Dấu chân của Chúa - Greg Iles(Kinh dị)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 23

      Tôi hốt hoảng bật dậy. Rachel ngồi sau tay lái chiếc xe bán tải phóng nhanh. Tôi nằm co quắp sàn xe bên phía ghế hành khách. Tôi lết lên ghế và thấy xe chúng tôi lao vào đoạn đường cao tốc vùng nông thôn hiu quạnh. Đằng sau chúng tôi có gì ngoài con đường vắng lặng.
      “Làm thế nào vào được?” tôi hỏi. “Tôi khóa cửa xe à?”
      nhìn tôi. “ khóa rồi. Có đoạn dây thép nặng thùng xe. Tôi làm cái móc rồi kéo khóa từ bên trong khung cửa ra.”
      “Chúng ta ở đâu đây?”
      “Gần Caryville. Theo các biển báo, hình như đường I-75 chạy qua đây.”
      Tôi lắc đầu xua đuổi tàn dư của giấc mơ Jerusalem khỏi đầu óc. Tôi bất tỉnh mất bao lâu? “Đội SWAT đâu rồi?”
      lùng chúng ta, tôi chắc thế.”
      Tôi nghĩ chắc Rachel tiết lộ đích đến của chúng tôi cho NSA. Nếu thế tại sao lại chở tôi qua đường vắng? quay trở về Frozen Head chăng?
      “Tôi biết nghĩ gì,” . “Nhưng nhầm rồi. Chắc chắn có kẻ khác biết về công viên Frozen Head. Có thể từng với ai ở Trinity về nó. Ravi Nara chẳng hạn? Trước khi các bắt đầu ghét nhau.”
      . là người duy nhất còn sống biết về cái hang đó. Ít nhất là về mối liên hệ của nó với tôi.”
      Tôi hạ kính xuống, nhoài người liếc nhìn bầu trời. có gì cả, ít nhất là trong khoảng gian nhìn thấy giữa hai hàng cây dọc con đường nhựa hẹp. Có lý gì người của Geli Bauer xông đến nếu chúng biết tôi ở đâu? Tôi thể nghĩ ra lý do nào cả. Geli tra khảo thay vì theo dõi để nhanh chóng có được mọi thứ ả muốn ở tôi kia.
      “Nếu giúp bọn chúng, tại sao còn theo tôi?”
      Rachel nhìn tôi, mắt tràn ngập nỗi buồn. “Tôi thậm chí chẳng muốn trả lời câu ấy.”
      Tôi muốn tin , nhưng thế chẳng hóa ra tôi ngờ nghệch lắm sao. “Coi nào... nếu với chúng về Frozen Head chúng thể đón lõng ta ở đó như thế được.”
      quên gì đó,” khăng khăng. “Chắc chắn là thế”
      . Cha tôi và tôi chết. Bọn NSA phải có khả năng đọc được ý nghĩ của tôi mới biết được...”
      Người tôi đông cứng lại, miệng há hốc. Phát này khiến tôi choáng váng như bị đánh cú vào đầu.
      “David, làm sao thế?”
      “Bọn chúng làm được chuyện đó,” tôi lẩm nhẩm. “Lạy Chúa.”
      làm cái gì?”
      “Trinity. Chúng có được nguyên mẫu và vận hành...”
      “Làm sao biết?”
      Tôi đặt bàn tay run rẩy lên trán. Ở nơi nào đó nước Mỹ, ảnh não của tôi do Siêu MRI quét được nạp vào máy tính Trinity. Và mẫu thần kinh ấy bây giờ tồn tại - ít nhất là đến mức độ nào đó - với tư cách David Tennant. Tôi có cảm giác như những kẻ săn lùng tôi phát ra tôi có người em sinh đôi, người em ma quái có chung trí nhớ với tôi và sẵn sàng phản bội tôi khi có cầu. Cái cảm giác bị cưỡng bức tuyệt đối. Trí óc của tôi là nơi náu thâm nghiêm nhất của tôi khỏi thế giới bên ngoài. Tôi cảm thấy bị cưỡng bức cách bí hiểm, bị tước đoạt mất riêng tư.
      Bọn chúng còn đón lõng tôi ở đâu nữa? tôi tự hỏi.
      “David, đừng làm thinh với tôi, “ khẩn nài. “Hãy với tôi .”
      “Bọn chúng có trí nhớ của tôi, Rachel ạ. Chúng có tôi, được nạp vào máy tính của chúng. Nhờ đó chúng biết đường đợi tôi ở Frozen Head. Chúng phải săn đuổi ta nữa. Chúng biết những việc tôi làm cả trước khi tôi thực .”
      thể thế được.”
      “Có đấy. Đó chính là những gì chúng thực trong suốt hai năm nay. Tôi biết chúng quá . Tôi biết Peter Godin. Và tôi biết đó là .”
      giảm tốc để vào cua. “Có nghĩa cho rằng Fielding đúng? Họ làm dự án máy tính này ở nơi nào đó từ bấy nay?”
      “Đúng thế. Trong khi tôi và Fielding xoay xở để vạch ra tác dụng ngoại ý của MRI chúng chế ra cái đồ chết tiệt ấy ở nơi bí mật.” Tôi đập tay lên bảng đồng hồ. “Đó là lý do chúng cho số đội nghỉ trong thời gian tạm ngưng.”
      về chuyện gì vậy?”
      “Sau khi chúng tôi ngừng dự án, chúng bảo số nhóm kỹ sư được nghỉ phép. Có những lúc trong tòa nhà chỉ còn lại mấy người của bộ khung. vắng mặt lộ liễu nhất là nhóm Giao diện, do cậu có tên là Zach Levin đứng đầu.”
      “Nhóm Giao diện là cái gì?”
      “Đó là nhóm có trách nhiệm tìm cách giao tiếp với những mẫu thần kinh sau khi chúng được nạp vào máy thành công. có nhớ những điều tôi khi ở trong giảng đường ? Nếu tải bộ não người vào máy tính, có được gì? con người mù, câm điếc, liệt, sợ hãi đến chết. nửa cuộc chiến là để làm cho bộ não ấy có mắt, tai và giọng . Đó là công việc của nhóm Giao diện. Vì dự án bị ngưng nên nhóm này có cớ để vắng mặt. Nhưng bây giờ tôi biết rồi. Trời, giá mà có Fielding ở đây.”
      Rachel liếc nhìn tôi. “Nhưng nếu họ đến gần thành công như vậy giết Fielding để làm gì? Nếu Godin làm được Trinity, còn ai thèm quan tâm đến những tác dụng phụ hay cái gì khác nữa?”
      đúng đấy. Nếu chúng thực làm được điều ấy, Godin hầu như trở nên bất khả xâm phạm. Chúng tôi có đủ thông tin. Có lẽ...” Hai tay tôi giá lạnh. “Ôi trời!”
      “Cái gì thế?”
      “Tôi biết tại sao chúng giết Fielding.”
      “Tại sao?”
      “Có thể chúng làm được rồi.”
      muốn gì?”
      “Hôm qua, John Skow tuyên bố rằng gã có ý định thay thế Fielding. Tôi nghĩ gã điên. Nhưng bây giờ tôi hiểu rồi. Nếu chúng có máy tính nguyên mẫu và cho hoạt động Fielding chết.”
      Rachel bối rối quay sang tôi. “Điều đó có nghĩa là gì?”
      “Tôi muốn chúng có thể nạp mẫu thần kinh của Fielding theo như cách nạp tôi vào máy tính. Chúng trí tuệ Andrew Fielding dưới các đầu ngón tay của mình. Ông ấy có thể giải các bài toán còn lại cho chúng!”
      lái lúc năng gì. “OK, tạm thời cứ cho rằng điều ấy có thể . Nhưng tại sao Fielding lại giúp những người giết ông ấy?”
      Lòng tôi tràn ngập cảm giác ngưỡng mộ đến hãi sợ. Peter Godin nhẫn tâm hơn tôi từng tưởng tượng. “Mẫu thần kinh của Fielding giúp chúng bởi vì nó biết ông ấy bị giết. Việc tải vào máy được thực từ sáu tháng trước, khi Fielding được Siêu MRI scan. Nó nhớ gì kể từ lúc đó. Nó thậm chí biết việc Fielding cưới Lu Li.”
      “David, chuyện ấy thể xảy ra được.”
      “Chắc chắn là được. Chẳng qua chúng ta ngẫu nhiên đứng quá gần bước đột phá trong khoa học. Phản ứng phân rã nguyên tử. Tìm ra bản đồ gien người. Nhân bản vô tính cừu.”
      “Những cái vừa hoàn toàn giống với chuyện này. Giải phóng trí tuệ ra khỏi thân xác con người ư?”
      Tôi ngẫm nghĩ điều này. “ đúng. Chuyện này lớn hơn nhiều bởi vì nó cho chúng ta khả năng đạt được những bước tiến theo cấp số nhân. Hay đúng hơn, phải chúng ta. Mà là tất cả những gì chúng ta gọi là dạng mới của ý thức mà Trinity phát triển thành. Và nó phát triển rất nhanh chóng.”
      đâu biết chắc họ làm được hay chưa.”
      “Ít nhất chúng được đoạn đường. Có thể chúng bản thô và cho hoạt động. Có thể chúng tiếp cận được trí nhớ của tôi - rút ra những hình ảnh chẳng hạn - nhưng chưa thực vận hành nguyên mẫu đó như chức năng trí tuệ. Trí nhớ người là lĩnh vực chuyên môn của Ravi Nara, và người ta có những tiến bộ ngoạn mục trong lĩnh vực này từ trước. Chỉ có điều là ta cách gì biết được.”
      Rachel chạm vào tay tôi. “Nếu đúng, bọn họ biết gì về những việc chúng ta làm giờ?”
      “Tôi hy vọng là chúng biết gì cả. Dù bằng cách bí nào chăng nữa, chúng cũng thể đọc được ý nghĩ của tôi. Có thể chúng có được trí nhớ của tôi từ lúc cho đến cách đây sáu tháng, khi tôi bị Siêu MRI quét qua. Nhưng còn tiến trình suy nghĩ của tôi, còn những suy luận của tôi, nhân cách của tôi - những thứ đó chiếm toàn bộ chức năng của máy tính. Và nếu chúng có cả cái đó...”
      “Cái gì?”
      “Tổng thống quan tâm chuyện gì xảy đến với hai bác sĩ quèn. Đất nước chấp nhận thêm nhiều thương vong để xây tòa nhà chọc trời, hoặc cây cầu. Tôi với là cái giá đáng kể để trả cho ưu tiên chiến lược mà Trinity mang đến. Nếu Trinity thành công chúng ta phải chết.”
      chỉ qua kính chắn gió. “Kia là Caryville. Đường I-75. Chúng ta theo hướng Bắc hay Nam?”
      “Đỗ lại.”
      từ từ giảm tốc, đánh tay lái và dừng ngay bên lề đường, chỉ cách con dốc về hướng Bắc đoạn ngắn.
      “Tôi cố gắng thoát khỏi bản thân mình,” tôi to ý nghĩ của mình. “Để làm điều đó, chúng ta phải lựa chọn hoàn toàn ngẫu nhiên... Nhưng lựa chọn của tôi có thể ngẫu nhiên như thế nào? Tôi nghĩ chúng ta tung đồng xu xem sấp ngửa mỗi khi đến những ngã tư thế này.”
      Rachel lắc đầu. “Họ có bản scan não của tôi. Họ thể đoán được tôi sắp làm gì. Từ giờ tôi là người lựa chọn.”
      nhìn thấy vẻ nghi ngờ trong mắt tôi. “ vẫn chưa tin tôi phải ?”
      phải thế. Nhưng bây giờ Geli Bauer biết mọi thứ cần biết về . Ả còn biết cả những điều còn nhớ nữa.”
      Môi Rachel mím lại thành vạch trắng. “Tôi ghét ả. Tôi ghét ả, mà tôi còn chưa biết ả là ai kia.”
      “Tôi biết. Nhưng ghét ả cứu nổi chúng ta.”
      “Sao chúng ta lặn đâu đó? Trả tiền mặt ở nhà nghỉ tên trong thành phố tên chẳng hạn. Nhét chiếc xe tải này sau hàng rào rồi ngủ liền lấy ba ngày. Nước Mỹ quá rộng mà. Ngay cả với NSA.”
      bao giờ xem phim America’s Most Wanted chưa? Hằng tuần cảnh sát bắt hàng lô tội phạm lẩn trốn như cách vừa đề nghị đấy. Ti vi làm cho nước Mỹ chật hẹp hơn tưởng nhiều.”
      Tôi ngả lưng vào ghế và cố để bản năng ngự trị. Xe con và xe tải cứ xuôi ngược chạy qua, cái chậm rãi, cái làm xe chúng tôi rung cả lên vì gió mà nó tạo ra. Tôi ngồi đó, và tình hình cứ dần dần tự sáng tỏ.
      Ba ngày nữa, chúng tôi có thể có cơ hội gặp tổng thống. Vấn đề là chúng tôi phải cố sống sót để được với ông ấy. Những điều kỳ quặc dài lại càng dài thêm. Ngay cả khi gặp được Matthews, chúng tôi còn phải thuyết phục ông tin rằng tôi còn tất cả những người dính líu đến Dự án Trinity đều dối. Để làm được điều đó, tôi cần những chứng cớ vững chắc. Mà tôi có. Lựa chọn khác - ra trước công luận - chỉ làm tổng thống tin rằng tôi là kẻ loạn óc như mọi người ở Trinity vẫn , và chia rẽ người duy nhất có thể cứu chúng tôi. Ba ngày...
      “Chúng ta còn phải ngồi đây bao lâu nữa?”
      “Cho tôi phút.”
      Lẩn tránh phải là giải pháp. Chạy trốn cũng vậy. Những giải pháp thông thường ăn thua. Chúng tôi phải dùng cách độc đáo khiến ai thế giới này có thể đoán ra. Nhưng cách nào?
      Khi chăm chú nhìn luồng xe đến qua kính chắn gió, tôi nhận ra rằng tôi và Rachel ngồi đây chỉ vì lý do duy nhất: những giấc mơ của tôi. Những giấc mơ của tôi đưa chúng tôi đến với nhau. có những giấc mơ ấy, cả hai chúng tôi có thể bị bắn chết ở nhà tôi rồi. Thế mà tôi hiểu được gì thêm về chúng hơn cái ngày đầu tiên tôi bước chân vào phòng khám của Rachel.
      Hàng tháng trôi qua, những giấc mơ cũng tiến triển theo, giống như thông điệp dai dẳng được gửi từ nguồn vô tuyến điện xa xôi nào. Ban đầu, những hình ảnh khó hiểu khiến tôi bối rối, thậm chí hoảng loạn. Nhưng cùng với thời gian - và đặc biệt ba tuần gần đây, trong tôi bắt đầu kết tụ niềm tin rằng có điều gì đó quan trọng được thông báo cho tôi. Tất nhiên các bệnh nhân tâm thần phân liệt cũng cảm thấy niềm tin tương tự. Giữa tôi và họ có điểm gì khác nhau?
      Tôi nhắm mắt và cố gắng xóa những ý nghĩ trong đầu, nhưng lại phản tác dụng. Tôi bỗng thấy lên thành phố đồi được bao bọc bởi những bức tường thành đá vàng rực dưới nắng. Giữa bức thành là chiếc cổng lớn.
      Cửa Đông, giọng thầm trong đầu tôi. Jerusalem.
      Tôi chưa bao giờ thấy hình ảnh như vậy khi tỉnh thức. Tôi mở mắt và thấy Rachel căng mắt nhìn bảng đồng hồ. Tôi lại nhắm mắt nhưng hình ảnh kia biến mất như dư ảnh của bóng đèn flash.
      “David? Mắt làm sao thế?”
      sao đâu.”
      Tôi dụi mắt và cố hình dung điều vừa xảy đến. Trước đây tôi từng có cảm giác bị kéo đến nơi nhất định nào đó. Thuở còn đôi mươi, tôi du lịch rất nhiều và trong khi bị lôi cuốn bởi niềm đam mê xê dịch thời sinh viên, đôi lúc điều gì đó sâu sắc hơn kéo tôi ra khỏi hành trình chọn.
      Trong thời gian thăm Đại học Oxford, buổi sáng tôi bị đánh thức bởi cảm giác cần đến Stonehenge - phải để nhìn thấy nó, mà để có mặt giữa những tầng sa thạch. Người bạn đường của tôi việc gì phải vội vàng; những tảng đá nằm đó cả năm ngàn năm nay và chắc chắn có thể đợi thêm ít ngày nữa. Nhưng tôi vẫn thuê chiếc xe, lái về hướng Nam đến đồng bằng Salisbury. Khi màn đêm buông xuống, tôi mình đến gần vòng cung cổ và làm cái điều mà du khách ngày nay ai làm được nữa: bước giữa các tảng đá dưới ánh trăng và nằm lên bàn thờ tế thần linh. Tôi phải người say mê tìm hiểu về Thời đại Mới theo kiểu amateur, mà là sinh viên y khoa Đại học Virginia chờ mong nghiệp ổn định. Nhưng đó phải lần duy nhất xảy ra chuyện như vậy. Tôi bị lôi kéo đến Chichén Itzá cũng theo cách ấy. Và đường chạy xe đến Grand Canyon, tôi thay đổi lộ trình và cắm trại ở Chaco Canyon, New Mehico tuần lễ. Ở Hy Lạp, tôi lại đến Delphi thay vì Athens. Trong tất cả những hoàn cảnh ấy, tôi luôn cảm thấy thôi thúc bên ngoài, mặc dầu vẫn có tiếng gọi nào đó gọi tôi tới nơi nhất định.
      Điều tôi cảm thấy bây giờ hoàn toàn khác, thôi thúc bên trong giục giã tôi phải đến Jerusalem, bất chấp hậu quả. Việc thành phố này thờ ba tôn giáo là thích hợp. Tôi có điểm gì chung với hàng triệu người hành hương thành kính đến miền Đất Thiêng theo kế hoạch này. Tôi chỉ cảm thấy đây là thành phố chứa những câu trả lời cho tôi, những câu trả lời mà tôi thể tìm thấy ở nơi nào khác.
      “Chúng ta đâu đây?” Rachel cáu kỉnh hỏi.
      “Israel,” tôi đáp.
      “Cái gì?”
      “Jerusalem.”
      “David...”
      “Đó là bởi...”
      “Đừng nữa. Bởi vì bị hoang tưởng, đúng ?”
      “Đúng.”
      nhoài người tới nâng cằm tôi lên, rồi nhìn sâu vào mắt tôi. “David, người ta tìm cách giết chúng ta. Chính phủ tìm cách giết chúng ta. bị chứng hoang tưởng do những nguyên nhân mà chúng ta chưa biết, nhưng chứng bệnh này có thể gây tổn thương cho não bộ của . Thế mà lại định dùng những hình ảnh hoang tưởng này để dẫn dắt chúng ta tìm ra con đường tự cứu mình sao?”
      “Kẻ nào cố giữ mạng mình mất mạng.”
      “Cái gì?”
      Tôi lật ngửa bàn tay. “Tôi điều này cứu chúng ta. Ý tôi là nếu tôi bị săn đuổi và có nguy cơ bị giết, thà rằng điều đó xảy ra trong lúc tôi tìm ý nghĩa điều gì đó mà tôi tin là có ý nghĩa còn hơn.”
      tin rằng những hoang tưởng của có ý nghĩa?”
      “Phải.”
      “Tại sao?”
      “Tôi thể giải thích cách logic. Đó chỉ là điều tôi biết. Giống như con chim bay về hướng Nam vậy.”
      thở dài như người mẹ mệt mỏi chuyện với đứa con. “Cố lên, được , cố gắng giải thích .”
      Tôi nhắm mắt tìm từ ngữ để giải thích điều thể giải thích. “Tôi có cảm giác mình được chọn.”
      “Chọn để làm gì?”
      “Tôi chắc.”
      “Ai chọn?”
      “Chúa.”
      “Chúa?”
      “Phải.”
      hít sâu và đan tay đặt lên đùi. ràng phải đấu tranh để giữ được bình tĩnh. “Tôi nghĩ đến lúc phải cho tôi biết mấy hoang tưởng gần đây nhất là về cái gì? vẫn còn mơ thấy là Jesus à?”
      “Phải.”
      “Những hình ảnh ấy khác với hình ảnh trước ở chỗ nào? Tại sao lại giấu tôi?”
      Thế là cuối cùng chúng tôi đến lằn ranh giữa tỉnh táo và mất trí. Tôi thấy mừng vì chúng tôi ngồi trong xe tải chạy xa lộ chứ phải tại phòng khám của Rachel. thể gọi ai đến để cầu tôi cam kết. “Bởi vì tôi còn tin chúng là những hoang tưởng. Hay những giấc mơ. Tôi nghĩ chúng là ký ức.”
      chán nản thở phì ra. “Ký ức ư? Trời ơi, David! Có gì xảy ra trong những giấc mơ ấy?”
      “Tôi sống lại đoạn đời của Jesus. Người đến Jerusalem. Những trải nghiệm của Người ở đó. Tôi nghe thấy những giọng . Giọng của chính tôi... của các môn đồ. Rachel ạ, những gì tôi hình dung trong đầu còn thực hơn cảnh tôi nhìn thấy xung quanh. Các kiện diễn ra rất nhanh. Tôi sắp thấy cảnh đóng đinh lên thập tự giá rồi.”
      lắc đầu tin. “Làm thế nào có cái ký ức hai ngàn năm, thứ chỉ vào trí óc sáu tháng gần đây thôi?”
      “Tôi biết.”
      “Những giấc mơ này thôi thúc đến Israel à?”
      Tôi nghĩ mình cảm thấy thôi thúc như lúc trước, nhưng đúng là thế. Những gì tôi coi là nỗi lo lắng chung chung ra là cảm giác cưỡng bách lớn dần, hối tôi đến nơi diễn ra giấc mơ.
      “Đến Đất Thánh,” tôi . “Phải.”
      “Có phải sợ rằng mình chết trong đời thực nếu đến đó trước khi mơ về cảnh Chúa bị đóng đinh lên thánh giá ?”
      “Có thể. Chủ yếu tôi có cảm giác là nếu tôi sớm đến đó, tôi bỏ lỡ cơ hội tìm hiểu những giấc mơ cố gắng với tôi điều gì.”
      Rachel nhìn chăm chăm luồng xe đến, đầu lắc tới lắc lui. Rồi đột ngột quay sang tôi, đôi mắt mở to, rực sáng.
      có biết hôm nay là ngày mấy ?”
      .”
      “Còn chưa đầy tuần nữa là đến lễ Phục sinh.”
      Tôi chớp mắt. “ sao?”
      “Chúng ta đến gần ngày Jesus chết và phục sinh theo truyền thống. phải trong những giấc mơ của , mà cả trong thế giới thực.”
      muốn hai cái đó có liên hệ với nhau?”
      “Tất nhiên. Bằng cách nào đó, lễ phục sinh đến gần là duyên cớ cho những giấc mơ của , cho nỗi lo âu này. giống như những người nghĩ rằng sắp đến ngày tận thế khi bước sang thiên niên kỷ mới. thấy sao? Tất cả chỉ là bộ phận của hệ thống ảo ảnh.”
      Tôi lắc đầu mỉm cười. “ sai rồi. Nhưng đúng về những ngày lễ. Chúng có thể rất quan trọng.”
      Rachel nhìn tôi như nhìn kẻ trêu chọc cách tinh vi. “Còn cuộc gặp tổng thống thế nào?”
      “Chúng ta gặp sau khi trở về. Thêm vài ngày có gì khác đâu? Nhất là nó lại giữ gìn tính mạng cho chúng ta.”
      nhắm mắt và nhàng. “ bao giờ cho Andrew Fielding biết về những hoang tưởng của chưa?”
      “Rồi.”
      “Ông ấy bảo sao?”
      “Ông ấy bảo tôi hãy chú ý đến chúng. Fielding luôn luôn rằng khi cố gắng thực Trinity là chúng tôi bước theo những dấu chân của Chúa. Ông ấy biết mình đúng biết bao.”
      “Tuyệt. Quan điểm giống nhau.” Rachel đặt tay lên vô lăng như thể chạy đường, nhưng cho xe dừng lại. “ có ý định theo những hoang tưởng của đến Israel sao?”
      “Phải.”
      “Và thừa nhận những hoang tưởng ấy có thể là hậu quả tổn thương não bộ?”
      phải tổn thương não bộ như nghĩ đâu.” Tôi nghĩ đến phấn khích của Fielding khi ông diễn giải thuyết ý thức của mình. “Mà là những nhiễu loạn đối với quá trình lượng tử trong não tôi.”
      Rachel siết chặt vô lăng đến nỗi các khớp ngón tay của trắng bệch ra. “ cứ như kẻ quyết định đến Ai Cập tìm ý nghĩa cuộc đời sau khi mơ thấy mình là Pharaoh vậy.”
      “Tôi nghĩ tôi là thế đấy. Tôi biết chuyện đó nghe điên rồ thế nào. Vấn đề là, chúng ta có lựa chọn nào khác. Nếu cách này làm cho cảm thấy dễ chịu hơn, chúng ta ra bởi vì chúng ta cần làm điều gì đó mà có lẽ máy tính Trinity thể tiên đoán.”
      “Nó thể tiên đoán sang Israel sao?”
      . Chính việc quét não bằng Siêu MRI gây ra những giấc mơ của tôi. Mẫu thần kinh của tôi có ký ức về những giấc mơ diễn ra sau đó. Ngay cả trong bệnh án của tôi ở chỗ cũng nhắc đến Jerusalem, vì tôi thôi đến khám trước khi thành phố ấy trở thành tâm điểm trong những giấc mơ của tôi.”
      Rachel trông có vẻ đăm chiêu. “Đến Israel giống như đến Paris, hiểu . Đất nước ấy chiến tranh liên miên. Tôi từng đến đó. Họ đặc biệt chú ý đến những người vào ra nước họ. Hãng hàng Al El kiểm tra an ninh nhiều gấp bốn lần các hãng hàng khác. Và chúng ta bị chính phủ Mỹ săn đuổi. Ngay khi chúng ta tìm cách đặt vé máy bay, họ đón lõng chúng ta ở sân bay rồi.”
      đúng. Chúng ta cần hộ chiếu giả.”
      cười cay đắng. “ cứ như là chúng ta cần mua ít bánh mì và sữa đường về nhà vậy.”
      “Tôi còn mười tám ngàn đô la. Phải có cách kiếm ra hộ chiếu giả với số tiền ấy.”
      “Hộ chiếu giả cho chúng ta vào Israel dễ dàng thế đâu. Họ chạm trán với bọn khủng bố hằng ngày đấy.”
      “Bị bỏ tù ở Israel còn dễ chịu hơn bị giết ở đây.”
      Rachel ngả người ra ghế thở dài. “ đúng.”
      “Tôi định đến New York. Với mười tám ngàn đô la, tôi có thể kiếm được hộ chiếu giả ở đó. Tôi biết điều này.”
      “Còn tôi sao?”
      có thể . cũng có thể . Tùy .”
      gật đầu như thể chờ đợi câu đó. “Tôi biết. Nếu tôi sao?”
      Tôi nghĩ đến Geli Bauer. “ muốn tôi phải dối ư?”
      Rachel sang số, cho xe chạy lên dốc về hướng Bắc, rồi tăng tốc.
      New York phải ?” tôi hỏi.
      .”
      “Vậy đâu?”
      nhìn tôi, mặt bớt cảnh giác hơn bao giờ hết. “ muốn tôi với ?”
      Tôi muốn chứ. Hơn nữa, tôi có cảm giác đề nghị cùng tôi. “Tôi muốn với tôi, Rachel ạ. Vì rất nhiều lý do.”
      cười khô khan. “Thế là tốt, vì thể xoay xở được nếu có tôi. Việc ngất phố cho thấy hề khỏe. Nếu tôi để mình xe này bây giờ chết rồi.”
      “Tôi biết mà. ?”
      vượt chiếc xe bồn rồi nhàng quay vào làn phải. “Nếu muốn Israel, chúng ta phải tới Washington D.C. trước.”
      Tôi cứng người ghế. Bao nhiêu nghi ngờ về lại quay trở lại khiến tôi nôn nao.“Tại sao lại là Washington?”
      “Vì ở đó tôi quen người có thể giúp chúng ta việc này.”
      “Ai?”
      Tôi muốn dò xem có lừa dối trong mắt , nhưng vẫn chăm chú nhìn đường. “Tôi điều trị cho nhiều phụ nữ khi còn hành nghề ở New York. Thực ra hầu hết là phụ nữ.”
      “Rồi sao?”
      số họ có vấn đề với chồng.”
      “Và?”
      “Đôi khi tòa án cho phép những người chồng đến thăm con họ, mặc dầu có những chứng cớ lạm dụng thể chất. số bà vợ sợ điều có thể xảy ra đến nỗi chỉ còn cách bỏ trốn.”
      Tôi cảm thấy lòng bàn tay ngứa ran. “ về trường hợp giám hộ. Bắc cóc ngay chính con của họ.”
      gật đầu. “Trốn tránh cảnh sát phải là khó nếu chỉ có mình. Nhưng nếu có trẻ con gay go. phải đưa đón nó đến trường, chăm sóc y tế, đại loại thế.” liếc nhìn tôi, nét mặt căng thẳng. “Những người phụ nữ ấy có mạng lưới. Như hệ thống đường sắt ngầm. Chuyện này cần có tài xoay xở.”
      “Danh tính khác?” tôi
      “Phải. Đối với trẻ con, nền móng của căn cước mới là giấy khai sinh. Đối với người lớn, là thẻ an sinh xã hội và hộ chiếu. Tôi biết nhiều chi tiết, nhưng tôi biết rằng người giúp đỡ những phụ nữ ấy ở Washington.”
      “Những phụ nữ ấy mua hộ chiếu giả ở Washington D.C. à?”
      Rachel lắc đầu. “ phải hộ chiếu giả. Mà là hộ chiếu .”
      ? Ý là sao?”
      liếc nhìn tôi, miễm cưỡng tiết lộ điều biết. “Có phụ nữ làm việc trong cơ quan cấp hộ chiếu ở Washington D.C. Mấy năm trước ấy có vấn đề với chồng. ấy rất đồng tình với nghề nghiệp này. Tôi biết ấy là ai, nhưng tôi biết người mà tôi có thể gọi. bệnh nhân cũ.”
      “Nghề nghiệp này,” tôi . “Nó vẫn tiếp tục à?”
      “Phải. Tôi gửi phụ nữ từ Chapel Hill đến chỗ họ. Vợ của bác sĩ.”
      “Ồ.”
      “Tôi chỉ thấy có vấn đề nghiêm trọng,” Rachel .
      “Vấn đề gì?”
      là đàn ông. Tôi biết liệu họ có sẵn lòng giúp .”



      CHƯƠNG 24

      Lần này khi cánh cửa bảo vệ rì rì mở ra, Geli biết đó là Skow. Ả cũng biết rằng có tin xấu, vì ả mới liên lạc với gã trước đó, và lúc ấy nhân vật NSA này tỏ vẻ rất mệt mỏi khi phải ra khỏi giường. Ả xoay ghế và thấy gã sải bước về phía ả, lần đầu tiên diện bộ comple hiệu Brooks Brothers thường ngày. Hôm nay gã mặc quần kaki và áo thun MIT. Mắt Skow thâm quầng, nhưng trông gã vẫn giống nhà quản trị đại học hơn là chuyên gia về chiến tranh thông tin.
      “Hôm nay trông như cứt ấy,” Geli bảo gã.
      “Tôi cảm thấy còn tồi tệ hơn.”
      đếch đến đây nếu có tin tốt.”
      đúng đấy. Ravi Nara gọi điện cho tôi ngay khi tôi và vừa bỏ máy.” Gã ngồi phịch xuống chiếc ghế sau lưng ả. “Cho tôi điếu thuốc.”
      có hút đâu.”
      “Ồ, Geli, có nhiều chuyện biết về tôi đâu.”
      Ả lắc bao thuốc Gauloise lấy ra điếu, châm lửa đưa cho gã.
      Skow hít hơi sâu rồi nhả khói mà ho sặc sụa. “Chuyện khốn nạn lắm.”
      “Nara gọi từ đâu đến?”
      Skow lắc đầu. “Mọi việc phải có thứ tự. Bây giờ hãy nghe tôi .”
      Ả vắt tréo chân ngồi đợi.
      “Từ trước đến nay và tôi luôn giữ miếng, giấu nhau nhiều điều. đến lúc cần phải sáng tỏ. Càng sáng tỏ càng tốt.”
      “Tôi nghe đây.”
      “Ở Trinity này Godin luôn ngăn chia các bộ phận với nhau, nên tôi biết là biết những gì. biết chúng ta nghiên cứu trí tuệ nhân tạo, nhưng có biết chính xác nó là thế nào ?”
      cho tôi biết .”
      “Chúng tôi sử dụng kỹ thuật MRI tiên tiến để tiến hành quét phân tử bộ não, rồi cố gắng nạp bản sao đó vào máy tính mẫu có tính đột phá.”
      “Tiếp tục .”
      “Mục tiêu của chúng tôi là tạo ra trí tuệ nhân tạo phải bằng cách ứng dụng kỹ thuật ngược với bộ não, mà copy nó bằng kỹ thuật số. Kết quả là, nếu thành công, phải máy tính làm việc như bộ não người, mà thực tế chính máy tính là bộ não của con người nhất định. hiểu ?”
      Trước đây Geli nghĩ rằng các bản chụp của MRI được sử dụng để nghiên cứu cấu trúc não người, phải như nền tảng thực tế của cái máy. “Nguyên tắc này nghe có vẻ dễ hiểu đấy chứ.”
      Skow cười giả lả. “Về lý thuyết dễ . Và sớm muộn gì nó cũng được thực . Nhưng khác nhau giữa sớm hơn và muộn hơn có tầm quan trọng sinh tử với và tôi.”
      “Tại sao?”
      “Tại vì Peter Godin sắp chết.”
      Có cái gì rung lên trong ngực ả khi nghe khẳng định điều mà ả vẫn nghi ngờ nhưng thú nhận này. Những hình ảnh về Godin lướt nhanh qua trước mắt ả: cái mặt sưng phồng, cái miệng trễ xuống, dáng vụng về khó coi.
      “Sắp chết như thế nào?”
      “Peter có khối u não. Ravi Nara phát ra nó cách đây sáu tháng, khi làm ca chụp não đầu tiên. Đó là lý do tại sao hai ngày qua liên lạc được với Godin. Khi nào ông ta trực tiếp điều hành Trinity, là lúc ông ta điều trị.”
      Geli cựa quậy ghế. “Ông ấy còn sống được bao lâu nữa?”
      “Bây giờ chỉ còn tính từng giờ. Nhiều lắm là ngày. Khối u này thể mổ được, ngay cả ở giai đoạn đầu khi Nara phát ra nó. Peter nghĩ rằng nếu chính phủ biết ông ta bị ung thư giai đoạn cuối, chính phủ chuyển giao các nguồn lực cần thiết để biến Trinity thành thực. Giữa ông ta và Ravi có thỏa thuận. Ravi giữ kín chuyện ông ta bị ung thư và điều trị bằng steroid khiến ông ta có thể hoạt động đủ lâu để hoàn thành Trinity. Tôi ghét nghĩ đến việc Nara đòi hỏi có có lại.”
      “Nara khôn như cáo.”
      “Đúng. Vấn đề là trong chương trình Trinity có điểm bị giấu kín ngay từ đầu. Peter làm ra Trinity để lưu giữ cuộc đời ông ta.”
      định gì?”
      “Nếu máy tính Trinity đuợc hoàn tất trước khi Peter chết, mẫu thần kinh của ông ta có thể được nạp vào đấy. Thân thể ông ta có thể chết, nhưng ông ta vẫn tiếp tục tồn tại trong máy tính với tư cách là Peter Godin.”
      Geli chớp mắt hoài nghi. “Chẳng có quái gì trong chuyện này làm tôi tin được.”
      Skow cười. “Điều đó những có thể xảy ra, mà còn là thể tránh khỏi. Có điều là nó xảy ra ngay tuần này thôi.”
      “Nếu điều đó là , mẫu thần kinh của Godin hay gì đó lại thể nạp vào máy tính sau khi ông ấy chết hay sao? Hễ khi nào Trinity kết thúc?”
      “Tất nhiên. Nhưng trong kịch bản này, Peter phải chết mà biết chắc chuyện đó có xảy ra hay . Ông ta phải chết theo cách mọi người từng chết từ trước tới nay. Và ông ta buộc phải tin tưởng ở chúng tôi để được phục sinh trong máy tính.”
      “Tôi hiểu.” Ả chìm đắm trong suy nghĩ về cái chết cận kề của Godin. “Rồi, chính xác vì sao đến đây?”
      Skow rít hơi thuốc Gauloise nữa rồi chỉnh ả bằng cái nhìn trừng trừng vẻ nghiêm trọng. “Tôi đến đây là để cứu lấy cái mạng chó của . Và cả của tôi nữa.”
      “Tôi thấy là cần phải cứu nó.”
      “Cần đấy. Bởi vì dự án Trinity sắp tiêu rồi.”
      Bây giờ ả hiểu. Con tàu sắp chìm và đàn chuột nháo nhào tìm xuồng cứu sinh. “Nhưng sao thể thành công.”
      “Ừ cuối cùng cũng thành công. Nhưng Godin sắp chết trước khi ông ta làm cho máy chạy, và còn ai có thể đưa nó sang giai đoạn sau. Fielding chết. Ravi cống hiến hết khả năng mà y có. Công việc còn lại vượt quá tầm với của y. Và nếu chúng tôi vận hành được máy tính Trinity, sau khi tiêu tốn cả tỷ đô la...”
      tỷ?”
      Skow có vẻ sốt ruột. “Geli, nguyên mẫu Trinity được chế tạo chủ yếu bằng các ống nano carbon. Đó chỉ là công nghệ tiên tiến nhất. Chúng tôi phải sáng tạo ra cả môn khoa học mới. Chỉ riêng chi phí vật liệu R&D gây sửng sốt. Nghiên cứu trí nhớ bằng hình ảnh laser ba chiều cũng tốn như thế. Chúng tôi...”
      “OK, tôi hiểu.” Ả chỉ nghĩ tới việc thoát thân. “ rằng khi nào Godin điều trị, ông ấy làm việc cho Trinity. Bây giờ ông ấy làm việc ở đâu? Mountain View?”
      Skow lắc đầu. “Trinity có cơ sở nghiên cứu khác. Tôi nó ở đâu cho đến khi chúng ta đến thỏa thuận. Nhưng nó được lập ra cách đây hai năm, ngay sau khi chúng tôi biết tổng thống nhất định bắt chúng tôi nhận Tennant để giám sát khía cạnh đạo đức của dự án. Godin biết có ngày ông ta làm việc cho Trinity mà Tennant hay chính phủ biết ông ta làm gì. Vì vậy ông ta lập ra nó.”
      Nhận thức của Geli về tình hình thay đổi theo từng câu của Skow. “Vậy ngay bây giờ Trinity ở đâu? Hoàn toàn ngừng hoạt động à?”
      . Vào lúc này, chúng tôi cho hoạt động phần. Chính nguyên mẫu Trinity tiên đoán Tennant chạy đến Frozen Head. Mẫu thần kinh của Tennant về cơ bản cho chúng tôi biết có thể ở đâu.”
      Geli thấy khó lòng mà tin điều này. “Chính thấy điều đó à?”
      . Nhưng tôi thấy cái máy nguyên mẫu. Nó vượt xa mọi tưởng tượng.”
      “Chính nhờ nó mà biết về Frozen Head, chứ phải từ bác sĩ Weiss à?”
      “Đúng.”
      “Trời đất. Nếu nó có thể làm được chuyện đó, sao lại coi là nó thất bại?”
      Skow giơ tay lên vẩy qua vẩy lại. “ phần của Trinity hoạt động. Nhưng nó mới chỉ hoạt động được hai mươi giờ, và khó giải thích cho biết phức tạp của việc hoàn thiện nó. Họ thành công với khu vực trí nhớ, nhưng khu vực xử lý chính lại là chuyện hoàn toàn khác.”
      “Là viên pha lê, phải ?” Geli ra ý nghĩ của mình. “Viên pha lê dây đồng hồ của Fielding. Đó là cái cần để khiến nó hoạt động.”
      “Đúng. Fielding phá hoại dự án, nhưng lão cũng ghi chép lại tất cả những việc lão làm. Ngay cả khi lão bẻ mã khóa của người khác, lão vẫn lưu giữ mã khóa gốc ấy vào viên pha lê của lão. Những kẻ lý tưởng hóa là những tay phá hoại ghê gớm. Fielding đơn giản là thể phá hoại tiến bộ khoa học đích thực. Dù sao, khi chúng tôi có được viên pha lê đó, chúng tôi khôi phục tất cả các mã khóa của máy mà Fielding bẻ. Nhưng phần hoa hồng lớn nhất chúng tôi chiếm được là công trình gốc do chính tay Fielding làm. Lão ta thể cưỡng lại việc cố gắng giải quyết cho chúng tôi những bài toán còn lại, ngay cả khi lão cản trở tiến độ của chúng tôi. Công trình mới của Fielding đặt thành công của Trinity trong tầm tay. có viên pha lê đó, máy nguyên mẫu thể hoạt động gì được.”
      “Nhưng bây giờ nó hoạt động phần, tại sao chính phủ thể dùng các nhà khoa học khác để chiếm lĩnh và hoàn thiện nó?”
      “Họ có thể làm được điều đó nếu họ hiểu về nó. Nhưng họ hiểu. Mọi việc Godin làm từ khi chương trình bị hoãn đều là được phép và bất hợp pháp.”
      “Thế đưa máy nguyên mẫu trở về tòa nhà này .”
      “Godin cho phép. Chuyển xong ông ta cũng rồi.”
      rằng ông ấy sắp chết.”
      “Cũng nhanh thế đâu.” Nỗi lo lắng lên trong mắt Skow. “Nếu chúng tôi vận hành được Trinity, có ai trong chính phủ Mỹ hoặc lo lắng về chi phí sản xuất - chi phí về tiền hay về người. Nhưng trong trường hợp thất bại, có những câu hỏi hóc búa đấy.”
      “Ý muốn gì?”
      “Thất bại đòi hỏi có người giơ đầu chịu báng.”
      “Tôi chẳng dính dáng gì đến việc chế tạo chiếc máy đó hết.”
      “Phải. Nhưng người ta có thể cho rằng thất bại này là do Fielding chết. Mà ai giết Fielding?”
      Bây giờ biết Skow muốn hướng câu chuyện đến đâu. “ bắt đầu làm tôi cáu tiết đấy.”
      Gã NSA lật ngửa bàn tay. “Tôi chỉ vẽ ra kịch bản có thể có. là người thích hợp với vai diễn. Có tiếng là quá hăng hái...”
      có muốn còn sống mà ra khỏi phòng này ?”
      Skow mỉm cười. “Tôi chỉ cho thấy cá nhân mắc kẹt trong chuyện này. Bây giờ chưa biết Tennant và Weiss chạy trốn ở đâu. Còn Lu Li Fielding vẫn biệt tăm.”
      “Đó là ba vấn đề tôi giải quyết được.”
      “Tất cả các chứng cớ ngược lại.”
      Ả ném cho gã cái nhìn tóe lửa.
      “Bình tĩnh nào,” Skow . “Dù sao lúc này tôi cũng muốn Tennant chết. Để cho xác chết chồng đống lên là ngu ngốc. Điều đó làm cho khó khăn của chúng ta tăng lên vạn bội.”
      Ả cảm thấy hai người sắp đến mấu chốt trong cuộc gặp này. “OK, nếu tôi phải là kẻ giơ đầu chịu báng, là ai?”
      “Là Peter Godin.”
      “Cái gì?”
      Skow nhả vòng khói xanh rất nghệ ra khoảng giữa hai người. “ thử nghĩ xem. Sau khi Godin chết, mọi việc có thể giải thích bằng cách chỉ cần cường điệu . Ông ta chết dần chết mòn vì khối u não từ lâu. ai trong chúng ta biết việc này. Peter là con người vĩ đại, nhưng khối u tác động xấu lên trí óc ông ta. Ông ta bị ám ảnh bởi ý nghĩ phải cứu lấy mạng sống của mình. Ông ta thấy Trinity là phương tiện duy nhất có thể giúp ông ta làm được việc đó. Khi Fielding và Tennant làm trì hoãn dự án, Godin hoảng sợ và ra lệnh thủ tiêu hai người.”
      Geli ngả người ra ghế và chìm đắm trong suy nghĩ về kịch bản này. Lý lẽ là hoàn hảo. Đây là lời dối trá trắng trợn, biến đen thành trắng.
      “Nếu chúng ta làm thế,” Skow tiếp tục, “ dù Tennant có nữa cũng ảnh hưởng đến ta. Đó là giải pháp thanh nhã hơn giết người nhiều.”
      “Có vấn đề,” Geli . “Nếu ta để cho Tennant sống, lu loa với mọi người rằng tôi là người cố tìm cách giết .”
      thế ư?” Skow mỉm cười, lắc đầu. “Ai đến nhà Tennant để giết . Tennant và Weiss nhìn thấy ai?”
      “Ritter.”
      “Chính xác. Và Ritter Bock là nhân viên của tập đoàn Siêu máy tính Godin trước khi đến đây. Đúng ?”
      Skow có vẻ tính hết đường nước bước. “Đúng.”
      “Có ai biết ra lệnh cho Ritter giết Tennant ?”
      “Tôi chưa bao giờ ra lệnh như thế.”
      Skow toét miệng cười. “Tất nhiên là . Tôi thể tưởng tượng có thể làm như thế. Godin trực tiếp ra lệnh cho Ritter, cận vệ riêng của ông ta. Bác sĩ Tennant gặp may và bắn chết Ritter để tự vệ. trong sạch như tuyết, Geli ạ. Tất cả mọi việc làm là theo lệnh Godin.”
      “Còn ?”
      “Vào lúc tôi nhận ra rằng phải Fielding chết vì những nguyên nhân tự nhiên, Ritter chết và Tennant chạy trốn. Từ đó đến nay tôi cố gắng tìm ra .”
      Geli vẫn cố tìm ra kẽ hở trong kịch bản. “Còn tại sao chúng ta lại vội vã hỏa táng Fielding như thế?”
      “Khi chúng ta nhận ra lão bị giết, chúng ta nghi ngờ có tác nhân sinh học có khả năng truyền nhiễm cao. Nara khuyên nên hỏa thiêu thi thể và tất cả các mẫu máu ngay lập tức. Đó là cách duy nhất để giữ an toàn cho tòa nhà này.”
      “Liệu Nara có chịu xác nhận chuyện này ?”
      “Y làm tất cả để bảo vệ tiếng tăm của mình.”
      Geli đứng lên lại lại trong trung tâm điều khiển. Skow xoay ghế nhìn theo ả.
      “Nếu Godin thành công ra sao,” ả hỏi. “Nếu như Godin có thể vận hành máy trước khi ông ấy chết, và nó có mọi khả năng như ông ấy hứa hẹn?”
      “Nara chuyện đó thể xảy ra. Ông ta suy yếu rất nhanh.”
      trớ trêu của tình hình làm ả chán nản. “ biết , tôi quý Peter Godin. Tôi kính trọng ông ấy. Còn lại là người tôi chẳng ưa chút nào. Tôi cũng chẳng tôn trọng , cho đến khi mang kế hoạch này đến. Cái này có thể có tác dụng.”
      “Nó sắp có tác dụng đấy. Chỉ còn thiếu điểm là .”
      thấy có cách nào khác hơn là hợp tác. “ cho tôi biết địa điểm kia của Trinity ở đâu, tôi thỏa thuận với .”
      Vẻ tự tin biến khỏi mặt Skow. “Tôi được tự do làm điều đó.”
      “Tại sao ?”
      hiểu ngay thôi. Tôi cho tên của người phụ trách an ninh ở chỗ mới. Có gì cứ thắc mắc với ông ta.”
      Geli dừng lại mà nhìn gã chằm chằm. “Trò gì thế này?”
      “Đó là cách ông ta bảo tôi phải làm theo, và ông ta là loại người mà tôi muốn biến thành kẻ thù.”
      là tay quái nào thế?”
      Skow lắc đầu. “Tôi cho số điện thoại của ông ta.”
      “Tôi gọi cho bất kỳ ai chừng nào chưa biết người mà tôi gọi là ai.”
      Gã rít hơi thuốc, nhìn ả vẻ thương hại. “Tướng Horst Bauer.”
      Geli nóng bừng mặt. Bao nhiêu tự hào về công việc của ả ở Trinity bỗng chốc tan biến trong thất vọng ê chề. “Cha tôi phụ trách an ninh ở địa điểm mới của Trinity?”
      “Đúng.”
      là đồ chó đẻ. Tại sao lôi cả cha con tôi vào vụ này?”
      Mặc dầu miễn cưỡng ra mặt vì phải , Skow hình như cũng cảm thấy đừng hòng ả hợp tác chừng nào gã chưa trả lời.
      “Rất đơn giản,” gã . “Tất cả mọi khía cạnh của Trinity được Godin giám sát ngay từ đầu. Nhờ kinh nghiệm tình báo quân của mình, cha có ảnh hưởng đến việc chọn loại máy tính được quân đội sử dụng trong số căn cứ. Lầu Năm Góc, các căn cứ khác nhau, và bây giờ là Huachuca.”
      Căn cứ Huachuca, bang Arizona, là trung tâm của Tình báo Quân Mỹ, mà cha ả là sĩ quan chỉ huy.
      “Tướng Bauer giúp bảo vệ các hợp đồng cho Siêu máy tính Godin từ phía quân đội,” Skow . “Ảnh hưởng của ông giúp Peter đánh bật Cray, NEC và các hãng khác.”
      “Ý ông ấy nhận tiền.”
      “Bộn lắm đó. Ông ấy có tài khoản số Cayman do Peter rót tiền vào, giống như tôi. Tiền lương của NSA đủ chu cấp cho lối sống của tôi.”
      “Lão già đạo đức giả đốn mạt. Tôi nghĩ ít nhất lão cũng nghĩ đến đất nước, đằng này lão lại... thôi bỏ . Lẽ ra tôi phải biết chuyện này.”
      “Cha làm hại đất nước bằng cách thúc đẩy siêu máy tính Godin đâu. Nó cũng tốt như mọi việc khác thôi. Ông tướng chẳng qua nhận chút tiền hoa hồng khi phát ra nó. Bây giờ người ta làm ăn thế cả.”
      Vết sẹo mặt Geli như giật giật vì thịnh nộ. “Quân đội là nơi phục vụ, phải chỗ làm ăn.”
      Skow chặc lưỡi. “Tôi chưa bao giờ nghĩ lại lãng mạn đến thế.”
      “Cái mả mẹ .”
      “Dẫu sao, khi Godin quyết định tìm địa điểm nghiên cứu bí mật, ông ta gọi cha . Ít tiền trao tay, và ông tướng kiếm cho chúng tôi chỗ hẻo lánh ngon lành sợ có kẻ quấy rầy.”
      “Tại sao đưa tôi vào vụ này?”
      “Lúc đó Godin tìm kiếm người thích hợp với công việc làm bây giờ. Và cha tiến cử .”
      Geli bắt đầu tới lui, mạch máu đập thình thịch trong tai ả. “Ông ấy biết hết cả rồi phải ? Chuyện Godin sắp chết, chuyện dự án bế tắc?”
      “Phải. Cả ông ấy cũng dính dáng. Ông ấy cũng có nghiệp cần bảo vệ.”
      “Hừm, mặc xác ông ấy. Mặc xác cả nữa.”
      gọi cho ông ấy , Geli.”
      “Địa điểm bí mật của Trinity ở căn cứ Huachuca phải ?”
      .”
      tin gã. Có hàng trăm héc ta đất dùng để thử vũ khí tại căn cứ Arizona hoang vắng. Mặt khác, cha ả là bậc thầy trong nghệ thuật giấu đuôi. Ông ấy có lẽ từ chối nếu Trinity trở thành gánh nặng và chắc gì cho đặt nó trong căn cứ của mình.
      Ả kéo tai nghe lên, bấm bàn phím máy tính, và , “Thiếu tướng Horst Bauer, căn cứ Huachuca, Arizona.”
      Skow thở dài nhõm đánh sượt.
      Sĩ quan phụ tá của ông tướng trả lời điện thoại.
      “Tướng Bauer,” Geli cáu kỉnh.
      “Thiếu tướng có đây. Xin hỏi ai ở đầu dây vậy?”
      “Đại úy, ông hãy con của thiếu tướng chờ điện thoại.”
      “Xin giữ máy.”
      Skow thích cảnh này ra mặt. Geli xoay ghế để khỏi phải nhìn khuôn mặt già nua tinh tướng của gã.
      Trong khi chờ đợi, hình ảnh ông bố lên trong tâm trí ả. To cao bệ vệ theo khuôn mẫu Đức, Horst Bauer được các đối thủ mô tả như phiên bản tóc vàng của nhân vật Tướng James Mattoon Scott trong phim “Seven Days in May” do Burt Lancaster thủ vai. So sánh như thế là xác đáng. Tuy vậy cái típ người cứng nhắc trong mắt mọi người ấy phải là người đàn ông Geli biết. Geli chỉ thấy gã đàn ông léng phéng suốt đời lừa dối vợ mình và reo rắc những đứa con ngoài giá thú khắp nơi. Ả thấy kẻ vũ phu, hổ thẹn vì đứa con ngang ngạnh của mình, đánh đập nó tiếc tay bằng bất cứ vật gì vớ được. Cái trớ trêu của đời ả là ả theo đúng vết chân của người mà ả căm ghét. Lý do rất đơn giản. Ả căm ghét cha mình vì ông ta làm ả khiếp sợ đến tận xương tủy, nhưng ả còn khinh thường tính thụ động của mẹ mình hơn nhiều.
      “Nào, Geli,” giọng trầm cất lên làm tất cả các bắp thịt trong người ả căng cứng. “Chắc con gặp rắc rối. Con có bao giờ gọi cho ta đâu.”
      Ả định dập ngay máy, nhưng ả cần câu trả lời. “Ông biết gì về dự án trí thông minh nhân tạo?”
      “Đùa như thế là hơi quá rồi đấy. Con vừa hỏi câu ràng.”
      “Ông muốn ràng hả? Tôi phụ trách an ninh cho Dự án Trinity ở Bắc Carolina. Tôi được người ta cho biết có cơ sở bí mật tiến hành nghiên cứu cho dự án này. Ông có biết gì về chuyện đó ?”
      khắc im lặng. “Có lẽ ba biết đôi điều.”
      “Và ông chưa bao giờ cho tôi biết bởi vì...”
      tiếng cười khô khốc. “Thế mà ba nhận ra rằng chúng ta bắt đầu chương trình khôi phục tình cha con đấy.”
      “Ông đề cử tôi cho công việc này với Godin à?”
      “Thế con tưởng ông ấy tìm ra con bằng cách nào khác nữa? Còn về chuyện cho con biết việc ba dính líu vào đây, Godin muốn tách bạch mọi thứ, ai biết việc người ấy. Con thể cáu giận về chuyện đó. Con chẳng bao giờ với ba về cuộc sống của con ngay từ tuổi dậy . Ba chỉ biết về con qua những tin đồn, hay qua cảnh sát hoặc bác sĩ.”
      Có những trận chiến bao giờ kết thúc. Ả nghĩ. “Chẳng ích lợi gì mà hâm nóng lại quá khứ. Tôi biết những gì tôi cần biết.”
      “Vậy con có tình hình ? Cần phải làm gì?”
      “Tôi rồi.”
      “Skow chẳng có gan đâu, nhưng lại rất có tài kiểm soát thiệt hại đấy.”
      “Tôi cúp máy đây,” ả nhưng vẫn giữ nguyên liên lạc.
      “Cứ cúp ,” ông tướng . “Ba có cảm giác sớm gặp lại con.”
      Ả giật phắt tai nghe ra và giận dữ nhìn Skow.
      “Thế nào?” gã NSA , “Chúng ta cùng hội cùng thuyền cả phải ?”
      “Cút .”
      vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi.”
      “Tôi còn có thể lựa chọn gì? Nhưng điều làm tôi phát ốm là người như Godin lại bị suy sụp đến nỗi để những kẻ cặn bã như và cha tôi có thể coi thường. đáng xách dép cho Peter Godin.”
      Cuối cùng Skow cũng đỏ bừng mặt. “ có đồng ý về vụ Tennant và Weiss ? Ta bắt sống chúng về nhé? với chúng tất cả là do hiểu nhầm.”
      “Godin vẫn còn chưa chết.”
      “Đúng.”
      “Và ta biết chúng ở đâu. Ta thể liên lạc với chúng trừ khi lên ti vi cho cả thế giới cùng biết.”
      “Cũng đúng nốt.”
      “Tôi vẫn chắc mình muốn Tennant chạy rông khắp nơi mà cho mọi người biết nghĩ gì về mọi chuyện xảy ra ở đây. quen biết mấy nhân vật có thế lực đấy.”
      Skow đăm chiêu gật đầu. “Tôi bảo thế này nhé. Tôi để Tennant và Weiss cho xử lý. Nếu chúng phải chết, ta để điều đó diễn ra.”
      để việc ấy cho tôi là chuẩn đấy.”
      Gã đứng lên bước ra cửa. “Còn câu hỏi nào nữa ?”
      “Còn thôi. Tại sao Fielding lại phá hoại dự án?”
      Skow mỉm cười. “Lão cho rằng các nhà khoa học nên sáng tạo ra những thứ họ hiểu.”
      “Thế tạo sao lão lại nhận làm việc cho dự án?”
      “Có lẽ lão tin nó có thể tiến nhanh đến thế. Lão nghĩ chúng tôi phải có được những kiến thức cần thiết về bộ não mới vận hành được Trinity.”
      “Thế các có được những kiến thức ấy chưa?”
      đùa đấy à? Nếu Trinity hoạt động đủ trăm phần trăm, nó hoàn toàn bỏ xa chúng ta.”

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 25

      Tôi chọn nhà nghỉ rẻ tiền ở Arlington, từ Washington vượt qua sông Potomac, ở nơi mà người tiếp tân nhướng mày lên khi khách đề nghị trả tiền mặt. phòng, hai giường đôi, buồng tắm, ti vi, điện thoại. Vừa vào đến phòng, Rachel trút ngay bộ áo liền quần ngụy trang rồi chui tọt vào buồng tắm vòi sen. Tôi thấy mình dõi theo đến khi cửa buồng tắm đóng lại. Cách ăn mặc thoải mái của hôm trước đáng ngạc nhiên sau hàng tuần chỉ thấy váy áo chỉnh tề. Khi nhìn thấy tự nhiên bước ngay trước mắt tôi trong bộ đồ lót, tôi thay đổi ý nghĩ về . Cơ thể Rachel săn chắc và có cơ bắp, đặc điểm mà chỉ những người thường xuyên luyện tập căng thẳng mới duy trì được. Điều này hợp với ấn tượng của tôi về như bác sĩ uyên bác, nhưng có lẽ nó hợp với khuynh hướng ám ảnh cưỡng chế của chăng.
      Tôi lấy mấy bộ quần áo đường trong xe tải ra, rồi mua tờ Washington Post và hai chai Dasani từ máy bán hàng tự động trong bãi đậu xe rồi trở về phòng. Từ dưới khe cửa buồng tắm tỏa ra làn hơi nước. Tôi thay bộ quần áo thường ngày, gối đầu lên tấm ván đầu giường và mở đài CNN. có tin tức gì của liên bang về những kẻ chạy trốn, thế là tôi đọc lướt qua tin tức trong tờ Post.
      Chúng tôi bắt đầu chuẩn bị cho chuyến Israel trong suốt tám giờ lái xe từ Tennessee. Bước đầu tiên là lo kiếm hộ chiếu giả. Chúng tôi lợi dụng bến đỗ xe tải gần Roanoke để Rachel gọi cuộc điện thoại đầu tiên. trong các bệnh nhân cũ của ở New York cho số điện thoại liên lạc ở Washington D.C. và bảo đợi tiếng sau hãy gọi. Trong giờ đó, có người xác nhận cho Rachel với người ở số điện thoại cần gặp.
      gọi cuộc thứ hai ở Lexington, bang Virginia, cuộc gọi hướng dẫn đến tiệm cà phê Au Bon Pain ở ga Liên Hiệp Washington vào lúc mười giờ sáng mai. Người ta cũng bảo chọn lấy hai tên họ đầy đủ cùng với ngày sinh, và kiếm ảnh hộ chiếu cho những “người bạn” đến. nên mang theo ảnh cùng thẻ có tên và miêu tả nhân dạng cho người ở cuộc hẹn tại Au Bon Pain. Khi Rachel hỏi bao lâu nhận được những thứ cầu, nguồn kia cho biết thường phải chờ đợi bốn mươi tám tiếng.
      Từ Lexington đến đường liên bang 66, chúng tôi nhận ra còn vấn đề khác phải giải quyết. Thẻ tín dụng. Mua vé máy bay Israel bằng tiền mặt làm nảy sinh nghi vấn, cũng như việc chúng tôi đặt phòng trước. Bạn bè hoặc người thân có thể phải đặt phòng cho chúng tôi theo tên mới, bằng cách dùng thẻ tín dụng hợp pháp. Cha tôi chết, tất cả bạn bè giờ này trong vòng theo dõi của NSA. Cha mẹ Rachel, chồng cũ và bạn bè của có lẽ cũng bị theo dõi như vậy. Cuối cùng chọn cách gọi cho bác sĩ mà suýt đính hôn khi theo học Đại học Columbia. ta là người Do Thái, thường xuyên qua lại Israel, và là người luôn tận tụy với . Tôi nghĩ việc đặt phòng khách sạn và vé máy bay dưới tên người quen biết có thể khiến ta lo ngại, nhưng Rachel đảm bảo với tôi rằng bất cứ việc gì cầu được hoàn thành. thử gọi cho ta ba lần trước khi chúng tôi đến thủ đô, nhưng gặp may. Máy trả lời tự động của ta từ chối cung cấp số điện thoại di động của , còn Rachel thể để lại số cho ta gọi lại.
      Cửa buồng tắm bật mở kéo theo làn hơi nước mù mịt, và Rachel xuất với chiếc khăn tắm quấn quanh người, chiếc khác quấn đầu.
      “Nước vẫn còn hơi nóng đấy. Có cả khăn tắm nữa. vào tắm . Tôi cảm thấy trở lại thành người rồi.”
      “Chúng ta cần gọi lại cho bạn bác sĩ lần nữa. Tôi mang quần áo vào cho . Chúng khá bẩn đấy.”
      mỉm cười mệt mỏi. “Tôi sẵn sàng trả nghìn đô cho bộ pyjama bằng flannel.”
      “Ngày mai chúng ta mua quần áo mới. Hoặc tối nay, nếu muốn. Sau khi chúng ta gọi điện .”
      Vai chùng xuống. “Chúng ta thể chợp mắt chút sao?”
      “Chúng ta cần đặt phòng càng sớm càng tốt trước khi xuất phát. Thường phải đặt trước hàng tuần lễ.”
      “Ý bảo tôi mặc đồ vào à?”
      Tôi gật đầu.
      ngồi mép giường sấy tóc.
      “Tôi nghĩ,” tôi . “Nếu thấy phiền chúng ta nên đóng vai vợ chồng du lịch.”
      quay lại nhìn tôi. “ thấy tôi có vẻ phiền về chuyện đó à?”
      “Tốt. Chúng ta nhờ bạn kia đặt phòng dưới tên kết hôn. Chúng ta có nên lấy tên Do Thái ?”
      . lừa người Do Thái nổi năm giây đâu. Tôi Do Thái hiền ngoan sa cơ lỡ vận và phải lấy người ngoài Do Thái. Tôi đứng ra khi cần.”
      nhặt chiếc sơ mi ga giường lên và quay trở vào buồng tắm. Tôi nghe tiếng khăn ướt rơi xuống sàn; rồi trở ra, chỉ mặc độc chiếc sơ mi, đuôi áo lơ lửng ngang đùi, nhưng bên dưới chẳng mặc gì cả, và chẳng còn gì nhiều để mà tưởng tượng.
      “Tôi phải nằm đây,” . “Khi nào định đánh thức tôi dậy.”
      Tôi nhìn đồng hồ. 5:45 chiều. Để ngủ có lẽ là sai lầm, nhưng còn tốt hơn ngồi đợi trời tối. Tôi cũng nghĩ mình có thể thức. Hai ngày rồi tôi chưa được ngủ cho ra ngủ, bắp thịt đau nhức, điều mà hàng năm nay tôi chưa bao giờ cảm thấy.
      Rachel kéo chăn ra chui vào bên dưới, nằm sấp, mặt quay về phía tôi. Đôi mắt sẫm màu của mờ vì mệt mỏi, nhưng đôi môi thoáng mỉm cười.
      “Tôi hầu như nghĩ gì được,” . “Còn ?”
      “Tôi chỉ đơn giản là ở đây.”
      có biết tại sao tôi thực ở đây ?”
      “Bởi vì sợ chết.”
      phải. Bởi vì tôi sợ sống hơn là sợ chết. hiểu ?”
      “Có đôi chút.”
      trườn sâu vào dưới tấm chăn. “ hiểu đâu. Con tôi chết. Cuộc hôn nhân của tôi tan vỡ. Tôi còn gì nữa để mất?”
      Rachel luôn làm tôi ngạc nhiên, nhưng lần này có lẽ sảng. “Tôi tin chắc các bệnh nhân của ...”
      “Nếu ngày mai tôi chết, các bệnh nhân của tôi bác sĩ tâm thần khác. Tôi ngồi trong căn phòng ấy ngày này qua ngày khác, lắng nghe những người trầm cảm, sợ hãi, giận dữ, hoang tưởng. Tôi lắng nghe những cuộc đời khác và cố gắng tìm ra ý nghĩa cho chúng. Sau đó tôi về nhà và viết báo về họ.”
      mỉm cười lạ lùng. “Nhưng hôm nay khác. Hôm nay người đàn ông mà tôi chẩn đoán là hoang tưởng lôi kéo tôi vào những hoang tưởng của ta. Tôi là Alice ở xứ sở trong gương. Người ta tìm cách giết tôi nhưng tôi vẫn sống. Và bây giờ tôi sắp sửa bay qua Israel vì ảo giác. Bởi người tôi thực tôn trọng bỗng nhiên quyết định ta là Jesus.”
      cần ngủ rồi đấy.”
      lắc đầu, rời mắt khỏi mặt tôi. “Giấc ngủ làm thay đổi cách tôi cảm nhận về điều này.”
      Lúc này tôi lắm định về điều gì. Tôi trượt khỏi tấm ván đầu giường, kê đầu lên khuỷu tay và nhìn qua khoảng cách giữa hai chiếc giường. Đôi vai sẫm màu nền vải trắng, những lọn tóc ẩm ướt xõa xuống mắt.
      ra về điều gì?” tôi hỏi.
      Ánh mắt xuyên thấu mắt tôi theo cái cách mà tôi thấy đôi lần ở phòng khám của , như thể những bức tường dày mà tôi dựng lên từ sau cái chết của vợ con tôi là gì đối với . Rồi, hoàn toàn chủ ý, mỉm cười.
      “Tôi biết. Sao tắm ?”
      Ánh nhìn của ý hơn là đôi môi. Tôi đứng dậy bước vào buồng tắm, vừa vừa trút bỏ quần áo bẩn khỏi người. Sau hai ngày đêm chạy thoát mạng, lúc này nước nóng nghi ngút đối với tôi còn bổ hơn là thức ăn. Tay và cổ tôi bị cây thạch nam cào xước cả, nhưng dưới tia nước các bắp thịt bắt đầu thư giãn. Khi tôi gội đầu bằng chai dầu gội của khách sạn, tôi nghĩ đến mớ tóc đen của Rachel xổ tung gối, và tôi vội xả nhanh cho xong. chắc cũng mệt bã như tôi và khó mà cưỡng nổi cơn buồn ngủ. Tôi lau khô người trong buồng tắm rồi quấn khăn quanh bụng, bước ra khoảng trống giữa hai chiếc giường.
      Rachel vẫn nằm sấp, nhưng lúc này nhắm nghiền mắt, hơi thở đều và sâu. Tôi nhìn , ước gì cố thức, nhưng tôi trách . Trong hai ngày qua thấy quá nhiều chuyện, và chạy quá xa. Tôi tháo khăn ra, ngồi lên mép gường và bắt đầu sấy tóc. lát sau, tôi chỉ muốn gieo mình xuống giường ngủ giấc , đến khi nào ngủ thêm được nữa mới thôi.
      cánh tay sẫm màu thon thả quờ qua khoảng hẹp giữa hai chiếc gường. Bàn tay Rachel chạm đầu gối tôi, rồi mở ra và nắm lại trong khí như thể nắm bắt vật gì. Khi tôi đặt tay vào tay , kéo tôi qua giường bằng sức mạnh đáng ngạc nhiên. Tôi trườn sang nằm cạnh , nhìn sâu vào mắt , đôi mắt mở to như hai hồ nước đen thẫm.
      tưởng em ngủ à?” hỏi.
      “Em ngủ rồi mà.”
      “Vậy em mơ sao?”
      Tôi mỉm cười. “Có lẽ là ảo giác đấy.”
      “Thế em có thể làm mọi thứ em muốn.”
      “Đúng thế.”
      nhỏm đầu lên hôn tôi. Đôi môi căng và đỏ mọng, miệng hé ra khao khát khiến tôi hiểu muốn từ lâu rồi. Tôi mở cúc áo và kéo lại phía mình. khúc khích cười khi những lọn tóc ẩm ướt quệt ngang mặt tôi.
      “Trong những lần khám, có khi nào nghĩ đến chuyện này ?” hỏi.
      bao giờ.”
      dối.”
      “Có lẽ hai lần.”
      lại hôn tôi lần nữa, và cái cách mơn trớn thân thể tôi bằng chính thân thể cho tôi thấy ở đây hề có lóng ngóng vụng về của những kẻ mới lần đầu. Cách đụng chạm cũng đầy hiểu biết và tin cậy như cái nhìn của , và khi dồn hết chú ý vào tôi, tôi nhớ rằng có gì rung cảm hơn người phụ nữ vốn nhiều lời mà lúc này quyết định năng gì.
      Tôi hoảng sợ giật mình thức giấc, đoan chắc chúng tôi hoãn gọi điện quá lâu. Ánh sáng từ ti vi hắt ra chiếu sáng căn phòng. Đồng hồ đầu giường chỉ 11:30. Rachel nằm ngửa bên tôi, tay nàng vắt ngang trán, tay kia đặt dọc người tôi.
      Bây giờ đối với tôi nàng người đàn bà khác. Sau ba tháng giữ khoảng cách nghề nghiệp, nàng trao mình trọn vẹn cho tôi. Ký ức của tôi về những việc chúng tôi làm trước khi chìm vào giấc ngủ giống ảo giác hơn bất kỳ hình ảnh nào tôi thấy trong thời gian mắc chứng ngủ rũ. Thế mà nó lại là .
      Rachel cần ngủ, nhưng tôi buộc phải đánh thức nàng dậy. Tôi ngồi dậy vớ chai Dasani uống hơi dài, xong nhàng lay cánh tay nàng. Tôi sợ nàng hốt hoảng thức giấc như lúc xe tải, nhưng lần này nàng chậm rãi cử động, rồi nhoài người ra nắm chặt lấy cổ tay tôi.
      “Này,” tôi . “Em cảm thấy thế nào?”
      Nàng mở to mắt nhưng trả lời. Thay vào đó, nàng hít hơi sâu rồi ngồi dậy ôm tôi. Tôi ôm lại nàng, ước gì chuyện này xảy ra sớm hơn, ở nơi nào khác.
      “Ta phải cố gọi cho bạn em lần nữa,” tôi .
      “Em thể gọi ở đây sao?”
      em ạ. Nếu em quen thân với người đó ở trường y, NSA có thể biết. Và nếu chúng nghe trộm đường dây của ấy chúng có thể lần ra ta ngay tức khắc. Nếu ta gặp được ấy, canh chừng bên ngoài bốt điện thoại và đợi xem có ai xuất . Thế ta mới biết đường dây của ấy có an toàn .”
      “OK.” Nàng ngả người ra hôn lên môi tôi. “Chúng ta hãy làm cho xong chuyện này .”
      Cách nhà nghỉ chừng chục cây về phía Tây, tôi thấy bốt điện thoại bên ngoài trạm xăng đường Columbia Pike, trông có vẻ khá kín đáo. Tôi đậu xe sao cho có thể quan sát đường sá trong lúc Rachel gọi điện.
      Nàng thẳng đến bốt, cầm chiếc thẻ điện thoại chúng tôi mua ở cửa hàng Quik Stop gần nhà nghỉ. Vài phút sau, nàng mỉm cười giơ ngón tay cái lên làm hiệu và bắt đầu . Câu chuyện kéo dài khá lâu, nhưng tôi biết chắc mọi chuyện diễn ra tốt đẹp, vì tôi thấy nàng cầm giấy của nhà nghỉ đọc tên giả của chúng tôi. Ông bà John David Stephens. “Tên thời con ” của Rachel là Horowitz, còn trong hộ chiếu là Hannah Horowitz Stephens. Trong lúc nàng , tôi thầm nghĩ tay bác sĩ này hẳn nàng sâu sắc lắm đến nỗi mười lăm năm vẫn chịu làm việc này cho nàng. Nàng treo ống nghe rồi bước về xe tải.
      “Tốt chứ?” tôi hỏi.
      Nàng đóng cửa xe. “ có vấn đề gì. ấy đặt trước mọi thứ. Máy bay, khách sạn, thậm chí cả mấy chuyến tham quan thành phố.”
      từ New York chứ?” Chúng tôi thể liều mạng lưu lại Washington lâu hơn cần thiết quá tiếng.
      “JFK(25) .”
      chàng này là ai vậy?”
      “Adam Stern. ấy là bác sĩ sản khoa ở Manhattan. Bây giờ ấy có bốn con rồi.”
      “Ngày trước chắc ấy phải thích em lắm.”
      Nàng nhìn tôi cười ranh mãnh. “Họ chẳng bao giờ quên được em đâu.”
      Tôi cho xe chạy thêm trăm mét đường dừng, vẫn để máy chạy. Tại đây tôi vẫn nhìn thấy bốt điện thoại mà Rachel vừa gọi.
      “Adam tuần này ở Israel đông khách du lịch nhất trong năm,” nàng . “Lễ Phục sinh ở Jerusalem giống như lễ hội Mardi Gras ở New Orleans vậy.”
      “Điều ấy có thể tốt cho chúng ta.”
      “Chỉ cần ta bay được. ấy cố tìm hãng nào khác ngoài El Al, nhưng chắc chắn lắm.”
      “Hãng nào cũng tốt. Bọn chúng chắc chưa công khai truy nã ta đâu.”
      Chúng tôi ngồi lúc trong tiếng rì rì của động cơ chạy , nhưng thấy ai đến gần bốt điện thoại. Tôi luồn tay qua ghế ôm nàng.
      “Em ổn cả chứ?”
      Nàng gật đầu nhưng nhìn tôi. “Từ lâu em thấy yên tâm về những việc chúng ta làm rồi.”
      Tôi siết tay nàng, và nàng quay sang tôi. Mắt nàng ướt. Bây giờ tôi mới hiểu nàng phải sống bao lâu trong cảnh thiếu vắng thân tình. Có lẽ cũng lâu như tôi thôi.
      rất mừng có em ở đây,” tôi . “Và cũng mừng vì em theo sang Israel. có em làm được gì cả.”
      Nàng rút tay lại và lau mắt.
      Tôi liếc lại bốt điện thoại. có ai lại gần. “ nghĩ ta ổn rồi. Em sẵn sàng ngủ giấc cho chưa?”
      “Em sẵn sàng ăn hamburger pho mát. Rồi sau đó ngủ.”
      Chín rưỡi sáng hôm sau, chúng tôi chạy xe qua cầu Memorial, đến đài tưởng niệm Lincoln. Lần trước tôi đến thăm Washington để quay phần loạt phim NOVA dựa cuốn sách của tôi. Hoàn cảnh hồi đó với bây giờ trái ngược nhau đến nỗi khó mà hình dung nổi.
      Tôi tìm thấy cửa hàng photocopy Kinko phía Đông Nam đồi Capitol và sau hai mươi phút lấy được ảnh hộ chiếu mà chúng tôi được chỉ dẫn phải mang đến tiệm cà phê Au Bon Pain ở ga Liên Hiệp. Khi tôi chạy xe đến ga, dòng người bộ càng lúc càng tấp nập và tôi bắt đầu thấy lo lắng. Washington bây giờ đứng đầu danh sách các mục tiêu tấn công của bọn khủng bố, ở gần những tòa nhà quan trọng rất dễ có camera theo dõi. Có thể nhìn thấy những camera này, nhưng chắc chắn là có. Và NSA có năng lực điện toán để tìm kiếm hình ảnh từ các băng hình theo dõi ấy. Tôi cố tránh xa trung tâm mua bán và đậu xe trong bãi đỗ phía Đông của ga Liên Hiệp.
      Khi chúng tôi bước chân vào tòa nhà khổng lồ bằng đá granit trắng, chúng tôi cố di chuyển nhanh đến cửa chính. Rachel cố sóng hàng với tôi, chiếc túi Kinko lắc qua lắc lại tay phải nàng. Nàng biết tôi giắt súng ở thắt lưng dưới lần áo sơ mi. Nếu cửa chính của nhà ga có lắp máy dò kim loại, tôi phải quay trở lại xe tải. Hàng chục người xếp hàng ở cửa chính, nhưng sau khi nhìn dòng khách, tôi thở phào nhõm. Dòng người di chuyển nhanh thế chắc bị kiểm soát an ninh nghiêm ngặt.
      Vừa bước qua cửa, chúng tôi hòa ngay vào đám đông qua nhà ga mới được tân trang theo lối kiến trúc tân cổ điển. Chúng tôi qua nhà hàng ở giữa tầng rồi lao nhanh đến sảnh chính rộng mênh mông. Sảnh này dẫn đến khu mua bán nhiều tầng, tại đây những đoàn du lịch, khách du lịch ba lô và người mua sắm chen lấn xô đẩy nhau lối và cầu thang cuốn, ngạc nhiên trước các bức tượng, chỉ trỏ vào các quầy hàng. Tiếng ầm ầm dưới đế giày cho tôi biết tàu chạy gần đây, thế mà khung cảnh xung quanh tôi cứ nguyên sơ như viện bảo tàng.
      “Au Bon Pain kia rồi,” Rachel và kéo tôi sang bên trái.
      Hiệu sách B. Dalton khổng lồ nằm ở cuối khu mua sắm, tiệm cà phê Au Bon Pain nằm ngay bên phải. Khách ra vào tấp nập, và tôi nghĩ người chúng tôi cần gặp rất cẩn thận khi chọn chỗ này.
      Rachel bước qua khung cửa rộng, hòa vào hàng người nối đuôi nhau trước những bình cà phê lớn chiếc bàn cẩm thạch. Tôi theo , ra vẻ tự nhiên quan sát những bàn bên phải. được hướng dẫn hãy tìm phụ nữ cầm tay cuốn The Second Sex của Simone de Beauvoir. Tôi nghĩ mình có thể chỉ dựa vào ngoại hình mà đoán ra người phụ nữ mang cuốn sách đó.
      Ở chiếc bàn gần cuối phòng, tôi thấy phụ nữ tóc đỏ chừng năm mươi tuổi, trang điểm, miệng mím chặt. Bà ta nhìn chăm chăm xuống bàn như sợ bị người lạ bắt chuyện. Tôi định cược trăm đô rằng đó là người chúng tôi cần gặp Rachel kéo tay tôi chỉ phụ nữ Mỹ gốc Phi khoảng bốn chục tuổi đứng gần giá đựng bánh và đọc cuốn The Second Sex. Rachel rời khỏi hàng đến gần bà ta.
      nhiều năm nay tôi nhìn thấy quyển sách này!” Rachel . “Từ thời còn học đại học cơ. biết bây giờ nó còn hợp thời ?”
      Người đàn bà nhìn lên và mỉm cười, mắt bà ta ngời sáng thân thiện. “Cũng hơi lỗi thời đấy, nhưng có giá trị về góc độ lịch sử.” Bà ta chìa bàn tay nâu đeo đầy nhẫn ra. “Tôi là Mary Venable.”
      “Hannah Stephen,” Rachel . “Hân hạnh được gặp bà.”
      Tôi ngạc nhiên vì thấy nhập vai ngọt đến vậy. Có lẽ bác sĩ tâm thần là những người vốn có tài dối. Khi tôi bước tới, tôi thấy Venable khẽ, “Rất vinh dự được gặp , bác sĩ. giúp chúng tôi nhiều lắm.”
      “Cám ơn,” Rachel đáp. Rồi lớn giọng hơn nhiều. “Tôi thể hiểu tại sao Simone lại chịu làm người tình của Sartre. Trông ông ta như con nhái bén(26). phải theo kiểu bôi nhọ người Pháp đâu. Mà là nhái bén ấy!”
      Mary Venable cười tự nhiên đến mức tôi hầu như nhìn thấy bà ta lấy cái túi Kinko từ tay Rachel và ném vào trong chiếc giỏ đan châu Phi lớn dưới chân.
      “Nếu đêm nay tôi đọc xong,” Venable , “mai tôi cho mượn. Tôi ở đây vào giờ này.”
      “Hẹn gặp lại bà sáng mai,” Rachel .
      Mary Venable ghé sát nàng, , “Bảo bạn giấu hàng kỹ hơn chút.”
      Trong khi Rachel còn ngẩn ngơ, Mary Venable âu yếm siết chặt tay nàng, rồi cầm túi lên và bước . Qua chỗ tôi, bà ta chỉ chạm mắt tôi trong thoáng, nhưng tôi đọc được to và ràng lời nhắn nhủ trong mắt bà: “Hãy chăm sóc bạn của cho tốt, chàng trai ạ.”
      Tôi bước đến bên Rachel, nhìn tôi với ánh mắt kỳ quặc. “Hình như bà ấy có nhắc gì đến giải phẫu phải ?”
      với em sau.” Tôi nắm cánh tay Rachel dắt nàng ra khỏi cửa hàng.
      “Em biết là có trung tâm mua sắm ở đây,” nàng . “Chúng ta mua mấy bộ quần áo được ?”
      “Ở đây được đâu. vẫn chưa thấy nơi chúng ta cần đến. Chúng ta cần khu bách hóa tổng hợp có bán đủ mọi thứ ấy.”
      “Hay là lên tầng ?”
      phải ở đây,” tôi vẫn khăng khăng.
      Khi tôi dắt nàng ra đến cửa chính, tay cảnh sát thành phố bước ngang qua chúng tôi. Tim tôi nhảy loạn. Tôi chắc sững người nhìn tôi đúng vào lúc chúng tôi ngang qua. Tôi định quay đầu lại kiểm tra, nhưng dám.
      “Có chuyện gì vậy?” Rachel hỏi khi thấy vẻ căng thẳng của tôi.
      nghĩ chúng lùng sục ta ở đây.”
      “Tất nhiên rồi.”
      muốn chúng lùng công khai ấy. nghĩ thằng cớm vừa rồi nhận ra .”
      Nàng định quay lại nhìn, nhưng tôi lắc đầu khá mạnh để ngăn nàng lại.
      cho rằng chỉ có NSA?” nàng hỏi.
      e là . sát vào và chuẩn bị chạy thôi.”
      Chúng tôi qua cái cây trong bồn cây cảnh lớn ở giữa tầng. Tôi kéo Rachel ra sau cây và quay lại nhìn từ chỗ núp. Gã cảnh sát bám đuôi chúng tôi và nghển cổ nhìn dáo dác quanh bồn cây. còn vào micro ve áo.
      “Chúng ta bị phát rồi,” tôi . “ thôi!”



      CHƯƠNG 26

      Tôi nắm tay Rachel lao nhanh gấp đôi bình thường. Đáng lẽ chạy ra cửa chính, chúng tôi đổi hướng chạy về phía cầu thang dẫn lên tầng , lợi dụng đám đông để náu.
      “Lên à?” Rachel chỉ tay vào cầu thang hỏi.
      . Mục tiêu của chúng ta là tàu hỏa.” Tôi tiến đến quầy vé bên tay trái, nhưng giọng phụ nữ loa phóng thanh ngăn tôi lại.
      “Chú ý, quý khách, xin chú ý. Vì lý do bảo trì, tất cả những chuyến tàu sắp vào hay rời ga phải dừng ngay tại chỗ. cầu ở nguyên sân ga, chúng tôi thông báo ngay khi có thông tin mới. Cảm ơn vì kiên nhẫn của quý khách. ”
      Adrenaline trào lên trong người tôi. Người phát thanh viên đọc lại thông báo bằng tiếng Tây Ban Nha.
      “Quay lại cầu thang,” tôi , quay ngoắt người lại.
      “Lên hay xuống?”
      “Lên!”
      Chúng tôi nhảy hai bậc thang . Ở tầng , tôi nhoài người ra khỏi lan can ngó tìm xem gã cớm phát ra chúng tôi đâu. đứng ở tầng chính, cố đoán xem chúng tôi chạy hướng nào. ngước lên, lấy tay che mắt cho khỏi chói, rồi bắt đầu về phía cầu thang.
      “Tại sao chúng cho dừng tàu lại,” Rachel hỏi.
      “Vì chúng ta.”
      “Chẳng lẽ chúng chặn tất cả các đoàn tàu vào ga Liên Hiệp để tìm chúng ta?”
      “Xin chú ý,” tiếng phát thanh viên vang lên. “Cảnh sát cầu tất cả khách mua hàng và khách du lịch bình tĩnh và trật tự di chuyển đến các cửa ra. Chúng tôi xin lỗi vì phiền phức này. có bất cứ mối nguy hiểm nào cho người và tài sản. Quý khách có thể trả xong tiền mua hàng, nhưng chúng tôi khẩn thiết cầu di chuyển ra các cửa càng nhanh càng tốt. Cám ơn.”
      Tôi nhận thấy Rachel phải cố giữ bình tĩnh.
      “Chúng ta ra chứ?” nàng hỏi.
      Tôi nhìn qua lan can lần nữa. Gã cớm ngần ngừ biết nên lên hay xuống. “Chắc hẳn chúng bật loại báo động khủng bố nào đó. Đấy là cách duy nhất sơ tán chỗ này. Xung quanh tòa nhà chắc có hàng trăm tên cớm bao vây rồi.”
      Rachel nhìn dọc theo gác lửng. Từng đoàn người hối hả về phía chúng tôi. Chúng tôi tránh khỏi cầu thang nhường đường cho họ.
      Gã cớm bên dưới chạy đến quầy vé và lại vào micro cổ áo.
      “Chúng ta có hai lựa chọn. là thay hình đổi dạng và theo đoàn người ra ngoài?”
      “Thay hình đổi dạng thế nào?”
      “Vào trong gian hàng và mặc cả cây đen vào chẳng hạn. Kiếm chiếc kéo và cắt tóc em . Bôi keo cho tóc dựng lên. Cố gắng trẻ lại độ mươi tuổi.”
      Rachel trông chẳng có vẻ gì tự tin hơn. “Như thế chúng ta bị kẹt lại sân bay. Chúng ta còn giống ảnh trong hộ chiếu nữa.”
      “Em đúng. Vậy ta hãy làm việc đơn giản. Chạy vào trong gian hàng. Kiếm hai chiếc hộp carton lớn, chui vào trốn cho đến khi tạm yên.”
      “Đơn giản là tốt.”
      “Nhưng cảnh sát có thể đem chó vào.”
      “Trời.”
      “Nào ,” tôi , tự nhiên cảm thấy chắc chắn phải làm gì.
      Tôi chạy xuống cầu thang cuốn, dè chừng các bộ cảnh phục. Lúc nãy vào tôi trông thấy mái cửa vào rạp chiếu phim, và theo cách bố trí của nhà ga, tôi đoán nó ở tầng dưới. Cầu thang dẫn xuống khu vực ăn uống. Mọi người ăn vội ăn vàng cho chóng xong, nét mặt lo lắng. Qua đống ghế màu vàng và cam lộn xộn, tôi thấy hàng người xem phim nối đuôi nhau ra cửa.
      “Chúng ta đâu đây?”
      “Xem phim.”
      “Họ sơ tán khỏi đây mà.”
      Khi chúng tôi đến trước lối vào rạp chiếu phim, bức tường mở ra trước chúng tôi khoảng mười mét, và đôi trai trông có vẻ hoảng sợ bước ra, nhíu mắt lại. Trước khi cánh cửa chống cháy sập lại dưới sức căng lò xo, tôi lao đến đưa chân chặn giữ lại.
      Trong rạp đèn còn sáng, nhưng các hàng ghế trống . Phía sàn dốc bên trái, người bận đồ thể thao hướng dẫn người xem phim cuối cùng xuôi theo lối giữa ra cửa chính. Bên phải tôi, chàng Hugh Grant cao ba mét chán ngán bước dọc đường phố London, hai tay đút túi. Rachel dựa vào lưng tôi.
      “Trong đó có gì thế?”
      Tôi mở cửa đủ rộng cho chúng tôi trườn vào, rồi nâng chân tấm màn nhung đỏ nặng trịch chạy dọc theo tường trùm lên người. Chúng tôi nằm ép sát tường và tách nhau ra, cố khớp với nếp sóng của tấm màn cách tự nhiên hơn. Tôi nhìn thấy Rachel nữa, nhưng tôi ngạc nhiên nhận thấy chúng tôi nắm tay nhau. Cái bản năng này cũng nguyên thủy như bản năng của hai người Neanderthal (27) an ủi nhau bên vách hang đá vậy.
      “Sao lại vào đây?” hỏi. “Sao ta trốn vào sau cửa hàng?”
      Tôi hình dung bọn cảnh sát xúm xít quanh chiếc xe tải lấy cắp.
      “Chó,” Rachel thầm. Cách đây phút, phòng này đầy mùi mồ hôi người. Nhiều mùi hỗn tạp. giống như trong nhà kho cửa hàng.
      “Đúng.” Nhạc phim tắt ngấm với thanh rền rĩ. Tôi chờ nghe tiếng người, nhưng có. Mười lăm phút trôi qua. Hai mươi. Rachel nắm bàn tay ướt đẫm mồ hôi của tôi. Khi tôi quệt mồ hôi trán, giọng đàn ông xuyên qua tấm rèm.
      “Tôi vào đến cánh giữa!”
      Rachel siết chặt bàn tay tôi.
      Tiếng điện đài của cảnh sát léo nhéo vang vọng trong rạp chiếu phim.
      “OK,” tên thứ hai hét. “Tôi quét đèn pin dưới gầm ghế.”
      Mấy tên này làm tôi lo lắng mấy, nhưng tiếng thở hổn hến theo sau làm tôi suýt đứng tim. Có lẽ tôi phải nhanh chóng cân nhắc lựa chọn giữa đầu hàng hay đọ súng với cảnh sát thành phố.
      “Nó thấy gì đó!” tên thứ nhất kêu lên. “Coi, nó đánh hơi được rồi. Cố lên nào, cưng!”
      Tôi cố nhịn thở.
      “Con khỉ. Hóa ra là nửa cái xúc xích.”
      “Chờ tí. Nó sục chỗ khác.”
      Tiếng nghe gần hơn. Bàn tay Rachel run lên. Nàng phản ứng thế nào nếu tôi nổ súng? Đây phải bọn sát thủ do Geli Bauer phái đến. Có lẽ chỉ là đám cảnh sát thành phố làm nhiệm vụ.
      “Nó theo vòng tròn,” giọng thứ hai cất lên. “Quá nhiều mùi. Chính tôi cũng ngửi thấy mùi hơi người. Chúng ta phải quay lại sau vậy.”
      “OK. Dù sao họ cũng muốn nó lần theo dấu vết.”
      Tiếng xa dần.
      “Chúng ta làm gì bây giờ?” Rachel thào.
      “Đợi.”
      “Bao lâu?”
      “Họ thể đóng cửa ga Liên Hiệp cả ngày được.”
      có nghĩ lũ chó quay lại ?”
      biết.”
      “Hình như em đái ra quần rồi.”
      “Đừng bận tâm về chuyện đó.”
      “Liệu chó có đánh hơi ra ?”
      Nàng đúng. “Hãy cố giữ yên lặng .”
      giờ bốn lăm phút sau, giọng nam cất lên qua hệ thống loa phóng thanh. “Bác sĩ Tennant. Tôi là sĩ quan Wilton Howard của sở cảnh sát Washington D.C. Chúng tôi muốn ông hiểu rằng chúng tôi biết đây chỉ là hiểu lầm. Chúng tôi được biết việc bắn người ở Bắc Carolina là hành động tự vệ, chúng tôi sẵn sàng cho ông quyền được giam giữ có bảo vệ, và ông có thể liên lạc giới hạn với bất kỳ người nào ông muốn. Đề nghị ông ra trình diện cùng với bác sĩ Weiss, hạ tất cả vũ khí xuống, và đến gặp bất kỳ sĩ quan nào. Ông bị đối xử như với tội phạm.”
      nghĩ sao?” Rachel hỏi.
      thấy có giọng Geli Bauer trong thông điệp này.”
      “Có thể họ nghiêm chỉnh. Ý em là tất cả cảnh sát trong tòa nhà này cũng nghe thấy rồi.”
      “Nếu họ được báo rằng là khủng bố hay đại loại thế, họ nghĩ việc dùng bất cứ biện pháp nào để lôi cổ ra là chính đáng. Hơn nữa, họ nghĩ có súng.”
      “Thế ?”
      Tôi định dối, nhưng lại nghĩ nàng cần biết . “Có.”
      “Trời đất ơi!”
      Lời kêu gọi của cảnh sát lại vang lên.
      “David...”
      Tôi quờ sang siết chặt tay nàng. “Yên.”
      Thêm giờ nữa trôi qua, các thông điệp qua loa phát thanh cũng nhiều hơn và thay đổi. Bằng bản năng, tôi bảo Rachel nằm ép xuống sàn và sát vào tường. Tôi cũng làm thế.
      Lũ chó quay lại, nhưng có nhiều cảnh sát quay lại. Nghe như bọn họ rà soát từng hàng ghế. Thỉnh thoảng tôi thấy tấm màn nặng nề đung đưa khi có người kiểm tra nó. Khi tiếng bước chân đến gần tôi rút súng khỏi túi quần và thầm nguyện cầu Rachel giữ được bình tĩnh. Những bước chân nặng nề đến sát bên tôi, liền sau đó tấm màn được nhấc khỏi mặt tôi.
      đôi bốt đen đứng cách mặt tôi chỉ mươi phân. Tôi nín thở, chắc mình có bị nhìn thấy hay . Tấm màn vờn má phải tôi. Rồi nó được thả xuống, và tiếng ủng xa dần. Tay cảnh sát chỉ giơ tay chạm tường vài lần để kiểm tra phía sau tấm màn.
      Tim tôi dường như đông cứng lại.
      Tiếng đôi bốt lại gần lần nữa. Tay cảnh sát kiểm tra tấm rèm như lần trước, nhưng dọc xuống. Tôi cố làm ngơ trước tiếng bước chân ấy. Sau khoảng thời gian dài như vô tận, tôi nhận ra bỏ qua chỗ chúng tôi. Cuộc tìm kiếm kéo dài thêm năm phút nữa, rồi tiếng liên lạc léo nhéo tắt. Tôi nghĩ Rachel cừ, nhưng dám liều chuyện với nàng. Sau hai mươi phút có thêm lời kêu gọi nào từ hệ thống phóng thanh, tôi nghe có tiếng lách cách và tiếng máy rì rì, và nhận ra họ tua lại phim.
      “Có phải máy chiếu ?” Rachel hỏi.
      “Họ tua lại phim. Có lẽ nhà ga được mở lại. Chúng ta ra thôi.”
      “Hay là ta cố chờ đến đêm?”
      . Đêm nay chúng đặt các chốt gác ở lối ra. Ngay lúc này ta có thể lợi dụng tình trạng lộn xộn khi nhà ga vừa mở lại. Đây là cơ hội tốt nhất.”
      Chúng tôi đứng dậy men theo tường ra cửa. Sau khi lắng nghe mà thấy gì, tôi mở hé cửa. Hai phụ nữ ngang qua, bận trang phục đường phố. Tôi nghĩ họ có thể là cảnh sát, nhưng khi đó loa phát thanh thông báo lịch tàu chạy. Nếu sân ga có người, chắc cần thông báo như thế. Tôi kéo Rachel qua cửa.
      Cầu thang thường và thang cuốn chật ních người, tiếng dụng cụ nhà bếp loảng xoảng dội qua sàn nhà cẩm thạch trong khu ăn uống. Chúng tôi bước tới cầu thang cuốn, chuẩn bị lên.
      “Khi lên đến tầng chính, hãy cách sau hai mươi mét,” tôi . “Thấy ai phát ra em lẩn vào đám đông thoát mau nghe chưa.”
      Đầu của thang cuốn gần ngay lối vào cửa hàng B. Dalton. Tôi hôn lên má Rachel, vừa bước nhanh vừa quét mắt qua đám đông xem có đồng phục cảnh sát nào .
      Du khách giận dữ tràn vào nhà ga như nước tràn qua đập. Đa số hướng đến các đoàn tàu. che chở quá tốt đối với tôi. Tôi liếc nhanh ra sau để biết chắc Rachel vẫn bám theo, rồi chuẩn bị rẽ phải, ra phía cửa chính. Nếu cảnh sát dồn mọi người qua điểm kiểm soát duy nhất, tôi quay ngoắt lại kiếm lối thoát hiểm dự phòng. Nếu , tôi cứ liều mình trông cậy vào đám đông vô danh là thoát.
      Tôi rẽ ngoặt sang phải và hướng đến phòng mái vòm dẫn ra cửa chính. Dòng người cuồn cuộn ngược chiều khiến khó định hướng, nhưng tôi vui mừng vì có họ. Việc đóng cửa nhà ga suốt ba tiếng tạo cho chính cảnh sát tình huống gần như bất khả.
      Từ chỗ tôi đứng đến cửa chính có tiệm ăn hình tròn tôi nhìn thấy lúc vào. Cao hai tầng, tiệm cà phê ngoài trời này giống như hòn đảo nhô lên giữa mặt bằng. tầng hai có nhiều bàn và ban công bằng thép cuốn hoa văn, để khách hàng có thể vừa ăn vừa ngắm cảnh nhộn nhịp bên dưới. Đó cũng là nơi có thể đứng nhìn bao quát toàn bộ sảnh lớn. Tôi bắt đầu vòng quanh từ bên trái, cố giữ mặt cúi gằm.
      “Bác sĩ Tennant!” giọng nữ hét lên.
      Tôi liếc nhìn lên.
      Từ tầng hai tiệm cà phê, Geli Bauer nhìn chằm chằm xuống tôi. Khuôn mặt sẹo và đôi mắt xanh lè của ả lẫn vào đâu được, và việc ả có mặt ở đây đúng là định mệnh tránh khỏi. Ba tiếng đồng hồ chúng tôi trốn trong rạp chiếu phim đủ thời gian để ả bay từ Bắc Carolina đến đây. Cảnh sát mở lại nhà ga, nhưng Geli vẫn hy vọng chờ đợi tìm thấy chúng tôi. Khi tôi xoay người ra sau để xem Rachel có nhận ra mối nguy hiểm , tôi mới biết là mình bị hớ. Geli tức khắc phát ra nàng, liền nâng điện đài lên miệng.
      “Chạy!” tôi hét lên với Rachel.
      Geli buông điện đài xuống, rút phăng ra khẩu tiểu liên tự động, nhằm thẳng tôi.
      phụ nữ đứng bên ả rú lên. Khi nhiều người khác hoảng loạn, Geli lao ra cầu thang dẫn xuống tầng chính. Tôi lần tay ra sau với khẩu súng giắt lưng.
      “Đừng!” Geli vừa lao xuống cầu thang vừa gào lên. “Tôi bắn đâu! Lệnh giết là của Godin! Godin điên rồi!”
      Ả dừng lại ở ba phần tư cầu thang, giương súng bằng cả hai tay trong thế tấn công.
      “Nếu đúng thế bỏ súng xuống !”
      bỏ.
      Tại sao ả bắn mình? tôi tự hỏi. Rồi tôi hiểu ra là Rachel còn ở khá xa, nếu ả lỡ bắn tôi, nàng có thể chạy thoát cùng với đám đông hoảng loạn.
      “Bỏ súng xuống, bác sĩ!” Geli vừa xuống nốt cầu thang vừa quát. “Bỏ súng xuống và nằm sấp xuống sàn! Tôi bắn!”
      Ở tầm này ả chắc chắn bắn trượt. Tôi quẳng súng xuống mặt sàn sáng bóng. Mắt ả lóe lên vẻ thỏa mãn.
      Đám đông phản ứng với vụ lộn xộn này như đàn kiến nhận ra nguy hiểm ở ngay giữa chúng. Làn sóng hoảng hốt từ tâm lan ra xa hơn, trùm lên đám du khách cuống cuồng, tạo nên vòng xoáy người chen lấn ra các cửa. Cảnh sát ở đó phải vật lộn từng phân để len ngược vào đây.
      “Lại đây, bác sĩ Weiss!” Geli gọi to.
      “David?” Rachel ngập ngừng gọi.
      Khẩu tự động của Geli có nòng giảm thanh. “Chạy !” tôi gào lên. “Mau thoát khỏi đây.”
      Geli quay khẩu súng sang phía Rachel. Tôi nhào lên cầu thang. Tôi túm lấy hai cổ tay ả vừa lúc súng nổ sượt qua tôi. Nhìn ánh mắt giận dữ của ả tôi biết ả bắn trượt.
      Geli thúc đầu gối ả vào bụng tôi, khiến phổi tôi thắt lại. Tôi vặn mạnh xương ả như người ta cố bẻ cành non. Ả giật lùi lại, xoay người quật tôi ngã xuống cầu thang rồi ngồi lên người tôi. Tôi vật lộn để nòng súng hướng ra khỏi người tôi, nhưng ả có thế đòn bẩy phía bên sườn. Nòng súng giảm thanh chĩa thẳng mặt tôi chỉ cách mấy phân. Vết sẹo của Geli trắng bệch ra khi mặt ả đỏ gay vì vật lộn.
      “Bỏ súng xuống!” giọng phụ nữ hét lên. “Cả hai người! Bỏ xuống và đứng lên!”
      Cách đó ba mét là Rachel, hai tay ghì chặt khẩu súng lục của tôi, đôi mắt mở to vì khiếp hãi.
      “Bỏ vũ khí xuống!” Geli thét. “ can thiệp sĩ quan liên bang thi hành công vụ đấy!”
      “Bắn ả !” tôi hét, cố giằng súng khỏi nắm tay ả. “Chính ả giết Fielding! Bắn!”
      Geli thúc cùi chỏ vào đám rối dương của tôi, tì nòng súng vào má tôi. tiếng nổ chát chúa như tiếng cồng xuyên thủng màng nhĩ tôi, rồi thứ gì đó ẩm ướt bắn tung tóe lên mặt tôi. Tôi chỉ còn thấy đôi mắt cháy rực của Geli, rồi dòng máu trào ra ướt đẫm ngực áo ả.
      Tôi giằng được khẩu súng và hất ả ra khỏi người tôi.
      Rachel vẫn chĩa nguyên khẩu súng bốc khói và run rẩy như người động kinh. Viên đạn trúng cổ Geli, nhưng ả cố bịt mấy ngón tay vào vết thương để ngăn máu chảy. Tôi chưa bao giờ trông thấy vẻ căm thù đến thế trong mắt con người. Tôi nắm cổ tay Rachel và chạy ngược trở ra sảnh chính. Khi chúng tôi quành qua góc khuất, tiếng Geli vang vọng trong căn phòng cao ba mươi mét. “Mày chết, Tennant ạ! Mày chết như con chó!”
      Tôi lao đến gian hàng B. Dalton ở cuối trung tâm mua sắm. Các kệ sách to kềnh càng và trĩu nặng. Vậy ra họ bốc hàng.
      Khách mua hàng tràn ra khi tôi kéo Rachel chen vào nhà kho trong hiệu sách. Sàn nhà lát đá chất đầy hòm xiểng, và chắc chắn có sàn chất tải cửa lắp động cơ để chuyển hàng vào ra. Tôi nhấn nút đỏ tường, cửa bắt đầu nâng lên.
      Nắng tràn ngập phòng. Tôi giúp Rachel xuống nền sàn chất tải bằng xi măng, rồi tự mình nhảy ra. chiếc xe giao hàng đậu ngay lối vào sàn, hai người đàn ông đứng chuyện bên buồng lái. Khi chúng tôi chạy lên dốc, tôi trông thấy chiếc Toyota Corolla màu trắng đậu cạnh xe tải. Cửa bên lái còn mở, nhưng có ai trong xe.
      Tôi chĩa súng vào hai người đàn ông, rồi hất nòng súng về phía chiếc Toyota. “Tôi cần chiếc xe kia!”
      Tài xế xe tải giơ tay lên, nhưng người kia nhìn chiếc Toyota. “Đó là xe tôi.”
      “Đưa chìa khóa đây!”
      ta đờ người ra.
      “Đưa chìa khóa cho !” tài xế xe tải .
      “Nó ở trong ấy.”
      Tôi kéo Rachel vòng sang cửa khách, đẩy nàng vào rồi trườn vào ghế lái và nổ máy. Người chủ xe gào lên gì đó, nhưng giọng ta chìm nghỉm trong tiếng xe gầm rú khi tôi lao vụt . Đà lao làm cửa xe đóng sầm lại, nhưng tôi dùng hết sức tự kiềm chế để chậm lại. Tôi phải chạy với tốc độ bình thường để ra khỏi khu vực nhà ga , rồi vứt xe lại để trốn khỏi thành phố.
      “Ôi, trời ơi,” Rachel , mặt nàng trắng nhợt.
      Tiếng còi rền rĩ đổ về ga Liên Hiệp.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 27


      Tôi đứng sau Rachel trong khu vực ăn uống của sân bay JFK, New York, nhìn kỹ xem nàng có dấu hiệu suy sụp tinh thần nào . Nàng bận váy màu xanh da trời, món trong số quần áo mới được mua ở New Jersey, nhưng trang phục che giấu nổi nước da tái và đôi mắt trũng sâu. Việc bắn Geli Bauer khiến nàng cực kỳ hoảng loạn, và mặc dầu các bản tin cho biết “sĩ quan liên bang” bị bắn ở ga Liên Hiệp còn sống, Rachel vẫn run rẩy trong suốt quãng đường chạy xe đến New York.

      Tôi lẽ ra nên để nàng tự mình rời khỏi Washington. Sau khi bỏ lại chiếc Toyota cách ga Liên Hiệp năm khối nhà, tôi chặn taxi và bảo nó chở chúng tôi quay trở lại, qua sông Potomac đến Alexandria, Virginia, rồi tới trung tâm mua bán cao cấp. Tại đó tôi gọi đến số lúc trước chỉ dẫn tôi đến gặp Mary Venable ở tiệm cà phê. Tôi với người phụ nữ nghe điện rằng bác sĩ Rachel Weiss bị đe dọa tính mạng và rất cần được giúp đỡ. Bốn lăm phút sau, người phụ nữ xe Camry xanh đến đón, đưa chúng tôi trở lại Washington, tới khu nhà riêng ở phía Nam.

      Ngôi nhà này là nơi náu do nhóm nữ quyền cai quản, chuyên cung cấp giấy tờ tùy thân cho những phụ nữ bị ngược đãi, chạy trốn cùng con . Chúng tôi được đưa vào phòng ngủ ở phía sau căn nhà an toàn, đợi lúc Mary Venable đến. Bà ta hỏi Rachel lâu - hình như bà tin tôi - rồi bố trí chiếc xe để hôm sau chúng tôi có thể tự lái đến New York. Bà bảo chúng tôi để xe ở chỗ đậu dài ngày trong sân bay JFK, rồi người “chị em” của họ ở New York đến lấy .

      Trong phòng ngủ có ti vi, và vụ chạm súng ở ga Liên Hiệp xuất tất cả các bản tin. Việc tạm thời đóng cửa nhà ga cũng gây phản ứng ồn áo kém vụ nổ súng. Những bản tin đầu suy luận rằng nhà ga có nguy cơ bị đánh bom nên buộc phải sơ tán mọi người khỏi ga, nhưng theo những bản tin mới, câu chuyện thay đổi. Các nguồn tin của cảnh sát thủ đô rò rỉ thông tin về vụ mưu ám sát tổng thống bị theo dấu đến nhà ga. Tên tôi được tiết lộ, nhưng phát thanh viên rằng người phụ nữ bắn cảnh sát ở nhà ga, lúc đầu được cho là con tin, nhưng bây giờ bị xem là đồng phạm của tôi.

      Chúng tôi chợp mắt chút, đến sáng hôm sau, tên và ảnh tôi xuất tờ Washington Post. Trong bài viết, người phát ngôn của Sở Mật vụ đặc tả tôi như bác sĩ theo chủ nghĩa lý tưởng trở nên cáu kỉnh sau nhiều năm quá đau buồn vì mất mát gia đình. Bị những hoang tưởng nghi kỵ thôi thúc, tôi đe dọa tính mạng tổng thống, và xuất của tôi ở Washington với khẩu súng chứng tỏ tôi nguy hiểm như thế nào. Đồng phạm nữ vẫn còn “chưa danh tính,” nhưng nhiều nhân chứng thấy ta bắn gục cảnh sát liên bang. Điều làm tôi sợ nhất là bình luận kết thúc bài báo của McCaskell, chánh văn phòng phủ tổng thống, ở Trung Quốc.

      “Bác sĩ Tennant có dịp gặp tổng thống tại Phòng Bầu dục,” McCaskell . “Tổng thống khâm phục cuốn sách của ông ta về Y đức. Tổng thống lấy làm tiếc vì vị bác sĩ nổi danh này có vẻ bị suy sụp tâm thần, và mong rằng bác sĩ Tennant được điều trị trước khi có thể xảy ra bi kịch nào đó.”

      Tôi lo Mary Venable có thể đọc bài báo này và báo cảnh sát bắt tôi, nhưng giờ sau bà đem đến cho chúng tôi hai hộ chiếu mới, hai giấy phép lái xe của bang Virginia và chìa khóa của chiếc xe “ mượn”. Bà đọc bài báo, nhưng lòng tin của bà vào Rachel mạnh hơn những bản tin truyền thông. chút chậm trễ, chúng tôi bon bon con đường I-95 hướng về New York.

      Khi biết tên và ảnh của mình phát tán khắp nơi trong nước, tôi càng quyết tâm rời khỏi nước Mỹ. Bọn NSA nghĩ tôi trù tính để gặp tổng thống tại Washington ngày mai, nên chẳng hề nghĩ tôi lại rời khỏi đất nước. qua cửa khẩu sân bay JFK là mạo hiểm, nhưng còn an toàn hơn ở lại trong nước lúc này.

      Rachel hầu như gì trong chặng đầu chạy xe, và những lời tôi dường như lọt tai nàng. Khi đến New Jersey, nàng hoạt bát trở lại và vào khu mua bán với danh sách dài kích cỡ quần áo cùng trang phục cho chuyến của chúng tôi. Ngoài ra, chúng tôi cũng chỉ dừng lại để đổ xăng, và tôi cũng ra khỏi xe. Khi đến gần New York, Rachel gọi cho Adam Stern và kể cho câu chuyện tôi bịa ra để giải thích lý do chàng bác sĩ phải làm trung gian đặt phòng cho chúng tôi.

      Vì dịp lễ Phục sinh đông khách , Stern buộc phải đặt vé bay đêm của hãng El Al, điều này làm tôi lo lắng ít. Tôi đội chiếc mũ Yankee vào sân bay JFK, thầm cầu nguyện “người đàn ông da trắng cao mét tám” như tôi quá khác thường để mọi người chú ý. Tại quầy vé El Al, mọi việc diễn ra suôn sẻ ngờ, nhưng tôi ngại nhất là chuyện ăn . Sợ nhất những cuộc phỏng vấn an ninh chính thức. Theo Stern, có lúc trước khi lên máy bay EI AI, số sĩ quan an ninh mặc thường phục bỗng dưng đến bắt chuyện với để đánh hơi về các ý định của . có cách nào thoát khỏi chuyện này nếu Rachel đứng ra .

      “Món thịt gà xào súp lơ xanh kia trông ngon đấy chứ,” tôi , tay chỉ quầy ăn Tàu.

      “Tuyệt,” Rachel đờ đẫn .

      Tôi nắm vai nàng. “Em sao chứ?”

      Nàng đáp.

      Tôi bước lên trước và gọi hai đĩa thịt gà xào súp lơ xanh. Khi tôi trả tiền, tôi nghe giọng đàn ông sau lưng.

      “Xin chào. Chúng tôi xếp hàng cùng với ông bà ở quầy vé El Al. Các vị nghỉ trước lễ Phục sinh phải ạ?”

      “À... ,” Rachel trả lời.

      Tôi liếc ra sau và thấy hai gã da đen tầm thước đứng sau chúng tôi. Bọn họ có đôi mắt láo liên và nụ cười cởi mở. Trông như hai em.

      “Vậy chắc là thăm gia đình?” gã thứ hai hỏi, cổ gã đeo dây chuyền vàng.

      ,” Rachel lúng túng . “Chúng tôi có chuyện riêng. Vấn đề sức khỏe ấy mà.”

      Những cái nhìn băn khoăn. “Ồ, xin lỗi tò mò.”

      Họ tìm kiếm bọn khủng bố, tôi tự nhủ, phải tìm người mưu sát tổng thống. Tôi quay lại gật đầu với hai gã.

      Im lặng lúc này bất tiện, nhưng Rachel bỗng rướn thẳng người và linh hoạt hẳn lên. “Tôi nghĩ chẳng có gì phải giấu,” nàng . “Bác sĩ phụ sản của tôi giới thiệu tôi đến đó. Tôi vừa được chẩn đoán ung thư buồng trứng. Nhưng ấy có người bạn ở bệnh viện Hadassah, Jerusalem. Có cuộc thử nghiệm lâm sàng để cấy tế bào T của chính bệnh nhân và đưa nó vào để diệt các khối u. Bác sĩ của tôi là người bạn cũ. ấy bố trí mọi thứ cho chuyến của chúng tôi, ơn trời. Máy bay, khách sạn, tất tật.” Nàng đặt tay lên tim. “Tôi xin lỗi nhiều quá. Tôi chỉ có tia hy vọng, và tôi thấy dễ chịu khi về nó.”

      “Hoàn toàn đúng,” gã đàn ông đeo dây chuyền . “Và tôi tin bà khỏi bệnh. Bác sĩ ở Hadassah là những bác sĩ giỏi nhất thế giới.”

      “Cuộc thử nghiệm có vẻ đầy hứa hẹn,” tôi xen vào, muốn tỏ ra lúng túng. “Nhà nghiên cứu hàng đầu từng được đào tạo ở Sloan-Kettering.”

      “Ông như thể chính ông cũng là bác sĩ,” gã thấp hơn , chút nghi hoặc trong tôi rằng bọn này là an ninh của El AI lúc này tan biến nốt. Bỗng nhiên tôi nghĩ về số tiền mặt 16.000 đô còn nằm trong túi bao tử giấu trong quần áo.

      “Thưa ông, món ăn đây ạ,” nhân viên chạy bàn người Hoa ngắt lời.

      “Cám ơn,” tôi , liếc về phía đĩa thức ăn. “Vâng, tôi là bác sĩ nội khoa.”

      “Ông có biết về chứng viêm khớp ?” gã thấp bé hỏi. “Họ bảo tôi bị bênh viêm khớp vảy nến. Ông có biết bệnh này ?”

      Có trả lời ? tôi thầm nghĩ. Cư xử cách kiêu kỳ? “Phải, có năm loại. số loại tương đối , có loại gây biến dạng.”

      “Loại nào tệ nhất?”

      “Loại viêm khớp biến dạng.”

      Gã kia sung sướng cười toác miệng. “ phải của tôi. Tôi chỉ bị ở gần các đốt ngón tay.”

      “Có khả năng là viêm khớp liên đốt ngón tay.” Tôi cầm tay gã lên xem xét móng tay, thấy có những vết lõm khá . “Có thể là nặng hơn nhiều.”

      Gã rút tay về. “Được rồi, được rồi. Ừm, chúc ông ngon miệng.”

      “Chúc ông bà gặp may ở Hadassah,” gã đeo dây chuyền . “Ông bà đến đúng nơi để điều trị đấy.”

      Tôi đặt cả hai đĩa lên khay và bưng sang chiếc bàn trống. Rachel theo sau tôi, trông nàng có vẻ choáng váng. Tôi liếc lại phía quầy ăn và thấy hai gã kia bỏ gọi món gì.

      “Em xử trí tuyệt lắm,” tôi khẽ . “Xứng cỡ giải thưởng Oscar.”

      “Bản năng sinh tồn,” nàng và ngồi xuống ghế. “Ai cũng có cái bản năng ấy trong người. với em thế ở Bắc Carolina, và em tin . Giờ em hơn rồi.”

      Tôi cầm nĩa lên. “Em đừng day dứt về chuyện đó, ích gì.”

      “Bọn này chắc chuyện với Adam. Em linh cảm thế.”

      còn nghi ngờ gì nữa. ấy chắc cũng kể cho chúng nghe cùng câu chuyện. Nếu chúng ta lên được máy bay mà bị bắt, gửi cho chàng này két champagne.”

      Rachel nhắm mắt. “Liệu có được ?”

      “Được chứ. Chỉ cần bên nhau nửa giờ nữa thôi.”

      Chiếc 747 chật ních người dù là chuyến bay đêm, nhưng chúng tôi được biệt lập khỏi những người gần nhất bởi hai ghế trống và lối giữa, nên cũng có được đôi chút riêng tư. Tôi ngồi bên cửa sổ với chiếc mũ Yankee sùm sụp, cẩn trọng chạm mắt ai khi lấy hai chiếc chăn và cùng kéo đến tận cổ.

      Chúng tôi ngồi ở cổng tưởng chừng đến hai giờ, nhưng theo đồng hồ tôi, ra chỉ mới bốn mươi phút. Trong khi hành khách xung quanh chuyện trò sôi nổi về chuyến thăm Đất Thánh sắp tới, Rachel và tôi giả vờ ngủ, nắm chặt tay nhau dưới lớp chăn. Cuối cùng chiếc El Al cũng chạy chầm chậm đường băng rồi lao rầm rầm vào bầu trời đêm.

      “Ơn trời,” nàng thầm khi bánh xe cất lên khỏi nền bê tông.

      Trong vòng mười giờ nữa chúng tôi phải qua kiểm tra an ninh ở Tel Aviv, nhưng lên được máy bay là thắng được nửa trận chiến rồi, và tôi muốn tập trung vào thắng lợi nhoi này. “Em ổn chứ?”

      Nàng mở mắt ra, đôi mắt chỉ cách mắt tôi cái lưỡi trai của chiếc mũ Yankees. Tôi thấy trong ấy những cảm xúc mà tôi hiểu nổi.

      “Em cần hỏi vài điều, David.” Nàng như bác sĩ tâm thần mà tôi biết trước khi hai đứa ái ân. “Chúng ta tới Jerusalem, và em muốn đến tận cùng câu hỏi tại sao. Em muốn xử như trong buổi làm việc.”

      . Nếu em hỏi số điều, có thể hỏi em số điều khác. Và em phải trả lời . Đó là quan hệ giữa chúng ta bây giờ.”

      Nàng ngần ngừ chút rồi gật đầu. “Thế là sòng phẳng. từng với em là người vô thần. bảo mẹ tin tưởng vào cái gì cao hơn loài người, nhưng tin vào tôn giáo có tổ chức. Thế còn cha . Ông có bao giờ tuyên bố là vô thần ?”

      . Cha chỉ tin vào cái quan niệm thông thường về Chúa thôi. vị Chúa dành hết quan tâm cho loài người. Cha là nhà vật lý. Họ vốn là những kẻ đầy hoài nghi.”

      “Ông ấy có tin tưởng vào thực thể siêu việt nào ?”

      Cha tôi phải típ người luôn luôn suy nghĩ ở “tầm vũ trụ”, nhưng có đôi khi - trong các cuộc cắm trại núi dưới bầu trời đầy sao - cha cho em chúng tôi biết niềm tin thực của ông.

      “Cha quan niệm rất giản đơn về bản thể của vật. Đơn giản nhưng sâu sắc. Ông nhìn con người tách rời khỏi vụ trụ, mà chỉ là bộ phận của nó. Ông thường bảo, ‘con người là vũ trụ có ý thức về bản thân mình’.”

      “Hình như em nghe câu này ở đâu rồi phải?”

      “Có thể. cũng từng nghe những bậc thầy của phong trào New Age như Deepak Chopra(1) điều này. Nhưng cha cách đây hai mươi lăm năm.”

      nghĩ ông muốn gì?”

      “Chính là cái mà ông . Ông luôn luôn nhắc nhở bọn rằng mọi nguyên tử trong cơ thể chúng ta có lúc từng là bộ phận của vì sao xa xăm nổ tung. Ông về tiến hóa từ đơn giản đến phức tạp diễn ra như thế nào và trí thông minh của con người là biểu cao nhất của tiến hóa ra sao. còn nhớ cha bảo bộ não con ếch còn phức tạp hơn vì sao nhiều. Ông coi ý thức con người là nơ ron thần kinh đầu tiên của vũ trụ có sống và ý thức. tia lửa lóe lên trong bóng tối, chờ đợi bùng lên thành ngọn lửa.”

      Rachel trông có vẻ đăm chiêu “ ý tưởng đẹp đẽ. hẳn là quan điểm tôn giáo, mà là cách nhìn đầy hy vọng.”

      “Và lại thực tế nữa. Nếu chúng ta là những vũ trụ có ý thức về bản thân mình, chúng ta có nghĩa vụ tinh thần phải sống còn. Để giữ gìn lấy món quà ý thức. Và để làm được thế, ta phải sống trong hòa bình. Từ đó có thể rút ra bao điều về những bộ luật khả thi, đạo đức, và mọi thứ.”

      Rachel ngẫm nghĩ. “ có đồng ý với cha về quan điểm vũ trụ này ?”

      đồng ý cho đến mấy tuần gần đây. Những ảo ảnh của còn hoàn toàn phù hợp với nó nữa.”

      Nàng đặt tay lên đầu gối tôi. “Chúng ta biết chúng trùng hợp với cái gì, đúng ? Em cũng nghĩ rằng quan điểm của cha loại trừ tồn tại của đấng sáng thế. vẫn còn lo mình chết nếu đến được Jerusalem trước khi mơ thấy cảnh đóng đinh thánh giá à?”

      Mối hiểm nguy trước mắt là bị cảnh sát bắt làm tôi xao nhãng nỗi lo này. “ vẫn còn cảm thấy nguy cấp, nhưng giống như trước. Việc chúng ta đường đến đó khiến áp lực ấy dịu đôi chút.”

      “Nếu mơ thấy cảnh đóng đinh thánh giá nên lo lắng về điều đó. giấc mơ thể giết được ai.”

      Tôi chắc lắm. “Chúng ta về em chút nhé. Em em tin Chúa. Chính xác là em tin cái gì?”

      “Em thấy điều đó có liên can gì đến việc chúng ta làm.”

      nghĩ cả hai chúng ta lên máy bay này vì cùng lý do. Và nghĩ việc em tin cái gì có ý nghĩa quan trọng đấy.”

      Mặt nàng buồn khôn tả. “Em đến với Chúa khá muộn. Hồi em bao giờ nhà thờ hay đến Giáo đường Do Thái.”

      “Sao lại ?”

      “Cha em quay lưng lại với Chúa khi ông mới bảy tuổi.”

      “Sao còn thế mà ...?”

      “Cha em bước sang tuổi thứ bảy trong trại tập trung.”

      Có gì trong tôi bỗng lạnh buốt.

      Cái nhìn của nàng trở nên mơ màng như hướng về quá khứ. “Cha em tận mắt chứng kiến ông nội em bị giết. Đấy phải chuyện bình thường, dù cho ở trại tập trung. Lúc ấy quân Đồng minh đến gần, bọn cảnh vệ Đức Quốc xã liền thủ tiêu tù nhân. thằng lính gác nghĩ ra trò chơi với tiểu đội chuyên làm việc vặt của . giết mỗi ngày người. muốn để cho những người tù đói khát giết lẫn nhau và ai chịu giết được tha. Tất nhiên ông nội em từ chối. Ông vốn là nhà giải phẫu ở Berlin. Ông từng gặp Freud, trao đổi thư từ với Jung.”

      Trí óc tôi quay cuồng khi lý do lựa chọn nghiệp của Rachel .

      “Thằng lính gác đánh ông em đến chết trước mắt cậu bé là cha em. Từ đó cha em quyết định rằng vị Chúa để cho cảnh ấy xảy ra đáng bị nguyền rủa chứ đáng được cầu nguyện.”

      Tôi muốn gì đó, nhưng lời lúc này phỏng có nghĩa gì?

      “Cha em là trong những người may mắn được nhập cư vào Mỹ. Ông được người bà con xa ở Brooklyn bảo lãnh.” Rachel cười buồn. “Ông Milton, chú của cha em là thợ khóa. Việc cha em chịu cầu nguyện khiến ông nổi giận, nhưng ông biết cha chịu đựng quá nhiều. Khi đến tuổi thành niên, cha em đổi tên thành White, chuyển đến Queens, và thôi gặp gỡ gia đình, dù vẫn gửi tiền cho họ. Ông kết hôn với người ngoài Do Thái theo đạo, và cha mẹ em nuôi dạy em trong ngôi nhà có ai theo đạo.”

      Tôi kinh ngạc ngồi nghe. Ta gặp khuôn mặt đường phố Mỹ, hay trong công sở, mà chẳng hề ngờ có thiên sử thi bi thảm nấp đằng sau nó.

      “Vì thế em luôn cảm thấy như người ngoài cuộc. Tất cả các bạn em đều nhà thờ, hoặc đến giáo đường Do Thái. Em thấy tò mò. Khi em mười bảy tuổi, em tìm ra ông Milton. Ông ấy cho em biết mọi chuyện. Sau đó... em gia nhập đạo.”

      Nhiều bí mật nho về tính cách của Rachel bỗng trở nên có nghĩa: việc nàng ăn mặc khắc khổ, giữ khoảng cách trong công việc, việc nàng ghê tởm bạo lực...

      “Vấn đề là,” nàng tiếp tục, “em nghĩ em trở thành tín đồ Do Thái giáo bởi những nhận biết về cảm xúc và chính trị chứ phải vì khao khát thực ý muốn của Chúa.”

      “Thế có gì là sai.”

      “Tất nhiên là có đấy. Nếu hỏi em suy nghĩ gì về Chúa, có gì liên quan đến Torah hay Talmud (28-). Nó chỉ liên quan đến những gì em nhìn thấy trong cuộc đời mình.”

      “Em nghĩ gì?”

      Nàng đan tay lại đùi. “Em tin rằng sáng tạo có nghĩa là tạo ra những gì trước đấy chưa từng có. Nếu Chúa là hoàn hảo, cách duy nhất Người có thể sáng tạo là tạo ra cái gì đó tách rời khỏi Người. Vậy theo định nghĩa cái mà Người sáng tạo ra phải hoàn thiện. thấy ? Nếu nó hoàn hảo, nó là Chúa.”

      “Đúng.”

      “Em tin rằng đối với con người, để khác với Chúa, chúng ta phải có khả năng lựa chọn. Tự do ý chí, đúng ? Và nếu những lựa chọn xấu dẫn đến nỗi đau ý chí tự do có ý nghĩa gì hết. Đó là lý do vì sao cái ác tồn tại trong thế giới của chúng ta. Em biết tôn giáo còn bổ sung thêm gì nữa, nhưng dù là gì, đó vẫn là điều em tin.”

      “Đó là cách giải thích phù hợp cho cái thế giới như ta nhìn thấy. Nhưng nó chưa gì về bí mật trung tâm. Tại sao Chúa lại cảm thấy bắt buộc phải tạo ra cái gì đó?”

      “Có lẽ chúng ta chẳng bao giờ biết được.”

      “Chúng ta có thể. Mặt trời nổ tung trong khoảng năm tỷ năm nữa. Ngay cả trong trường hợp vũ trụ sụp đổ từ bên trong - Big Scrunch - kiện sớm nhất có thể xảy ra cũng là hai mươi tỷ năm sau. Nếu chúng ta tự hủy hoại mình, chúng ta còn khối thời giờ để trả lời câu hỏi đó. Có thể là mọi câu hỏi.”

      Nàng mỉm cười. “ và em bao giờ biết được.”

      Nhìn sâu vào đôi mắt màu sẫm của nàng, tôi nhận ra mình hiểu nàng quá ít. “Em hề cổ hủ như em ra vẻ. ước gì em có dịp chuyện với Fielding.”

      “Ông ấy tin tưởng gì vào Chúa?”

      “Fielding luôn trăn trở với vấn đề cái ác. Ông ấy được nuôi dạy như tín đồ Cơ Đốc, nhưng ông bảo cả Cơ Đốc giáo lẫn Do Thái giáo đều bao giờ đối đầu trực diện với cái ác.”

      “Ông ấy muốn gì?”

      “Ông ấy nêu lên ba lời tuyên bố: ‘Chúa là toàn năng. Chúa là toàn thiện. Cái ác vẫn tồn tại.’ Người ta có thể liên kết cách logic hai trong ba tuyên bố , nhưng bao giờ là cả ba.”

      Rachel gật đầu vẻ suy tư.

      “Fielding nghĩ rằng chỉ các tôn giáo phương Đông mới đúng là Nhất thần giáo, vì chúng thừa nhận rằng cái ác từ Thượng đế mà ra, chứ đổ tội cho kẻ yếu thế hơn như Satan chẳng hạn.”

      “Còn ? cho rằng cái ác từ đâu mà ra?”

      “Từ tim con người.”

      “Tim bơm máu, David ạ.”

      “Em hiểu muốn gì mà. Tâm lý. cái giếng tăm tối nơi bản năng nguyên thủy hòa trộn với trí thông minh con người. Nơi người ta thấy con người có thể hung bạo đến mức khó tưởng tượng ra những mưu ma chước quỷ đằng sau nó. muốn , hãy nhìn vào những gì xảy ra với ông em .”

      Rachel siết chặt cánh tay tôi và nhìn tôi với vẻ khẩn khoản gần như khôn cùng. “Vào cái ngày ông em bị giết, có khoảnh khắc ông em có thể giết thằng lính gác đó. Lúc ấy chỉ có ba tù nhân với tên lính gác ở mỏ đá vắng vẻ. Chỉ còn ngày nữa thôi là người Mỹ tới. Nhưng ông làm điều đó.”

      “Tại sao ?” tôi hỏi, sững sờ vì cảm xúc mãnh liệt của nàng.

      “Em nghĩ ông biết điều mà chúng ta quên.”

      “Điều gì?”

      “Rằng nếu cầm lấy vũ khí của kẻ thù, trở nên giống chúng. Jesus biết điều đó. Gandhi cũng vậy.”

      “Ngay cả khi con trai đứng đó bên cạnh ? Cần che chở? vẫn phải nhẫn nhịn, và chịu hy sinh ư?”

      phạm tội giết người,” Rachel kiên quyết . “Nếu ông em giết thằng lính gác đó đêm ấy ông và cha em có thể bị hành hình rồi. Chúng ta thể biết được tương lai. Đó là lý do khiến việc em làm hôm qua khiến em sốc đến thế. Em nhặt khẩu súng của và bắn vào đồng loại. em làm gì khi hành động như thế?”

      “Em cứu mạng . Cả mạng em nữa.”

      “Trong thời gian.”

      Tôi siết chặt tay nàng. “Chúng ta còn sống đây, Rachel. Và tin mình có việc hệ trọng phải làm trước khi chết.”

      “Em biết tin điều đó.”

      chàng tiếp viên hàng bỗng xuất ngay bên chúng tôi lối giữa. Tôi muốn ngước nhìn lên, nên ra hiệu cho Rachel quay lại.

      “Sao ạ?” Rachel hỏi, giọng ngái ngủ.

      “Các vị có muốn ăn tối ạ?”

      Nàng quay lại nhìn tôi, tôi gật đầu. “Có,” nàng . “Cám ơn.”

      Người tiếp viên liếc xéo tôi cái rồi bước .

      Rachel nín thở. “ nghĩ gì vậy?”

      biết. Nghe có vẻ kỳ, nhưng có lẽ muốn kiểm tra xem có chúng ta định ngủ qua cả bữa tối .”

      Nàng lắc đầu. “Em thể.”

      “Có, em có thể. Chúng ta ổn rồi.”

      “Còn sân bay Tel Aviv sao?”

      “Chúng ta qua đó an toàn.”

      làm sao biết được.”

      Tôi vuốt má nàng và với niềm tin tưởng mà tôi biết là mình có. “ biết chắc chắn. Có điều gì đó chờ ở Jerusalem.”

      “Điều gì?”

      câu trả lời.”




      CHƯƠNG 28


      White Sands, New Mexico

      Ravi Nara tăng ga chiếc Honda ATV của y và chạy đến nơi mà đội ngũ kỹ thuật của Godin bị lừa đến mức gọi là bệnh viện. khí New Mexico làm cổ họng y khô rát, ánh mặt trời thiêu đốt khiến nhà thần kinh học kiệt quệ đến nỗi y cố ở trong bóng râm càng nhiều càng tốt. nhân viên kỹ thuật mặc áo choàng trắng ngang qua đường giơ tay chào y. Nara giận dữ đạp phanh rồi lại phóng thẳng.

      Y phải căng óc ra chuyện với John Skow qua điện thoại bằng chiếc di động được đổi tần số để tránh nghe trộm mà tay nhân viên NSA đưa cho y. Nhưng Godin cận kề cái chết, y đành phải liều. Skow thẳng thừng rằng nếu Godin chết trước khi Trinity trở thành thực nghiệp của cả lũ tong, mà có khi cả tính mạng nữa. Zach Levin, kỹ sư trưởng của Godin dự báo rằng nguyên mẫu Trinity có thể hoạt động hết chức năng trong vòng từ bảy đến mười ngày nữa. Nhưng dự tính ấy dựa cơ sở là bản thân Godin còn tiếp tục tham gia. Ravi biết, giữ cho Godin sống thêm hai mươi bốn giờ nữa là may lắm rồi.

      Y ngờ rằng khó có bác sĩ nào từng làm việc căng đến thế để giữ cho bệnh nhân sống. Mới ba mươi sáu tuổi, Ravi Nara bác sĩ được trọng vọng. Ở quê hương Ấn Độ, y được đối đãi như hùng, dù nhập quốc tịch Mỹ. Nhưng nếu Trinity thất bại dưới bóng đen vụ scandal sát hại người đồng đoạt giải Nobel gì có thể cứu vãn danh tiếng của y được nữa.

      Y lại nghĩ biết có ai nghe lén cuộc điện đàm giữa y và Skow . Tụi an ninh ở Bắc Carolina này hung tợn lắm, nhưng White Sands là lãnh địa chết tiệt của quân đội. Đến giờ y vẫn chưa chạm trán người nào. Có lẽ xa khuất của chốn này khiến bọn an ninh bớt hoang tưởng hơn.

      White Sands lớn hơn cả Delaware và Rhode Island gộp lại. Khoảnh đất được rào riêng cho khu vực nghiên cứu của Trinity giống như nốt ruồi con voi trắng, nằm trong vùng rộng lớn do trường Tình báo Quân đội ở căn cứ Huachuca, bang Arizona quản lý. Trước khi Nara viếng thăm cơ sở này, Godin mô tả điều kiện sống ở đây “khắc nghiệt như trại lính Sparta”. Là kiều dân ở New York, Nara nghĩ Bắc Carolina là nơi xa xôi hẻo lánh. White Sands là chốn khỉ ho cò gáy, quang cảnh mặt trăng với toàn núi đá và thạch cao trắng, chỉ có rắn đuôi chuông làm bạn. Y ngờ mình gặp những người da đỏ phi ngựa qua đụn cát, đuổi theo sau là đám cao bồi trong phim của John Ford, nhưng bọn họ xuất .

      Tổ hợp Trinity được bố trí kiểu đơn giản hình học. Có bốn tòa nhà chính là: phòng thí nghiệm nghiên cứu, bệnh viện, khu quản trị và nhà Cách ly. Còn có doanh trại, xưởng máy, trạm phát điện lớn, và đường băng cho máy bay phản lực quân lên xuống. Những tòa nhà ấy là nhà, mà chỉ là những kho chứa máy bay được cải tạo lại do các kỹ sư quân đội lắp ghép cấp tốc trong có năm tuần lễ. Chỉ có nhà Cách ly là khác. Đó là nơi đặt nguyên mẫu Trinity.

      Ravi trông thấy tòa nhà lạ bên phải y, đứng tách riêng ra ở khoảng giữa của tổ hợp. Được xây dựng giống như boong ke thời Thế Chiến II, nhà Cách ly có những bức tường bê tông dày mét hai, được gia cố bằng thép tôi và được bọc chì. Nó được trang bị bốn dây cáp điện khổng lồ, hai đường ống nước, và hệ thống điều hòa khí dân dụng. có đường dây điện thoại, cáp truyền hình đồng trục và mạng lưới cáp hạng năm chạy vào tòa nhà ấy. có giàn ăng ten hay chảo parabol nhô lên từ nóc nhà, như ở mọi tòa nhà khác. Tòa nhà Cách ly giống như kiến trúc được xây để giữ Harry Houdini (30), nếu Houdini có thể tự số hóa và chuồn qua dây thép hoặc đường truyền tín hiệu. Nếu nguyên mẫu Trinity hoạt động hoàn chỉnh, ai - kể cả Peter Godin - muốn nó được kết nối với Internet.

      Hôm nay Ravi tránh vào viện. Godin cận kề cái chết từ nhiều tuần nay, nhưng cách đây hai hôm lão bắt đầu trượt nhanh hơn về cõi vĩnh hằng. Ravi tin rằng cái chết của Fielding gây ra điều này, cần thiết dã man giáng cho lão già cú đòn nặng hơn chờ đợi. Tất nhiên việc Fielding chết cho họ có được viên pha lê, như vậy mọi nghi ngờ về tính đúng đắn của việc giết ông ta là cần thiết.

      Chỉ vài giờ sau khi lấy được viên pha lê, họ khôi phục được tất cả những gì Fielding phá mất, và sau khi khám phá ra công việc độc lập mà Fielding làm, họ thấy mình chỉ còn cách thành công về mẫu máy khả thi trong gang tấc. Nhưng nỗi phởn chí vì thành công bị cắt ngang bởi vấn đề Tennant và bác sĩ tâm thần của ta. Có lẽ việc xử lý chuyện này khiến Godin gục, nhưng theo các phân tích cuối cùng chính bệnh ung thư đốn ngã lão, như nó giết bất kỳ ai có khối u ác tính như vậy.

      Ravi đậu chiếc ATV của y trước bệnh viện được cải tạo từ kho chứa máy bay, rồi bước vào trong. Kho được chia làm nhiều “phòng” bằng những vách ngăn, gian nào có trần - kể cả phòng tắm - nên mùi khó chịu liên tục lan khắp tòa nhà trừ chỗ nào. Peter Godin phải bận tâm về điều ấy. Lão chiếm căn phòng kín gió có áp suất dương mà tác nhân lây nhiễm nào có thể lọt vào. Được cung cấp nước và khí lọc, căn phòng plastic có biệt danh Bong bóng giống như chiếc lồng ấp giữa tòa nhà này.

      Để Ravi và các y tá khỏi mất thời gian mặc quần áo bảo vệ, gần cửa Bong bóng có lắp đặt bộ khử trùng bằng tia cực tím. Để tự tiệt trùng, Ravi chỉ cần rửa tay, đeo mặt nạ rồi đứng trước bức xạ đủ lâu để quần áo và da sạch hết các vi sinh vật nguy hiểm. Quá trình này chỉ mất hai phút, nhưng gần đây nó khiến Ravi cáu kỉnh. Tất nhiên y vẫn thể trách Godin. Steroid và hóa học trị liệu hạ gục hệ miễn dịch của ông già, và Godin muốn cái điều mà mọi người từ ngàn xưa muốn: đánh lừa thần chết.

      Đèn cực tím kêu vo vo cuối cùng tắt. Ravi giẫm chân lên công tắc kích hoạt cho cánh cửa sập bằng thủy tinh plexi của Bong bóng mở ra rồi bước vào trong. Godin nằm bất tỉnh giường bệnh, xung quanh la liệt các màn hình và thiết bị hồi tỉnh. Thân thể lão bị đường truyền tĩnh mạch trung tâm xuyên vào và được đấu nối với màn hình bằng những sợi dây dẫn mảnh. Cái đầu chỉ huy của lão chẳng nổi bật hơn màu trắng của tấm ga trải giường lão nằm là mấy.

      Hai nữ y tá túc trực bên giường bệnh, theo dõi sát sao mọi thay đổi nhất trong trạng thái bệnh nhân. Ravi gật đầu với họ, rồi rút bệnh án ra khỏi khe kẹp cuối giường đọc qua loa. U thần kinh đệm thân não, di căn, mổ được. Y làm chẩn đoán này cách đây sáu tháng, khi lần đầu xem ảnh chụp não Godin qua Siêu-MRI. kỳ quái khi nhìn thấy khối u phát triển bên trong khối óc thuộc hàng tài năng nhất trái đất. Khi Godin cầu Ravi giữ kín bệnh ung thư của lão, Ravi do dự. Tiết lộ tình trạng Godin có thể chấm dứt cơ hội tham gia vào nỗ lực khoa học vĩ đại nhất lịch sử của y. Tất nhiên Ravi ra giá cho cộng tác của mình. Điều đó đúng thôi. Peter Godin quá giàu, Ravi Nara khá nghèo. mất cân bằng này vì thế được đưa ra thảo luận, giá ở mức vừa phải. Tuy nhiên khoản tiền mặt và cổ phiếu Ravi nhận được lúc này trở nên quá tầm thường khi phải đối mặt với các nguy cơ.

      “Ravi?” ông già thều thào. “Cậu đấy à?”

      Ravi ngước lên khỏi bệnh án và thấy đôi mắt xanh sắc lạnh dán chặt vào y.

      “Sao tôi thấy mệt thế này?” Godin hỏi.

      “Có lẽ do tai biến ngập máu.” Godin vẫn còn bị động kinh từ khi tiếp xúc trực tiếp với Siêu-MRI.

      Ravi bước quanh giường và nhìn vào khuôn mặt chảy nhão. Godin trước đây là trong những người mạnh mẽ nhất mà y từng biết, thế mà căn bệnh ung thư làm lão suy sụp như gã ăn mày hè phố. Mà ... điều đó hoàn toàn đúng. gã ăn mày hè phố nào có được Ravi Nara và tài sản hầu như vô tận để níu giữ sống. Ngay cả khi cận kề cái chết, khi tóc và lông mày rụng hết, Godin vẫn giữ được vẻ mặt nhìn nghiêng như chim ưng từng khiến chàng kỹ sư thiết kế máy tính trẻ tuổi năng động ngày đó nổi bật đến thế những năm cuối thập niên năm mươi, và năm thập kỷ sau đó.

      “Khối u của ông phát triển rất nhanh, Peter ạ. Đến lúc này tôi chỉ có thể làm được bấy nhiêu thôi. Đó là trận chiến giữa việc giữ cho ông tỉnh, và giữ cho ông khỏi đau để hoạt động.”

      “Mẹ kiếp cơn đau.” Godin nắm bàn tay sưng tấy của mình thành quả đấm. “Đau tôi chịu được.”

      “Đêm qua ông đâu có thế. Đêm qua ông bảo mặt ông cháy rát còn gì.”

      Godin rùng mình. “Bây giờ tôi tỉnh. Gọi Levin đến đây cho tôi.”

      Zach Levin từng là trưởng phòng R&D trong công ty Siêu máy tính Godin tại Mountain View cho đến khi ta được đưa đến Bắc Carolina để điều hành đội Giao diện, đơn vị chịu trách nhiệm giao tiếp với máy tính Trinity. Levin là gã ba mươi lăm tuổi cao ráo, da tái, tóc sớm bạc. Giống như sếp của mình thời còn sung mãn, Levin hình như có thể sống mà cần ngủ.

      “Tôi gọi ta vào,” Ravi .

      Godin giơ tay lên, “ có tin gì về Tennant và Weiss ?”

      “Từ lúc ở ga Liên Hiệp còn dấu vết gì của chúng nữa.”

      Lão già nhắm mắt thở dài khò khè, dấu hiệu của điều chờ đợi lão trong tương lai gần. “ ta bắn Geli à?”

      “Vâng, họ chính Weiss bắn.”

      Godin cau mày, nửa dưới khuôn mặt lão nhăn nhúm khủng khiếp. Mặc dầu sống cùng vợ gần như cả đời nhưng lão có con cái và luôn thể tình thương của người cha với Geli Bauer. Ý nghĩ này khiến da Ravi sởn lên; cứ như là tình cha con với rắn hổ mang vậy.

      “Geli sao rồi?” Godin hỏi.

      “Tôi nghe hoàn toàn khỏe mạnh. Người ta chuyển ấy đến Walter Reed. Chính bố ấy bố trí việc đó.”

      Godin thoáng cười. “Nếu nó biết chuyện đó, chắc nó chẳng .” Nụ cười biến mất đột ngột. “ nghĩ Tennant mưu toan gì ở Washington? Tổng thống vẫn còn ở Trung Quốc kia mà.”

      Ravi ước giá như y biết. Trong phần lớn dự án, tay bác sĩ nội khoa này làm y đau đầu nhất. Che giấu bệnh ung thư với dân ngoại đạo khó khăn gì, thế nhưng Tennant luôn lưu ý Godin về việc trọng lượng tăng giảm bất thường, về dáng trở nên lòng khòng tập tễnh và những thay đổi trong cơ thể do steroid gây ra. Có thể giải thích đó là do chứng viêm khớp mãn tính của lão, tuy vậy trong sáu tuần gần đây Ravi vẫn buộc phải cách ly Godin khỏi Tennant.

      “Tôi biết, Peter ạ. Tôi cũng lo lắm.”

      Khi y tá đến cho Godin uống ngụm nước, Ravi ước lượng thời gian sống còn lại của lão già kiên cường này. Điều này dễ. Từ nhiều năm nay Ravi làm việc trực tiếp với bệnh nhân, và Godin với loại u này vượt quá thời gian có thể sống theo bảng tuổi thọ trung bình. Tiên lượng thời gian sống của bệnh nhân trong trường hợp này là kiểu bói theo điềm báo, mà những bác sĩ như Tennant rất giỏi việc này. Nhiều năm kinh nghiệm lâm sàng cho họ cái linh cảm về sống và chết. Nhưng bất kỳ bà mụ nào cũng làm được điều đó.

      Tiếng vo vo và tia sáng tím lóe lên khiến Ravi quay đầu lại. Qua lớp cửa trong suốt của Bong bóng, y trông thấy Zach Levin đứng trước đèn khử trùng bằng tia cực tím.

      Phần lớn thời gian Levin ở luôn trong phòng bê tông của nhà Cách ly, nhưng ta dường như luôn cảm nhận được lúc nào Godin tỉnh lại. Levin và các kỹ thuật viên của ta giống như đoàn tăng lữ, chăm sóc chu đáo sư phụ của mình trong giờ phút lâm chung, cũng như đón nhận tác phẩm của ông ta khi nó vừa ra đời. Những tăng lữ của khoa học, Ravi nghĩ. Cái thuật ngữ mới mâu thuẫn làm sao. Y vừa vẫy Levin vừa nghĩ, Mày làm tao rồ đếch chịu nổi rồi.

      “Levin đến rồi,” Ravi , cố rặn ra nụ cười.

      “Tôi còn tỉnh được bao lâu nữa?” Godin hỏi.

      “Cho đến khi nào thể chịu nổi cơn đau thôi.”

      đường ra cậu bảo Levin vào đây.”

      Ravi cố nuốt giận. Cả cuộc đời y luôn là thần đồng, thế mà trong vòng sáu tháng nay y có cảm giác như viên ngự y hầu vua. Cuộc sống của y bị chế ngự bởi tính khí thất thường của bạo chúa. Y giẫm chân lên nút bấm để mở cánh cửa sập và bước ra khỏi Bong bóng.

      Zach Levin gật đầu chào y từ nơi lắp đèn khử trùng. Về mặt kỹ thuật, Levin và nhóm của nằm dưới quyền điều khiển của Ravi. Nhưng phần cứng và phần mềm của máy tính Trinity quá phức tạp nên y thể hy vọng hướng dẫn đâu ra đấy cho người của Levin, ngoại trừ những vấn đề liên quan trực tiếp đến bộ não. Ngay cả khi họ đến hỏi y những câu hỏi về thần kinh hệ, y cũng cảm thấy như bị họ lợi dụng hơn là cần nghe y giảng giải. Họ bơi như đàn cá piranha qua trí tuệ của y và ngấu nghiến những gì họ cần cho cuộc hành trình vào mê cung của những mẫu thần kinh...

      “Ông ấy sao rồi?” Levin hỏi to.

      Đèn cực tím kêu vo vo rồi tắt lịm.

      “Ông ấy tỉnh đấy,” Ravil . “Minh mẫn.”

      “Tốt. Tôi có tin hay cho ông ấy đây.”

      Nhưng phải cho tao, Ravi cay đắng nghĩ. “Cậu đặt thêm câu hỏi nào cho mẫu Tennant chưa?”

      Levin có vẻ cân nhắc câu trả lời. “Tôi kết xuất mẫu bác sĩ Tennant khỏi máy tính cách đây giờ rồi.”

      “Ai bảo cậu làm thế?”

      “Thế nghĩ là ai?”

      Godin.

      “Vào lúc này,” Levin , “vận hành hết chức năng Trinity quan trọng hơn bất cứ nguy cơ gì bác sĩ Tennant gây ra cho dự án.”

      Ravi cũng cảm thấy như thế, nhưng y muốn tay kỹ sư này biết. “Làm sao mà việc kết xuất mẫu Tennant ra khỏi máy tính lại giúp cậu làm được điều đó?”

      “Peter cho rằng số vấn đề chúng ta gặp phải có nguyên nhân lượng tử. Ông ấy nghĩ biết đâu Andrew Fielding có thể giúp chúng ta.”

      “Fielding ư? Cậu muốn cậu tải mẫu thần kinh của Fielding vào máy mẫu?”

      “Đúng thế.”

      “Cậu tin rằng mẫu thần kinh của ông ta giúp các cậu giải quyết nốt những vấn đề còn lại à?”

      cho đúng ra, tôi biết tại sao mẫu thần kinh của ông ta lại hoạt động khác mẫu của bác sĩ Tennant. Nhưng đây là vấn đề thú vị. Tiến sĩ Fielding nghiệm cùng những thách đố mà Tennant trải qua - khủng bố, hỗn loạn, vòng phản hồi trong cuộc sống sinh học có những lối thoát bị cân bằng sai - nhưng ông ta hình như thích hợp với chúng ở tốc độ nhanh hơn nhiều.”

      Ravi rùng mình. Levin cứ như Fielding còn sống vậy. “Cậu nghĩ điều đó có nghĩa gì?”

      Chàng kỹ sư nhún vai. “Có thể chẳng là gì cả. Nhưng những điều mê tín của Godin ứng nghiệm quá nhiều lần nên thể nào bỏ qua. Và chính cái công trình được lưu trữ trong tinh thể của Fielding đưa chúng ta xa đến thế. Nếu các vùng xử lý trong mẫu thần kinh của ông ta hoạt động với hiệu quả cao hơn của bác sĩ Tennant... có thể còn là cả trận đấu mới.”

      Trống ngực Ravi đổ dồn. “Nếu điều ấy xảy ra hậu quả ra sao?”

      Levin trả lời.

      Ravi cảm thấy muốn tát vào mặt gã cao to này, nhưng hàm ý của những điều vừa biết đẩy suy nghĩ ấy ra khỏi trí óc y. “Được, cứ tiếp tục .”

      Nụ cười ngạo nghễ của Levin cho Ravi biết lúc này lời của y chẳng có tí trọng lượng nào.

      Ravi bước ra khỏi tòa nhà, leo lên chiếc ATV và nổ máy. Nếu những gì Levin là đúng, cú điện y gọi cho Skow là quá sớm. Trinity nhanh chóng trở thành thực, bất chấp cái chết của Godin. Và nếu điều đó xảy ra, nó làm thay đổi mọi chuyện. Thay vì tìm kẻ chịu tội, tổng thống tìm những bộ ngực để gắn huân chương lên. Và nếu Ravi đúng nước cờ, y là người đứng ở hàng đầu.

      Trong khi chạy xe về văn phòng của mình, y liếc nhìn lại khu Cách ly. Chôn nửa mình trong cát, khối nhà bê tông ấy toát ra cái cảm giác quyền lực mà y chưa từng thấy ở nơi nào khác thế giới. Y từng trải qua cảm giác khó chịu trong các nhà máy điện hạt nhân, nhưng những nguy hiểm của phản ứng hạt nhân còn đo đếm được. Ngay cả kịch bản tồi tệ nhất cũng có thể dự liệu, vì dù nguy hiểm đến đâu nhiên liệu hạt nhân cũng còn tuân theo quy luật tự nhiên.

      Trinity khác hẳn.

      Cách cơ sở này tám mươi cây về phía Bắc, vụ nổ hạt nhân đầu tiên trái đất biến nền sa mạc thành thủy tinh. Robert Oppenheimer kinh hoàng đứng nhìn trân trối vào mắt quả cầu lửa sinh ra từ đó, nhưng nỗi khiếp hãi của ông là nỗi khiếp hãi về bản thân cũng như về cỗ máy ông chế ra. Nhưng nếu máy tính bên trong tòa nhà Cách ly đạt hết tiềm năng của nó - nếu mọi vấn đề được giải quyết, và mẫu thần kinh đạt được hiệu suất 90 phần trăm - sáng tạo của Godin biến thứ đồ chơi chết người của Oppenheimer thành trò trẻ con. Vì khi con người nhìn vào mắt của Trinity, Trinity nhìn lại. Và nó biết nó nhìn cái gì.

      hình thức thấp hơn của sống.




      CHƯƠNG 29


      Tôi thức dậy thấy chiếc áo thun đầm đìa mồ hôi mà chẳng biết mình ở đâu. màng dính phủ mặt tôi, và người đàn bà tóc sẫm nằm cạnh tôi giường. Tôi biết đó là đàn bà nhờ hình dáng bờ vai. Ánh nắng chiều lọc qua rèm rọi xuống bên trái tôi, rớt xuống hai chiếc va li đặt song song sàn nhà. Tôi bắt đầu nhớ ra... Jerusalem.

      giấc mơ khiến tôi thức dậy, giấc mơ bình thường. Tôi chỉ thấy có khuôn mặt đàn ông ghé xuống hôn tôi. Cảnh tượng khiến tôi rùng mình, nhưng tôi cố hết sức đẩy nó ra khỏi trí óc. Những người lính, tôi nhớ, những người lính đeo gươm. Tôi đứng trong bóng tối, dưới tán cây trong khu vườn thơm ngát. Quanh tôi, người ngủ la liệt dưới đất. Tiếng ngáy của họ làm tôi cảm thấy đơn. nỗi sợ chiếm ngự tôi, nỗi sợ cái chết đến gần. Tôi nghe phía bên phải có tiếng rung chuyển, rồi giữa đám người ngủ, những người lính vùng đứng lên, quát tháo và lục soát các lùm cây. người khoác áo choàng từ trong bóng tối bước đến gần tôi. Tê điếng như trong cơn ác mộng, tôi đứng đó trong khi người kia hôn lên má tôi. Môi nhớt và lạnh. Khi rời ra, những người lính tóm cổ tôi...

      Rachel chui xuống dưới chăn. Tôi nhìn đồng hồ. Ba giờ rưỡi chiều, giờ Israel, trước New York bảy tiếng đồng hồ. thể tin được! Chúng tôi ngủ liền tù tì gần mười tám tiếng. Tôi nhấc điện thoại bên cạnh giường gọi phục vụ, cầu đặt chiếc xe với người lái biết tiếng . Giá là 130 shekel (31) giờ. Rachel cựa quậy khi tôi nhưng vẫn tỉnh dậy.

      Mình nên mình, tôi nhìn xuống nàng và nghĩ. Nhưng ngay lúc đó ra hình ảnh tôi ngã bất tỉnh đường phố, lịm trong giấc mơ của cơn ngủ kịch phát. thể liều thế được. Tôi bước vào buồng tắm đứng dưới vòi hoa sen.

      Israel chẳng có gì giống với những giấc mơ của tôi. Từ lúc bước xuống sân bay Ben Gurion ở Tel Aviv, chúng tôi bị choáng ngợp bởi vẻ đại từ mọi phía. Radio, máy dò kim loại, súng liên thanh, mùi xăng máy bay. Chúng tôi từ Tel Aviv đến Jerusalem bằng sherut, loại xe tải sáu chỗ. Tôi im lặng suốt quãng đường, đôi khi Rachel phải bấm vào tay tôi để chắc tôi còn tỉnh táo. Nàng có thể thấy tôi bị mất phương hướng, vì quang cảnh ngoài xe phải những gì tôi mong đợi được thấy.

      Thế nhưng khi đến gần Jerusalem, tôi bị thu hút bởi quang cảnh Thành Cổ những sườn đồi, cổ kính ban sơ trong ánh nắng chiều tà, và nỗi thất vọng của tôi nguôi ngoai dần. Những gì tôi đến tìm chờ tôi sau những bức tường thành cổ xưa kia.

      Khi chúng tôi đến khách sạn trời xẩm tối. Chúng tôi số hộ chiếu của mình cho lễ tân rồi theo cùng hành lý lên tầng sáu. Phòng sạch nhưng hơi . Chúng tôi định ra ngoài ăn tối, nhưng khi vừa ngồi xuống giường để lấy lại hơi cảm giác lệch múi giờ và mệt nhọc sau hai ngày vừa qua ập lên người chúng tôi. Rachel còn ngủ được chút máy bay, chứ tôi . ấm áp và yên tĩnh trong căn phòng khách sạn này như chất ma túy rót vào mạch máu tôi. Tôi ăn quả cam Rachel mua ở Bel Gurion rồi chìm ngay vào quên lãng. Chỉ có giấc mơ về khu vườn mới có thể lôi tôi ra khỏi tình trạng ấy.

      Tôi khóa vòi nước, lau khô người rồi trở lại phòng. Rachel lật sấp người. Đôi vai trần của nàng lộ ra dưới lần vải trải giường. Tôi bước đến cửa sổ, vén rèm hy vọng nhìn thấy Thành Cổ, nhưng những khối nhà lô nhô che mất tầm mắt.

      Tôi bước lại giường và lay tay Rachel. Nàng phản ứng. Tôi lại lay nữa. Nàng chớp mắt mấy lần rồi chống khuỷu tay nhỏm dậy.

      “Cái đồng hồ kia có đúng ?”

      “Đúng. Xe sắp đến rồi.”

      Hình như điều đó làm nàng vui. “ vẫn muốn ngay hôm nay sao? muộn rồi mà.”

      mới có giấc mơ khác.”

      “Mơ về cái gì?”

      “Vườn Gethsemane (32).”

      Nàng ngả lưng xuống giường và ngó trần nhà. “Chuyện này về niên đại xa hơn tất cả những giấc mơ trước của , đúng ?”

      “Đúng. kiện Gethsemane bắt đầu quá trình đếm ngược đến vác thánh giá. phải đến Thành Cổ. thể chờ đến mai được.”

      Nàng kéo chăn quấn quanh người, rồi đứng lên nhìn vào mắt tôi. “Em nghĩ nên để đến ngày mai.”

      “Tại sao?”

      “Chúng ta bình an trong căn phòng này. Ta đến được đây phép màu rồi, em nghĩ ta cần thời gian hồi phục sau tất cả những gì trải qua.”

      “Nhưng giấc mơ của ...”

      Nàng cúi xuống cầm tay tôi. “ có chuyện gì xảy ra cho đâu, David ạ. Ngay cả nếu giấc mơ của là vác thánh giá cũng có chuyện gì đâu. ở đây với em, em biết cách chăm sóc mà.”

      Nàng thả nốt bàn tay kia vào tay tôi, và tấm ga rơi quanh chân nàng. Tôi cố tránh nhìn, nhưng nàng cố ý muốn tôi nhìn.

      “Rachel, phải ngay hôm nay.”

      “Chúng ta có thể , nhưng phải ngay bây giờ.” Nàng ngả đầu vào ngực tôi và vòng tay ôm tôi. “Trời đất sụp đổ ngay đâu nếu chúng ta dành vài phút cho nhau.”

      Nàng hôn má tôi, rúc vào cổ tôi và kéo tôi áp sát eo nàng. Con người nghề nghiệp của nàng bong ra như lớp da chết của rắn. Người đàn bà mới mẻ này là khám phá đối với tôi, và tôi thèm muốn nàng. Tôi cúi xuống khuôn mặt đương ngước lên mà hôn nàng. Đôi môi nàng ấm và mềm, có gì gống đôi môi trơn nhớt trong giấc mơ của tôi. Nhớ về chuyện đó khiến tôi thoáng rùng mình.

      Nàng buông ra và nhìn vào mắt tôi. “ sao vậy?”

      ổn mà.” Tôi nhoài ra hôn nàng lần nữa.

      ổn đâu, vẫn ổn chừng nào cái vụ Jesus này chưa yên hẳn.”

      Chuông điện thoại reo, cả hai chúng tôi cùng giật mình.

      Tôi nhấc máy. “A lô?”

      “Có xe rồi, thưa ngài,” giọng nặng trịch cất lên.

      “Cám ơn.” Tôi bỏ máy.

      Tôi chưa kịp giải thích gì Rachel hôn lên má tôi, rồi quay và bắt đầu mặc quần áo.

      Tài xế của chúng tôi là ông già có ria mép người Palestine tên là Ibrahim. Ông ta tiếng rất khó khăn, nhưng hiểu chúng tôi muốn đến Thành Cổ, và chỉ cần đưa chúng tôi đến cổng Jaffa là được. Khi chúng tôi đến gần những bức tường đá bạc phếch vì nắng gió, tôi có cảm giác mình đến chỗ này rồi. Đằng sau bức tường kia, nơi ký thác đẫm máu của lịch sử, có bí mật cho riêng tôi. Trong hai ngàn năm nó nằm đợi, tàng trước con mắt của những người đến với xẻng, bàn chải đánh răng, giũa và tăm xỉa răng. Bí mật ấy là gì, tôi chưa biết, nhưng tôi biết khi tìm thấy nó.

      muốn bắt đầu từ đâu?” Rachel hỏi.

      “Ngày cuối cùng của Jesus.”

      “Vâng,” Ibrahim , quay lại nhìn tôi. “Núi Olives, vườn Gethsemane, nơi hành hình.”

      chiếc mô tô gầm lên giận dữ lao vút qua mặt chúng tôi.

      “Nơi hành hình à?” tôi hỏi.

      “Tiếng Hebrew là Golgotha, tiếng Latin là Calvary. Nơi Jesus vác thánh giá.”

      “Đấy đúng là chỗ chúng tôi muốn tới.”

      “Nhà thờ Mộ Chúa. Chín trạm thánh giá ở bên ngoài và năm ở bên trong nhà thờ. Tôi đưa các vị đến đó ngay bây giờ.”

      “Ta đến đó làm gì?” Rachel hỏi tôi.

      Tôi cảm thấy có luồng hơi nóng tràn qua người, khiến tôi hầu như ngạt thở. “ biết.”

      “David, có chuyện gì thế?” Nàng đặt tay lên trán tôi. “ sốt.”

      Ba mươi giây trước tôi còn khỏe, nhưng nàng đúng. “Chúng ta phải nhanh lên.”

      Ibrahim cho xe vào bãi đỗ, vừa lúc có chiếc Citroen lùi ra. xe buýt du lịch to tướng chắn hết ánh sáng phía sau chúng tôi.

      “Chúng ta đậu xe bên ngoài tường thành à?” Rachel hỏi.

      “Vâng,” Ibrahim trả lời. “Theo lệ phải bộ từ chỗ này. Các vị hãy nhìn các cột mốc của thành phố.”

      “Nhà thờ có xa ?”

      “Mộ Chúa? Như ngày hôm nay, đến Via Dolorosa (33) mất nửa giờ, có thể hơn chút.”

      Rachel có vẻ nghi ngại. “Ông có thể đưa chúng tôi đến gần hơn được ?”

      “Ngài đây bị ốm ạ?”

      Rachel ngần ngừ. “Vâng. ấy đến Jerusalem với hy vọng nó giúp ấy khá hơn.”

      “À. Nhiều người bệnh đến mộ Chúa để hôn phiến đá nơi ngài phục sinh.”

      “Ông có giúp chúng tôi được ?”

      “Dạ được chứ. Xin trả thêm trăm shekel, tôi đưa ông bà đến đó rất nhanh.”

      Ibrahim lùi xe, nhấn còi và tăng ga lao , hứng trọn tràng chửi của bà trùm khăn kín mít phải né nhanh mới tránh bị cái chắn bùn trước va vào người. luồng hơi nóng mới lại cuộn trào trong tôi, tôi sợ lần này mình ngất mất.

      “Ngủ rũ phải ?” Rachel hỏi.

      . Khác.”

      “Chúng ta nên quay lại khách sạn.”

      .Via Dolorosa.”

      “Via Dolorosa,” Ibrahim nhắc lại. “Đoạn đường Đau khổ. Người Cơ đốc giáo ở đây gọi nó Đường Hoa. Trạm đầu tiên Jesus bị kết tội chết, trạm thứ hai, người bị buộc vác thánh giá, trạm thứ ba, người vấp ngã lần đầu, trạm thứ tư.”

      Tiếng người hướng dẫn trở nên o o trong tai tôi, tôi còn theo dõi được nữa. Mồ hôi từng giọt, và tôi bỗng cảm thấy ớn lạnh. Khi xe lao qua đường phố chật hẹp, tôi nhìn những bức tường đá, cửa chớp sáng màu, quầy hàng trong chợ treo đầy đồ trang trí lỉnh kỉnh, và các đoàn du khách bận trang phục của hàng trăm dân tộc khác nhau. Ibrahim hạ kính xuống chửi mắng người nào đó, và mùi hoa nhài thơm nức tràn vào xe. Khi mùi hương xộc vào mũi tôi, bỗng nhiên tôi cảm thấy phởn phơ kỳ lạ, rồi mọi vật trở nên trắng xóa.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 30


      “David, dậy , chúng ta đến nơi rồi.”

      Ai đó lay vai tôi. Tôi chớp mắt ngồi dậy. Rachel nhoài người ra cửa sau xe.

      “Chúng ta ở đâu đây?”

      “Via Dolorosa. Đó là bức tranh siêu thực chuyển động. còn muốn xem ?”

      Tôi chui ra khỏi xe và sợ hãi đứng nhìn đám đông du khách, trong số họ có bốn người khiêng vai những thánh giá lớn bằng gỗ. Hai người có lẽ đóng vai Jesus mặc áo choàng trắng, những người khác mặc quần áo đường phố. Các thánh giá đều có gắn bánh xe để dễ di chuyển mà theo tôi thấy nó khiến việc khiêng vác trở nên cần thiết.

      có nhận ra điều gì trong các giấc mơ của ?” Rachel hỏi.

      . Chúng ta thôi.”

      Ibrahim dẫn chúng tôi con đường trải sỏi, luồn lách qua đám khách du lịch với vẻ khéo léo thuần thục. Tôi chờ đón nhận khí sùng kính, nhưng khí ở đây lại giống trong rạp xiếc hơn. mớ hỗn tạp đủ thứ giọng vang dội giữa các bức tường: tiếng Đức, Pháp, , Nga, Hebrew, Ả Rập, Nhật và Ý, và đó lại chính là những thứ tiếng tôi có thể nhận biết. người đầu húi cua giọng Alabama say sưa thuyết giảng với nhóm hành hương Nhật Bản. Ibrahim luôn miệng suốt cả quãng đường bằng thứ giọng đều đều vô cảm hình thành qua nhiều năm hành nghề hướng dẫn.

      “Gượm hẵng,” Rachel , chặn ông ta lại. Nàng quay sang tôi, “ muốn xem cái gì?”

      “Chúng ta ở đâu đây?”

      Ibrahim mỉm cười. “Thưa ngài, chỗ cánh cửa xanh kia là trường Omaria, trạm đầu tiên của đường thánh giá, nơi Chúa Jesus bị kết tội chết.”

      có muốn xem chỗ đó ?” Rachel hỏi.

      . Trạm thứ hai là gì?”

      Ibrahim chỉ tay xuống dưới con đường trải sỏi dẫn đến bức tường gạch hình bán nguyệt. “Đấy là nơi Jesus bắt đầu mang thập giá. Cuối phố là nhà nguyện Flagellation, nơi bọn lính La Mã quất roi lên Jesus, ấn lên đầu Người vành gai, và , ‘Chào! Vua của dân Do Thái!’ Sau đó Pilate dẫn người đến trước đám đông dân chúng và kêu lên: ‘Ecce homo! Các ngươi hãy nhìn con người này!’ ”

      Ibrahim cung cấp thông tin này với vẻ phấn khích của người đọc số trò bingo ở viện dưỡng lão.

      tiếp ,” tôi . “Đến nhà thờ.”

      Người hướng dẫn của chúng tôi tiếp tục xuôi xuống phố. Chúng tôi qua cánh cổng màu đen trong vòm cổng bằng đá trắng, và Ibrahim gì đó về chuyện Jesus khuỵu ngã lần thứ nhất. Tôi chăm chăm nhìn cánh cổng mà chẳng cảm thấy gì. Có lẽ những gì tôi tìm kiếm nằm sâu dưới mê cung đường phố, cửa hiệu và mái hiên này. Jerusalem dường như cũng giống Cairo, được dựng đống xương tàn của chính nó, nơi mà bất kỳ công trình kiến trúc mới nào cũng khai quật lên những chương sử mai từ lâu.

      Ibrahim dẫn chúng tôi qua vòm cổng bán nguyệt bằng gạch khác, và bắt đầu bài rao giảng mới của mình. “Đây là trạm thứ năm, nơi bọn lính La Mã bắt Simon xứ Cyrene nâng thánh giá lên vai Jesus.”

      Rachel liếc nhìn tôi. “Tiếp tục ,” tôi .

      thằng bé bán vành gai dạo tươi cười lượn qua. Nó tưởng cái nhìn chăm chú của tôi là dấu hiệu thích thú, nhưng Ibrahim xua nó . Khi tôi nhìn mớ vành gai tay thằng bé lúc lắc xuôi con phố, mắt tôi bỗng tối sầm lại, và hai đầu gối tôi mềm nhũn. Rachel lao đến đỡ dưới cánh tay phải của tôi rồi chúng tôi cùng nhau loạng choạng bước theo Ibrahim.

      Mấy trạm dừng sau đó mờ mờ ảo ảo những dòng chữ Palestine nhập nhòa hình ảnh kỳ lạ: Nơi đây Veronica lau chùi khuôn mặt khổ ải của Jesus, khi ấy chân dung chân thực của Người in hằn cách kỳ diệu lên tấm mạng. Nơi đây Jesus ngã khuỵu lần thứ hai... nơi đây Người , “Hỡi những người con của Jerusalem, đừng khóc vì ta, mà hãy khóc cho chính bản thân và con cái các người...”

      Chúng tôi qua nóc nhà và nhà nguyện tối om, rồi bỗng thấy mình đứng trong cái sân chật cứng người trước nhà thờ Romanesque. Khách hành hương, linh mục, nữ tu lại lại dưới con mắt canh chừng của hàng chục lính Israel đeo súng máy.

      “Đây là nhà thờ Mộ Chúa,” Ibrahim vừa vừa vẫy tay về phía tòa nhà. “Do những người Thập tự chinh xây trong năm mươi năm, từ 1099 đến 1149. Ban đầu nhà thờ với hai dãy cột do Nữ hoàng Helena, mẹ của Constantine, xây nên, bà đến đây năm 325 và phát ra những mảnh của chính cây thánh giá trong chiếc hang sâu dưới lòng đất.”

      Tôi thất thần nhìn dòng du khách trước cửa nhà thờ.

      “Lượng khách du lịch như thế này đến nỗi tệ,” Ibrahim . “Vào mùa này du lịch kém lắm. Chiến làm mọi người sợ chả ai dám đến, ngay cả trong Tuần Thánh. Tốt cho các vị nhưng xấu cho chúng tôi. Ngài vẫn ổn đấy chứ? Tôi có thể kiếm ít nước cho ngài trong khi chờ đợi.”

      “Tôi sao đâu.”

      có thể tựa vào em,” Rachel trong khi chỉnh lại dáng dưới cánh tay tôi. Tôi dựa vào nàng mạnh hơn chút. “Cám ơn em.”

      Nàng chạm mu bàn tay vào má tôi. “Giá mà em đo được huyết áp của lúc này.”

      “Phía bên phải cổng vào là trạm thứ mười,” Ibrahim . “Tại đó Jesus trút bỏ y phục của Người. Năm trạm thánh giá cuối cùng nằm ngay trong lòng nhà thờ.”

      kỳ lạ, phải ?” Rachel khẽ . “Hàng triệu người kéo đến để xem ngôi mộ rỗng ?”

      Cố hết sức tôi cũng chỉ có thể gật đầu.

      “Đây là ngôi mộ rỗng duy nhất trong bất kỳ nhà thờ Thiên chúa giáo nào thế giới,” Ibrahim . “Thiên sứ hỏi các bà Mary, ‘Các người tìm kiếm gì?’ ‘Jesus xứ Narareth,’ họ đáp. ‘Người có ở đây,’ thiên sứ . ‘Người phục sinh rồi.’ ”

      Mảnh sân bỗng dưng mờ trước mắt tôi, và tôi thấy chân tay mình bẫng. Tôi tưởng như bềnh bồng cánh tay Rachel.

      “David?” nàng hỏi. “ có nghe em ?”

      Tôi chớp chớp mắt và thấy mình nhìn lên trần nhà bằng đá. “Chúng ta vào trong nhà thờ rồi à?”

      mộng du,” nàng thầm, mắt nàng đầy vẻ lo lắng. “Phải đưa trở lại khách sạn thôi.”

      “Chúng ta tới đây rồi. Chúng ta làm được rồi. phải nhìn nó.”

      “Nhìn gì?”

      Giờ tôi biết. “Ngôi mộ.”

      Nàng quay sang Ibrahim. “Mộ Jesus ở đâu?”

      “Phía này. Trong nhà thờ này mọi điểm đều gần nhau.” Ông ta chỉ phiến đá cẩm thạch ánh đỏ nền nhà. Mấy ông bà bận trang phục đường phố quỳ áp mặt vào phiến đá. Phía họ, người phụ nữ rót thứ nước gì đó lên phiến đá. làn hương ngọt đến nôn nao xộc vào mũi tôi.

      “Cái gì thế?” tôi hỏi.

      “Đá xức dầu Thánh,” Ibrahim . “Nơi thân thể Jesus được xức dầu và bọc trong tấm vải liệm sau khi Người được hạ từ thánh giá xuống.”

      Tôi đến gần hơn nhưng cảm thấy gì. “Có phải đây là phiến đá đầu tiên?”

      phải đâu thưa ngài. Phiến đá này có ở đây từ năm 1810 thay thế cho phiến đá từ thế kỷ mười hai. Xa hơn thời điểm đó ta biết chắc. lối này, thưa ngài.”

      Ông ta dẫn chúng tôi sang trái vào nhà tròn mái vòm của nhà thờ. Ánh sáng tuôn xuống từ mái vòm rực rỡ màu vàng và trắng. Bên dưới vòm là tòa kiến trúc đồ sộ hình chữ nhật bằng đá cẩm thạch, thứ đá trông như từng được đóng thùng nẹp đai kim loại dày cộp để chở bằng tàu biển. đỉnh là cái chóp giống như ở điện Kremlin.

      “Đây là cái gì?” tôi hỏi.

      “Đây là Mộ Thánh, thưa ngài. Gọi là Edicule, tức là ngôi nhà . Vì Jesus là nhân vật cực kỳ quan trọng nên người Byzantine và quân Thập tự chinh tiêu tốn vô số tiền bạc để xây ngôi mộ này cho Người. Đây là trạm thứ mười bốn và là trạm cuối cùng của con đường thánh giá. Theo phong tục của dân Do Thái, họ luôn luôn chôn người chết bên ngoài thành phố. Mặt ngoài của đá cẩm thạch bị rã ra nên người ta phải dùng đai sắt để nẹp lại. Vào chứ, thưa ngài? Thưa bà, bà đứng vào hàng chứ?”

      Ibrahim tiếp tục bài diễn thuyết liến thoắng của ông ta, nhưng tôi bị phân tán còn theo dõi được. Tôi cứ tưởng mộ Jesus phải là thứ hang động nào đó ngoài trời, chứ đâu phải lăng mộ trong nhà thờ Trung cổ như hầm ngục thế này.

      “Hàng người di chuyển,” Rachel và đỡ tôi tiến lên.

      Chẳng mấy chốc chúng tôi đứng trước cửa Edicule. Tại đây Ibrahim với giọng kính cẩn mà tôi chờ đợi từ đầu.

      “Bên trong nhà mồ chúng ta thấy hai căn phòng. Ta vào thôi.”

      Trong phòng đầu tiên chúng tôi thấy chiếc bục, đặt hộp kính. Trong hộp có viên đá.

      “Phòng này chúng tôi gọi là phòng thiên thần,” Ibrahim . “Là nơi người chết đợi để người ta dọn chỗ chôn cất. Ở đây cất giữ hòn đá lăn, nơi các thiên thần mở cửa mộ để Jesus phục sinh.”

      Tôi chú ý đến hai lỗ thủng bức tường bên phải. Ibrahim , “Khi mọi người có lửa để châm nến Phục sinh, vị linh mục đứng đây cho họ lửa từ ngọn Lửa Thiêng, châm từ ngọn nến lớn của ông đến các ngọn nến của mọi người.”

      Tôi chuyển chú ý sang cánh cửa thấp trong bức tường cẩm thạch dày của ngôi mộ trong. Tôi cúi mình chui qua cửa vào căn phòng bên trong. người đàn ông và người đàn bà quỳ gối cầu nguyện trước thứ có lẽ là bàn thờ bằng cẩm thạch. Họ làm dấu thánh giá lên phiến đá, làm như phiến đá có thể ban phúc khi họ chạm vào. đầu họ là những chùm đèn lộng lẫy bằng bạc treo dây xích, ánh nến lung linh khắp gian phòng. Những bình hoa hồng bạch tỏa hương thơm hắc trong gian bé .

      “David, đây chính là cái cất công đến để xem đấy à?”

      Tôi khom người chạm vào phiến đá cẩm thạch phía trước hai người cầu nguyện. Tôi biết mình mong chờ gì, nhưng đúng là có gì đó. Ở Stonehenge, khi tôi trèo qua hàng rào chắn và chạm tay vào những khối đá sa thạch, tôi cảm thấy nhiều hơn thế này. “ phải ở đây.”

      “Sao?”

      “Ở đây chẳng có gì xảy ra cả.”

      Hai người đàn ông đàn bà quỳ ngước lên nhìn tôi, đôi mắt họ mở to.

      “Thưa ngài, ngài được thế,” Ibrahim sau lưng tôi. “Đây là nơi thiêng liêng nhất.”

      phải ở đây,” tôi nhắc lại. Tôi lom khom, vội vã quay trở lại nền nhà mái vòm.

      Rachel theo sau tôi. Dòng người xếp hàng đứng đợi nhìn chúng tôi chằm chằm, cảm thấy có chuyện bất ổn. Tôi quan tâm. Nỗi kinh hoảng bóp nghẹt tim tôi. Bên ngoài trời tối mịt mà tôi vẫn chưa tìm thấy cái tôi đến để tìm.

      cho em biết chuyện gì xảy ra ,” Rachel thầm.

      có gì xảy ra ở đó. Đó phải nơi cần tìm.”

      người đứng trong hàng há hốc mồm kinh ngạc.

      “Nơi nào?” Rachel hỏi.

      Tôi quay sang Ibrahim, lúc này ông ta cầm điện đài và hình như lưỡng lự biết có nên kêu gọi giúp đỡ . “Đó có phải phiến đá đầu tiên ?”

      , thưa ngài. Phiến đá cẩm thạch được đặt ở đó để che đậy chính phiến đá xưa kia Jesus nằm.”

      “Vậy thể nhìn được phiến đá chính à?”

      Mặt người hướng dẫn sáng lên. “Được ạ. Sờ cũng được nữa. Ngài theo tôi.”

      Ông ta dẫn chúng tôi ra phía sau Edicule. Nơi đó có nhà nguyện nữa, kín đáo hơn, mở về phía nhà vòm. Ở đây màu sắc rực rỡ hơn ngôi mộ đá cẩm thạch mà chúng tôi vừa rời khỏi, với những món trang trí treo tường bằng sắt rèn, và có người đàn ông râu ria lởm chởm chăm nom.

      “Đây là ngôi mộ thánh nhìn từ phía khác thưa ngài,” Ibrahim thầm . “ phần của nhà nguyện Coptic. Coptic là những người Thiên chúa giáo từ Ai Cập đến. Hết sức sùng đạo.”

      Ở đây dòng người xếp hàng ngắn hơn nhiều. Nó biến mất vào trong nhà thờ hẹp và dừng lại nơi tấm rèm che thứ gì đó.

      “Thưa ngài, phía sau kia là phiến đá chính nơi chúa Jesus nằm, lộ phần ra ngoài. Nơi đây người có bệnh đến để được chữa, người thường đến để được ban phúc lành.”

      Trong khi đợi hàng người di chuyển, da tôi ngứa ran như bị ong châm. Cuối cùng cũng đến lượt tôi. Tôi qua tấm rèm, quỳ xuống và đặt bàn tay phải lên phiến đá trần.

      “David?” Rachel thào sau lưng tôi.

      Tôi lắc đầu. “ có gì.” Đây là lần đầu tiên trong vòng sáu tháng tôi bắt đầu nghi ngờ óc tỉnh táo của mình.

      “Em nghĩ chúng ta nên về khách sạn thôi,” Rachel . “Ibrahim định gọi người giúp đỡ đấy.”

      Tôi lồm cồm bò lên và ra khỏi nhà nguyện, đầu óc rối loạn. Ibrahim nhìn tôi chằm chằm như thể tôi sắp sửa thốt ra lời báng bổ, cảnh mà hồi trẻ người hướng dẫn du lịch già này có lẽ từng thấy. Máy điện đàm vẫn còn trong tay ông ta.

      “Cả ở đó nữa cũng có gì xảy ra,” tôi . “ phải nơi tôi cần.”

      “Nhưng thưa ngài, đây là ngôi mộ thánh.”

      “Chắc chắn chứ?”

      “Vâng... số tín đồ Tin Lành cho rằng ngôi mộ trong khu vườn bên ngoài thành phố mới là mộ chúa Jesus. Nhưng có nhà khảo cổ nào tin điều đó. Ngài được thấy đúng ngôi mộ , thưa ngài.”

      phụ nữ cao ráo, dung mạo bình thường cầm quyển Thánh kinh Vua James bước ra khỏi hàng trước nhà nguyện và bằng tiếng , “Ngôi mộ ở đâu có gì quan trọng, hở người em? ‘Người có ở đó. Người phục sinh rồi.’”

      “Điều đó có quan trọng ư?” tôi hỏi bà ta. “Tất nhiên là quan trọng rồi. Giả thử bà tìm thấy ngôi mộ có xương của Jesus trong đấy sao nào? Đó là khác nhau giữa tôn giáo chính thống và chứng phân ly tập thể.”

      Người phụ nữ suýt ngả ngửa ra sau.

      Trông Ibrahim rất kích động. “Thưa ngài! Xin ngài đừng những điều như thế ở đây.”

      là người Hồi giáo, Ibrahim, hề tin bất kỳ điều gì ở đây.”

      “Làm ơn, ngài...”

      Tôi rời khỏi Edicule, biết nên rẽ lối nào và phải làm gì.

      Rachel sánh vai tôi. “David, tìm kiếm gì?”

      “Nơi chúa Jesus phục sinh.”

      “Nhưng tin vào Chúa. Làm sao tìm được nơi chúa Jesus phục sinh khi tin Chúa có thực?”

      Ibrahim theo kịp chúng tôi. “Thưa ngài, số người tin rằng chúa Jesus phục sinh từ cõi chết ở nơi khác. Tôi chỉ cho ngài.”

      Ông ta dẫn chúng tôi băng qua nhà vòm đến cửa nhà thờ lớn nằm trọn trong nhà thờ khác lớn hơn.

      “Đây là Catholicon.” Ông ta chỉ tay vào chùm đèn. Bên dưới vòm nhà thờ này là bồn cẩm thạch có tên là Omphalos. Cái rốn của thế giới. Có những người Hy Lạp tin rằng chúa Jesus phục sinh tại đây, và ngày nào đó trở lại đây để phán xử thế gian này.”

      “Chúng ta có thể đến xem ?”

      “Nhà thờ này thường đóng cửa, nhưng tôi đưa ngài tới đó.”

      Ông ta dẫn chúng tôi chui qua dây xích đến chỗ chiếc cốc đá đặt nền khảm. Tít cao là trần vòm vẽ hình ảnh siêu phàm của Chúa Cơ Đốc với màu sắc nhàng. Tôi nhìn xuống bán cầu đá, thực chất là cái bát lớn. Tôi cúi xuống chạm tay vào nó. Tôi cảm thấy gì khác hơn là chạm vào bồn tắm cho chim trong sân nhà ai đó.

      Rachel lập tức quan sát phản ứng của tôi. “ hy vọng điều gì? cú điện giật? Hay là giọng từ trời vọng xuống?”

      Tôi quay sang người hướng dẫn du lịch đứng lắc đầu. “Còn chỗ nào tôi chưa được xem nữa, Ibrahim?”

      “Còn nhiều lắm. Chỗ quan trọng nhất là Golgotha. Tiếng Latin gọi là Calvary. Nơi chúa Jesus phải vác thánh giá.”

      “Ở bên trong nhà thờ à?”

      “Tất nhiên, thưa ngài. Xin theo tôi.”

      Ông ta dẫn chúng tôi qua Catholicon lên cầu thang dốc. Trong khi bước lên tôi đếm được mười tám bậc. Càng bước lên cao tâm hồn tôi càng ủ ê hơn.

      Vào lúc bước lên bậc thang cao nhất, tôi thấy mạch máu mình đập mạnh. Căn phòng chật cứng người, nhưng bên trái tôi, phía đầu mọi người, tôi thấy bức tượng Jesus to bằng người treo mình cây thánh giá. Có mảnh vải màu bạc quấn quanh thắt lưng Người và vương miện cũng bằng bạc đầu Người. phải pho tượng khiến tôi xúc động, mà là cái gì đó trong chính căn phòng này. Tôi cảm thấy như đứng gần dây cáp điện cao thế, và lực tĩnh điện làm mỗi sợi lông cơ thể tôi dựng đứng cả lên.

      “Cái gì?” Rachel hỏi dồn. “Cái gì thế?”

      “Có gì đó trong rung lên.”

      “Trước đây từng bị thế. Đó là dấu hiệu ảo giác gây buồn ngủ.”

      ... lần này khác hơn.”

      “Ông Ibrahim?” Rachel hỏi.

      “Vâng, thưa bà?”

      “Chúng tôi quay trở lại xe đây.”

      “Vâng,” ông ta như vừa được giải thoát.

      Tôi bước ra xa hai người. Bên phải tôi là bức tranh tường vẽ chúa Jesus nằm thánh giá được đặt ngay mặt đất. Mấy người đứng trước bức tranh tường tản ra, để lộ ra căn buồng có những tấm bảng được đóng bằng đinh bạc. Khi tôi bước lại gần bức tranh tường, cơn đau lan tỏa từ bàn tay trái lên đến cánh tay. Trong thoáng chốc tôi nghĩ mình sắp lên cơn đau tim. Rồi cơn đau xuất cả bên cánh tay phải. Tôi co cả hai bàn tay thành nắm đấm, nhưng cũng khá gì hơn. Tôi quay sang Ibrahim.

      “Đây là đâu?”

      “Đây là trạm thứ mười , thưa ngài. Nơi chúa Jesus bị đóng đinh lên thánh giá.”

      Tôi rên rỉ.

      “Chúng ta phải đưa ấy ra khỏi đây ngay,” Rachel . “Ông có gọi được người giúp đỡ ?”

      “Ông ấy còn được,” Ibrahim . “Chúng ta thôi.”

      “Tôi nghĩ ấy được đâu.”

      Nhiều người trong phòng nhìn tôi chòng chọc như nhìn kẻ điên.

      “Tôi có thể gọi lính gác,” Ibrahim . “Nhưng tốt nhất ta nên làm thế.”

      ,” Rachel nhanh. “Ý tôi là phải đấy. cần gọi đâu.”

      nhóm người hành hương rời khỏi bức tượng chúa Jesus, để lộ ra bàn thờ trang trí cực kỳ lộng lẫy. Tôi bước đến, dán mắt vào hình Đức Mẹ dát bạc đứng dưới chân Thánh giá. Bàn thờ trước mặt bà hình như được đặt hòm thủy tinh lớn, bên dưới là hòn đá xám xù xì.

      “Gì vậy?”

      “Golgotha,” Ibrahim trả lời. “Nơi hành hình. Đó chính là mỏm núi nơi đá nứt ra khi máu Jesus chảy từ thánh giá xuống. Rồi sau đó là động đất.”

      luồng ánh sáng trắng mờ xóa nhòa quanh cảnh trước mắt tôi. Tôi nhìn thấy ngọn núi diện tại nơi nay là nhà thờ, đồi đá trơ trụi bên quả núi rải rác những nấm mồ. Ba cây thánh giá cắm đồi nhưng có ai bị treo đó. Bầu trời tối dần rồi trở nên đen kịt, và tôi quỳ phục xuống.

      Tôi thấy mình trừng trừng nhìn đĩa bạc sáng lóa có lỗ ở giữa. Chiếc đĩa nằm bệ đá cẩm thạch của bàn thờ, cách sàn nhà chừng ba mươi phân. Tôi giơ bàn tay phải run rẩy ra đặt lên chiếc đĩa.

      Cơn đau trong tay tôi đột nhiên dịu .

      “Đây đúng là nơi tôi cần tìm,” tôi . “Đây là nơi chúa Jesus giã từ cõi đời.”

      “Ông ấy đúng,” Ibrahim . “Chiếc đĩa ấy đánh dấu vị trí cây thánh giá chôn xuống đất. Bên phải và bên trái là những chiếc đĩa đen nơi chôn thập giá của lũ trộm, là người tốt, là kẻ xấu. Sau đó, Jesus được đưa vào nhà mồ của Joseph xứ Aramathea, và sống dậy từ cõi chết sau đó ba ngày.”

      ,” tôi .

      Mặt Ibrahim trắng bệch. “Thưa ngài, xin đừng những điều như thế ở đây.”

      khẽ thôi,” Rachel cầu khẩn.

      “Chiếc lỗ đĩa dùng để làm gì?” tôi vừa hỏi vừa xoa bàn tay đĩa bạc mát lạnh.

      “Ngài có thể thò ngón tay qua lỗ và chạm tới Golgotha. Mỏm đá Calvary.”

      Tôi nhắm mắt và thò hai ngón tay qua lỗ. Các đầu ngón tay cào vào mặt đá nhám.

      “Trước đây từng mơ thấy nó phải ?” Rachel hỏi.

      Tôi thể nên lời. Có gì đó chảy tràn vào tôi từ tảng đá sống động kia. Giọng Rachel nhạt dần rồi nghe thấy nữa. Tôi cảm thấy xương cốt tôi nhảy múa, rung lên đồng cảm với cái gì đó trái đất. Đầu tiên là cảm giác như niềm vui, nhưng khi đến độ mãnh liệt, tôi bắt đầu run rẩy và co giật.

      Đây là cơn tai biến ngập máu, giọng thân quen vang lên trong đầu tôi. Giọng y học của tôi. Co cứng, co giật toàn thân... Qua màn sương mờ của ý thức lịm dần, tôi nghe thấy tiếng người la hét bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Rồi tôi ngất , và Rachel thét lên.

      Nền nhà vỗ vào tôi như nước.




      CHƯƠNG 31


      White Sands


      Vào lúc 7:52 phút sáng, giờ tiêu chuẩn miền núi, Peter Godin rơi vào tình trạng nguy kịch. Ravi Nara có mặt tại kho chứa máy bay dùng làm bệnh viện, nhưng y ngủ ngay gần đó, và chỉ mất chưa đầy hai phút y đến bên giường Godin. Y chờ cho ông già tịch. rẽ tắt dòng để giảm bớt áp suất trong não thất thứ tư tràn dịch màng não là thể tránh khỏi. Nhưng khi y đến Bong bóng, y thấy Godin lên cơn nhồi máu cơ tim thông thường.

      Hai y tá của Godin luồn ống ôxy vào khí quản và người xoa bóp để phục hồi nhịp tim. Ravi đọc điện tâm đồ và xác nhận chẩn đoán của họ: nhịp nhanh thất. Họ phải sốc điện vì thấy mạch của lão. Cần đến hai liều thuốc kết hợp và phải sốc điện 360 jun để đưa tim về nhịp xoang. Ravi lấy máu để kiểm tra các enzym đặc trưng của tim, xem cơ tim bị hủy hoại đến mức nào. Sau đó, vì Godin vẫn còn bất tỉnh, Ravi ngồi xuống nghỉ lát.

      Y ghét y học lâm sàng. Luôn thường trực bất ngờ khiến phải ngạc nhiên. Godin được bắc cầu nối mạch vành cách đây mười lăm năm và được cấy ống dẫn tuần hoàn từ năm 1998. Nguy cơ nhồi máu cơ tim luôn còn đó, nhưng dưới áp lực phải cố sức xử lý u thần kinh đệm thân não, Ravi tạm quên nguy cơ về tim. Các y tá thấy y ngập ngừng trong khi cấp cứu. họ có thể chờ mong gì ở người được giải Nobel y học. Sau nhiều năm làm việc ở phòng thí nghiệm nghiên cứu, y hành nghề chữa bệnh. Thế sao? Thậm chí bác sĩ thú y cũng có thể lập phác đồ xử lý các ca nguy kịch.

      Khi y tá vừa chạm đến ống thở của Godin, ông già cố , nhưng cố gắng của lão chỉ tạo nên những tiếng kêu the thé.

      Ravi ghé xuống sát tai Godin. “Đừng cố , Peter, ông hơi bị loạn nhịp tim, nhưng ổn định ngay thôi.”

      Godin giơ tay đòi vật gì để viết. y tá đưa cho lão chiếc bút và giữ tấm bìa cứng gần sát tay lão.

      Godin viết nghệch ngoạc: “ĐỪNG ĐỂ TÔI CHẾT! SẮP THÀNH CÔNG RỒI!!!”

      “Ông chết đâu.” Ravi trấn an lão, mặc dầu chính y còn lâu mới tin điều đó. Giảm ôxy dễ gây ra cơn tràn dịch màng não chết người mà y chờ đợi. Y bóp vai Godin, rồi ra lệnh cho các y tá đặt thông khí. Việc này làm ông già khiếp sợ, nhưng lão có thể chịu đựng được.

      Để tránh phản đối của Godin, Ravi rời Bong bóng. Khi y đóng cửa sập lại, y thấy Zach Levin lao vào bệnh xá.

      “Cái gì thế?” Ravi hỏi. “ xảy ra chuyện gì?”

      Levin phải dừng lại lấy hơi mới được. “Mẫu thần kinh của Fielding giải thuật toán cuối cùng! Ông ta liên kết được vùng ký ức với vùng xử lý, và tạo ra mạch giao diện hoàn toàn mới. Tôi chưa từng thấy điều gì như thế.”

      “Ý cậu muốn mẫu thần kinh của Fielding làm tất cả những việc đó.”

      “Đúng, đúng. Nhưng tôi phải cho biết, ngay khi cỗ máy mới chỉ vận hành năm mươi phần trăm công suất, tôi có thể cảm thấy ông ta ở đó. Cứ như chuyện với người tôi từng cùng làm việc suốt hai năm qua. Như thể ông ta sống lại vậy.”

      “Cậu đạt được năm mươi phần trăm công suất?”

      Levin cười ngoác miệng. “Và tăng lên. Lẽ ra tôi nên tin tưởng hơn vào linh cảm của Godin.”

      Ravi cố gắng giấu cơn sốc. Chín mươi phần trăm hiệu suất là điểm mà Godin dự tính mẫu thần kinh có thể trở thành ý thức đầy đủ - trạng thái mà lão gọi tên bằng thuật ngữ trạng thái Trinity.

      “Cậu vừa bảo ‘ chuyện’,” Ravi to suy nghĩ của mình. “Hay là bộ đồng bộ hóa giọng làm việc? Fielding với cậu à?”

      “Ông ta cố gắng . Ông ta thể giải thích việc ông ta làm. Nhưng hiệu quả tăng lên vững chắc. Chúng tôi đặt được lịch trình xác định.”

      Bất chấp hoàn cảnh cá nhân phức tạp, Ravi vẫn chế ngự nổi cơn phấn khích. “Bao lâu?”

      “Mười hai đến mười sáu tiếng.”

      “Đến trạng thái Trinity ấy à?”

      Levin gật đầu. “Và tôi cá ngắn hơn mười hai tiếng. Chúng tôi đưa nhóm trực đến nhà Cách ly.”

      Ravi nhìn đồng hồ. “Cậu chắc chắn chứ?”

      “Chắc như mọi việc làm ở công trình này. Tôi phải báo cho Godin biết chuyện xảy ra.”

      Ravi muốn Godin nghe chuyện này cho đến khi y cho Skow biết. “Cậu vào ngay bây giờ được. Ông ấy nghe được đâu. Peter lên cơn nguy kịch cách đây hai mươi phút.”

      Levin cứng người lại cảnh giác. “Ông ấy chưa chết chứ!”

      “Chưa. Nhưng được thông khí.”

      “Có tỉnh ?”

      đủ tỉnh để hiểu cậu . Mà ông ấy cũng được.”

      “Nhưng ông ấy phải biết việc này! Nó tăng bội ý chí chiến đấu của ông ấy.”

      Ravi cố tỏ vẻ đồng cảm. “Ông ấy chưa bao giờ thiếu cái đó.”

      “Đúng. Nhưng việc này làm thay đổi tất cả.”

      “Rất tiếc, Levin. Tôi thể cho cậu vào được”

      Levin khinh bỉ nhìn xuống Ravi. “ thể có quyết định như vậy được. Hạn chế Godin tiếp cận với những thông tin vô cùng trọng yếu ư?”

      “Tôi là bác sĩ của ông ấy.”

      “Vậy làm việc chó đẻ. Chẳng cần phải là bác sĩ mới biết điều tốt nhất ta có thể mang lại cho sức khỏe của Godin giờ là cho ông ấy biết thông tin này.”

      Levin quay và bước tới bộ khử trùng cực tím. Ravi định cãi nhưng người kỹ sư ấn nút khởi động, làm cho cuộc đấu khẩu trở nên vô ích.

      Nếu Levin cứ khăng khăng vào Bong bóng, Ravi thể ngăn cản ta. Godin có thể gọi ta bất cứ lúc nào.

      Ravi hối hả chạy ra cửa. Y cần báo với Skow ngay lập tức. Bởi vì Zach Levin có lý: nếu chỉ còn mười hai đến mười sáu tiếng nữa Trinity trở thành thực, Godin gần như chắc chắn còn sống để thấy điều đó. Và như thế mọi chuyện thay đổi. Skow lập kế hoạch cho tổng thống thấy thất bại của Trinity, đổ mọi trách nhiệm lên đầu Godin, và dùng Ravi để giúp gã làm việc đó. Nếu Skow quá xa, và Godin vào giờ thứ mười đưa ra được chiếc máy tính cách mạng mà lão hứa hẹn - Ravi rơi vào tình trạng hiểm nghèo. Peter Godin tay với kẻ phản bội. Lão tự đưa ra phán quyết của mình. Hình ảnh Geli Bauer lướt qua đầu Ravi. Hú hồn là ả nằm viện ở Maryland.


      Jerusalem

      Rachel ghì chặt thành xe cấp cứu khi nó chật vật nhúc nhích giữa dòng giao thông tắc nghẽn. David nằm bất tỉnh tấm băng ca đặt sàn xe. Người hộ lý ngồi phía sau biết tiếng đủ để trò chuyện với Rachel, nhưng ta chỉ có thể rất ít, thậm chí còn ít hơn về tình trạng bệnh nhân của ta.

      Khi David gục ngã trong nhà thờ, Rachel biết ngay rằng bị tai biến ngập máu. Nàng quỳ xuống đỡ lấy đầu khỏi đập xuống sàn, nhưng đó là tất cả những gì nàng có thể làm được. Việc nạn nhân tai biến tự nuốt lưỡi mình chỉ là chuyện tưởng tượng, nếu thò tay vào mồm để ngăn có thể mất ngón tay như chơi. Ibrahim dùng điện đàm gọi cấp cứu, nhưng Rachel có cảm tưởng ông ta gọi trước đó rồi.

      Đám lính Israel nhanh chóng chạy đến lập hàng rào quanh nhà nguyện. Lúc xe cấp cứu đến, cơn tai biến của David qua, nhưng vẫn chưa tỉnh. Các hộ lý đo đường huyết của , thấy mức glucose vẫn bình thường. Trong trường hợp hôn mê, đấy là giới hạn những gì họ có thể làm tại chỗ, nên họ lắp nẹp cổ cho , đặt lên cáng, rồi gọi lính khiêng ra xe cấp cứu trong sân.

      Khi họ luồn lách qua phố xá, tâm trí Rachel lướt nhanh qua các nguyên nhân có thể gây hôn mê. Nguyên nhân thông thường nhất là hạ đường huyết, nhưng David có tiền sử lạm dụng chất gây nghiện. Đầu chạm đất mạnh lắm nên thể bị chấn thương, bốn mươi mốt tuổi cũng khá lớn tuổi để mắc chứng động kinh khởi phát muộn, mặc dầu nàng nghi ngờ điều đó ngay từ khi nghe về chứng ảo giác. Ravi Nara loại trừ bệnh động kinh, nàng nhớ lại.

      cơn đột quỵ có thể gây tai biến và hôn mê, nhưng rất hiếm. Đầu độc? Nàng nghĩ đến chất bột trắng trong chiếc phong bì Fielding gửi qua FedEx. Liệu có thứ chất độc nào lẫn trong “cát” mà các nhà khoa học ở trường Duke tìm ra? Có khả năng là virus viêm não ở phía Tây sông Nile chăng? David có thể từng bị muỗi độc đốt ở Tennessee mà mãi đến bây giờ mới phát bệnh viêm não? cũng có thể nhiễm vi khuẩn viêm màng não ở sân bay Kennedy. Có thể là ung thư não, nhưng nếu thế Siêu-MRI của Trinity phát ra rồi.

      Ngay cả khi Rachel cố ghi nhớ để thuật lại tất cả cho bác sĩ trực cấp cứu, nàng vẫn còn tự mắng mình vì khi điều trị cho , nàng kiên quyết cầu David khám tổng quát. ra, nàng rất kiên quyết. Nhưng David từ chối.

      Chiếc xe cấp cứu cuối cùng cũng thoát ra khỏi đám đông và tăng tốc lên đường đồi xanh tươi đến khu nhà trông như pháo đài. mái nhà chi chít ăng ten và ăng ten vệ tinh còn nhiều hơn ở đài truyền hình.

      “Kia là bệnh viện đấy à?” Rachel hỏi.

      Người hộ lý gật đầu. “Hadassah. Bệnh viện tốt nhất đấy.”

      Xe dừng lại trong sân tiếp nhận bệnh nhân bằng bê tông, và những người hộ lý đẩy xe David vào phòng cấp cứu. Họ mất thời gian xếp theo thứ tự ưu tiên; mà đưa ngay vào phòng điều trị. Rachel với họ nàng là bác sĩ nên họ cho nàng vào theo. Nàng lấy ghế ngồi sát tường và nhường chỗ cho họ làm việc.

      y tá kiểm tra ven của David, rồi chuyển từ ôxy trong chai rời sang ôxy của bệnh viện. người khác cởi quần áo cho và nối những đầu dây của màn hình máy điện tim vào ngực . Nhìn thấy David nằm trần trụi bất lực, Rachel đau đớn đến nỗi cái vỏ giáp nghề nghiệp cũng che giấu nổi. Nàng nhặt chiếc túi bao tử cùng quần áo của bỏ vào túi nylon.

      người đàn ông mặc đồ trắng đến trước cửa, tiếng Hebrew với mấy người hộ lý. Ông ta liếc nhìn Rachel, rồi bước vào cầu nàng tóm tắt chuyện xảy ra ở nhà thờ bằng thứ tiếng nặng trịch. Nàng làm theo và cung cấp tiền sử bệnh lý của David đầy đủ nhất trong chừng mực nàng biết.

      bất tỉnh ba mươi phút. Đa số bệnh nhân bị co cứng, co giật toàn thể sau chừng ấy thời gian cũng phải tỉnh rồi. Vị bác sĩ ra lệnh xét nghiệm máu; chụp X-quang lồng ngực và xương cổ, chụp CT để loại trừ nguyên nhân đột quỵ, u, xuất huyết dưới màng nhện; và lấy tủy xem có viêm màng não .

      Sau khi y tá lấy mẫu máu, hộ lý chuyển vào buồng X-quang chụp CT, mất gần tiếng. Khi trở lại phòng điều trị, vẫn còn mê man. Tiếp đó, bác sĩ trực cấp cứu khác chích đốt sống. Dịch lấy ra từ xương sống có áp suất bình thường, và Rachel dễ thở hơn hẳn khi nhìn thấy chất dịch trong. Có nhiều khả năng chỉ là nhiễm trùng.

      Bước tiếp sau là tham chiếu thần kinh, và từ giây phút này Rachel bắt đầu hoảng sợ. bảng tham chiếu thần kinh có nghĩa là cho nhập viện, kèm theo những câu hỏi về bảo hiểm y tế và thanh toán tiền. Trong hai túi bao tử có 15.000 đô la, nhưng nàng muốn bị nghi ngờ khi phải xuất ra số tiền mặt lớn như vậy. Nàng suýt nữa ôm lấy bác sĩ trực cấp cứu khi ông ta thông báo rằng khoa thần kinh còn giường trống. David ở lại khoa cấp cứu.

      nhân viên kỹ thuật điện não đẩy chiếc máy di động vào để làm điện não đồ cho David, Rachel nhận thấy ngay ta rất sắc sảo. ta tắt hầu hết các thiết bị điện trong phòng rồi mới tiến hành làm điện não đồ, như vậy loại trừ tất cả các nguồn gây nhiễu và khiến điện não đồ dễ đọc hơn.

      Khi điện não đồ ra, kỹ thuật viên tỏ vẻ căng thẳng, và Rachel hiểu ngay lý do. Não David chỉ sóng alpha có tần số và biên độ đổi. Kỹ thuật viên viên nhoài người vỗ tay gần tai phải của David, nhưng các sóng alpha vẫn đồng bộ. Chúng chẳng thay đổi gì cả.

      Tim Rachel chùng xuống. David rơi vào tình trạng gọi là hôn mê alpha. Rất ít bệnh nhân tỉnh dậy sống sót sau cơn hôn mê alpha.

      “Chị là bác sĩ phải ?” kỹ thuật viên hỏi khi nhận thấy nét mặt Rachel.

      “Vâng.”

      Ánh mắt ta dịu lại. “Tôi rất tiếc.”

      Khi ta dợm tắt máy, Rachel thấy sóng theta xuất màn hình.

      “Đợi chút!” nàng kêu lên, đoạn giơ tay chỉ.

      “Tôi thấy rồi.”

      Sóng theta tăng đều về biên độ. Sau đó vài sóng beta xuất .

      ấy mơ,” Rachel , thấy khó mà tin được điều đó. “Có phải ấy chỉ ngủ ?”

      Kỹ thuật viên cấu tay David. có phản ứng gì. ta ghé xuống sát tai và gào lên, “Dậy !”

      có gì xảy ra.

      phải ấy ngủ,” kỹ thuật viên trầm ngâm . “Nhưng những sóng theta này ràng mạnh lên.”

      nghĩ chuyện gì xảy ra?”

      này chắc chắn bị hôn mê alpha. Nhưng não ấy hoạt động phải. Làm gì tôi biết.” Kỹ thuật viên bước ra cửa rồi quay lại nhìn Rachel.

      “Tôi cứ để máy hoạt động và mời bác sĩ thần kinh xuống đây. OK?”

      “Cám ơn .”

      Nàng ngồi mình bên giường, tay run rẩy khi nhìn màn hình. Cho đến khi nhìn thấy sóng theta đó, nàng vẫn đinh ninh là David chết. Bây giờ nàng chẳng biết chuyện gì xảy ra. Nhưng có gì đó xảy ra trong đầu . Có thể bị ảo giác trong hôn mê giống như những khi bị chứng ngủ rũ quật ngã? Cũng có thể hề hôn mê? Đôi khi có bệnh nhân trông như bị hôn mê trong khi ra ta bị cơn tai biến . Thế nhưng điện não đồ thể điều này. Nó thể trạng thái hôn mê alpha, ngắt quãng bởi xâm nhập giải thích được của sóng theta và beta.

      Nàng muốn nghĩ David làm những gì trước khi bị tai biến, nhưng lại thể bắt mình ngừng suy nghĩ. Trong gian u thời trung cổ của nhà thờ Mộ Chúa, tìm dấu tích của cuộc đời Jesus trái đất. Hay nghĩ về cái chết của . khinh thường những địa điểm truyền thống mà khách hành hương thường sùng kính - phiến đá xức dầu, bản thân ngôi mộ, nhưng đến chỗ đánh dấu nơi Jesus chết thánh giá, quỳ sụp xuống mà kêu lên, “Chính là chỗ này đây.” Đúng lúc đó bắt đầu tai biến.

      cố này chắc hẳn bắt đầu từ trước đó. Khi David ngắm bức tranh tường mô tả cảnh Chúa Jesus bị đóng đinh thánh giá, siết chặt hai nắm tay lại, như thể bàn tay bị đau. Điều gì diễn ra trong tâm trí lúc đó? tin mình là Chúa Jesus ư? hoàn toàn tin tưởng điều đó đến nỗi cảm thấy các vết thương của Jesus? Nàng từng nghe có những trường hợp tâm trí sinh ra dấu Chúa, nhưng nàng chưa bao giờ thực tin. Phải chăng lần này nàng chứng kiến chuyện tương tự?

      Nàng nắm chặt bàn tay mềm rũ của David. Mặc xác các điện não đồ, nàng ngờ rằng mở mắt. Thế nhưng mắt vẫn nhắm. Nàng thầm cảm ơn thượng đế vì bác sĩ cấp cứu chỉ định chụp CT thay vì MRI. Làm thế nào nàng có thể khuyên ông ấy đừng áp dụng phương pháp xét nghiệm hình ảnh mà ông tin là vô hại với bệnh nhân? Làm thế nào nàng có thể bảo vệ cho David khỏi mọi thứ ở đây? Nàng biết kẻ thù của mình như thế nào. Người duy nhất nàng nghĩ có thể trả lời về tình trạng hôn mê lạ lùng của David là Ravi Nara. Nhưng theo David, Nara chính là trong số kẻ tìm cách giết họ.

      “Tỉnh dậy , David,” nàng dịu dàng bên tai . “Lạy Chúa, hãy tỉnh dậy .”




      CHƯƠNG 32


      White Sands

      Ravi Nara đậu chiếc ATV của y bên ngoài nhà chứa máy bay dùng làm bệnh viện và bước tới cửa. Trong túi y là ống tiêm chứa kali clorua đủ để kết liễu trái tim yếu đuối của Godin kém gì viên đạn.

      Y ngập ngừng trước cửa tòa nhà, sao mở ra được. Y mất cả giờ đồng hồ tự lên dây cót tinh thần cho cuộc viếng thăm này, và nếu đe dọa của Skow, y xa đến thế. Bọn họ theo dõi mình từ xa ở nơi nào đó, y nghĩ. Tiến lên.

      Y bước vào tòa nhà, khoác lên mình chiếc áo choàng thí nghiệm mới tinh, bước đến máy khử trùng, rồi giẫm chân lên công tắc sàn để mở cửa. Ánh sáng cực tím cường độ cao chiếu lên y từ mọi phía. Y đứng trong ánh sáng màu tía rực rỡ, chằm chằm nhìn qua cửa Bong bóng. Các y tá của Godin ngồi như lũ chó canh cửa ở hai bên giường. Hoặc lão hoặc ta, y tự nhủ. Nhớ điều Skow ...

      Tay NSA hét lên vui mừng khi biết rằng máy tính có thể đạt tới trạng thái Trinity trong vòng mười hai giờ. Gã chỉ hỏi Godin còn sống được bao lâu nữa. Khi Ravi đáp là còn hơn mười hai tiếng, Skow bảo y rằng thể để điều ấy xảy ra.

      “Tại sao ?” Ravi hỏi mà sợ rằng chính y biết câu trả lời.

      “Bởi vì như thế là quá trễ,” Skow cáu kỉnh. “Tổng thống gọi cho tôi từ Trung Quốc, ông ấy rất phiền lòng về tình hình Tennant. Rất nghi ngờ nữa. Tôi phải với ông ấy điều gì đó nghe có lý mới được.”

      “Ý sai .”

      “Chính xác. Tôi với ông ấy rằng Peter ốm suốt từ bấy đến giờ, và tôi e rằng ông ta phải chịu trách nhiệm về cái chết của Fielding. Tôi bảo Godin biến mất, và rằng có thể có cơ sở nghiên cứu bí mật ở đâu đó. Lúc này FBI lục tung tổ hợp máy tính siêu hạng ở Mountain View.”

      Ravi nhắm mắt và cầu mong đây chỉ là ác mộng. Trong phòng hội nghị ở Bắc Carolina, quyết định kết liễu đời Fielding dường như là hành động chính thức của chính phủ. Trinity tồn tại để củng cố vị thế chiến lược của Mỹ thế giới. Fielding phá hoại tiến triển của nó. Nhưng khi người ta bóc trần lớp vỏ giả dối, vụ “thanh toán” Fielding trơ ra là vụ giết người.

      “Ravi?”

      “Tôi đây.” Y biết Skow sắp cầu y điều gì. Và y ghê sợ nó.

      biết phải làm gì mà.”

      Ravi cố chống đỡ lần cuối. “ nếu chúng ta khởi động được Trinity còn ai quan tâm đến chuyện có ai chết để thực hóa nó cơ mà.”

      “Đó là trước khi có vụ rắc rối với Tennant. Chúng ta phải nổ súng ở Washington, giời ạ. Tôi vẽ nên Tennant như tên tâm thần nguy hiểm, nhưng sao. Ta có chứng cớ y học trợ giúp.”

      “Những vấn đề đó là của chứ đâu phải của tôi.”

      Skow bình tĩnh , lời lẽ của gã làm Nara ớn lạnh. “ phải là người duy nhất biết mình có dự phần vào cái chết của Fielding. Tôi có băng ghi giọng . Những chứng cớ đổ tội. Tất cả chúng ta đều cùng chung con thuyền, Ravi ạ. , tôi, Geli Bauer, và cả tướng Bauer nữa. Nếu tất cả chúng ta đều kể cùng câu chuyện ai động đến ta được. Nhưng Peter phải chết.”

      Ravi đau khổ nhắm mắt lại.

      “Tính mạng của chúng ta nằm cả trong tay , Ravi ạ. Chỉ vài giây can đảm là lại trong sạch hoàn toàn.”

      Trong sạch ư? y nghĩ. Mình bao giờ trở lại trong sạch được nữa.

      Việc giết Godin có trái đạo đức ? Lão cũng chỉ cách cái chết tự nhiên vài giờ nữa, nếu có Ravi, lão chết trước đây mấy ngày rồi. Godin cũng ra lệnh giết Fielding mà chẳng thấy ăn năn gì. Hơn nữa, có thực tế gần như tuyệt vời là giết chết Godin về mặt sinh học thực chấm dứt cuộc sống của lão. Chừng nào các mẫu thần kinh của lão còn tồn tại, trí não và nhân cách của lão có thể phục sinh trong máy tính Trinity.

      Vấn đề bây giờ phải là đạo đức, mà là cơ hội. Khi con người đến bờ thập tử nhất sinh như Godin, có đến dăm bảy cách để đẩy lão xuống vực. Nhưng các y tá của Godin rời lão nửa bước. Ravi thử tìm cách điều họ hai lần trong ngày; lần nào họ cũng rút điện thoại di động trong túi ra gọi các y tá ngủ dậy trợ giúp.

      Sau khi xem xét nhiều phương án, Ravi chuẩn bị chiếc xi lanh chứa kali clorua này. Để làm chệch hướng, y nhấn nút báo động màn hình rồi tiêm kali clorua vào tĩnh mạch. Theo sau là thông báo nguy kịch, và Godin thể sống sót.

      Đèn cực tím kêu vo vo rồi tắt. Ravi trông thấy bóng áo trắng mờ mờ của các y tá qua cửa kính bằng thủy tinh plexi của Bong bóng.

      Con mẹ Geli Bauer ở chỗ quái quỷ nào biết, y nghĩ. Công việc này hoàn toàn thích hợp với ả.

      Ravi mở cửa sập bước vào rồi đứng sững, cổ họng y nghẹt lại. Đứng cạnh các y tá của Godin là Geli Bauer. Ả mặc đồ đen từ đầu đến chân, trông ả vẫn đầy nguy hiểm như lần cuối y gặp ả ở Bắc Carolina.

      “Chào Ravi,” ả . “ có vẻ ngạc nhiên khi thấy tôi.”

      Ravi thốt nên lời. Geli mặc chiếc gi lê chống đạn bên ngoài bộ áo liền quần màu đen, thắt lưng nặng trĩu súng lục, súng điện và dao găm.

      Godin bấm công tắc nâng nửa của chiếc giường lên, mắt lão nhìn Ravi chằm chặp. Chỉ đến lúc này Ravi mới nhận ra lão thôi thở oxy nữa.

      “Cậu có gì muốn hả Ravi?” ông già hỏi.

      “Tôi ngạc nhiên thấy Geli bình phục,” y lắp bắp. “Tôi nghe bị thương ở cổ.”

      Geli mỉm cười, kéo cổ lọ màu đen xuống để lộ ra dải băng trắng. “Chỉ là vết sẹo mới bổ sung vào bộ sưu tập của tôi thôi. Nhóm phẫu thuật cho tôi rất giỏi.”

      Tim Ravi đập mạnh vào xương ức. Geli làm cái quỷ gì ở White Sands này? Tại sao ả lại bảo vệ Godin. Theo Skow cho biết, ả chấp nhận việc giết Godin là cần thiết và cùng bàn bạc kế hoạch với Skow cơ mà.

      Ông già có vẻ thích thú trước vẻ bối rối của Ravi. “Này, tôi đây, từ cõi chết trở về đây.” Lão the thé. “Họ bảo lần này là bệnh tim.”

      “Nhịp nhanh thất,” Ravi khẳng định.

      “Tôi nghe chính các y tá cứu sống tôi.”

      Giờ Ravi chỉ nghĩ đến chiếc xi lanh trong túi. Y cảm giác chắc chắn lúc này Geli bước tới khám xét y, lấy chiếc xi lanh ra mà bơm vào tĩnh mạch y.

      “Họ làm mọi việc cách hoàn hảo,” Ravi .

      Godin gật đầu. “Cậu cũng làm thế chứ, Ravi? Nếu cậu ở mình với tôi?”

      Bụng Ravi quặn lên. “Tôi hiểu, Peter. Tất nhiên tôi cũng làm thế.”

      Godin phớt lờ câu trả lời. “Về phần Geli... tôi muốn ấy ở bên cạnh. Tôi thấy an toàn khi có ấy ở bên.”

      Đôi mắt xanh sắc lạnh chòng chọc nhìn Ravi với vẻ tàn nhẫn. “ làm gì ở đây, bác sĩ Nara?”

      “Tôi hy vọng có thể giúp ông thoát khỏi ống thở. Nhưng tôi thấy các y tá làm việc đó rồi.”

      Godin liếc nhìn Geli. Hai người hình như trò chơi ngầm.

      Ravi cố tìm lý lẽ đỡ cho câu dối của mình. “Levin với tôi máy tính có thể sắp đạt tới trạng thái Trinity. Tôi biết ông muốn mình càng tỉnh táo càng tốt khi điều đó xảy ra.”

      “Và tất cả là nhờ Andrew Fielding,” Godin . “ mỉa mai ngoạn mục.”

      Ravi lo lắng liếc nhìn Geli. “Đó là phép màu, Peter ạ. Ông sống để xem mơ ước của mình thành thực.”

      Godin khép mí mắt chỉ còn ti hí. “ ư? Gần đây có nghe tin Skow ?”

      Huyết áp Ravi tụt mạnh. “Sáng nay tôi có gọi cho ấy. ấy vui mừng lắm. ấy sắp bay đến đây.”

      Godin khịt mũi. “ ta muốn có mặt vào thời điểm sáng tạo ra đời?”

      “Tôi đoán thế. Ý tôi là, tất nhiên ấy muốn thế.”

      yên lặng tiếp theo gần như thể chịu nổi. Ravi sao dám nhìn vào mắt Geli. Y tìm cớ chuồn Godin hỏi, “Tôi còn được bao lâu nữa? Trong trường hợp xấu nhất?”

      Ravi quá khiếp sợ nên thể bất cứ điều gì ngoài . “Ông có thể bị nguy kịch trong vòng nửa giờ nữa. Nếu ông bị nghẹn thức ăn, gây ra đợt tràn dịch màng não nguy hiểm.”

      Godin nghiêm trang gạt đầu. “Lâu nhất tôi có thể sống được bao lâu?”

      “Có thể... hai mươi bốn giờ.”

      Ravi dồn hết can đảm bước đến giường. “Tôi muốn làm khám nghiệm nhanh, nếu ông phản đối.”

      Geli chặn đường y. Ả lộ vẻ đe dọa công khai, nhưng chính cử chỉ của ả tỏ ra nguy hiểm. Ravi khó lòng tin y có lần mơ làm tình với ả. Mơ tưởng y có thể thỏa mãn người đàn bà mạnh mẽ và quyền uy dường này lố bịch.

      “Khám ,” Godin ra lệnh.

      Lúc này Ravi biết y thất trận rồi. Y định chạy trốn, nhưng lúc này y như phải đối mặt với con chó tấn công. Nếu y chạy, Geli vồ lấy y mà xé nát cổ họng.

      Ả quỳ trước y mà khám người. Mấy móng tay ngọn hoắt của ả cào vào háng y đau điếng, nhưng khi bàn tay ả chuyển sang đùi phải, mắt ả bỗng lóe lên như mắt đứa trẻ chơi ác. Thò tay vào túi quần, ả lôi ra chiếc xi lanh đầy, giơ lên cho Godin nhìn.

      “Cái gì trong đó?” Godin hỏi.

      “Epinephrine,” Ravi đáp. “Tôi muốn sẵn sàng trong trường hợp bị nguy kịch lần nữa.”

      Geli lắc đầu. “Tôi vừa xem lại cuốn băng theo dõi trong phòng thuốc chiều nay. Thấy bơm đầy xi lanh này từ chai có nhãn KCl. Kali clorua.”

      Tay Ravi bắt đầu run.

      Godin bình thản . “Tiến sĩ Thomas Case từ John Hopkins đường bay đến đây trong khi chúng ta chuyện. hãy tóm tắt tình hình khi ông ta đến. Bác sĩ Case tiến hành những trị liệu cần thiết tại chỗ từ sau thời điểm này.”

      Mặt Ravi tê dại .

      Godin nhìn như muốn bóc trần y, cho y hết đường gian dối. “ chờ được ngày nữa để căn bệnh ung thư đưa tôi sao?”

      Y biết gì đây? Đổ tội cho Skow liệu có đỡ cho y chút nào ?

      “Đừng trả lời,” Godin . “Dù có những vinh quang trong quá khứ, còn muốn tiến xa hơn. nhìn nhận thành tựu của bản thân mình phải với niềm tự hào, mà với nỗi sợ rằng thể nào lặp lại chúng. kẻ ti tiện Ravi ạ. Fielding đáng giá gấp mười lần .”

      “Còn ông sao,” Ravi mà ngạc nhiên về chính mình. “Có phải vì thế mà ông giết Fielding?”

      Đôi mắt xanh nhắm lại, nhưng Godin trả lời rành rọt. “Fielding là nhà vật lý vĩ đại, nhưng ai có thể níu giữ tương lai. Ông ta có cơ may khác trong đời. Bây giờ ông ta tồn tại phần trong nhà Cách ly, và đến ngày mẫu thần kinh của ông ta đạt đến trạng thái Trinity. Ngày đó ông ta hiểu những việc tôi làm. Nào... bây giờ đến lượt ra .”

      Nara chưa bao giờ thấy Geli cười thỏa mãn hơn lúc này. Cao hơn y khoảng tám phân, ả quàng tay quanh người y như người tình. Ả nhìn xuống mắt y với vẻ âu yếm ớn lạnh.

      “Chỉ có câu hỏi chúng tôi muốn trả lời,” ả . “ ấp ủ mưu này trong cái đầu nóng của , hay được ai giúp đỡ?”

      Mày biết rồi còn gì, Ravi nghĩ. Y vùng vẫy cố thoát ra khỏi cánh tay Geli, nhưng ả chỉ càng siết chặt hơn. Rồi ả lướt móng tay dọc theo vai lên cổ y. “Thôi mà, Ravi... bao giờ tưởng tượng có lúc nào đó ở mình với tôi chưa?”

      Ravi sợ mình đái ra quần mất.


      Jerusalem

      Rachel trải qua đêm với đôi chút hy vọng. Nhưng khi mặt trời buổi sớm nhô lên biển Chết và chiếu sáng thung lũng Kindron, nàng từ từ chìm vào tuyệt vọng.

      David chết.

      Bác sĩ tâm thần tối qua xuất để đánh giá tình hình là người đàn ông thấp lùn, hài hước tên là Weinstein. Bác sĩ Weinstein có mớ tóc sẫm màu, đôi mắt đen linh hoạt bỏ sót chuyện gì. ta được đào tạo tại bệnh viện đa khoa Massachusetts ở Boston, tiếng lưu loát.

      Ngay khi đọc xong điện não đồ, ta ra lệnh dùng MRI chụp não David. Lúc đó Rachel quyết định phải ra phần . Nàng hỏi Weinstein bao giờ nghe đến tên Ravi Nara chưa. Chàng bác sĩ tâm thần biết công trình của Nara và rất ấn tượng khi hay bệnh nhân mới của mình cộng tác nghiên cứu với người đoạt giải Nobel ấy. Rachel giải thích rằng nghiên cứu của Nara liên quan đến máy MRI cực kỳ tối tân gây ra tác dụng phụ về tâm thần ở số người. Vì lý do đó nàng khẩn khoản cầu Weinstein hoãn các đợt quét bằng MRI cho đến khi còn lựa chọn nào khác.

      “Tôi hiểu điều chị ,” Weinstein . “Và tôi rất tò mò. Nhưng theo tôi người đàn ông này chẳng sống được bao lâu nữa. Tôi chắc chị biết hình ảnh MRI khuếch tán theo trọng lượng cho thấy thân não hơn chụp CT nhiều. Ở khu vực này có rất nhiều xương nặng mà chụp CT khó thấy được.”

      “Tôi biết,” Rachel . “Nhưng nghĩ rằng cơn hôn mê này là do khối u trong thân não gây ra?”

      Nhà tâm thần học nhún vai. “ thẳng ra, đó là điều duy nhất chúng ta chưa biết . Chị nghĩ những đợt quét của bác sĩ Nara sinh ra chất nào đó?”

      “Vâng.”

      Weinstein khoanh tay thở dài. “Chị có biết tôi nghĩ gì ?”

      “Gì?”

      “Bạn chị chết rất nhanh nếu chúng ta tìm ra được vấn đề của ấy.”

      Sáu mươi phút sau, bác sĩ Weinstein ngồi xem các bản quét MRI khuếch tán theo trọng lượng chụp thân não của David. Chúng phát khối u nào. Khi kể lại những khám phá của mình cho Rachel, sóng theta và beta biến mất khỏi màn hình điện não. Rachel vồ lấy bảng đồ thị lúc này chỉ còn sóng alpha đơn điệu thể cơn hôn mê alpha.

      Nàng bắt đầu khóc.

      Bác sĩ Weinstein vòng tay quanh người nàng. “MRI thể nào gây ra điều này.” như thể cố tự thuyết phục chính mình hơn là Rachel. “Có lẽ chị nên gọi cho Nara. Chúng ta vùng đất chưa được khám phá.”

      Rachel nhắm mắt. Làm sao nàng giải thích được gọi cho Nara họ có nguy cơ bị sát hại?

      “Tôi thử,” nàng . “Chắc phải mất chút thời gian mới liên lạc được với ấy.”

      Weinstein đưa nàng sang phòng bên và hướng dẫn nàng cách gọi điện thoại đường dài từ bệnh viện. Xong ta cho nàng mã số nhắn tin của mình rồi về nhà.

      Rachel chằm chằm nhìn điện thoại, cố tự thuyết phục mình gọi cho Nhà Trắng. Đó là cách duy nhất nàng nghĩ có thể tiếp cận Ravi Nara. Nhưng có gì đó giữ nàng lại. Đó là niềm tin lớn dần lên, rằng David dù bệnh tật thế nào, cũng hoàn toàn hoang tưởng. bảo nàng rằng Ravi Nara là mối nguy hiểm, và nàng tin phần. David có thể bao giờ biết về biểu tín ngưỡng trong , nhưng phải chăng đó phải là bản chất của tín ngưỡng. Tin mà cần trả lời, cần tưởng thưởng, cần chứng cớ? Nàng đứng dậy, lau mắt và động đến điện thoại.

      Đó là trước đây mười giờ.

      Từ lúc ấy đến giờ, nàng dành hết thời gian ngồi dán mắt vào màn hình điện não, giống như người hành hương nhìn tượng đá cẩm thạch với hy vọng nó lệ. Thế nhưng sóng alpha vẫn duy trì đổi. Khi còn là bác sĩ nội trú trẻ tuổi, nàng trải qua nhiều đêm ngồi nhìn các bệnh nhân từ từ trượt vào cõi chết thể nào cưỡng được. Là bác sĩ tâm thần, nàng thấy những bệnh nhân tự tử chết trong gang tấc do những chất độc tự kiếm tác hại khôn lường. Tuy nhiên, chỉ có trải nghiệm duy nhất từng đưa nàng đến cõi đơn tuyệt vọng như thế này.

      Cái chết của con trai nàng.

      Hồi ấy nàng dở sống dở chết, và bây giờ, sau khi tìm được người đàn ông ngày nào đó có thể cho nàng đứa con khác, nàng lại thấy mình ngồi bên giường bệnh của , bất lực chờ đợi điều tránh khỏi.

      Vào lúc ba giờ sáng, đợt sóng theta và beta mới xuất màn hình điện não. Chúng kéo dài mười bảy phút, rồi biến mất. Cứ sau nửa giờ , nàng lại vỗ tay bên tai David, nhưng sóng alpha vẫn giữ nguyên đổi.

      Theo máy David chết não.

      giờ sau bình minh, nàng cúi xuống hôn lên trán , rồi sang phòng bên nhấc điện thoại. Phải mất hồi cãi lộn với nhân viên trực, nhưng rồi vài phút sau nàng cũng được nối với tổng đài của Nhà Trắng ở Washington D.C.

      “Tôi gọi để trình báo về Dự án Trinity,” nàng .

      cầu nhắc lại,” điện thoại viên .

      “Dự án Trinity.”

      “Xin giữ máy.”

      Rachel nhắm mắt. Tay nàng run bần bật, và tiếng bên trong bảo nàng bỏ máy. Nhưng trước khi nàng có thể giọng đàn ông cụt lủn hỏi trong máy. “Xin hỏi ai gọi vậy?”

      “Rachel Weiss.”

      Có tiếng thở gấp. “Nhắc lại?”

      “Tôi là bác sĩ Rachel Weiss. Tôi cùng bác sĩ David Tennant, tôi rất cần giúp đỡ. Tôi nghĩ ấy sắp chết.”

      “Bình tĩnh nào, tôi ...”

      “Làm ơn,” nàng gào lên, cuối cùng nàng mất tự chủ. “Tôi cần chuyện với người có chuyên môn!”

      “Bác sĩ Weiss, dù làm gì, hãy giữ máy. đúng hướng. Đừng nghi ngờ gì điều đó.”

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 33


      White Sands

      Ravi Narra nằm nền xi măng với chiếc kim chọc vào tĩnh mạch cổ có thông báo hệ thống loa White Sands gọi y đến bệnh viện. Geli Bauer sắp sửa giết y bằng chính cái ống tiêm chứa đầy kali clorua mà y định dùng để giết Godin.

      “Bác sĩ Nara, cầu liên lạc với Bong bóng ngay.”

      “Peter có thể lại lên cơn nguy kịch,” y gào lên.

      Geli lôi y đứng dậy và đẩy y ra cửa.

      Trong khi hai người hối hả đến bệnh viện, y nghĩ về nửa giờ vừa qua. Sau khi tìm ra chiếc ống tiêm, Geli đưa y từ Bong bóng đến gian nhà kho bỏ trống. Tới nơi, y hỏi Geli làm cái quái gì ở White Sands này. Gelie mỉm cười đứng dựa vào tường, ngắm nghía y như ngắm con sâu mà ả sắp găm lên mảnh bìa.

      “Tôi muốn biết Skow có ,” ả . “Có phải Godin sắp chết. Và Trinity sắp thất bại .”

      “Và?”

      “Godin sắp chết, nhưng Trinity thất bại. Nó sắp sửa cứu sống Godin.”

      phải cứu sinh mạng,” Ravi . “Mà là trí tuệ của ông ấy.”

      “Cái đó chính là điều thiết yếu nhất của sống.” Geli bước tới gần Ravi và rút ra từ thắt lưng ả con dao găm sáng lóe. “Tôi có thể cắt đứt tủy sống ở bất kỳ chỗ nào từ C-1 đến C-7. Ngay lập tức bị liệt cả tứ chi. Nếu cho chọn giữa cái đó và chết, có chọn chết ?”

      Ravi lùi lại. “Tôi hiểu ý .”

      Geli mỉm cười mê hoặc, lưỡi ả thè ra giữa hai hàm răng. Y luôn đánh hơi thấy ả cho rằng có mối liên hệ giữa sex và bạo lực, và hành vi của ả lúc này chứng tỏ điều đó. Ả chơi trò mèo vờn chuột với y, và việc nhìn y sợ hãi kích thích ả.

      “Tôi cũng muốn gặp ba tôi nữa,” ả . “ từ lâu tôi có được cái thích thú độc đáo ấy.”

      Ravi gì.

      “Còn có lý do nữa khiến tôi đến đây. Nếu đoán đúng, có thể chúng ta dừng lại ở mức cho liệt hai chi thôi.”

      “Thôi ngay cái trò ngu xuẩn ấy !” Ravi cáu tiết. “Skow có thể đến đây bất cứ lúc nào.”

      đoán được à?” Geli hỏi.

      .”

      “Tôi muốn được quét.”

      Y chưa tính đến điều này. “Tại sao? có biết rằng việc quét như thế kèm theo những tác dụng phụ về tâm thần ?”

      Geli cười. “Người ta còn liều chịu tác dụng phụ để phẫu thuật thẩm mỹ. Tôi liều tí để thành bất tử.”

      Ravi ước cho ả cứ mãi.

      “Kỹ thuật này được giữ kín trong thời gian dài,” ả . “Chỉ có rất ít người được quét. Các tổng thống hay thiên tài như Godin. Cũng có thể là những nhà khoa học đần độn như . Nhưng có các sếp an ninh. Chiều nay tôi dành ba tiếng cho việc quét ảnh não tôi. trải nghiệm đặc biệt.”

      Geli lấy ống tiêm chứa kali clorua từ trong cái túi bên thắt lưng ả ra.

      “Tôi tự hỏi biết tác dụng phụ của tôi là cái gì?” ả đăm chiêu. “Ngủ rũ hay là động kinh, tôi cần. Hội chứng Tourette... . Mất trí nhớ ngắn hạn tôi có thể chịu được. Đằng nào tôi chả có lúc bị như thế. Nhưng tác dụng phụ của rất được. Nó phù hợp với tính cách của tôi.”

      Ravi lắc đầu. Những cơn khát dục kiềm chế nổi nghe có vẻ ngồ ngộ cho đến khi ta buộc phải xử trí nó. Giống như bất kỳ cơn xung động thực nào khác, nó đưa ta đến bên bờ vực tự sát.

      “Tôi thường quan sát trong camera theo dõi của an ninh,” Geli cười . “Chạy vào toilet năm lần ngày, tay sục thằng của ... Đôi lần tôi nghe rên rỉ gọi tên tôi. Khốn khổ.”

      Ravi nghiến răng và thầm mong Skow lập kế loại trừ Geli Bauer khỏi mặt đất. Y cố nghĩ cách trì hoãn thêm ít nữa nhưng Geli đá vào ngực y.

      Y ngã phịch xuống và trước khi y kịp thở lại được, ả quỳ lên ngực y với chiếc ống tiêm kề cổ y. Cứu y phải là Skow, mà là hệ thống phóng thanh gọi y về bệnh viện.

      Godin phát sinh những vấn đề nghiêm trọng ở lưỡi. Lão nuốt khó khăn và mặt đau nhói trở lại. Theo sách giáo khoa đây là triệu chứng của u thần kinh đệm, và chỉ có thể chịu đau mà thôi. Sau giờ, lão lại điều khiển được lưỡi, nhưng phần mặt bên trái bắt đầu xệ xuống.

      Khi Ravi giả vờ chữa trị cho ông già, chuông điện thoại di động của Godin reo vang, và Geli trả lời. Đó là Nhà Trắng gọi. Ả giữ điện thoại trước mặt Godin để lão nghe. Ravi thể đoán được họ gì, nhưng y linh cảm có chuyện hay.

      Ewan, tôi khỏe mà,” Godin dối. “Sức khỏe của tôi vẫn tốt như mọi khi, chỉ có điều tôi hiểu nổi Skow nghĩ gì mà lại với ông như vậy.”

      Godin nghe hồi rồi , “Nếu Fielding chết là do nguyên nhân gì khác ngoài đột quỵ, tôi nghĩ người chúng ta phải hỏi tới là Skow. ta bao giờ hòa thuận với Fielding, và cũng săn lùng cả Tennant nữa... đừng lo ngại về bác sĩ Tennant. Tôi phái Ravi Nara ngay bằng máy bay của công ty. Cậu ta là người duy nhất thế giới hiểu về chứng hôn mê đặc biệt này.”

      Phái Ravi Nara đâu? Ravi tự hỏi. đâu cũng tốt hơn là ở trong gian nhà kho với Geli Bauer.

      “Vâng, tôi cập nhật cho ông ngay khi có thể... Tạm biệt, Ewan.”

      Godin vẫy tay ra hiệu cất chiếc điện thoại , rồi nhìn Ravi. “Cậu bay sang Jerusalem.”

      Ravi chớp mắt ngạc nhiên. “Israel?”

      “Tennant nằm hôn mê ở bệnh viện Hadassah. Bác sĩ Weiss ở đó với . ta vừa mới gọi cho Nhà Trắng để cầu cứu. Tôi cam đoan với Ewan McCaskell rằng là người duy nhất thế giới có thể giúp được Tennant.”

      “Nhưng sao ông lại muốn giúp Tennant?” Ravi hỏi. “Tại sao họ muốn giúp? Báo chí đưa tin Tennant muốn ám hại tổng thống cơ mà.”

      Godin đau đớn nuốt nước bọt. “Tổng thống biết thể tin vào báo chí. Và cậu quên rằng chính Matthews ép tôi nhận Tennant ngay từ đầu. Ông ấy muốn có Tennant bên cạnh trong chuyện này.”

      “Tôi hiểu.” Ravi chẳng hiểu gì hết trơn. “Ông muốn tôi làm gì ở Jerusalem?”

      “Giết Tennant.”

      Ravi nhắm mắt.

      gần như chết não rồi,” Godin . “Chỉ cái đẩy của cậu là có ai chứng kiến hết.”

      “Peter, tôi thể vào bệnh viện Israel mà...”

      “Tại sao ? Cậu định giết tôi. Tại sao với Tennant lại được?”

      “Tôi bao giờ có ý định làm hại ông.”

      Phần mặt bên phải của Godin bỗng nhiên nhăn nhúm lại.

      “Ông lại đau à?”

      “Câm mồm lại, Ravi. Đây là cơ hội để cậu tự chuộc tội. cơ hội sống.”

      Ravi liếc nhanh sang Geli. Bất kỳ việc gì cũng đều tốt hơn là lại ở mình với ả. “Thôi được. Nhưng nếu tôi làm được việc đó sao. Ý tôi muốn , nếu việc đó thể thực được?”

      “Cậu phải là người duy nhất cố gắng thực .”

      “Tôi hiểu. Thôi được... bao giờ tôi ?”

      “Tôi muốn cậu bay trong vòng mười phút nữa. Chiếc Gulfstream tiếp nhiên liệu đường băng. Trước hết ra phòng hành chính . Có điện thoại chờ cậu ở đấy.”

      Điện thoại à? “Được, Peter.”

      Ravi định , nhưng chút ý thức trách nhiệm còn sót lại níu y. “Còn ông sao?”

      “Bác sĩ Case duy trì sống cho tôi đến khi đạt được trạng thái Trinity,” Godin vẫy bảo . “Đừng lo. Tennant có thể chết trước khi cậu đến.”


      Jerusalem

      Rachel ngồi bên máy điện thoại và cầu nguyện cho hồi từ Washington mau đến. Nếu khoa thần kinh có giường trống, có người đến đưa David ra khỏi phòng cấp cứu. Nàng nghĩ đến việc xem lại điện não đồ của điện thoại reo.

      “A lô?”

      giọng Mỹ nghe rất vang lên, “Có phải bác sĩ Rachel Weiss đó ?”

      “Vâng.”

      “Tôi là McCaskell, Chánh văn phòng phủ tổng thống.”

      Rachel nhắm mắt và cố giữ cho giọng khỏi run. “Tôi nhận ra giọng ông rồi.”

      “Bác sĩ Weiss, tôi gọi để đảm bảo với rằng tổng thống hết sức quan tâm đến sức khỏe của bác sĩ Tennant. Chúng tôi lắm về lý do đằng sau những kiện xảy ra mấy ngày gần đây, nhưng chúng tôi tìm ra . Tổng thống nay trở về Mỹ và tôi đảm bảo với rằng bác sĩ Tennant có cuộc điều trần công bằng.”

      Lúc này nàng cảm thấy có gì đó thoát ra, cảm giác sợ hãi và căng thẳng hỗn loạn kể từ lúc David bắn gục tay sát thủ trong bếp nhà . Tiếng nức nở nghẹn ngào bật ra khỏi cổ họng nàng.

      “Bác sĩ Weiss?” McCaskell hỏi. “ có làm sao ?”

      “Vâng... cám ơn ông rất nhiều vì gọi điện. diễn ra việc khủng khiếp, và bác sĩ Tennant cố cảnh báo tổng thống về việc đó.”

      “Bình tĩnh nào, bác sĩ. Tôi biết các bạn cần hỗ trợ y tế ở đó, nên tôi nối máy cho chuyện với bác sĩ Nara. Tôi nghe ta là người duy nhất có đủ kiến thức để xử lý tình trạng của bác sĩ Tennant.”

      Rachel căng thẳng khi nghe đến Nara. Có tiếng cạch như thể đường dây bị đứt.

      “Bác sĩ Nara?” McCaskell . “ có đó ?”

      giọng ràng với điệu cao hơn vang lên đường dây.

      “Vâng. A lô. Bác sĩ Weiss? Tôi là Ravi Nara. Chị có nghe thấy tôi ?”

      “Có.”

      “Tôi nghe bác sĩ Tennant rơi vào tình trạng hôn mê alpha. Đúng ?”

      hẳn. Thỉnh thoảng có những sóng theta và beta xuất . Bây giờ lại chỉ có alpha. Tôi sợ ấy sắp ngừng thở.”

      đâu. Bản thân tôi cũng bị hôn mê alpha sau khi bị máy Siêu MRI của Trinity quét. Chị biết chiếc máy đó ?”

      “Biết.”

      “Tôi từng bị hôn mê alpha ba mươi hai giờ mà khi tỉnh dậy bị tác dụng phụ nào. Tôi hy vọng David tỉnh dậy bất cứ lúc nào.”

      Gọing Nara vang lên đầy tin tưởng. Nhà bác học đoạt giải Nobel nổi tếng trong toàn giới y khoa, và nàng cảm thấy khó mà coi thường lời lẽ của y, nhất là khi lời lẽ ấy lại gợi lên hy vọng.

      “Bác sĩ Nara, tôi biết phải gì.”

      “Tôi chuẩn bị bay đến đó,” Nara . “Tôi nghe tổng thống bố trí để David được nhận vào cơ sở y tế tin cậy hơn. Tôi có mặt ở Jerusalem trong vòng mười bốn giờ nữa.”

      “Lạy Chúa tôi.”

      “Đến lúc đó chắc chắn David tỉnh lại, nhưng cũng đừng hoảng sợ nếu ấy chưa tỉnh. Chúng ta tiến hành bước này cùng lúc. Được ?”

      Rachel thấy nghẹt thở. “Vâng. Cám ơn . Tôi rất mong gặp .”

      “Tôi cũng thế, bác sĩ. Tạm biệt.”

      Nara buông máy, nhưng McCaskell vẫn còn đường dây.

      “Bây giờ cảm thấy khá hơn chút nào chưa, bác sĩ Weiss?”

      “Tôi biết cảm ơn ông thế nào đây.”

      “Rồi có dịp thôi. Tôi sớm gọi lại cho .”

      Rachel treo máy và hít mấy hơi sâu. Xong nàng lấy giấy ăn Kleenex lau mặt rồi đẩy cửa sang phòng điều trị.

      David ngồi bên bàn điều trị, mắt mở to, hai hàng nước mắt lăn dài hai má.




      CHƯƠNG 34


      Mắt tôi mở như mắt trẻ sơ sinh, choáng ngợp vì ánh sáng nguyên sơ của thế giới. Khi tôi chớp mắt vì ánh đèn đầu, cơ thể tôi réo gào vì cơn đói quặn thắt và hối thúc dồn dập phải giải phóng bọng đái. Tôi ngồi dậy nhìn quanh. Tôi ngồi trong phòng điều trị y tế. Tôi từng làm việc trong hàng chục căn phòng như thế này.

      Nước. Tôi nghĩ. Tôi cần nước.

      Có tiếng phụ nữ ở đâu đó, “Tôi biết cảm ơn ông thế nào đây.” Tiếng nghe thân quen. Tôi lắng nghe thêm, nhưng thấy gì nữa.

      Cửa phòng mở. Rachel bước vào và đứng chết lặng. Nàng vụt đưa tay lên bưng miệng, và bắt đầu tiến về phía tôi.

      “David, có nghe em ?”

      Tôi giơ tay lên, và nàng ngừng bặt.

      bị hôn mê. bất tỉnh mất...” nàng nhìn đồng hồ đeo tay, “...mười lăm giờ. Hầu hết thời gian là hôn mê alpha. Em tưởng bị chết não.” Nàng chỉ vào mặt tôi. “Sao lại khóc?”

      Tôi quệt tay lên mặt. Tay tôi đẫm nước. “ biết.”

      có nhớ gì ? Lúc ngất trong nhà thờ ấy?”

      Tôi nhớ mình quỳ xuống, thò ngón tay qua cái lỗ đĩa bạc. luồng năng lượng chạy qua cánh tay tôi lên thẳng não, nó mạnh ngoài sức chịu đựng. Tôi cảm thấy như trí óc mình là chiếc găng tay xíu mà bàn tay khổng lồ nào đấy cố xỏ vào, toàn thân tôi rung lên. Rồi...

      nhớ bị ngã.”

      có nhớ những gì sau đó ?”

      Tôi thấy mình ngã xuống sàn nhà, nhưng trước khi chạm tới sàn, ranh giới cơ thể tôi bỗng tan biến, tôi cảm thấy mình đồng nhất với mọi thứ xung quanh: mặt đất và nền đá nhà thờ, lũ chim làm tổ vách đá, những bông hoa trong sân nhà thờ phát tán phấn hoa theo gió. Tôi ngã, mà bồng bềnh trôi, tôi thấy thực tại sâu hơn nằm bên dưới thế giới vật thể, ma trận xao động mà tất cả các đường ranh đều mơ hồ, trong đó các hạt phấn hoa phân biệt với làn gió, trong đó vật chất và năng lượng chuyển động trong vũ điệu vĩnh hằng, sống và cái chết chẳng qua chỉ là thay đổi trạng thái của cả hai. Nhưng ngay khi tôi còn bay lơ lửng, trôi bềnh bồng trong thế giới như con sứa có nhận thức, tôi cảm thấy bên dưới cái ma trận xao động của vật chất và năng lượng ấy có gì đó còn sâu hơn nữa, như lớp nền lùng bùng, cũng phù du và vĩnh cửu như các định luật toán học, nhìn thấy được nhưng cũng thay đổi được, nó điều hành tất cả mà phải dụng công gì.

      Tiếng lùng bùng ấy sâu xa, giống như những tuốc bin quay ở giữa đập. Khi lắng nghe, tôi nhận ra mô thức có tính chất số hơn là giai điệu, như điệu nhạc chưa được khám phá mà các nốt và gam của nó nằm ngoài tầm hiểu biết của tôi. Tôi điều chỉnh đầu óc mình thích ứng với thanh, tìm kiếm các đoạn lặp, chìa khóa khóa giải mã khó nắm bắt. Thế mà cho dù lắng nghe bằng cả tâm hồn mình, tôi cũng hiểu được ý nghĩa nằm trong thanh này. Chẳng khác nào nghe tiếng mưa bão mà cố định hình từng giọt mưa khi nó chạm đất. Lòng tôi mong mỏi hiểu được cái mệnh lệnh tàng kia, bản tổng phổ vĩ đại của mưa rơi.

      Và tôi vụt hiểu. Hình mẫu mà tôi tìm kiếm chẳng phải là hình mẫu nào hết. Nó chỉ là hỗn loạn. hỗn loạn như mớ bòng bong tràn lấp cái tưởng như là trật tự thế giới. Và chính trong khoảnh khắc ấy tôi bắt đầu nhìn hơn bao giờ hết, nghe thấy cái mà ít người từng nghe - giọng của...

      “David, có nghe thấy em ?”

      Tôi chớp mắt và cố buộc mình tập trung vào các vật xung quanh. Các tủ thuốc. máy điện não đồ có bánh xe. Đôi mắt mệt mỏi của Rachel.

      có nghe.”

      Nàng bước tới trước, vặn vẹo hai bàn tay. “Em gọi điện cho Washington. Em cho họ biết chỗ ở của chúng ta. Em biết còn phải làm gì nữa.”

      biết.”

      có nghe cuộc điện đàm ?”

      .”

      “Vậy sao biết?”

      Cũng giống như cách tôi biết giờ chúng tôi gặp nguy hiểm. Tôi nhìn xuống và bắt đầu rút ống truyền dịch ra khỏi cổ tay.

      “Đừng làm thế.”

      “Chúng ta phải .”

      Măt nàng mở to. “Cái gì?”

      rút ống ra làm chỗ này sắp chảy máu rồi. Em có thể tìm cho cái băng ? Quần áo của đâu rồi?”

      Nàng lao đến chỗ trống giữa chúng và ngăn tôi rút ống truyền dịch ra. “ David, bây giờ còn là nữa. bất tỉnh suốt đêm. Em gọi cho Evan McCaskell. Tổng thống điều Ravi Nara đến đây để điều trị cho . Trước đây ta biết loại hôn mê này rồi. Bản thân ta cũng từng bị hôn mê suốt ba mươi giờ, và khi tỉnh dậy thấy có tác dụng phụ nào. Họ muốn giúp chúng ta...”

      “Ravi Nara chưa bao giờ bị hôn mê alpha. Tác dụng phụ của MRI đối với y là những xung động tình dục kiểm soát được. Chỉ có thế thôi.”

      “Nhưng ta bảo em...”

      “Y bảo em những điều mà y biết trấn an được em. Chúng ta phải thôi. Ngay bây giờ.”

      “Nhưng tổng thống muốn biết . McCaskell bảo em thế, và em tin ông ấy.”

      có cách nào để tôi thông báo những nhận thức bên trong mà bị coi là điên. Tôi đứng lên, tấm chăn rơi khỏi người.

      “Nếu ở lại đây, chúng ta chẳng còn sống để gặp tổng thống đâu. có việc rất quan trọng cần làm. Em làm ơn đưa quần áo cho .”

      Khi Rachel nhìn chiếc túi đặt ở góc phòng, tôi giật phăng ống truyền dịch ra khỏi cổ tay. dòng máu sẫm chảy tràn xuống mu bàn tay. Tôi đè chặt lên tĩnh mạch và chạy đến góc phòng kiếm miếng băng 4x4 trong bình thủy tinh. Rachel trông thấy tôi làm thế liền dán chặt miếng gạc lên tĩnh mạch.

      giữ tay vào đây,” nàng bảo. Rồi nàng đến lấy chiếc túi nhựa ở góc phòng đặt lên bàn khám bệnh. “Quần áo của đây.”

      Chỉ có tủ com mốt đặt cạnh tường, ngoài ra có vách ngăn hay tấm rèm che nào để tạo thành nơi kín đáo.

      cần sử dụng cái đó,” tôi bảo nàng, tay chỉ chiếc tủ.

      làm . Em thấy nó từ trước rồi.”

      Tôi bước tới tủ com mốt và đứng quay lưng lại phía nàng.

      “Tại sao lại nghĩ họ đến để giết chúng ta?” nàng hỏi.

      “Bởi vì chúng vẫn giữ nguyên ý định. Và bây giờ chúng biết nơi ta ở.”

      vẫn tin ai? Ngay cả tổng thống?”

      “Tổng thống hề hay biết chuyện thực xảy ra.” Tôi bước lại bàn mặc sơ mi vào, rồi thắt túi bao tử quanh hông.

      “Nhưng muốn đâu bây giờ?” Rachel hỏi.

      “White Sands.”

      “Gì cơ?”

      “Bãi thử White Sands.” Tôi cẩn thận kéo quần lên, rồi ngồi xuống nền nhà xỏ giầy. “New Mexico.”

      “Tại sao muốn đến đó?”

      “Đấy là nơi đặt nguyên mẫu Trinity .”

      “Làm sao biết?”

      biết, vậy thôi.”

      Nàng lắc đầu. “David, làm em sợ.”

      “Em đừng nghĩ nữa.”

      “Khoan .” Nàng giơ tay lên. “Đó là thứ có trong bức thư của Andrew Fielding. Bột thạch cao trắng. Cát Trắng - White Sands. Chắc đó là điều ông cố với chúng ta. Địa điểm thứ hai của dự án Trinity?”

      “Đúng, ông ấy có cho chúng ta biết, nhưng ông muốn bất cứ kẻ nào ngăn chặn bức thư biết là ông biết.” Tôi nhìn cánh cửa đóng kín. “Ta ở khu nào trong bệnh viện?”

      “Khoa Cấp cứu.”

      “Tốt. Tầng . Em có biết lối ra ?”

      “Có, nhưng...”

      Tôi đứng đó nắm tay nàng. “Mọi việc thay đổi, Rachel ạ. biết mình phải làm gì. Nhưng trước hết chúng ta phải khỏi đây ngay.”

      Tôi thấy niềm tin nàng dành cho tôi rạn vỡ dưới sức nặng của vai trò bác sĩ tâm thần và ý muốn tránh nguy hiểm của nàng.

      “Em, giúp .”

      Nàng nhắm mắt thở dài. Rồi nàng ra cửa sổ thử mở ra. Nhưng cửa sổ bị gắn kín và cài then bên ngoài.

      Tôi ra cửa chính, mở hé ra. Hai y tá ngồi ở bàn tiếp nhận bệnh nhân, nhưng họ hơi quay phía khác. người chuyện điện thoại.

      qua hai y tá này bằng lối nào?” tôi thầm hỏi.

      “Hành lang dẫn đến bãi đậu xe cứu thương bên ngoài. Có bảo vệ.”

      Người bảo vệ đó có lẽ kiểm soát người vào hơn là ra, nhưng ở Israel này biết được.

      Người y tá chuyện điện thoại đứng dậy về phía phòng điều trị. “Chuẩn bị,” tôi . Khi người y tá kia xao nhãng, chúng tôi rảo bước qua phòng đến lành hang dẫn ra ngoài.

      Rachel vẫy người bảo vệ ngồi ở bàn, rồi dẫn tôi qua ta.

      Tay bảo vệ gì đó bằng tiếng Hebrew.

      Rachel chậm lại nhưng dừng bước. “ được tiếng ?”

      “Chút ít,” tay bảo vệ đáp.

      “Sáng nay bác sĩ Weinstein bảo tôi đưa bệnh nhân này ra ngoài hít thở khí trong lành. có biết bác sĩ Weinstein ?”

      Tay bảo vệ có vẻ bối rối. Rồi ta mỉm cười và vẫy tay như có ý , “Cứ , cứ .”

      Chúng tôi tự do bước ra ngoài nắng sớm.

      Hai chiếc xe cấp cứu đậu dưới mái che bê tông phẳng. Tôi lỉnh nhanh sang bên trái nơi có con đường bao quanh bệnh viện. có lối bộ, nên chúng tôi lề đường. Khi chúng tôi vòng quanh khu nhà, tôi nhìn thấy vòm nhà thờ đá rực vàng trong Thành Cổ. Con đường bên cạnh chúng tôi dẫn đến đường đồi dài. Bên phải chúng tôi là nghĩa trang lớn trông nhang nhác cảnh thuộc địa.

      “Chúng ta phải gọi taxi,” Rachel . “Cuốc bộ chẳng đến đâu được.”

      “Nghe kìa.”

      Nổi lên tiếng rì rầm của thành phố dưới kia là thanh khẩn cấp hơn nhiều. Tiếng còi.

      Chúng tôi nấp sau bụi cây thấp. Ba mươi giây sau, hai chiếc xe tải màu xanh thẫm lao nhanh lên đồi về phía chúng tôi. Trông có vẻ là xe cấp cứu. chiếc rít lên đỗ trước cổng chính của bệnh viện, chiếc kia chạy vòng ra sau. Từ chiếc xe phía trước bước ra hai người mặc complet và tổ cảnh sát bán quân mang tiểu liên.

      “Ai đấy,” Rachel thầm .

      “Có lẽ là Shin Beth. nhánh của cảnh sát mật vụ. Ai đó từ Washington gọi điện cầu phong tỏa bệnh viện và ngăn chúng ta rời .”

      “Ravi Nara bảo em rằng họ chuyển đến bệnh viện an toàn hơn.”

      “Nếu thế chúng có cần đến đội cảnh sát cơ động ?” Tôi kéo nàng đứng lên. “Chạy thôi!”

      Mặc dầu đường xuống đồi rất hiếm nơi náu, chúng tôi vẫn tận dụng bất kỳ chỗ nào tìm được trong khi chạy. Rachel muốn chạy về hướng Thành Cổ, nhưng tôi dẫn nàng lao về phố Churchill để đến khách sạn Hyatt Regency, suốt dọc đường ngừng liếc về bệnh viện phía sau lưng. Chiếc xe tải vẫn đậu trước cửa. Tôi chỉ có thể hình dung ra cảnh săn lùng điên cuồng bên trong.

      dãy taxi đậu đường Hyatt. Tôi trèo vào chiếc đầu tiên trong dãy, Rachel vào theo tôi.

      “Người Mỹ à?” lái xe hỏi.

      “Người Mỹ. Tôi cần tiệm Internet.”

      Người lái xe dường như suy nghĩ lung lắm. “Ông cần máy tính à?”

      “Phải.”

      “Trong khách sạn Hyatt có máy tính đấy. Cứ trả tiền nửa giờ.”

      “Tôi cần nơi công cộng. Tôi thích khách sạn này.”

      “Ở Jerusalem có nhiều tiệm net lắm đâu. Ở Strudel có máy tính, nhưng bây giờ có lẽ họ chưa mở cửa.”

      “Đưa chúng tôi đến đấy.”

      Tay lái xe đề máy và đưa chúng tôi đến Ha Universita. Tôi thấy xe cảnh sát đậu san sát phía bên trái. “Đây là đâu?”

      “Trụ sở Cảnh sát Quốc gia. Tôi hy vọng ông muốn vào đấy.”

      “Đến Strudel. Nhanh lên. Tôi có việc quan trọng.”

      “Vâng, thưa ông. Chậm nhất là mười phút nữa.”

      White Sands

      người lính mặc đồng phục lái xe cho Ravi Nara ra đường băng. Đêm sa mạc dài vô tận có lúc làm cho Ravi khó chịu, nhưng đêm nay y thấy thoải mái. Khi chiếc xe Jeep đến gần đường băng, chiếc Learjet chạy tới chạy lui quanh kho chứa máy bay, rồi đậu bên cạnh chiếc Gullstream 5 của Godin. Chiếc Lear màu đen và có nhãn mác gì. Khi cửa xe mở, John Skow cúi người bước ra.

      “Tôi cố liên lạc với mãi mà được!” tay NSA kêu to. “Điện thoại của sao thế?”

      Ravi liếc nhìn người lính hộ tống mình, nhưng ta có vẻ quan tâm đến cuộc chuyện. “Tôi lên đường Jerusalem.”

      Skow nắm cánh tay Ravi lôi y ra xa người lính khoảng mười bước. “ cái quái quỷ gì thế?”

      “Peter cử tôi Jerusalem.”

      “Ông ta còn sống à?”

      “Còn.”

      Sợ hãi và giận dữ khiến khuôn mặt Skow méo xệch. “ thử chưa?”

      “Rồi. Mẹ kiếp!”

      “Tại sao Peter cử Jerusalem?”

      “Để đảm bảo cho Tennant chết.”

      Skow ngật đầu ra sau như người ta cầu Chúa phù hộ. “Quên chuyện đó . đâu cả. Tennant chuồn khỏi bệnh viện Hadassah rồi.”

      “Nhưng... họ bị hôn mê alpha.”

      “Chắc hẳn qua khỏi rồi. ràng phải Rachel Weiss chữa cho .”

      Ravi thể nào tin nổi. “Có lẽ có ai đó làm được.”

      “Trời ơi là trời,” Skow thở. “Bọn Israel. Chúng sẵn sàng làm tất cả để sở hữu công nghệ Trinity.”

      Ravi muốn nghĩ đến Trinity. “ có biết Geli Bauer ở đâu , John?”

      Skow tò mò nhìn y. “Tất nhiên. Bệnh viện Walter Reed chứ đâu.”

      Ravi lắc đầu, dạ dày nôn nao. “Thế mà tôi nghĩ phải khá hơn. ”

      cái gì vậy?”

      “Geli ở đây, bảo vệ Peter.”

      Mặt Skow trắng bệch.

      “Sao lại biết?”

      “Con chó cái ấy gọi di động cho tôi cả ngày, rằng các bác sĩ ở Walter Reed rất giỏi.”

      với tôi rằng ta ở về phe mình.”

      “Nó thế đấy. Tôi phải gọi điện cho cha nó bây giờ.”

      Người lính lái xe cho Ravi bước lại gần. “Bác sĩ Nara, đến giờ ông lên máy bay.”

      Skow với người lính bằng giọng ra lệnh. “Hạ sĩ, tôi phải đưa bác sĩ Nara quay trở lại để gặp ngài Godin. Tình hình ở Israel thay đổi.”

      Ravi có ý định ở lại New Mehico. “Tôi bay sang Jerusalem, John. Tennant và Weiss có thể xuất bất cứ lúc nào. Peter muốn làm ra vẻ ông ta xoay xở mọi cách trong phạm vi quyền lực của mình để cứu Tennant, và tôi cho là ông ta đúng.”

      “Tôi biết thích Jerusalem,” Skow nắm chặt cánh tay Ravi, . “Nhưng vấn đề là, ở đây cần .”

      “Peter có bác sĩ mới rồi.”

      “Nhưng ông ấy cần .”

      Ravi nhìn người hộ tống. “Tôi sẵn sàng lên máy bay.”

      Người lính bước tới trước, nhưng cái trừng mắt đầy uy lực của Skow chặn ta lại. “Hạ sĩ, tôi đến đây bằng mệnh lệnh trực tiếp của tổng thống. Chỉ huy của , tướng Bauer hoàn toàn biết sứ mệnh của tôi. Tôi cần hai phút với người này. Sau đó chúng tôi đến gặp Godin. Bước lùi lại. Cách tôi hai mươi mét.”

      Người hạ sĩ tuân lệnh.

      Ravi định vùng ra, nhưng bàn tay Skow giữ chặt như gọng kìm. “ khai ra tôi, phải . Đồ chó đẻ.”

      “Tôi gì với họ cả. Nhưng điều đó cũng chẳng giúp gì được cho . Họ biết quá nhiều. Lẽ ra tôi chết rồi, nếu như Peter lên cơn nguy kịch.”

      Skow nhìn quanh đường băng như sợ người lính kia có thể tấn công gã bất cứ lúc nào. “Nghe đây Ravi. Dù có chạy sang Jerusalem cũng thoát đâu. Tổng thống tin vào kịch bản của chúng ta, nhưng nếu Godin còn sống mà thanh minh thanh nga, chúng ta chỉ có đường chết thôi. Vậy nên còn có việc phải làm đấy.”

      Ravi cảm thấy nỗi sợ cồn cào trong bụng y. “ điên rồi! Bọn họ bao giờ để tôi đến gần Peter nữa. Và nếu tôi ở lại đây, Geli giết tôi.”

      Skow lắc y như đứa trẻ. “Bình tĩnh , giời ạ. hãy nấp trong văn phòng của tôi trong khi tôi mọi chuyện.”

      mọi chuyện? Với Godin?”

      Skow mỉm cười. “ quên rằng chuyên môn của tôi là chiến tranh thông tin à?”

      Gã dẫn Ravi đến chỗ xe Jeep và ra hiệu cho viên hạ sĩ vào ngồi sau tay lái.

      “Nhưng họ nghi ngờ rồi,” Ravi . “ gì với họ?”

      Skow mỉm cười giảo hoạt. “Tôi là cáo già trong chuyện sinh tồn Ravi ạ. Đến Geli cũng còn phải học tôi đấy.”




      CHƯƠNG 35


      Jerusalem

      Tiệm Internet ở Strudel đóng cửa. Tôi thấy trong tiệm có người đàn ông râu ria quét dọn. Tôi gõ lên kính, vẫy tay rồi chỉ vào tay nắm cửa. Người đàn ông lắc đầu.

      “Em có mang túi bao tử ?” tôi hỏi Rachel.

      “Có.”

      “Đưa 100 đô la.”

      Tôi áp tờ giấy bạc lên cửa kính. Phải mất phút người đàn ông bên trong mới nhận ra, và khi đó, ông ta lại chỉ vẫy tay bảo tôi . Thấy chúng tôi chịu , ông ta bước lại gần để nhìn tờ giấy bạc cho hơn. Rồi ông ta kêu lên bằng tiếng bảo chúng tôi đừng , và chạy vào trong lấy ra chùm chìa khóa.

      “Tôi cần máy tính,” tôi ngay khi cửa mở.

      “Vào , vấn đề gì. Internet tốc độ cao.”

      Rachel trả tiền taxi, rồi vào cùng tôi.

      Tiệm Strudel tối và bốc mùi như bất cứ tiệm nào thế giới, nhưng nó có máy tính. Tôi ngồi xuống và bắt đầu rà soát địa chỉ e-mail của các trường đại học và cơ sở máy tính hàng đầu ở Mỹ và Châu Âu. Cal Tech, Phòng Thí nghiệm Trí tuệ Nhân tạo ở MIT, CERN (34) ở Thụy Sĩ, Viện Max Planck ở Stuttgart, Viện Chaim Weizmann ở Israel, đội máy tính Mô phỏng Trái đất ở Nhật, và nhiều chỗ khác.

      làm gì thế?” Rachel vừa leo lên chiếc ghế đẩu bên cạnh tôi vừa hỏi.

      “Ra trước công luận.”

      “Em nghĩ trước đây muốn làm thế.”

      “Nhưng bây giờ còn cách nào khác. Chúng làm được rồi. Hoặc sắp làm được.”

      “Làm được gì?”

      “Trinity sắp trở hành thực.”

      “Sao biết?”

      biết, vậy thôi.”

      “Và sắp cho cả thế giới biết?”

      “Phải.”

      “Nhiều ?”

      “Đủ để phát động cơn bão truyền thông khiến tổng thống thể làm ngơ.”

      Tôi mở Microsoft Work và bắt đầu gõ thông điệp của mình. Dòng đầu tiên là dễ nhất, đó là câu trích dẫn của Niels Bohr vĩ đại về cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân. “Chúng ta ở trong tình thế hoàn toàn mới, tình thế thể nào giải quyết bằng chiến tranh.”

      “David,” Rachel dịu dàng . “Trong cơn hôn mê vừa rồi, điều gì xảy đến với thế?”

      phải như những điều thấy trước đây. Điều này khó giải thích lắm, nhưng cố ngay khi nào có chút thời gian. Bây giờ phải hoàn thành công việc này .”

      Nàng đứng dậy bước đến cửa để quan sát xem có cảnh sát .

      Tôi gò người xuống bàn phím và gõ ngừng nghỉ, như thể câu chữ chảy thành dòng qua tôi nhờ sức mạnh nào đó bên ngoài. Sau hai mươi phút tôi nhờ người đàn ông sau quầy gọi hộ chiếc taxi với tài xế là người Palestine. Rồi tôi gõ câu kết: Tưởng nhớ Andrew Fielding.

      gửi xong thư chưa?” Rachel hỏi.

      “Rồi. Sau khoảng bốn giờ nữa các mạng truyền thông hỗn loạn.”

      “Có mong muốn thế ?”

      chứ. Cái ác thể nảy nở dưới ánh sáng.”

      Nàng lùi lại và nhìn tôi lạ lùng. “Cái ác à?”

      “Phải.”

      chiếc taxi đỗ bên lề đường, người tài xế rậm râu nhìn về phía cửa.

      nào.”

      Chúng tôi ra taxi. “ có phải người Palestine ?” tôi hỏi tài xế.

      “Tại sao ông lại quan tâm điều đó?” ta hỏi lại.

      có biết trụ sở Mossad ở đâu ?”

      Người tài xế nheo mắt như quan sát cảnh lạ mắt. “Biết chứ. Người Palestine nào chả biết chỗ ấy.”

      “Chính vì thế tôi mới cần . Tôi muốn đến đó.”

      Rachel nhìn tôi với vẻ kinh hoàng. Tôi gần như đọc được ý nghĩ của nàng. Liệu tôi còn có thể muốn gì ở Mossad, cục tình báo tàn bạo ở Israel này?

      “Ông có tiền ?” tài xế hỏi.

      trăm đô la Mỹ được chưa?”

      “Trăm nghe bằng thấy.”

      Rachel rút tiền ra.

      Tài xế gật đầu. “Vào .”

      Tôi thậm chí chưa đóng xong cửa sau, ta rú ga và phóng ầm ầm khỏi lề đường.


      White Sands

      Geli biết ả nhìn ông già dần vào cõi chết. Ả cần thuốc lá kinh khủng. Mặc dù mùi thuốc sát trùng nồng nặc trong khí, gian phòng vẫn tỏa mùi xác chết. Ả xác định được cụ thể, nhưng ả biết cái mùi này quá . Ả ngửi thấy nó trong các bệnh viện dã chiến và những nơi tối tăm khác. Có lẽ quá trình tiến hóa khiến khứu giác con người ta nhạy bén tới mức đánh hơi được cái chết đến gần. Trong thế giới bệnh tật lây lan nhanh chóng, chắc chắn đó là lợi thế sinh tồn. Geli từng ngửi thấy chính mặt ả cháy khét, vì vậy ả có ảo tưởng gì về cái chết. Nhưng ả ngờ phải chứng kiến cuộc vật lộn cuối cùng của Godin như thế này.

      có lúc lão thể nuốt được, mặc dầu còn khá . Lão buồn bã với ả về bà vợ quá cố của mình, như kiểu cha với con . Geli lúng túng biết xử lý kiểu thân mật này thế nào. Từ sau sinh nhật lần thứ ba của ả, cha ả đối xử với ả như người lính. Trong suy nghĩ của Horst Bauer chuyện tâm tình tức là ngồi xuống bên nhau và bàn về thời gian biểu hằng ngày. Ả chịu đựng việc đó cho đến tuổi dậy . Rồi cuộc chiến tranh công khai bùng nổ trong nhà Bauer. Khi Geli bắt đầu bộc lộ xu hướng phiêu lưu tình dục giống cha ông tướng mất hết tự chủ. Geli biết rằng ở mức độ nguyên sơ nào đó, ông ta ham muốn ả, và điều đó khiến ả có quyền lực với ông ta. Ả diễu qua trước mắt ông trong trang phục hở hang, trơ tráo ve vãn sĩ quan của ông ta - những người đàn ông gấp đôi tuổi ả - và quyến rũ các bác sĩ tâm thần của ả. Những trận đòn sau đó chỉ khiến ả càng quyết tâm chiến đấu.

      Khi ả mười sáu tuổi, ả phát cha ả có nhân tình - vài người, tất nhiên - và cuối cùng khám phá ra bí mật của mẹ ả. Mười tám năm trời sống trong cảnh bị phụ bạc và đánh đập tàn nhẫn biến người đàn bà đằm thắm thành cái bóng thảm hại của chính mình, tâm hồn lạc lối chỉ sống trong chờ đợi cho tới lần uống rượu sau. Khi Geli đối đầu với cha mình về chuyện ấy, ông ta nhìn thẳng vào mắt ả và bảo ả phát ra điểm yếu của kẻ mạnh. Những người đàn ông tài giỏi cần nhiều hơn người đàn bà để kìm bớt đam mê của mình, và ả muốn sống muốn tốt hãy chấp nhận đó. Như mọi lần khác, lý lẽ ấy cuối cùng kết thúc bằng trận đòn.

      Tuy nhiên khi Geli vào đại học, ả thấy rằng những lời ấy của cha ả cũng đúng với cả phụ nữ mạnh mẽ nữa. người đàn ông nào có thể thỏa mãn tính dâm dục của ả lâu dài. Ngày ả tốt nghiệp với hai chuyên ngành - tiếng Ả Rập và Kinh tế - ả đến địa điểm tuyển quân và đăng lính với cấp bậc binh nhì.

      gì có thể làm cha ả giận dữ hơn thế. Chỉ với hành động ấy, Geli vứt bỏ toàn bộ quyền lực và ảnh hưởng của ông ta với ả, khiến ông ta bẽ mặt trước các đồng đội ở West Point, và nối nghiệp ông. Ông tướng bắt đầu uống rượu như điên và rơi vào thời kỳ bất ổn, tình trạng đó nhanh chóng bị đẩy lên đỉnh điểm khi vợ ông ta tự sát. Geli bao giờ biết được cuối cùng cái gì quật ngã tinh thần mẹ ả. Thêm nhân tình nữa? Hay quá nhiều quả đấm trời giáng? Nhưng ả bao giờ tha thứ cho cha mình về chuyện đó.

      Trái lại, Peter Godin sống chung thủy với vợ suốt bốn bảy năm mặc dầu hai người có con cái. Khi ông già lan man về những chuyến du ngoạn của lão tới Nhật, Geli nghĩ đến Skow và mưu đổ hết tội cho Godin về cái chết của Fielding.

      “Thưa ngài?” Geli cắt đứt dòng mơ mộng của ông già.

      Peter ngước nhìn lên, đôi mắt màu xanh như hối lỗi. “Tôi huyên thuyên quá phải ? làm tôi quên cái đau.”

      phải thế. Tôi muốn thưa với ngài chuyện.”

      “Vậy sao?”

      “Xin ngài đừng tin John Skow. Chính gã là người đưa Nara đến đây để giết ngài. Skow tin rằng Trinity sắp thất bại, và gã định đổ hết trách nhiệm cho ngài.”

      Godin cười nhạt. “Tôi biết chuyện này. Và tôi biết cha có tham gia vào vụ này.”

      “Vậy sao ngài hành động gì cả?”

      “Khi máy tính đạt đến trạng thái Trinity tất cả bọn chúng đều bất lực. Cho đến lúc đó, tôi bảo vệ tôi.”

      “Nhưng nếu ngài tin họ, sao ngài lại dùng họ?”

      “Bởi vì chúng là những kẻ dễ lường. Ngay cả khi chúng phản bội. Chúng phản bội là do lòng tham. Đó là thực tế của những con vật người.”

      “Còn tôi sao? Sao ngài lại tin cậy bảo vệ ngài. Vì ngài trả lương cao cho tôi ư?”

      . Tôi quan sát trong hai năm nay. Tôi biết ghét cha , và tôi hiểu tại sao. Tôi biết làm những gì ở Iraq. ngại khó, và chưa bao giờ phản bội bộ quân phục của mình - như cha . Tôi còn biết ngưỡng mộ tôi. Chúng ta, tôi và , là những con người cao thượng. Tôi có con , và về mặt nào đó, có cha. Tôi cũng mạo muội nghĩ nếu tướng Bauer đến đây giết tôi, chặn ông ta lại bằng viên đạn.”

      Geli tự hỏi biết điều đó có đúng . “Nhưng tại sao ngài lại thuê cả hai cha con tôi?”

      “Khi Horst với tôi về , tôi nghĩ ông ta tìm cách hòa giải với . Nhưng hóa ra tôi lầm.”

      Ả vồ lấy khẩu súng. Cánh cửa sập của Bong bóng trượt mở với tiếng xì xì của khí thoát ra. John Skow bước vào trong bộ complet thẳng thớm, tóc tai gọn gàng đến từng cọng. Trông gã chẳng hề giống người lo lắng về tương lai.

      “Chào Geli,” gã .

      Từ bên kia phòng, Godin lướt ánh mắt xanh lên người tên NSA. “Khám .”

      Geli đẩy gã úp mặt vào tường thủy tinh plexi và khám xét cẩn thận. có gì.

      “Ồ vui đấy,” Skow . “Bây giờ đến lượt tôi khám nhé?”

      Ả tự hỏi biết tên này định giở trò gì đây. Gã dám đến đây nếu nắm đằng chuôi.

      “Chào Peter,” gã . “Chúng tôi nắm được số tình hình mới. Tennant ra công luận.”

      Cơ mặt Godin co thắt lại trong thoáng khó nhận thấy, nhưng khi cơn đau giảm, gò má chảy nhão của lão lấy lại được thần sắc cũ. Lão nhìn chằm chằm Skow bằng ánh mắt tóe lửa.

      “Tennant làm những gì?”

      trốn khỏi bệnh viện Hadassah, đến máy tính công cộng và gửi bức thư đến những trung tâm điện toán hàng đầu thế giới. kể hết về Trinity. Cái chết của Fielding, cuộc mưu sát ông ta, tất tật.”

      Godin nhắm mắt. “Công nghệ đó?”

      tiết lộ đủ để người ta tin . Đủ để đẩy những nước như Nhật Bản trong vòng ba năm có được Trinity riêng của họ. với họ về cơ sở này. Tôi biết làm sao tìm ra White Sands. Có lẽ từ Fielding.”

      Godin thở dài sõng sượt. “Ta xử đúng với Tennant. Lẽ ra phải chuyện với ta... đối xử thỏa đáng với ta.”

      Skow tiến đến gần giường. Geli đặt tay lên khẩu súng. Ả có thể tương ba viên đạn vào lưng gã trước khi gã đến sát giường Godin.

      “Chúng ta lâm vào tình thế khó khăn, Peter ạ. Tôi đề nghị thế này...”

      “Vứt mẹ cái đề nghị của ,” Godin lầm bầm, chật vật ngồi nhỏm dậy giường. “Ngay từ đầu các người lừa tôi như thằng khờ, nhưng các người sắp được biết mình sai như thế nào.”

      Godin cầm điện thoại đầu giường và nhấn nút.

      “Ông gọi cho ai thế?” Skow hỏi, mặt vẫn câng câng.

      “Rồi thấy. A lô. Tôi là Peter Godin. Tôi cần chuyện với tổng thống. Đây là vấn đề an ninh quốc gia... Sao?... Mã số là bảy ba bốn chín bốn hai. Vâng tôi đợi.”

      Skow tái mặt. “Godin...”

      “Câm mồm.” Godin liếc nhìn Geli, rồi bằng giọng mạnh mẽ. “Thưa ngài tổng thống, tôi là Peter Godin.”

      Geli chưa bao giờ nghe đến thứ quyền uy như thế này. So với nó, quyền hành lừng lẫy của cha ả là cái gì. Peter xưng danh với tổng tư lệnh với giọng như thể, Ngài tổng thống, tôi là Albert Einstein.

      Peter nghe hồi, rồi bắt đầu giải thích chi tiết vì sao lão cho xây căn cứ ở White Sands. Lão , cách đây năm lão thấy lo ngại về tình hình an ninh ở Bắc Carolina. Có kẻ nào đó trong nội bộ Trinity phá hoại mã máy tính và có khả năng bán bí mật cho cường quốc nào đó. muốn mời cơ quan “thiếu tin cậy” như FBI hay CIA vì làm chậm dự án và ảnh hưởng đến an ninh Trinity, Godin dùng tiền riêng và quan hệ của mình để lập nên cơ sở nghiên cứu an toàn. Ban đầu lão tin tưởng giao cho Skow điều tra hiểm họa kia, nhưng bây giờ lão tin rằng chính Skow là trong những kẻ gây rối ngay từ đầu.

      Tổng thống hỏi thêm vài câu, và Godin trả lời với vẻ tự tin tuyệt đối. Theo lão biết, Andrew Fielding chết vì nguyên nhân tự nhiên, nhưng thể loại trừ việc có kẻ chơi xấu. David Tennant trở nên mất thăng bằng sau cái chết của Fielding và bị rối loạn tâm thần có thể do máy MRI gây nên. Tennant được hỗ trợ hết sức để hồi phục sức khỏe. Trước khi có những câu hỏi mới, Godin tranh thủ thông báo với tổng thống rằng Trinity chỉ còn đầy mười hai giờ nữa là hoàn tất, và tất cả mọi dữ liệu đều cho thấy máy tính chỉ đáp ứng mà còn vượt quá mong đợi đối với loại ứng dụng trí tuệ và vũ khí này. Thông báo đó làm thay đổi hoàn toàn tính chất cuộc đàm thoại.

      Fielding, Tennant và tồn tại của White Sands bị lu mờ khi Godin hứa hẹn sức mạnh -mơ-thấy-nổi với người đủ thông minh và can đảm tài trợ cho dự án có tầm quan trọng chiến lược như thế này. Godin tỏ ra vô cùng thoải mái cho đến cuối cuộc chuyện, khi lão kết luận đanh gọn. “Vâng, thưa ngài, tất nhiên. Tôi hiểu. Tôi làm việc đó ngay bây giờ.”

      Lão đưa điện thoại cho Geli, mắt vẫn dán vào Skow. “ ngạc nhiên vì tôi có thể làm được điều đó à? Ngay từ thời LBJ (35) tôi có thể giao thiệp thân mật với các tổng thống rồi.”

      “Matthews gì lúc cuối vậy?” Skow thào.

      “Ông ấy cầu để giảm bớt lo ngại công luận Mỹ, tạm thời tôi hãy cho dừng mọi hoạt động.”

      “Ông ấy lo ngại giới truyền thông.”

      “Evan McCaskell đường đến đây. Họ thành lập nhóm giám sát khẩn cấp. Ủy ban Thượng viện Đặc trách Tình báo.”

      “Ông định làm gì bây giờ?” Skow hỏi.

      Godin phẩy tay như đuổi con ruồi, rồi nhìn tay NSA với vẻ căm ghét che giấu. “Geli, nếu tên ký sinh trùng này làm gì mà được phép của tôi giết .”

      Mặt Skow còn giọt máu.

      “Đây là việc sắp phải làm,” Godin . “Ra ngay đường băng. Tướng Bauer có thể đến bất cứ lúc nào.”

      cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng Geli.

      “Chắc chắn đoán ra việc này,” Godin . “Horst chắc hoảng sợ lúc Tennant ra trước công luận. Có lẽ ông ta gọi Nhà Trắng năm phút sau đó và với họ rằng tôi lừa ông ta để lập nên căn cứ này. Động thái tiếp theo của ông ta là đến đây bảo vệ máy điện toán. Tổng thống thậm chí có thể ra lệnh cho ông ta làm thế.”

      “Ông muốn tôi gì với ông ta?” Skow hỏi.

      rằng mọi mưu can thiệp vào nguyên mẫu Trinity dẫn đến giáng trả ở quy mô tưởng tượng nổi.”

      Skow nheo mắt. “Ông về chuyện gì thế, Peter?”

      “Chỉ là nhắc cho viên tướng nhớ mấy việc mà ông ta phải nhớ kỹ lúc này.”

      “Đó là việc gì?”

      “Tôi bao giờ lừa gạt.”

      Skow liếc nhìn Geli, rồi đến khẩu súng của ả.

      ra,” Godin rít lên.

      Skow quay lưng rời khỏi Bong bóng.

      “Sao ngài lại để cho gã ?” Geli hỏi. “Ít nhất cũng để tôi khóa gã lại trong phòng.”

      “Bây giờ gã thể làm gì được nữa.”

      mình có lẽ. Nhưng gã có thể kết hợp với cha tôi?”

      Godin lắc đầu như thể thời gian cho những lo lắng tầm thường qua. “Gọi Levin ở nhà Cách ly cho tôi.”

      Geli bấm số rồi đưa ống nghe lên mặt ông già.

      “Levin đấy à?” Godin . “Nghe tôi đây. In nomini patri, et filii et spiritussancti (36).”

      Geli nghe phần cuối của câu .

      “Ông chắc , Peter?” Levin hỏi. “Nguyên mẫu Fielding mới chỉ đạt được còn lại tám mươi mốt phần trăm.”

      “Nguyên mẫu của tôi phải giải nốt thuật toán cuối cùng,” Godin .

      hồi im lặng. “Đây là kết thúc à?”

      Đôi môi xám ngoét của Godin hầu như mấp máy. “Chưa. Nhưng có lẽ chúng ta nên chuyện theo cách này nữa. Cậu hãy chuẩn bị đón khách.”

      “Chúng tôi chuẩn bị rồi. Tôi nghe mấy người lính chuyện bên ngoài nhà Cách ly. Họ viên tướng đường về nước.”

      Geli thấy lạnh trong người.

      Godin ho vào ống . “Nhớ này... có kết thúc nào đối với tôi lúc này. Kết thúc là bắt đầu.”

      “Đó là đặc quyền, thưa ngài. Và tôi có mặt ở đó phục vụ ngài khi đạt đến trạng thái Trinity.”

      Godin nhắm mắt. “Tạm biệt, bạn của tôi.”

      Geli gác máy. Cha ả đến đâu rồi? Căn cứ Huachuca chỉ cách đây ngót năm trăm cây.

      Godin nắm cổ tay ả làm ả giật mình. “ có hiểu chuyện gì sắp xảy ra Geli?”

      “Có thưa ngài. Levin sắp kết xuất nguyên mẫu thần kinh của Fielding khỏi máy điện toán và đưa mẫu của ngài vào. Khoảng tiếng nữa, nguyên mẫu của ngài đạt đến trạng thái Trinity. Ngài trở thành máy tính Trinity. Hay ngược lại máy tính biến thành ngài.”

      Godin gật đầu yếu ớt. Những kiện trong mấy phút vừa qua rút kiệt sức lực của lão. Tiếng thở của lão trở nên nặng nhọc.

      “Điều đó có thể giúp gì cho ngài?” ả hỏi. “Ngay cả nếu Trinity hoạt động, tất cả những gì họ phải làm là dừng nó lại, đúng ? Hoặc cắt nguồn điện của nó?”

      “Ngay bây giờ có lẽ Skow mưu tính phải làm thế nào. Nhưng gã thất bại rồi.”

      “Cha tôi đem lính tráng và các thiết bị đến đây cùng với ông ấy.”

      Godin nhắm mắt. “Hãy để tôi lo chuyện đó. Nếu may mắn, có thể cần phải bắn ai cả. Ít nhất là những người lính Mỹ.”

      Geli muốn gào lên. Ông già biết lực lượng như thế nào nhanh chóng được dàn trận chống lại mình. Nhà Cách ly trông có vẻ vững chắc đấy, nhưng Horst từng hạ ngọt những mục tiêu còn rắn hơn nhiều trong nghiệp của ông ta.

      “Tôi phải sống để nhìn thấy điều này,” Godin thầm. “Sẵn sàng nổ súng.”

      Geli ngồi phệt xuống nền nhà tựa lưng vào tường và hướng nòng khẩu Walther của ả ra cửa.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :