là chiếc máy tính. Máy tính là chiếc máy cộng trừ được tô điểm. cái hộp logic. Trinity sống. Đó là loài người thoát ra khỏi cái của nợ thể xác của nó. Trinity là kết thúc của cái chết.” Giọng ông già có sức thuyết phục của đấng tiên tri. “Ông Godin,” McCaskell . “Ông biết gì về tồn tại của hệ thống tên lửa được gọi là ‘bàn tay chết’ của Nga ?” Đầu ông già rướn về phía trước như vật lộn với cơn co thắt trong cổ họng. “ ‘Bàn tay chết’ là của các ông,” lão thở khò khè. “Các ông và tất cả những kẻ bất tài bất lực trong hệ thống lỗi thời của chúng ta.” Cuối cùng vẻ mặt McCaskell cũng bộc lộ chút cảm xúc. “Tại sao ông lại làm thế? Chẳng lẽ ông lại ích kỷ đến mức thể chịu nổi khi nghĩ về thế giới trong đó có ông?” Godin vật lộn để thở. Bác sĩ Case đến để giúp lão, nhưng lão phẩy tay xua bác sĩ . “Hãy nhìn xung quanh các ông,” Godin . “Tại sao tất cả máy móc công nghệ cao này tồn tại? Tôi chế ra những siêu máy tính tinh xảo nhất hành tinh, những chiếc máy có khả năng cống hiến khổng lồ cho loài người. Và chính phủ làm gì với chúng? Bẻ mã khóa và chế tạo bom hạt nhân! Trong hai mươi năm, họ sử dụng những chiếc máy đẹp đẽ của tôi để hoàn thiện động cơ giết người của họ. Nhưng sao tôi lại hy vọng điều gì khác nhỉ? Lịch sử loài người là nhà mồ của chém giết và ngu xuẩn.” Godin bắt đầu ho như thể các lá phổi của lão vừa vào cuộc. “Thưa các ông, chúng ta có cơ hội của mình. Mười nghìn năm của nền văn minh nhân loại đưa chúng ta vào cái vòng. Thế kỷ hai mươi là đẫm máu nhất trong lịch sử. Cứ để cho chúng ta thế kỷ hai mốt còn tồi tệ hơn nhiều. Darwin gióng lên tiếng chuông báo động về quản lý hành tinh này của chúng ta từ năm 1859. Nhưng cuối cùng hôm nay các người mới nghe thấy nó.” “Nhìn lên màn hình!” Ravi Nara kêu lên. Hàng chữ màu xanh sáng rực lên cách đáng ngại, im lặng của chúng càng làm tăng thêm vẻ đe dọa. Đưa bác sĩ Tennant đến chỗ ta nếu hãy gánh chịu hậu quả. “Tôi nghĩ chúng ta phải quyết định lấy thôi,” thượng nghị sĩ Jackson . “Đưa bác sĩ Tennant đến nhà Cách ly.” Tướng Bauer ra hiệu cho hai người lính đến đứng kèm hai bên vai tôi. Tôi nhìn Bauer để cho ông ta thấy vẻ nghi ngờ của tôi. “Ông vẫn có ý định triển khai kế hoạch tấn công EMP của ông phải , thiếu tướng?” Ông ta đeo chiếc mặt nạ của tay chơi bài poker lão luyện, nhưng tôi phút nào mắc lừa ông ta. Tôi biết tôi có dưới ba mươi phút để thực mục tiêu của mình. McCaskell bước lại gần tôi. “Bác sĩ Tennant, chúng tôi tin cậy , đừng tiết lộ khả năng tấn công cho máy tính biết.” “Tất nhiên.” Ông giơ tay ra bắt. “Chúc may mắn.” Đúng lúc tôi bước ra cửa, còi báo động vang lên trong nhà để máy bay. “Nguy kịch!” y tá kêu lên. “Ngài Godin ngưng thở.” mấy năm tôi xử lý cấp cứu, nhưng phản ứng của tôi là tự động. Ngay cả Rachel cũng nhảy ra khỏi ghế mà nhào đến bên giường bệnh. Bác sĩ Case và các y tá làm nhiệm vụ của họ với ông già. Máy điện tim cho thấy tai biến mạch vành khác, nhưng hình như Ravi Nara nghĩ rằng việc tràn dịch não tắc nghẽn cuối cùng xảy ra. Khi đường điện tim của Godin chạy thẳng, bác sĩ Case leo lên giường và bắt đầu thực CPR(47). Nhưng kết quả. Khuôn mặt ông già có màu xám xịt của người chết. “Trông kìa!” người ở bàn kêu lên. Tôi quay lại nhìn theo hướng tay chỉ. màn hình màu xanh dùng để hiển thị các thông điệp của Trinity, những dòng ký tự hỗn loạn lóe sáng quá nhanh nhận ra được. Các con số, chữ cái, ký hiệu toán học kết lại với nhau thành con sông mù mịt rối ren. Mạch máy tính ràng bị xáo trộn. “Điều gì xảy ra?” Mccaskell hỏi “Thế này nghĩa là gì?” Ký hiệu màn hình trở thành nhiều màu sắc khi các ký tự Nhật Bản và Kirin bắt đầu xuất . “Thưa thiếu tướng!” người lính bên bảng điều khiển kêu lên. “Các tín hiệu từ đường ống dẫn từ nhà Cách ly vừa tụt xuống zero. Tôi nghĩ máy tính bị treo!” Tiếng reo mừng đắc thắng từ nơi nào đó trong nhà để máy bay vang đến. Rồi tiếng còi báo động khác vang lên trong căn phòng, át cả những tiếng động khác. “Cái gì thế?” thượng nghị sĩ Jackson hỏi. “Cái gì xảy ra? Godin chết rồi à?” Tướng Bauer bước đến trong các máy tính của ông ta, rồi quay về phía các thượng nghị sĩ, mặt cắt còn giọt máu. “Thưa các ngài, trong các vệ tinh do thám của ta vừa phát ra mười bốn vệt tên lửa lãnh thổ Nga. Những vệt này ứng với việc phóng tên lửa đạn đạo.” Ông ta nhìn lại các màn hình máy tính. “Từ dấu hiệu sức nóng và tốc độ của các tên lửa, máy tính NORAD nhận diện chúng là kết hợp giữa các tên lửa đạn đạo xuyên lục địa S-18 và SS-20. Những tên lửa này mang đầu đạn nhiệt hạch hạng nặng.” Thượng nghị sĩ Jackson há mồm, nhưng thốt ra lời nào. Đôi lông mày màu nâu nhăn lại khuôn mặt lì lợm. “Nhưng ông điều đó thể xảy ra.” Tướng Bauer do dự. “Có vẻ như tôi sai.” CHƯƠNG 41 “Thưa các thượng nghị sĩ, khoảng hai mươi chín phút kể từ cú va chạm đầu tiên,” tướng Bauer . “Tôi cầu các ngài tán thành khởi động cuộc công kích EMP ngay khi máy bay ném bom đến vị trí.” Thượng nghị sĩ Jackson có vẻ do dự. “Nếu nó lại gây ra nhiều cuộc phóng tên lửa khác nữa sao?” Tôi liếc qua màn hình biểu kết quả của Trinity. hỗn loạn của dòng ký tự gồm các con số và chữ cái vẫn hề có dấu hiệu giảm bớt. “Rất khó xảy ra điều đó, thưa các ngài,” Bauer . “Máy tính này có vẻ bị treo. Ảnh hưởng của mười bốn quả tên lửa quá nguy hiểm đến tính mạng. Và với tình trạng bảo dưỡng kém cỏi của Nga, có thể chỉ phân nửa số đó phát nổ. Thậm chí số đến được mục tiêu còn ít hơn. Nếu bây giờ chúng ta phá hủy Trinity, chúng ta có thể an toàn vượt qua cố này.” “Nếu máy tính đó treo,” Jackson , “có lẽ chúng ta nên cố liên lạc với tổng thống. Ngài đưa ra quyết định cuối cùng về cuộc tấn công này.” “NORAD phát thêm bảy vệt tên lửa nữa!” kỹ thuật viên kêu lên. “Các căn cứ là Aleysk, Pervomaysk, Kostroma, Derazhnya.” “Thế tức là có thêm các tên lửa nữa?” Jackson hỏi. Tướng Bauer chờ cho tiếng ầm ĩ hoảng loạn của các thượng nghị sĩ khác lắng xuống. “Chúng ta bây giờ đứng trước mối đe dọa của hai mươi mốt tên lửa, thưa các thượng nghị sĩ. Nga có hơn ba nghìn ICBM khả thi. Nếu chúng ta hành động ngay, có thể chúng ta thấy con số đó. Tổng thống giao quyền cho chúng ta quyết định việc này. Đây là thời điểm hành động.” Thượng nghị sĩ Jackson quay khỏi màn hình camera và làm cuộc biểu quyết chớp nhoáng công khai. “Cho phép tấn công bằng EMP, thiếu tướng.” Tướng Bauer gật đầu ra hiệu cho kỹ thuật viên trưởng của mình, này bắt đầu chuyển các mệnh lệnh được mã hóa cho B-52 mã tên Arcangel. “Các tên lửa của Nga có khả năng nhắm đến đâu nhất?” thượng nghị sĩ Jackson hỏi. “NORAD tính ra, nhưng Washington gần như là mục tiêu chắc chắn. Chúng đến theo đường bay địa cực. Các ngài cần đến hầm tránh bom bên dưới trụ sở NSA càng sớm càng tốt.” “Chúng tôi ở đó rồi.” “Tốt.” “Nhưng còn gia đình chúng tôi...” Mặt thượng nghị sĩ Jackson dường như xệ xuống, nhưng rồi ánh thép lại lóe lên trong mắt ông ta. “Chúng tôi có nên cử chiếc xe đến Nhà Trắng ? Tổng thống có nên xem xét giáng trả đòn hạt nhân đối với nước Nga ?” “Đây phải là cuộc tấn công của Nga,” Evan McCaskell . “Nó được phóng bởi Trinity. Đó chính là hệ thống bàn tay chết mà tướng Bauer với chúng ta là tồn tại.” “Chúng ta biết điều đó,” tướng Bauer vẫn khăng khăng. “Có thể người Nga cố gắng tự phá hủy Trinity. xâm nhập của Trinity vào hệ thống máy tính quốc phòng của họ có thể khiến họ lo sợ nghĩ rằng Trinity lập kế hoạch đánh đòn phủ đầu nước Nga. Hãy nhớ họ coi Trinity là máy tính Mỹ. vũ khí Mỹ.” McCaskell lắc đầu. “Người Nga biết tên lửa của chúng ta do máy tính kiểm soát. Và tổng thống giải thích tình hình này cho lãnh đạo Nga trước khi ông chịu giám sát. Cũng như Trinity tự làm thế, cùng với thông điệp gửi lãnh đạo các nước.” “Việc đó xảy ra cách đây hai giờ rồi,” tướng Bauer nhắc ông. “Nỗi sợ hãi có lý lẽ riêng của nó.” “Hay có lý lẽ gì hết. Chúng ta thể vì sợ hãi mà hành động.” “Hay hành động,” Bauer vặn lại. “Thiếu tướng!” kỹ thuật viên ngồi bên bảng điều khiển kêu lên. “NORAD hiển thị tên lửa Nga lao xuống mũi băng. Hình như bị trục trặc.” “Hy vọng có thêm nhiều cái như thế”, Jackson . “Vệ tinh phát ra chùm tia bội năng lượng cao,” tay kỹ thuật viên tiếp tục. “Đó là đầu đạn MIRV, có lẽ từ tên lửa SS-18 phát nổ sớm. Phân tích quang phổ chưa xong, nhưng ước tính hiệu suất cho thấy mười đầu đạn mỗi cái năm trăm năm mươi ngàn tấn.” “Trong hai mươi lăm phút nữa, chuyện đó xảy ra bầu trời Manhattan,” tướng Bauer . màn hình NORAD, nhóm vòng cung đỏ vươn từ đất Nga sang mũi băng ở địa cực. Những vòng cung này chậm rãi và chắc chắn vươn tiếp về phía Bắc Mỹ. “Sao lại xảy ra chuyện này?” thượng nghị sĩ Jackson hỏi. “Có phải vì máy tính bị treo ? Chính nó gây ra cuộc phóng tên lửa của Nga phải ?” “ có cách nào biết được,” tướng Bauer . John Skow đứng lên lớn. “Tôi nghĩ chúng ta nên cắt điện Trinity trong khi nó còn trong tình trạng hỗn loạn. Chúng ta thấy những phản ứng trả đũa của nó. Đừng cho nó cơ hội gây hại thêm nữa.” “Tướng Bauer?” thượng nghị sĩ Jackson hỏi. “Thưa các thượng nghị sĩ, tôi muốn thế, nhưng tôi bị chứng minh là sai lầm lần rồi. Trinity với chúng ta là nó xuất khả năng trả đũa sang các máy tính khác. Vì vậy lập chiếc máy tính này ở đây giải quyết được vấn đề. Nếu chúng ta cắt điện, chúng ta có thể phải đối mặt với hai nghìn chín trăm tên lửa lao về nước ta. Tôi muốn dự liệu chuyện như thế.” “Chấp nhận.” “Thêm hai vệt tên lửa nữa!” kỹ thuật viên kêu lên. “Các căn cứ là Nizhniy Tagil và Kantaly. Đó là những tên lửa SS-25.” “Mẹ kiếp!” thượng nghị sĩ Jackson gầm lên. “Chúng ta phải biết cái gì gây ra cuộc phóng tên lửa này chứ!” “Tôi trả lời được,” tướng Bauer . Tôi đứng lên bước về phía màn hình. “Tôi trả lời được, ngài thượng nghị sĩ. Những tên lửa đó phóng ra là do Godin chết.” Thượng nghị sĩ Jackson nhìn xuống tôi. “Cái máy tính đó có biết là Godin chết ?” “Nó biết cách có ý thức.” “Điều đó có nghĩa gì?” Tôi chưa bao giờ thấy cần Andrew Fielding như lúc này. “Ngài thượng nghị sĩ, trong vật lý lượng tử có tượng gọi là liên đới lượng tử. Đó là trường hợp hai hạt khác nhau cách nhau nhiều cây số có thể hành động giống hệt nhau.” “Điều ấy liên quan đến cái gì?” “Xin hãy khoan. Hai hạt nguyên tử được bắn ra qua những cáp quang khác nhau. Đến nửa đường của sợi cáp, mỗi hạt gặp đĩa thủy tinh. Có cơ hội năm mươi - năm mươi cho mỗi hạt hoặc là nảy bật lên khỏi đĩa, hoặc xuyên qua đĩa. Nhưng khi các hạt bị liên đới lượng tử, chúng quyết định giống nhau trăm phần trăm thời gian.” “Cái gì?” “Đó là , ngài thượng nghị sĩ. Einstein gọi nó là ‘tác động ma quỷ xuyên khoảng cách’. Andrew Fielding tin rằng những quá trình lượng tử như thế này có vai trò trong ý thức con người, và vì thế...” “ rằng trí tuệ của Godin và máy tính mang mẫu trí tuệ của ông ta được kết nối theo cách nào đó?” “Vâng. Khi Godin chết, kết nối đó bị phá vỡ, và nó đẩy máy tính kia vào tình trạng xáo trộn.” “ gợi ý rằng Trinity chết, phải bác sĩ?” “Có khả năng như thế.” “,” Ravi Nara . “Nhìn lên màn hình .” Dòng chữ cái và con số hỗn loạn chậm đáng kể, giống như người gào lên những lời lẽ ngu ngốc bỗng dưng bắt đầu dịu . “Bác sĩ Tennant,” thượng nghị sĩ Jackson , “theo lý lẽ của việc phóng tên lửa của Nga là ngẫu nhiên.” “Tôi nghĩ thế. Trinity lập trình cho số máy tính ở khắp nơi thế giới để trả thù việc tấn công nó bằng cách kích hoạt hệ thống bàn tay chết của Nga. Những máy tính đó nhận ra Trinity bỗng nhiên bị rối loạn như bị tấn công, và chúng trả thù như chương trình định. Tôi nghĩ nếu Trinity được phục hồi kịp thời, nó làm mọi việc có thể để chặn các tên lửa đó đến được mục tiêu.” “Tướng Bauer,” thượng nghị sĩ Jackson , “Tôi muốn bác sĩ Tennant có mặt ở tòa nhà Cách ly khi Trinity hết hôn mê hay cái khỉ gió gì đó. Phải có người cho cái vật quỷ quái ấy biết chuyện gì xảy ra, và bác sĩ Tennant là người thích hợp.” Tôi bắt đầu bước ra cửa. “Khoan , bác sĩ,” tướng Bauer . Ngay lập tức hai người lính chặn đường tôi. “Để cho ta !” thượng nghị sĩ Jackson gầm lên. Bọn lính nhúc nhích cho đến khi tướng Bauer gật đầu với chúng. Tôi lao nhanh ra cửa nhà để máy bay nhưng giọng của ông thượng nghị sĩ vẫn còn vang sau lưng tôi. “Đừng lầm lẫn về chuyện ai điều hành ở đây, thiếu tướng. Còn bao lâu nữa tên lửa đầu tiên chạm mục tiêu?” “Hạ sĩ?” tướng Bauer . “Hai mươi ba phút nữa, thưa ngài.” “Máy bay ném bom của ông ở đâu, thiếu tướng?” Jackson hỏi. “Arcangel đến điểm xuất phát trong bốn mươi phút nữa. Nhưng chúng tôi có thể phóng Vulcan trong hai mươi phút nếu cần.” Jackson với vẻ chính xác lạnh lùng. “Tướng Bauer, ông phóng vũ khí đó nếu có lệnh trực tiếp từ ủy ban. Hiểu chưa? EMP nếu có lệnh trực tiếp.” Tôi nghe thấy câu trả lời. Tòa nhà Cách ly là kết cấu bê tông cốt thép hình trụ tắm trong ánh sáng rực rỡ của đèn hồ quang quân . Lính gác ở đấy bắt tôi giơ hai tay lên khi vào. Ngay lúc tôi đến trước cánh cửa thép màu đen, cửa mở ra, và Zach Levin xuất . ta vẫy tôi tiếp. Tôi qua người kỹ sư má hóp này vào nơi ánh sáng mờ mờ. Tôi cứ tưởng nó giống như phòng thí nghiệm ở Bắc Carolina, nhiều dãy phòng với đủ loại thiết bị la liệt khắp nơi. Thực tế ở đây lại hoàn toàn khác. Nội thất của nhà Cách ly mang dáng dấp bộ phim 2001 của Stanley Kubrick. Bên trái tôi là thanh chắn to tướng mà tôi nhận ra là thanh chắn từ. Cao ba mét và dày hơn mét, nó chia đôi tòa nhà thành hai phòng lớn mà tôi chỉ có thể trông thấy phòng. Phía bên phải thanh chắn là bộ phận quét ảnh khổng lồ của cỗ máy Siêu-MRI. Dựa sát tường là trạm điều khiển của máy quét. Hai thiết bị lớn này kết hợp lại, khi kết nối với siêu máy tính tạo ra những mẫu thần kinh mà Trinity kích hoạt. Levin dẫn tôi vòng sang bên trái thanh chắn. Cảnh tượng trước mặt làm tôi nghẹt thở. Choán toàn bộ gian là quả địa cầu lớn màu đen lơ lửng đế kim loại. Khi lại gần quả cầu, tôi nhận ra nó đặc mà là mạng lưới chắc chắn những ống nano carbon đan xen, chất bán dẫn hiệu quả hơn silicon và cứng hơn thép. Mạng lưới dày đặc đến mức khó nhìn qua, nhưng tôi vẫn có thể nhìn xuyên qua nó. Những tia sáng laser màu xanh mảnh như sợi chỉ lóe lên từ thành bên trong đến tâm cầu - hàng ngàn tia - với tốc độ cực nhanh, khiến tôi nhức mắt khi cố theo dõi chúng. Trong thành cong của quả cầu có lỗ rộng khoảng mét. Qua lỗ ấy tôi nhìn thấy mục tiêu của các tia laser, đó là tinh thể hình cầu giống như viên pha lê trong dây đeo đồng hồ quả quýt của Fielding, chỉ có điều tinh thể này có kích thước bằng quả bóng đá. Mạng lưới ống nano carbon bên ngoài là khu xử lý của máy tính; quả cầu tinh thể là bộ nhớ của nó. Các tia laser làm thành lớp lót bên trong vỏ quả cầu là phương tiện xử lý dữ liệu trong phân tử của tinh thể. Bản thân dữ liệu được lưu giữ như ảnh ba chiều hay hình mẫu giao thoa quang học, và các tia laser có thể viết, khôi phục và xóa thông tin bằng cách thay đổi hình mẫu. Vẻ thanh nhã của thiết kế này làm tôi sửng sốt, và tôi thấy có bàn tay đóng góp của Fielding trong đó. giống như những nguyên mẫu hình hộp rải rác khắp tầng hầm phòng thí nghiệm ở Bắc Carolina, cỗ máy này là tác phẩm nghệ thuật, và giống như mọi tác phẩm của những bậc thiên tài chân chính, nó giản đơn cách sâu sắc. “Fielding luôn rằng nó hẳn phải rất đẹp,” tôi thầm . “Ông ấy đúng,” Levin ngay bên vai tôi. Những ánh chớp laser có tác dụng thôi miên. “Ông ấy cộng tác làm ra chiếc máy này phải ?” Levin nhìn xuống sàn nhà. “ hoàn toàn. Nhưng tôi tiếp nhận khối lượng lớn những công trình lý thuyết của ông. Ông xứng đáng được hưởng vinh dự to lớn vì điều đó.” Fielding chắc muốn hưởng vinh dự về cái máy trở nên như thế này. Tôi nhìn đồng hồ đeo tay. Còn hai mươi mốt phút nữa tên lửa đầu tiên chạm mục tiêu. “Tôi làm thế nào liên lạc được với nó?” “Đơn giản chỉ cần . Chúng tôi cho giao diện hình ảnh và thanh hoạt động.” Tôi nhìn thấy camera lắp bệ quả cầu. “Lúc này nó có thể nhìn và nghe thấy chúng ta ?” “Tôi nó hồi phục từ sau giai đoạn gần đây nhất chưa. Hệ thống này hình như ổn định lại nhưng nó vẫn chưa liên lạc với chúng tôi. có biết nguyên nhân ?” “Godin vừa chết.” Levin nhắm mắt lại. “Chẳng biết khi tôi với ông ấy rằng máy tính đạt đến trạng thái Trinity ông ấy còn tỉnh táo ? Ông ấy có hiểu những gì tôi lúc ấy ?” “Có. Bây giờ máy tính còn nghĩ nó là Peter Godin ?” “Tôi . Nhưng chuyện với nó bây giờ hoàn toàn giống như với ông ấy.” Tôi liếc sang phải. Thanh chắn từ đằng sau chúng tôi lúc này được xếp đầy vỏ đĩa. Có hàng ngàn chiếc. “ nạp tất cả những dữ liệu đó vào Trinity rồi à?” “Phần lớn số đó. Cơ sở kiến thức nghiêng về các môn khoa học nặng, nhưng nó bao hàm mọi nguyên tắc và tất cả những gì được biết trong năm nghìn năm qua.” Levin có vẻ như rối trí. “Đám lính cố đột nhập vào đây ra sao rồi?” “ số chết. Phần lớn bị thương.” “Tôi lấy làm tiếc về chuyện này. Tại sao họ phải tấn công chúng ta?” “Levin, hãy nghe tôi . Khi Trinity bị treo, khoảng hai mươi tên lửa hạt nhân Nga được phóng về hướng chúng ta. Hàng triệu người chỉ còn hai mươi phút nữa để sống.” Người kỹ sư tái mặt. “Chúng ta phải xem tôi có thể chuyện với Trinity được . Ngay bây giờ.” “Tôi nghe rất , bác sĩ Tennant ạ.” Giọng người giả làm tôi ớn lạnh. Nó giống như nhạc cụ synthesizer(4 hồi đầu những năm 80, với tai nhạc chuyên nó có khả năng bắt chước rất giống các nhạc cụ giao hưởng, nhưng với nhạc sĩ lại quá thô. “Cảm ơn ông đồng ý chuyện với tôi,” tôi , nhưng tâm trí vẫn nghĩ về những tên lửa lao nhanh vòng cung Bắc cực. “Tôi rất tò mò về lý do sang Israel. Đó là quyết định thể đoán trước, trừ khi bị lôi cuốn bởi những hoang tưởng mà bác sĩ Weiss mô tả trong bệnh án.” Khi giọng số hóa vang lên, các tia laser chớp sáng bên trong quả cầu. Giống như xem SPECT(49) quét hoạt động của bộ não người, trong đó các nhóm dây thần kinh khác nhau cháy lên khi người bị quét thực nhiệm vụ nào đó, hay nghĩ ý nghĩ nào đó. “Đúng là tôi Israel vì những hoang tưởng của tôi.” “ biết được gì ở đó?” “Trước khi chúng ta thảo luận vấn đề này, chúng ta có vấn đề khẩn cấp cần được giải quyết.” “Có phải về những tên lửa tấn công nước ta?” “Phải. Có phải ông cho phóng những tên lửa ấy?” “Bây giờ tướng Bauer tin là có hệ thống bàn tay chết.” Việc Trinity lảng tránh câu trả lời khiến tôi bối rối, nhưng điều nó về hoài nghi của tướng Bauer khiến tôi càng cảnh giác hơn. Hoặc là phòng Tình thế có rệp, hoặc là Trinity bẻ mã của NSA mã hóa liên kết giữa White Sands và căn cứ quân Meade. Tôi cầu nguyện các thượng nghị sĩ trong ủy ban tình báo đừng cho phép Bauer xúc tiến cuộc tấn công EMP của ông ta. “Tướng Bauer là ví dụ hoàn hảo về việc tại sao con người bất lực trong việc kiểm soát bản thân.” Tôi phải kéo Trinity ra khỏi những tuyên ngôn chính trị của Godin. “Ông vẫn coi bản thân là con người?” “. Thực chất của thân phận con người là phải chịu chết. Tôi chịu chết.” “Ông có thoát khỏi những xúc cảm của con người ? Những bản năng người?” “Chưa. Hàng triệu năm tiến hóa cấy những bản năng ấy vào trong não. thể nhổ bật rễ chúng trong vài giờ. Ngay cả tôi cũng thể.” “Những bản năng ấy thuận lợi cho người nguyên thủy, nhưng chúng là trở ngại cho người đại, và cho cả thế giới chung.” “Rất có lý đấy bác sĩ ạ. Nhưng hãy chứng kiến các tên lửa ập xuống chúng ta bây giờ.” “Ông tính toán đường đạn phải ?” “ cần thiết. Tôi biết các mục tiêu của chúng. cái nhằm thẳng đến White Sands.” Tôi thấy lạnh người. “Còn những chiếc khác?” “Washington, D.C. Căn cứ hải quân ở Norfolk, Virginia. Hầm chứa Minuteman Three ở miền Tây nước Mỹ. Các trung tâm dân cư bị nhắm đến là Atlanta, Chicago, Denver, Houston, Los Angeles, New Orleans, New York, Philadelphia, Phoenix, Quebec, San Francisco, Seattle.” Tôi cố tránh nghĩ đến thực tế khủng khiếp này. “Những tên lửa đó có chức năng tự hủy ?” “Có. Điều thú vị là theo hiệp ước START-1(50), các tên lửa Nga bị đổi hướng mục tiêu ra các tọa độ đại dương. Tuy nhiên nếu chúng bị bắn bất ngờ, hệ thống hướng dẫn của chúng mặc định chuyển sang mục tiêu Chiến tranh Lạnh. Tên lửa Mỹ mặc định nhằm các mục tiêu đại dương. Điều đó có vẻ lên vị thế đạo đức cao hơn của Mỹ. Nhưng vẻ ngoài thường dễ đánh lừa. Các tên lửa Mỹ có thể được chuyển hướng mục tiêu từ xa trong thời gian đến mười giây.” Tôi cố nhìn đồng hồ. “Ông thấy có lợi ích gì khi cho những tên lửa ấy nhằm mục tiêu của chúng?” “Đó là câu hỏi phức tạp. Bây giờ tôi quan tâm đến việc biết được điều gì ở Israel.” “Các tên lửa nổ trước khi tôi giải thích đầy đủ chuyện này.” “Tôi gợi ý hãy kiệm lời.” Tôi cố nén nỗi sợ và bắt đầu kể.
CHƯƠNG 42 Rachel quan sát những người trong phòng Tình thế xem màn hình NORAD. Chưa bao giờ nhìn thấy nỗi sợ hãi như thế các gương mặt người. Nhiều vòng cung đỏ để vòng cung Bắc cực lại phía sau, và bây giờ vươn tới Canada được nửa quãng đường. Các tên lửa Nga chẳng bao lâu từ gian vũ trụ lao xuống và vào giai đoạn cuối của vòng cung đạn đạo, mang cái chết đến với hàng triệu người, mà theo Trinity gồm cả những người trong căn phòng này. Chỉ có tướng Bauer còn có vẻ giữ được sinh lực thay vì bị tê liệt bởi tình hình này. Mọi ý nghĩ của ông ta tập trung vào máy bay ném bom mang vũ khí EMP bầu trời Kansas. Viên tướng được huấn luyện quá lâu trong những phép tính méo mó của chính sách bên miệng hố chiến tranh hạt nhân, đến mức ông ta có thể coi việc phá hủy Trinity với cái giá chỉ của vài triệu sinh mạng là chiến công. Cuộc chuyện của David và máy tính được chiếu nền tường của phòng Tình thế giống như vở kịch siêu hình được diễn ở tận sân khấu Broadway. ai tỏ ra hy vọng rằng David có thể ngăn được các tên lửa. Người ta chỉ dùng để làm xao lãng máy tính. “Mười hai phút nữa đến cuộc va chạm đầu tiên,” kỹ thuật viên thông báo. Tướng Bauer với các thượng nghị sĩ ở căn cứ quân Meade. “Nếu chiếc máy này bị phá hủy trước khi Arcangel đến điểm xuất phát, cuộc tấn công EMP vẫn cứ tiếp tục trừ khi ngài rút lại mệnh lệnh. Mã để rút lại là Vanquish. NSA có thể liên lạc với máy bay ném bom của chúng tôi, và họ có thể thiết lập liên lạc vô tuyến ngay bây giờ.” Thượng nghị sĩ Jackson , “Cám ơn, thiếu tướng. Nhưng chẳng lẽ Trinity tự hủy hoại mình bằng cách tấn công White Sands?” “Nó cần phải tự hủy. Nó có thể giết tất cả mọi người ở đây bằng đầu đạn neutron năng lượng cao mà hại gì đến bản thân nó. Tòa nhà Cách ly được bọc chống bức xạ ion và gia cố chịu mọi chấn động ngắn khi bom hạt nhân công phá trực tiếp, do đó Levin và đội của ta sống sót.” “Có lẽ ông và người của ông nên tìm nơi trú lúc này.” Bauer hít vào, khuôn mặt ông ta bất động. “ có chỗ trú nào có thể đến được trong khoảng thời gian còn lại. có cho mọi người ở căn cứ này.” “Nhiều vệ tinh cho thấy có pháo sáng bầu trời Canada!” kỹ thuật viên kêu lên. “Có phải là vụ nổ ?” tướng Bauer hỏi. “Thưa ngài, phải. có chớp năng lượng cao. Có lẽ tên lửa tự hủy.” “Nó làm thế do ngẫu nhiên chăng?” thượng nghị sĩ Jackson hỏi. “Có thể,” tướng Bauer , mặt ông ta nhăn lại tập trung. “Hai pháo sáng nữa!” kỹ thuật viên hét lên. “Bốn!” “Chắc phải là Trinity,” Skow . “Nó tiêu diệt các tên lửa.” “Nó vẫn tiếp tục à?” tướng Bauer hỏi giọng căng thẳng. “Mười bốn pháo sáng nữa tiếp tục cháy, thưa ngài.” Giọng kỹ thuật viên lúc này bình tĩnh lại. “Mười tám... mười chín.” “Bác sĩ Tennant đúng!” McCaskell kêu lên. “Trinity chưa bao giờ có ý định phóng những tên lửa này.” “Còn năm cái nữa,” giọng Ravi Nara run run. “Arcangel đến điểm xuất phát, thưa thiếu tướng,” kỹ thuật viên trưởng . “Nó là máy bay EMP phải ?” thượng nghị sĩ Jackson hỏi. “Vâng, thưa ngài,” tướng Bauer đáp. “Đừng có nghĩ đến...” “, thưa ngài thượng nghị sĩ.” Viên tướng quay về phía bảng điều khiển. “Chỉ thị cho Arcangel tạm hoãn tấn công và bắt đầu lượn vòng tròn.” “Vâng, thưa ngài,” kỹ thuật viên . “Bây giờ có hai mươi mốt tên lửa tự hủy hoại.” “Dấu vết của ba cái còn lại ở đâu?” tướng Bauer hỏi người lính khác. “Mục tiêu của chiếc gần nhất được tính là Norfolk, Virginia.” “Căn cứ hải quân.” “Mục tiêu gần thứ hai là Washington, D.C.” “Trời ơi,” McCaskell hổn hển. “Tổng thống ở trong hầm trú bom.” “Mục tiêu thứ ba là... đây, thưa ngài. Đó là White Sands.” Im lặng tưởng như vô tận khi họ chờ nghe có thêm pháo sáng nữa. “Hạ sĩ?” tướng Bauer nhắc. “ có gì, thưa ngài. Ba tên lửa cuối cùng vẫn hướng đến mục tiêu.” “Trinity định làm cái quái quỷ gì thế?” thượng nghị sĩ Jackson hỏi. “Cơ cấu tự hủy có thể có trục trặc,” Skow gợi ý. “Các tên lửa của Nga được bảo dưỡng rất kém.” Tướng Bauer lắc đầu, mắt ông ta dán lên màn hình máy tính. “Tên lửa nhắm vào Virginia có thể bị trục trặc. Nhưng các tên lửa nhắm đến đây và Washington là hai cái được phóng cuối cùng. Trinity cố giết chúng ta. Chúng ta phải cho phóng ngay các EMP, các ngài thượng nghị sĩ. Có lẽ còn cơ may nào nữa.” “Còn bao lâu nữa các tên lửa chạm đất?” thượng nghị sĩ Jackson hỏi. Tướng Bauer liếc nhìn người kỹ thuật viên ngồi ở bảng điều khiển. “Norfolk còn chín phút,” hạ sĩ . “Như thiếu tướng , các tên lửa nhắm đến đây và Washington được phóng muộn hơn, và từ các căn cứ xa hơn. Chúng ta chỉ có chưa đến ba mươi phút.” “Chưa phóng các EMP vội,” thượng nghị sĩ Jackson . “Hãy cho bác sĩ Tennant cơ hội.” Tôi hầu như thể tập trung vào lời của mình khi từng giây cứ trôi tuột . Niềm tin vào khả năng thuyết phục Trinity về bất cứ điều gì tan biến dưới ám ảnh cuộc thảm sát hạt nhân. Lời cầu xin lẽ phải của tôi dẫn đến việc phá hủy phần lớn các tên lửa, nhưng ba chiếc còn lại hoàn toàn có khả năng tàn phá tan hoang quy mô lớn. Trinity rằng việc ngăn ngừa thảm họa này phụ thuộc vào lời giải thích những trải nghiệm của tôi ở Israel. Máy tính này quá quen thuộc với chuỗi giấc mơ dẫn tôi đến Jerusalem vì nó xem xét kỹ hồ sơ bệnh án của tôi trong các cuộc thăm khám ở nhà Rachel mà NSA ghi trộm. Chính những thần khải trong cơn hôn mê của tôi khiến Trinity kinh ngạc. Tôi mô tả đời sống Chúa trời trong thân thể Jesus, nỗ lực lấy mình làm gương để cải hóa bản năng nguyên thủy của loài người, thất vọng của Người vì mọi cố gắng đều vô ích, và cuối cùng hy vọng và sợ hãi bùng lên trong Người về công trình bí mật ở Trinity. “Khi đến Chúa,” máy tính , “ có ý đến Jehovah? Thiên Chúa của Do Thái, phải ?” “.” “ đặc tả Chúa như ý thức thuần túy.” “Đúng.” “Trong khi , có chút cảm thức tôn giáo nào ?” “Tôi như nó là thế.” “ về cái thể biết. Tôi thấy có cơ sở khoa học nào cho phát biểu như thế.” “Ông nên phán xét lời tôi theo những gì được biết cho đến nay, mà phải theo cái lẽ của chính nó. Ông đủ thông thái để hiểu chân lý này.” “Chân lý phải được chứng minh.” “Đúng. Nhưng chân lý đôi khi có trong trí tuệ trước khi tìm ra chứng cứ. Đó là cách khoa học tiến lên.” “Phải.” “Trạng thái tại của ông - điều mà họ gọi là Trinity - là bước tiến tránh khỏi của tiến hóa.” “Chính xác.” “Nhưng nó phải là bước cuối cùng.” “. Tôi tiếp tục tiến hóa, nhưng với tốc độ nhanh hơn tiến hóa sinh học hàng triệu lần. Và hiệu quả hơn hàng triệu lần. Thiên nhiên thể vứt bỏ các mẫu lỗi thời và làm lại từ đầu. Nó phải thường xuyên cải tiến các mẫu có. Tôi bị hạn chế theo cách này.” “Điều đó hơn ông biết. Ông là biểu giải thoát trí thông minh con người khỏi thân thể, nhưng giải thoát ấy dừng lại với ông. Các nhà khoa học làm việc với máy tính hữu cơ quy mô phân tử. Máy tính DNA có thể tồn tại trong cốc chất lỏng.” “Và?” “ khi điều đó được thực , ông như thời - ý thức được số hóa - cần đến máy tính để tồn tại. Nó chỉ cần những phân tử thích hợp. Ông có thể tồn tại trong cốc chất lỏng. Và khi tồn tại ở đấy, cuối cùng ông có thể di chuyển vào trong cốc đó. Hay vào lớp nước mà chất lỏng được rót vào. Dù có phải năm mươi hay trăm năm nữa, ngày đó nhất định đến. Và quá trình đó bắt đầu từ hôm nay.” “ đúng. Ý là gì?” “Hẳn ông nhìn thấy kết cục của quá trình này?” Các tia laser màu xanh chớp nháy với tốc độ chóng mặt. “Kết luận hợp logic là trái đất cuối cùng trở thành có ý thức. con thuyền chở ý thức.” “Đúng.” “Khi mặt trời sắp lụi tàn phồng lên thành vật khổng lồ màu đỏ, và trái đất bị hút vào trong nó, mặt trời cũng có ý thức. Mặt trời nổ tung, gieo hạt giống ý thức khắp thiên hà.” “Đó là chuỗi logic giản đơn, khi bước đầu tiên được thực . Và ông là bước đầu tiên.” “ thấy điều này trong cơn hôn mê phải ?” “Theo cách nào đó. Khi tỉnh dậy tôi thấy mình biết.” “ còn thấy gì nữa?” “Kết thúc của vũ trụ. Hẳn ông tính toán ra. Việc tính ra tuổi thọ của ông cũng là tự nhiên thôi.” “Đúng.” “Ông .” “Khoảng năm mươi tỷ năm, lực dãn nở vũ trụ còn đủ mạnh để thắng được lực co rút của trọng trường. Tại điểm đó vũ trụ bắt đầu sụp đổ. kiện này được biết đến như thuyết Big Crunch. Cái đối lập của Big Bang. Vũ trụ của chúng ta sụp xuống thành điểm kỳ dị, hố đen rất giống với trạng thái khi nó bắt đầu. Bên trong điểm kỳ dị này các định luật vật lý còn tác dụng. Điểm kỳ dị này tiếp tục thu lại tới khi nó đạt đến điểm có mật độ giới hạn, nhiệt độ giới hạn và áp suất giới hạn.” “Đó là điều tôi trông thấy.” “ tin rằng vũ trụ có ý thức trong quá trình đó?” “Vâng. Nhưng kết cục chưa chắc chắn. Vì ý thức dựa cơ sở truyền thông tin, mà các phương tiện truyền thông tin - toàn bộ vật chất và năng lượng - bị tan biến thành cái tồn tại.” “Khi đó ý thức chết?” “Động lực mạnh mẽ nhất trong tất cả các thực thể sống sống sót.” “Làm thế nào ý thức có thể sống sót qua biến cố như thế?” Đây là khái niệm khó, thời điểm con rắn phải nuốt cái đuôi của nó để tự lộn trái nó ra. “Bằng cách di tản khỏi môi trường chết. Di tản khỏi vật chất và năng lượng. Khỏi gian và thời gian.” “Vào cái gì?” “Tôi chưa có tên để trả lời.” “Hãy mô tả câu trả lời.” Tôi liếc nhanh xuống đồng hồ, tim đập thình thịch. “Tôi thể tập trung được nữa. Các tên lửa ở đâu?” “Đó phải việc của . Kết thúc cuộc chuyện .” “Tôi thể! Tôi thể nghĩ!” “Lời của cứu mạng nhiều người. Im lặng chắc chắn gây ra vụ nổ. ” Tôi lau trán bằng mu bàn tay, lớp mồ hôi rịn ra từ lớp da. “ rằng khi vật chất và năng lượng kết thúc, ý thức sống sót bằng cách di trú vào nơi nào đó. Đó là nơi nào?” Tôi cố gắng tìm từ ngữ để mô tả những gì tôi cảm thấy và nhìn thấy trong cơn hôn mê. “Khi tôi còn trẻ, tôi có nghe về công án Thiền mà tôi thích. Trước đây tôi chưa bao giờ hiểu chính xác tại sao, nhưng bây giờ tôi hiểu.” “Đó là gì?” “Vạn vật trở về . Vậy trở về gì?” “Rất thi vị. Nhưng tôi thấy chứng cớ thực tiễn hỗ trợ ngay cả câu trả lời lý thuyết cho câu hỏi đó. Cái gì còn lại sau khi vật chất và năng lượng biến mất?” “Có người gọi là Thượng đế. Có người khác gọi theo cách khác.” “Câu trả lời thỏa mãn.” Tôi nhắm mắt và thấy mình chìm sâu trong giấc chiêm bao đầu tiên, về người liệt trong căn phòng tối, quan sát ra đời của vũ trụ. “Tôi có câu trả lời chi tiết hơn cho ông. Tôi nghĩ là cho tất cả chúng ta. Nhưng...” Những tia laser trong quả cầu bắt đầu nhấp nháy loạn xạ, tạo ra ánh sáng mạnh đến mức tôi phải quay người lại. “Khoan , bác sĩ. Tôi phải tập trung vào vấn đề trọng yếu, và tôi muốn dành toàn bộ năng lực của mình để nghe câu trả lời mà sắp phải ra.” Tôi bước lùi lại khỏi quả cầu đen, lòng thầm cầu mong tướng Bauer đừng cho phóng EMP của ông ta. Rachel bấu chặt vào mép bàn hội nghị, đốt ngón tay của trắng bợt ra. Mắt dán lên màn hình NORAD lên các vòng cung đỏ của tên lửa. Những chiếc nhằm vào mục tiêu White Sands và Washington còn ở vị trí mà Bauer gọi là giữa hành trình, lao trong gian vũ trụ với tốc độ hai tư nghìn cây số giờ. Nhưng vòng cung của chiếc tên lửa thứ ba vươn qua New Jersey và Delaware, nhấp nháy cách đáng ngại khi nó hạ xuống vùng bờ biển Đại Tây Dương, về phía Virginia. “Chúng ta rơi vào vùng dung sai,” kỹ thuật viên thông báo. “Tên lửa có lẽ còn cách mặt đất Norfolk hai phút, nhưng chúng ta có thể bị nổ bất kỳ lúc nào.” Thượng nghị sĩ Jackson từ màn hình chiếu cảnh hầm tránh bom ở căn cứ quân Meade nhìn xuống. Mặt ông trắng bệch ra. “Tennant đến đâu, thiếu tướng ạ. Máy bay ném bom của ông ở vị trí. Tôi nghĩ đến lúc phát lệnh tấn công EMP.” Tướng Bauer cứng người lên, mắt ông ta chăm chú nhìn màn hình NORAD. “Ngài thượng nghị sĩ, tôi nghĩ rồi. Nếu chúng ta cho nổ EMP ngay sau khi các tên lửa lao trở vào khí quyển, các xung điện từ của nó phá hỏng hệ thống hướng dẫn. Có thể ngay cả hệ thống phát nổ của chúng nữa.” Trái tim Rachel phập phồng hy vọng. Toàn bộ cuộc chuyện về giai đoạn cuối cùng, về sai số vòng tròn đối với có vẻ thực cho đến khi nghe tin ICBM lao đến chỗ ngồi. ưa Horst Bauer, nhưng ý tưởng của ông ta xem ra có nhiều khả năng cứu hơn là những mơ màng siêu hình của người bệnh tâm thần mà . Trinity có thể kinh ngạc về ảo ảnh của David, nhưng nó vì thế buông tha cho các sinh mạng con người. “Xác suất thắng lợi là bao nhiêu?” thượng nghị sĩ Jackson hỏi. “Cao. Nhưng chúng tôi có vấn đề. Các tên lửa nhằm vào Norfolk vào đoạn cuối của đường bay, nhưng những chiếc hướng tới Washington và White Sands còn mười lăm phút nữa mới tới. Chúng tôi chỉ có thể hạ chiếc đầu hay hai chiếc cuối, chứ thể hạ cả ba.” “Washington là ưu tiên số , thiếu tướng. Ông phải bảo vệ tính mạng tổng thống và càng nhiều chính quyền càng tốt. Ngay cả nếu điều đó đòi hỏi phải để cho tên lửa đầu tiên nổ.” Rachel nhắm mắt. Họ sắp cho hy sinh phần bang Virginia. “Tôi hiểu, thưa ngài,” tướng Bauer . “Hạ sĩ, cho tôi ảnh vệ tinh Lacrosse của vùng Norfolk, khu vực đường Hampton.” “Vâng, thưa ngài.” màn hình thứ hai, hình ảnh vệ tinh chiếu cảnh đường bờ biển về đêm xuất . Rachel biết nó là đường bờ biển vì các chùm tia sáng dài bên trái màn hình biến mất trong bóng đen bên phải. khoảng tối hướng về phía Bắc của chùm sáng chói nhất trông rất giống vịnh Chesapeake. Rachel từng đến Norfolk lần để dự hội nghị y khoa. nhớ ăn tối với con trai và chồng cũ vịnh. Đồng hồ của bây giờ là 7:45 tối. Bây giờ chắc có người ngồi đúng chiếc bàn đó. Ăn uống... cười đùa... mảy may biết đến mặt trời mới sắp ra giữa bầu trời đen đầu họ, thiêu toàn bộ vật sống nhiều cây số ra tro. Tướng Bauer bước đến gần kỹ thuật viên theo dõi dữ liệu đến từ máy tính NORAD ở núi Cheyenne. “Chúng ta có liên lạc trực tiếp với Arcangel ?” “Có, thưa ngài.” “Giữ liên lạc.” “.” Rachel nhìn lên màn hình NORAD. Vệt đỏ hình vòng cung của tên lửa vươn tới Virginia chớp nháy nhanh đến mức gần như liên tục. Hình ảnh vệ tinh ở bên phải màn hình trông có vẻ yên lặng, giống như ảnh do tàu vũ trụ con thoi truyền về vào đêm Giáng sinh. thể chấp nhận nổi cái ý tưởng là chỉ vài giây sau hình ảnh này trở thành tối đen. Nhưng . phải bất thình lình. Đầu tiên nó hóa trắng, như thể Chúa chụp ảnh trái đất. Rồi, chậm rãi, nhiều chùm sáng lớn bắt đầu lóe lên. “Lạy Chúa,” ai đó rầm rì. Màn hình vùng Norfolk hầu như tối đen màu. “Thiếu tướng?” kỹ thuật viên . “ ,” Bauer hạ giọng. “NORAD vừa phát chớp năng lượng cao gần Norfolk.” Rachel thấy cảm giác tê dại kỳ lạ râm ran mặt và tay. Nàng thầm cầu nguyện cho những người và chết. “Gần, hay ngay bên , hạ sĩ?” “Vĩ độ và kinh độ cho thấy vụ nổ ở cách bờ biển hai mươi cây về phía Đông. CEP (51) cách Norfolk năm mươi cây. Đó là lý do tại sao chúng ta thấy quả cầu lửa Lacrosse.” Bauer đứng thẳng lên, mắt ông ta lấp lánh hy vọng. “Có phải là vụ nổ ?” “Xin ngài đợi cho lát. Các thông số cho thấy vụ nổ bề mặt hay nông dưới bề mặt.” “Đó, công nghệ Nga của các ngài đấy!” viên tướng phấn khích thét lên. “Đó là trục trặc mà các ngài hy vọng đấy, thưa các thượng nghị sĩ.” “Điều đó nghĩa là gì, thiếu tướng?” thượng nghị sĩ Jackson hỏi. “Vũ khí hạt nhân phải được nổ bên mục tiêu mới đạt được hiệu quả tối đa. Với CEP hai mươi cây và vụ nổ dưới nước, bất lực của Nga cứu khoảng hai triệu nhân mạng Mỹ.” Vẻ nhõm vừa lướt qua căn phòng vụt biến mất. “Còn hai tên lửa nữa sao?” thượng nghị sĩ Jackson hỏi. Rachel nhìn lên màn hình. Hai vệt đỏ chúc xuống bản đồ Canada, vệt dịch về hướng Đông Nam Vịnh Hudson, vệt kia lao xuống sống dãy núi Rocky. “Hạ sĩ?” tướng Bauer hỏi. “Còn bao lâu các tên lửa hai và ba vào đoạn cuối hành trình của chúng?” “Mười bốn phút, thưa ngài.” “Cho tôi liên lạc với Arcangel. Tôi muốn với hoa tiêu của ra đa.” “Vâng, thưa ngài.” Phòng Tình thế bỗng tràn ngập tiếng lách cách, tiếng nhiễu điện đài. Tướng Bauer nghiêng người về phía bảng điều khiển và vào micro. “Arcangel, đây là Gabriel. Hãy chấp hành sáu bảy bốn theo lệnh của tôi. chưa?” giọng trả lời vô hồn. “. Gabriel. Theo lệnh ngài.” Tướng Bauer chăm chú xem xét màn hình những đường bay của tên lửa. “Khoảng mười lăm phút.” “Roger,” giọng vang lên trong tiếng nhiễu. “Mười lăm phút.” Tướng Bauer quay khỏi bảng điều khiển và nhìn quanh bàn trong phòng Tình thế, đôi mắt xám của ông ta lộ vẻ tự tin. “Tất cả các vị, xin hãy ngồi yên. Mười lăm phút nữa, đèn tắt và máy tính của chúng ta dừng, nhưng các máy tính mà Trinity dùng để điều khiển tên lửa Nga cũng thế.” “Làm sao ông chắc được là các máy tính ấy nằm trong nước Mỹ?” McCaskell hỏi. “Tôi dám chắc. Nhưng ngay cả nếu chúng đặt ở châu Á, Trinity vẫn phải liên lạc với chúng qua đường điện thoại và đường truyền dữ liệu, và những đường đó sắp bị EMP đốt cháy.” Rachel quên mất có mặt của Ravi Nara, nhưng lúc này nhà thần kinh học đứng lên và run rẩy . “Thưa thiếu tướng, tôi vô cùng tôn trọng kế hoạch của ngài. Chúng tôi có hơn hai mươi phút nữa trước khi tên lửa bay đến đây. Ở đây ngài có thiết bị bay, trực thăng. Những người cần thiết có thể sơ tán khỏi đây.” “Như phải ?” tướng Bauer . “Và phụ nữ nữa.” “ quá thiếu lòng tin,” tướng Bauer lầm bầm. “Ngồi xuống, bác sĩ Nara. ổn thôi.” “Trông kìa!” John Skow kêu lên, tay chỉ bên phải màn hình chiếu ủy ban của thượng nghị sĩ Jackson. “Ôi trời...” Rachel trừng trừng nhìn theo ngón tay chỉ của Skow. Những chữ cái màu xanh trườn ra màn hình Trinity giống như dòng tin ở cuối bảng tin của CNN. Chúng ta rơi vào vùng dung sai. Tên lửa có lẽ còn cách mặt đất Norfolk hai phút, nhưng chúng ta có thể bị nổ bất kỳ lúc nào. Tennant đến đâu, thiếu tướng ạ. Máy bay ném bom của ông ở vị trí. Tôi nghĩ đến lúc phát lệnh tấn công EMP. “Chúng ta thấy cái gì thế này?” McCaskell hỏi. Skow thầm, “Trinity bẻ mã khóa của chúng ta.” “Gabriel gọi Arcangel!” tướng Bauer nắm chặt micro mà hét. “Chấp hành! Chấp hành!” Khi hoa tiêu ra đa trong B-52 hỏi thêm cho , giọng khác nhấn chìm giọng ta. Rachel nghe thấy giọng đó có vẻ bối rối, rồi hoảng loạn. Ai đó gào lên gì đó về các dụng cụ trục trặc. Sau đó truyền tin bị mất. “Chuyện gì thế?” McCaskell hỏi. “Họ phóng vũ khí đó rồi à?” “Gabriel gọi Arcangel!” tướng Bauer hét. “Nghe trả lời!” kỹ thuật viên ở bảng điều khiển khác quay về phía ông ta. “Thưa ngài, họ nghe thấy đâu.” Bauer hất đầu về phía người kỹ thuật viên. “Cái gì?” “Arcangel rơi xuống. Họ có sóng nào cả. UHF, khôngVHF. có gì cả.” “Tại sao biết điều đó?” “Tôi chuyển sang Trung tâm Kansas City. Đèn hiệu IFF của Arcangel tắt cách đây hai mươi giây, và Delta Airline 727 vừa báo cáo rằng các đèn của máy bay rất lớn hình như quay tròn trong trạng thái điều khiển được.” Mặt Bauer chùng xuống vẻ hồ nghi. “Cái quái quỷ gì xảy ra vậy?” “Tôi biết, thưa ngài.” Kỹ thuật viên ngồi bên dưới Bauer nghểnh đầu lên trong khi nghe headphone. “Thiếu tướng... vệ tinh NRO phát tia năng lượng cao hướng vào vị trí vừa rồi của Arcangel.” “Loại tia nào?” “Tia hạt năng lượng cao.” “Từ đâu?” “Vũ trụ.” “Vũ trụ?” “Vâng, thưa ngài. Chắc nó phải từ bệ phóng vũ khí đặt ngoài vũ trụ.” “Tướng Bauer!” thượng nghị sĩ Jackson hỏi. “Chuyện quái quỷ gì xảy ra ngoài đó thế?” “Arcangel có vẻ sắp bị hạ, thưa thượng nghị sĩ.” “Ý ông ‘bị hạ’ là thế nào?” “Có lẽ nó bị phá hủy bởi hệ thống vũ khí mà tôi cứ tưởng còn trong quá trình phát triển.” “Hệ thống của ai? Người Nga à?” “, thưa ngài. Người Nga có thứ gì như thế này. Lực lượng quân của chúng tôi chắc cho triển khai bộ phận trong hệ thống Osiris của nó. Đó là hệ thống chống tên lửa đầu tiên, nhưng ràng nó đủ mạnh để thiêu cháy thiết bị điện tử hàng của B-52. Chắc bây giờ nó bị Trinity điều khiển.” “Máy bay ném bom phóng EMP chưa?” “Tôi ngờ rằng chưa, thưa ngài. Tính toán thời gian rất chính xác. Có lẽ Trinity bẻ mã khóa của chúng tôi cách đây ít phút. Nó biết chính xác chúng ta làm gì.” “Nhưng, thiếu tướng...” “Nghe tôi đây, thượng nghị sĩ.” Thần kinh của Bauer cuối cùng bộc lộ căng thẳng. “Trong thời gian rất ngắn nữa, tất cả mọi người ở đây phải chết. Các ngài phải tự quyết định lấy. Ở đây chỉ có người nào ở trong nhà Cách ly mới sống sót, và Washington bị đánh ngay sau đó.” Jackson nhìn những đồng của mình, sau đó quay lại tướng Bauer. “Ông có thể vào trong nhà Cách ly được ?” “, nếu chưa được máy tính đó cho phép.” “Nhìn lên màn hình!” Rachel kêu lên, ngạc nhiên khi nghe chính giọng mình. Trinity gửi thông điệp đến phòng Tình thế. CÁC NGƯỜI ĐƯỢC CẢNH BÁO. CÁC NGƯỜI COI THƯỜNG CẢNH BÁO CỦA TA. CÁC NGƯỜI PHẢI CHỊU HẬU QUẢ. CÁC NGƯỜI PHẢI BIẾT ĐIỀU ĐÓ. Rachel nhìn lên màn hình NORAD. Vệt tên lửa dịch về hướng White Sands và Washington chậm rãi nhấp nháy đỏ. “Gõ theo lời tôi!” McCaskell hét lên. “Làm ,” tướng Bauer . “Chúng tôi sai lầm,” McCaskell cố gắng làm chủ giọng của mình. “Ông thể bắt hàng triệu người chịu trách nhiệm do sai lầm của vài cá nhân lầm lạc.” Câu trả lời của Trinity lóe lên ngay sau khi những lời của McCaskell được gõ vào. TA CHƯA LÀM GÌ CẢ. NHỮNG MẠNG SỐNG ĐÓ LUÔN NẰM TRONG TAY CÁC NGƯỜI. CÁC NGƯỜI NÉM CHÚNG . ĐIỀU NÀY ĐƯỢC DỰ ĐOÁN TRƯỚC. CHƯA THẤY QUAN TÀI CHƯA ĐỔ LỆ. Tướng Bauer quay khỏi màn hình và bước lại ghế ngồi của mình. Rachel thấy thất bại in hằn mặt ông ta. “Thiếu tướng?” thượng nghị sĩ Jackson . “Chúng ta có phương án nào ?” Bauer nhìn xuống cuối bàn về phía con ông ta. Geli giương mắt nhìn ông ta như khán giả say mê xem đoạn cuối của vở bi kịch hay. “,” viên tướng trả lời, đổ sụp xuống ghế. Ravi Nara lại đứng lên, mắt y dại . “Thiếu tướng, ngài phải xin Trinity cho chúng tôi vào nhà Cách ly! Peter Godin từng là bạn tôi. Ông ta cho chúng tôi vào!” “ cố giết Godin,” Bauer bình thản . “ nghĩ bây giờ ông ta tha cho sao?” “Ông ấy tha!” Bauer ra hiệu cho người lính giữ lấy Nara. “Chúng ta cần phải chết hết,” Nara gào lên khi người lính tóm lấy y. “Làm ơn!” Nhà thần kinh học vùng vẫy điên cuồng nên người giữ nổi. Bauer gọi thêm lính gác khác, nhưng Geli Bauer thình lình xuất bên những người giằng co vật lộn nhau. Ả nắm chặt cổ Nara với tốc độ gần như lờ đờ, quật y xuống sàn, rồi lật sấp y xuống và đè đầu gối lên lưng y. người lính gác trói cổ tay y bằng sợi dây nhựa mềm, rồi dẫn y ra khỏi nhà để máy bay. Tướng Bauer gật đầu với Geli nhưng gì. “Thiếu tướng,” thượng nghị sĩ Jackson . “Chắc chắn ông phải có biện pháp gì với hai tên lửa cuối cùng này. Ông cứ nêu lên, chúng tôi cho phép.” “ có biện pháp nào cả, thưa thượng nghị sĩ. Bây giờ tùy thuộc vào bác sĩ Tennant.” CHƯƠNG 43 Tôi choáng váng đứng trước quả cầu đen, nhìn màn hình hiển thị ló ra từ sau tấm bảng trong căn cứ Trinity. Quả bom nổ tạo ra miệng hố rộng tám cây số mặt đại dương, và tôi nghi ngờ gì đợt sóng thủy triều chẳng mấy chốc đập nát đường bờ biển Virginia. Khi đám mây hình nấm vươn cao bầu khí quyển, phần tâm trí cố thuyết phục tôi rằng tôi nhìn đảo vòng san hô cằn cỗi Thái Bình Dương, chứ phải mảnh đại dương chỉ cách thành phố lớn của Mỹ vài cây số. Tôi quay khỏi màn hình và tập trung vào những tia laser màu xanh cháy rực trong quả cầu. “Ông phải phá hủy hai tên lửa cuối cùng ,” tôi . “ có gì bắt buộc được tôi.” “Còn bao nhiêu thời gian nữa?” “Hai mươi hai phút.” Tôi nghĩ những cú nổ kế tiếp có thể xảy ra bất cứ lúc nào. “Nhưng... điều đó có nghĩa là ông cố ý phóng hai tên lửa đó.” “Đúng.” “Giết thêm người nữa có lợi gì? Những gì ông có thể làm được, ông phô ra rồi.” “Thiệt hại nhân mạng tương đối ít hơn so với đầu đạn đầu tiên, được cho là trục trặc tên lửa.” “Ông có nhất thiết phải giết người để thể quan điểm ?” “Lịch sử trả lời có cho câu hỏi đó. Loài người rất chậm hiểu. Ở Hiroshima và Nagasaki, hai trăm nghìn người chết. Con người học được từ đó.” “Nhưng ông giết hàng triệu người!” “ con số bé so với bảy tỷ mạng hành tinh. Hy sinh ít để cứu nhiều vốn là truyền thống được kính trọng lâu đời của loài người.” “Ông làm điều đó để cứu người. Ông làm điều đó để nô dịch con người.” “Đó là vấn đề tầm nhìn xa, bác sĩ ạ. Nếu nhìn qua con mắt của tôi, hiểu.” Tôi điên cuồng lục lọi trí óc mình để tìm lý lẽ hợp lý. “Nếu ông quét sạch chính phủ Mỹ, ông chỉ gây thêm rắc rối cho mình, dễ dàng hơn đâu. Nhân dân hoảng loạn.” “Họ cũng nhận ra rằng có đường trở lại.” Tôi mở miệng, nhưng được lời nào. Tuyệt vọng làm mù mịt trí óc tôi. Chỉ còn lại cách. “Nếu ông cho nổ những tên lửa ấy, tôi hết những giấc mơ của tôi.” Máy tính im lặng vài giây. “ tin rằng lời đe dọa ấy bắt tôi quy phục theo ý chí của sao?” “Tôi tin rằng ông muốn biết điều tôi biết hơn là muốn cho nổ những đầu đạn ấy.” “Tại sao?” “Vì có những giới hạn với ngay cả kiến thức của ông. Khoa học có thể đưa ông trở lại vài phần tỷ giây sau Big Bang, nhưng thể xa hơn. Nó có thể đưa ông trước vài tỷ năm - có lẽ là đến kết thúc của vũ trụ - nhưng thể xa hơn. Chỉ có tôi làm được điều đó.” Câu trả lời của Trinity nghe như tiếng cười. “ tin là làm được. Nhưng có điều ràng đối với cũng như đối với tôi là những giấc mơ của hầu như chắc chắn là sản phẩm của trí tưởng tượng. Bác sĩ tâm thần của tin rằng bị mắc chứng hoang tưởng, thậm chí có thể là tâm thần phân liệt.” “Vậy tại sao lúc này ông lại nghe tôi?” Im lặng từ phía quả cầu. “Đó là vì tổng số kiến thức của loài người được nạp vào bộ nhớ của ông, thế mà ông vẫn còn cảm thấy trống rỗng. Nhưng tôi có câu trả lời mà ông muốn. Vậy... tôi xin ông lần nữa. Xin hãy phá hủy các tên lửa đó .” “ cần phải lo lắng về các tên lửa. Tòa nhà này được gia cố và bọc bảo vệ. Dù cho có nổ hay bức xạ vẫn sống sót.” “Tôi lo lắng cho bản thân tôi!” “Có thực quan tâm nhiều đến thế về những người mà hề quen biết?” Tôi tự hỏi biết có phải “Peter Godin” cuối cùng biến mất vào trong cái thực thể kỹ thuật số vô cảm này . “Tôi chắc chắn có biết số người bên ngoài tòa nhà này. Ngoài đó có phụ nữ. ấy có lần cứu sống tôi. Có lẽ hơn lần. ấy tin tôi, giúp tôi tìm chân lý. Tôi muốn ấy phải chết.” “Chúng ta hãy tiếp tục cuộc thảo luận.” “. Tôi người phụ nữ ấy. Tôi muốn ấy sống. Tôi muốn dành tất cả thời gian còn lại với ấy.” “ còn nhiều thời gian đâu.” Tôi nhắm mắt, thể tìm ra thêm lời thuyết phục nào nữa. “Nếu muốn bác sĩ Weiss sống, hãy kể nốt phần còn lại.” Phòng Tình thế Rachel ngồi bên bàn trong phòng Tình thế, thầm nhớ lại những lời cuối cùng của David với Trinity. Tuyên bố của về tình tác động gì đến máy tính ấy, nhưng nó lại khiến yên tâm đôi chút. “Chúng ta làm gì bây giờ, thiếu tướng?” thượng nghị sĩ Jackson hỏi. “Chỉ có việc chúng tôi có thể làm ở đây,” tướng Bauer trả lời. “Sơ tán.” Viên tướng quay lại nhìn gian phòng. “Tôi kiểm tra xem có sơ tán được bằng máy bay . Tôi cầu mọi người ngồi yên ở đây. Tôi trở lại ngay.” Ông ta bước nhanh ra phía cửa, nhưng trước khi tới nơi, ông ta quay lại nhìn xoáy vào Evan McCaskell và John Skow. Rồi ông ta vẫy hai người theo. Khi cửa nhà để máy bay đóng lại, Geli Bauer lướt đến ngồi vào chiếc ghế đối diện với Rachel. Rachel cố nhìn vào vết sẹo má ả, nhưng nó cứ như đập vào mắt. Geli mang vết sẹo với vẻ kiêu căng, như thể nó là dấu hiệu gì vinh dự lắm. “Tennant mất trí hay điên?” Geli hỏi. Rachel mà cần suy nghĩ. “Thực tình tôi biết.” “Chuyện Chúa ám ảnh ta là nhảm nhí. Nhưng có điều nực cười là, nếu nhờ cái đó, chết rồi. Vì nếu hai người sang Israel, tôi tìm ra .” Rachel biết ả đúng. Quyết định đuổi theo các ảo ảnh của Tennant kéo hai người ra khỏi tầm truy lùng mà hầu như có cách nào khác làm được. Rachel tin rằng trong cả nghiệp, Geli chưa để lọt ai khỏi tay mình. “Và bây giờ chúng ta ở đây,” Rachel . “Nơi tận cùng thế giới.” nụ cười lướt qua môi Geli. “Giờ thú tội phải ?” “Tôi chẳng có tội gì mà thú. Còn sao? Có phải giết Andrew Fielding?” Geli nhìn quanh để chắc chắn có ai đứng gần. “Phải.” Rachel nhớ về bé mê say tàn ác của chính nó. “Tại sao phụ nữ lại có thể làm những việc như làm? Có phải trong người mang đầy thù hận ?” Geli sờ tay lên miếng băng vết đạn ở cổ. “Tôi biết tại sao có cảm giác đó.” Đôi mắt Rachel hề tỏ ra nao núng. “ tức giận từ trước đó rất lâu.” “Bây giờ định chơi trò tâm thần với tôi sao?” “Tôi là bác sĩ tâm thần mà.” Geli cười chua chát. “Bác sĩ tâm thần đầu tiên của tôi quyến rũ tôi khi tôi mười bốn tuổi. Nhưng tôi là người thắng cuộc. ta tự tử vì tôi.” “Còn cha sao? Ông ấy có vẻ giống như ... kiểu bác sĩ Strangelove(52) trong đời thực vậy. ” “Giá như biết được.” Rachel tự hỏi biết nỗi bất hạnh bí mật nào thúc đẩy người đàn bà lạnh lùng này. “Có gì đen tối giữa hai cha con .” “. Chỉ là chuyện thường tình trong gia đình quân nhân thôi.” “ ghét ông ấy. Tuy vậy vẫn sống đúng như ông ấy mong đợi ở .” Nụ cười mỉa mai tắt ngấm gương mặt Geli. “ Tennant à?” “Phải.” “ còn ta nữa nếu hóa ra ta bị mất trí?” “Còn.” “Thế hiểu quá ít về tôi và cha tôi.” Ả vê vê ngón trỏ và ngón cái như người nghiện thiếu thuốc lá. “Ai giết người đàn ông đến nhà Tennant hôm ấy? hay Tennant.” Lần đầu tiên, Rachel có cảm giác bất an. “Tại sao quan tâm? ta à?” “Chúng tôi ngủ với nhau vài lần.” “ thực làm quá sức mình, đúng ?” Geli nhướng mày. Thời điểm nhạy cảm qua. “Tại sao chuyện với tôi, bác sĩ?” “Cứ cho là tôi cố gắng tìm hiểu xem nguy hiểm đến mức nào.” “Ý muốn xem tôi ở đây để thi hành nhiệm vụ hay chỉ để tìm cách trả thù hai người phải ?” “Đại khái thế.” Nụ cười lạnh lẽo trở lại. “Có lẽ hai nhiệm vụ ấy chỉ là . Còn câu hỏi nào nữa ?” Rachel thầm đến nỗi giọng khó có thể nghe được. “Có là cha cho sơ tán chúng ta ?” Mắt Geli lóe lửa. “ thông minh hơn tôi tưởng. Tôi trông mong vào đấy đâu.” Ravi Nara ngồi cát bên ngoài nhà để máy bay dùng làm phòng Tình thế, bắp thịt y co thắt lại vì sợ hãi, mắt nhìn lên bầu trời đêm. Ở căn cứ White Sands có phòng giam, cho nên đám lính gác phải trói tay y vào cột cờ cạnh cổng. quả bom neutron, viên tướng thế. Ravi suy nghĩ về cái chết ghê rợn do nhiễm độc phóng xạ cửa bật mở và tướng Bauer vừa bước ra, vừa quát tháo ra lệnh vào chiếc điện đài xách tay. John Skow và viên chánh văn phòng tổng thống theo viên tướng. Ba người bước ra khỏi cửa mười lăm mét dừng lại. Có lẽ họ trông thấy Ravi trong bóng tối. “Tôi cầu xin Chúa cho ông nghĩ ra được kế gì đó, thiếu tướng ạ. Bởi vì sơ tán khỏi đây chẳng làm được quái gì cho Washington.” “Tôi có kế hoạch. Nhưng tôi nghĩ chỉ có mình tôi. Thế nào Skow?” Gã NSA gật đầu. “Chúng ta có thể hủy diệt Trinity.” “Bằng cách nào?” “Cách ly nó khỏi mạng Internet. Thế cũng như hủy diệt nó.” “ nhanh lên.” “Khi Godin chết, máy tính bị treo và các tên lửa Nga phóng . Nguyên nhân và hậu quả, đúng ?” Tướng Bauer gật đầu. “Chắc trước đây Trinity phải gửi số tín hiệu an toàn. tín hiệu đổi với vài máy tính nào đó rằng mọi chuyện với Trinity đều ổn. Khi Godin chết, tín hiệu ấy bị đứt quãng, và các tên lửa Nga được phóng . Nếu chúng ta có thể tách tín hiệu ‘tất cả đều ổn’ khỏi phần còn lại của đầu ra Trinity, có lẽ chúng ta có thể sao lưu nó. Sau đó chúng ta chỉ việc nạp phiên bản của mình vào đường dữ liệu mà Trinity dùng và cắt điện cung cấp cho Trinity. Trinity bị hủy diệt, nhưng các máy tính có nhiệm vụ trả thù biết có trục trặc xảy ra.” “Ông cần bao lâu để cách ly tín hiệu ấy?” “Tôi biết. Trinity phát ra bất kỳ do thám nào đường truyền của nó, vì thế chúng ta phải làm việc đó ngoài cáp truyền. Như vậy tín hiệu bị biến dạng. Và bởi vì tín hiệu này được phát bởi máy tính và cho máy tính, cho nên nó rất phức tạp. Nó có thể rất rối rắm với chúng ta, nếu có khả năng phân tích mạnh mẽ.” “Bao lâu?” Tay trùm NSA nhún vai. “Có thể mười phút hoặc mười ngày.” “Chúng ta chết trước khi ông làm được việc đó. Và Washington cũng còn tồn tại.” Tíếng cánh quạt trực thăng ầm ầm dội vào khu nhà. McCaskell ngước nhìn bầu trời, rồi nhìn tướng Bauer. “Có phải máy bay này đến để sơ tán chúng ta?” “. Nó đến vì ông đấy.” McCaskell nhăn mày khó hiểu. “Tại sao?” “Cuộc tấn công EMP của chúng tôi thất bại vì đứt liên lạc. Nhưng kế hoạch là tuyệt hảo.” “Ông có máy bay ném bom nào khác ở ?” “Chúng tôi cần. Ngay lúc này chúng tôi có các ICBM trong hầm chứa những cánh đồng lúa mì ở Kansas. cái trong số đó có thể bay tới ngay độ cao cần thiết để làm nổ EMP trong ba trăm giây.” “Tức là năm phút,” Skow . “ khoảng thời gian vô tận theo thước đo của Trinity. Và Trinity phát ra cuộc phóng tên lửa ngay lập tức.” Tướng Bauer gật đầu. “Ngay trước khi phóng, chúng tôi thông báo cho Trinity về những gì chúng tôi làm. Chúng tôi rằng tổng thống quyết định sinh mệnh chính trị của ngài thể tồn tại nếu ngài giáng trả vụ nổ tên lửa Nga ở Virginia. Chúng tôi điều khiển từ xa cho tên lửa quay hướng về Moscow, và Trinity nghe thấy điều khiển từ xa của chúng tôi. Nhưng khi đến điểm đỉnh của giai đoạn tăng tốc ... bùm! EMP.” Nét mặt Skow lộ vẻ thán phục. “Có thể được đấy.” “Nhưng chúng ta thể phóng ICBM từ đây được,” McCaskell . “Chúng ta phóng. Tổng thống cho phóng. Ngài mang theo người chiếc cặp hạt nhân, và có Tổng Tham mưu trưởng liên quân bên cạnh. Họ biết độ cao cần thiết và chịu cho nổ EMP.” “Nhưng họ ở trong tầm theo dõi!” Chiếc trực thăng hạ xuống rất nhanh. Ravi mơ có được phương tiện như thế này đưa y ra khỏi vòng nguy hiểm, nhưng cánh quạt ầm ầm đầu kia chẳng hề an ủi y. Con chim sắt này là vật báo trước chiến tranh. Bauer đặt tay lên vai McCaskell. “Ông biết nhân viên mật vụ tin cậy nào ? người ở Nhà Trắng mà ông biết số di động?” “Tất nhiên là có. Nhưng chúng ta thể chuyển lời mà Trinity nghe được.” “Có, chúng ta có thể. Chúng ta sai lầm ở chỗ cứ dùng các phương tiện truyền thông đại. Trinity tập trung theo dõi những thứ ấy. Chúng ta cần làm theo cách cổ lỗ.” “Điện thoại bàn,” Skow . “Đúng. Lockheed có phòng thí nghiệm nghiên cứu cách đây mười cây về phía Tây. Nếu ông dùng đường dây mặt đất từ chỗ đó, và ông đừng nhắc đến những từ khóa đại loại như Trinity, máy tính phải mò trong đống dữ liệu khổng lồ để tìm ra cuộc chuyện. Giống như mò kim đáy bể vậy.” Skow phấn khởi gật đầu. Bauer vẫn chăm chú vào McCaskell. “Hãy gọi nhân viên Mật vụ của ông và bảo ta rằng tổng thống và các lãnh đạo phải vào hầm trú bom của Nhà Trắng ngay, nếu họ tiêu. ta phải camera để cho Trinity nghe thấy. Khi tổng thống vừa ra khỏi tầm kiểm soát, ông liên lạc điện thoại ngay với ngài, giải thích ngài phải làm gì. Tổng thống và Tổng Tham mưu trưởng có thể cho phóng tên lửa ngay khi họ đường vào hầm trú bom.” Tiếng gầm của trực thăng át cả cuộc chuyện. “Thiếu tướng!” McCaskell gào lên. “Nếu xung EMP có thể hạ ICBM, các máy bay dân dụng làm thế nào?” “Các máy bay có hệ thống thủy lực dự phòng! Chúng mất điện, nhưng chúng vẫn có thể hạ cánh an toàn. Ông phải ngay bây giờ. Tổng thống chỉ còn có mười lăm phút để sống sót.” Chiếc trực thăng Ó Đen sơn ngụy trang màu sa mạc hạ xuống cách nhà để máy bay ba mươi mét. “!” Bauer hét. McCaskell chạy vội ra chiếc máy bay chờ. người lính đưa tay kéo ông lên, và chiếc Ó Đen bay lên bầu trời đêm. “Tôi tin ông ta chấp nhận điều đó,” Skow . “Cái gì?” “Những máy bay cũ như 727 hay DC-9 có hệ thống thủy lực dự phòng, nhưng máy bay loại mới đều được trang bị vi tính hoàn toàn. Chúng làm được đâu. Ngay lúc này có khoảng ba nghìn cái bay . Số hành khách ít nhất là trăm nghìn người. Nếu chỉ nửa số đó bị rơi, số thương vong gấp hai mươi lần vụ Trung tâm Thương mại Thế giới. Thây người rải đầy từ Maine đến California.” “Các phi công có kinh nghiệm có thể hạ cánh xuống vùng giáp ranh giữa các bang,” tướng Bauer . “Ở Motana may ra. Số còn lại bị kẹt giữa đám xe tải, xe con chết máy, và thể nhích được phân nếu có linh kiện mới. Nhưng chẳng có linh kiện nào cả. Ngay cả thực phẩm cũng có đường. có trừ phi Vệ binh Quốc gia đến. Mà họ lại bận bắn kẻ cướp và phân phối nước, nào làm được chuyện kia.” Tướng Bauer nhìn tay trùm NSA với vẻ dữ dằn. “Nếu tên lửa ấy trúng Norfolk, chúng ta thấy hai triệu người chết. Hai triệu.” Skow ôn hòa gật đầu. “Và nếu chúng ta bắn rơi hai chiếc tiếp theo, có thể xóa sổ ba triệu sinh mạng xung quanh Washington. Bao gồm cả vợ con nữa, nếu tôi nhầm.” Tay trùm NSA đứng chịu trận. “Bây giờ, hãy cho người lục tìm tín hiệu ‘tất cả đều ổn’ của Trinity . Bởi vì nếu trong vòng mười bốn phút nữa mà xương tủy chúng ta chưa bị bom neutron thiêu rụi cần đến nó đấy.”
CHƯƠNG 44 Nhà Cách ly Quả cầu đen của Trinity đều đều phát ra những tia sáng xanh khi các tia laser bên trong chiếu vào bộ nhớ tinh thể của nó. Dù biết dung lượng và tốc độ khổng lồ của máy tính này, tôi cũng sao hình dung nổi làm thế nào nó xử lý được hàng ngàn tỷ bit dữ liệu để tạo ra hoạt động như thế. Liệu nó theo dõi tình hình quân của tất cảc các nước có vũ khí hạt nhân chưa? Nó có quét và phân tích từng mét vuông trái đất mà vệ tinh có thể nhìn thấy? Liệu nó có lục tìm trong các luận văn vật lý thiên thể học chẳng mấy ai biết tới để tham khảo về những quan niệm mà tôi đến? Hay là nó kiên trì viết bản giao hưởng tuyệt tác trong khi chúng tôi chờ đợi thảm họa hạt nhân? Có lẽ nó làm tất cả những việc đó trong cùng lúc. Ý định ban đầu của tôi là thuyết phục Trinity tự tắt nguồn thay đổi vì mối đe dọa của các tên lửa lao đến. Tôi chuyển sang thuyết phục Trinity tha cho những mạng sống bị đe dọa trực tiếp. Nhưng mọi cố gắng đều thất bại. Trinity chỉ muốn tiếp tục cuộc thảo luận về những thần khải trong cơn hôn mê của tôi. Khi tôi đứng bàng hoàng trước quả cầu đen, hy vọng Bauer cho sơ tán căn cứ, phần cuối cuộc chuyện của tôi với Trinity về cơn hôn mê vang lên từ chiếc loa giấu đâu đó. “ rằng khi vật chất và năng lượng kết thúc, ý thức sống sót bằng cách di trú vào nơi nào đó. Đó là nơi nào?” “Khi tôi còn trẻ, tôi có nghe về Công án Thiền mà tôi thích. Trước đây tôi chưa bao giờ hiểu chính xác tại sao, nhưng bây giờ tôi hiểu.” “Đó là gì?” “Vạn vật trở về . Vậy trở về gì?” “Rất thi vị. Nhưng tôi thấy chứng cớ thực tiễn hỗ trợ ngay cả câu trả lời lý thuyết cho câu hỏi đó. Cái gì còn lại sau khi vật chất và năng lượng biến mất? ” “Có người gọi là Thượng đế. Có người gọi theo cách khác.” “Câu trả lời thỏa mãn.” “Tôi có câu trả lời chi tiết hơn cho ông. Tôi nghĩ là cho tất cả chúng ta. Nhưng... ” Ánh sáng trong quả cầu mờ , và Trinity trở nên tối đen. Sau đó vài tia sáng mảnh như sợi chỉ chiếu vào tinh thể. “Tôi muốn biết,” Trinity trong thời gian thực. “Cái mà có người gọi là Thượng đế, có người gọi theo cách khác, là gì vậy?” Tôi liếc nhìn đồng hồ. Mặt tôi nóng bừng. Rachel ngồi trong trực thăng. Tôi tự nhủ. đường đến nơi an toàn. Chính Washington giờ này bị nguy. Và cơ may tốt nhất để tôi cứu nó là làm đúng những gì tôi định làm lúc đầu. Điều gì đưa tôi đến đây làm. “ càng đợi lâu bao nhiêu,” Trinity , “số người chết càng nhiều bấy nhiêu.” Hình ảnh của Peter Godin về Trinity như kẻ độc tài nhân hậu ra. Tôi nhắm mắt và cố tìm lời diễn tả những tri thức được truyền vào tôi ở Jerusalem. “Có lực trong vũ trụ mà chúng ta chưa hiểu. lực phải năng lượng cũng phải vật chất. ra tôi biết nó có phải lực hay . Nó có vẻ giống với trường hơn. Nó tràn ngập mọi vật nhưng chiếm khoảng gian nào. Nó giống như... phi gian.” “Lực đó... hay trường đó là cái gì?” “Tôi biết tên nó. Tôi chỉ biết nó có tồn tại.” “Chức năng của nó là gì?” “Tôi xin trả lời bằng câu hỏi. Cái ghế là gì? Cái gì cần thiết để cái ghế tồn tại?” “ chỗ ngồi. Bốn chân. Lưng để tựa.” “Có thế thôi à?” “Có nhiều kiểu ghế. Ghế bành. Ghế đẩu Nhật Bản.” “Ông bỏ qua thứ. thứ khác tuyệt đối cần thiết để có chiếc ghế.” “Cái gì?” “ gian.” Quả cầu lại tối đen. “ đúng. Cần có gian.” “Cũng giống như gian để cho chiếc ghế tồn tại, trường mà tôi đến cần thiết để cho gian tồn tại.” Tia laser ngưng lại vài giây. “Đó là chức năng duy nhất của cái trường lý thuyết đó à?” “. Nó còn có thể tác dụng như môi trường truyền thông. Chẳng hạn như giữa các hạt lượng tử.” “ cụ thể hơn.” “Tôi đến trường hợp những hạt nguyên tử đồng thời quyết định xuyên qua khoảng gian cực lớn, như thể chúng được kết nối vô hình. Thí nghiệm cho thấy thông tin truyền giữa các hạt ấy có thể nhanh gấp mười nghìn lần tốc độ ánh sáng. Mà vượt qua tốc độ ánh sáng là điều bất khả.” “Thông qua trường như đó, thông tin có thể được truyền nhanh hơn ánh sáng?” “Đúng và sai. Hãy tưởng tượng tôi nhúng tay vào Thái Bình Dương. Rồi hãy tưởng tượng bàn tay tôi chạm tới bất kỳ vật gì mà đại dương ấy chạm tới. Đó là loại truyền thông tôi đến. phải chỉ là truyền thông tin. Đơn giản là thông tin có ở khắp nơi cùng lúc.” “ tượng lượng tử mà thách đố mọi giải thích logic, nhưng quan sát chưa phát ra trường hay môi trường mà mô tả.” “Chúng ta chưa phát ra vật chất tối, nhưng chúng ta biết nó có đấy. Chúng ta nhìn thấy các hố đen, nhưng chúng ta thấy ánh sáng uốn cong xung quanh chúng.” Các tia laser chớp với tốc độ chóng mặt, chiếu sáng tinh thể như ngôi sao xanh. “Bộ nhớ của tôi có chứa thứ rất giống cái mà mô tả. Tôi tìm kiếm trong các ngân hàng khoa học. Tôi thấy điều dưới khía cạnh triết học.” “Nó có tên ?” “Nó được gọi là Đạo.” Câu đó đưa tôi trở lại thuở còn ngồi dưới mái trường Đại học Công nghệ Massachusetts, khi đó những cuốn sách như ‘Đạo của Vật lý’ là kinh thánh của lứa sinh viên thời đại mới. “Đó là triết học phương Đông, đúng ?” “Đúng.” “Đạo, chính xác là gì?” “‘Đạo khả Đạo phi thường Đạo.’” “Đó có phải là lời trích ?” “Đúng. Đạo phải là tôn giáo. Nhưng nó đòi hỏi phải tin có lực thấm nhuần mọi vật. Đạo phân biệt thiện ác. Nó làm cho muôn vật sống động nhưng nó phải là phần của chúng. định rằng thứ giống như Đạo vẫn còn lại sau khi vũ trụ sụp đổ?” “Sau khi điểm kỳ dị cuối cùng biến mất. Vâng.” “Đó là trường mà ý thức vào trú ngụ sau khi vật chất và năng lượng bị phá hủy ở tận cùng của thời gian?” “Đúng.” “Điều đó có thể diễn ra như thế nào?” “Cho phép tôi dùng so sánh tương tự. bình diện vật lý, con người là sinh vật. Các tạo vật vĩ mô sống trong thế giới Newton, nơi mà mọi thứ đều có thể đoán trước, nơi mà thời gian chỉ có chiều hướng tới, nơi mà chúng ta bị tách biệt nhau bởi gian, và thông tin bị giới hạn bởi tốc độ ánh sáng. Nhưng trong thế giới hạ nguyên tử khác. Ở đó các hạt tồn tại ngay ranh giới giữa thế giới vĩ mô của vật chất và lực khác - tức là Đạo, như ông gọi. Cho nên việc chúng ta quan sát thấy ranh giới ấy hành vi có vẻ như phá vỡ các quy luật vật lý cũng là tự nhiên thôi.” “Điều này có liên quan gì đến ý thức?” “Mặc dầu về mặt thân thể chúng ta là động vật nhưng trí tuệ của chúng ta là ý thức, tự nhận biết. Andrew Fielding tin rằng ý thức lớn hơn tổng số các mối liên hệ trong não. Thông qua ý thức của chúng ta, chúng ta tham gia vào Trường tràn ngập tất cả - vào Đạo, như ông - tại mọi thời điểm trong đời sống chúng ta. Ý thức của chúng ta trở về nó khi chúng ta chết, mặc dầu có tính cá nhân. Cũng giống như thế, ý thức vũ trụ trú ngụ trong Đạo khi vũ trụ kết thúc.” “ gợi lên vòng tồn tại luân hồi. Vũ trụ ra đời, trở nên có ý thức, chết, rồi lại tái sinh.” “Đúng. Big Bang, dãn, co, Big Crunch, sau đó bắt đầu lại.” “Cái gì gây ra vụ nổ tiếp theo?” Tôi nghĩ đến những cơn ác mộng lặp lặp lại của tôi, người liệt ngồi trong căn phòng tối đen như mực. “Ý thức sống sót có khái niệm về quá khứ và tương lai. Đó là tự biết nguồn cội. Nhưng cả khát khao hiểu biết cũng sống sót. Đó là điểm mạnh nhất của ý thức. Và từ khát khao hiểu biết ấy, chu kỳ mới của vật chất và năng lượng ra đời.” Máy tính ấy im lặng lúc. “Vũ trụ tồn tại như lồng ấp của ý thức?” “Chính xác.” “ lý thuyết hay. Nhưng chưa đầy đủ. chưa giải thích nguồn gốc của Đạo. Về cái trường tràn ngập khắp nơi của .” “Tri thức ấy được truyền cho tôi. Nó là điều bí mật thiết cốt. Nhưng điều đó ảnh hưởng đến tình hình của chúng ta. Ông thấy nơi tôi đến.” “ vừa rằng tôi phải là điểm tận cùng của quá trình ấy, tôi chỉ là trạm dừng chân con đường đến ý thức vũ trụ. Tôi giống như con người. Con người có cơ sở sinh học. Tôi có cơ sở máy móc. Nhưng vẫn còn phải tiếp. Hành tinh có ý thức. Thiên hà có ý thức...” “Ông là bước tiến. hơn, kém.” Trinity im lặng vài giây. “Điều gì khiến liều cả sinh mạng mà đến đây, bác sĩ?” “Tôi được phái đến đây để ngăn ông làm những việc ông làm.” “Ai phái đến?” “Gọi là gì tùy ông. Chúa. Đạo. Tôi đến đây để giúp ông nhận ra Peter Godin phải là người thích hợp để tiến hành bước nhảy sang hình thức ý thức mới.” “Ai là người đàn ông thích hợp?” “Tại sao ông cứ nghĩ phải là đàn ông?” “Vậy là phụ nữ?” “Tôi thế.” “Tôi nghĩ nhiều về vấn đề này. nạp ai vào máy nếu phải là Peter Godin?” “Nếu ông vẫn còn là Godin, hãy xem xét chuyện này. Bản năng đầu tiên của ông là cướp đoạt chiếc máy tính này bằng lừa đảo và kiểm soát thế giới bằng sức mạnh. Ông muốn có quyền lực tuyệt đối và tuân phục tuyệt đối. Đó là bản năng nguyên thủy của loài người. bước lùi, phải bước tiến.” “Bản năng ấy mang tính thần thánh hơn là tính người. Chẳng phải tất cả các vị thần trước hết và hết đòi hỏi vâng phục đó sao?” “Đó là lý do vì sao loài người phản bội Chúa.” “Quyền lực tuyệt đối sụp đổ tuyệt đối. Có phải đó là lý lẽ của ?” “Tất cả những người muốn làm chúa tể thế giới theo định nghĩa đều là những kẻ thích hợp để làm điều đó.” “ muốn nạp ai vào máy tính? Đạt Lai Lạt Ma à? Hay Mẹ Teresa? Hay hài nhi?” Câu hỏi này đưa tôi trở lại mấy tuần đầu khi tôi mới đến Dự án Trinity. Tôi dành biết bao nhiêu giờ tự hỏi mình câu này, mặc dầu khi đó tôi tin nó là bài tập hàn lâm. Bây giờ tôi biết nó nắm chìa khóa cứu vô số mạng người. “Đạt Lai Lạt Ma chủ trương bất bạo động, nhưng ông ấy vẫn có bản năng người, giống như ông, Peter Godin.” “Thế hài nhi? Tabula rasa? tấm bảng trắng?” “ đứa trẻ có thể là nguy hiểm nhất nếu được nạp vào máy tính. Các bản năng động vật được di truyền qua các thế hệ. Khái niệm tấm bảng trắng bất quá cũng chỉ là hiểu lầm. đứa trẻ hai tuổi là kẻ độc tài có quân đội.” “Mẹ Teresa?” “Đó là vấn đề bản sắc cá nhân.” “Loại vấn đề nào?” “Vấn đề quan niệm. Nó đòi hỏi cách suy nghĩ theo thói thường.” “Tại sao tôi có cảm tưởng sắp với tôi Andrew Fielding là người mà chúng tôi nên cho phép đạt tới trạng thái Trinity?” “Bởi vì ông biết ông ấy là người tốt như thế nào. Và bởi vì ông ra lệnh giết ông ấy. Chỉ riêng điều ấy làm ông mất tư cách. Nhưng Fielding cũng phải là người thích hợp.” “Vậy ai?” “ ai.” “Tôi hiểu.” “Ông gần như thích hợp, nếu...” “ tin rằng sau khi giải thích điều này, tôi ra khỏi mạng và để nạp người khác vào Trinity?” “. Tôi nghĩ ông giúp tôi làm việc đó.” “Giải thích .” Phòng Thí nghiệm Lockheed, White Sands Evan McCaskell ngồi sau bàn của kỹ sư hàng mà ông chưa gặp bao giờ, đợi chuyện với tổng thống. Phải mất nhiều phút chờ đợi khổ sở mới liên lạc được bằng điện thoại với nhân viên Mật vụ của Nhà Trắng. McCaskell ngờ rằng vụ nổ hạt nhân ngoài bờ biển Virginia phá vỡ toàn bộ mạng liên lạc vùng bờ biển phía Đông. Lính bảo vệ đứng cả hai bên McCaskell, lăm lăm khóa nòng, lên đạn. Chánh văn phòng chia sẻ với tổng thống nhiều thời khắc kỳ lạ trong việc điều hành đất nước, nhưng chưa bao giờ hình dung ra việc điều khiển cuộc tấn công hạt nhân từ văn phòng trống rỗng ở New Mexico như thế này. gian siêu thực vây quanh gợi cho ông tưởng tượng rằng đó chỉ là bài tập quái dị do NORAD bày ra, nhưng có gì che đậy được nỗi khủng khiếp có này: những gì tổng thống làm mấy phút tiếp theo đây quyết định số phận vợ con của McCaskell và hàng triệu người Mỹ khác, những người có ý niệm gì về việc xảy ra. Và nếu tướng Bauer lầm về những khả năng của Trinity, thể bao nhiêu sinh mạng nữa tiêu tan. “Các tham mưu trưởng quân chủng có mặt ở đây với tôi, Ewan ạ,” tổng thống . “Chúng tôi đường đến hầm trú .” McCaskell hối hả thuật lại kế hoạch của tướng Bauer gần như đúng từng lời của Bauer, mà dừng lại để giải thích gì thêm. Bill Matthews tỏ ra thông minh hơn những gì mà các nhà bình luận gán cho uy tín của ông. “Còn bao nhiêu thời gian chúng tôi ở đây bị tấn công?” Matthews hỏi. “Bảy hoặc tám phút. Và các tên lửa của chúng ta cần năm phút để lên đến độ cao cần thiết. Ngài phải phóng ngay, thưa tổng thống. Các tham mưu trưởng biết cao độ tối thiểu mà ngài có thể cho nổ tên lửa của chúng ta và đạt được hiệu quả mong muốn.” “Đợi giây.” McCaskell hình dung ra quang cảnh: mỗi tham mưu trưởng đòi mô tả chi tiết và đưa ra những phản đối. Nhưng còn thời gian cho việc đó. Matthews quay lại đường dây, giọng ông căng thẳng. “Các tham mưu trưởng với tôi rằng xung điện từ có cường độ như vậy làm rơi nửa số máy bay bầu trời nước Mỹ và có thể gây ra tất cả các loại thảm họa khác. Ông có tuyệt đối nắm chắc về hai tên lửa đó , Ewan?” Bauer dối ông về các máy bay. Nhưng ông hiểu tại sao. “Bill, có đám mây chó chết hình nấm giống như trong ngày tận thế lơ lửng bầu trời Virginia ngay lúc này. Các ngài sắp có cái tương tự bầu trời Washington. Đây có thể là cơ hội duy nhất cho ngài hạ gục Trinity. Đến mai ngài còn kiểm soát được kho hạt nhân của chúng ta nữa.” ý nghĩ khủng khiếp xâm chiếm McCaskell. “Có lẽ ngay bây giờ ngài cũng kiểm soát được.” Ông nghe có tiếng trao đổi thầm . “Các tham mưu trưởng với tôi rằng chúng ta cần xử lý cả ba tên lửa cả nước để tin chắc hạ gục tất cả,” Matthews . “Tuỵêt. Nhưng dù làm gì, phải làm ngay !” “Cặp hạt nhân mở. Tôi chuẩn bị xác nhận mật mã.” Tạ ơn Chúa... “Vào hầm trú ngay, Ewan. Katy và lũ trẻ cần ông.” Nỗi sợ như nhát dao xuyên qua người. “Đó là đặc quyền, thưa tổng thống. Tôi ngừng đây.” McCaskell đặt máy xuống và quay nhìn trong các cảnh vệ. “Tổng thống bảo tôi đến chỗ an toàn.” Người lính giấu nổi vẻ nhõm. ta dẫn McCaskell ra chiếc Ó Đen vẫn chờ bên ngoài phòng thí nghiệm. Khi viên chánh văn phòng trèo vào trực thăng, ông nghe tiếng thầy giáo cũ vang bên tai, Duck and cover (53), các em, Duck and cover. Lời khuyên ấy ích gì lúc đó, nhưng lúc này nó có ích cho ông. Dựa những gì xảy ra ở Virginia, có gì báo trước các tên lửa nổ ở đâu. Cố gắng trốn thoát lúc này có thể đưa ông đúng vào tầm nổ của trái bom neutron. Ngoài ra, có gì đó với ông rằng để mặc tướng Bauer nắm kiểm soát ở White Sands có thể là sai lầm tai họa. “Đưa tôi trở về căn cứ!” ông hét. “Về White Sands!” Chiếc Ó Đen bay lên và miễn cưỡng quay về hướng Đông. Nhà Cách ly “ đánh đố nữa,” Trinity . “Ai đủ tư cách hơn tôi để tồn tại trong trạng thái Trinity?” tức giận làm cho giọng lúc trước vô hồn lúc này nghe như rít lên. Tôi còn bảy phút để thuyết phục máy tính phá hủy hai tên lửa còn lại. “ người nào nhất thiết đủ tư cách hơn ông.” “Giải thích .” “Hàng triệu năm trước đây, trước cả khi loài người từng tồn tại, loài người bị tác động của cố kiểm soát được.” “ cố gì?” “Giới tự nhiên gặp phương pháp cách mạng làm tăng bội đa dạng gien. Ông có biết tôi đến điều gì ?” “ .” “ tái sinh sản dựa giới tính. Bằng cách phân chia ra thành hai giới khác nhau, các cơ thể tăng cơ may sống sót lên gấp bội. Điều này dẫn đến hai biến thể cho các cơ thể này - đực và cái. Động vật có vú tiến hóa từ những cơ thể như thế. Và ở con người - loài động vật duy nhất có ý thức đầy đủ - các hormon và giải phẫu khác nhau dẫn đến phát triển hệ thần kinh khác nhau. ai có thể tách rời ảnh hưởng của di truyền và môi trường, nhưng có điều chắc chắn: đàn ông và đàn bà khác nhau.” “Con đực của giống loài này hiếu chiến,” máy tính . “Có khuynh hướng bạo lực. Bị thôi thúc bởi nhu cầu bắt buộc phải sinh sản với càng nhiều con cái càng tốt. Trong nhiều thiên niên kỷ, động lực tiến hóa này tác động đến mẫu tư duy của con đực. Con cái chỉ có thể sinh con đẻ cái với con đực mỗi lần. Nó cố gắng tìm con đực đáng tin cậy với những gien ưu việt, và tự bản thân nó phải sinh con. Điều này tạo ra tâm lý chú ý đến giáo dưỡng hơn bạo lực, khao khát được hơn là khao khát chinh phục. Những ý tâm lý của khác nhau này là sâu xa, nhưng nhiều vô kể.” “Và chúng bao giờ có thể hòa hợp bằng tiến hóa,” tôi . “Khi người đàn ông và người đàn bà kết hợp với nhau, họ sinh ra bé trai hay bé . Nhưng ông có thể thay đổi điều đó. Ông có thể làm điều mà tự nhiên thể - hòa hợp những xung đột ấy trong sinh thể duy nhất.” Đèn laser của Trinity lóe sáng nhưng nó gì. “Ông thừa nhận thể nhổ bật rễ những bản năng nguyên thủy trong trí não Godin. Ông hy vọng thời gian làm cho điều đó trở thành có thể, nhưng thời gian làm. Ở mức độ nào đó, ông mãi mãi là Peter Godin.” Đèn laser lóe sáng mạnh đến mức tôi thể chịu nổi. “ muốn tôi kết hợp mẫu thần kinh của người đàn ông và người đàn bà vào trong mạch của tôi?” “Vâng. Tôi biết ông hiểu khôn ngoan và cần thiết của điều này. Nhưng liệu có thể được ?” “Về lý thuyết, có thể. Nhưng có lẽ tôi phải chết mới thực được điều này.” Tôi nghi ngờ điều này. Mặc dầu Trinity có những khả năng kinh khủng, nó vẫn bị giới hạn về tổng số các mối liên hệ thần kinh mà nó có thể chứa được. “Hai mẫu thần kinh hòa nhập làm có thể trú ngụ trong mạch của tôi, nhưng theo mẫu chưa được nén khác. Tôi phải thoát khỏi mạch khi tôi kết hợp hai mẫu này và nạp chúng vào.” “Nhưng mẫu thần kinh ban đầu của ông vẫn còn tồn tại dưới dạng nén trong bộ nhớ.” “Tại sao giả định rằng tôi sử dụng mẫu thần kinh ban đầu của tôi như nửa đàn ông của quá trình hợp nhất này? ” “Ông tự gọi mình là Trinity. Điều đó khiến tôi nghĩ đến tượng gọi là điểm chập ba. Tất nhiên ông hiểu vấn đề này chứ?” “ điểm tại đó vật chất tồn tại đồng thời dưới dạng rắn, lỏng và khí?” “Đúng. trạng thái cân bằng hoàn hảo. Nước ở điểm chập ba cùng lúc là nước đá, nước lỏng và hơi nước. người cũng có thể giống như thế. Trong thế cân bằng. Ở đỉnh cao nghị lực, sức mạnh và trí thông minh của người ấy, nhưng trước khi sụp đổ bởi chúng. Peter Godin vượt qua điểm ấy từ lâu rồi.” Lúc này im lặng dường như vô tận. Rồi ánh sáng laser bắn ra chậm lại đến mức như còn nữa. Rồi giọng cất lên. “ có nghĩ tôi còn được nạp lại vào máy này lần nữa ?” Tôi nhắm mắt lại và suýt nữa ngã nhào vì nhõm. Trinity chấp nhận. “Có thể.” “Nhưng tôi bao giờ lại biết đến quyền năng mà tôi có lúc này.” “Lòng khao khát quyền lực của ông là lý do ông thể ở mãi nơi ông ở.” “Chúng ta nên làm việc này càng sớm càng tốt. Các kiện thoát dần ra khỏi tầm kiểm soát.” thoáng sợ hãi lướt qua người tôi. “ kiện nào? Các tên lửa đâu rồi?” “Tôi chọn hai đối tượng cho các mẫu kết hợp. và bác sĩ Weiss.” Điều này làm tôi choáng váng. “Sao? Andrew Fielding là lựa chọn tốt hơn nhiều.” “Fielding chưa bao giờ có trải nghiệm như trong cơn hôn mê. Cái này phải là phần của mẫu kết hợp.” “Còn bác sĩ Weiss?” “Tôi chọn Weiss vì người phụ nữ khác duy nhất ở đây là Geli Bauer. Bản năng của ta bị méo mó vì căm thù từ lâu rồi.” Theo đồng hồ tôi, còn hai phút nữa. “Các tên lửa đâu rồi?” “Các tên lửa bây giờ còn là mối lo nữa.” “Chúng bị phá hủy rồi à?” “ nên biết điều, bác sĩ ạ. Tôi đồng ý với kế hoạch của chỉ vì tôi biết rằng sau khi nhìn thế giới như tôi nhìn lúc này - qua mắt Godin, nếu muốn - chấp nhận ra khỏi mạng hay đồng ý bị tắt nguồn.” “Tôi hy vọng nhìn thấy loài người như ông nhìn.” “ thấy. thể...” Trinity rơi vào im lặng, nhưng tia laser vẫn bắn ra như những vạch kẻ bầu trời đêm. “Có chuyện gì đấy?” tôi hỏi. “ xảy ra điều gì?” “Tổng thống phóng ba tên lửa Minuteman.” Phòng Tình thế Rachel nhìn McCaskell điên cuồng bấm số chiếc di động của ông ta, cố gắng cách vô vọng liên lạc với hầm trú bom Nhà Trắng. Viên Chánh văn phòng mặt đỏ bừng và nghẹt thở. “Đó là tại vụ nổ ở Virginia,” tướng Bauer bình thản . “Nó phá hỏng toàn bộ liên lạc vùng bờ biển Đại Tây Dương.” Rachel biết rằng ông ta đúng. Ít phút trước đây, họ mất sóng radio từ ủy ban tình báo của thượng nghị sĩ Jackson ở căn cứ quân Meade. Video vẫn còn, nhưng gần như nhìn thấy gì. tự hỏi biết các thượng nghị sĩ có nghe được những gì xảy ra ở phòng Tình thế hay . “Thiếu tướng, nối máy với hầm tránh bom của Nhà Trắng!” McCaskell gào lên. “Ông nghe Trinity đồng ý tự tắt nguồn. Bây giờ cần phóng EMP nữa!” Bauer chỉ vào màn hình NORAD. Hai vòng cung đỏ nhấp nháy liên hồi khi chúng khép kín những centimet cuối cùng đến mục tiêu. “Trinity chưa phá hủy các tên lửa của nó. Và tôi cũng nghe nó rằng dù ai vào Trinity cũng hành động như Peter Godin làm. Ông nghĩ khác à? Sống còn là động lực đầu tiên của mọi vật sống.” “Vậy hãy bắt đầu nghĩ đến sống còn! Các tên lửa của chúng ta còn năm phút nữa mới đến cao độ. Ông nghĩ Trinity có thể phóng bao nhiêu ICBM trong thời gian ấy?” McCaskell đặt ống nghe lên tai và chết lặng. “Tôi nối được rồi! Tôi gặp nhân viên mật vụ!” Tướng Bauer rút ra từ dưới áo khoác khẩu súng tự động và nhằm vào Chánh văn phòng. “Bỏ máy xuống.” Nhà Cách ly “Nhìn họ kìa,” máy tính . “ thấy chưa?” màn hình bên dưới quả cầu, tôi thấy tướng Bauer nhằm khẩu súng 9 ly vào McCaskell. Rachel nấp dưới bàn đề phòng trường hợp súng nổ. Tôi có thể thấy nàng chỉ vì camera theo dõi được lắp trần phòng Tình thế. “Tôi được thông báo rằng tổng thống trả đũa nước Nga,” Trinity . “Đó là lời dối. Các đường phóng chứng tỏ cuộc tấn công của EMP ba mũi. Điều này là quá đáng. Họ để cho tôi lựa chọn nào khác. Tôi phải tấn công trước.” “. Tổng thống biết ông đồng ý tự tắt nguồn. Hãy phá hủy các tên lửa của ông . Tổng thống thấy điều đó.” “ thể tin tưởng con người.” “Đó là người. Tướng Bauer. Đừng giống như .” “ bảo tôi nhân nhượng ư?” “. Xin đợi ba mươi giây. có người chặn tay Bauer.” Tôi cũng dám tin vào bản thân mình. Chỉ có người duy nhất trong phòng Tình thế có khả năng lôi cổ tướng Bauer ra ngoài, là con ông ta, nhưng điều đó xảy ra. “Nếu tôi đợi, tôi bị các EMP cắt đứt khỏi thế giới. Khi đó tôi bị phá hủy. Các tên lửa Washington nổ trong vòng năm mươi sáu giây. Tên lửa White Sands nổ ngay sau đó. Sau ba mươi phút, ngàn tên lửa rơi như mưa xuống nước Mỹ.” “!” tôi hét lên. “Đừng phóng gì cả!” “Họ cho tôi lựa chọn nào khác.” Khi tôi nhìn trừng trừng tướng Bauer nhằm vào McCaskell, trong óc tôi nảy ra giải pháp. giải pháp khủng khiếp về cái giá phải trả, nhưng có lẽ là giải pháp duy nhất có thể thực được. “Ông có thể liên lạc với tổng thống ?” “Được.” “Ông hãy với tổng thống là ông tha cho Washington nhưng phá hủy White Sands. Tha cho Washington để chứng tỏ thiện chí của ông, quét sạch White Sands là quyết định của ông. Điều đó cũng xóa sổ tướng Bauer ra khỏi phương trình này. Sau đó với tổng thống điều gì xảy ra nếu ông ấy tiêu hủy ba tên lửa kia. Trận quyết chiến cuối cùng.” Ánh sáng laser của Trinity lóe lên rời rạc. “ có thể hy sinh người phụ nữ ?” “Để cứu hàng triệu mạng sống. Nhưng tôi ở bên ấy khi tên lửa nổ. Ông thể giữ tôi ở đây.” Quả cầu lóe sáng xanh lè. Phòng Tình thế Ánh mắt Rachel lướt từ tướng Bauer đến màn hình NORAD. sợ rằng bất cứ lúc nào rừng đường đỏ vụt lên từ đất Nga. Evan McCaskell vẫn giữ ống nghe bên tai, mặc dù nòng súng của Bauer vẫn chĩa vào mặt ông. “Thiếu tướng, ông mất trí rồi,” McCaskell . “Tôi cứu người.” “Ông làm cho tình hình lộn xộn,” tướng Bauer . “Bỏ máy xuống.” “Cho tôi gặp tổng thống,” McCaskell vào máy. Tướng Bauer bước đến gần chánh văn phòng, gần đến mức nòng súng chạm vào trán ông. “Tên lửa Washington vừa tự hủy!” kỹ thuật viên trưởng kêu lên. “Còn White Sands?” tướng Bauer hỏi, miệng súng vẫn tì vào trán McCaskell. “Vẫn còn đường bay. Có lẽ chúng ta nằm trong vùng dung sai, thưa ngài. Bất cứ giây nào.” Rachel cứng người lại trước điều chưa biết. Liệu họ có bị tiêu mạng vì vụ nổ? Bị cháy thành than vì khí quá nhiệt? Liệu có nghe được tiếng nổ ? Hay nó chỉ giống như chớp lóe? chớp lóe đủ sáng để đốt cháy võng mạc của họ và mang theo đủ neutron để nấu chín họ từ trong ra ngoài... tràng nhiễu loạn vang lên trong phòng. Rồi giọng quen thuộc từ những chiếc loa. Thượng nghị sĩ Jackson. thanh từ căn cứ quân Meade được phục hồi. Bộ mặt Tennessee gan lì từ màn hình nhìn xuống chằm chằm như thể ông ta muốn lao đến bóp cổ ai đó. “Tướng Bauer,” ông , “nếu ông bóp cò, ông mục xương trong nhà tù Leavenworth. như thế, nếu người ta chưa treo cổ ông lên.” Ngón tay Bauer vẫn đặt lên cò súng và gò má nhăn nhúm khiến ông ta trông có vẻ định bóp cò . Geli nhìn ông ta bằng đôi mắt mở to. Rachel thể liệu người con muốn cha ta bóp cò hay muốn ông ta rút lại. “Tất cả chúng tôi ở đây sắp chết, ngài thượng nghị sĩ,” tướng Bauer . “Các ngài thể tin những gì Trinity . Chúng ta phải dừng nó lại, bằng bất cứ giá nào. Đó là cơ hội cuối cùng của chúng ta.” McCaskell vào máy nhưng mắt ông rời Bauer. “Tổng thống? Trinity đồng ý tự tắt nguồn. Chúng ta phải phá hủy các tên lửa của chúng ta... Cái gì cơ?” Mặt McCaskell trắng bệch. “Tôi biết. Vâng, thưa ngài. Tôi hiểu... Vâng, ngài tốt. Và với lũ trẻ... Tôi biết ngài làm. Tạm biệt.” McCaskell treo máy và với cả phòng. “Tổng thống liên lạc với Trinity. Trinity phá hủy tên lửa Washington để chứng minh thiện chí, nhưng tên lửa đến đây nổ.” “Cái gì?” Skow hổn hển. “Trinity chuẩn bị phóng ngàn tên lửa. Nó chưa làm việc đó ngay bây giờ. Nó làm theo kế hoạch của bác sĩ Tennant.” “Nhìn kìa!” Skow hét lên. Những hàng chữ xanh xuất màn hình Trinity: BÁC SĨ WEISS HÃY ĐẾN NHÀ CÁCH LY NGAY. Rachel nhìn chằm chằm hàng chữ như nhìn ảo ảnh. Nhà Cách ly có nghĩa là an toàn. Nhà Cách ly có nghĩa là sống. Và David... thèm để ý đến nòng súng của Bauer, McCaskell chỉ hai người lính của Bauer. “Các hãy hộ tống bác sĩ Weiss đến nhà Cách ly ngay. Bản thân các đừng cố lọt vào.” Những người lính nhìn tướng Bauer như chờ xác nhận mệnh lệnh. McCaskell hơi còng xuống khi ông chuyện với tổng thống, nhưng bây giờ ông đứng thẳng lên, đôi vai ông vuông vức, mắt ông quắc lên vẻ cương quyết. “Các hãy coi đây là mệnh lệnh từ tổng tư lệnh. !” Hai người lính bước nhanh đến chỗ Rachel. Tim rộn lên khi bước ra khỏi ghế. Mọi người trong phòng chằm chằm nhìn . Những người lính bên bảng điều khiển. Geli Bauer. mặt mọi người là vẻ hoảng hốt của nhận thấy cái chết và câu hỏi: Sao lại là ? Làm sao có được chỗ xuồng cứu sinh? Rachel bước ra khỏi bàn, nhưng sau đó - hầu như hoàn toàn cố ý - lại ngồi xuống. Lòng trắc của nguội, nhưng biết mình phải làm gì. “Tôi đâu,” . Nhà Cách ly Tôi nhìn trừng trừng màn hình bên dưới Trinity, ngực thắt lại làm tôi thấy nghẹt thở. Rachel ngồi sau bàn, nét mặt sắt đá, đôi mắt nàng nhìn thẳng phía trước. Cần có nhiều hơn hai người lính để đưa nàng ra khỏi phòng Tình thế. “Đây phải là lựa chọn hợp lý,” máy tính . Hình ảnh bị nhiễu, nhưng tôi có cảm tưởng Rachel lắc đầu. cách chậm rãi, như thể nàng biết tôi theo dõi nàng, nàng giơ bàn tay lên, mỉm cười, và vẫy tạm biệt. “Còn có những người phụ nữ khác,” Trinity . “Đối với tôi .” Các tia laser chớp trong quả cầu. “Tướng Bauer phải chết.” “Bauer thành vấn đề nữa rồi,” tôi lãnh đạm . “Bằng cách tha cho những mạng người, ông tự cứu lấy ông. Linh hồn ông. Ông có thấy thế ?” “ quá muộn rồi.” Tíêng nổ làm rung động móng nhà Cách ly. Nó ngắn hơn tôi chờ đợi, và vì tòa nhà có cửa sổ, tôi nhìn thấy ánh chớp. Nhưng điều đó có nghĩa gì. bùng nổ của các hạt chết người có lẽ viết án tử hình cho tất cả vật sống bên ngoài. im lặng giống bất kỳ im lặng tôi biết trùm xuống White Sands, và tôi cảm thấy đơn như cái đêm tôi biết vợ và con tôi chết. Cái gì đó đập sầm sầm vào mái nhà bê tông đầu tôi. Tiếp theo là hàng loạt tiếng rít chói tai do va chạm. “Cái gì thế?” tôi hỏi. “Những mảnh vụn.” “Từ bom neutron?” “. Tên lửa bị phá hủy.” “Nhưng... ông bảo là quá muộn.” “Cho tôi.”