Dấu chân của Chúa - Greg Iles(Kinh dị)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 10


      Giấc ngủ mộng mị vụt tan trong tiếng mạch đập thình thịch và ký ức về Fielding nằm chết trong phòng làm việc của ông. Ánh nắng lọt qua khe rèm cửa sổ. Tôi sống sót qua đêm nhưng vẫn luồn tay xuống gối tìm khẩu 38 ly. Chỉ sau đó tôi mới đưa tay đập lên đầu đồng hồ báo thức, dập tiếng chuông.

      Suốt đêm điện thoại réo chuông, vậy là tổng thống tìm tôi. Tôi kiểm tra hộp thư thoại phòng trường hợp ngủ quên nghe thấy, nhưng chẳng có tin nhắn nào cả. Cố nghĩ gì lôi thôi nữa, tôi bấm số gọi Lu Li Fielding. Tiếng máy trả lời. Giọng Fielding vẫn vang lên trong hộp thoại, đầy hài hước. Hy vọng lúc này Lu Li cách xa Chapel Hill hàng trăm cây số, tôi bỏ máy, cầm súng vào trong buồng tắm, khóa cửa lại sau lưng.

      Tôi cạo râu nhanh. chiếc xe do thám đậu gần nhà tôi đêm qua lúc tôi từ nhà Fielding về. Nó vội lủi khi tôi đến gần. Sau khi bỏ mấy món đồ nhạy cảm trong cốp xe ra, tôi gọi cho Rachel để biết chắc về nhà. Tôi nằm yên ngủ trong khoảng hai tiếng, lắng nghe xem có tiếng động nào khả nghi, đầu óc nghĩ đến chiếc đồng hồ bỏ túi của Fielding. Vỏ bằng vàng xỉn, mòn vì cọ xát nhiều, mặt số bằng chữ số La Mã ngả vàng. phải đồng hồ, Lu Li bảo thế. Dây chuyền. Có lần tôi hỏi Fielding về viên pha lê dây đồng hồ. Ông kể rằng vị đạo sư Tây Tạng tặng nó cho ông ở gần Lhasa, nó giúp cho trí nhớ bị phai mờ. Ông cười ha hả khi kể chuyện đó, nhưng khi ấy tôi hiểu ý vị của câu chuyện vui. Bây giờ tôi mới hiểu.

      công nghệ vi tính mới do Trinity hoàn thiện là bộ nhớ lưu trữ hình ảnh gian ba chiều. Thay vì lưu dữ liệu vào mấy con chíp tí xíu, các kỹ sư của Trinity lưu chúng dưới dạng hình ảnh ba chiều trong phân tử của những tinh thể ổn định. Dùng laser để đọc chép dữ liệu, họ lưu được những lượng thông tin cực lớn trong các nguyên tử bố trí đối xứng của pha lê. Những viên pha lê tôi thấy ở phòng thí nghiệm hình ảnh ba chiều của Trinity có kích thước quả bóng bầu dục, nhưng có lý gì những viên pha lê hơn thể sử dụng được. Như cái viên pha lê dây đeo đồng hồ của Fielding.

      Bằng cách nào đó, ông bạn người này tải được các dữ liệu của Trinity vào viên pha lê dây đồng hồ. Và bởi vì có kỹ sư hoặc nhà khoa học nào ngoài những thành viên cơ mật của Trinity biết về khả năng này, nên Fielding mang nó ra vào phòng thí nghiệm mà chẳng mảy may bị nghi ngờ.

      Nhưng tại sao ông lại ăn cắp thông tin? Để bán cho kẻ trả giá cao nhất ư? Fielding là người truyền thống. Cho dù ông có bị túng quẫn về tiền bạc nữa, tôi cũng bao giờ nghi ngờ ông có dính líu đến hoạt động gián điệp. Hay là ông ôm ấp tư tưởng bí mật nào đó? Hay từ bỏ tư tưởng? Hay ông là nhà khoa học với tư tưởng chính trị non nớt tin rằng mọi dân tộc nên được chia sẻ quyền tiếp cận những phát minh khoa học mới nhất? Có thể lắm. Nhưng tôi nghĩ ông muốn nước hiếu chiến nào đó lại có vũ khí mạnh như máy tính Trinity. Nghe Fielding , có thể thấy ông muốn bất kỳ nước nào có nó.

      Phải vậy ? Ông chẳng làm hết sức mình để ngăn cho Trinity trở thành thực đó sao? Kịch bản này có vẻ hợp lý nhất, nhưng tôi đủ thông tin để đoán chắc. Và nếu có chiếc đồng hồ ấy tôi thể chứng minh được điều gì.

      Tôi tắm dưới vòi hoa sen nóng rẫy, rồi mặc chiếc quần cotton cứng và áo khoác thể thao, rảo bước ra xe, cố nghĩ nhiều về những việc sắp làm. Mục đích đầu tiên của việc trở lại Trinity là để tìm chiếc đồng hồ của Fielding, nhưng là tôi thể làm gì khác hơn. Ở lì trong nhà chỉ tổ kéo bọn theo dõi của NSA đến gần hơn, còn bỏ trốn - như tôi hy vọng Lu Li làm - khiến cho cả cơ quan chống lại tôi, nhưng nếu cứ duy trì được cái ảo tưởng là mọi chuyện vẫn bình thường - cho đến lúc tổng thống trở về - là tôi có thể trả thù cho cái chết của Fielding.

      Trong những ngày giao thông thuận lợi, từ nhà tôi ở khu ngoại ô Chapel Hill đến tổ hợp Trinity mất độ hai mươi phút. Công viên Tam giác Nghiên cứu, nơi náu gọn ghẽ của tập đoàn nghiên cứu khoa học, ở địa phương được gọi là RTP, nằm giữa Raleigh và Durham, tên được đặt theo tam giác hình thành bởi trường y của Đại học Duke, UNC ở Chapell Hill và bang Bắc Carolina. Những con đường lặng lẽ xuyên qua những bãi cỏ rộng mênh mông gợi nghĩ đến câu lạc bộ thể thao ngoài trời thượng lưu nào đó, nhưng thay vì những sân golf, khu vực các phòng thí nghiệm RTP rộng gần ba nghìn ha này thuộc quyền sở hữu của các hãng DuPont, 3M, Merck, Biogen, Lockheed và hàng chục công ty danh tiếng khác. Hằng ngày có đến bốn mươi lăm nghìn người làm việc phía trong hàng rào, nhưng chưa đến ba trăm người biết những gì xảy ra sau các bức tường của tòa nhà Trinity. Tôi lái chầm chậm, ao ước cách trẻ con rằng giá cứ bao giờ đến.

      Cách phòng thí nghiệm Trinity hai trăm mét có tấm biển khiêm nhường ghi hàng chữ ARGUS OPTICAL. tòa nhà năm tầng bằng thép và kính đen trong khu vực cấm, nằm trong khu rừng hai tư héc ta, có tầng hầm rộng và sân bay trực thăng. Kết cấu thép và kính chẳng qua chỉ là cái vỏ để trưng bề ngoài. Phía sau đó, lớp vỏ bằng đồng công nghệ cao có tên mã hóa là Tempest bao bọc tòa nhà bên trong, ngăn ngừa bức xạ điện từ ra hoặc vào Trinity. Chất liệu đó cũng được dùng để bảo vệ các tòa nhà điều hành của NSA ở căn cứ quân Meade.

      Vì tòa nhà nằm mảnh đất trũng hình lòng chảo nên hai tầng đầu bị khuất tầm mắt. Cửa vào chính nằm tầng ba. Để vào được đó, nhân viên phải qua lối hẹp có mái che dài bốn mươi mét. Bên trong chiếc cổng vòm kiên cố ở cuối lối ấy, họ đụng phải hành lang hẹp có sĩ quan an ninh canh gác, và phải dàn hàng trước các máy dò kim loại, máy dò bom mìn, máy dò huỳnh quang tinh nhạy. Muốn vào, phải có thẻ căn cước dán ảnh, phải quét dấu vân tay, các túi bọc mang theo phải được kiểm soát.

      lính gác bấm mở cửa, qua lối có mái vòm, tôi thẳng tới bàn kiểm tra an ninh, nét mặt để lộ chút lo lắng nào.

      “Chào bác sĩ, ” người lính gác tuổi trung niên tên là Henry chào tôi.

      Đôi khi tôi nghĩ Henry được thuê qua trung tâm tuyển lựa. Tất cả nhân viên an ninh khác đều là những cậu cao gầy, tuổi chưa đến ba mươi, mặt mũi nhẵn nhụi, mắt cú vọ và có chút mỡ thừa. Chỉ Henry, người gác cổng, là chào hỏi mọi người.

      “Chào bác Henry,” tôi đáp.

      “Có cuộc họp phòng hội nghị lúc chín giờ.”

      “Cám ơn.”

      còn bốn phút nữa.”

      Tôi liếc đồng hồ, gật đầu.

      “Vẫn chưa kết thúc vụ giáo sư Fielding,” Henry . “Họ ông ấy chết trước khi xe cứu thương đến đây.”

      Tôi thở thận trọng. Cuộc trao đổi này được các camera bí mật ghi lại. “Đôi khi chuyện đó xảy ra với trường hợp đột quỵ.”

      phải là cách ra tồi. chóng vánh, ý tôi muốn thế.”

      Tôi cố nặn ra nụ cười, rồi áp ngón trỏ phải lên máy quét . Sau tiếng bíp của máy báo hiệu nhận dạng trùng khớp, tôi qua dãy thiết bị phát vũ khí, vào cầu thang lên tầng năm, nơi có các văn phòng hành chính và phòng hội họp.

      dải dây vàng của cảnh sát chăng quanh cửa phòng đóng kín của Fielding. Ai chăng nó ở đây? Chắc chắn là NSA cho phép cảnh sát địa phương hoặc cảnh sát bang vào khu vực này. Liếc ngang dọc hành lang vắng bóng người, tôi vội xoay thử tay nắm cửa. Khóa. Và phải loại khóa thường mua ở cửa hàng ngũ kim. Nếu chiếc đồng hồ bỏ túi của Fielding ở bên trong phòng làm việc của ông tôi thể nào lấy được.

      Tôi bước tiếp qua mấy cánh cửa tới phòng làm việc của mình, đóng cửa lại, rồi ngồi xuống trước máy tính gốc. bộ phận của mạng nội bộ chỉ dành cho các nhà khoa học Trinity, kết nối với thế giới bên ngoài. Để truy cập Internet, tôi phải dùng máy tính thứ hai có cổng và ổ đĩa nào mà qua đó các file có thể từ Trinity truy xuất ra ngoài.

      Màn hình máy gốc của tôi lên e-mail nội bộ: lời nhắc về cuộc họp được bố trí tại phòng hội nghị sau hai phút nữa. Tôi rùng mình ớn lạnh nhận ra mình phần nào mong chờ đọc được e-mail hài hước của Fielding. Ông hay gửi cho tôi mấy mẩu chuyện cười hay trích dẫn mỉa mai từ các nhà khoa học hoặc triết học chết: Các nhà khoa học sáu mươi tuổi làm nhiều chuyện có hại hơn là có lợi! - T.H. Huxley - đại loại thế. Nhưng hôm nay có tin nhắn nào. Và vĩnh viễn bao giờ còn nữa. Tôi nhìn quanh phòng với ánh mắt trống rỗng. Fielding rồi, và tôi hoàn toàn mất phương hướng. Chúng tôi cùng nhau hãm Trinity lại trong sáu tuần lễ căng thẳng, làm cho các đồng nghiệp tức giận khi chúng tôi cố gắng vô vọng tìm nguyên nhân gây ra tác dụng ngoại ý của MRI lên sáu nhân vật chủ chốt của Trinity. Cho đến hôm nay vấn đề đó vẫn còn nguyên chưa được giải quyết.

      phải là tôi tự nguyện cho máy siêu MRI quét qua vì biết gì. Lý thuyết rất đơn giản: vì loài Homo sapiens vốn tiến hóa trong từ trường trái đất năng lượng từ trường của máy MRI chẳng thể gây nguy hiểm cho sức khỏe của nó. Điều này được chứng minh qua vô số lần sử dụng máy MRI thông thường, tạo ra từ trường mạnh gấp ba mươi ngàn lần từ trường trái đất. Nhưng máy Siêu MRI do Trinity phát minh - sử dụng vật liệu siêu dẫn và những nam châm khổng lồ - tạo ra từ trường lớn hơn từ trường trái đất tám trăm ngàn lần. Những tác dụng phụ khó chịu như làm nóng mô được giải quyết tốt trong các thí nghiệm ở động vật, nhưng trong nhiều ngày sau khi tiến hành “siêu chụp”, tất cả chúng tôi trải qua những triệu chứng rối loạn thần kinh.

      Jutta Klein, người thiết kế máy Siêu MRI, bị mất trí nhớ ngắn hạn. Ravi Nara chịu sức ép kinh khủng của các xung động tình dục (y bị bắt gặp nhiều lần thủ dâm trong phòng làm việc hay trong toilet). John Skow bị chứng run tay, còn bản thân Godin bị động kinh. Fielding, ngạc nhiên, bị hội chứng Tourette và thường xuyên buột ra những câu chữ thích hợp. Còn tôi bị chứng ngủ rũ.

      Vì Ravi Nara, nhà thần kinh học đoạt giải Nobel của chúng tôi, thể tìm thấy cách giải thích nào về mặt y học cho những triệu chứng hỗn loạn đột ngột này, nên toàn bộ các cuộc chụp Siêu MRI được tạm ngưng. Công việc máy tính Trinity vẫn tiếp tục, nhưng máy Siêu MRI được đưa ra khỏi dây chuyền, các kỹ sư của Godin chỉ có sáu bản chụp nguyên gốc để khảo sát và ai biết như vậy có đủ làm nên bước nhảy vọt trong máy tính mẫu hay . Nara thất bại rồi, Fielding bắt đầu điều tra những tác dụng ngoại ý này trong thời gian rảnh rỗi. Sáu tháng sau, ông đề xuất rằng những tác dụng ấy là do các quá trình lượng tử trong não chúng tôi bị phá vỡ gây nên - và bổ trợ cho lý thuyết của mình bằng hai mươi trang giấy dày đặc các phép toán phức tạp. Nara cãi rằng có gì trong lịch sử thần kinh học chứng tỏ rằng não người diễn ra các quá trình lượng tử. Chỉ có vài nhà vật lý - trong đó có Roger Penrose - ủng hộ lý thuyết “tân kỳ” của nhận thức này, tuy vậy Fielding vẫn lao như điên vào công việc để chứng minh lý thuyết của mình là đúng.

      Peter Godin lúc đầu ủng hộ Fielding, nhưng chẳng bao lâu sau lão lại cho tiếp tục thí nghiệm MRI loài linh trưởng. Tinh tinh và vượn có biểu bị tác dụng phụ. Fielding lập luận rằng các giống vượn có ý thức như con người, vậy nên trong não chúng có các quá trình lượng tử để bị phá vỡ. Godin phớt lờ. Lúc đó tôi báo cáo những hoài nghi của Fielding cho tổng thống, và ông chính thức ra lệnh đình hoãn dự án, cho đến khi có cuộc nghiên cứu thấu đáo về các tác dụng ngoại ý.

      Đó là chuyện cách đây sáu tuần. Từ đó đến nay, Fielding và tôi làm việc hầu như suốt ngày đêm để chứng minh lý thuyết về phá vỡ các quá trình lượng tử của ông. Tôi cảm thấy mình như người phụ việc cho Einstein, gọt bút chì và ghi chép các nhận xét trong khi thiên tài làm việc bên cạnh. Tuy nhiên, dù cực kỳ thông minh, Fielding vẫn chưa chứng minh được lý thuyết của ông. Còn quá nhiều điều chưa biết về bộ não. Bây giờ ông chết khi chưa chứng minh được mối liên hệ giữa MRI và những tác dụng ngoại ý, tôi thể hy vọng chặn lại cơn triều của ý chí tập thể đòi tiếp tục dự án. có bằng chứng về tác hại, Trinity lại tiếp tục.

      Trận chiến bắt đầu ngay trong vài phút, sau mấy lời trống rỗng tỏ lòng tiếc thương Fielding “ra đột ngột”. Tôi bước đến trước cửa phòng họp, mồ hôi rịn ra mặt.

      Phòng họp trống rỗng.

      Tôi chưa bao giờ đến đầu tiên ở bất kỳ cuộc họp nào. Những người chủ chốt khác buộc phải đến đúng giờ. Tôi rót cà phê từ bình tủ buffet ra, ngồi vào góc bàn phía xa và cố giữ bình tĩnh.

      Mọi người đâu tiệt cả thế này? quan sát tôi từ phòng an ninh chăng? Họ giấu camera ở đâu? Đằng sau bức tranh? Phía bên phải tôi treo bức ảnh đen trắng hiếm có, chụp các nhà vật lý chủ đạo của Dự án Manhattan: Oppenheimer, Szilard, Fermi, Wigner, Edward Teller. Họ đứng thành nhóm thân ái trước dãy núi Oscura ở New Mehico, những người khổng lồ của khoa học ấy, sau này mỗi người theo số phận tiền định là nổi danh hay ô nhục, tùy theo quan điểm của họ. vài người, như Teller hiếu chiến, vươn lên trong vinh quang rực rỡ, những người khác được may mắn như vậy. Oppy bị bọn người ti tiện tước mất giấy phép an ninh mà ông cần để làm việc, và sống như cái bóng của cuộc đời ông từng sống. Nhưng năm 1944 họ cùng nhau đứng đó, trong những bộ âu phục sẫm màu giữa cát trắng sa mạc. Họ chăm chăm nhìn qua bàn hội nghị của Trinity như những vị thánh bảo hộ, ánh mắt biểu lộ kết hợp bí hiểm của hài hước, khiêm nhường và trí tuệ khó sánh. Trinity chỉ có duy nhất nhà bác học có được những phẩm chất ấy, nhưng ông chết hôm qua sàn phòng làm việc của mình.

      Nhiều giọng từ hành lang vọng vào phòng hội nghị. Tôi ngồi thẳng người ghế khi các đồng nghiệp bắt đầu thủng thẳng bước vào, cố làm ra vẻ tự nhiên. Tôi cảm thấy họ vừa mới rời khỏi cuộc họp riêng mà chủ đề duy nhất là “xử lý” tôi.

      Người đầu tiên là Jutta Klein, người phụ nữ duy nhất trong tập thể khoa học này. Vốn là trưởng nhóm nghiên cứu của tập đoàn Siemens ở Đức, bà Klein tóc hoa râm - cũng đoạt giải Nobel vật lý - được Trinity mượn trong suốt thời gian dự án. Với trợ giúp của Fielding và nhóm kỹ sư đến từ General Electric, bà thiết kế, chế tạo ra máy Siêu MRI thế hệ bốn. giờ bà giám sát hoạt động của con vật khổng lồ đồng bóng này.

      “Guten Morgen(19), ” bà chào tôi cách khô khan rồi ngồi vào bên phải tôi, khuôn mặt nghiêm nghị thể cảm xúc gì.

      “Morgen,” tôi đáp lời.

      Ravi Nara vào phòng ngay sau Klein. Y ngồi cách tôi ba ghế, nhấn mạnh khoảng cách trong quan hệ giữa chúng tôi gần đây. Nhà tâm thần học trẻ tuổi người Ấn này cầm chiếc bánh rán vòng phủ sô la trong bàn tay nâu sạm, nhưng bàn tay phải của y thò ra từ khuôn bó bột. Tôi cố nín cười. Cách đây bốn hôm, y mang ca cà phê pha kim loại vào phòng máy Siêu MRI và đặt lên quầy. Khi Klein mở máy để thí nghiệm con tinh tinh, chiếc ca bỗng bay vọt qua phòng, văng vào tay Nara khiến tay y đập vào máy làm giập khớp xương trụ. Klein bảo rằng y nên tự coi là gặp may. Có lần trong khi Siêu MRI làm việc, kỹ thuật viên mượn của Siemens chết do máy xúc kim loại EKG hất vào máy và nghiến vỡ sọ .

      “Chào David.”

      Tôi ngẩng lên thấy John Skow tươm tất trong bộ cánh hiệu Brooks Brothers ngồi vào chiếc ghế đầu bàn. Là Phó Giám đốc NSA, có thể Skow là người có thẩm quyền cao nhất về chiến tranh thông tin, và là giám đốc danh nghĩa của Dự án Trinity. Nhưng chính Peter Godin mới là người quyết định đường nước bước của Trinity. Quan hệ giữa Godin và Skow chẳng khác gì quan hệ giữa Tướng Leslie Groves và Robert Oppenheimer ở Los Alamos. Groves là nhà chỉ huy lạnh lùng, nhưng nếu hợp tác của Oppenheimer ông ta thể nào có được bom nguyên tử. Như vậy, quyền năng tối thượng nằm trong tay nhà khoa học dân , chứ phải giới quân .

      “Chào Skow,” tôi , thậm chí cả mỉm cười.

      “Ngày hôm quả đòn khủng khiếp với tất cả chúng ta,” gã ngân nga cái giọng Boston quý tộc của mình, đôi môi mỏng chỉ hơi mấp máy. “Đặc biệt là với , David ạ.”

      Tôi cố tìm vẻ đau thương chân thành trong giọng của gã. Nhân vật NSA này là tay quan liêu sành sỏi, nên chân thành của gã khó mà đo đếm được.

      “Peter đến đây ngay trong vài phút nữa,” gã . “Tôi nghĩ từ nay trở ông ấy là người đến trễ nhất.”

      Tôi cười thầm. Hồi trước, Fielding luôn là người đến cuối cùng những khi ông chán họp hành. Những hôm ông vắng mặt lý do, tôi là người được phái tìm ông. Tôi thường thấy ông vùi đầu vào đống phương trình trong phòng làm việc của mình.

      tiếng chửi thề khẽ lọt qua cánh cửa mở, báo hiệu Godin đến. Nhà bác học dẫn dắt Trinity bị chứng thấp khớp hành hạ, đôi khi chỉ bộ thôi cực hình đối với lão. Ở tuổi bảy mươi mốt, Godin là nhà bác học hàng đầu của dự án này. Khi lão ra đời, máy điện toán dùng đèn chân còn chưa xuất , thế mà qua bốn chục năm, “ông già” của dự án Trinity đẩy máy điện toán kỹ thuật số xa hơn và nhanh hơn bất kỳ nhà bác học mê mụ đèn tia cực nào từng trượt ván ra khỏi thung lũng Silicon.

      Giống như Seymour Cray - cha đẻ của siêu máy tính - Godin từng là trong kỹ sư đầu tiên thuộc Hệ thống Kiểm soát Dữ liệu vào đầu những năm 1950. Năm 1957, lão cùng với Seymour rời bỏ công ty này để giúp thành lập Viện Nghiên cứu Cray. Godin là thành viên nhóm nghiên cứu tạo ra 6660 và Cray 1 nổi tiếng, nhưng khi Cray 1 còn kiểm soát nổi bành trướng quá nhanh của Cray 2, Godin quyết định đến lúc bước ra khỏi cái bóng ông thầy của mình. Lão đến gặp hết chủ nhà băng này đến chủ nhà băng khác, vay được sáu tỷ đô la, và sáu mươi ngày sau bắt đầu khai trương Siêu máy tính Godin ở Mountain View, California. Trong khi Cray vật lộn để thực cuộc cách mạng Cray 2, Godin cùng với nhóm của mình sáng chế ra chiếc máy bốn bộ vi xử lý thanh nhã và tin cậy, bằng cách nâng tốc độ lên gấp sáu lần, nó làm cho Cray 1 mất ưu thế hàng đầu. Tuy chưa phải là tiến bộ có tính cách mạng, nhưng phòng thí nghiệm vũ khí của chính phủ đề nghị mua nó. Với tám tỷ đô la mỗi chiếc máy bán ra, Godin nhanh chóng trả hết nợ và bắt tay vào thiết kế chiếc siêu máy tính mơ ước của mình.

      Chạy đua với các cơ quan chính phủ và với bản thân Seymour Cray, Godin có chỗ đứng trong thị trường siêu máy tính, và lão bao giờ ngoái lại. Khi kết thúc chiến tranh lạnh gần như quét sạch các cơ hội làm ăn của siêu máy tính, Godin chuyển sang công nghệ xử lý đồng thời, và vào giữa những năm chín mươi, các máy tính của lão chiếm ưu thế hoặc hất cẳng máy của Cray ở NORAD, NSA, Lầu Năm Góc, Los Alamos, Lawrence Livermore và các căn cứ tên lửa hầu khắp đất nước. Thời cơ đến, Godin vừa là người tiên phong vừa là người nối gót, nhưng lão là người đầu tiên trụ lại được.

      Mọi người ngước nhìn lên khi lão già bước vào phòng họp, còn tôi gần như đứng hẳn lên. Khi tôi mới đến đây hai năm trước, Godin trông còn trẻ hơn cả Fielding, lúc đó mới sáu mốt tuổi. Thế mà hai năm dẫn dắt Trinity làm Godin già kinh khủng. Mặt lão có lúc trông phì ra như bệnh ung thư dùng steroid. Lúc khác, nó lại quắt lại như những hốc xương, tóc gần như rụng hết. Hôm nay trông lão có vẻ như sắp sụp xuống trước khi đến được bên bàn. Lão từng với tôi rằng trong những lúc sáng tạo căng thẳng, cơ thể lão luôn chịu biến đổi về vật lý. Godin thường xuyên làm việc nghỉ năm sáu mươi giờ liền, và mặc dù biết làm thế lấy của lão nhiều năm tuổi thọ, lão cho rằng đó là cái giá công bằng phải trả cho những gì lão đạt được khi còn đứng mặt đất này.

      Đôi mắt màu xanh nhạt của lão lướt qua phòng lượt, dừng lại nơi tôi lâu hơn những người khác. Sau đó lão gật đầu chào tất cả mọi người rồi ngồi vào chiếc ghế trống bên cạnh Skow.

      “Vâng, giờ tất cả chúng ta có mặt cả đây,” Skow với vẻ trang trọng như hành lễ, “Tôi rất thiếu sót nếu cứ bắt đầu cuộc họp mà có đôi lời về tổn thất kinh hoàng mà chúng ta - và dự án này - phải chịu ngày hôm qua. Sau khi cuộc giải phẫu tử thi hoàn tất, chuyên gia nghiên cứu bệnh học khẳng định rằng tiến sĩ Fielding chết do xuất huyết não. Ông...”

      “Chuyên gia nghiên cứu bệnh học ư?” tôi cắt ngang. “Cán bộ pháp y nhà nước à?”

      Skow nhìn tôi vẻ nhẫn nhịn. “David, biết rằng chúng ta ở trong tình trạng an ninh thông thường. Chúng ta thể để chính quyền địa phương dính vào. Nguyên nhân tử vong của tiến sĩ Fielding được chứng thực bởi chuyên gia nghiên cứu bệnh học của NSA ở căn cứ quân Meade.”

      “NSA có chuyên gia nghiên cứu bệnh học?” Tôi hiểu tại sao cơ quan cần bác sĩ tâm thần. Bẻ mã khóa là nghề cực kỳ căng thẳng. Nhưng tại sao cần nhà nghiên cứu bệnh học?

      “Cơ quan nhận được ý kiến bổ sung đầy đủ của các chuyên gia y khoa,” Skow như hướng dẫn viên của nhà nước. “ số được thuê trực tiếp, số là các bác sĩ chuyên khoa được đánh giá kỹ càng.” Gã liếc nhìn Godin, lão này nhắm tịt mắt. “ nghi ngờ về nguyên nhân tử vong của Fielding phải ?”

      Đến lúc quyết đấu đây. Găng tay ném ra bàn rồi.

      “Xét cho cùng,” Skow bằng giọng hạ cố, “ cũng là bác sĩ nội khoa có kinh nghiệm. Phải chăng thấy có gì mâu thuẫn trong ca đột quỵ này?”

      Tôi cảm thấy khí căng thẳng. Mọi người chờ tôi , đặc biệt là Ravi Nara, người chẩn đoán là Fielding chết do đột quỵ.

      ,” cuối cùng tôi . “Ravi bảo ấy thấy tượng liệt, cấm khẩu, dãn đồng tử ngay trước khi chết. Các dấu hiệu ấy phù hợp với đột quỵ. Có điều... thông thường, nó phải kéo dài đôi chút trước khi chết. đột ngột khiến tôi ngạc nhiên.”

      Chẳng khác gì khí thoát ra khỏi quả bóng. Những đôi vai chùng xuống nhõm, bàn tọa xê dịch, những ngón tay bắt đầu gõ nhịp bàn.

      “Ừm, tất nhiên,” Skow vẻ rộng lượng. “Điều đó cũng làm tất cả chúng tôi ngạc nhiên. Và Andrew, ràng là, thể thay thế.”

      Tôi muốn bóp cổ Skow. Chính gã muốn thay thế Fielding từ sáu tháng nay, nhưng ai có đủ khả năng như nhà bác học người này để mà thay thế.

      “Và để chứng minh tôi hoàn toàn nghiêm túc,” Skow , “chúng ta tìm người thay thế ông.”

      Chỉ Jutta Klein có vẻ bị sốc giống tôi. Fielding biết về dự án Trinity hơn bất cứ ai trừ Godin. Ông đưa chúng tôi qua bao phen bế tắc. Những vấn đề làm cho các kỹ sư phần mềm cũng như kỹ sư vật liệu phải bí hàng tuần lễ đối với ông người lập dị này chỉ như những câu đố vui, đôi khi được giải quyết trong mười lăm phút. Về mặt này, Fielding là người hoàn toàn ai thay thế được. Nhưng khía cạnh lượng tử của Dự án Trinity thể bỏ qua. Đối với tôi, vật lý lượng tử cũng na ná như giả kim thuật - thứ giả kim có lợi - và nếu cứ tiến hành mà có ai đủ trình độ giải quyết các vấn đề như tượng liên đới lượng tử và hiệu ứng cơ học lượng tử mong muốn, đúng là điên rồ.

      “Nhưng các định làm gì với những tác dụng ngoại ý của MRI mà chúng ta nghiên cứu?” tôi hỏi. “Như các biết, Fielding tin rằng đó là do tình trạng rối loạn lượng tử trong não.”

      “Vớ vẩn,” Nara phản pháo. “ có bằng chứng về bất kỳ quá trình lượng tử nào trong não người. có, và bao giờ có!”

      “Bác sĩ Nara,” Skow lên tiếng.

      Tôi khinh bỉ nhìn nhà thần kinh học. “Khi ở trong phòng với Fielding, đâu có chắc chắn bằng nửa thế.”

      Nara im bặt, hầm hầm nhìn tôi.

      Skow ban cho tôi nụ cười nhẫn nhịn. “David, cả Peter và tôi đều coi và Ravi hoàn toàn đủ khả năng tiếp tục khám phá ra những vấn đề y học bất thường. Đưa thêm bác sĩ mới nữa vào đây lúc này chỉ khiến tình hình an ninh thêm rủi ro cách cần thiết.”

      Tôi muốn tranh cãi chuyện này. Tôi cần dành sức để làm việc với tổng thống. “Liệu thi hài Fielding và các vật dụng cá nhân của ông có được gửi về cho bà quả phụ ?”

      Skow hắng giọng. “Hình như chúng ta thể tiếp xúc với bà Fielding. Do đó di hài của Andrew được hỏa thiêu theo di chúc của ông.”

      Cùng với tất cả bằng chứng của vụ giết người. Tôi cố giữ nét mặt bình thản. Như vậy là Lu Li trốn thoát rồi. Mặt khác... liệu họ có giọng đó nếu họ bắt được hoặc giết bà ấy?

      Godin khẽ chạm vào cổ tay Skow.

      “Ông muốn bổ sung thêm điều gì phải , Peter?” Skow hỏi.

      Godin đưa tay xoa đỉnh đầu hói gần hết dưới ánh đèn phản quang. Lão ngồi bất động như Phật tọa thiền, chỉ thấy đôi mắt xanh chuyển động. Lão ít , nhưng mỗi khi cất lời là cả thiên hạ lắng nghe.

      “Bây giờ phải lúc những chuyện vụn vặt đó,” lão . “Hôm qua chúng ta mất con người vĩ đại. Andrew Fielding và tôi nhất trí với nhau về rất nhiều vấn đề, nhưng tôi tôn trọng ông hơn bất cứ ai tôi từng cộng tác.”

      Tôi giấu nổi ngạc nhiên. Mọi người rướn mình lên như muốn nuốt từng lời. Đôi mắt xanh thôi miên lia vòng quanh căn phòng. Godin tiếp tục. Giọng lão mềm mỏng nhưng vẫn trầm sâu và mạnh mẽ.

      “Từ buổi bình minh của lịch sử, chiến tranh bao giờ cũng là động lực của khoa học. Nếu có mặt hôm nay, Fielding ắt cãi lại tôi. Ông rằng chính bản năng ham hiểu biết của loài người thúc đẩy khoa học tiến lên. Nhưng đó chỉ là suy nghĩ ao ước mà thôi. Chính xung đột của loài người tạo nên những bước nhảy vọt vĩ đại trong công nghệ. thực tế đáng tiếc, nhưng là thực tế mà ai có đầu óc đều phải nhận thấy. Chúng ta sống trong thế giới kiện, phải thế giới triết học. Các nhà triết học đặt ra những câu hỏi về thực tại của vũ trụ rồi tỏ vẻ ngỡ ngàng khi chúng ta đá họ bằng mũi giày và hỏi xem họ có cảm thấy cái thực tại đó .”

      Nara cười khẩy, nhưng ánh mắt quắc lên của Godin làm y tiu nghỉu ngay.

      “Andy Fielding phải loại người đó.” Godin gật đầu với tấm ảnh đen trắng treo tường. “Giống như Robert Oppenheimer, Andy là huyền thoại. Nhưng về bản chất, Andy là nhà lý thuyết thiên tài có khuynh hướng thực hành lớn.”

      Godin vuốt món tóc bạc ra sau vành tai, nhìn khắp bàn. “Việc vũ khí hóa khoa học là bước đầu tiên tránh khỏi cuốn biết bao tài năng thời bình vào guồng của nó. Nỗ lực chế tạo bom đầy phi thường của Oppenheimer chấm dứt Thế chiến II và mang lại cho thế giới năng lượng hạt nhân an toàn. Chúng ta ngồi đây - năm người còn lại chúng ta - đối mặt với nhiệm vụ hơn chút nào. Chúng ta cố gắng chiếm lĩnh bộ não của Chúa, như Fielding từng . Chúa chỉ là bộ phận của não người, cơ chế sao chép tiến hóa được tạo ra để giúp chúng ta chịu đựng được ý nghĩ về cái chết của chính mình. Khi cuối cùng chúng ta tải được mẫu thần kinh đầu tiên vào máy mẫu và có thể giao tiếp với nó, chúng ta làm việc với bộ phận đó của não, tương tự như các phần còn lại. theo lối nhân cách hóa chúng ta phải làm việc với Ngài. Nhưng Thượng đế, tôi trước, chỉ phiền toái như bất kỳ vết tích nào của não. Bởi vì hoàn thiện của Trinity khiến cơ chế copy đặc biệt này trở nên cần thiết. Công việc của chúng ta kết liễu ngự trị của cái chết đối với loài người. Và chắc chắn rằng mục tiêu nào cao quý hơn thế.”

      Godin đặt đôi bàn tay cong vẹo lên bàn. “Nhưng hôm nay... hôm nay chúng ta thương tiếc con người có niềm tin can đảm. Trong khi chúng ta, do cần thiết nghiệt ngã, phải tập trung vào các khả năng quân và tình báo của nguyên mẫu Trinity hoạt động, Fielding nhìn thấy cái ngày ông có thể ngồi xuống hỏi máy câu hỏi xưa nhất của loài người: ‘ sống bắt đầu như thế nào? Tại sao chúng ta hữu? Vũ trụ kết thúc ra sao?’ Ở tuổi sáu mươi ba, Fielding có lòng nhiệt tình của đứa trẻ mà xấu hổ vì điều đó. Mà ông cũng chẳng việc gì phải xấu hổ.” Lão cúi đầu buồn bã. “Phần tôi, tôi rất nhớ ông.”

      Tôi thấy nóng mặt. Tôi chờ đợi John Skow vãi nước mắt cá sấu xong vội vã quay về với đề tài nghiên cứu và phát triển toàn diện. Nhưng Godin còn cao thủ hơn. Lời lẽ của lão chứng tỏ lão hiểu rất kẻ thù của mình.

      “Sau khi tìm ra nguyên nhân triệu chứng thần kinh của chúng ta,” Godin kết luận, “dự án tiếp tục. Nếu chúng ta cần nhà vật lý lượng tử nữa, chúng ta thuê người. Chúng ta tiếp tục tiến lên mà nguy hiểm. Fielding dạy tôi biết tầm quan trọng của thận trọng.”

      Godin dùng các ngón tay trái xoa bóp kỹ bàn tay phải. “Tất cả chúng ta phải chịu cú sốc trầm trọng. Tôi muốn mọi người hãy nghỉ ngơi đầy đủ trong ba ngày, bắt đầu từ trưa nay. Sáng thứ ba tới chúng ta gặp nhau tại phòng này. Trong thời gian này cần tuân thủ tất cả các quy tắc an ninh ngoài nơi làm việc.”

      Câu của Godin làm mọi người im phăng phắc. Con người làm việc hùng hục gấp đôi bất kỳ ai khác lại đề xuất nghỉ ngơi? “kỳ nghỉ” như thế trái ngược với bản tính của Godin đến nỗi ai còn biết gì nữa.

      Cuối cùng Skow hắng giọng. “Vâng, về phần mình, tôi tận dụng chút thời gian cho gia đình. Vợ tôi chuẩn bị ly dị tôi bởi tôi dành quá nhiều giờ ở đây rồi.”

      Godin cau mày và lại nhắm nghiền mắt.

      “Hoãn họp à?” Skow liếc sang Godin hỏi.

      Ông già loạng choạng đứng lên rồi ra khỏi phòng lời.

      “Ừm, thế,” Skow câu cần thiết.

      Tôi đứng dậy về phòng làm việc của mình, mắt dán vào lưng Godin thoái lui. Cuộc họp diễn ra hề giống như tôi dự liệu. Phía trước, Godin bắt đầu rẽ, nhưng lão bỗng dừng lại và quay mặt về phía tôi. Tôi bước lại gần lão.

      và Fielding rất thân nhau phải ?” lão hỏi.

      “Tôi mến ông ấy. Và cả ngưỡng mộ nữa.”

      Godin gật đầu. “Tôi mới đọc cuốn sách của hai đêm trước. thực tế hơn là tôi dự đoán. Ý kiến của về nạo phá thai, nghiên cứu mô bào thai, nhân bản vô tính, chi tiêu cho chăm sóc cuối đời, về chết êm ái. Tôi hoàn toàn đồng ý.”

      Tôi thể tin nổi Peter Godin làm việc với tôi hai năm mà lại chưa đọc cuốn sách đưa tôi đến với Trinity. Lão nhìn qua vai tôi lát, rồi lại nhìn thẳng vào mặt tôi.

      “Có ý nảy đến với tôi trong cuộc họp,” lão . “ có biết giả thuyết cũ về lịch sử? Nếu có thể ngược dòng quá khứ, và có cơ hội để giết Hitler, có giết ?”

      Tôi mỉm cười. “Đây phải công thức thực tế cho lắm.”

      “Chưa chắc. Tất nhiên, vấn đề Hitler dễ. Nhưng thử tưởng tượng trường hợp khác xem nhé. Nếu trở lại năm 1948 và biết rằng Nathuram Godse chuẩn bị ám sát Gandhi - có giết để ngăn cuộc ám sát ?”

      Tôi suy nghĩ về điều này. “Ông ra hỏi cứ theo chuỗi kiện này rồi tôi đến đâu. Vậy ông có giết mẹ Hitle ?”

      Đến lượt Godin mỉm cười. “Tất nhiên đúng. Và câu trả lời của tôi là có.”

      “Thực tế, tôi nghĩ câu hỏi của ông là về quan hệ nhân quả. Liệu giết mẹ Hitler có tránh được Thế Chiến II ? Hay kẻ ất ơ nào đó nổi lên từ bất bình của quần chúng lại xả nỗi uất hận Đức vào Hiệp ước Versailles?”

      Godin xem xét ý này. “Hoàn toàn có khả năng. Thôi được. Giả sử đây là năm 1952, và biết rằng tay kỹ thuật viên phòng thí nghiệm lóng ngóng sắp làm hỏng thí nghiệm cấy tế bào của Jonas Salk. Việc điều trị bệnh viêm tủy xám bị chậm lại có khi nhiều năm. Liệu có giết tay kỹ thuật viên vô tội đó?”

      Đầu tôi bắt đầu có tiếng ù ù kỳ lạ. Có lẽ Godin đùa bỡn tôi, mặc dầu lão đâu có phí thời gian để đùa.

      “May sao cuộc sống thực tế đặt cho chúng ta những câu đố ấy,” tôi . “Chỉ có kinh nghiệm mới cho phép chúng ta định hình được nó.”

      Lão cười nhạt. “Tôi , bác sĩ ạ. Người ta có thể chặn Hitler lại ngay từ khi ở Munich.” Godin nhoài người vỗ vào cánh tay tôi. “Dù sao đó cũng là đôi điều để ngẫm nghĩ.”

      Lão quay và cẩn trọng chọn hướng khi đến chỗ rẽ.

      Tôi đứng trong hành lang, cố đoán ra ý trong những điều vừa được nghe. Godin bao giờ lãng phí ngôn từ. Lão rỗi hơi suy nghĩ về lịch sử hoặc đạo đức. Lão trắng ra về vụ giết người. Vụ giết người mà theo lão là chính đáng. Tôi lắc đầu dám tin. Godin vừa đến Fielding.

      Việc giết Fielding là cần thiết, lão vừa thế. Fielding vô tội, nhưng vì thiện ý ông can thiệp, vậy ông phải bị thủ tiêu.

      Tôi quay bước về phòng làm việc của mình, bất giác rùng mình. ai hỏi tôi về việc liên lạc với Washington. ai nhắc đến cuộc viếng thăm của tôi tới nhà Fielding. lời về Rachel Weiss. Và ba ngày nghỉ cho tôi vô khối thời giờ chuyện với tổng thống. Thậm chí tôi có thể bay tới Washington. Cái quái quỷ gì xảy ra thế này?

      Tôi chết lặng trước ngưỡng cửa phòng làm việc. phụ nữ tóc vàng, cao ráo gân guốc với đôi mắt xanh lóe sáng và vết sẹo lốm đốm má trái ngồi ghế của tôi, dán mắt vào màn hình máy tính của tôi. Geli Bauer. Nếu có người nào trong tòa nhà này ra tay giết Andrew Fielding, đó chính là ả.

      “Xin chào, bác sĩ,” ả , môi thoáng cười. “Trông có vẻ ngạc nhiên. Tôi nghĩ hẳn chờ tôi.”

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 11


      Tôi đứng lặng người ngưỡng cửa. Trong vòng chưa đến giây đồng hồ, cảm giác nhõm bỗng biến thành nỗi lo tê điếng, và cái ý nghĩ rằng Geli Bauer là phụ nữ cũng làm động mạch gõ thình thịch của tôi đập chậm lại chút nào. Giống như đám thuộc hạ, trông ả gầy gò gân guốc với tia sáng giết người trong mắt. Ở con người ả toát ra vẻ tự tin lạnh lùng của vận động viên leo núi đẳng cấp thế giới. Tôi có thể tưởng tượng ả treo mình vách đá dựng đứng hàng giờ liền, sức nặng cơ thể dồn vào cả mấy đầu ngón tay. Khó mà đánh giá trí thông minh của ả trong lò ấp toàn thiên tài, nhưng qua những cuộc trò chuyện trước đây, tôi biết ả cực kỳ nhanh trí. Ả đối xử với mọi người, trừ những nhà bác học hàng đầu của Trinity, như tù khổ sai, và tôi cho đó là vì ả là con vị tướng đầy quyền thế. Ravi Nara thô lỗ gọi ả là “kẻ hủy diệt có vú” còn tôi nghĩ ả là kẻ hủy diệt có đầu óc.

      “Tôi có thể làm gì cho ?” cuối cùng tôi lên tiếng.

      “Tôi cần hỏi vài câu hỏi,” ả . “Thủ tục ấy mà.”

      Thủ tục? Tôi biết trong vòng hai năm Geli Bauer viếng thăm phòng làm việc của tôi đến năm sáu lần. Tôi thường thấy ả qua tấm kính, chúi mũi vào nghiên cứu những trắc nghiệm phát dối mà tôi được chọn làm ngẫu nhiên.

      “Godin vừa cho chúng ta nghỉ ba ngày,” tôi . “Tại sao để đến khi chúng ta trở lại làm việc?”

      “Tôi e rằng thể chờ đợi.” Ả có giọng lơ lớ của đám sinh viên những trường học của giới thượng lưu ở hải ngoại.

      vừa rằng chỉ là thủ tục.”

      nụ cười mềm mỏng. “Sao ngồi xuống, bác sĩ?”

      ngồi ghế của tôi.”

      Geli đứng dậy. Ả có vẻ hiếu chiến.

      hay đích thân xử lý những thủ tục loại này,” tôi . “Do đâu mà tôi có vinh dự ấy?”

      “Cái chết của tiến sĩ Fielding làm phát sinh tình hình bất thường. Chúng tôi cần chắc chắn mình biết được nhiều nhất có thể về tất cả những gì xảy ra xung quanh chuyện này.”

      “Tiến sĩ Fielding chết do đột quỵ.”

      Ả im lặng quan sát tôi hồi lâu. Vết sẹo má trái của ả nhắc tôi nhớ đến vết sẹo của các cựu binh chiến đấu ở Việt Nam, khi tôi còn làm bác sĩ. Họ miêu tả những mảnh lựu đạn phốt pho cháy sâu vào da thịt rồi sau đó tự chai lại như thế nào, chỉ cần gặp khí là bắt cháy trở lại làm bị thương cả bác sĩ phẫu thuật cố gắp những mảnh đó ra. Lính tráng rất sợ những mảnh này, còn Geli Bauer trông như thể quen va chạm với chúng. Nhờ vết sẹo đó mà tôi đâm ra thích ả. người đàn bà đẹp được đánh dấu bằng thứ như thế thường có những hiểu biết thấu đáo về cuộc sống mà các chị em khác khó có được. Nhưng khi giao tiếp với Geli, tôi mới vỡ ra rằng cho dù thoát nạn bằng cách quái quỷ nào, bài học ả rút ra từ đó chỉ là cay đắng.

      “Tôi quan tâm đến quan hệ của với tiến sĩ Fielding,” ả .

      Geli bao giờ cũng xưng tôi, dùng cái từ ngữ quan liêu chúng tôi; dường như ả cảm thấy giữ an ninh cho cả dự án là trách nhiệm của riêng cá nhân ả.

      “Thế ư?” tôi hỏi lại, làm như bị sốc.

      miêu tả về quan hệ giữa hai người như thế nào?”

      “Ông ấy là bạn tôi.”

      thường gặp và trò chuyện với ông ấy ngoài nơi làm việc.”

      Nếu thừa nhận điều này tức là thú nhận vi phạm quy chế an ninh của Trinity. Nhưng chắc Geli có băng video rồi. “Phải.”

      “Điều đó trực tiếp vi phạm quy chế an ninh.”

      Tôi đảo mắt. “ cứ kiện tôi .”

      “Chúng tôi có thể bắt giam .”

      Cứt. “Có thế mới thực bảo mật được chỗ này.”

      Ả lùa những ngón tay dài vào mái tóc vàng. Đúng là con diều hâu rỉa lông sửa cánh. “ có thể mất vị trí ở đây, bác sĩ ạ.”

      “Giờ tôi hiểu rồi. đến đây để sa thải tôi.”

      nụ cười lướt qua. “ cần phải đóng kịch. Tôi cố để tìm hiểu những gì cần biết về hoàn cảnh của tiến sĩ Fielding.”

      “Hoàn cảnh của ông ấy ư? Ông ấy chết. Từ trần rồi. còn ở bên chúng ta nữa.”

      “Ngoài giờ làm việc các bàn chuyện gì?”

      “Bóng đá.”

      “Bóng đá?”

      “Fielding gọi nó là Football (20). Ông ấy nhận mình ‘cuồng bóng đá’. Ông ấy cổ động cho đội Arsenal của . Tôi ngán muốn chết, nhưng tôi thích trò chuyện với ông ấy.”

      bắt đầu thiếu thành thực, bác sĩ.”

      “Tôi ư?”

      “Cả và Fielding đều chống lại việc tiếp tục dự án.”

      . Tôi bận tâm về khía cạnh đạo đức của dự án. Fielding có những mối quan tâm khác.”

      “Ông ấy muốn dự án dừng lại.”

      “Chỉ tạm ngưng đến khi xác định được nguyên nhân của những tác dụng ngoại ý lên hệ thần kinh mà tất cả chúng tôi phải chịu.”

      “Ông ấy có thảo luận những tác dụng ngoại ý ấy với ai biết thông tin về Trinity ?”

      “Tôi cũng biết nữa.”

      “Vợ ông ấy chẳng hạn?”

      Tôi cố giữ vẻ mặt vô cảm. “Tôi nghĩ ông ấy có thể làm vậy.”

      Geli nhướng mày, “Tối qua ở bên bà ấy gần cả tiếng đồng hồ.”

      Vậy là bọn chúng theo dõi. Tất nhiên chúng làm. Chúng vừa mới giết Fielding và cần biết người bạn thân nhất của ông phản ứng thế nào. Điều đó có nghĩa là chúng biết về Rachel.

      “Tôi đến để chia buồn.”

      thảo luận những thông tin nhạy cảm của Trinity với Lu Li Fielding. nhà vật lý người Hoa.”

      “Tôi làm chuyện gì như thế cả.” Tôi nghĩ cuộc hôn nhân của Lu Li với Fielding khiến bà trở thành công dân , nhưng lúc này tôi muốn tranh cãi làm gì.

      “Bà Fielding biến mất. Chúng tôi cần chuyện với bà ấy.”

      “Nghe như chuyện riêng tư.”

      Geli phớt lờ lời châm biếm của tôi. “Nếu giúp bà ấy trốn, bị kết tội phản bội.”

      “Lu Li phạm tội à?”

      Mặt Geli chút biểu cảm. “Điều đó còn chưa xác định được. Bà ấy có thể là đồng phạm trong vụ mưu phản.”

      Viên pha lê, tôi bỗng nghĩ. Điều này chắc phải liên quan đến chiếc đồng hồ của Fielding. “Vậy là cả ông bà Fielding đều biến mất. Tình thế là rắc rối, phải ?” tôi .

      Geli trông chẳng có vẻ gì bối rối. Ả tỉnh bơ.

      “Đêm qua Lu Li bảo tôi rằng chẳng ai với bà lời về thi hài của chồng bà ấy,” tôi . “Bà ấy rất hoảng loạn.”

      “Đó phải là phạm vi trách nhiệm của tôi.”

      “Còn vật dụng cá nhân của Fielding sao? Lu Li đặc biệt nhắc đến chiếc đồng hồ bỏ túi bằng vàng. vật gia bảo.”

      Geli cắn môi rồi lắc đầu, “Tôi nhớ cái đồng hồ bỏ túi. Nhưng ngay khi bà Fielding ra trình diện, tất cả được sắp xếp đâu vào đấy.”

      Geli dối. Làm việc ở đây hai năm, chắc chắn ả trông thấy chiếc đồng hồ ấy hàng trăm lần là ít.

      “Sáng nay chúng ta phải làm trắc nghiệm phát dối,” ả .

      Người tôi toát mồ hôi lạnh. “Xin lỗi. Tôi làm đâu.”

      Geli nheo mắt. Đây là lần đầu tiên tôi chối từ đề nghị như thế này. “Tại sao vậy?”

      “Tôi vừa mất người bạn thân. Tôi ngủ được. Tôi thấy trong người rất khó chịu. Tôi quên hết mọi thứ rồi.”

      “Bác sĩ Tennant...”

      “Và tôi muốn phục tùng những trò phát xít của các người hôm nay. Được chưa?”

      Ả ngả lưng ghế của tôi và nhìn tôi càng lúc càng chăm chú hơn. “Bản hợp đồng làm việc mà ký cho phép tiến hành trắc nghiệm dối vào bất kỳ lúc nào. chấp thuận phục tùng.”

      Nỗi sợ thắt ruột khiến tôi muốn đấm cho ả quả vào giữa mặt. Suốt đời tôi sống tự do vô hạn. Là bác sĩ nội khoa, tôi hoàn toàn làm chủ được việc hành nghề của mình. Là tác giả, khi viết tôi chỉ bị hạn chế bởi chủ đề cuốn sách. Nhưng giữa khí nghẹt thở của Trinity, chứng sợ gian kín lại dấy lên trong tôi. Cha tôi cũng từng trải qua những cảm giác tương tự khi nghiên cứu vũ khí hạt nhân ở Los Alamos và Oak Ridge. Và hồi ấy ông phải phục tùng trắc nghiệm phát dối. Nhưng thời thế thay đổi so với thời Chiến tranh Lạnh. Ngày nay NSA có những máy phát dối dựa công nghệ MRI, và giống máy phát dối truyền thống, nó chính xác đến trăm phần trăm.

      Nguyên tắc rất đơn giản: khi dối, bộ não vận dụng nhiều tế bào thần kinh hơn khi . Ngay cả những kẻ dối bệnh lý cũng nghĩ đến trước khi trả lời câu hỏi. Sau đó ta mới bịa ra hoặc lặp lại câu dối của mình. Hành động này soi sáng bộ não kẻ dối như những ngọn đèn đêm Giáng sinh, và máy phát dối MRI chỉ việc chụp lại và lưu kết quả cho người thẩm vấn. Chính Fielding là người chống lại việc dùng máy phát dối MRI, lập luận rằng những triệu chứng lạ trong chúng tôi trầm trọng hơn khi tiếp xúc thêm với MRI. Đó là thắng lợi của Fielding trong cuộc chiến chống lại xâm phạm cõi riêng tư của chúng tôi, nhưng những cuộc thẩm vấn phát dối thông thường ảnh hưởng gì lắm đến thần kinh. Áp dụng chúng cách bất ngờ cho cái cảm giác như sống ở nơi tinh thần bị đàn áp tồi tệ, nhất là khi có điều gì muốn giấu.

      định gây mê tôi à?” tôi hỏi. “Hay trói tôi?”

      Ả có vẻ muốn thế .

      . Thôi quên .”

      Ả giơ ngón tay lên lơ đãng sờ vào vết sẹo. “Tôi hiểu sao lại chống cự hăng như vậy, bác sĩ?”

      “Chắc chắn là hiểu.”

      giấu giếm điều gì?”

      “Nếu tôi có điều gì muốn giấu cũng thế.”

      cố lật đổ dự án này.”

      “Tôi làm thế nào được chuyện đó? Mà tại sao tôi phải làm thế? Dự án bị treo cơ mà.”

      Geli ngắm nghía móng tay ả, hai chiếc trong số đó bị cắn trụi. Có lẽ rốt cục ả cũng điềm tĩnh cho lắm. “Bằng cách ra trước công luận,” cuối cùng ả .

      À đây rồi. Nỗi sợ hãi thầm kín do chứng hoang tưởng của đầu óc nhà binh. “Tôi chưa hề làm thế.”

      có nghĩ đến chuyện đó ?”

      .”

      chuyện với tổng thống chưa?”

      “Trong đời tôi ấy à?”

      Cuối cùng ả cũng gắt lên khó chịu, “Sau cái chết của Fielding.”

      “Chưa.”

      “Hôm qua có gửi lại lời nhắn ở Nhà Trắng.”

      Tôi cảm thấy mặt mình đỏ lên. “Phải.”

      gọi điện thoại công cộng?”

      sao?”

      “Tại sao?”

      “Di động của tôi hết pin.” Tôi dối dễ dàng, khó mà kiểm tra được.

      “Tại sao đợi về đến nhà hẵng gọi?”

      “Đúng lúc đó tôi thấy cần chuyện.”

      “Thấy cần chuyện với tổng thống Mỹ?“

      “Đúng thế.”

      “Về cái chết của Fielding?”

      “Cùng với những chuyện khác.”

      Ả có vẻ cân nhắc khá kỹ lưỡng những lời sắp ra. “ với Nhà Trắng muốn các yếu nhân khác của Trinity biết rằng gọi cho họ.”

      Huyết áp của tôi tụt xuống đột ngột. Làm thế nào mà bọn chúng nghe được những gì tôi qua điện thoại công cộng? Chắc hẳn bằng cách nghe trộm, mà phải cảnh sát địa phương hay FBI hầm bà lằng. NSA mỗi ngày ghi trộm hàng triệu cuộc điện thoại riêng tư, các ổ đĩa ở tầng hầm khu căn cứ quân Meade được kích hoạt bởi những từ khóa như thuốc nổ, Al Qaeda, mã hóa, RXD, hoặc thậm chí Trinity. Tôi nhớ mình “Trinity” ngay khi tổng đài Nhà Trắng trả lời, để ấy nối máy cho tôi đến nơi cần gọi. Có lẽ NSA ghi cuộc chuyện của tôi từ lúc ấy.

      Tôi trấn tĩnh và nhìn thẳng vào mắt Geli. “Tôi được đích thân tổng thống chỉ định vào dự án này chứ phải NSA hay John Skow, hay ngay cả Peter Godin. Tôi có mặt ở đây để đánh giá các khía cạnh đạo đức của dự án. Nếu tôi xác định có vấn đề nào tồn tại, tôi báo cáo trực tiếp với tổng thống. Ở đây ai có quyền gì về chuyện này.”

      Ván bài lật ngửa rồi. Tôi vừa mới vạch lằn ranh giữa tôi với tất cả những người khác trong tòa nhà Trinity.

      Geli nhoài người ra phía trước, cặp mắt xanh của ả thách thức tôi. “ có mấy điện thoại di động, bác sĩ Tennant? ”

      .”

      còn sở hữu chiếc nào nữa ?”

      Tôi bỗng vỡ lẽ. Bọn chúng biết tôi gọi đến Nhà Trắng, nhưng biết tổng thống liên lạc lại với tôi hay chưa. Chúng kiểm soát điện thoại di động của tôi, cái mà chúng biết, nhưng lại lo lắng về những kênh liên lạc khác mà chúng biết. Nếu chúng lo lắng về điều đó, tức là chúng có đường dây bên trong phủ tổng thống, và tôi vẫn còn cơ hội thuyết phục tổng thống về những mối nghi ngờ của tôi.

      “Rachel Weiss có máy di động,” Bauer , mắt ả cảnh giác với từng động thái nhất của tôi.

      Tôi thở chậm và giữ giọng bình thản. “Tôi thấy có bác sĩ nào mà có điện thoại di động.”

      “Nhưng biết bác sĩ Weiss hơn bất cứ ai khác.”

      ấy là bác sĩ tâm thần của tôi, ý định thế chăng?”

      ấy là người duy nhất ngoài Trinity mà chuyện nhiều hơn năm mươi từ trong vòng hai tháng qua.”

      Tôi tự hỏi biết có đúng như vậy .

      “Điều đó cũng đúng với bác sĩ Weiss,” Geli .

      “Ý muốn gì?”

      ta gặp gỡ ai. Năm ngoái ta mất đứa con trai vì ung thư. Sau khi thằng bé chết, chồng ta bỏ rơi ta để trở về New York. Cách đây sáu tháng, thỉnh thoảng bác sĩ Weiss còn có những cuộc hò hẹn với đồng nghiệp nam giới. Ăn tối, xem phim, đại loại thế. ta gặp ai đến lần thứ hai. Hai tháng trở lại đây, ta hoàn toàn gặp người đàn ông nào nữa.”

      Điều này làm tôi ngạc nhiên. Rachel là phụ nữ mạnh mẽ, và tôi nghĩ mấy người đáp ứng được tiêu chuẩn của .

      “Vậy sao?” tôi hỏi.

      “Tôi nghĩ chính là lý do đấy, bác sĩ ạ. Tôi cho rằng bác sĩ Weiss .”

      Tôi cười, lần đầu tiên tôi cười , kể từ lúc tôi nhìn thấy thi thể Fielding đến giờ. “Bác sĩ Weiss cho rằng tôi bị hoang tưởng, Bauer ạ. Có lẽ là dạng tâm thần phân liệt đấy.”

      Điều này làm Geli lúng túng. “Tối qua ta hôn . Tại nhà Fielding.”

      “Đó chỉ là cái hôn an ủi. Tôi bị suy sụp sau cái chết của Fielding.”

      Geli phớt lờ câu ấy. “ gì với bác sĩ Weiss về Trinity?”

      gì cả, như biết . Tôi chắc tìm cách ghi được tất cả các cuộc khám bệnh của tôi.”

      Ả làm tôi ngạc nhiên khi khẽ gật đầu thú nhận. “Nhưng những người nhau bao giờ chẳng đủ mánh khóe. xoay xở được những cuộc gặp gỡ trái phép. Như tối hôm qua.”

      “Tối qua là lần đầu tiên tôi gặp Rachel Weiss ngoài phòng khám của ấy.” Tôi khoanh tay trước ngực. “Và tôi từ chối bàn luận tiếp về ấy. ấy chẳng dính dáng gì đến dự án này. xâm phạm đời tư của công dân Mỹ khi người ta chưa ký thỏa thuận nào từ bỏ các quyền của mình.”

      Lần này chính Geli mỉm cười, vẻ nanh ác chợt lóe lên. “ khi dính dáng đến Dự án Trinity, đời tư là cái gì cả. Theo Sắc lệnh 173 về An ninh Quốc gia, chúng tôi có thể bắt giữ Rachel bốn mươi tám tiếng mà cần cả gọi điện báo trước.”

      Tôi ngán quá thể. “Geli, có biết Dự án Trinity là cái gì ?”

      Tôi gọi tên cúng cơm của ả khiến nụ cười môi ả vụt tắt, và câu hỏi của tôi khiến ả ràng rơi vào thế thủ. Ả tiêu mất nếu phải thú nhận mình chẳng hiểu mô tê gì về những bí mật bên trong của Trinity, nhưng nếu ngược lại dễ làm ả mất việc như chơi. Ả trừng mắt nhìn nhưng năng gì cả.

      Tôi tiến bước về phía ả. “Thôi được, tôi biết rồi. Nhưng xin đừng hăm hở tuân lệnh cách ngu ngốc như thằng oắt người Đức kia cho đến khi nào biết và hiểu hết uẩn khúc tình.”

      Câu mắng chửi trúng đích. Ả căng người ghế như thể sắp nhảy xổ vào tôi. Tôi lùi lại bước, ngay lập tức thấy hối tiếc về những lời lẽ vừa rồi. Chẳng có lợi gì khi chuốc lấy oán thù cá nhân với Geli Bauer. ra điều đó hoàn toàn dại dột. Có thể chính ả ra tay giết Fielding. Và tôi nhận ra, chính vì thế mà tôi chọc giận ả.

      “Chúng ta xong việc rồi,” tôi và rút chìa khóa xe trong túi ra. “Sáng thứ Ba tôi trở lại. Từ nay đến đó hãy để lũ chó săn của tránh xa tôi ra.”

      Tôi quay lưng .

      “Bác sĩ Tennant!”

      Tôi cứ bước tiếp.

      “Tennant!”

      Tôi nhấn nút thang máy. Cửa mở, tôi bước vào, nhưng lại bước ra ngay. Geli có thể biến cái khoang xíu này thành xà lim chỉ với cú nhấn nút. Ả cũng có thể phong tỏa cả tòa nhà này dễ dàng như thế, nhưng dù sao tôi cầu thang bộ vẫn hơn.

      Khi tôi xuống đầu cầu thang tầng bốn, hình ảnh Fielding ngồi trong đám khói mờ xâm chiếm trí óc tôi. Ông người hút thuốc như ống khói, nhưng trong toàn bộ tổ hợp Trinity đều cấm hút thuốc, cả với những nhà bác học đầu đàn. Đó phải do luật lệ của bang; mà do Godin chịu nổi chút khói thuốc thoảng trong khí. Vốn tài xoay xở, Fielding tìm thấy chỗ để ông có thể nuông chiều thói quen của mình. Trong phòng thí nghiệm vật liệu tầng bốn có gian buồng chân rộng rãi mà trước đây trong giai đoạn đầu của dự án được sử dụng để thí nghiệm các đặc tính của ống nano carbon. Trong phòng thí nghiệm có đầu dò khói, còn buồng chân có. Fielding khéo léo xếp chồng đống hộp quanh gian buồng khiến hầu hết mọi người quên tồn tại của nó. Khi tìm ông khắp nơi mà thấy, tôi biết thể nào ông cũng ở đó.

      Tôi suy luận, nếu lúc ấy Fielding ở trong tòa nhà Trinity và lo sợ cho tính mạng của mình, ông có tìm cách cách ly chiếc dây đồng hồ mang viên pha lê? Ông thể giấu nó trong phòng làm việc, nơi chắc chắn bị lục soát. Nhưng buồng chân chỉ cách có tầng, và ông có thể tin chắc trước sau gì tôi cũng tìm ra chỗ bí mật này.

      Tôi ra khỏi cầu thang và tìm đến phòng thí nghiệm vật liệu. Hai kỹ sư tuyển mộ từ Sun Microsystems bước từ phòng thí nghiệm ra, tách nhau ra để vượt qua tôi và hướng về phía thang máy. Tôi cố nặn nụ cười và bước chậm lại sao cho họ khuất chỗ rẽ rồi mới đến cửa phòng thí nghiệm vật liệu.

      có ai trong phòng. Tôi vội vã đến chỗ đống hộp che chắn cửa căn buồng chân bằng thép và bắt đầu mở khóa. Cỗ máy gớm guốc trông giống căn buồng giảm áp cho thợ lặn dưỡng khí, với lỗ cửa sổ và vành xoay lớn bằng sắt lắp vào cánh cửa trông như cửa sập. Tôi vặn vành xoay để mở cửa sập. Đèn tự động bật sáng.

      Tim tôi đập thình thịch khi tôi bước vào bên trong. Tôi nhớ những chiếc giá rộng bừa bộn dụng cụ, kìm và mảnh vụn carbon cũ. Bây giờ trong gian buồng chẳng còn thứ gì. Ngay cả những chiếc giá cũng được mang . Cả căn buồng trông như mới được rửa sạch bằng hơi nước.

      “Geli Bauer, ” tôi thở hắt ra.

      Nếu trước đó chiếc đồng hồ bỏ túi của Fielding được giấu ở đây, bây giờ Geli có nó rồi. Tôi hối hả ra khỏi căn buồng, ngờ ngợ chạm trán ả trong phòng thí nghiệm. Nhưng cả phòng thí nghiệm và hành lang đều bóng người. Tôi lao ra cầu thang, chạy xuống tầng ba và bước về phía bàn bảo vệ, nơi Henry chờ tôi.

      Để ra khỏi Trinity, mọi nhân viên phải chịu khám người để chứng tỏ họ mang theo đĩa máy tính hoặc giấy tờ gì ra khỏi tòa nhà. Fielding chắc phải cười thầm mỗi lần Henry bỏ qua dây đồng hồ quả quýt gắn viên pha lê của ông. Khi tôi tới gần bàn bảo vệ, tôi thấy Henry vào micro cổ áo.

      “Có chuyện gì thế Henry?” tôi trong khi đứng đợi ông ta kiểm tra người.

      “Xin đợi phút, bác sĩ.”

      Tim tôi đập loạn. Tôi tưởng tượng Geli Bauer ra lệnh cho ông ta: cho Tennant ra khỏi tòa nhà...

      “Tôi cần ngay,” tôi , “tôi có cuộc hẹn.”

      Henry nhìn tôi, rồi vào mic, “ ta đây rồi.”

      Jesus. Nếu Geli phải hỏi xem liệu tôi có ra cửa , thế tức là ả nhìn thấy tôi qua camera lắp trong phòng an ninh. Có lẽ ả đường đến đây. Não giữa thôi thúc tôi chạy lực, nhưng phỏng được bao xa? Henry trông có vẻ vô hại nhưng được trang bị khẩu súng tự động Glock 9mm. Chớ lao ra cửa lúc này vẫn là thượng sách.

      Henry nghe bằng ống nghe mấy giây, trông ông ta có vẻ bối rối. “ có chắc ?” ông ta hỏi. “Được.”

      Ông ta vòng qua bàn, và tôi vụt hiểu rằng nếu Henry rờ tay vào khẩu súng, chỉ vài giây nữa thôi bản năng sống còn trong tôi lên tiếng. Người tôi căng ra khi bàn tay ông ta rơi xuống, nhưng rồi ông ta ngồi xổm xuống và bắt đầu khám từ ống quần như thường lệ.

      Geli quyết định để tôi . Vì sao? Vì ả biết chắc tôi chuyện với tổng thống hay chưa.

      được rồi, bác sĩ,” Henry , vỗ vai tôi. “Vừa rồi tôi tưởng ấy - à, họ - cầu tôi giữ lại đây.”

      Khi tôi nhìn vào mặt Henry, tôi thấy nét gì đó trong mắt ông mà tôi hiểu. Bây giờ tôi hiểu rồi. Ông ta ưa gì Geli hơn tôi. ra, ông ta sợ ả.

      Khi tôi vừa qua khỏi cánh cửa kính bọc thép chuông điện thoại di động reo.Tôi bấm nhận cuộc gọi và ép điện thoại sát tai.

      “A lô?”

      “David? ở chỗ quái quỷ nào vậy?’

      “Đừng gọi tên tôi,” tôi gắt, nhận ra tiếng Rachel.

      “Tôi kiếm cả tiếng đồng hồ rồi!”

      Chắc tín hiệu di động thể truyền qua lưới đồng bao quanh Trinity. “Cho tôi biết có chuyện gì .”

      “Sáng nay có đến phòng làm việc của tôi ?”

      “Phòng ? Tất nhiên là . Tại sao?”

      “Bởi vì có kẻ nào đó gần như bới tung nó lên. Hồ sơ bệnh án của bị mất, mọi thứ tung tóe hết cả.”

      Tôi hít hơi đầy phổi, cố giữ nhịp bước bình thường về phía xe. “Hôm nay tôi hề đến gần phòng làm việc của . Sao nghĩ tôi có thể làm việc như thế?”

      “Để củng cố các ảo giác của trong mắt tôi! Để tôi tin là chúng có .”

      Giọng khá kích động. Vậy ra đêm qua hiểu gì hết? “Chúng ta cần chuyện, nhưng phải như thế này. ở văn phòng phải ?”

      , tôi xa lộ 15.”

      Có lẽ Rachel chạy xa lộ 15 suốt chặng đường từ Trung tâm Y khoa Duke đến đồi Chapel. “ taxi phải ?”

      , sáng nay tôi lấy xe về rồi.”

      “Hãy gặp tôi ở chỗ thấy tôi thu băng hình đó.”

      “Ý ...”

      biết ở đâu mà. Tôi đường. Gác máy.”

      làm theo.

      Tôi kiềm chế hết sức để chạy mấy bước cuối cùng đến xe.




      CHƯƠNG 12


      Chiếc Saab trắng của Rachel đậu trước nhà tôi. Bản thân Rachel ngồi bậc tam cấp, tay chống cằm như các nữ sinh chờ giờ lên lớp. Thay vì váy và áo lụa quen thuộc, hôm nay mặc quần jean xanh và sơ mi Oxford bằng cotton trắng. Tôi nhấn còi. ngẩng lên, mỉm cười. Tôi vẫy tay chào, lái xe vào ga ra rồi bước qua căn nhà, ra mở cửa trước.

      “Xin lỗi để phải chờ,” tôi liếc vòng xem có chiếc xe lạ nào phố .

      Mắt đỏ mọng vì khóc. bước vào phòng khách nhưng ngồi mà vòng quanh chỗ bàn ghế thưa thớt trong phòng, vẫn chưa lấy lại được bình tĩnh.

      “Kể tôi nghe chuyện gì xảy ra ,” tôi .

      tạm dừng đủ lâu để nhìn tôi chằm chằm rồi lại bước tiếp. “Lúc đó tôi ở bệnh viện khám cho bệnh nhân định tự tử cách đây hai hôm.”

      “Và?”

      “Tôi quyết định tạt qua văn phòng lấy vài tấm biểu đồ. Khi đến đó tôi nhận thấy có kẻ đột nhập. Nghĩa là cửa vẫn khóa, nhưng tôi biết thế, hiểu ?”

      rằng căn phòng bị lục tung lên.”

      nhìn lảng . “ hẳn thế. Nhưng rất nhiều đồ để đúng chỗ. Tôi biết điều này, vì tôi thích sắp xếp mọi thứ theo cách nhất định. Sách xếp theo kích cỡ từ đến lớn, giấy tờ chất đống... mà thôi, đừng quan tâm.”

      bị ám ảnh cưỡng chế rồi.”

      Đôi mắt sẫm màu của lóe lên. “Có những chuyện còn tệ hơn chứng ám ảnh cưỡng chế nhiều.”

      “Đồng ý. bảo hồ sơ bệnh án của tôi bị lấy mất?”

      “Phải.”

      “Có hồ sơ của bệnh nhân nào khác bị mất ?”

      .”

      “Thế đúng rồi. Điều tôi hiểu được là chúng lấy trộm bệnh án của tôi làm gì. Tại sao copy thôi? Tôi tin chắc chúng đọc từ trước. Có khi chúng còn đọc hằng tuần ấy chứ.”

      Rachel dừng bước nhìn tôi vẻ tin. “Làm sao họ làm được điều đó?”

      “Bằng cách cho người lẻn vào phòng làm việc của . Có thể là buổi tối những ngày tôi đến khám.”

      “Tại sao trước đây tôi nhận thấy điều gì?”

      “Có thể lần này chúng quá vội.”

      “Tại sao?”

      “Chúng sợ.”

      “Sợ gì?”

      “Sợ tôi. Những gì tôi làm. Những gì tôi có thể làm.”

      ngồi mép sofa của tôi như thể định thần lại. “Tôi cần hiểu chuyện này, David. Họ là ai? NSA ư?”

      “Đúng và sai. Chúng là những người làm công tác an ninh cho Dự án Trinity, do NSA cung cấp tài chính.”

      “Và đó là những người mà bảo giết Andrew Fielding?”

      “Đúng.”

      nhắm mắt. “Tôi nhờ người bạn ở trung tâm y tế xét nghiệm hộ gói bột trắng đưa cho tôi. Nó chứa mầm bệnh than hay bất cứ mầm bệnh hoặc độc chất nào ta biết.” mở mắt ra nhìn vào mắt tôi. “Đó là cát, David ạ. Giống thạch cao. Cát trắng. Chẳng nguy hiểm cho ai cả.”

      Đầu óc tôi bắt đầu quay cuồng với những ý nghĩa có thể có của chuyện này. Những con chíp siêu làm bằng silicon, loại cát. Hay thạch cao là cơ sở của chất bán dẫn mới mà Godin tìm ra? Có thể Fielding cố cho tôi biết điều tương tự mà tiện trắng ra...

      thử cố liên lạc lại với tổng thống chưa?” Rachel hỏi.

      Tôi há hốc mồm ngạc nhiên.

      “Cái gì?”

      “Tôi quên kiểm tra hộp thư thoại. Xin lỗi.”

      Tôi vào trong bếp. Đèn đỏ của điện thoại báo có tin nhắn mới. Tôi nhấn nút, giọng vùng New England lạo xạo vang lên trong cái loa xíu:

      “Bác sĩ Tennant hả? Ewan McCaskell, chánh văn phòng tổng thống đây. Tôi nhớ là đến thăm văn phòng vài năm trước. Tôi vừa nhận được tin nhắn của . Chắc hiểu chúng tôi ở đây quá bận. Tôi thể quấy rầy tổng thống cho đến khi biết chuyện này là thế nào, nhưng tôi muốn chuyện với ngay khi có thể. hãy giữ nguyên số máy này, tôi gọi lại ngay khi thời gian cho phép.”

      Tôi gần như nhõm cả người. Tôi chống tay lên quầy cho vững. Thiết bị nhận dạng người gọi đến cho thấy cuộc gọi của McCaskell đến từ hai mươi phút trước.

      “Ai đấy?” Rachel hỏi.

      Tôi mở lại cho nghe lời nhắn.

      “Tôi phải thừa nhận rằng,” , “giọng nghe như của McCaskell.”

      “Giống giọng McCaskell? đúng là ông ta. Vậy ra vẫn hiểu tí gì về những chuyện thấy đêm qua?”

      kéo chiếc ghế từ bàn bếp ra rồi ngồi xuống đối diện tôi. “ nghe tôi này, David. biết tại sao tôi đến đây ? Tại sao đêm qua tôi lại giúp ?”

      .”

      “Cuốn sách của .”

      “Sách của tôi?”

      “Phải. Hằng ngày ở bệnh viện tôi thấy những điều mà người ta với tôi khi ở trường y. Các ca rơi vào kẽ hở giữa thực tế và luật pháp. Những vấn đề hóc búa mà chính phủ có can đảm để đối diện. Tôi cố sức xoay xở tình hình... có thể là than phiền với các bác sĩ khác, nhưng chỉ có bấy nhiêu thôi. viết ra để thế giới đọc nó, mà thèm đếm xỉa chuyện gì xảy đến với mình. Nạo phá thai. Chăm sóc cuối đời và chăm sóc thai nhi. Chết êm ái. Trời ơi, viết về việc giúp trai của chết.”

      Tôi nhắm mắt lại và thấy hình ảnh của trai mình, thể cử động gì ngoài đôi hàng mi vì tàn phá của chứng teo cơ, rồi đến ngày ngay cả đôi hàng mi cũng còn động đậy được nữa. Chúng tôi đến thỏa thuận. Đến thời điểm đó, tôi phải giúp chấm dứt những gì còn lại của cuộc đời .

      “Tôi suýt nữa xóa chuyện này khỏi cuốn sách,” tôi .

      nắm cánh tay tôi. “Nhưng xóa. liều mạng, và giúp cho vô khối người bằng cách cứ để thế xóa. Những người mà biết. Nhưng họ biết . Tôi biết . Và bây giờ ốm. cần trợ giúp hàng tháng trời, và những liệu pháp thông thường bó tay. Tôi thể nào vượt qua bức tường mà dựng lên.” Bàn tay nắm chặt cánh tay tôi, mỉm cười khích lệ. “Tôi tin rằng bị cuốn vào nhiệm vụ rất quan trọng, đúng ? Nhưng hãy trả lời tôi điều này. Nếu máy tính Trinity đúng như những gì , , sao lại là ? biết ? viết quyển sách tuyệt vời. Tổng thống quen trai . Nhưng liệu điều đó có làm cho đủ trình độ đánh giá môn khoa học mà kể với tôi ?”

      đúng. Còn nhiều điều phải . Tôi giữ kín quá khứ của mình quá lâu để đến bây giờ muốn ra cần phải có ý chí mãnh liệt.

      “Cha tôi là nhà vật lý hạt nhân,” tôi nhàng . “Trong chiến tranh ông làm việc ở Los Alamos. Ông là nhà vật lý trẻ nhất làm việc trong Dự án Manhattan.”

      Đôi mắt đen của lóe lên. “Còn gì nữa?”

      “Tôi học vật lý lý thuyết ở Đại học Công nghệ Massachusette.”

      “Trời đất ơi! Đúng là tôi chưa biết gì về , phải ?”

      Tôi chạm vai . “ biết chứ. Nghe này, cha tôi là thành viên của nhóm người đầu tiên phản đối việc sử dụng bom. Nhóm gồm những người như Leo Szilard, Eugene Wigner. Người Đức đầu hàng, còn người Nhật có nguồn lực để chế bom nguyên tử. Nhóm của cha tôi muốn chơi quả bom ấy với quân đội Nhật, chứ phải dội xuống đầu dân thường. phản đối ấy bị phớt lờ, và Hiroshima trở thành lịch sử.

      “Nhưng ngày nay chúng ta sống trong thế giới khác. Ngay khi tổng thống nhận ra những điều mờ ám trong Trinity - chúng ta về việc giải phóng trí thông minh con người ra khỏi thân xác, lạy trời - ông biết rằng mình bị công kích chính trị nếu công chúng biết ông cứ tiến hành mọi việc mà quan tâm gì đến các vấn đề luân lý, đạo đức. Hãy nhìn cơn giận dữ của công chúng xung quanh những nghiên cứu về nhân bản vô tính và phôi thai biết. Vì vậy tổng thống cầu phải giám sát khía cạnh đạo đức. Ông ấy biết cuốn sách của tôi, ông ấy biết công chúng tin rằng tôi , và ông ấy tin tôi vì ông ấy biết tôi. Hơn nữa, khách quan đầy lương tâm của tôi còn có tính huyết thống, từ cha tôi với Dự án Manhattan. Vậy thử hỏi còn ai hơn tôi?”

      Rachel lắc đầu. “Vậy tại sao lại trở thành bác sĩ mà phải là nhà vật lý?”

      này sao thoát khỏi cái bóng của bác sĩ tâm thần. Hay có lẽ chỉ đơn thuần vì là phụ nữ. “Sau Hiroshima, cha tôi phải chịu cuộc sống tồi tệ. Edward Teller tiếp tục dấn lên sáng chế bom khinh khí. Oppenheimer phản đối. Cha tôi cũng vậy. Ông đòi chuyển ngành. Tướng Grover muốn nhả ông ra khỏi ngành vũ khí, nhưng họ đồng ý cho ông công việc mang tính kỹ thuật nhiều hơn, ít dính dáng đến những đầu đạn hạt nhân hơn. Họ chuyển ông về phòng thí nghiệm quốc gia ở Oak Ridge, Tennessee.”

      “Thế sao cha bỏ việc luôn ?”

      “Cuối cùng ông ấy làm thế. Nhưng hồi đó là Chiến tranh Lạnh. Khi ấy có đủ loại áp lực. Oppenheimer bị ngược đãi nhiều năm vì phản đối bom khinh khí. Cha tôi gặp mẹ tôi cũng chính ở Oak Ridge. Ở đó đời sống trở nên dễ chịu hơn. Rồi ông bà sinh ra tôi. Tôi sinh sau khá lâu. tai nạn, ra là thế.” Tôi mỉm cười khi nhớ lại cha mẹ tôi bộc bạch điều đó với tôi. “Tôi lớn lên ở Oak Ridge, nhưng khi tôi đến tuổi thiếu niên cha tôi bỏ vật lý hạt nhân và đưa chúng tôi về Huntsville bang Alabama, nhờ đó ông có thể làm việc cho chương trình gian.”

      “Tôi vẫn chưa thấy mối liên hệ với y học.”

      “Mẹ tôi là bác sĩ nhi khoa ở Oak Ridge. Bà làm được nhiều điều tốt. Chẳng cần phải là thiên tài mới nhận ra công việc mang lại cho mẹ tôi nhiều hạnh phúc hơn cha tôi. Điều này ảnh hưởng đến tôi.”

      Tôi nhìn xuống điện thoại, chỉ mong nó lại đổ chuông lần nữa. “Đêm qua, tôi mới chỉ với phần . Khi tổng thống trao cho tôi chức vụ này, tôi có cảm giác kỳ quặc rằng đây là quả báo. Tôi được trao cơ hội mà cha tôi chưa bao giờ có ở Los Alamos. Cơ hội để thực thi kiểm soát đối với công trình khổng lồ có thể thay đổi vĩnh viễn cả cái thế giới này. Xem thay đổi đó là tốt hay xấu, thiện hay ác. Tôi cảm nhận điều đó vào cái ngày tôi bước chân đến Phòng Bầu dục, và chính điều đó đặt tôi vào đây.”

      Rachel hít sâu rồi thở ra chậm. “Tất cả là đấy chứ? Tôi muốn đến Trinity.”

      . Và tôi phát cuồng lên vì vui sướng khi McCaskell gọi lại cho tôi. Chúng ta cần tổng thống vô cùng.”

      Tôi đứng dậy, nửa muốn mở lại tin nhắn của McCaskell, nhưng cơn mệt mỏi ập xuống. Tôi hy vọng chỉ là do kiệt sức, nhưng rồi những tiếng o o quen thuộc cứ rít lên trong răng hàm. Nhớ ra còn viên amphetamine nào cả, tôi lấy lon Mountain Dew từ trong tủ lạnh, bật nắp và uống hơi dài để có chút caffein.

      “David?” Rachel nhìn tôi lạ lùng. “ có sao ? Trông run rẩy quá.”

      “Tôi ngất mất,” tôi vừa vừa uống thêm ngụm soda nữa.

      “Ngất?” Đôi mắt mở to. “Chứng ngủ rũ?”

      chưa bao giờ chứng kiến trong những cơn bệnh của tôi. Khi tôi gật đầu, như có màn đen lướt qua mắt tôi. Nó để lại cảm giác đe dọa mơ hồ, tựa chừng vừa có ai trong phòng với chúng tôi, ngay đó nhưng tôi nhìn thấy. “Tôi bỏ sót việc,” tôi to ý nghĩ của mình lên.

      về chuyện gì?”

      Hình ảnh Geli Bauer vụt trong trí tôi. “Chúng ta lâm nguy.”

      Rachel trông có vẻ lo lắng cho tôi hơn là lo sợ mối hiểm nguy bên ngoài. “Nguy hiểm loại nào?”

      “Có gì đó bất thường trong cách mọi chuyện diễn ra. Godin cho chúng tôi nghỉ... Hồ sơ của tôi bị lấy cắp khỏi phòng làm việc của ... McCaskell gọi. Tôi bỏ sót điều gì đó, nhưng tôi quá mệt nên thể nghĩ ra.”

      “Tôi nghĩ McCaskell gọi đến là tin tốt chứ.”

      “Đúng. Nhưng chỉ....” Dù đờ đẫn, tôi vẫn thấy cần súng trong tay đến phát điên. “Tôi nhờ việc. Chờ tôi ở đây hai phút.”

      “Cái gì?” Mắt tối sầm vì lo âu. “ định đâu?”

      “Sang nhà bên cạnh.” Tôi hối hả ra cửa sau.

      “David! Lỡ bị ngất sao?”

      “Có ai gọi cũng đừng mở cửa!” tôi kêu lên. “Nhưng nếu điện thoại reo trả lời và bảo tôi về ngay.”

      Tôi chạy ra ngoài và phóng qua hàng rào dày bao quanh sân sau những ngôi nhà phố. Tôi phóng vọt qua cả ba mảnh sân, rồi tắt qua bờ rào phía sau kho chứa đồ nhà hàng xóm. Hai giờ đêm qua tôi lén ra khỏi nhà và giấu chiếc hộp của Fielding dưới chỗ này. Bên trong chiếc hộp của Fielding là những linh kiện điện tử, phần cuốn băng ghi video của tôi, lá thư của Fielding và khẩu súng. Tôi quỳ xuống lấy lại chiếc hộp rồi trườn qua hàng rào và chạy thục mạng về sân nhà mình. Khi tôi về đến nơi, tôi có cảm giác như thằng say rượu chạy trong thành phố xa lạ.

      Rachel đợi tôi ngay ở cửa sau. “Đó là món đồ đêm qua,” . “Tại sao lại cần nó?”

      Tôi nghiêng chiếc hộp cho thấy khẩu súng.

      bước lùi lại. “David, làm tôi sợ.”

      phải khỏi đây ngay. ổn trong thời gian tôi kể chuyện của tôi với McCaskell.” Tôi để chiếc hộp xuống đất, giắt súng vào thắt lưng rồi dẫn ra phía trước nhà. “Hãy ở nơi công cộng đến hết ngày, như siêu thị chẳng hạn. Đừng về nhà trước khi tôi gọi cho .”

      trì người lại và để tôi kéo ra cửa. Động tác quả quyết của khiến chúng tôi nhìn thẳng vào mắt nhau. “Dừng lại ngay! mất phương hướng và có thể tự bắn mình do bất cẩn.”

      Tôi định trả lời, nhưng lời của tôi như bị hút xoáy vào khoảng tối của trí não. Mấy giây nữa là tôi bất tỉnh mất.

      “Tôi sắp ngất.”

      nắm lấy cánh tay tôi và kéo lê tôi vào phòng, tìm chỗ đặt tôi nằm xuống. Tôi chỉ cửa phòng ngủ của khách. Cảm thấy tôi sắp ngã, kéo tôi qua cửa rồi buông tôi ngã sấp xuống nệm.

      có thuốc men gì ?”

      “Hết rồi.”

      Tiếng bước chân xa dần. Tôi nghe tiếng cửa tủ sập mạnh, rồi tiếng Rachel tự với mình. Khi tiếng nghe gần hơn, tôi cố lật người lại. Bóng người che tối khung cửa.

      “Cà phê pha,” Rachel . “ còn tỉnh ?”

      “Hơi hơi.”

      nhìn tôi như người ta nhìn con vật trong quá trình thí nghiệm. “Trong bếp của có thức ăn gì cả, ngoài hũ muối khô như đá. Lần ra chợ gần đây nhất là bao giờ?”

      Tôi nhớ nổi. Mấy tuần gần đây là những giờ làm việc liên miên với Fielding về các thí nghiệm mà tôi hầu như chẳng hiểu mấy.

      Rachel ngồi lên giường và đặt ngón tay lên động mạch cảnh của tôi. Đầu ngón tay mát rượi.

      “Trước đây có lần tôi cũng thế này,” vừa vừa nhìn đồng hồ, môi khẽ mấp máy đếm mạch cho tôi. “Sau khi tôi mất đứa con trai. Ý tôi là chợ. trả hóa đơn. tắm. Tôi đoán đàn ông cần nhiều thời gian hơn để thoát khỏi tình trạng đó. Cuối cùng, tôi cố làm mấy việc vặt để lập lại trật tự cuộc sống. Nhờ đó tôi mới phát điên.”

      Tôi thấy mình mỉm cười. Tôi thấy thích vì để môn bệnh học tâm thần xen vào cách dùng những từ ngữ như điên. Tôi cũng thích cách đặt ngón tay lên cổ tôi. Tôi muốn với cái cảm giác được chạm vào. Nó nhắc tôi nhớ đến người, nhưng tôi là ai...

      “Sinh nhật là ngày nào?” hỏi.

      Tôi thể nhớ ra.

      “David?”

      làn sóng đen ập lên tôi, bao trùm tôi trong bóng tối.

      Tôi bước vỉa hè khu ngoại ô, ngắm nhìn những ngôi nhà dáng vẻ hoàn hảo xếp hàng ngay ngắn. Đó là phố Willow. Tôi sống ở Willow - dù sao cũng ngủ ở đó - nhưng nó chẳng giống con phố tôi sống hồi bé mấy. Ở phố Willow, tôi biết hàng xóm, và có những người tôi chẳng biết tí gì. NSA bảo tôi được làm quen với ai, và hóa ra điều đó lại rất dễ. Ở phố Willow, ai cố gắng để bắt quen. Ở Oak Ridge, nhà cửa hơn, nhưng tôi có thể kể tên tất cả những người sống trong đó. Xóm nhà tôi là thế giới riêng, đầy những khuôn mặt mà tôi biết như người thân trong gia đình. Ở phố Willow, trẻ con ở trong nhà nhiều hơn ra đường. Những ông bố tự xén cỏ trong vườn, mà thuê người khác làm. Ở Oak Ridge, các ông bố tự chăm sóc bãi cỏ nhà mình như thái ấp nho , dành hàng giờ bàn bạc với nhau về các loại máy cắt cỏ và cách bón phân.

      Tôi vòng qua góc phố và nhìn thấy ngôi nhà của mình. Ngôi nhà trắng với thảm cỏ xanh xén tỉa gọn gàng. Nhìn bề ngoài nó giống nhà, nhưng tôi có cảm giác ấm cúng. con chó đen vô chủ giống Labrador nhảy vọt ra đường, cảnh hiếm thấy ở đây. chiếc Lexus lăn bánh lại phía tôi, khi ngang qua tôi nó chạy chậm lại. Tôi vẫy tài xế, phụ nữ dong dỏng cao, trông hống hách. Chị ta nhìn tôi chằm chằm như thể tôi là kẻ thóc mách nguy hiểm. Tôi bước qua đường đến trước cửa nhà mình.

      Tôi thò tay vào túi lấy chìa khóa rồi rờ đến tay nắm cửa. Tôi đút cái gì đó vào lỗ khóa, nhưng... phải chìa khóa của tôi. Nó bằng kim loại mỏng, giống như chiếc giũa. Tôi xoay xoay chìa trong ổ khóa. Hơi bị mắc chút, nhưng sau đó khóa mở ra. Tôi mở cửa, lách vào bên trong và nhanh chóng đóng cửa lại sau lưng mình.

      Tay tôi thọc sâu vào túi bên kia, chạm phải cái gì lành lạnh. Các ngón tay bao quanh gỗ, và bàn tay nắm chặt báng khẩu súng, khẩu tự động. Tôi nhận ra loại vũ khí này. Tôi lấy từ túi bên ra ống giảm thanh rồi chậm rãi vặn vào nòng súng. Nó vừa khít. Đứng ngoài hành lang, tôi nghe tiếng thủy tinh va vào nhau lách cách. Có ai ở trong bếp. Tôi thận trọng tiến lên bước, chân dận thử ván sàn, rồi bắt đầu bước...

      Tôi choàng tỉnh trong nỗi khiếp sợ và giật phắt khẩu súng từ bên hông ra. khẩu súng lục, phải súng tự động. Và có giảm thanh. Tôi muốn kêu to gọi Rachel, nhưng cố nén lại. Bằng động tác, tôi lăn khỏi giường, đứng lên, rồi men ra cửa phòng ngủ.

      Thoạt tiên tôi chỉ nghe thấy giọng nữ khẽ ngân nga. Bản nhạc nghe như “California” của Joni Mitchell.

      Tiếng sàn gỗ cứng trong hành lang kêu răng rắc.

      Tôi khẽ hít hơi rồi nín thở.

      Tiếng ván sàn lại răng rắc. Có kẻ nào qua cửa, từ phải sang trái. Tôi nhắm mắt chờ đợi. tiếng rắc nữa. Tôi đếm chậm đến mười. Rồi tôi dùng bàn tay nhàng xoay tay nắm cửa. Khi xoay đủ vòng, tôi giật mạnh cửa ra, lao vào phòng khách, nhắm khẩu 38 ly sang bên trái.

      thanh niên tóc dài màu vàng hoe đứng cách tôi hai mét, hai cánh tay giơ qua cửa bếp. Tôi nhìn thấy bàn tay, nhưng tôi biết chúng nâng khẩu súng.

      Tôi kéo cò.

      có tiếng nổ hay tiếng cạch nào cả. Hóa ra tôi chưa gạt chốt an toàn, nên cò súng hai nấc chỉ được nửa chừng. Tôi nhả nó về, thằng tóc vàng quay người lại và đập vào mắt tôi là khẩu tự động có ống giảm thanh, nòng súng đen ngòm đáy. Đúng lúc này cò súng của tôi giật mạnh, và tia lửa vàng cam phụt ra chiếu sáng rực hành lang. Tôi chớp chớp nhắm và khi mở mắt ra thằng tóc vàng biến mất.

      giọng phụ nữ thét lên khiến màng nhĩ tôi ê buốt.

      Tôi nhìn xuống. Thằng tóc vàng nằm sàn nhà, máu tuôn ra từ sọ . Tôi bước lại đạp chân lên cổ tay giữ súng của . Tiếng thét vẫn dứt. Tôi liếc sang bên phải. Rachel đứng tựa lưng vào bồn rửa bát, mặt xám ngoét, mồm há hốc.

      “Im ngay!” tôi quát. “Im!”

      Mồm vẫn há, nhưng tiếng kêu tắt lịm.

      Tôi giật khẩu tự động khỏi tay thằng tóc vàng, rồi kiểm tra mạch ở cánh tay . Như sợi chỉ. Viên đạn xuyên qua sọ chỉ vành tai phải chút. Đôi mắt xám của trợn trừng, cả hai đồng tử bất động và dãn rộng. Tôi cúi xuống, thấy chất óc của lộ ra. thể sống quá năm phút.

      Tôi cảm nhận hơn là nhìn thấy Rachel di chuyển. Nhìn lên, tôi thấy cầm ống điện thoại trong bếp; sắp sửa quay số.

      “Bỏ xuống.”

      “Tôi gọi cứu thương.”

      còn cơ hội đâu.”

      “Làm sao biết được!”

      “Tất nhiên là tôi biết. Nếu tin kiểm tra .” Tôi đứng thẳng lên. “Mà ngay cả khi có cơ hội sống ta cũng thể liều được.”

      “Cái gì? sao?”

      nghĩ thằng này là ai? tên lưu manh đường phố chắc? thằng nghiện đột nhập vào nhà tôi giữa ban ngày? nhìn xem.”

      Rachel liếc xuống chừng vài giây. “Tôi biết là ai. biết à?”

      Khi tôi nhìn kỹ thằng nhãi ngỏm, tôi nhận ra mình biết . Ít nhất có gặp từ trước. thường xuyên, nhưng có lần tôi qua trong bãi đậu xe của Trinity, gã trai gầy cao lêu nghêu, tóc hoe vàng, có dáng vóc của những người mà ta có thể gặp đường núi châu Âu. Giống như Geli Bauer, có thể chất của vận động viên leo núi, hoặc tên lính xuất sắc.

      “Tôi biết . làm việc cho Geli Bauer.”

      Rachel nheo mắt bối rối. “Ai vậy?”

      ta là Trinity. ta là Godin. ta là NSA.” Tôi quẳng cả hai cây súng lên mặt quầy bếp. “Có kẻ ra lệnh cho ta lấy mạng tôi. Cả nữa, có vẻ thế.”

      Có gì đó trong tôi vẫn cưỡng lại ý nghĩ cho rằng Peter Godin ra lệnh giết tôi. Nhưng ở Trinity gì có thể thực được nếu lão chưa thông qua.

      “Chúng ta phải gọi cảnh sát,” Rachel . “Chúng ta sao. định bắn tôi. Đó là tự vệ, là... giết người có lý do chính đáng, như họ thường .”

      “Cảnh sát ư? thể gọi cảnh sát để điều tra NSA. Tôi với rồi.”

      “Tại sao ? định giết tôi. Đó là hành vi phạm tội.”

      Tôi gần như phì cười. “NSA là cơ quan tình báo lớn nhất và bí mật nhất ở Mỹ. Mọi việc nó làm là tuyệt mật. Phải có lệnh của tòa án cảnh sát mới có thể bước qua cổng vào căn cứ quân Meade.”

      “Đây phải căn cứ quân Meade.”

      “Đối với NSA, nó là căn cứ quân Meade. Nghe này, chúng ta cứ tự lo cho tới khi tôi gọi được cho tổng thống. hiểu ?”

      nhìn xuống vũng máu. “Có thể là lưu manh đường phố.”

      vẫn hiểu à? Đó là lý do chúng lấy cắp bệnh án của tôi từ phòng đấy!”

      “Cái gì?”

      “Chúng tính đến chuyện giết .”

      há mồm ra nhưng gì.

      “Nếu chúng phải photocopy bệnh án và để lại chỗ cũ. Chúng muốn để lại thứ gì ở phòng khám để cảnh sát Durham có thể liên hệ với dự án.”

      lắc đầu, nhưng lý lẽ của tôi khó mà bác bỏ. Tôi giắt khẩu tự động vào thắt lưng rồi nhặt khẩu 38 ly của mình lên.

      “Chúng ta phải rời khỏi đây. nhanh. Có thể bọn khác đến gần.”

      Mắt mở to. “Bọn khác?”

      Tôi bỗng ngộ ra tất cả. “Bọn NSA nghe trộm điện thoại của tôi. Khi chúng thấy Ewan McCaskell để lại tin nhắn, chúng biết tôi chưa chuyện được với tổng thống. Đó là tất cả những gì mà chúng mong đợi. Tôi quá kích động khi thấy tin nhắn.”

      Tôi nắm tay . Bàn tay lạnh và mềm rũ. “Chúng ta phải chạy thôi. Rachel. Ngay bây giờ. Nếu , chúng ta chỉ có nước chết ở đây thôi.”

      “Chạy đâu?”

      “Bất cứ đâu. xác định. Chúng ta phải biến mất.”

      . Chúng ta làm gì sai.”

      “Điều đó chả có nghĩa lý gì.” Tôi chỉ vào gã nằm sàn và thấy còn thở nữa. “ có nghĩ rằng cái xác này là trong những ảo giác của tôi ? ”

      giết ,” với giọng của đứa trẻ.

      “Và tôi có thể làm lại điều đó. Lúc ấy chuẩn bị nã phát đạn vào đầu .”

      loạng choạng. Tôi đỡ , rồi dìu vào phòng ngủ của khách nơi tôi bị bất tỉnh ít phút trước.

      nghỉ ở đây. Tôi phải kiếm mấy thứ.” Tôi cố nhét khẩu 38 ly vào tay , nhưng rụt lại. “ giữ ,” tôi nài nỉ, bắt nắm lấy súng. “Nếu mình ra khỏi đây, bị giết.”

      trừng trừng nhìn tôi với cặp mắt trống rỗng.

      Tôi lấy khẩu tự động ra khỏi thắt lưng, kiểm tra để đảm bảo chốt an toàn gạt. “Hứa với tôi là đừng ra khỏi đây nhé.”

      “Tôi ra khỏi đây,” đờ đẫn .

      Tôi rời phòng khách và lao nhanh lên gác. Phòng ngủ của tôi ở bên trái cầu thang. Phía bên phải là phòng ngủ tôi dành để chứa đồ. Tôi kéo chiếc ghế cũ vào hốc trong phòng rồi đứng lên. Với tay là tôi có thể chạm tới tấm gỗ dán dẫn lên gác xép. Tôi đẩy mảnh gỗ vuông ra rồi dùng sức nâng mình chui vào đó.

      Tôi đứng lom khom để khỏi bị đinh xà gồ thò ra đâm phải, tôi giữ thăng bằng rui nhà, nhìn quanh để tìm phương hướng. Ánh sáng lọt qua mái chìa và lỗ thông hơi dưới vòm đủ để tôi thấy đường. Tôi dò dẫm hai mươi bước sang phải rồi quỳ xuống. Nằm tấm cách nhiệt bằng sợi thủy tinh màu hồng là chiếc búa và cái xà beng tôi để lại cách đây bốn tuần, hình như bất cẩn bỏ quên. Tôi nhặt chúng lên và bước nhanh đến chỗ sàn lát gỗ dán dày 6 li.

      Lách xà beng vào khe giữa hai tấm gỗ, tôi gõ búa cho lún sâu xuống, rồi bẩy mạnh xà beng. Tấm gỗ dán toác ra. Tôi cắm đầu xà beng vào lỗ nứt ấy, bẩy mạnh lên, làm toạc mảnh gỗ chừng sáu mươi phân. Tôi lôi chiếc túi thể thao bằng nylon từ hang tối phía dưới, kéo mở khóa ra. Ánh sáng mờ mờ lọc qua mái chìa chiếu sáng những đường nét chữ nhật của hộ chiếu và hai xấp tiền khá dày. Mỗi xấp toàn tiền 100 đô. Tất cả khoảng hai mươi nghìn đô.

      Cách đây năm tuần, khi Fielding với tôi rằng tôi cần phải giấu cái bọc như thế, tôi cười ông. Nhưng ông tiên liệu ngày này tới. Kéo khóa túi lại, tôi bò rui nhà, tìm đến lỗ thông mà ném chiếc túi xuống sàn. Cánh tay tôi run lên vì căng thẳng khi tôi thả người xuống ghế rồi kéo tấm gỗ vuông đậy lỗ thông lại như cũ.

      Khi chân tôi vừa chạm sàn nhà, hình ảnh Rachel hoảng hốt chạy ra khỏi nhà bỗng ngập tràn tâm trí tôi. Tôi nắm chiếc túi và chạy xuống gác.

      vẫn ngồi giường, mắt đờ đẫn vì sốc.

      “Đến lúc rồi,” tôi . “ sẵn sàng chưa?”

      chớp mắt nhưng gì.

      Tôi nắm lấy tay , kéo đứng dậy. “Tôi cần bình tĩnh được năm phút, sau đó có thể gục xuống nếu cần. Nào ta .”

      Tôi kéo qua hành lang và bếp đến phòng giặt đồ có cửa thông ra ga ra. Để đứng đó, tôi chạy vào lấy chiếc hộp của Fielding ở cửa sau rồi quay lại lấy khẩu 38 ly từ tay .

      cầm lấy cái này,” tôi vừa vừa đưa cho chiếc hộp. “Cứ đợi ở đây đến khi tôi gọi .”

      ngập ngừng để nỗi sợ có cơ lấn át, tôi mở toang cửa từ nhà ra ga ra rồi chĩa súng xông vào, lia từ trái qua phải, bao quát mọi góc bắn.

      Ga ra trống rỗng.

      Tôi lướt nhanh vòng quanh chiếc Acura của mình, rồi quỳ xuống nhìn dưới gầm.

      “Nào !” tôi kêu to. “Nhanh lên!”

      Đế giày của Rachel rin rít sàn xi măng trơn nhẵn. Tôi mở cửa xe cho , đỡ lấy chiếc hộp của Fielding và đặt xuống ghế sau. “Nếu có chuyện gì xấu xảy ra, nó xảy ra ngay bây giờ.” Tôi vừa ngồi vào sau tay lái vừa . “ ngồi thấp xuống.”

      tuột xuống sàn xe. Chỏm đầu chỉ hơi cao hơn khung cửa. Tôi ấn đầu xuống, rồi khởi động máy và lùi xe.

      “Cứ ngồi yên thế.”

      Tôi chạm tay vào hộp điều khiển từ xa kẹp tấm chắn nắng. Động cơ nâng cửa ga ra rú lên đầu chúng tôi, rồi cánh cửa ga ra rộng màu trắng từ từ kéo lên. Tôi siết chặt khẩu súng của tên giết người trong tay, nhìn xem có bóng đôi chân nào trong khoảng nắng chữ nhật mỗi lúc rộng ra .

      có gì.

      Đúng khoảnh khắc cửa ga ra nâng lên khỏi nóc xe, tôi rú ga. Chiếc Acura lùi vọt ra sân xi măng giữa ánh nắng lóa mắt. Tôi bấm điều khiển từ xa để đóng cửa ga ra, rồi đánh tay lái sang trái. Tôi rà phanh cho đến khi chiếc xe thẳng hướng phố Willow.

      “Chuyện gì vậy?” Rachel hoảng hốt kêu lên vì thấy tôi dừng đột ngột.

      “Ngồi xuống!”

      Tôi định bụng cứ thong thả chạy nếu đường phố vắng người, nhưng khi chúng tôi dừng lại, tôi mơ hồ cảm thấy có tay thiện xạ vô hình ngắm bắn chúng tôi. Tôi sang số, nhấn hết ga lao thẳng lên phố Willow, để lại mặt đường sau lưng vệt bánh xe cao su dài hai mét.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 13


      Tại trung tâm điều khiển của tòa nhà Trinity, Geli Bauer đứng bất động vào ống nghe.

      “Chúng tôi nghe thấy tiếng súng nổ. Trong nhà Tennant.”

      “Chẳng phải mong chờ điều đó ư?” Skow hỏi.

      Đồ ngu. “. Súng của Ritter có giảm thanh.”

      “Và đêm qua Tennant có mang theo súng?”

      “Đúng.”

      Skow tiếp tục im lặng. “Điều đó có nghĩa là Ritter gục.”

      . Thực ra tôi thể hình dung kịch bản như thế.”

      “Tốt. Bây giờ muốn làm gì?”

      Geli luôn coi Skow là tên lính suông, vì khi viên đạn bay , gã chỉ chờ Geli hướng dẫn. “Tôi rút hết lực lượng quan trọng của mình về để còn tình trạng khả nghi. Nhưng nếu tôi cầm chắc được thắng lợi trong vòng năm phút nữa, tôi tung đội vào đó để điều tra.”

      có gì ngụy trang ?”

      chiếc xe tải làm dịch vụ vệ sinh thảm.”

      “Có thể nào người ta báo về tiếng súng nổ cho cảnh sát địa phương ?”

      “Có thể đấy. Nếu xe tuần cảnh bất ngờ xuất khi chúng ta chưa kịp xóa sạch trường...”

      “Dùng quyền ủy nhiệm NSA cho để cách ly ngôi nhà,” Skow kết thúc, cuối cùng cũng tỏ ra đôi chút can đảm. “Xong gọi ngay cho tôi.”

      “Tôi gọi.”

      “Tôi gác máy đây.”

      “Đợi chút.”

      “Cái gì nữa?”

      Geli chán núp trong bóng tối. “Tennant hỏi tôi về chiếc đồng hồ bỏ túi.”

      “Chiếc đồng hồ bỏ túi nào?”

      Chiếc máy dò nhảm nhí của ả chỉ kịch kim. “Sáng nay tôi soát kho. Tìm các đồ dùng cá nhân của Fielding. Tất cả đều còn chỉ trừ chiếc đồng hồ bỏ túi.”

      Skow im lặng hồi lâu. Rồi gã như tự với mình, “Chắc Fielding cho biết điều gì đó về cái này.”

      “Thế có muốn cho tôi biết điều gì đó về chuyện này ?”

      “Có biết cũng chẳng cần thiết cho công việc của .”

      Nỗi tức giận xoẹt qua người ả. “Nếu là về suy nghĩ của Tennant cũng quan trọng đấy.”

      “Quan trọng. Nhưng phải với . Cứ tiếp tục báo cáo tình hình ở nhà đó cho tôi.”

      Skow gác máy.

      Geli ngồi vào ghế của mình. Ả ghét bị giấu giếm, nhưng đó là bản chất của công tác tình báo. Hãy giữ chúng trong bóng tối và nhồi nhét cho chúng đầy những chuyện tầm phào. Ả thừa hiểu tầm quan trọng của việc đừng tò mò những chuyện cần biết. Trong hai năm qua, ả thấy cần biết các nhà khoa học làm gì. Nhưng thể thay đổi. Từ khi dự án bị treo, Peter Godin cứ suốt, hình như là thăm trụ sở chính của tổ hợp ở California. Geli còn tin điều đó nữa. Đôi khi Godin kéo Ravi Nara theo, và điều đó vô lý. Nara chẳng liên quan gì tới Siêu máy tính Godin, thậm chí Godin còn ưa tay bác sĩ thần kinh này.

      Bây giờ Godin lặn mất tăm. Hay Godin mang chiếc đồng hồ bỏ túi của Fielding theo? Tại sao chiếc đồng hồ lại quan trọng đến thế? Khi Fielding mới đến làm việc ở Trinity, kỹ sư của NSA tháo rời chiếc đồng hồ ra để chắc chắn nó chứa thiết bị ghi dữ liệu. ta tuyên bố nó sạch. Năm nay nó lại được tháo ra lần nữa, vào ngày chọn ngẫu nhiên. Đồng hồ vẫn sạch. Vậy tại sao nó lại bị lấy cắp khỏi kho chứa đồ. Geli hình dung ra chiếc đồng hồ trong trí. chiếc vỏ bằng vàng nặng, hiếm khi được sử dụng. Có dây chuyền gắn vào đó, ở cuối sợi dây là viên pha lê. Nhưng pha lê trong suốt. Bên trong nó thể giấu giếm thứ gì được. Ít nhất là những thứ ả biết.

      Đường dây nối trực tiếp của ả với NSA nhấp nháy đỏ. Ả chuyển sang tai nghe. “Bauer.”

      “Jim Conklin đây.” Conklin là đầu mối liên lạc chính của ả tại Crypto City ở căn cứ quân Meade.

      “Chuyện gì thế?”

      “Chúng tôi vẫn tiếp tục kiểm soát cuộc gọi từ các điện thoại công cộng xung quanh nhà Fielding.Tất cả các trạm điện thoại công cộng trong vòng năm cây số, 24/24. đừng bãi bỏ lệnh này.”

      “Tôi có ý bãi bỏ đâu?”

      “Được. Mấy ngày qua chúng tôi dùng tất cả thiết bị kiểm soát sử dụng trong hoạt động chống khủng bố để kiểm tra xem có giọng nào khớp .”

      Tim Geli đập dồn dập. “Các có được gì sao?”

      “Cách đây bốn ngày, Andrew Fielding gọi điện từ cửa hàng tiện lợi kiêm trạm xăng. Tôi nghĩ muốn nghe đấy.”

      có thể gửi cho tôi file thanh được

      “Được chứ. Chúng tôi gửi qua mạng Webworld.” Webworld là mạng an ninh nội bộ của NSA mà Geli là trong số những người ngoài hiếm hoi được truy cập. “ có cần ảnh phổ của nó ?”

      . Tôi biết giọng Fielding.”

      “Chờ hai phút.”

      Geli bấm tắt, liếc đồng hồ đeo tay, rồi “JPEG, Fielding, Andrew.” bức ảnh Fielding phủ kín màn hình máy tính của ả. Lão già người tóc bạc có khuôn mặt xương xương điển trai, đôi gò má hồng hào. Khi còn sống, Fielding rất thích rượu gin. Nhưng chính đôi mắt ông ta mới gây ấn tượng. Xanh lấp lánh, có cái vẻ láu lỉnh trẻ con gần như che lấp trí thông minh sâu sắc đằng sau. Khi Geli nhìn vào đôi mắt ấy, ả nhận ra ông ta là đối thủ ghê gớm như thế nào. Ông ta có thể chết mà vẫn kiểm soát các kiện.

      biểu tượng của file thanh nhấp nháy góc màn hình. NSA làm việc hiệu quả. Ả định mở file có tiếng bíp ở tai nghe, mật mã báo động từ nhóm trong xe tải làm dịch vụ vệ sinh thảm.

      “Cái gì thế?”

      “Có xe tuần cảnh chạy phố. Chắc có kẻ báo về tiếng súng nổ.”

      Geli nhắm mắt. Có lẽ ả phải xin phép chính quyền liên bang để phong tỏa nhà Tennant. Cảnh sát thành phố sắp biết về diện của NSA ở Chapel Hill rồi.

      “Tôi đến ngay đây.”

      “Chúng tôi rút.”

      Geli nhấn nút bàn làm việc, báo động đến tất cả nhân viên các đội an ninh của ả, dù ở trong cơ quan, làm nhiệm vụ trực ban, hay ngủ ở nhà. Hai phút sau, mạng lưới bủa vây nhà Tennant từ mọi hướng.




      CHƯƠNG 14


      Tôi sắp lái xe ra khỏi khu nhà nhận ra mình mắc sai lầm. Con đường xa lộ rộng mênh mông tưởng là lối thoát nhưng phải. Tôi biết Geli Bauer quá . Đánh mạnh tay lái sang trái, tôi quay đầu xe ở giữa phố Hickory, rồi ngoặt lên Elm.

      “Sao lại quay lại?” Rachel ngồi bệt dưới sàn xe phía ghế khách hỏi.

      săn thỏ bao giờ chưa?”

      chớp mắt bối rối. “Thỏ à. Tôi là người New York cơ mà.”

      phụ nữ xe đạp leo núi ngang qua chúng tôi đưa tay vẫy, đứa bé con ngồi ghế gắn chắn bùn sau. Trong cảnh ngộ thời của chúng tôi, hình ảnh này giống như siêu thực.

      “Khi con thỏ chạy thoát thân, nó chạy nhanh như chớp theo đường dích dắc. Nhưng nó luôn chạy vòng về nơi xuất phát. Đấy là chiến lược chạy trốn tuyệt hảo. Tất nhiên, người săn thỏ biết điều đó. Chính vì thế họ dùng chó săn. Lũ chó rượt đuổi thỏ trong khi người thợ săn đứng đó chờ bắn thỏ khi nó quay vòng trở về.”

      Nét mặt Rachel lộ vẻ khó chịu. “ là dã man.”

      “Nhờ thế mới có thực phẩm mà ăn. Vấn đề là, bọn đuổi bắt tưởng chúng ta chạy trốn như người. Nhưng chúng ta lại học bài học của thỏ.”

      “Làm thế chúng ta được gì?”

      “Đầu tiên là vì chiếc xe. Chiếc xe này chỉ chạy được quá tám cây. Xe cũng thế.”

      “Vậy ta có thể lấy xe của ai?”

      cứ ngồi cho vững .”

      Phố Elm bao quanh khu nhà tôi. Khi đến cổng phía Đông của phố Oak - phố này song song với Willow - tôi quẹo trái. Trong khi lái xe, tôi quan sát giữa các ngôi nhà để kịp thoáng thấy dãy mái nhà phố tôi. Khi nhìn thấy nhà mình, tôi quan sát các bãi cỏ phía trước. Phía phố Oak trăm mét, tôi thấy thứ mình muốn tìm. tấm biển BÁN NHÀ màu xanh trắng. Ngôi nhà cần bán có lối vào cong dài nhưng xe nào đậu cả. Rẽ vào lối vào nhà, tôi lanh lẹ đánh tay lái khỏi đường xi măng rồi chạy lại đậu sau bụi hoàng dương rậm rạp.

      “Theo tôi,” tôi vừa ra khỏi xe vừa .

      Rachel đứng lên khỏi sàn xe, mở cửa. Mặt tái xanh, tay run lẩy bẩy. Có lẽ phát súng ở nhà tôi làm bị sốc. Nó cũng làm cho cả tôi lo lắng. Trước đây tôi từng giết người. Tôi tiêm cho tôi ma túy và kali, rồi nhìn thấy tia ý thức cuối cùng tắt ngấm trong cặp mắt. Nhưng bắn vỡ óc người là chuyện hoàn toàn khác. Và khi Geli Bauer biết tôi giết trong những thủ hạ của ả, ả săn lùng tôi cùng trời cuối đất để trả thù.

      Tôi bước lại gần Rachel, kéo lại và ôm như trước đây tôi từng ôm vợ con tôi. “Chúng ta ổn thôi,” tôi tin tưởng lắm. Mùi tóc gần gũi. Vợ tôi cũng thường dùng loại dầu gội này. Tôi gạt kỷ niệm ra khỏi trí óc. “Nhưng chúng ta phải chạy trốn. hiểu ?”

      gật đầu ngực tôi. Tôi vuốt tóc , vẫn còn bàng hoàng trước những gì xảy ra với mình. Cách đây ba mươi phút, tôi tưởng cơn ác mộng này qua . Evan McCaskell gọi lại, và tổng thống kiểm soát được Trinity. Bây giờ hy vọng tan thành mây khói.

      “Chúng ta phải bộ chút,” tôi , “rồi sau đó mượn xe. có ai ngăn cản chúng ta. Trông chúng ta giống người bán hàng khi tôi cầm chiếc hộp của Fielding. có làm nổi ?”

      gật đầu.

      Tôi lấy chiếc hộp của Fielding trong xe ra rồi bộ dọc phố Oak, Rachel bên cạnh. “Nơi sân sau kia có hàng rào chạy sau những lô đất bên phố tôi. thấy nó ngay thôi. Chúng ta phải tắt qua đó để sang phố tôi. Khi nào đến tôi bảo.”

      Chạy vỉa hè, chúng tôi mau chóng vượt qua hàng trăm mét để đến chỗ có thể trông thấy mái nhà tôi. Tôi dắt tay chạy qua thêm hai bãi cỏ rồi , “Đây rồi. Lối tắt giữa các ngôi nhà.”

      hàng rào riêng bằng gỗ bịt giữa hai ngôi nhà tôi chọn.

      “Nếu cổng khóa, chúng ta trèo vào,” tôi .

      “Nếu có người ở sân sau?”

      “Cứ để tôi xử lý.”

      Cổng mở ra dễ dàng. Sân sau có mấy món dụng cụ sân chơi bằng nhựa, chiếc máy xén cỏ, nhưng có người. Tôi đặt tay lên thắt lưng Rachel dẫn vượt qua sân. Hàng rào sau có cổng nên tôi cúi người, đan tay để trèo qua, rồi tự mình nhảy bật qua rào xuống đất bên cạnh .

      Khoảng trống giữa hàng rào và tường bao chỉ rộng chưa đầy mét. Tôi trườn qua lỗ hổng phía dưới bụi cây, rồi đứng lên sau cái nhà kho mà trước đây tôi giấu chiếc hộp của Fielding. Rachel theo, nắm chặt tay tôi và nhao người . Tôi biết chủ nhà kho này làm gì kiếm sống, nhưng tôi đoán ta buôn bán gì đó, vì ta ít khi ở nhà.

      Bên trong nhà kho mờ tối, sặc mùi chuột chết và mùi dầu máy. Hàng loạt dụng cụ treo vào các móc bảng. Tôi tìm chiếc xà beng giống chiếc gác xép nhà tôi, nhưng thấy cái nào. Quỳ xuống, tôi xem xét gầm giá đựng đồ. Ở đó chủ nhà xếp gọn ghẽ các đồ câu. có cái gì đủ nặng để dùng vào việc của tôi.

      “Tôi khó thở quá,” Rachel kêu lên.

      “Đấy là tại cái mùi. ra ngoài .”

      Khi ra rồi, tôi thấy chiếc búa tạ dựa trong góc. Tôi cầm nó lên ra ngoài. Rachel cúi gập người, hai tay ôm gối.

      “Cái đấy để làm gì vậy?” hỏi.

      “Lại đây.”

      Tôi xách búa phi ra cửa sau, vung lên theo đường vòng cung bổ mạnh vào chiếc khóa. Cửa toác ra lỗ. Vứt búa xuống, tôi chui vào ngôi nhà tối om. Rachel theo sau. Tôi nghe thấy tiếng chuông báo động, nhưng có thể có loại báo động kêu. Đường dây dẫn thẳng đến dịch vụ an ninh.

      “Tôi cần tìm nhà bếp,” tôi bảo .

      “Lối này. Tôi ngửi thấy mùi tỏi, và mùi nước rửa chén.”

      “Tìm móc treo tường. Tôi cần tìm chìa khóa xe.”

      bật đèn lên dễ tìm hơn.”

      Tôi bấm công tắc ở tường và bếp tràn ngập ánh sáng. Đó là gian trưng bày: đầy những thiết bị Viking chuyên nghiệp bằng thép rỉ. Trong khi Rachel tìm móc treo tường, tôi mở ngăn kéo ra. Cái chứa giẻ rửa bát, cái gần như đầy ắp phiếu mua hàng giảm giá, điều này có vẻ kỳ cục. Người có tiền mua thiết bị Viking chẳng cần cắt phiếu mua hàng ra làm gì.

      “Chìa khóa!” Rachel kêu lên, nắm được cái gì đó nóc quầy.

      Tôi cầm lấy chìa khóa và xem xét. “Cái này là chìa khóa xe cắt cỏ. Tìm tiếp .”

      Ngăn kéo tiếp theo chứa hộp đinh, vít, keo dán, kẹp giấy. có chìa khóa.

      “Tại sao chọn nhà này?” hỏi.

      “Người chủ nhà độc thân và bao giờ có nhà, nhưng tôi biết ta có hai xe.”

      “Thấy rồi!” lấy ra chiếc chìa khóa đen vuông từ cái móc dưới ngăn tủ. “Chìa khóa xe Audi.”

      “Đúng rồi.”

      Giống như ở nhà tôi, tôi phải qua phòng giặt đồ để ra ga ra. Chắc hai nhà cùng kiến trúc sư thiết kế.

      “Sao biết chìa khóa xe Audi?”

      “Chồng cũ của tôi có cái.”

      Tôi mở cửa ra ga ra và thấy chiếc A8 màu ánh bạc nằm đó như lời đáp cho ước nguyện của mình. Chiếc xe thứ hai của chàng này là Honda Accord. Có lẽ ta vác chiếc Accord ra sân bay cho những chuyến xa có mang theo ô tô, và để dành chiếc Audi oách xà lách này để lại đường.

      “Người nào có chiếc xe tám mươi ngàn đô chắc phải có hệ thống bảo vệ nhà,” Rachel qua vai tôi.

      “Cảnh sát chắc đường đến đây. Chìa khóa đâu?”

      thảy chiếc chìa khóa vào lòng bàn tay tôi như y tá chuyền dao mổ cho bác sĩ giải phẫu, và hai mươi giây sau, để cửa ga ra tự sập xuống sau lưng, chúng tôi bon bon phố Willow. Tôi nhìn ngược xuôi đường phố Willow, chú ý để vòng quá xa về bên phải trong khi vẫn để mắt nhìn về phía nhà tôi. có ai. Ngay cả người làm vườn.

      “Chúng ta lấy cắp chiếc xe này được gì nếu cảnh sát đến theo tín hiệu báo động của chủ nó?” Rachel hỏi.

      “Cảnh sát biết bị mất thứ gì. Họ biết có chiếc xe này ở đó. Họ phải lần theo dấu vết chủ nhà, mà bây giờ có lẽ công tác ở tận phương nào có trời mới biết.”

      Tôi lái ngoặt hai lần nhanh và lao lên đường Kinsdale, nhắm thẳng hướng Đông về phía xa lộ liên bang 40. Đường khá đông xe cộ, làm tôi mừng rỡ.

      “Chúng ta đâu bây giờ?”

      Tôi nhoài ra ghế sau lấy từ trong hộp ra phong thư dán kín của Fielding, ném lên đùi . Tôi chỉ dòng chữ, Đêm thứ Bảy, tôi với Lu Li chạy xe ra chỗ nhà xanh.

      “Chỗ nhà xanh?”

      Dùng đầu gối để cầm lái, tôi lục tìm trong ngăn đựng đồ thấy chiếc bút bi. Tôi rút thư ra khỏi bao và viết Nags Head/Bãi Ngoài bên dưới hình vẽ Thỏ Trắng ngộ nghĩnh của Fielding.

      “Sao thể to lên với tôi?”

      Tôi viết nguệch ngoạc, Có thể bọn chúng nghe trộm.

      giật lấy bút và viết, BẰNG CÁCH NÀO? CHÚNG TA CHỈ VỪA MỚI LẤY TRỘM CHIẾC XE NÀY THÔI MÀ!

      “Tin tôi ,” tôi thầm. “Điều đó có thể đấy.”

      lắc đầu, rồi viết, Có gì ở Nags Head? Chứng cớ à?

      Hình ảnh chiếc đồng hồ bỏ túi của Fielding lóe lên trong óc tôi. Tôi lấy lại bút và viết, Tôi hy vọng thế.

      viết, Di động trong túi tôi. Thử gọi cho tổng thống xem?

      Tôi lấy bút viết, Chuyện đó lúc này đơn giản.

      “Sao ?”

      có cách nào viết hết những điều cần . Tôi kéo sát lại và thầm vào tai. “Khi bọn chúng nghe McCaskell nhắn, chúng biết rằng có thể thủ tiêu tôi và với tổng thống bất kỳ điều gì chúng dựng lên để giải thích cái chết của tôi. Cả của nữa.”

      “Bịa chuyện thế nào mà giải thích được điều đó?”

      “Dễ thôi. Lúc này tổng thống hay rằng chứng hoang tưởng của tôi phát triển thành loạn óc. Ravi Nara viết bản chẩn đoán chính thức. Y tôi trở nên hoang tưởng đến mức nguy hiểm, rằng tôi tin Fielding bị giết trong khi ràng ông chết vì nguyên nhân tự nhiên. Hồ sơ bệnh án của tôi ở phòng khám của tôi bị hoang tưởng, thậm chí có thể là tâm thần phân liệt. Chúng được sử dụng để hỗ trợ cho luận điểm của Nara.” Tôi dời mắt khỏi đường và nhìn . “ có thấy thủ đoạn nham hiểm ?”

      quay .

      phải là bức tranh sáng sủa, đúng ?”

      . Nhưng phải gạt bỏ nó ra khỏi đầu trong ít phút. lái xe đường. Nếu cứ nhất nhất đòi lái xe cần phải bình tĩnh lại.”

      “Nhưng đó phải chuyện tôi bận tâm lúc này.”

      “Vậy chuyện gì?”

      Chọn cách trả lời trung thực, tôi phải chịu rắc rối, nhưng tôi muốn giấu kín thêm nữa. “Tôi trông thấy.”

      “Thấy gì?”

      “Thấy kẻ định giết .”

      “Tất nhiên là trông thấy. phải nhìn thấy mới bắn được chứ.”

      Tôi lao xe lên dốc I-40, tăng tốc rồi chạy lẫn vào dòng xe cộ lên phía RTP và Raleigh. “Tôi định thế. Tôi thấy bộ phố. Phố Willow. Trước cả khi đến nhà. bước thẳng đến cửa trước.”

      muốn gì?”

      “Tôi mơ thấy chuyện đó, Rachel.”

      nhìn tôi trừng trừng. Trước đây chưa từng có mặt bên tôi khi tôi rơi vào trạng thái hoang tưởng. “ nhìn thấy như thế nào? Giống như những hoang tưởng về Jesus ư? Hay như trong xi nê? Thế nào?”

      “Tôi nhìn thấy mọi chuyện theo cách mà thấy những gì tên tội phạm hay con quái vật nhìn, trong các phim hạng B. Tôi trông thấy nó qua mắt .”

      ngả người ra ghế. “ hãy cho tôi biết chính xác là thấy những gì.”

      “Những ngôi nhà phố tôi. Đôi chân tôi cuốc bộ. con chó chạy lon ton bên cạnh. Tôi nghĩ mình mơ về bản thân. Nhưng khi tôi về đến nhà và thò tay vào túi lấy chìa khóa ... tôi rút ra chiếc móc mở khóa.”

      “Tiếp tục .”

      “Tôi mở khóa rồi vào bên trong. Tôi nghe thấy tiếng trong bếp, và sau đó tôi rút ra khẩu súng.”

      Rachel nhìn chăm chăm qua kính xe, nhưng ràng tâm trí ở tận đẩu đâu. “Điều đó chẳng có nghĩa gì cả,” cuối cùng . “Những giấc mơ về kẻ lạ đột nhập vào nhà hay phòng ngủ hầu như phổ biến với các bệnh nhân của chứng ngủ rũ. Ngay cả khi bị bệnh ngủ rũ, đó cũng có thể là giấc mơ điển hình, biến dạng của thực do những nỗi lo lắng gây ra.”

      . Giờ giấc ăn khớp rất hoàn hảo. Tôi thấy mối nguy trong mơ, và khi tôi tỉnh dậy, mối nguy còn đó trong thực tế. Đúng y như tôi trông thấy nó.”

      bóp vai tôi. “ hãy nghe tôi. quen với tiếng động trong nhà mình. lại vừa bị căng thẳng. bỗng nghe thấy thanh lạ, thanh gợi ngay cho nỗi sợ bị trộm đột nhập. Cửa trước mở ra. Cửa sổ nâng lên. tấm ván kêu răng rắc. Phản ứng với những kích thích ấy, trí não của tạo ra giấc mơ về cuộc đột nhập. Điều đó đủ làm hoảng sợ để tỉnh dậy. Giấc mơ của phản ứng với những kích thích bên ngoài, chứ có gì khác.”

      Tôi có nhớ đến tấm ván kêu răng rắc. Nhưng tôi tỉnh khi nghe thấy tiếng động đó. “Tôi trông thấy khẩu súng của trong mơ”, tôi bướng bỉnh . “Đó là khẩu tự động. Có giảm thanh.” Tôi vỗ vỗ vào khẩu súng đeo bên thắt lưng. “Giống như khẩu này.”

      “Trùng hợp thôi.”

      “Trước đây tôi chưa bao giờ trông thấy khẩu súng giảm thanh.”

      “Tất nhiên từng thấy rồi. nhìn thấy chúng hàng trăm lần trong phim.”

      Tôi nghĩ ngợi về điều này. “Đúng. Nhưng còn chuyện nữa.”

      “Chuyện gì?”

      “Đây phải lần đầu tiên tôi mơ như thế. Tức là trong mơ tôi là người khác, người trong tại. Tôi mơ như thế vào cái ngày Fielding chết.”

      tả nó cho tôi nghe.”

      xe tuần cảnh Durham chạy qua chúng tôi làn Tây. Tim tôi thót lại, nhưng chiếc xe chạy chậm lại hay nháy đèn.

      “Hôm qua khi tôi thu băng video - ngay trước lúc đến - tôi mơ thấy mình là Fielding ngay trước và trong lúc ông ấy chết. Điều đó thực đến mức tôi cảm thấy mình chết . Tôi nhìn được... thở được. Khi tôi ra mở cửa cho , tôi còn biết đường nào.”

      “Nhưng Fielding chết vào buổi sáng hôm ấy.”

      “Vậy sao?”

      giơ tay lên như để nhấn mạnh việc ràng. “ thấy ư? Giấc mơ Fielding của báo trước điều gì. Nó chẳng qua là phản ứng của nỗi đau. còn mơ thấy những giấc mơ nào như vậy nữa?”

      Tôi nhìn lại đoạn đường phía sau. Chúng tôi đến Công viên Tam giác Nghiên cứu. Con đường I-40 chạy qua đó. Cách đây chưa đầy hai cây số Geli Bauer chỉ huy cuộc săn đuổi tôi.

      “David, còn mơ thấy những giấc mơ nào như vậy nữa?”

      “Bây giờ chưa phải lúc bàn chuyện đó.”

      “Có lúc nào tốt hơn sao? Tại sao bỏ ba buổi hẹn khám với tôi?”

      Tôi lắc đầu. “ nghĩ là tôi điên.”

      “Đó phải thuật ngữ y học.”

      “Dù sao nó cũng mô tả đúng thực trạng.”

      thở dài và nhìn trảng cỏ xanh mướt bên đường phía qua cửa kính.

      “Đó là Trinity,” tôi . “Phía kia kìa.”

      Phòng thí nghiệm nằm xa đường quá nên quá nhìn .

      “Có logo Argus Optical,” .

      “Đó là cái vỏ.”

      “À, coi nào... giấu tôi những hoang tưởng của có lợi gì nào? nghĩ bảo vệ cái phần nào trong con người ?”

      “Chúng ta chuyện đó sau.” Tôi thấy chịu thôi. “Tôi cần thuốc, Rachel. Tôi thể chịu nổi năm lần choáng ngất ngày khi chúng ta còn chạy như thế này.”

      dùng thuốc gì vậy? Modafinil à?”

      Modafinil là loại thuốc tiêu chuẩn điều trị chứng ngũ rũ.

      “Đôi khi. Thường tôi dùng methamphetamin.”

      “David, chúng ta về tác dụng ngoại ý của amphetamin. Chúng có thể làm các hoang tưởng của trầm trọng lên đó.”

      “Đó là thứ duy nhất giúp tôi tỉnh táo. Ravi Nara thường cho tôi uống Dexedrine cơ.”

      thở dài. “Tôi kê cho ít thuốc Adderall.”

      “Đơn thuốc thành vấn đề. Tôi có thể tự kê được. Vấn đề là chúng biết tôi cần thuốc. Chúng canh tất cả các hiệu thuốc”.

      “Họ thể nào bao quát hết các tiệm thuốc ở khu Tam giác này được.”

      “Chúng là NSA, Rachel ạ, và chúng biết tôi cần thuốc. Đó là những kẻ ghi câu chuyện phiếm trong buồng lái giữa các phi công Nga, những người bắn rơi máy bay Triều Tiên đảo Sakhalin năm 1983. hai mươi năm qua rồi, và đó là tai nạn ngẫu nhiên. Bọn chúng ráo riết truy tìm chúng ta. đọc cuốn 1984 (21) chưa?”

      “Tôi đọc từ hai mươi năm trước.”

      “Khi NSA là tôi nghĩ đến Cả (22). NSA là thứ tương tự nhất mà chúng ta có ở nước Mỹ này.”

      “Nhưng vẫn cần thuốc.”

      “Chắc có quen ai đó.”

      “Tôi có thể kiếm được thuốc trong quầy thuốc bệnh viện.”

      “Bọn chúng canh chừng ta ở đó.”

      “Hừ, chó chết .”

      Tôi hầu như chưa bao giờ nghe thấy văng tục. Có lẽ chỉ khi nào bận jean xanh. Có lẽ cố giữ vẻ nghiêm trang khi mặc váy lụa với áo bờ lu.

      “Tôi biết bác sĩ ở Bắc Durham, ấy cho chúng ta ít,” .

      Chúng tôi qua Durham lâu rồi và thẳng tới Raleigh. Hiểu biết của tôi về Geli Bauer khiến tôi miễn cưỡng nấn ná ở vùng này lâu hơn cần thiết. Hơn nữa, là nghịch lý, có gì đó trong tôi muốn các giấc mơ chấm dứt. Giấc mơ trước cứu mạng chúng tôi, và mặc dầu tôi chưa bao giờ thú nhận với Rachel, tôi cảm thấy bằng cách nào đó những giấc mơ - tuy có thể đáng sợ - cung cấp thông tin về cảnh ngộ khốn khó của chúng tôi, những thông tin mà tôi thể có được nhờ cách nào khác.

      “Chúng ta thể quay lại,” tôi .

      “Ngộ nhỡ bị choáng khi lái?”

      thấy nó xảy ra như thế nào khi ở nhà tôi. Nó xảy ra tức khắc đâu.”

      “Nhưng khi đó lái xe.”

      “Tôi luôn được báo trước vài phút. Tôi dừng lại ngay khi cảm thấy ổn.”

      Rachel khó chịu ra mặt. Như thể muốn trút bực bội, gác chân lên bảng điều khiển, tháo dây giày, rồi cột chặt lại. Xong làm thế với chân kia. Dường như cái thủ tục bắt buộc ấy làm bình tĩnh lại.

      Tôi chạy lên đường 440 vòng quanh Raleigh rồi nhập vào đường U.S. 64, hết đường này là đến Đại Tây Dương. Con đường cao tốc mang đặc trưng miền Nam: hai dải đường xi măng rộng chạy xuyên rừng thông và rừng cây gỗ cứng. Chắc khoảng hai tiếng nữa mới đến chỗ đất thoải xuống phía Bãi Ngoài. Giá như Fielding chết, có lẽ hôm nay ông con đường này, con đường ông trước đây, đến địa điểm mà vợ tôi và tôi đến thăm mười hai năm trước. Những ý nghĩ như thế cho tôi thấy mơ hồ cần thiết của những từ ngữ như -thời gian. người học vấn trung bình nghe từ như thế tưởng ta bao giờ hiểu được nó. Nhưng điều này hết sức đơn giản. Bất kỳ nơi chốn nào nhìn thấy đều liên hệ đến thời gian nhất định. Ngôi nhà ở Nags Head mà Fielding cùng vợ hưởng tuần trăng mật có vẻ như là nơi vợ chồng tôi từng ở, nhưng thực tế lại phải. Trong khuôn khổ -thời gian, nó hoàn toàn khác. Ngôi trường đến thăm hai mươi năm sau khi tốt nghiệp, sân bóng từng chơi, con đường từng chạy đó - có cái gì như cũ. Nếu nó vẫn như cũ, đụng phải các thế hệ chạy đó trước hoặc sau . Người hôn phải là chính nàng sáu mươi giây trước đó. Trong phút ấy, triệu tế bào da chết và được thay mới. Những lát cắt cực của -thời gian ngăn cách ý nghĩ và hành động. sống và cái chết.

      “Tôi muốn làm việc trở nên xấu hơn,” Rachel , “nhưng vì thể gọi cho tổng thống nữa, đúng ra có thể làm gì? Chúng ta có thể đâu?”

      “Tôi hy vọng cái gì đó trong ngôi nhà ấy cho tôi đầu mối. Ngay bây giờ tôi chỉ cố gắng bảo toàn mạng sống của chúng ta.”

      “Sao đơn giản là công khai nó. Chạy đến Atlanta và tất cả với CNN?”

      “Bởi vì NSA chỉ cần bảo rằng chúng ta dối. Tôi có thể chứng minh điều gì vào lúc này?”

      Rachel khoanh tay. “ thử tôi xem. Chẳng lẽ người đoạt giải Nobel như Ravi Nara có thể gian dối che giấu tất cả chuyện này?”

      “Y do dự đâu. An ninh quốc gia là hợp lý hóa tốt nhất cho mọi lời dối. Còn về tòa nhà Trinity, lúc này chắc nó trống trơn rồi. ”

      “Lu Li Fielding có thể ủng hộ .”

      “Lu Li biến mất rồi.”

      Sắc mặt Rachel trở nên nhợt nhạt.

      “Đừng nghĩ chuyện xấu nhất. Bà ấy có kế hoạch chạy trốn, nhưng tôi biết bà ấy thực chưa.”

      “David, chưa hết với tôi những gì biết.”

      “Về Lu Li ấy à?”

      “Về Trinity.”

      đúng. “Thôi được, vài tuần trước đây, Fielding biết rằng việc treo dự án chỉ là mưu mẹo để làm sao lãng hai chúng tôi. Ông ấy nghĩ dự án Trinity vẫn được tiếp tục ở nơi nào khác, có thể từ khá lâu rồi.”

      “Họ còn có thể tiến hành ở chỗ nào khác nữa?”

      “Fielding cá là ở các phòng thí nghiệm R&D ở Trung tâm Siêu máy tính Godin tại California. Godin nhiều lần bay đến đó bằng chuyên cơ riêng. Nara cũng cùng ông ta vài bận.”

      “Điều đó chứng minh được gì. Với tất cả những gì biết, có thể họ chơi golf ở bãi biển Pebble cũng nên.”

      “Các cha đó chơi golf đâu. Bọn họ làm việc. Bọn họ bán linh hồn để đổi lấy những gì họ muốn. Khi nào nghĩ đến Peter Godin, hãy nghĩ đó là Faust.”

      “Bọn họ muốn gì?”

      “Nhiều thứ khác nhau. John Skow hồi đó sắp bị NSA sa thải được Godin cầu quản lý Dự án Trinity. Việc đó cứu vãn nghiệp của gã.”

      “Tại sao Godin cần người như gã?”

      “Tôi nghĩ Godin có dự tính gì đó với Skow. Hình như ông ta cam kết với gã từ lâu và biết rằng Skow giữ im lặng tất cả những gì gã được nghe kể. Làm việc cho NSA giàu. Nhưng là nhà cung cấp máy tính Trinity cho cơ quan này có thể đặt gã vào ghế giám đốc. Và sau đó, gã có thể là vô giá đối với tập đoàn tư nhân. Skow làm bất cứ điều gì cần thiết để thực hóa Trinity.”

      “Còn Ravi Nara?”

      “Nara đòi triệu đô la năm cho vị trí này. Khoản nào chính phủ trả được, Godin trả bằng tiền mặt. Ngoài ra, những gì Nara đóng góp cho Trinity cho y cơ hội Nobel nữa. Tất nhiên là chung với Godin và Jutta Klein. Lẽ ra Fielding là người xứng đáng nhất, nhưng ủy ban Nobel truy tặng. Ngoài nguồn tài chính nghiên cứu vô tận suốt đời, tên tuổi Nara còn được lưu trong các sách lịch sử...”

      “Thế còn cái bà Jutta Klein đó?”

      “Klein là người thẳng thắn. Bà ấy là phụ nữ Đức lớn tuổi, và chung giải Nobel với hai người Đức khác từ năm 1994. Bà ấy được chuyển nhượng từ Siemens cho Trinity. Đó là cách hình thành của nhiều công ty. Godin muốn có những người giỏi nhất thế giới, ông ta mượn họ từ phòng R&D của các hãng máy tính mạnh nhất. Sun Micro. Silicon Graphics. Để đổi lại, những công ty này nhận được giấy phép sử dụng số bộ phận thuộc công nghệ Trinity sau khi nó được công khai. Nếu nó được công khai.”

      “Nếu Jutta Klein trung thực,” Rachel , “có thể bà ấy giúp được chúng ta.”

      “Có muốn bà ấy cũng giúp được. Bọn chúng khiến bà ấy phải im lặng.”

      Rachel thở dài thất vọng. “Thế còn Godin? Ông ta muốn gì?”

      “Godin muốn làm Chúa.”

      “Cái gì?”

      Tôi lạng sang làn trái để vượt nhà xe lưu động. “Godin thèm để ý Trinity có sinh lợi nhuận hay . Ông ta là tỷ phú. Ông ta bảy mươi hai tuổi rồi, và trở thành sao từ khi mới bốn mươi. Bởi vậy hãy quên chuyện trở thành cha đẻ của trí thông minh nhân tạo hay những gì tương tự thế. Ông ta muốn trở thành người đầu tiên - hay người duy nhất - mà trí tuệ được nạp vào chiếc máy tính Trinity.”

      Rachel hất lọn tóc đen ra khỏi mắt. “Ông ta là người thế nào? kẻ ích kỷ cùng cực chăng?”

      “Ông ta đơn giản thế. Godin là bộ óc sáng chói, là người hiểu những khiếm khuyết của thế giới này. Ông ta giống những người mà ta biết ở trường đại học, những kẻ nghĩ rằng Atlas Shrugged (23) là câu trả lời cho mọi vấn đề của thế giới, chỉ có điều ông ta là thiên tài. Và ông ta có những đóng góp chủ chốt cho khoa học. Cho đến nay, nước Mỹ nơi tốt đẹp chính vì Godin sống ở đó. Siêu máy tính của ông ta đóng vai trò quan trọng vào thắng lợi trong cuộc Chiến tranh Lạnh.”

      “Có vẻ như ngưỡng mộ ông ta.”

      “Ông ta dễ được ngưỡng mộ. Nhưng tôi cũng sợ ông ta nữa. Ông ta gần như vắt kiệt sức mình để chế ra chiếc máy tính mạnh nhất thế giới, nhưng ông ta quan tâm điều là ông ta hiểu nó vận hành thế nào khi cuối cùng nó vào hoạt động. Godin dựng nên Trinity để tự mình sử dụng nó. Và tôi biết có gì nguy hiểm hơn là con người mạnh mẽ bị ám ảnh bởi việc tái tạo thế giới theo hình ảnh của riêng mình.”

      Khi tôi với tay ra để chỉnh tốc độ tự động của chiếc Audi, tôi thấy mắt mình bắt đầu mờ . cơn mệt mỏi tràn qua tôi, và những lời cuối cùng của Rachel trượt khỏi đầu tôi. Mắt tôi nhìn trở lại, nhưng tiếng vo vo chói tai quen thuộc lại bắt đầu. Tôi đạp phanh và tấp vô lề đường.

      “Sao thế?” Rachel hỏi.

      phải lái thôi, tôi sắp xỉu rồi.”

      ngồi dậy. “OK.”

      Tôi xuống xe và vòng sang phía . Rachel trèo qua bảng điều khiển và trườn vào sau tay lái. Trước khi ngồi vào chỗ, tôi ngó trước ngó sau con đường. Xe cộ đường đông vừa phải, nhưng đều đặn, và có người lái nào để ý đến tôi.

      quan sát tôi kỹ lưỡng. “ sao chứ, David?”

      “Hơi run.”

      với tay thắt dây an toàn cho tôi. “Vẫn chứng đó hả?”

      “Ừ.” Tiếng ong ong chói tai xuống đến răng hàm.

      nhắm mắt lại. Tôi lái đây.”

      “Cứ nhắm hướng Đông. Chúng ta sắp đến nơi rồi.” - Tôi giơ ba ngón tay lên - “tiếng nữa”. Trong ngăn đựng găng tay có tấm bản đồ Carolinas. Tôi tìm đường cao tốc 64 và chỉ đến Plymouth, gần nơi sông Roanoke chảy vào eo Albermarle. “Nếu đến đấy mà tôi tỉnh đánh thức tôi dậy.”

      Rachel sang số và tăng tốc dọc lề đường. Khi đến tám mươi, chạy xe vào làn đường và nhấn ga.

      thấy khó chịu hơn phải ?” hỏi.

      Tôi trả lời trong đầu, sao đâu, nhưng bộ phận của não nhận ra rằng môi tôi chuyển động. Tôi sắp xỉu. Lòng bàn tay tôi ngứa ran, mặt cảm thấy nóng bừng. Rachel đặt tay lên trán tôi.

      sốt rồi. Chuyện này có thường xảy ra ?”

      Tôi cố trả lời, nhưng tôi cảm thấy giống như hồi tôi còn là đứa bé trong bể bơi ở Oak Ridge, cố gắng chuyện dưới nước với bạn. Chúng tôi cố gào to nhất, nhưng thể làm cho bạn hiểu mình. Bàn tay Rachel dường như chảy tan vào trán tôi. Dù sao nó cũng làm tôi thấy dễ chịu. Tôi muốn nhìn vào gương xem có tay tan chảy hay , nhưng tôi thể nào nhúc nhích. người phụ nữ gọi tên tôi từ nơi nào rất xa. Trước khi tôi có thể trả lời, con sóng xanh sâu thẳm cồn lên, vỡ oà ra trong tôi và tôi lịm , lăn nhào vào bóng tối.

      Tôi ngồi ngoài trời giữa vòng người tựa lưng vào tường mà ngủ. Ở giữa là đống than hồng cháy rực. Bầu trời đầy sao sáng. người đàn ông khoác áo choàng tên là Peter ngồi cạnh tôi. Ông ta có vẻ rất bồn chồn.

      “Tại sao ngài lại muốn làm thế?” ông ta thầm . “Nếu ngài bỏ , ngài chịu muôn nỗi nhục nhã. Cho dù dân chúng có nghe ngài, bọn tăng lữ và bô lão cũng ruồng bỏ ngài. Còn bọn La Mã nữa? Tôi sợ chúng giết ngài.”

      Dù ông ta nêu tên địa điểm, song tôi biết ông ta về Jerusalem. “Cút ,” tôi bảo ông ta. “Ngươi chỉ đáng bằng con chó. Cái thân ngươi, bữa cơm tiếp theo của ngươi, đời ngươi.”

      Ông ta tóm cánh tay tôi mà lắc. “Ngài đuổi tôi dễ dàng thế được đâu! Tôi chiêm bao thấy . Nếu ngài , ngài bị hành hình.”

      “Kẻ nào cố giữ mạng mình mất mạng (24),” tôi trả lời.

      Peter lắc đầu, đôi mắt ta ông đầy bối rối.

      Cảnh trí bỗng thay đổi. Tôi ngọn núi cao nhìn xuống cánh đồng. Quanh tôi có nhiều người ngồi.

      “Khi các ngươi xuống thành phố”, tôi hỏi, “các ngươi bảo ta là ai?”

      “Chúng tôi ngài là người được rửa tội.”

      Tôi lắc đầu. “Đừng thế. Hãy lòng những gì các ngươi nhìn thấy. hơn.”

      “Vâng, thưa Chúa,” người đàn ông tên John trả lời, mắt ông ta to nâu như mắt đàn bà. Ông ta nhìn Peter rồi thận trọng với tôi. “Người ta bảo tôi là ngài muốn đến Jerusalem.”

      “Đúng.”

      John lắc đầu. “Nếu ngài làm thế, bọn tăng lữ biết phải làm gì với ngài. Chúng sợ ngài, và chúng khép ngài vào tội chết.”

      “Ly rượu đến tay ta. Ta phải uống.”

      Lũ người lặng im. Khi ngắm nhìn cánh đồng phía dưới, nỗi sợ réo sôi trong ổ bụng tôi. Biết món quà của cuộc sống này, của thân thể này, và rồi dứt bỏ nó ...

      Tôi choàng dậy tóm lấy bảng đồng hồ, đập ngay vào mắt là đuôi chiếc máy kéo phía trước. Rachel nắm đầu gối tôi.

      “Ổn rồi, David ạ! Tôi đây.”

      Tay tôi run lên, nỗi sợ từ giấc mơ vẫn còn nguyên. “Chúng ta bao lâu rồi?”

      tiếng hai mươi phút. Chúng ta vừa qua khỏi Plymouth.”

      “Tôi dặn gọi tôi dậy cơ mà!”

      “Nhưng ngủ quá say, tôi ghét làm chuyện đó.”

      có thấy gì khả nghi ?”

      “Cách đây nửa tiếng ta qua đồn cảnh sát, và mấy cảnh sát Plymouth, nhưng ai nhìn chúng ta đến hai lần. Tôi nghĩ chúng ta ổn.”

      Rachel trông có vẻ gì là ổn. Và ngay khi đạt được mục tiêu cấp kì là chạy trốn, điềm tĩnh của lung lay. Tôi cũng khác. Phản ứng của tôi về vụ giết tên sát thủ của Geli Bauer bị mờ bởi cơn thác lũ hóa chất thần kinh phát ra để cứu sống tôi. Những hình ảnh từ giấc mơ của tôi trở lại lấp loáng ánh sáng và màu sắc, nhưng nỗi sợ nhạt , sau đó tôi lại cảm thấy khuây khỏa khá lạ lùng. Sau nhiều tháng trong tình trạng mập mờ và bí , cuối cùng những giấc mơ địa điểm rệt. Jerusalem. Về mặt logic chẳng có nghĩa gì cả. Tôi chưa bao giờ tới Israel, và tôi chỉ biết về nó qua những xung đột đẫm máu mà tôi thường thấy các bản tin tối từ nhiều thập kỷ nay. Nhưng đến giờ logic đưa tôi tới đâu?

      “David?” Rachel ướm hỏi. “Có lẽ chúng ta có thể nấp lại lát ở...”

      Tôi vội lấy tay bịt miệng . “Đừng. Xin lỗi, nhưng tôi cảnh báo rồi.”

      gật đầu, và tôi bỏ tay ra. “Nếu đúng là NSA mạnh đến thế,” thầm , “ thu băng video trong phòng riêng như thế nào mà họ nghe trộm được?”

      Tôi nhoài người ra ghế sau, lấy hộp đồ chơi điện tử tự tạo của Fielding, đặt lên đùi. Tôi lấy từ trong đó ra chiếc que kim loại dài chừng hai nhăm phân. “Fielding chỉ cho tôi thấy những con rệp của chúng nằm đâu. Trong những lỗ xíu giữa lớp vữa trát tường.”

      “Ông ấy làm gì với những thiết bị này? có nghĩ như thế là hơi đa nghi ?”

      “Tôi hiểu tại sao lại nghĩ vậy. cần phải biết ông ấy mới được.”

      thế, trong bụng tôi vẫn thầm nghĩ liệu mình thực hiểu được ông người kỳ quặc này chưa. Tôi thọc tay vào trong hộp, tìm xem có dấu vết gì của thông điệp bí mật . Phần lớn những dụng cụ tự chế này trông giống như đồ chơi của cậu bé mà cuối tuần nào cũng mải mê trong cửa hàng điện tử RadioShack. Có cái giống món đồ chơi View-Master của tôi hồi trẻ, chiếc khung nhựa với ống thị kính và công tắc ở bên phải. Tôi đưa ống ngắm lên mặt, nhắm vào Rachel và gạt công tắc. màn sương màu hổ phách che hết tầm nhìn của tôi, ngoài ra có gì cả.

      “Cái gì vậy?” Rachel hỏi.

      “Tôi cũng nữa.” Tôi quay ống nhòm ra kính chắn gió để nhìn ra ngoài đường.

      Tim tôi đóng băng. chùm sáng đồng bộ mảnh màu xanh lá cây - tia laser- chiếu vào kính chắn gió phía trước của chiếc Audi theo phương gần như vuông góc với mặt đất. Tôi thấy nhiều tia như thế trong các phòng thí nghiệm vật lý của trường Đại học Công nghệ Massachuset. Nơi khác duy nhất tôi có thể thấy chúng là trong phim, trong những cảnh bắn súng laser. Có kẻ nhắm tia laser vào chúng tôi từ trung! Tôi muốn kêu lên để báo Rachel, nhưng cổ họng tôi như bị gắn keo. Tôi quờ chân đạp phanh, làm cho chiếc xe phanh kít lại.

      Rachel rú lên và cố kiểm soát chiếc xe quay đầu. Tôi xoay ống nhòm để tìm tia laser. Nó kia, cách khoảng bốn mươi mét, dõi theo xe tôi như bàn tay của Chúa. Chiếc Audi rùng mình dừng lại bên lề cỏ.

      làm cái trò quỷ gì thế hả?” Rachel thét lên.

      Chỗ núp gần chúng tôi nhất là hàng cây cách lề cỏ chừng năm mươi mét. kẻ có vũ khí tự động dễ dàng đốn gục chúng tôi trước khi chúng tôi chạy đến hàng cây. Tôi gí ống nhòm vào mắt Rachel.

      “Có kẻ rình bắn chúng ta! Nấp ngay dưới bảng đồng hồ. Càng xa càng tốt.”

      Trong khi gập người chui xuống dưới cần tay lái, tôi lại tìm tia laser. Tôi đợi nó di chuyển đến tôi, nhưng nó lại cố định kính chắn gió. Tia sáng xuyên qua kính; nó dừng lại bề mặt. Cố suy nghĩ về tia laser, tôi nhận ra rằng nó nhằm tôi hay Rachel, mà nhằm tấm bảng đồng hồ.

      “Nếu chúng muốn bắn chúng ta,” tôi ý nghĩ của mình thành lời, “ chúng bắn ngay trước khi tôi lôi được chiếc kính ngắm ra rồi.”

      “Sao?”

      “Đó phải là đường ngắm bắn.”

      về chuyện gì thế?”

      Tia laser có thể là vật chỉ điểm ném bom, nhưng ngay cả khi hoảng loạn nữa, NSA cũng chưa đến mức thả quả bom định hướng xuống lề con đường cao tốc Mỹ. Chúng có quá nhiều phương án khác để lựa chọn. Tôi bỗng hiểu ra. Tia laser là công cụ theo dõi. Bằng cách chiếu tia laser lên mặt kính chắn gió và đo rung động của kính, kẻ nghe trộm ngồi máy bay hay trực thăng có thể nghe hết mọi lời chúng tôi bên trong xe.

      “Dậy! Dậy lái tiếp!”

      Rachel chật vật ngồi lên ghế, cầm lái chạy lên đường lớn. Tia sáng xanh vẫn bám chặt mặt kính chắn gió như vũ khí vệ tinh nhắm từ vũ trụ. Nhặt tấm bản đồ dưới sàn lên, tôi gấp nó lại thành tam giác và gõ gõ ba lần lên điểm để chỉ chỗ chúng tôi phải đến.

      gật đầu.

      Sau đó tôi lần ngón tay theo đường cao tốc 64 chạy sang Đông vài cây nữa, đến con đường làng ra ở bên trái. Tại đó tôi viết, Rẽ ở đây.

      Khi Rachel gật đầu lần nữa, tôi ghé sát tai . “Rẽ vào, dù có chuyện gì xảy ra. ?”

      “Tôi rẽ. Cái mà thấy còn đó ?”

      Tôi nhìn qua kính ngắm, rồi siết vai . “Còn. Nhanh lên.”

      nhấn ga hết tốc lực.




      CHƯƠNG 15


      Geli Bauer đứng mình trong căn bếp nhà David Tennant, mình với xác người của ả. Chiếc xe dịch vụ giặt thảm vẫn đậu bên ngoài, máy hút chân của nó vẫn rít lên ầm ĩ. Lẽ ra theo bất kỳ quy định nào, ả phải chuyển thi hài Ritter từ lâu. Nhưng ả thể làm thế. Ả muốn hiểu điều gì xảy ra ở đây. Cứ theo như vết thương đầu Ritter và tư thế nằm, có lẽ bị bắn từ phía trước, hoặc hơi chếch tí. Ả thể hình dung nổi kẻ chuyên có thể hạ gục cựu lính trong đội chống khủng bố sừng sỏ nhất của Đức. Chỉ có hai khả năng xảy ra.

      : Tennant, bằng cách nào đó khiến Ritter kinh ngạc và bắn cách cực kỳ chính xác trong khi Ritter còn xoay người ngắm bắn.

      Hai: Tennant phải như ta vẫn tưởng.

      lớn lên ở vùng quê gần Oak Ridge, bang Tennessee, điều này chỉ có nghĩa là giỏi chơi súng săn chứ đâu phải súng ngắn? Mà làm sao lại biết cách quét dọn phòng để mò ra mấy con rệp đó? Fielding dạy , hay học được ở nơi nào khác? Việc trốn khỏi trường phạm tội để lại nhiều câu hỏi. Khi tốp nhân viên phục trong xe dịch vụ giặt thảm đến nơi, họ thấy chiếc Saab của Rachel Weiss đậu phía ngoài, nhưng ga ra của Tennant trống . tốp khác dò xét hết khu vực xung quanh và thấy chiếc Acura của Tennant đậu đằng sau bờ rào ngôi nhà vắng chủ. Phải tốn nửa giờ liên lạc với cảnh sát mới biết rằng có chiếc Audi A8 màu ánh bạc bị đánh cắp từ ngôi nhà dưới phố.

      Nếu máy phân tích mẫu giọng phát ra cuộc gọi bí mật của Fielding từ cửa hàng tiện lợi Tennant và Weiss có lẽ vuột thoát khỏi lưới của ả rồi. Nhưng cách đây bốn ngày, Fielding đặt sẵn ngôi nhà ở Nags Head, Bãi Ngoài, dưới tên Lewis Carroll. Điều đó kết hợp với việc hôm qua Tennant nhận được bức thư chuyển phát nhanh FedEx của Fielding, đủ cho Geli tung máy bay lên khống chế đường cao tốc 64, con đường dẫn tới Nags Head. Và việc này đưa Tennant trở về tầm tay của Geli.

      Khi ả nhìn xuống hộp sọ vỡ toác của Ritter và mái tóc bết máu, điện thoại cầm tay của ả reo. “Bauer,” ả .

      “Phi đội đây. Chúng biết bị theo dõi.”

      bay cao bao nhiêu?”

      “Ba ngàn mét. Chúng thể nào ngẩng lên giời mà nhìn thấy chúng tôi. Chắc chúng nhìn thấy tia laser.”

      “Điều đó thể được nếu có thiết bị đặc biệt.”

      “Chắc chúng phải có.”

      “Chúng làm gì?”

      Tiếng nhiễu lạo xạo. “Chúng chạy xe ra khỏi đường, tuồng như thấy tia laser và hoảng sợ. Chúng nấp dưới lùm cây lát, rồi lại chạy lên đường cái. Chúng chạy ở tốc độ chín mươi, vẫn hướng sang Đông.”

      “Chúng gì?”

      gì về nơi đến.”

      “Đội mặt đất đâu?” Geli hỏi.

      “Gần nhất là mười lăm phút, cộng trừ hai.”

      “Tôi gọi lại cho .” Ả bấm số gọi nhanh vào máy di động của Skow. Gã trả lời sau tám hồi chuông.

      “Gì thế, Geli?”

      “Tennant phát ra máy do thám của chúng ta. chạy trốn.”

      đùa đấy chứ. Người của để sổng mất phải ?”

      “Máy bay tìm thấy chiếc Audi, nhưng họ có thể lạc mất nó.”

      “Tôi nghĩ muốn khử bọn chúng bây giờ?”

      Geli cảm thấy ngón tay Skow đặt phím ngắt.

      “Tôi đợi nghe lệnh của đây.”

      “Tình hình thay đổi.”

      “Địa dư thay đổi, phải tình hình.”

      “Tôi thích chuyện này. Rồi xử lý ra sao?”

      Câu thần chú của bọn quan liêu. Geli khinh bỉ nghĩ.

      “Tennant phát rồ. giết bảo vệ của Trinity và bắt cóc bác sĩ tâm thần của . Chúng ta tìm cách giải cứu.”

      Im lặng hồi lâu. Rồi Skow , “Peter đúng khi thuê . Chúc may mắn với chuyện giải cứu của .”

      “Mả mẹ ,” Geli lầm bầm rồi cúp máy. Ả mở liên lạc với máy bay và đội mặt đất của mình.

      “Phi đội . Chiếc Audi vẫn trong tầm nhìn của đấy chứ?”

      “Tất nhiên. Chắc chắn bọn chúng biết chúng tôi ở đây. Tennant ngó ra ngoài và nhìn lên chúng tôi.”

      “Đội mặt đất, khi các đến nơi, đợi cho thưa xe cộ tấn công chiếc xe và thanh toán chúng.”

      “Khử bọn chúng à?” phi công chiến đấu hỏi lại với vẻ bình tĩnh đến kỳ lạ.

      Geli nhìn xuống xác Ritter, nhớ lại đêm qua. Lúc đó còn sống và làm tình với ả. “Tennant có thể bắt cóc bác sĩ tâm thần của . Điều đó chúng ta chắc lắm. Ta chỉ biết rằng nay rất bất ổn, có vũ khí và giết người của ta. Ritter Bock, điều này lên nhiều. ai được mạo hiểm. Hãy tự cứu mình trước .”

      Có tiếng đồng thanh. “.”

      hiểu ý tôi chứ?”

      Phản ứng im lặng có ý nghĩa hơn mọi thừa nhận. Đấy là lý do ả thuê những cựu binh.

      “À há, đó là luật,” giọng đàn ông lạnh lùng vang lên.

      “Hãy gọi tường thuật chi tiết cho tôi, Phi đội .”

      “Được.”

      Geli mỉm cười. Tennant và Weiss còn sống để nhìn thấy đêm xuống.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 16



      Khi chiếc Audi rú ga đến gần chỗ ngoặt, tôi nhìn lướt đoạn đường cao tốc phía sau. Chiếc xe gần nhất còn cách chúng tôi khoảng hai trăm mét. Trông giống chiếc bán tải. Tôi ngờ rằng đó là NSA nhưng có trời mà biết được. Có bọn do thám rồi, bọn dưới đất cần phải bám sát chúng tôi. Chúng thậm chí có thể dẫn trước chúng tôi. Đơn giản là thể biết bọn theo dõi chúng tôi là ai và ở đâu. Nếu chúng tôi may mắn, chiếc máy bay kia chỉ mới phát ra chúng tôi vài phút trước khi tôi nhìn thấy tia laser.

      Rachel ngả sang ghé sát tôi đủ để thầm: “Tôi nghĩ tôi nhìn thấy chỗ rẽ. Có phải đường cao tốc 45?”

      Tôi kiểm tra bản đồ. “Đúng, nhưng phải đường cao tốc. Rẽ .”

      Rachel giảm tốc độ xuống năm mươi rồi quẹo trái vào đường 45.

      “Mạnh lên,” tôi .

      dấn ga và lao thẳng vào con đường đôi rải nhựa với tốc độ hơn trăm cây giờ. Tôi đeo kính ngắm lên mặt tìm tia laser. Nó mất dấu chúng tôi ở khúc ngoặt, nhưng nhanh chóng tìm lại mục tiêu, chiếu thẳng vào cửa kính chắn gió phía sau. Tôi ghé tai Rachel.

      “Chúng ta sắp vượt qua chiếc cầu nơi sông Cashie đổ vào Albemarle Sound. Sau đó rẽ trái lần nữa.”

      “Lúc nào gần đến bảo tôi.”

      Chiếc A8 nuốt lấy con đường như hổ đói, tăng tốc băng qua chiếc cầu cao bắc vòng qua sông Cashie. Tôi nhoài người ra cửa kính nhìn lên trời. máy bay bay dọc theo đường ở độ cao khoảng nghìn năm trăm mét. Tôi cả người. Tôi sợ là sợ trực thăng đổ bộ xuống đường với đội SWAT trang bị súng tiểu liên. chiếc máy bay cánh cố định có thể đậu đường cao tốc, nhưng thể hạ cánh xuống con đường ngoằn ngoèo mà chúng tôi sắp tiến vào.

      Rachel chỉ ngã tư trước mặt. Tôi gật đầu. giảm tốc vừa đủ để rẽ, sau đó lao vào con đường hơn nhiều, hai bên là rừng cây rậm rạp.

      “Nhìn đám cây kia,” tôi , áp tay lên bảng đồng hồ.

      Phía trước gần trăm mét, những cây sồi cao vút bọc lấy con đường, biến nó thành đường hầm rợp bóng. Khi chúng tôi tiến vào, tôi quay kính xuống và nhoài người ra lần nữa. Đầu tiên chỉ thấy cành cây. Rồi tôi thấy ánh bạc lóe lên khi chiếc máy bay nhào xuống đằng sau chúng tôi ở độ cao khoảng sáu trăm mét.

      “Nhanh!” tôi hét lên. “Cho chúng hít khói.”

      “Nếu lái nhanh hơn, tôi mất kiểm soát.”

      lái rất tốt.”

      Lực lưỡng cưỡng chế luật pháp sử dụng máy bay cánh cố định để trinh sát, vì so với trực thăng, chúng có thể bay tại chỗ cố định lâu hơn nhiều. Hôm nay chúng phải trả giá đắt cho chiến lược ấy. chiếc máy bay thường thể lượn bầu trời với những đường bay đủ hẹp để có thể duy trì được việc tiếp cận mục tiêu con đường ngoằn ngoèo được che phủ rậm rạp.

      Các bánh xe lớn của chiếc Audi rít lên khi Rachel cua gấp ở tốc độ trăm cây. Vai phải của tôi bị ép mạnh vào cửa xe. Chật vật giữ yên tấm bản đồ, tôi tìm lối ra. Nếu chúng tôi theo con đường làng kế tiếp bên tay trái, chúng tôi nhanh chóng vượt lại sông Cashie lần nữa mà phải qua cầu. Ở chỗ ấy sông Cashie chỉ như con lạch , có ghi chú bằng chữ in nghiêng, Phà. Từ này có thể chỉ nhiều thứ khác nhau, từ chiếc tàu thủy tự hành đến chiếc sà lan vận hành bằng cáp.

      Tôi đeo kính ngắm lên nhìn bao quát con đường phía trước. Tia laser nhấp nháy loạn xạ trước xe khoảng bảy mươi mét, đứt quãng và xoắn vặn khi người điều khiển cố xoay xở với những cành cây che chắn đầu chúng tôi.

      “Có chiếc phà ở phía trước,” tôi . “Nếu chúng ta đến được đó, chúng ta có thể cắt đuôi bọn theo dõi dưới đất.”

      “Được.”

      nhìn thấy lối rẽ trái ngay bây giờ.”

      “OK.”

      “Đó!”

      Rachel đạp phanh. Tôi tưởng bọn tôi bị hất tung ra ngoài, nhưng chiếc xe nhờ có bốn bánh chủ động vẫn trụ được đường, chỉ chút nữa là mất tay lái. Khi đường hầm cây sồi mỗi lúc rậm rạp, con đường làn xe thoắt cái chỉ còn sỏi, bùn và dốc thoai thoải, tôi hiểu là sắp đến mép nước.

      “Cẩn thận đấy”, tôi , sợ hãi trước tiếng sỏi bắn rào rào vào gầm xe.

      Chiếc xe nghiêng sang phải, chúng tôi vòng cua cuối cùng rồi chạy đến dừng phía sau con Chevy Nova cũ màu xanh lá cây đậu giữa đường mòn. Bên kia chiếc xe tôi thấy dòng sông sẫm màu lờ đờ trôi, chiều rộng khoảng tám mươi mét.

      “Tôi trông thấy phà,” Rachel .

      chiếc xuồng nhôm cũ rích được chằng nóc chiếc Nova, nhưng tôi thấy ai. Tôi lấy vạt áo che khẩu súng, bước ra ngoài về phía dòng sông.

      Tiếng ghi ta thùng vọng tới tai tôi, gợi nhớ đến bản Deliverance. Vòng qua chiếc xe, tôi thấy phải là hai chàng trai miền núi đặc trưng, mà là hai cậu trai tuổi trung học ngồi đất. cậu tóc vàng quấn khăn rằn như băng đô đầu. Cậu kia tóc đen gảy cây ghi ta Martin cũ mòn. Tôi lơ đãng khoát tay và bước qua chỗ chúng tới bờ sông.

      Chiếc phà được đóng để chở ba hoặc bốn ô tô, vượt sông từ bờ kia sang, cột khói đen ngòm phụt ra từ động cơ gầm gào. chiếc nhà xe lưu động đỗ ở bờ bên kia. Bên cạnh là con dốc thoai thoải, và con đường mất hút vào trong rừng.

      “Chúng tôi gọi phà rồi,” tiếng trong hai cậu bé sau lưng tôi.

      Tôi quay lại mỉm cười với chúng. Thằng tóc vàng quấn khăn rằn mặc chiếc áo phông UNC, đôi mắt xanh đảo như rang lạc. Thằng chơi ghi ta trông có vẻ lì, vai nó có vệt cháy nắng sậm. Tôi ngửi thấy mùi cần sa lẫn được.

      “Các cậu vẫn thường lượn các dòng sông quanh đây à?”

      Thằng tóc vàng cười. “Chúng tôi chơi nhênh nhang thôi. Sáng nay vừa mới lênh đênh sông Chova. Bây giờ chúng tôi về nhà, ở Tarboro. Chỉ muốn ngó qua sông Cashie cái cho biết.”

      Tôi đưa tay che mắt ngó lên bầu trời. Chiếc máy bay do thám vo vo bay ra khỏi đám mây tích, sang bên kia sông.

      “Chơi hay đấy,” tôi với tay chơi ghi ta, tay này vẫn gảy đàn nhè . Sau đó tôi trở về chỗ chiếc Audi và chui vào trong.

      “Phà sang.”

      “Máy bay vẫn còn đó à?” Rachel hỏi.

      “Ừ.”

      Trông có vẻ mỏi mệt như quá sức chịu đựng của ngày. Khi rầu rĩ nhìn phía sau chiếc Nova, tôi bỗng nảy ra ý.

      “Tôi quay lại ngay.”

      Tôi bước ra, vòng qua chiếc Nova, rồi đến ngồi xổm trước mặt hai cậu học sinh. “Tôi có đề nghị này cho các cậu.”

      “Đề nghị loại gì?” thằng tóc vàng hỏi.

      “Vợ tôi chưa được chơi bằng xuồng bao giờ. ấy thấy chiếc xuồng của các cậu và nảy ra ý định bốc đồng. ấy muốn ngồi xuồng xuôi eo sông.”

      Tay chơi ghi ta ngưng gảy đàn. “Chúng tôi sắp về nhà, cha nội ạ.”

      “Tôi nhớ mà. Tarboro chứ gì? Nhưng tôi nghĩ... các cậu định giá chiếc xuồng bao nhiêu nhỉ. Tôi thấy nó là chiếc Grumman cũ phải.”

      “Đúng đấy,” thằng tóc vàng nhanh nhảu. “Trước đây nó là của ông chú tôi. Tôi đoán nó độ bốn trăm đô.”

      Tất cả chúng tôi cùng quay lại khi boong phà kịch bờ.

      Tôi đứng dậy búng sợi dây thừng hình chữ V ngược chằng chiếc xuồng vào chắn trước của xe. “ hai trăm nghe có vẻ sát hơn,” tôi vừa cười vừa . “Nhưng tôi chỉ cần vợ tôi vui. Năm trăm được chứ?”

      Thằng bé tóc vàng nuốt khan. Nó tính thử với năm trăm đô tiền mặt nó có thể mua được bao nhiêu cần sa.

      “Vấn đề là, tôi muốn để xe của chúng tôi lại đây. Tôi muốn nhờ cậu lái nó lên đằng kia.”

      “Tới đâu?” tóc vàng hỏi.

      “Tới Tarboro được ?”

      Trông nó có vẻ bối rối. “Nhưng ông làm thế nào đến đó được để lấy lại xe?”

      “Xuống phà nào!” người lái phà - ông già khẳng khiu tóc bạc trong bộ áo liền quần cũ sờn hét lên.

      Tôi rút ví lấy ra đếm mười tờ 100 đô. “Đây ngàn đô, cậu còn lo lắng gì ?”

      “Cứt chó,” thằng chơi ghi ta đứng lên. Nó nhìn chiếc Audi qua chiếc Nova. Mặt Rachel trông mờ mờ dưới hồi quang của nắng. “Đây là xe ông hả?”

      “Đúng đấy.”

      “Ông trả thế nào?”

      “Tôi trả ngàn đô cho chiếc xuồng và chuyến dạo nhanh. Cậu đồng ý chứ?”

      Cả hai thằng nhìn chiếc Audi, rồi nhìn nhau. “ ngàn năm trăm,” tóc vàng quay sang tôi . “ nghìn năm trăm tôi lái nó đến Tarboro. Cái giá của mạo hiểm đấy.”

      Tôi mỉm cười. “ nghìn năm trăm, nhất trí. Nhưng chúng ta phải làm như thế này.”

      Chúng tôi cho xe xuống phà, ông già lái con phà run rẩy ra giữa dòng chảy chậm. Như giao hẹn, hai đứa con trai ngồi chiếc xe Nova của chúng khi sang phà. Tôi và Rachel ngồi chiếc Audi. Máy bay của NSA vẫn còn bay tại chỗ, nó lượn vòng hẹp sông. Tôi đoán các đội an ninh của Geli Bauer tụ họp trong cái góc ở Bắc Carolina.

      Khi phà sang đến bờ bên kia, chiếc Nova chầm chậm lăn xuống boong tàu và leo lên dốc vào con đường . Rachel theo sau. Rồi bỗng nhiên quặt qua đầu chiếc Nova mà lao thẳng vào rừng như ma đuổi. Ngay khi các cành sồi che kín chúng tôi, mới đạp phanh và chờ chiếc Nova đến nơi. Hai mươi giây sau, chiếc Chevy cũ kỹ lượn vòng và đến đậu sau xe chúng tôi.

      “Nhanh lên!” tôi quát khi hai thằng ra khỏi xe.

      Chiếc xuồng được đặt tấm đệm vuông bằng bọt xốp màu vàng để tránh mép kim loại làm trầy xước mui xe. Tôi bắt đầu tháo dây chằng nhưng thằng tóc vàng rút từ trong túi ra con dao và cắt dây ở hai bên xuồng. Tôi giữ phần đáy, tay chơi ghi ta nắm phần đuôi, chúng tôi kéo tuột chiếc xuồng khỏi nóc xe, lật ngược nó lại khi đặt xuống đất. Vào phút cuối cùng chúng tôi bị tuột tay và chiếc xuồng rơi xuống sỏi kêu đánh xoảng.

      Thằng tóc vàng nhoài ra ghế sau lấy ra hai mái chèo gỗ dài, ném vào lòng xuồng. Khi nó nhìn lên, mắt nó chăm chú gì đó sau lưng tôi, và nó đỏ mặt. Tôi quay lại thấy đứng sau tôi là Rachel mặc quần jean, áo sơ mi trắng.

      “Ôi,” . “Tôi rất cảm ơn các bạn.” Rồi mỉm cười theo kiểu trước đó chưa bao giờ tôi thấy.

      “À, vấn đề gì,” thằng tóc vàng .

      Thằng chơi ghi ta vẫy Rachel nhưng gì, và tôi thấy mặc dù ba muơi lăm nhưng Rachel Weiss vẫn còn hấp dẫn bọn trẻ hai mươi.

      “Chúng tôi sắp phải rồi,” tôi . “Các cậu cũng thế.”

      Tôi đưa cho thằng tóc vàng mười lăm tờ trăm đô.

      “Tôi cũng chả biết ông trả chúng tôi thế này là quá nhiều hay đủ,” nó . “Nhưng thôi, thế là gọn,” nó chỉ tay ra khóm cây. “Nếu ông đưa chiếc xuồng qua lùm cây kia, chỉ khoảng năm mươi mét là ông gặp dòng sông.”

      “Cám ơn.”

      Nó lóc cóc chạy đến chiếc Audi và ngồi vào sau tay lái. Khi tôi vào lấy chiếc hộp của Fielding ở ghế sau, tôi chạm vào vai nó, “Nếu có ai chặn cậu lại giữa đường để hỏi, cứ chính xác những gì xảy ra. Về tiền, về tất cả. Cậu an toàn.”

      Nó gật đầu. “Đừng lo.”

      Chiếc Audi gầm lên lao vào con đường rợp bóng sồi. Thằng chơi ghi ta ngồi trong chiếc Nova cười, lắc đầu và từ từ chạy theo. Tôi ném chiếc hộp của Fielding vào lòng xuồng, quấn dây mái chèo vào bàn tay phải và kéo chiếc xuồng về phía lùm cây.

      “Tôi đẩy nhé?” Rachel hỏi.

      “Tôi kéo được rồi. coi chừng rắn đấy.”

      Từ giây phút ấy mắt rời mặt đất.

      Hàng cây mọc ken sát đến nỗi khó lòng kéo chiếc xuồng qua giữa chúng, làm tôi toát hết cả mồ hôi. Nhưng thằng tóc vàng đúng. Chẳng mấy chốc tôi ngửi thấy mùi gỗ mục, và mắt tôi bắt gặp những tia nắng vàng chiếu mặt nước. Thêm mười lăm mét nữa tôi xô được chiếc xuồng giữa hai cây bách và đẩy nó xuống dòng sông.

      “Lên xuồng ,” tôi bảo Rachel. “Thẳng tới phía trước.”

      trèo lên phía đuôi xuồng và thận trọng đến chỗ ngồi ở mũi xuồng. Tôi đẩy xuồng ra chỗ nước sâu hơn rồi nhảy lên đuôi xuồng khi nó lao ra khỏi bờ. Ngồi vào ghế cứng, tôi cầm lấy mái chèo và lái xuồng dọc theo bờ sông ngoằn ngoèo.

      “Tôi cho xuồng chạy dưới tán cây. quan sát máy bay nhé.”

      Rachel nheo mắt nhìn lên. Vừa chèo tôi vừa căng tai lắng nghe, nhưng chỉ nghe được tiếng nước ì oạp.

      “Có thấy gì ?”

      lắc đầu.

      Tôi nhìn xuống khúc quanh dài tối sẫm của dòng sông, hai bên bờ mọc dày thông và bách. Lúc này chắc là lực lượng lớn của NSA tập trung tìm chúng tôi. Nhưng ở đây, lực lượng mạnh ấy hoàn toàn vô dụng. Lần đầu tiên sau nhiều giờ căng thẳng, lúc này tôi mới thấy hơi nhõm.

      có biết ta đến đâu ?”

      , nhưng tôi biết khi nào chúng ta đến đó.”




      CHƯƠNG 17


      Geli Bauer ngồi trong chiếc ghế trọng lượng của ả ở tầng hầm của ban an ninh tòa nhà Trinity, bàn tay phải của ả nắm chặt hai con xúc xắc nặng lấy được từ số đồ vật cá nhân của Fielding trong gian nhà kho. Ả nhặt chúng để cầu may, nhưng cho đến nay chúng mang lại cho ả rất ít may mắn.

      dãy màn hình bên tay phải ả lên hình ảnh hàng tá nhân viên NSA với xe nâng và xe bàn đẩy chuyển những thiết bị tinh nhạy và cặp hồ sơ ra các xe tải chờ sẵn phía sau tòa nhà. Ả muốn bất cứ thứ gì ở đây lọt vào tay mấy ông nghị nhiễu , khi Tennant ra trước công luận.

      “Tennant táp vào vệ đường và dừng lại,” giọng đàn bà vang lên trong ống nghe của Geli. Đó là cựu sĩ quan hải quân tên là Evans, giờ ở trong đội mặt đất theo dõi chiếc xe Audi bị đánh cắp.

      có định chạy ?” Geli hỏi.

      . Khi nhận ra bị chúng ta theo dõi, táp vô lề như đó là cột đèn giao thông vậy.”

      Geli thích nghe điều này. “Vẫn nhìn bọn chúng chứ?”

      “Chỉ thấy thằng đàn ông.”

      có loa ?”

      “Chúng tôi cần. vừa mới ra khỏi xe. giơ hai tay lên trời.”

      “Bác sĩ Tennant à?”

      phải.” Đường dây lạo xạo. “Trông như thằng trẻ con.”

      “Trẻ con à?”

      thằng hippy. Học sinh trung học.”

      “Các người chặn nhầm xe rồi!”

      , biển số đúng mà. Khoan... bọn chúng hẳn đổi xe.”

      “Ai?”

      “Lúc trước có hai thằng học sinh trong chiếc xe Chevy màu xanh lá cây phà. Tennant và Weiss chắc ở trong chiếc xe đó.”

      “Thẩm vấn thằng ranh con chết tiệt. Tìm cho ra!”

      “Giữ máy.”

      Ả liếc nhìn các màn hình. Nhân viên vận chuyển của NSA ì ạch khuân từng chồng máy tính ra kho hàng ở tầng trệt. Di chuyển những thiết bị ấy là việc cực nhọc. Giá họ cho giết phứt Tennant cùng lần với Fielding có phải đỡ khổ .

      “Evans đây,” giọng trong ống nghe vang lên. “Bọn chúng bây giờ sông.”

      “Bọn chúng sao cơ?”

      “Bọn học sinh có chiếc xuồng trong xe. Nhôm, sơn. Tennant mua lại của chúng.” Geli cảm thấy như sắp muốn quỵ. “Tìm chiếc Chevy và bắt giữ nó lại bằng bất cứ giá nào. Tịch thu cả chiếc Audi nữa.”

      “Tuân lệnh.”

      “Phi đội , các có nghe thấy ?”

      “Có.”

      “Bắt đầu rà soát tầm thấp sông. Bắt đầu từ chiếc phà, lên đến eo Albemarle. Dù cho Tennant thể chạy trốn bằng cách bơi xuồng ngược dòng.”

      “Chúng tôi trở lại dòng sông trong vòng năm phút.”

      “Cho đội mặt đất triển khai cả hai bên bờ sông.”

      “Chỉ bên sông có đường . Bờ Bắc.”

      “Trời ơi!”

      “Thôi được, bao vây bờ bên kia.”

      Geli buông máy và “Skow, nhà” vào ống . Sau hồi chuông, Skow nhấc máy. “Hãy với tôi rằng bắt được chúng.”

      “Bọn chúng chạy rồi.”

      “Thế nghĩa là sao?”

      “Tennant chuyển sang phà. Bây giờ cùng với Weiss chiếc xuồng ở đâu đó sông Cashie.”

      “Chó , Geli. Sao có thể làm ăn như thế?”

      Đôi má ả đỏ lên. “ có muốn cho ra lẽ ai là kẻ gây ra chuyện này ?”

      “Đừng có ngang ngược như thế.”

      “Nếu Tennant tuột khỏi tay chúng tôi ở đây, có thể chào tạm biệt quyền lực được rồi.”

      nhất thiết phải thế. Chờ tôi lát.”

      Trong khi Skow cân nhắc tình hình, Geli bật mở bản đồ Bắc Carolina màn hình. Tennant làm gì sau khi xuống sông? có thể đâu? Phà lên eo sông mất tám cây, mà bờ Nam lại có đường để quan sát dòng sông. Nếu Tennant biết điều này, có thể kéo xuồng lên bất cứ đâu.

      muốn làm gì?”

      “Tôi muốn có những bức ảnh thời gian thực chụp con sông đó từ vệ tinh, ngay bây giờ. Độ phân giải cao nhất có thể. đủ thẩm quyền làm điều này, tôi cung cấp tọa độ cho NRO.”

      “Còn gì nữa?”

      “Tôi cần thêm nhân lực. Tôi có đủ lực lượng chiến thuật để tiến hành càn quét diện rộng, trong vùng đất rừng như thế này.”

      “Đó là vấn đề. Chừng nào chúng ta chưa ra trước công luận với những câu chuyện như thế này, chúng ta còn thiếu nhân lực.”

      “Vậy tốt nhất là hãy nghĩ về chuyện ra trước công luận, càng nhanh càng tốt.”

      “Nghe đây, Geli, nếu chúng ta để sổng , chúng ta vẫn còn chiêu khác. Tôi sắp sửa cho vài thông tin khiến được trước Tennant bước.”

      Radar bên trong ả cảnh giác nghe ngóng. “Thông tin loại gì?”

      “Khi nào có biết. Đó là từ nguồn rất đáng tin cậy.”

      “Làm gì có chuyện. Có phải là nguồn NSA ?”

      “Phải.”

      “Cho đến bây giờ, cục an ninh chưa cho tôi cái gì tin cậy cả.”

      “Điều đó thay đổi. Tôi vội. Ta hết chưa?”

      “Chưa. Các quy tắc cam kết.”

      Skow thở nghe thấy . “Tôi rất ưng kịch bản giải cứu của .”

      “Tôi biết chắc ưng mà. Tôi cần lệnh cho phép bắn chết tại chỗ.”

      Skow trả lời.

      Geli thấy nóng mặt, “Nào, chúng tôi đợi...”

      “Cho tôi phút suy nghĩ.”

      “Sao cứ chần chừ cái chết tiệt gì về chuyện này thế?”

      “Coi nào... đây là vụ bắt cóc con tin. có kinh nghiệm khôn khéo. Tôi phải cho toàn quyền quyết định.”

      Geli lắc đầu thầm. “Hãy cẩn thận với những gì muốn, đúng ?”

      “Mệnh lệnh là gánh nặng, Bauer ạ.”

      “Mệnh lệnh phải là gánh nặng, Skow. Nó là cõi niết bàn. Gánh nặng là phải bày mưu tính kế với bọn quan liêu chỉ biết bình luận sau khi mọi việc đâu vào đấy cả rồi.”

      Skow khẽ chậc lưỡi. “ giống hệt như ông bố. Tôi nhắc ông ấy điều này.”

      Nhận xét này làm Geli lạnh người. “ cứ việc,” ả cứng.

      Sau khi Skow gác máy, ả ngồi im lặng, khẽ chạm vào vết sẹo gò má. Vậy là Skow và cha ả đâu chỉ có mối quen biết trong quá khứ. Ả thích ý nghĩ này. chút nào.




      CHƯƠNG 18


      Tôi chèo xuồng liên tục được khoảng giờ nhìn thấy bờ dốc thoải cho thuyền đậu. Nó nằm dưới chân chiếc cầu cao bắc qua sông Cashie mà ban nãy chúng tôi qua để lên phà. Từ bến phà đến chỗ này lòng sông mở rộng ra, sớm muộn nó cũng phải mở ra khoảng rộng của eo sông Albemarle. Ở giữa sông chúng tôi dễ bị phát từ . Tôi thấy dấu hiệu gì của chiếc máy bay do thám, nhưng điều đó chỉ làm tôi dễ thở hơn chút ít.

      Từ từ bơi xuồng dưới các tán cây xòe rộng bờ hữu, tôi nghĩ đến bờ dốc thoải của dòng sông. Ở đó chắc phải có chỗ nào để đậu xe. Xe tải và xe kéo thuyền. Chắc là đám ngư dân trở về từ những chuyến đánh cá.

      Rachel kéo ghế lên ngồi đối diện tôi, chăm chú nhìn tôi khi tôi bơi xuồng. “Chắc trước đây từng làm thế này.”

      “Cái gì? từng chạy trốn ấy à?”

      “Chèo xuồng.”

      Tôi gật đầu. “ em tôi cắm trại nhiều lần với ba tôi ở gần Oak Ridge. Cả săn và câu cá nữa.”

      nhìn lên hàng cây bờ sông. Mặt trời vẫn bướng bỉnh lơ lửng sau lưng chúng tôi, nhưng bóng cây trở nên xanh sẫm.

      “Bây giờ mình an toàn chưa?”

      “Được lúc. Bọn người săn đuổi chúng ta sử dụng công nghệ cao. Nếu chúng ta ra nơi công cộng, thành phố hay đường cao tốc, có lẽ ta bị bắt rồi. Ở đây cuộc chơi ngang bằng hơn.”

      nghịch nghịch dây đuôi xuồng bằng nylon màu xanh trắng.

      “Cái người mà hay đến, Geli Bauer ấy là ai vậy?”

      Tôi ngạc nhiên thấy nhớ được tên, nhưng lẽ ra tôi nên ngạc nhiên như vậy. chưa bao giờ quên điều gì mà tôi kể với . “ ta là kẻ giết người, lúc này truy đuổi chúng ta.”

      “Sao biết ta là kẻ giết người?”

      ta từng ở trong quân đội thời gian. Geli trôi chảy tiếng Ả Rập nên được đưa đến Iraq cùng với số đơn vị biệt kích trước chiến dịch Bão táp Sa mạc. Để thẩm vấn những Vệ binh Cộng hòa bị bắt. ta hành hình hai tù binh Iraq vì theo kịp đơn vị của ta. Cắt đứt cổ họng. Thậm chí những người lính trong đội Delta của ta cũng bị sốc.”

      “Tôi nghĩ phụ nữ xa hơn những gì mà các nhà hoạt động nữ quyền có thể nghĩ.”

      . Nữ sát thủ truyền thống lâu đời. hôm Geli cho Ravi Nara bài học về chuyện này.”

      “Nghe ra như ta là phần tử phản xã hội.” Rachel buông sợi dây đuôi xuồng ra và mệt mỏi xoa cổ.

      ta là ca nghiên cứu khá thú vị cho đấy.”

      có tin là ta giết Fielding ?”

      “Có. ta biết về những loại thuốc gây nên cái chết giống như cơn đột quỵ, và ta thường xuyên tiếp cận được mọi thứ trong Trinity. Thức ăn, nước uống, mọi thứ.”

      Tôi chèo mạnh hơn, và chiếc cầu bắc qua sông Cashie ra rất gần. Rachel nhìn qua vai để quan sát cái kết cấu đồ sộ ấy. Vài giây lại có xe chạy qua cầu. Chiếc cầu đại diện cho nền văn minh. Tôi ngừng chèo để cho tấm lưng trần cháy nắng của mình nghỉ ngơi chút. Yên lặng gần như tuyệt đối.

      nghe chim hót kìa,” Rachel bảo.

      Tôi nghe, nhưng thanh mà tôi lọc ra từ cõi im lặng có gì đó tự nhiên. Tiếng vo vo rất mơ hồ trôi sông. Đó có thể là tiếng xuồng máy, nhưng bụng tôi bảo phải.

      “Cái gì thế?” Rachel hỏi. “Trông có vẻ sợ hãi.”

      Tôi quét mắt qua bờ hữu tìm chỗ cho xuồng lên. Nếu chiếc trực thăng bay là là mặt nước những cành cây xòe ra phía che nổi chúng tôi. Tiếng động cơ nghe càng . Bây giờ cả Rachel cũng nghe thấy.

      “Nghe gần lắm,” .

      Ngay phía trước, thân cây gãy đổ ngang dòng sông. Nửa thân cây chìm dưới nước, đám cành lá chết của nó xòe ra như những chiếc cánh ma quái. Khoảng cách giữa cây và bờ là chỗ dễ có con rắn nước bất ngờ rơi tõm vào xuồng bạn nếu bạn ngu đến nỗi cho xuồng chui vào đó để kiếm cá. Tôi lái xuồng hướng thẳng vào chỗ thác nước hẹp, có cảm giác như mình là Hawkeye trong truyện Người Mohican cuối cùng. Chỉ có điều tôi mong có được chút may mắn của ta.

      Mấy giây sau khi mũi xuồng đâm thẳng vào bờ, tiếng rầm rì của động cơ đến gần trở thành tiếng gầm. Tôi hé mắt qua các lùm cây và thấy đúng cái điều mình lo sợ: chiếc máy bay bay là là cách mặt nước khoảng sáu mét, giống như phi công trong chiến tranh Việt Nam hỗ trợ hỏa lực cho lính mặt đất ven sông.

      “Họ thấy chúng ta phải ?” Rachel hỏi.

      , nếu có thiết bị nhiệt-ảnh. Nhưng có thể chúng có. nằm rạp xuống .” trườn khỏi chỗ ngồi, nằm ép sát xuống lòng xuồng. Tôi nằm cạnh . Chấn động phát ra từ máy bay làm vỏ nhôm của xuồng rung lên. Chúng tôi nằm bẹp xuống lòng xuồng, chờ xem nó có quay lại vòng nữa . Nhưng có.

      Tôi trở lại chỗ ngồi và chèo về phía cầu.

      “Tôi thể tin điều xảy ra,” Rachel . “Tôi thể tin người phụ nữ mà tôi chưa hề gặp lại cố săn lùng tôi và giết chết tôi. Làm sao ta có thể làm việc đó?”

      Tôi nhớ lại cuộc gặp cuối cùng với Bauer. “ ta nghĩ rằng chúng ta rất gần gũi nhau. ta tưởng rằng tôi.”

      Gò má Rachel ửng đỏ lên dưới ánh nắng nhạt. “Vì cái hôn ở nhà Lu Li ấy à?”

      phải chỉ có thế. Hôm qua khi Geli thẩm vấn tôi, ta rằng hề hẹn hò với ai.”

      “Làm sao ta biết được điều đó?”

      ta biết tất cả những người hẹn hò và khi nào thôi gặp họ nữa. ta biết thầy giáo lớp ba của là ai, và mẹ thường cho ăn gì mỗi khi ốm.”

      “Khi ta bảo tôi trả lời thế nào?”

      “Rằng nghĩ tôi là người bị tâm thần phân liệt.”

      Rachel mỉm cười, đôi mắt buồn buồn.

      Tôi nhìn lướt mặt sông lúc này trải rộng xem có chiếc thủy phi cơ nào khác . Tôi thấy, điều đó chẳng có gì đáng ngạc nhiên lắm. Ngư dân mua những động cơ cỡ lớn để đưa họ đánh cá càng xa càng tốt. Tôi đẩy mạnh mái chèo nhắm hướng bãi đáp xuồng.

      “Dừng hả?” Rachel hỏi khi nhìn thấy bãi đáp thuyền thoai thoải.

      “Ừ. Đến nơi, cứ ngồi yên đấy. Tôi quay lại ngay.”

      định làm gì?”

      “Xem xét quanh đây.”

      Tôi đậu xuồng bên bãi, lội xuống chỗ nước nông rồi bì bõm lên bờ. Bãi đất đậu xe đầy vỏ sò trải dài từ rừng cây bên tay phải tôi đến cây cầu bê tông sừng sững bên trái. Tôi thấy người, nhưng hàng xe bán tải móc với xe kéo thuyền đậu cách bờ dốc khoảng bốn mươi mét. Tôi bước tới và lọt vào giữa hai xe tải.

      Tôi khom người xuống, dò tìm phía lốp của cả hai xe tải xem chìa khóa giấu ở đâu. thấy. Bò quanh chiếc xe tải bên trái, tôi kiểm tra thêm hai lốp khác của nó. Vẫn có. Tôi gặp may ở hai xe tiếp theo. Chiếc xe kế trong hàng là chiếc Dodge Ram màu hạt dẻ. có chìa khóa nào ở các lốp xe, nên tôi thay đổi chiến thuật. Ngồi xổm giữa đuôi xe tải và đầu chiếc xe kéo bỏ , tôi rà tay dưới tấm chắn sau của nó, dọc theo mép kim loại. cái gì đó trượt về phía lưới chắn kêu kin kít.

      hộp khóa từ.

      Tôi mở cái hộp đen , thấy chìa khóa xe Dodge và chiếc để khóa móc xe kéo. Nhanh chóng mở khóa tách chiếc xe kéo khỏi xe tải, tôi ngồi vào buồng lái và nổ máy.

      Khi tôi lái tới nơi, Rachel nằm chúi xuống lòng xuồng, nhận ra tôi ở sau tay lái. Tôi vòng sang trái để cửa kính phía tôi quay về phía .

      “Mang theo chiếc hộp của Fielding!” tôi kêu. “Nhanh lên.”

      Ôm chặt chiếc hộp trong tay, Rachel nhảy ào ra khỏi xuồng và bì bõm lao lên bờ. Tôi chạy ra mép sông, bốc nắm bùn chỗ nước nông bôi lên biển số xe. Xong tôi xuống sông rửa tay, đặt chiếc hộp của Fielding lên băng sau, rồi đỡ Rachel lên ghế ngồi cạnh chỗ tôi.

      đấu tắt dây đánh lửa để đề xe phải ?” hỏi.

      “Tôi biết làm vậy đâu. Ngư dân vốn là những người thà. Họ tin nhau. tình tôi chẳng muốn làm chuyện này.”

      “Tôi đọc kinh sám hối cho. Thôi ta .”

      Chúng tôi phóng , để lại đám bụi trắng như vỏ sò phía sau.

      “Chúng ta vẫn đến Nags Head à?” Rachel hỏi.

      . Có thể chúng đón lõng ta ở đó. đưa tôi mượn di động.”

      lấy chiếc Motorola màu bạc trong túi ra đưa tôi. Tôi bấm số Nhà Trắng theo trí nhớ, Fielding cho tôi từ lâu để tôi nhập tâm.

      gọi cho ai?” Rachel hỏi.

      “Tổng thống, tôi hy vọng thế.”

      “Nhưng ...”

      “Tôi muốn xem điều gì xảy ra.”

      Tổng đài trả lời sau hai hồi chuông. Tôi , “Dự án Trinity.” chút yên lặng, tiếp theo là tiếng kích, và giọng hôm qua vang lên. “ trình bày .”

      “Tôi là David Tennant. Tôi cần chuyện với tổng thống.”

      “Xin giữ máy.”

      tiếng rít khẽ tiếp theo, và tôi biết mỗi tích tắc bây giờ là thêm thời gian cho NSA lần ra vị trí điện thoại di động của Rachel.

      “Sao?” hỏi.

      “Đếm đến bốn mươi. To lên.”

      Khi đêm đến ba mươi lăm giọng miền New England cất lên, “Bác sĩ Tennant?”

      “Có.”

      “Tôi là Ewan McCaskell. Tôi với từ lực .”

      Tim tôi đập thình thịch. “Ngài McCaskell, tôi cần chuyện với tổng thống.”

      “Lúc này tổng thống chuyện với Thủ tướng . Sau năm phút nữa ông ấy mới có thể đến nghe điện thoại được.”

      Tôi thể ngồi đợi để điện thoại di động mở trong cả năm phút.

      có đợi ?” McCaskell hỏi. “Tổng thống biết có chuyện lộn xộn ở Dự án Trinity. Ông ấy rất muốn chuyện với .”

      “Tôi thể đợi được. Tôi gọi lại Nhà Trắng trong bảy phút nữa.”

      “Chúng tôi bảo họ nối máy.”

      Tôi bấm tắt. Tim tôi đập mạnh.

      Rachel chạm vào tay tôi. “Tin tốt hay xấu?”

      “Tôi biết. Đó là McCaskell. ta bảo tổng thống muốn chuyện với tôi. Nhưng ràng là họ được người ta thông báo trước. Có lẽ là John Skow. Họ chỉ biết những gì mà Godin muốn cho họ biết.”

      “Họ trở về Mỹ chưa?”

      “Họ ở lực .”

      đường từ Trung Quốc về à?”

      . Đó là chuyến năm ngày, cộng thêm ngày dừng chân ở Nhật. Hôm qua tôi kiểm tra lại. Cuộc gặp cấp cao này như kiểu kỷ niệm chuyến thăm của Nixon năm 1972. kiện lặp lại ấy mà, chỉ có điều còn căng thẳng chiến tranh lạnh nữa.”

      “Lát nữa gọi lại định gì?”

      Tôi lắc đầu. Tổng thống Bill Matthews từ thượng nghị sĩ Cộng hòa bang Texas bị cuốn đến Nhà Trắng trong cơn thủy triều chống đảng Dân chủ bị thất bại. ai có thể ngạc nhiên hơn James - trai tôi, người biết Matthews từ hồi học chung ở trường Yale. Theo tôi Matthews là người có sức thuyết phục, nhưng phải là mũi tên sắc nhọn nhất trong ống tên. Khi còn là thượng nghị sĩ, ông ấy luôn phải phụ thuộc các trợ lý của mình và điều này chưa hề thay đổi sau khi đến Nhà Trắng. Dư luận chung vẫn cho rằng ông phải vật lộn cả hai mặt trận đối nội và đối ngoại. Tôi gặp Matthews lần ở Phòng Bầu dục, sau đó gặp thêm lần trong bữa tiệc ở thành phố Georgetown khi tôi làm series phim NOVA dựa cuốn sách của mình. biết ông còn nhớ về tôi như thế nào? Như bác sĩ điềm đạm có từng là người bạn ông quý? Hay là bệnh nhân hoang tưởng mắc chứng ảo giác mà chắc chắn Skow mô tả?

      Tôi lái xe đường cao tốc số 64, trong lòng lo âu cho đến lúc phải gọi lại. Lần này, khi tôi vừa xưng tên, đường dây gần như được nối ngay lập tức.

      “Bác sĩ Tennant đấy à?” Tổng thống hỏi.

      “Tôi là David Tennant.”

      “Tôi là Bill Matthews, chào David. Tôi biết từ lần cuối cùng chúng ta gặp nhau đến nay khá lâu, nhưng tôi muốn hiểu rằng vẫn có thể với tôi bất cứ điều gì. Nào, .”

      Tôi hít hơi sâu và thẳng ngay vào vấn đề. “Thưa tổng thống, tôi biết ngài nghe người ta với ngài về cái gọi là bệnh tâm thần của tôi. Tôi muốn ngài biết cho rằng lúc này tôi khỏe mạnh khác gì lần gặp ngài ở Phòng Bầu dục. Bởi vậy mong ngài hãy lắng nghe tôi cách khách quan. Hôm qua Fielding chết ở phòng làm việc của mình trong Trinity. Tôi tin rằng ông ấy bị giết. Hôm nay có mưu toan tính lấy mạng tôi. gã đàn ông mang súng đến nhà tôi, tôi phải giết gã để tự vệ. Dự án Trinity hoàn toàn mất kiểm soát, và tôi cho rằng Godin và Skow phải chịu trách nhiệm.”

      khoảng im lặng dài.

      “Thưa ngài tổng thống?”

      “Tôi rồi, David ạ. Nghe này, việc đầu tiên chúng tôi cần làm là đưa đến nơi an toàn.”

      có nơi nào an toàn cả.”

      “Được rồi, phải có chỗ nào an toàn chứ.”

      có, khi mà NSA còn tìm cách giết tôi.”

      “Đừng lo về NSA. Tôi có thể bố trí để Sở Mật vụ đón ở nơi nào đó, và họ đưa đến căn nhà an toàn trong khi chờ tôi trở về.”

      Nghe có vẻ hấp dẫn đấy, nhưng tôi biết thể liều cho cuộc gặp mặt như thế. Còn sống mà đến được đó là gần như thể. “Tôi thể làm vậy, thưa tổng thống.”

      tin Sở Mật vụ à?”

      phải thế. Vấn đề là tôi biết mặt nhân viên mật vụ nào cả.”

      “Tôi hiểu.” Im lặng. “Chúng ta có thể quy ước mật mã, dấu hiệu nhận biết chăng?”

      “Điều đó an toàn đối với NSA. có việc gì như thế có thể giữ được an toàn.”

      “Chúng tôi có thể đón ngay bây giờ.”

      “Chúng ta cần phải giả thiết rằng bọn an ninh nghe trộm cuộc chuyện này. Họ có thể vươn dài đến tận Trung Quốc.”

      Matthews thở dài. “Thôi được, David. Hãy cho tôi biết, có tin Ewan McCaskell ?”

      Tôi nghĩ chuyện này rồi. Mãi đến khi McCaskell trả lời điện thoại của tôi ở nhà, cú điện cho người của an ninh Trinity biết tôi chưa liên lạc được với tổng thống, tôi mới bị mưu hại. Nếu McCaskell có liên lạc với người nào đó của Trinity, chắc ông ta phải báo cho họ từ lâu về chuyện này trước cuộc điện đàm ấy. “Tôi tin ông ấy. Nhưng tôi cần phải được thấy mặt ông ấy.”

      “Ừm... có lẽ phải náu cho đến khi chúng tôi trở về. McCaskell và Sở Mật vụ đón . có thể về Washington trong vòng bốn ngày được ?”

      “Tôi có thể, thưa tổng thống. Cho phép tôi hỏi ngài câu được ạ?”

      “Được chứ.”

      “Ngài có tin tất cả những gì tôi vừa ?”

      Matthews trả lời bằng giọng bớt chan hòa hơn. “David, tôi giấu . John Skow tiến sĩ Fielding chết vì nguyên nhân tự nhiên, và rằng có khiêu khích nhưng bắn chết sĩ quan an ninh Trinity bên ngoài nhà . ta còn bắt cóc bác sĩ tâm thần của .”

      Tôi chớp mắt tin. Thế là cuối cùng Skow cũng mắc sai lầm.

      “Xin ngài giữ máy,” tôi đưa máy cho Rachel. “Hãy cho ông ấy biết là ai.”

      ngần ngừ cầm lấy điện thoại, áp lên tai

      “Tôi là bác sĩ Rachel Weiss... Vâng... , thưa ngài. Tôi tự nguyện cùng tiến sĩ Tennant... Vâng, thưa đúng. Vâng, người ta muốn giết chúng tôi... Vâng, thưa ngài tôi làm thế.”

      đưa lại điện thoại di động cho tôi.

      “Ngài tổng thống.”

      “Tôi đây, David. Nghe này, tôi biết nên nghĩ sao. Nhưng tôi biết xuất thân trong sạch, và tôi muốn gặp gỡ chuyện với .”

      thoáng nhõm lướt qua tôi.

      “Vâng, thưa ngài. Tôi chỉ muốn cuộc điều trần thẳng thắn.”

      “Điều đó phải đợi đến lúc tôi về. Cẩn thận nhé, David.”

      tiếng cười nho thoát ra qua cái cổ họng tắc nghẹn của tôi. Câu đó là câu cửa miệng của trai tôi. “Cám ơn, ngài tổng thống. Xin hẹn gặp ngài.”

      Tôi tắt máy.

      Rachel nhìn tôi chờ đợi. “ nghĩ thế nào?”

      “Tôi nghĩ chúng ta khá hơn trước đây năm phút. Ông ấy hỏi gì vậy?”

      “Hỏi rằng có phải tôi bị cưỡng ép . Ông ấy cũng bảo tôi phải chăm sóc . Lạy Chúa... tôi thể nào tin được. Trong bốn ngày nữa chúng ta làm gì đây?”

      Tôi nhấn ga tăng tốc lên hơn trăm cây. “Chúng ta đến Oak Ridge.”

      “Tennessee à?”

      “Ờ. Tôi thấy nơi nào trái đất giống như ở đấy. Ra khỏi thành phố gần chục cây là như lạc vào chốn hoang vu. cảnh sát. có ti vi đăng ảnh truy nã những kẻ chạy trốn và ăn trộm xe tải. có gì hết.”

      “Có xa ?”

      “Tám giờ xe chạy.” Tôi vượt qua chiếc xe chạy chậm và chuyển qua làn xe bên phải. “ cố ngủ lúc.”

      “Tôi ngủ được trong ô tô.”

      “Nhưng đây là xe tải cơ mà.”

      “Cứ đùa.”

      Thoát khỏi chiếc máy bay và liên lạc được với tổng thống khiến chúng tôi hơi phấn chấn lên, nhưng cảm xúc ấy kéo dài. “Tôi nghiêm túc chuyện ngủ nghê đấy. Sáng mai cần toàn bộ sức lực.”

      “Để làm gì?”

      “Vượt núi.”




      CHƯƠNG 19


      Geli như ngồi lửa, người ả hừng hực lên vì cuộc săn đuổi này. Giữa cuộc săn lùng Tennant - Weiss và cuộc tìm kiếm Lu Li Fielding, các lực lượng của ả bị căng hết giới hạn. Nhưng khi bực mình về chuyện thiếu nhân lực, ả thường nghĩ về sa mạc Iraq, ở đó toàn bộ nguồn lực của ả chỉ có tám lính đặc công trong Lực lượng Delta.

      Chuyện đau đầu gần đây nhất của ả là Jutta Klein, chuyên gia Đức về MRI. ràng Jutta Klein lợi dụng giám sát lơi lỏng của ả để phóng xe đến Atlanta, rồi tếch lên chuyến máy bay Lufthansa để bay về Đức. Chính phủ Đức cam kết “ trợ giúp bằng mọi cách có thể” nhưng Geli biết họ mở rộng cánh tay chào đón Jutta Klein với những tài nghệ mà chị ta mới kiếm được.

      Geli xoay người ghế bành. kẻ có mã khóa ngày lẻn qua cửa, bước vào trung tâm điều khiển. John Skow từ trong bóng tối bước ra, vẫn vận bộ comple muôn thuở hiệu Brooks Brothers, mắt gã lấp lóe vì sợ hay vì kích động biết nữa.

      làm gì ở đây?” ả hỏi. “Có chuyện gì vậy?”

      Skow ngồi chành bành chiếc ghế đối diện với Geli, hai tay như tay đàn bà quàng quanh lưng ghế.

      “Tennant vừa chuyện với tổng thống. Matthews lực , đường từ Bắc Kinh đến Thượng Hải. Mạng nghe trộm của ta ở Trung Quốc mới bắt được tin này và tôi vừa bẻ được mã khóa lệnh thi hành.”

      Geli cảm thấy như ả vừa mở cửa lò nướng nóng sực. Chẳng trách Skow muốn chuyện qua điện thoại mà lại mò thẳng đến đây. “Họ gì?”

      “Tổng thống cố gắng bố trí để Sở Mật vụ đón Tennant ở đâu đó, nhưng Tennant cắn câu.”

      “Matthews chịu nghe câu chuyện của chúng ta chưa? Hay ông ta tin Tennant?”

      Skow cắn môi, như cân nhắc lợi hại. “Tôi nghĩ ông ta tin chúng ta. Nhưng ông ta hứa với Tennant có cuộc điều trần thẳng thắn.”

      “Vậy chuyện đó diễn ra như thế nào?”

      “Ewan McCaskell cùng Sở Mật vụ tìm gặp Tennant và đón cho đến khi tổng thống về. Tennant tin McCaskell.”

      “Bao giờ tổng thống về?”

      “Bốn hôm nữa.”

      “Tức là về Washington?”

      “Phải.”

      “Tuyệt”

      “Tại sao?”

      Geli tiên liệu thể nào Tennant cũng chạy về Washington. “Thủ đô tạo cho chúng ta kịch bản tuyệt vời để loại bỏ Tennant. Bắt đầu ngay từ bây giờ, chúng ta cố hết sức để làm mất tín nhiệm, bằng cách phóng đại thêm những gì chúng ta . Tác dụng ngoại ý ở Tennant chuyển thành loạn thần. bắn chết nhân viên an ninh của mình và bắt cóc bác sĩ Weiss.”

      “Rồi sao?”

      “Bây giờ đe dọa tính mạng tổng thống.”

      Skow nheo mắt. “Nhưng vừa mới chuyện với Matthews. chẳng tỏ vẻ đe dọa gì cả.”

      Geli đảo mắt. “Tennant tất cả những gì cần để tiếp cận cho bằng được người mà muốn giết. Bằng cách vẽ ra hình ảnh như kẻ cuồng sát, ta có thể khiến mọi cảnh sát thành phố săn lùng . Và khi cho xử lý như Lee Harvey Oswald, các nhân viên mật vụ cho đến gần tổng thống.”

      chiến lược thông minh. Chúng ta lấy gì làm chứng cớ?”

      “Chúng tôi có bản ghi hàng trăm giờ ở nhà Tennant và qua điện thoại. Chiếc Godin Four vẫn còn chạy đó chứ?”

      “Tôi để ý. Làm gì?”

      “Với chương trình thích hợp của NSA, và nhờ trợ giúp của Godin Four, ta có thể chắp thành những lời đe dọa đối với tổng thống mà ai có thể chứng minh là giả.”

      Skow nở nụ cười tán thưởng. “Giỏi! Mưu này giỏi đó, Geli!”

      “Đó là lý do tại sao tôi ở đây. Vấn đề là, Tennant chạy thẳng vào Washington D.C. hay đợi bốn ngày nữa?”

      “Nguồn của tôi ,” Skow đáp. “Tôi có danh sách ngắn các địa điểm Tennant có thể đến, trong đó Washington là điểm cuối cùng.”

      Nỗi tức giận làm cơ quai hàm của Geli thắt lại. “Nguồn đó là ai, mẹ kiếp?”

      “Tôi thể cho lúc này, rất tiếc.”

      “Nhưng nó Tennant chạy đến những nơi khác ngoài Washington D.C.?”

      “Phải. Như vậy hợp lẽ hay sao? Tại sao Tennant phải liều vào Washington trong khi còn bốn ngày nữa mới đến cuộc gặp?”

      “Bởi vì biết người ở đó có thể vào POTUS. Viện phẫu thuật. Giám đốc Viện Sức khỏe Quốc gia. Các chính khách từ tiểu bang quê hương . Thượng nghị sĩ Barrett Jackson đứng đầu Ủy ban Đặc trách Tình báo. Ông ta có thể tiếp xúc với Phòng Bầu dục qua điện thoại. Và nếu Tennant có thể thuyết phục người nào đó như Barrett Jackson tin rằng khỏe mạnh...”

      “Tôi hiểu. Thôi được. Nhưng chúng ta thể biết chắc đến nơi nào. Và câu chuyện tên ám sát của cho phép chúng ta đưa những nguồn lực khác của liên bang vào bao vây các địa điểm khác đó.”

      “Tốt. lo phần truyền thông. Cũng cần nhằm vào những kẻ mà Tennant biết quanh vành đai cao tốc theo bảng phân loại cảnh báo về an ninh của NSA. Xoáy vào vấn đề tâm thần bất ổn của . có thể làm điều đó cách tinh tế được ?”

      Đôi môi mỏng của Skow dãn ra thành thứ gì giống như nụ cười. “Đó là lý do tại sao tôi ở đây.”

      Geli gật đầu, cảm thấy dễ chịu hơn cách đây vài giờ. “Tốt nhất là hãy lên tầng để đảm bảo họ vẫn để Godin Four chạy. Hoặc nhanh nhanh mang nó lại đây cho tôi. ”

      Skow chưa bao giờ chạm vào người Geli, nhưng lần gã chìa tay ra mà nắm lấy cổ tay ả. “ có bốn ngày để tiêu diệt Tennant và Weiss. Sau đó, Sở Mật vụ xử lý mọi việc, và họ truy lùng ráo riết để chộp Tennant chứ giết .”

      “Thế cho nên cần đảm bảo rằng lời nào được người ta tin.”

      Skow gật đầu. “Đúng.”

      “Đừng lo,” Geli trấn an gã. “Tổng thống bao giờ gặp lại Tennant. Trong vòng hai mươi bốn giờ nữa chết như .”

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 20


      Khi chúng tôi đến được Raleigh trời tối. hết đường cao tốc 64, chúng tôi rẽ vào I-40, sau đó vòng lại qua Công viên Tam giác Nghiên cứu, chuyển sang hướng Tây về phía Tennessee.

      “Trông kìa,” Rachel khi nhìn những ánh đèn thân thuộc loang loáng trôi qua. “Lúc trời tối như thế này, tôi gần như tin rằng thả tôi về nhà tôi ở Durham, và tôi có thể vào nhà uống tách trà.”

      “Giờ biết hơn rồi đấy.”

      nhìn tôi hồi lâu rồi khẽ thở dài trong bóng tối.

      “Tôi tiếc kéo vào tất cả chuyện này,” tôi . “Tôi cũng chưa có lúc nào xin lỗi cho phải.”

      “Tự tôi dấn vào chuyện này đấy chứ.”

      . Tôi kéo vào từ lúc tôi chọn làm bác sĩ tâm thần cho mình.”

      Vẻ mệt mỏi mặt Rachel cho thấy quá quen với việc phải xử lý những lỗi lầm của người khác.

      “Đừng cố mà đoán mò thói đỏng đảnh của số phận. Nếu có con bướm nào vẫy cánh ở Malaysia trước khi gọi, có thể tìm thấy người khác. Đời là thế.”

      Trước đây, tôi cũng tự nhủ thế về những chuyện tương tự, nhưng trong trường hợp này tôi thể nào tin vào nó.

      , tôi tìm ra là người giỏi nhất trong lĩnh vực của mình. nhà phân tích theo trường phái Jung giống bác sĩ tâm thần thông thường. Tôi biết điều này ra nghe có vẻ trẻ con, nhưng tôi có cảm giác rằng số tôi là phải tìm .”

      nhìn tôi với đôi mắt thông cảm vô hạn, nhưng đằng sau vẻ thông cảm tôi thấy nỗi đau. Bằng cách nào đó, tôi chạm vào nỗi niềm sâu lắng của . Khi , giọng nghe hờ hững.

      dễ khi tự nhủ rằng những gì xảy ra với ta là tiền định. Điều đó an ủi ta. Nó cho ta cảm giác hình như còn có kế hoạch gì to lớn hơn. Tôi nghĩ tôi và chồng tôi có duyên sống với nhau. Nhưng chúng tôi sống được như thế. Đó chỉ là lựa chọn tồi mà tôi coi là vận mệnh cho có vẻ hợp lý. ra điều này thảm hại làm sao.”

      “Thảm hại ư? Cuộc hôn nhân ấy đem lại cho đứa con mà.”

      “Vậy ai chết trong đau đớn và sợ hãi khi tuổi mới lên năm?”

      Giọng có vẻ cáu giận. Trong bao năm hành nghề y, tôi từng thấy nhiều trẻ em chết, nên tôi hiểu điều đó ảnh hưởng tới những người làm cha mẹ như thế nào. Họ có thể bị suy sụp đến mức thể gượng lại nổi. Ngay cả các y bác sĩ cũng tránh khỏi điều này. Cái vỏ chuyên nghiệp dễ dàng tan chảy trước đứa trẻ chịu đau đớn. Đối với tôi, nỗi đau đớn này - nỗi đau của lũ trẻ ngây thơ - là trở ngại đầu tiên đối với niềm tin vào Thượng đế.

      với con còn có năm năm thương nhau vô điều kiện. Chẳng lẽ lại muốn nó ra đời để rốt cuộc cả hai người khỏi phải chịu nỗi đau ấy sao?”

      trừng trừng nhìn tôi phẫn nộ. “Gì cũng được à? e dè trước giới hạn nào cả.”

      , nếu như ta có quyền vượt qua chúng.” Tôi về chuyện mất đứa con của chính tôi, và biết điều đó.

      lại nhìn ra ngoài cửa sổ. “Thôi chuyện này nữa.”

      “Chúng ta đâu có cần phải . Nhưng chúng ta cần được tiếp tế đấy. Tôi sắp sửa dừng xe trước cửa hàng Wal-Mart mở cửa suốt đêm ở Winston-Salem hay Asheville. Như vậy có vài giờ để ngủ.”

      “Tôi mệt bã người rồi,” thừa nhận.

      “Ghé lại đây.”

      “Cái gì?”

      tựa vào đây?”

      “Vào vai ấy à?”

      . Can đảm lên. nằm cuộn người ghế và gối đầu lên đùi tôi.”

      lắc đầu, nhưng phải để từ chối. Tôi chăm chú nhìn đường. Sau vài phút, tuột giày, nằm gập chân và gối đầu lên bắp đùi phải của tôi. Tôi có cảm giác đôi mắt vẫn mở, nhưng tôi nhìn xuống. Tôi hạ thấp bàn tay phải và bắt đầu xoa vuốt trán , luồn tay vào tóc .

      làm tôi nhớ lại hồi bé,” .

      “Tôi chuyện với đâu. Nhắm mắt lại.”

      Lát sau, nhắm mắt.

      Chúng tôi đến Asheville lúc mười giờ ba mươi tối. Cửa hàng Wal-Mart rực rỡ ánh đèn trông như ốc đảo trong bóng tối, và tôi chạy qua biên giới bang. Đầu Rachel vẫn tựa đùi tôi, cẳng chân phải của tôi dường như tê dại cả . có phản ứng khi tôi . Tôi những muốn để lại xe để vào cửa hàng, nhưng tôi muốn tỉnh dậy thấy có mình nơi đỗ xe. Còn có khả năng cảnh sát địa phương nhận được tin báo từ những người ngư dân bị mất xe nữa. Để tránh bị phục kích khi chúng tôi ra khỏi cửa hàng, tôi đánh thức Rachel dậy rồi kéo tuột vào trong dãy cửa kính, tại đấy có thể nhận ra ngay kẻ nào tỏ ra quan tâm quá mức đến chúng tôi trong chiếc Ram màu nâu đỏ.

      Tôi thẳng đến gian hàng bán đồ thể thao và bắt đầu nhặt các thứ cần thiết, bên cạnh quầy thu tiền vắng người. Lều trại hai người. Túi ngủ. Ba lô. Đèn dầu, dây may so và dầu. Tại gian khác, tôi chọn bộ áo liền quần ngụy trang Silent Shadow, khăn trùm đầu, ủng cao su ngụy trang và đồ lót cách nhiệt. Ở gian hàng khác nữa, tôi chọn chiếc cung bằng nhựa tổng hợp, tám mũi tên và ống đựng tên. Cuối cùng, tôi chất lên đống hàng chiếc la bàn, ống nhòm, dao găm Gerber, thuốc khử trùng, đèn pin Maglite và hai điện đài xách tay chạy bằng pin. Rồi tôi tìm người bán hàng để tính tiền tất cả chỗ đó.

      Thiếu phụ Mexico mà tôi tìm được có vẻ nghi ngờ tiền mặt của tôi. Trong khi ta kiểm tra từng tờ 100 đô xem hay giả, tôi vào gian hàng hóa mỹ phẩm mua thuốc đánh răng, bàn chải răng và xà phòng. Tổng số tiền hàng lên tới 1.429,84 đô. Trả tiền xong, tôi đẩy xe hàng ra tiền sảnh, để đấy cho Rachel, rồi lấy chiếc xe khác sang gian hàng tạp phẩm, lấy đủ các thứ giúp chúng tôi sống qua vài tuần, quên mấy chai nước uống. đường ra quầy thanh toán, tôi thầm nghĩ ngạc nhiên làm sao khi giữa đêm hôm khuya khuắt, tôi lại từ đường cao tốc ghé vào cửa hàng phục vụ 24/24, tự trang bị cho mình đầy đủ để có thể sống dài ngày nơi hoang dã. Cha tôi chắc thể tin nổi chuyện này.

      Khi tôi ra, Rachel giơ ngón tay ra hiệu OK, và tôi thở nhõm hơn. Ở cửa ra, tay bảo vệ chặn tôi lại nhưng chỉ để kiểm tra số hàng mang ra so với biên lai. Mười giây sau chúng tôi bước qua bãi đậu xe. Tôi quẳng các thứ mua được vào sau ghế ngồi, giúp Rachel lên xe, rồi chạy trở lại đường I-40.

      Ngay trước khi đến biên giới bang, tôi rẽ vào bãi đậu xe của nhà nghỉ Best Western, đậu xe giữa hai xe tải ở hàng cuối. chiếc là Dodge Ram màu xanh có gắn moóc. Dùng tuốc nơ vít trong hộp dụng cụ, tôi tháo biển số Texas của xe Ram, thay cho biển số chiếc xe nâu đỏ của chúng tôi. Xong tôi lái lên đường I-40 nhằm thẳng hướng Tây về phía ranh giới Tennessee, nó nằm đâu đó trong rặng Appalachian phía trước.

      Chẳng bao lâu Rachel lại ngáy êm, đầu vẫn gối đùi tôi. Tôi vặn radio chọn kênh phát nhạc của David Gray, mắt khẽ nhắm hờ chỉ để đủ quan sát hai mép đường. Chúng tôi chạy về quá khứ của tôi, về phía những cánh rừng tuổi thơ, thế giới đầy ắp tương phản kỳ lạ và ký ức phai mờ. Phòng Thí nghiệm Quốc gia Oak Ridge là trong những trung tâm công nghệ cao nhất của cả nước, thế mà lại nép mình giữa rừng già rậm rạp. Ở đó, tôi được học với con cái những ông bà thông minh sáng láng từ Chicago và New York đến và con cái những người đàn ông đàn bà gầy guộc hốc hác chưa từng rời khỏi hạt từ lúc sinh ra. số nhà khoa học thấy chỗ quê mùa này buồn chán, thẳng ra là khó chịu, nhưng đối với gia đình tôi cảnh núi rừng bao quanh Oak Ridge là thiên đường.

      Xung quanh Oak Ridge có nhiều chỗ kín đáo có thể náu, nhưng có nơi tuyệt nhất. Năm ngoái tôi nghe người bạn từ thời thơ ấu kể rằng vì lý do kinh phí hạn chế, chính phủ đóng cửa Công viên Quốc gia Frozen Head. Nơi đó tôi với tôi cắm trại biết bao nhiêu lần. Bây giờ, công viên vùng núi này trở nên hoang phế nhưng vài người bộ cuồng nhiệt vẫn vụng trộm đến đây thưởng thức kỳ nghỉ của mình mà làm phiền đến ai.

      Chúng tôi băng qua ranh giới Tennessee ở cực Nam Rừng Quốc gia Pisgah. Chúng tôi xuyên rừng già và đến nửa đêm qua Knoxville. Tôi chạy tiếp về phía Tây đường 62 và đầy ba mươi phút sau, chúng tôi chạy xe qua Oak Ridge, “thành phố bí mật” của Mỹ trong Thế Chiến II. Ngày nay nó nổi tiếng thế giới về các căn cứ hạt nhân, nhưng trong Thế Chiến II, nó có tên bản đồ. Trong khoảng thời gian từ 1945 đến 1975 - những năm tôi rời đến Alabama - Oak Ridge phát triển thành nơi kiểu thành phố bình thường của Mỹ. Nhưng bao giờ hoàn toàn như vậy. Luôn có cảm giác chung về sứ mệnh của Oak Ridge, và chứng cớ về giá trị của thành phố này tuy nhìn thấy được nhưng vẫn luôn tồn tại. Chúng tôi, những người từng sinh sống ở đó biết rằng nếu có xảy ra chiến tranh hạt nhân chỉ vài phút là tất cả chúng tôi thành tro bụi. Ngay trong đêm tối, tôi cũng có thể thấy thành phố phát triển hơn nhiều kể từ ngày tôi xa nó. Có thêm nhiều nhà hàng nhượng quyền nằm dọc hai bên đường, thêm nhiều chuỗi cửa hiệu, nhưng trái tim thành phố vẫn là phòng thí nghiệm và những lò phản ứng uranium thời chiến, nó thu hút trí tò mò của du khách muốn nhìn những vũ khí giúp người Mỹ chiến thắng trong cuộc chiến với Nhật Bản.

      Rời khỏi Oak Ridge đường cao tốc 62, xe chúng tôi là phương tiện duy nhất chạy đường. Chúng tôi bọc theo chân núi Big Brushy, phía bên kia là nhà tù bang. Ba ranh giới hạt gặp nhau ở chỗ hoang vắng này, thế giới chìm trong màn sương, nơi lớp hậu duệ của những người thợ mỏ, người nấu rượu lậu sinh sống. Họ cứ sống dai dẳng trong cái thung lũng mờ tối này và dọc theo các hầm mỏ bỏ hoang vẫn còn lại như những vết sẹo trong vùng núi.

      Tôi vòng lên hướng Bắc theo đường 116, con đường băng qua làng Petros, rồi qua nhà tù, khu đất rào kín trông ngán ngẩm được chiếu sáng chói gắt bằng đèn thủy ngân cao áp và có hàng rào dây thép gai bao quanh. Phía Bắc nhà tù, con đường uốn gập lại giống như con rắn bị thương. Tôi rẽ trái theo đường mòn có số bản đồ, nhưng tôi nhớ rất . Chẳng mấy chốc tôi đến trước cổng công viên quốc gia cũ bị bỏ hoang, nay có lẽ bị phong tỏa.

      Cách cổng chừng chục mét, tôi chạy chậm lại và ngó tìm lối vào giữa những hàng cây. Khi nhìn thấy lối , tôi đạp phanh, rẽ khỏi đường và mười giây sau chúng tôi biến vào trong đó. Tôi tiếp tục chạy cho đến khi cây cối trở nên quá rậm rạp và đất dốc thể tiếp được nữa. Tôi dừng xe, tắt máy.

      Rahel nằm nhúc nhích. Tôi nhoài người lấy mấy túi ngủ ở sau ghế. Khi tôi giở chúng ra, giật mình tỉnh dậy, nhỏm phắt lên khỏi đùi tôi, căng mắt nhìn vào bóng tối.

      định làm gì vậy?”

      “Bình tĩnh nào,” tôi . “ ổn cả. Chúng ta đến rồi.”

      “Đây là đâu?” cố nhìn ra ngoài cửa sổ, nhưng dưới những lùm cây có chút ánh sáng nào. Chúng tôi như lọt vào cái hang.

      “Chúng ta ở bên ngoài Oak Ridge, ở nơi gọi là Frozen Head. Đó là công viên quốc gia cũ bị bỏ hoang.”

      “Frozen Head?”

      ngủ say cả mấy tiếng đồng hồ.”

      lắc đầu. “Tôi có ngủ được xe đâu.”

      “Ừm, vậy cứ nhắm mắt để đấy . Tôi đánh thức trước khi trời sáng.”

      chớp mắt như thể vừa tỉnh khỏi cơn mê. Rồi đưa tay lên che miệng và nhăn mặt. “ có mua bàn chải đánh răng ?”

      “Có. có thể đánh răng khi trời sáng.”

      “Tôi muốn tiểu.”

      “Xung quanh toàn là rừng rậm đấy.”

      “Liệu ra ngoài có an toàn ?”

      Tôi định bảo phải cẩn thận coi chừng rắn đuôi chuông, nhưng có lẽ ra nữa nếu tôi thế. “Đây là nơi an toàn nhất trong hai mươi bốn giờ qua.”

      xuống xe ra khỏi vùng sáng nhưng đóng cửa xe. Ánh sáng rọi vào chúng tôi như chiếc đèn lồng trong rừng. khá lâu, tôi dần thấy lo lắng. Mưa bắt đầu rơi rào rào kính chắn gió, và tôi nghe tiếng hét lên. leo vội lên xe khi chưa kịp kéo khóa quần, đóng sầm cửa lại.

      “Trời mưa to quá,” , tay kéo khóa quần.

      “Mưa là tốt cho chúng ta. Nó che lấp tiếng động khi ta trong rừng.”

      kéo túi ngủ qua ngực, rùng mình. “Tôi muốn làm thấy phiền, nhưng thế này tệ quá. Chẳng lẽ chúng ta nghỉ tạm trong nhà nghỉ rẻ tiền nào đó được sao?”

      “Lúc này ai thế giới biết chúng ta ở đâu. Vì thế ai có thể tìm ra chúng ta. Đấy là điều chúng ta muốn. Ngủ .”

      gật đầu và ngồi tựa lưng vào cửa.

      Tôi ngồi nghe bản giao hưởng của mưa và tiếng động cơ lách tách, nhớ lại những buổi sáng trước khi trời rạng, tôi thức cùng cha và chờ bắn vịt trời hay hươu nai. Tôi mệt bã người nhưng biết mình phải tỉnh táo trước lúc mặt trời lên. vùng nguyên sơ nào đó trong não tôi thiếp ngủ trong các thành phố nay được đánh thức nơi rừng hoang, thầm với tôi nhịp điệu của rừng với độ chính xác giảm sút. Nhịp điệu đó với tôi khi nào trời sắp sáng, khi nào sắp mưa, khi nào trò chơi tiếp tục. Tôi kéo túi ngủ lên ngang cằm.

      “Chúc ngủ ngon,” tôi với Rachel.

      Chỉ có tiếng thở đều đều của đáp lại.

      Tôi bừng tỉnh khi bóng xanh mờ đầu tiên lọt qua tán cây. Tôi chớp mắt nhiều lần, rồi quan sát nhanh cảnh vật mà quay đầu. thấy gì lạ, tôi nhàng lay gọi Rachel. lại giật mình ngồi dựng lên, nhưng đến nỗi quá hoảng hốt như hồi đêm.

      “Giờ ta ,” tôi .

      “OK,” lầm bầm trong miệng, nhưng trông như sẵn sàng ngủ tiếp.

      Tôi bước ra ngoài để trút bàng quang, rồi lấy các thứ ở sau ghế ngồi ra. Tôi bỏ phần lớn vào ba lô của mình, chỉ đưa cho Rachel túi ngủ, vài hộp thức ăn và mấy bình châm xăng. Khi ra ngoài, tôi đưa thêm cho bộ áo liền quần ngụy trang, tất dày và ủng.

      Mặt nhăn nhó, nhưng cũng lấy quần áo và ra sau xe. Khi thay quần áo, tôi đặt cung và túi tên vào ba lô của mình. Xong tôi mặc bộ áo liền quần và ủng vào. Khi tôi khoác ba lô lên vai, rừng như đột nhiên bừng sáng, tôi biết mặt trời ngự đỉnh núi Windrock ở hướng Đông.

      Rachel vòng quanh xe trông như những nữ quân nhân Israel mà tôi từng nhìn thấy trong các bức ảnh. khoác ba lô lên vai đến nỗi lúng túng lắm, và than phiền về sức nặng của nó.

      “Các bạn mà trông thấy bây giờ nhỉ,” tôi , cài chiếc điện đài lên thắt lưng .

      “Chắc bọn họ phải cười bò ra.”

      Tôi nhét đống đồ chúng tôi vừa thay ra vào túi của . “Nhìn kỹ mặt đất. Bước theo bước tôi, và chú ý đừng để cành cây móc vào quần áo. Nếu bị lạc nhau, hãy dùng điện đàm, nhưng khẽ thôi.”

      “OK.”

      “Đừng nếu có gì khẩn cấp. Nếu tôi giơ tay lên, hãy dừng lại. Nắm lấy thắt lưng tôi nếu tôi quá nhanh. Chúng ta cần phải vội lắm. Ở đây gặp thú rừng đấy. Bình tĩnh tránh ra khi gặp rắn, cần để ý những con khác.”

      gật đầu. “Chính xác chúng ta đâu?”

      “Trong núi có nhiều hang động. Khách bộ đường dài có thể biết số hang, nhưng có cái hầu như chưa ai biết. Cha tôi và tôi tìm ra nó khi tôi còn . Đấy là chỗ chúng ta cần.”

      mỉm cười. “Tôi sẵn sàng như sắp sửa đến đích ấy.”

      Chúng tôi theo vết bánh xe đến khi ra tới đường, sau đó lấy ít bụi cây lấp lối . Tôi băng qua đường, nhìn xem có nhánh nào của sông Mới, lạch từ núi xuyên qua hẻm đá sâu khoảng mười lăm mét. Hẻm núi này có thể là đường lên núi. Đội phục vụ trong công viên quốc gia làm con đường song song với khe suối, nhưng tôi dám liều để nhỡ đụng phải khách bộ nào đó. Tôi còn sợ gặp phải dân địa phương trồng cần sa trong khu công viên hoang kín đáo này. Vào những lúc mất mùa, đây là cám dỗ lớn với hậu duệ của dân nấu rượu lậu, bọn họ coi giữ chặt chẽ chỗ này đề phòng những kẻ xâm nhập. Họ gài bẫy ruộng của mình, và bắn trước cần hỏi.

      Tôi nhanh chóng tìm thấy khe suối, và khi ánh ngày rọi chiếu trong rừng, chúng tôi lội qua khe suối và leo lên hẻm núi. Rễ cây xương xẩu bám chắc lên vách đá như những bàn tay bị viêm khớp. Những tảng đá to như xế hộp nằm dọc theo khe núi. Con suối có chỗ nông và rộng, chỗ khác lại thắt hẹp lại thành những luồng chảy réo ùng ục. Tôi thấy dấu chân của hươu nai, và có lần tôi thấy gì như dấu chân gấu. Điều đó làm tôi hơi lo lắng về cái hang. Khi chúng tôi ngang qua các bụi rậm, thỏ, tatu phóng ra rào rào chạy trốn. Cứ vài phút tôi lại quay nhìn Rachel, hình như cố theo kịp. Có vài lần bị trượt chân đá ướt, nhưng giẫm chân lên những tảng đá trơn trượt để leo lên dốc đâu phải là chuyện dễ dàng với người mới bắt đầu.

      Trong khi bước qua cành cây ngập nước, tôi ngửi thấy trong gió có mùi khói. Tôi dừng bước bên đường mòn, hy vọng đó là khói từ lửa trại của khách bộ. Nhưng phải. Đó là mùi thuốc lá thơm Virginia. Tôi giơ tay. Nhưng cần thiết. Rachel dừng bước ngay khi trông thấy tôi đứng lại.

      quay đầu, tôi lia mắt quan sát đá và cây phía trước. có gì ngoài tiếng suối róc rách chảy và những giọt mưa rớt xuống từ đám cành lá đầu. Tôi ngước nhìn kỹ các cành thấp của vòm rừng. Có thể là chòi của kẻ săn trộm hươu. Nhưng những thợ săn chuyên nghiệp thừa biết rằng hút thuốc lá có thể làm mất cả mẻ săn, có khi hỏng cả mùa săn. Tôi thấy gì cây.

      Tôi nhàng quay đầu quan sát mép khe núi. Từ phải, sang trái. có gì. Tôi lại hít khí. Mùi thuốc lá hết.

      Rachel kéo mạnh thắt lưng tôi. “Chuyện gì thế?” thào.

      Tôi quay lại thấy nét sợ hãi mặt . Im lặng, tôi mấp máy môi. Đứng yên.

      gật đầu.

      Lại có mùi thuốc lá thơm thoảng qua tôi, mạnh hơn lúc trước. Tôi quay đầu lại chậm và bất giác ngẩng nhìn lên. Cách chừng bốn mươi mét, người đàn ông vận bộ đồ bằng vải nylon đen đứng tựa lưng vào thành hẻm núi và búng đầu mẩu thuốc lá xuống khe suối. Tim tôi nhảy lên, nhưng tôi đứng bất động. Mẩu thuốc bay vọt lên thành vệt trắng nền lá xanh, rơi xuống nước và trôi về phía chúng tôi.

      Người đàn ông đưa mắt nhìn theo tàn thuốc. Tôi chắc chúng tôi sắp bị phát , nhưng gã bỗng quay mà lấy cái gì xuống khỏi vai. khẩu súng trường đen. khẩu M16. Gã tựa súng vào thân cây, mở khóa quần và bắt đầu tiểu xuống vách đá . Gã nghịch như thằng trẻ con, cố hướng luồng nước đái đến khe suối nhưng tới. Thanh niên chắc làm ngon. Tay này ngót bốn mươi, và gã vận quân phục.

      Tôi cầu cho Rachel hoảng sợ. Có lẽ lúc đầu chưa nhìn thấy tay súng này, nhưng thể nhìn thấy cái “cầu vồng” vàng ánh trong nắng sớm. Tay kia ngừng đái bằng cách vung vẩy tay, lắc mình, kéo khóa quần rồi cầm khẩu M16 lên. Khi khoác súng lên vai, gã nhìn xuống khe suối, ngay vào chỗ chúng tôi.

      Tôi nín thở, chờ đợi giây phút dán chặt mắt vào nhau.

      Tay súng nhìn chăm chú phía đầu chúng tôi, rồi quay . Gã nheo mắt, đoạn nhìn ra xa xa xuống suối lần nữa. Chính là nhờ bộ áo liền quần và khăn trùm đầu ngụy trang. Gã phân biệt được chúng tôi với cảnh nền của khe suối và cây cối. Tôi nhìn thấy gã nghẹo đầu sang phải cách lạ lùng, tôi tưởng gã bị chứng co giật thần kinh, nhưng liền sau đó tôi nhận ra gã vào microphone gắn ve áo. Tôi nghe tiếng trả lời eo éo sắc như kim loại, nhưng được lời nào cả. Sau đó gã quay bước vào rừng.

      Tê điếng người vì hoài nghi, tôi quay lại Rachel thấy nhìn tôi bối rối.

      “Có chuyện gì đấy?” thầm.

      nhìn thấy à?”

      “Cái gì?”

      “Thằng đàn ông đái lên vách đá!”

      Mắt mở to.

      khẩu súng.”

      “Tôi nhìn thấy gì cả. Tôi chỉ nhìn . Tôi tưởng nhìn thấy rắn hay gì đó.”

      “Chúng ta quay lại xe mau.”

      Mặt nhợt nhạt. “Thế còn cái hang?”

      “Hỏng rồi. Chúng chờ ta ở đó.”

      “Chúng thể.”

      “Chúng có. Thằng kia mang súng M16 và mặc quân phục. Những người săn hươu quanh đây nhìn khác.”

      “Nhưng chúng ta gần đến rồi cơ mà?”

      Hơi nóng gai người trùm lên da tôi. “ lo cái gì?”

      “Tôi có lo đâu. Tôi chỉ muốn ở trong hang an toàn hơn.”

      đâu.”

      ý nghĩ ỉ trong khoảng tối của trí óc tôi. Bọn chúng biết nơi chúng tôi đến. Trước khi ý nghĩ xa hơn, tôi thấy mình lắng nghe cách tuyệt đối tập trung. Tôi nghe thấy cái gì, nhưng chắc là có gì đó. chuyển động hợp với những tiếng động thông thường trong rừng vắng. Tôi rủa thầm. Mưa rơi lúc trước làm giảm tiếng bước chân của chúng tôi nay thành ra che cho kẻ thù của chúng tôi. Hay chúng chỉ là kẻ thù của tôi?

      ý lóe lên trong óc tôi, tiếng eo éo lại phá vỡ im lặng, và tôi biết có những tay súng nữa cách chúng tôi quá mười lăm mét. Rón rén sau lưng Rachel, tôi đưa bàn tay bịt chặt miệng , vung cánh tay kia vòng quanh ngực , ghì sát vào người tôi bằng tất cả sức lực của mình. muốn kêu lên, nhưng thanh nào thoát ra khỏi miệng.

      Tôi đứng bất động trong khe suối, nước chảy táp vào chân. Rachel vùng vẫy cố thoát ra. Chiếc ba lô sau lưng làm tôi khó giữ được . Tôi sợ có thể cắn tay tôi, nhưng làm thế. Chỉ riêng điều đó khiến tôi càng nghi ngờ chính là người báo cho NSA biết phải tìm chúng tôi ở đâu.

      “Tôi bỏ tay khỏi miệng ,” tôi thầm. “Nếu kêu lên, tôi cắt cổ họng .”




      CHƯƠNG 21


      Khi tôi thả Rachel ra, lảo đảo trong con suối, mặt che giấu vẻ khiếp sợ và giận dữ. Rồi nhìn thấy con dao găm trong tay tôi, con dao Gerber mà tôi mua trong siêu thị Wal-Mart.

      “Bước,” tôi ra lệnh. “Quay trở lại khe suối. biết phải làm thế nào rồi đấy.”

      nhìn tôi trừng trừng trong giây lát, rồi quay và bắt đầu bước những mỏm đá. Tôi bỏ dao vào bao và tháo dây cung. Để đấu với tay súng M16 tôi ít có cơ hội hơn, nhưng tôi mà nhìn thấy trước là tôi bắn liền.

      sát vào thành bên phải.”

      di chuyển về bên phải, nhảy thoăn thoắt từ tảng đá này sang tảng đá khác. Khi bước theo Rachel xuống dòng suối, trong lòng tôi bộn bề những câu hỏi mà lẽ ra tôi phải hỏi từ trước nhưng hỏi. Đó là cái ngày đầu tiên, khi đánh thức tôi khỏi giấc mơ về cái chết của Fielding... mở cửa bằng cách nào? Tôi khóa cửa sau khi chàng FedEx khỏi, thế mà tỉnh dậy thấy cánh cửa đập sầm sầm vào lẫy xích trong khi Rachel réo gọi tên tôi. lại còn tìm đúng nhà tôi khi tôi chưa cho biết địa chỉ? Tôi biết chị ở phòng Nhân Đại học Virginia, thế. Trường đại học chắc phải được cảnh báo về việc cung cấp thông tin cá nhân, theo các nguyên tắc của Trinity. Vậy còn chiếc máy bay do thám xa lộ? Làm sao chúng biết được xe nào giữa hàng ngàn xe cộ quãng đường từ Chapel Hill đến Nags Head để chĩa tia laser vào? cuộc gọi từ Rachel trong khi tôi bất tỉnh có lẽ giúp chúng tìm ra chiếc Audi, căn nhà ở Nags Head, mọi thứ.

      Còn về Oak Ridge, có thể dễ dàng gọi cho chúng từ Wal-Mart ở Asheville, lúc tôi để đứng đợi ngoài cửa. Khi đó chưa biết về Frozen Head, nhưng có điện thoại di động. Với chút liều lĩnh, có thể gọi NSA khi ra khỏi xe tiểu hồi đêm. Mặt khác tôi vẫn còn nhớ mình nhảy vào phòng khách ở nhà và nhìn thấy kẻ ám sát chĩa súng vào lưng Rachel.

      dừng lại khi đến chỗ nước sâu giữa lòng suối. Tôi bám sát sau lưng đề phòng bị ngã hay chạy trốn. Khi chúng tôi vượt qua được chỗ sâu, tôi nhớ lại lúc trước tôi chọn như thế nào. Skow phản đối việc tôi tìm đến bác sĩ tâm thần ngoài NSA, nhưng phản đối của gã có kiên quyết lắm ? Các bạn tôi ở trường đại học Virginia với tôi rằng là nhà phân tâm học trường phái Jung xuất sắc nhất nước. Liệu có phải Geli Bauer theo từng bước chân tôi, chuyện với tất cả những người tôi tiếp xúc? Liệu ả có chỉ đạo Rachel trước lần khám đầu tiên của tôi? Làm thế nào mà Geli dàn xếp được với ? Kêu gọi lòng nước ư? Thư nặc danh hăm dọa chăng? cách nào biết được.

      Tôi nhoài người túm lấy ba lô của Rachel. đến chỗ lòng suối bằng phẳng. Gần lên đến đường.

      “Chúng ta đến gần xe rồi,” tôi khẽ . “Quay trái ở đây, và đừng có giẫm lên cành cây đấy.”

      quay lại nhìn tôi, mắt vẫn còn giận dữ. “Có nghĩ rằng...”

      Tôi đẩy lưng . “Bước.”

      rón rén bước dưới những tán cây nước với vẻ nhanh nhẹn đáng ngạc nhiên. Thêm khoảng bốn mươi mét nữa, tôi lại tóm lấy ba lô của , quét mắt qua hàng cây phía trước.

      “David, đừng nghĩ rằng tôi phản bội .”

      Tôi gật đầu. “ có cách giải thích nào khác.”

      “Nhất định phải có.”

      Tôi hé mắt nhìn qua những thân cây ướt đẫm xem có gì bất thường . “Bọn chúng có thể đoán ra Oak Ridge, nhưng thể là Frozen Head. Đáng lẽ tôi chọn giữa hàng chục địa điểm khác trong vùng núi quanh đây.”

      giơ tay lên vẻ bất lực “Tôi biết phải với thế nào. Tôi chưa hề với ai.”

      làm thế nào vào được nhà tôi hôm ấy? Hôm đầu tiên ấy?”

      “Nhà ? Tôi cạy khóa.”

      “Vớ vẩn.”

      nghĩ thế à? Cha tôi là thợ khóa ở Brooklyn. Tôi lớn lên bên cạnh nghề ấy mà.”

      Đó có thể là câu dối trôi chảy, nhưng nó vang lên chân thành kỳ lạ. “Chubb là cái gì?” tôi bất thần hỏi.

      loại khóa rất tốt của . Tôi còn biết kìm nhổ răng xoắn là gì nữa cơ. có biết ?”

      Tôi chẳng biết quái gì. “Quay lại bước tiếp . Xe cách trăm mét phía trước.”

      Rachel quay và bước nhanh qua đám cây. Với cây cung tháo dây đeo, tôi phải hết sức cẩn thận, dây cung cứ bị vướng vào cây thạch nam, còn mũi tên có ngạnh mà tôi kẹp vào cán cung cứ móc vào cành cây làm nước mưa rỏ xuống người tôi.

      Thốt nhiên tôi nghe tiếng roạt như con hoẵng to nhảy qua lùm cây ướt. Rồi tôi thấy bóng đen vụt qua giữa hai thân cây.

      “Đứng im!” giọng đàn ông quát tháo.

      Rachel dừng lại, lưng vừa đủ nhìn thấy giữa hai thân cây lấp lánh. Phía bên kia ra gã bận đồ nylon đen và áo chống đạn. Gã có khẩu súng ngắn tự động và nó nhắm thẳng vào mặt Rachel.

      “Nó đâu?” tay súng hỏi.

      “Ai?”

      biết mà. Thằng bác sĩ.”

      Tôi đặt tên vào dây cung và chậm rãi giương cung lên.

      “Tôi biết chuyện gì,” Rachel . “Tôi ra đây săn hươu nai hoang dã.”

      Câu dối nghe tự nhiên. Liệu có ra ám hiệu bằng tay cho tên kia ?

      “Máy ảnh của đâu?”

      Tôi kéo căng dây cung hết cỡ, chạm tới má phải của tôi và ngắm kỹ qua tầm bắn lén. Lưng Rachel che mất phần tầm ngắm, nhưng tôi muốn di chuyển sợ gây tiếng động.

      “Tôi đánh rơi mất dưới khe suối,” . “ là kiểm lâm phải ?”

      “Red Six gọi Red Leader,” tay súng vào mic cổ áo.

      “Tôi !” Rachel kêu lên.

      Tôi nghiêng về bên phải, căng thẳng chờ bắn.

      Thằng kia ngẩng lên khỏi mic. “Được. Nó ở đâu?”

      số loại áo chống đạn có thể ngăn được đạn nhưng ngăn được dao nhọn. Những mũi tên có ngạnh sắc bén xuyên thủng như dao, nhưng nếu trúng, mặt Rachel - hay mặt tôi - biến mất trong đám sương mù màu đỏ. Tôi nhằm vào hốc chữ V yết hầu tay súng, ngay cổ áo gã.

      “Các làm gì nếu thấy ấy?” Rachel hỏi.

      “Đó phải việc của .”

      “Red Six,” tiếng lạo xạo của thằng kia đến mức chúng tôi nghe được. “Red Leader đây. Nhắc lại những lời vừa .”

      Khi gã sờ đến nút điện đài, Rachel kêu tên tôi, và tôi buông dây cung.

      Tiếng kêu của Rachel át các tiếng động khác. Trong giây lát tôi sợ bắn trúng . ngã khuỵu xuống, nhưng tên kia vẫn đứng cầm súng. Sao gã bắn? Sao mũi tên bay phát ra tiếng động? Dây cung rung. Tôi giật mũi tên khác ra khỏi ống tên và lắp vội vào cung bằng những ngón tay run rẩy.

      “Red Six, Red Leader đây. .”

      Tôi chờ khẩu súng ngắn khạc lửa, nhưng tôi lại nghe tiếng uỵch nặng nề mà tôi nhận ra ngay lập tức. Khi tôi ngẩng lên, tay súng biến mất. Tôi từng nghe hươu ngã như thế sau phát bắn vào lưng. Đầu tiên là dây cung rung lên, rồi tiếng gối khuỵu xuống, và tiếng uỵch như bao xi măng rơi xuống đất trong cái chết nhanh gọn. Chỉ có chậm trễ làm tôi bàng hoàng. Lúc ấy tên kia vẫn đứng im như tượng, muốn ngã xuống.

      “Red Leader đây, trả lời ngay.”

      Mặt Rachel đầm đìa nước mắt. Tôi đẩy mạnh sang bên và nhìn xuống. Thằng áo đen nằm ngửa sóng sượt. Mũi tên có ngạnh xuyên thẳng vào họng nó và đột thủng đốt sống cổ. Gã thể nào đứng lâu hơn giây với vết thương như thế, và điều đó cho thấy trong lúc cao trào của hành động, tôi chỉ đánh giá thời gian chủ quan mà thôi.

      “Vào trong xe tải,” tôi quát Rachel.

      “Nó ở đâu?”

      “Ba mươi mét phía trước. Bước!”

      loạng choạng bước qua gã đàn ông ngã sõng soài rồi mất hút vào rừng.

      “Red Six, Red Leader đây. làm cái quái quỷ gì vậy?”

      Tôi nghe có tiếng người nào trong mớ thanh nhiễu, “...vứt mẹ cái radio chết tiệt . Vào tận nơi tìm thằng chó đẻ ấy. Bảo nó chúng ta pha cà phê đợi nó ở đây. Có thể nó về đấy.”

      Đôi mắt người chết vẫn mở trừng trừng nhưng đổi màu mờ đục như chiếc ly cổ. Tôi nhặt khẩu tự động của gã lên nhét vào túi bộ áo liền quần của mình. Xong tôi quỳ xuống xốc thi thể gã lên vai. Tôi phải bám vào cành cây để đứng lên, nhưng tôi cũng xoay xở được và bắt đầu lết về phía xe. Ai đứng cách đấy trăm mét chắc tưởng quái vật Bigfoot nặng nề lê qua rừng.

      Rachel đứng đợi bên cạnh chiếc xe tải, mặt cắt còn giọt máu. Tôi bước loạng choạng đến bên xe, ném phịch cái thây vào thùng xe. Khi kéo tay áo tôi, tôi xoay người đứng áp vào thành xe và lấy chiếc túi ngủ ra khỏi ba lô của . Tôi kéo khóa ra trùm lên xác chết. Để chặn cái túi hở, tôi chất cả hai chiếc ba lô nặng lên .

      “Bước vào,” tôi quát.

      làm theo.

      Tôi trèo lên thùng xe để lấy lại chiếc chìa khóa trong ba lô của mình, rồi lên ngồi sau tay lái, cố sức chạy ra khỏi rừng. Hai lần lao xuống bùn, tôi tưởng bị sa lầy ở đây, nhưng chiếc xe lúc lắc chầm chậm rồi cũng thoát ra khỏi rừng. Bây giờ đội SWAT chắc nghe thấy tiếng động cơ ô tô. Tôi nhấn ga hướng về phía Nhà tù Bang ở vùng núi Brushy.

      Chỉ khi vượt qua cây số đầu tiên tôi mới nhìn Rachel. ngồi tựa lưng vào cửa xe quan sát tôi như thể tôi là bệnh nhân hung dữ.

      “Chuyện của thế nào?” tôi hỏi. “Bọn chúng làm thế nào để móc nối được với ?”

      gì.

      Khi đạt tới tốc độ gần hai trăm cây giờ, tôi rẽ về hướng nhà lao, mà thẳng tới Caryville, ở đấy có giao lộ với đường I-75.

      nghĩ tôi cho họ biết chúng ta ở đâu à?” Rachel hỏi.

      Tôi gật đầu.

      “Tại sao tôi phải làm thế?”

      “Chỉ có hiểu việc đó.”

      “Nếu tôi muốn họ tìm được , tôi phản từ lâu rồi.”

      Trời lại đổ mưa, những giọt mưa nặng hạt rơi rào rào kính chắn gió. Tôi bật cần gạt nước và cho xe chạy chậm lại.

      “Có lẽ chúng chưa muốn bắt tôi cho đến khi thu lượm đủ thông tin về tôi. có gọi cho chúng khi ở siêu thị Wal-Mart ?”

      nhìn tôi vẻ khinh miệt. “Lúc thằng cầm súng hỏi tôi ở đâu, tôi có thể bảo nó ở ngay sau lưng tôi.”

      biết tôi nhắm thẳng tên vào lưng .”

      thất vọng cau mặt lại. “Nghĩ xem, David. Vừa nãy thôi tôi có thể đập hòn đá vào đầu khi đặt cái xác vào trong xe rồi.”

      “Tôi nghĩ sau. Bây giờ tôi phải chạy xe .”

      Chúng tôi chạy đoạn trong im lặng, nhắm thẳng về phía đường ranh giới phân chia hai hạt Morgan và Anderson. chiếc cầu ra trước mặt. Mặc dù trời mưa, nhưng bên dưới cầu nước chảy nhiều, tuy vậy hẻm núi lại sâu, do dòng nước chảy từ các mỏ lộ thiên phía xuống năm này qua năm khác. Còn khoảng phần ba quãng đường đến nơi, tôi cho xe táp gần thành cầu và dừng lại.

      Rút chìa khóa ra khỏi ổ, tôi ra và trèo lên thùng xe. Chiếc túi ngủ đậy xác ướt đẫm nước mưa. Tôi đá túi qua bên, vật cái xác lên vai, ráng sức đứng lên và ném nó qua thành cầu. Nó va phải cành cây rồi rơi đập xuống mấy tảng đá phía dưới. Chiếc túi ngủ đẫm máu, tôi cũng ném xuống luôn. Xong tôi trở vào buồng lái lái tiếp, cố giữ tốc độ trăm con đường ngoằn ngoèo.

      “Tôi chưa hề biết có điều đó trong ,” Rachel lặng người . “Tôi thể tin là người viết xúc động đến thế về tình thương và đạo đức.”

      “Đây là bản năng sống còn. Mọi người đều có. Kể cả nữa.”

      ,” khẽ. “Tôi giết người.”

      phải giết.” Tôi nhìn thẳng vào mặt . “Chẳng qua chưa rơi vào đúng hoàn cảnh đó thôi.”

      muốn nghĩ gì nghĩ. Tôi hiểu tôi.”

      Con đường dần trở nên thẳng tắp. Tôi tăng tốc đến hơn trăm và thôi nghĩ đến Rachel nữa. Tôi lại cảm thấy đơn, đơn như cái ngày vừa mất Fielding. Tôi nhận ra Rachel từng là nguồn an ủi lớn đến mức nào. Điều khó chấp nhận nhất trong chuyện phản bội của Rachel là chưa bao giờ coi tôi là ai khác ngoài bệnh nhân. kẻ ốm yếu và bị lừa dối.

      luồng hơi nóng cuộn dâng trong tôi, kéo theo mệt mỏi rã rời. Tôi hy vọng đó chỉ là cảm giác tức thời sau khi hưng phấn quá mức, nhưng khi răng tôi va vào nhau lập cập, tôi mới biết là phải. Tôi sắp ngất. Nhưng lần này tôi thể tin tưởng để Rachel chăm sóc tôi.

      sao thế?” hỏi, nhìn tôi chằm chằm. “ đánh võng giữa đường kìa.”

      sao.”

      “Tỉnh lại ! chạy sang làn trái rồi.”

      Tôi quặt mạnh tay lái sang phải. Có lẽ việc cố sức ném cái xác làm tôi hoàn toàn bất lực trước tấn công của cơn bệnh. Lần này từ từ đâu. Tôi phải dừng xe lại thôi.

      “Đỗ lại!” Rachel thét lên.

      Cố gắng hết sức để mở mắt, tôi ngoặt xe vào con đường rừng , cố sức chạy thêm trăm mét nữa rồi mới dừng. Tôi dừng xe trước biển báo ĐỖ, rồi lấy khẩu súng tự động của người chết từ bộ áo liền quần ra, chĩa vào Rachel:

      “Xuống xe.”

      “Cái gì?”

      “Xuống xe! Và bỏ điện thoại di động của lại đây. Làm !”

      nhìn ra ngoài cửa kính như thể bị bắt phải nhảy xuống vực. “ thể để tôi ở ngoài đây được.”

      “Tôi cho vào khi tôi tỉnh dậy. Nếu còn ở đây.”

      “David! Bọn chúng tìm thấy ta mất. Hãy để tôi lái!”

      Tôi hất khẩu súng về phía . “Làm theo tôi bảo!”

      để điện thoại băng ghế, trèo ra khỏi xe và đóng cửa lại. Đôi mắt đen của nhìn tôi qua lớp kính cửa đọng nước mưa. Khi tôi nhoài ra khóa cửa, đợt sóng đen lại cuộn dâng.

      cánh cổng thành cao ngất án ngữ trước mặt tôi, vòm cung đơn sơ trong bức tường đá màu vàng. Dân chúng xếp hàng đường, số người vẫy tay reo mừng, số khác khóc. Người ta giữ lừa để tôi leo lên. Chủ nghĩa tượng trưng là quan trọng. Cần thực lời tiên tri.

      “Đây là cửa Đông, thưa Ngài. Ngài có chắc ?”

      “Chắc.”

      Tôi cưỡi lừa qua cổng thành. Có tiếng tù và. Binh lính La Mã nhìn tôi cảnh giác. Phụ nữ chạy qua phố đến sờ tay vào áo choàng của tôi, vào tóc tôi. Những khuôn mặt đường phố hẹp này là những khuôn mặt đói khát, phải đói ăn, mà đói hy vọng, đói lẽ sống.

      Con đường biến mất và trở thành thánh đường với những cột trụ. Tôi ngồi bậc thềm, khẽ trò chuyện với đám đông. Họ lắng nghe với vẻ mặt tò mò, hoang mang. Họ những suy nghĩ của mình. Trong đầu họ chỉ có chung niềm trăn trở: “Có phải ông ấy đấy ? Có thể thế ?”

      “Các người biết cách giải thích xuất của mặt đất và bầu trời,” tôi với họ. “Thế tại sao các người biết cách giải thích tại? Ta gieo lửa thế gian này, và ta canh chừng đến khi lửa bốc lên rừng rực.”

      Tôi nhìn các gương mặt. Những lời lẽ ấy tác động đến mỗi người khác. Đàn ông chộp lấy thứ họ cần, vứt bỏ những thứ khác. vài người hỏi tôi từ đâu đến. Câu trả lời tốt nhất là câu đố.

      “Chẻ thanh củi ra có ta ở đó. Nâng tảng đá lên, các ngươi thấy ta.”

      Tôi rời khỏi thánh đường và bước trong những con ngõ của thành phố. Tôi muốn được yên tĩnh lúc nhưng từ khắp phía người ta xáp đến hỏi chuyện. Các tăng lữ đến gần và hỏi tôi. Mù hay trông.

      “Ai cho ông quyền đến đây và làm những chuyện này?” họ hỏi.

      Tôi mỉm cười. “Thánh John rửa tội cho mọi người. Quyền của ông ta đến từ trời hay từ người?”

      Tăng lữ trả lời trong nỗi lo sợ của đám đông. “Điều này chúng tôi chưa .”

      “Vậy ta cho ngươi hay ai cho ta quyền làm những điều này.”

      Tôi bỏ lại đám đông sôi sục đường phố, nhưng xong. Họ bám theo tôi lên đồi và gạn hỏi đến cùng. Câu trả lời của tôi khiến họ phát điên.

      “Ta chỉ còn ở lại với các ngươi trong giây lát,” tôi . “Sau đó ta lại trở về nơi mà ta từ đó đến đây. Nơi ta đến, các ngươi thể đến. Các ngươi tìm ta nhưng thể thấy ta. Các ngươi thuộc về thế gian này. Ta .”

      Họ bảo tôi là kẻ dối.

      “Các ngươi chỉ còn lại chút ánh sáng,” tôi . “Hãy bước trong khi còn ánh sáng, xua bớt bóng tối trong mình. Ai bước theo ta kẻ ấy bao giờ còn bước trong bóng tối.”

      Ngay khi tôi nhìn họ, tôi thấy ở họ cái nhìn kết tội. Tuy vậy tôi thể quay khỏi con đường của mình. Trong mắt tăng lữ tôi thấy căm ghét, và cả kết tội dành cho tôi... trừng phạt kiểu La Mã. Nhưng đau đớn phải là nỗi sợ lớn nhất của tôi. người mạnh mẽ phải chịu được đau đớn. Cái mà tôi thể chịu đựng là nỗi đơn, đơn lần nữa đến muôn đời...

      Rachel kêu thét. Tôi hoảng loạn chớp mắt, rồi cánh cửa bên trái tôi bị giật tung ra. Tôi cố quay lại xem là ai lại chìm vào cơn buồn ngủ ập đến như cát lún.




      CHƯƠNG 22


      Geli Bauer lấy tay dụi mắt, tay kia rót cà phê đậm đặc vào ca của ả. Ả chờ vợ Skow gọi gã đến nghe điện. Đêm qua ả ngủ được ba tiếng võng sau khi làm tình với Ritter. Dạo này hầu như ả nằm mơ, nhưng hồi đêm ả mơ thấy cơn ác mộng cũ từng lặp lặp lại trong đó ả bị bọn lính rượt đuổi. Trong mơ ả luôn luôn tự sát trước khi bọn lính bắt được. Mức độ khủng khiếp trước hành động tự giải thoát đó gần như thể chịu nổi.

      “Geli,” Skow trong tai nghe của ả, giọng mệt mỏi.

      vật lộn suốt đêm với siêu máy tính Godin 4, chắp vá lời đe dọa tổng thống từ những mẩu ghi kỹ thuật số giọng Tennant. Geli đánh thức gã dậy lần, để với gã rằng ả nhận được báo cáo của đội S.W.A.T về nhân viên mất tích. Lúc đó chưa có bằng chứng gì về việc Tennant có mặt ở đó, nhưng bây giờ...

      “Đội SWAT ở Frozen Head tìm thấy nhân viên mất tích của mình,” ả . “ bị rơi từ cây cầu đường cao tốc xuống khe suối. bị trúng tên vào cổ họng.”

      “Tennant bắn à?”

      “Tôi nghĩ thế. Tôi xem lại lý lịch của . Khi còn săn bắn rất nhiều. Có lẽ là tay săn bằng cung vào đầu mùa săn.”

      “Làm thế quái nào mà kiếm được cung tên?”

      “Chúng tôi cho kiểm tra băng hình an ninh của các cửa hàng dọc tuyến đường từ bến phà đến Oak Ridge. ràng trù tính nấp thời gian ở vùng núi đó. Điều tôi muốn biết là làm sao biết có thể ở đâu?”

      “Tôi rồi, tôi thể cho biết điều đó.”

      “Nguồn tin bí mật của là bác sĩ Weiss, đúng ?”

      “Geli...”

      “Liệu còn có thể là ai khác nữa? Hơn nữa làm thế nào biết được về công viên Frozen Head?”

      “Nếu đó là bác sĩ Weiss phải biết rồi chứ.”

      Geli hơn. “Đó là lý do tại sao lại khó khăn như thế về cái lệnh bắn chết tại chỗ. biết rằng người cung cấp thông tin cho có thể bị giết. Điều tôi hiểu là tại sao cho tôi biết ta giúp chúng ta. Có thể tôi bảo vệ ta.”

      có thói quen hỏi những câu vượt quá bậc lương của mình đấy.”

      “Tôi có bậc lương cứt chó nào hết! Tôi làm nhiều hơn gấp mười lần.”

      “Nhưng vẫn nhận lệnh từ tôi.”

      Ả những muốn lao qua đầu bên kia đường dây để cào xé khí quản gã, nhưng tính kỷ luật tự giác dần dần khiến ả tự chủ lại. “Lần cuối chuyện với Godin là khi nào?”

      “Lâu rồi tôi cũng chưa chuyện với ông ta,” Skow thừa nhận. Giọng tay NSA vang lên đầy bối rối, và gã cố giấu điều đó.

      “Chuyến dài ngày của Godin với Nara trong mấy tuần nay có ý nghĩa gì? Họ cùng bay về phía Tây và biến mất trong ba bốn ngày. Họ đâu vậy?”

      “Chắc hẳn đào sâu hơn thế.”

      dễ dàng bỏ cuộc. “Kẻ điều hành an ninh ở đầu kia giỏi.”

      Skow chặc lưỡi khô khan. “ chẳng biết gì đâu.”

      “Tại sao với họ?”

      trả lời.

      “Tại sao tất cả những chuyện này đều liên quan đến chiếc đồng hồ bỏ túi của Fielding?”

      “Xin lỗi, Geli.”

      Những việc ả để ý mấy tuần nay bắt đầu lên hàng đầu trong suy nghĩ của ả. “Zach Levin và đội Giao diện của ta được cho nghỉ cách đây năm tuần lễ. Hình như họ bốc hơi rồi. Tại sao cả đơn vị kỹ thuật có thể bốc hơi như thế?”

      Skow trả lời.

      Ả tìm câu hỏi mà gã có thể trả lời. “Có phải cái người phụ trách an ninh ở bất kỳ nơi nào có Godin kiểm soát nguồn tin siêu mật của ?”

      Trong im lặng kế tiếp, ả nhận ra rằng vẻ dè dặt của Skow phải là xúc phạm đối với ả. Gã bị tê liệt do bị kẹp giữa bổn phận và sợ hãi.

      “Nguồn tin mật của sắp tới Tennant đến đâu ?”

      có bản danh sách các điểm đến mới ngay bây giờ. Tôi gửi cho ngay khi tôi nhận được nó.”

      gửi .” Ả cố đẩy bí mật về nơi ở của Godin ra khỏi đầu óc. “Câu chuyện tên sát nhân loạn trí của chúng ta mấy người biết rồi?”

      giờ mới chỉ loanh quanh trong đường vành đai, nhưng nó lan rộng nhanh thôi. Cảnh sát thành phố biết tin trong sáng hôm nay. Tôi muốn chuyện lan quá rộng chừng nào tôi chưa xong dự án đêm qua.”

      “Tôi nghe lại băng ghi cách đây mấy phút. là rắn như đá.”

      “Nên thế. Bây giờ định làm gì?”

      “Ngồi đây đợi gì đó. Bất cứ cái gì. tiếng mách thầm chỗ Tennant sắp đến chẳng hạn.”

      “Rồi sau đó?”

      “Tôi đích thân đến tận nơi. Tôi tin ai ở đó cả.”

      “Đến bằng cách nào?”

      “Chiếc JetRanger của Godin vẫn còn ở nhà chứa máy bay. có ý kiến gì nếu tôi xài nó ?”

      . Tôi bảo phi công trực đợi .” Ngừng hồi, Skow . “Bắt giữ Tennant còn là chuyện riêng tư của phải .”

      Geli nhấp hớp cà phê nóng và ngậm trong miệng.

      “Tôi biết quan tâm đến Ritter hơn bất kỳ ai khác,” Skow đế thêm.

      Ả nuốt. “Bây giờ thành bác sĩ tâm thần rồi à?”

      “Tôi vừa nảy ra ý. Nếu chắc chắn rằng bác sĩ Weiss là nguồn tin mật của tôi, Tennant cũng có thể đến kết luận như thế. Ý tôi là, như đấy... sao đội SWAT lại phải đợi từ bấy đến giờ ở Frozen Head nhỉ?”

      “Tiếp tục .”

      “Nếu Tennant nghi Weiss cung cấp thông tin về , đá ta. Chúng ta nên phát lệnh truy nã ta và kiểm soát điện thoại cũng như nhà ở của tất cả những người ta có liên hệ.”

      “Tôi kiểm soát tất cả những người ta có thể gọi điện, nhưng phải vì lý do đó. Tennant rời bác sĩ Weiss nửa bước.”

      “Sao vậy?”

      “Vì ta.”

      thể phớt lờ suy luận logic hiển nhiên như thế.”

      Geli cười . “Tất nhiên có thể. Mọi người thường làm thế mà.”

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :