1. QUY ĐỊNH BOX XUẤT BẢN :

       

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]

    ----•Nội dung cần:

    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)

    - Tác giả

    - Dịch giả

    - Đơn vị phát hành

    - Số trang ( nên có)

    - Giá bìa (nên có)

    - Ngày xuất bản (nên có)

    --- Quy định

    1 . Thành viên post có thể tự type hoặc copy từ nơi khác (để nguồn)

    2 . Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn

    3. Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ

    Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Dạ Khúc: Năm câu chuyện về âm nhạc và đêm buông - Kazuo Ishiguro

Thảo luận trong 'Sách XB Hoàn'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Cái phòng của tôi, ban ngày còn gợi cảm hứng là thế, tối đến lại chẳng được chút nào. Thứ nhất là rèm kéo được kín, nghĩa là nếu có mở cửa sổ trong cái nóng ngột ngạt, sâu bọ hàng dặm quanh đây thấy ánh đèn và rầm rập kéo vào. Và chiếu sáng cho tôi chỉ là cái bóng đèn chụp rủ xuống từ vành sứ hoa văn trần nhà, hắt bóng tù mù khắp các đồ vật quanh phòng, khiến căn phòng càng ra vẻ trơ trụi. Tối hôm ấy, tôi muốn có ánh sáng để làm việc, để ngoáy lại tí ca từ nào chợt đến với tôi. Nhưng phòng càng lúc càng u tối, nên cuối cùng tôi tắt đèn, vén lại rèm, và mở toang cửa sổ. Rồi tôi ngồi bệ với cây đàn, như vẫn làm lúc ban ngày.



      Tôi ngồi thế được khoảng tiếng, chơi thử nhiều ý tưởng cho phần nối, có tiếng gõ cửa và Maggie ló đầu vào. Tất nhiên trong phòng tối mịt, nhưng ở dưới sân có đèn bảo an, cũng đủ cho tôi nhìn ra chị. mặt chị có nụ cười bối rối, và tôi nghĩ chị lại sắp nhờ tôi xuống giúp việc linh tinh gì nữa đây. Chị vào phòng, đóng cửa lại :



      “Chị xin lỗi em nhiều. Nhưng tối nay Geoff thực rất là mệt, ấy bận cả ngày. Và giờ muốn được yên ổn xem ti vi…?”



      Chị giọng đó, như câu hỏi, và lúc sau tôi mới hiểu ra chị cầu tôi ngừng chơi.



      “Nhưng em đến đoạn rất quan trọng,” tôi .



      “Chị hiểu mà. Nhưng tối nay thực rất mệt, và bảo nghỉ ngơi được vì tiếng đàn của em.”



      “Geoff cần hiểu điều là,” tôi , “cũng như ấy có việc của ấy, em có việc của em.”



      Chị tôi có vẻ nghĩ ngợi. Rồi chị thở dài đánh sượt. “Chị nghĩ là nên nhắc lại câu đó cho Geoff.”



      “Tại sao? Sao chị ? đến lúc ấy cần hiểu.”



      “Tại sao à? Tại vì chị nghĩ ấy hài lòng, thế đấy. Và chị tin ấy đồng ý rằng việc của ấy và việc của em là ngang hàng nhau.”



      Tôi đứng nhìn Maggie, lúc được gì. Rồi tôi : “Chị toàn vớ vẩn. Sao chị lại vớ vẩn thế?”



      Chị lắc đầu nặng nhọc, nhưng gì.



      “Em hiểu tại sao chị vớ vẩn thế,” tôi . “Và vừa đúng lúc mọi thứ rất thuận lợi với em.”



      “Mọi thứ thuận lợi với em, thế à?” Chị vẫn nhìn tôi trong ánh sáng lờ mờ. “Ừ, được rồi,” cuối cùng chị . “Chị tranh cãi với em đâu.” Chị quay mở cửa. “Xuống ngồi với chị, nếu em muốn nhé,” chị khi rời .



      Phẫn nộ đến đờ người, tôi nhìn cánh cửa vừa đóng sau lưng chị. Bây giờ tôi mới để ý tiếng ti vi lờ mờ vọng lên, và ngay cả trong trạng thái đó, góc trong não vẫn nhắc tôi rằng cơn điên giận này đáng lẽ nên nhằm vào Maggie, mà phải là Geoff, người thực chiến dịch hạ bệ tôi từ lúc tôi đến đây. Ngay cả thế, chị tôi mới là người làm tôi tức tối. Từ khi tôi vào đến nhà chị, chị chưa lần đề nghị nghe bài hát của tôi, như Tilo và Sonja làm. Đâu có gì quá đáng nếu mong chờ điều đó ở chị mình, người mà, như tôi bây giờ nhớ ra, cũng hết sức ham mê nhạc hồi mới lớn? Và bây giờ , đấy, ngắt ngang giữa lúc tôi làm việc và toàn chuyện vớ vẩn. Mỗi lần nghĩ đến câu chị “Được rồi, chị tranh cãi với em”, tôi lại thấy luồng điên giận mới trào lên.



      Tôi xuống khỏi bệ cửa, cất đàn , rồi nằm phịch xuống đệm. Rồi lúc sau đó tôi chỉ nằm nhìn những nếp hoa văn trần. Có vẻ như tôi được mời đến đây với những giả định sai lầm, rằng lý do chẳng qua là nhân công giá rẻ cho mùa cao điểm, lao công thậm chí phải trả tiền. Và chị tôi chẳng hiểu gì hơn so với thằng chồng đần của chị về những khát vọng của tôi. đáng đời cả hai nếu tôi bỏ mặc họ ở đây giữa cảnh bát nháo mà trở lại Luân Đôn. Tôi cứ quanh quẩn lại những ý nghĩ đó, cho đến khoảng giờ sau, tôi dịu lại chút và quyết định sửa soạn ngủ.









      Tôi năng nhiều với cả hai khi xuống nhà sau giờ ăn sáng như thường lệ. Tôi chuẩn bị bánh mì nướng và cà phê, tự lấy ít trứng tráng còn lại, và ngồi xuống góc quán. Trong khi ngồi ăn tôi cứ trở lại với ý nghĩ mình có thể gặp phải Tilo và Sonja lần nữa trong khu đồi. Và dù có thể dẫn đến phải nghe bài ca về cái nhà của Mụ Fraser, dù thế nữa, tôi nhận ra mình hy vọng chuyện đó xảy ra. Thêm nữa, ngay cả nếu chỗ Mụ Fraser thực là kinh khủng, họ cũng bao giờ đoán được tôi giới thiệu vì ác ý. Có cả chục cách để tôi thoát khỏi chuyện này.



      Maggie và Geoff hẳn là trông chờ tôi giúp khi giờ ăn trưa tới, nhưng tôi quyết định họ cần bài học về chuyện ăn của người khác. Thế nên sau khi ăn xong tôi lên phòng, lấy đàn và chuồn ra cửa sau.



      Lúc này trời lại nóng nực và mồ hôi chảy xuống má khi tôi lên đường dốc tới băng ghế của mình. Mặc dù nghĩ về Tilo và Sonja suốt bữa sáng, đến lúc này tôi quên mất họ, cho nên khi lên tới chặng dốc cuối và nhìn ra chiếc ghế, tôi khá ngạc nhiên thấy Sonja ngồi đó mình. Bà nhìn ra tôi ngay và vẫy tay.



      Tôi vẫn còn hơi e sợ bà, và nhất là có Tilo ở đây, tôi hào hứng tới ngồi với bà lắm. Nhưng bà cười tươi với tôi và dịch người ra, như là để chỗ cho tôi, nên tôi còn cách nào khác.



      Chúng tôi chào nhau, rồi trong lúc chỉ ngồi cạnh nhau như thế, gì. Ban đầu cũng khó xử lắm, phần vì tôi vẫn lấy lại hơi, phần vì khung cảnh trước mắt. Sương và mây mù nhiều hơn hôm trước, nhưng nếu để ý, vẫn có thể nhìn thấy bên kia bên giới xứ Wales tới dãy đồi Núi Đen. Gió khá mạnh, nhưng phải là khó chịu.



      “Thế Tilo đâu rồi?” cuối cùng tôi hỏi.



      “Tilo à? Ồ…” Bà đưa tay lên che mắt. Rồi chỉ. “Kia kìa. thấy ? Ở đằng kia. Tilo đấy.”



      Xa xa tầm bao nhiêu đó, tôi nhìn thấy dáng người, có vẻ là mặc áo phông xanh đội mũ lưỡi trai trắng, dọc theo con đường dốc lên Đỉnh Worcestershire.



      “Tilo muốn dạo,” bà .



      “Bà muốn cùng à?”



      . Tôi ngồi lại đây.”



      Tuy ràng bà còn là vị khách điên khùng trong quán, song bà cũng hẳn là con người thân thiện và khích lệ ngày hôm qua. Hẳn là có chuyện gì đây, và tôi bắt đầu sửa soạn lời biện hộ về chỗ Mụ Fraser.



      “À nhân thể,” tôi , “tôi viết thêm chút cho bài đó. Bà có thể nghe nếu bà muốn.”



      Bà suy nghĩ chút, rồi đáp: “Nếu phiền có lẽ phải bây giờ. biết đấy, Tilo và tôi vừa mới chuyện. gọi là vừa mới bất đồng cũng được.”



      “Ôi thế ạ. Rất tiếc lại có chuyện đó.”



      “Và bây giờ ông ấy bỏ dạo.”



      Lần nữa, chúng tôi lại ngồi mà gì. Rồi tôi thở dài và : “Tôi nghĩ có lẽ đấy là lỗi của tôi.”



      Bà quay lại nhìn tôi. “Lỗi của à? Sao lại thế?”



      “Nguyên nhân hai người cãi nhau, nguyên nhân kỳ nghỉ của ông bà thành ra hỏng cả. Đấy là lỗi tôi. Đấy là tại cái nhà khách, phải ? Nhà khách ấy được lắm, phải ?”



      “Nhà khách à?” Bà có vẻ bối rối. “Nhà khách à. Ừ, nó cũng có khuyết điểm. Nhưng nó chỉ là cái nhà khách, như mọi nhà khách khác.”



      “Nhưng bà để ý, đúng ? Bà luôn để ý các khuyết điểm. Chắc là bà phải để ý.”



      Bà có vẻ nghĩ ngợi điều này, rồi gật đầu. “Đúng thế, tôi luôn để ý các khuyết điểm. Còn Tilo . Tilo, tất nhiên, nghĩ đấy là nhà khách tuyệt vời. Chúng ta may mắn quá, ông ấy bảo thế. May mắn quá mới tìm được nhà khách này. Rồi sáng nay chúng tôi dùng bữa. Với Tilo, đó là bữa sáng rất ổn, bữa sáng tốt nhất từng có. Tôi , Tilo, đừng có ngớ ngẩn. Bữa sáng nay chẳng ra gì. Nhà khách này chẳng ra gì. Ông ấy , , , chúng ta rất là may mắn. Thế nên tôi tức điên lên. Tôi cho người chủ biết mọi thứ gì ổn ở đây. Tilo kéo tôi . Chúng ta dạo , ông ấy thế. Rồi em thấy dễ chịu hơn. Thế nên chúng tôi ra đây. Và ông ấy , Sonja, nhìn những ngọn đồi này, chẳng phải chúng đẹp sao? Chẳng phải ta may mắn vì tới nơi như thế này trong kỳ nghỉ sao? Vùng đồi này, ông ấy bảo, còn tuyệt vời hơn ông ấy tưởng tượng khi nghe nhạc Elgar. Ông ấy hỏi tôi, phải thế sao? Có lẽ lúc ấy tôi lại tức lên. Tôi bảo ông ấy, vùng đồi này có gì mà tuyệt. Chúng phải như tôi tưởng tượng khi nghe Elgar. Những ngọn đồi của Elgar vừa vương giả vừa huyền bí. Ở đây chỉ như cái công viên. Tôi với ông ấy như thế, và bây giờ đến lượt ông ấy cáu bẳn. Ông ấy bảo thế ông ấy mình. Ông ấy bảo chúng ta thế là xong, chúng ta bây giờ đồng ý được chuyện gì nữa. Thế đấy, ông ấy bảo, Sonja, em và , chúng ta thế là xong. Và ông ấy ! thấy đấy. Đấy là vì sao ông ấy ở đó còn tôi ở dưới này.” Bà lại che mắt và theo dõi chặng đường của Tilo.



      “Tôi xin lỗi vô cùng,” tôi . “Giá mà tôi chỉ ông bà đến cái nhà khách ấy từ đầu…”



      “Xin . Cái nhà khách quan trọng.” Bà cúi người tới trước để thấy được Tilo hơn. Rồi bà quay sang tôi mỉm cười, và tôi nghĩ hình như có những giọt lệ trong mắt. “ tôi hay ,” bà bảo. “Hôm nay, định sáng tác thêm bài hát nữa à?”



      “Dự định là thế. Hoặc ít nhất , tôi định viết nốt bài hát viết dở. Bài bà vừa nghe hôm qua ấy.”



      “Bài ấy hay tuyệt. Và làm gì nữa, sau khi viết xong ở đây? có dự định gì chưa?”



      “Tôi về Luân Đôn lập ban nhạc. Những bài hát này cần ban thích hợp, nếu chúng đạt được hiệu quả.”



      “Thú vị quá. Tôi chúc may mắn.”



      Ngừng lúc, tôi lại , : “Mà có khi tôi cũng chẳng làm. Cũng phải dễ dàng, bà biết đấy.”



      trả lời, và tôi chợt nghĩ bà nghe thấy, bởi bà lại quay , nhìn về phía Tilo.



      biết ,” cuối cùng bà , “hồi còn trẻ, có gì có thể làm tôi bực tức. Nhưng bây giờ tôi bực tức vì mọi thứ. Tôi biết tại sao mình lại thành thế này. Điều ấy tốt. Ồ, tôi nghĩ Tilo trở lại đây. Tôi quay lại nhà khách đợi ông ấy vậy.” Bà đứng lên, ánh mắt vẫn dõi theo bóng người đằng xa.



      đáng tiếc,” tôi và cũng đứng dậy, “ông bà lại bất hòa giữa kỳ nghỉ thế này. Thế mà hôm qua, khi tôi chơi cho hai người nghe, hai người có vẻ hạnh phúc biết mấy.”



      “Phải, đấy là khoảnh khắc đẹp. Cám ơn đem lại nó.” Bỗng nhiên, bà chìa tay cho tôi, mỉm cười thân mật. “Gặp được mừng.”



      Chúng tôi bắt tay nhau, theo kiểu mềm mại mỗi lần bắt tay phụ nữ. Bà dợm bước , song dừng lại nhìn tôi.



      “Nếu Tilo ở đây,” bà , “ông ấy bảo , đừng bao giờ nản chí. Ông ấy , tất nhiên rồi, phải Luân Đôn và thử thành lập ban nhạc của mình. Tất nhiên thành công. Tilo với như thế. Bởi vì ông ấy là như vậy.”



      “Thế bà thế nào?”



      “Tôi cũng muốn tương tự. Bởi còn trẻ và tài năng. Nhưng tôi tin tưởng đến thế. Đời là vậy, đời mang đến những buồn phiền. Nếu hết, có những giấc mơ như thế…” Bà lại mỉm cười và nhún vai. “Nhưng tôi nên những điều này. Tôi phải tấm gương tốt cho . Thêm nữa, tôi có thể thấy giống Tilo hơn. Nếu buồn phiền có đến, vẫn tiến lên. , cũng như ông ấy , rằng mình may mắn làm sao.” Trong vài giây, bà đứng nhìn tôi, như ghi nhớ lại dáng vẻ tôi thế nào. Cơn gió thổi tung tóc bà, khiến bà có vẻ già hơn thường lệ. “Tôi chúc nhiều may mắn,” cuối cùng bà .



      “Tôi cũng chúc bà may mắn,” tôi . “Và tôi hy vọng hai người chóng làm hòa với nhau.”



      Bà vẫy tay lần cuối, rồi xuống theo đường mòn khuất tầm mắt.



      Tôi lấy đàn trong bao ra và ngồi lại xuống ghế. Nhưng mãi hồi lâu tôi chơi gì, vì còn nhìn ra xa, về hướng Đỉnh Worcestershire, và cái bóng tí xíu của Tilo đường lên dốc. Có lẽ vì lúc này nắng đồi chiếu xuống mảng đó, tôi thấy ông hơn lúc nãy nhiều, dù ông xa tôi hơn. Ông vừa dừng chân lúc đường, và có vẻ nhìn những ngọn đồi quây quần xung quanh, gần như thể đánh giá lại chúng. Rồi cái bóng của ông lại tiếp tục di chuyển.



      Tôi tiếp tục với bài hát lúc nữa, nhưng cứ liên tục mất tập trung, chủ yếu vì còn hình dung vẻ mặt Mụ Fraser lúc Sonja tấn công mụ ta sáng nay. Rồi tôi nhìn lên trời mây, nhìn xuống mặt đất trải bao la bên dưới, và bắt mình quay lại nghĩ về bài hát, về phần nối tôi còn chưa làm xong.






      Dạ khúc






      Cho đến hai ngày trước, Lindy Gardner vẫn còn là láng giềng sát vách tôi. Được rồi, hẳn nghĩ, nếu Lindy Gardner là láng giềng tôi, vậy có nghĩa là tôi sống ở Beverly Hills; nhà sản xuất phim, có lẽ, hoặc diễn viên hay nhạc sĩ cũng nên. Thực tế là, tôi cũng chơi nhạc như ai. Nhưng dù tôi có chơi sau lưng hai tên tuổi chắc có biết tiếng, tôi vẫn thuộc giới mà gọi là đẳng cao. Ông bầu của tôi, Bradley Stevenson, người bạn tốt theo kiểu của mình trong nhiều năm, cứ nhấn mạnh là tôi có triển vọng gia nhập đẳng cao lắm. phải chỉ đẳng cao kiểu thời vụ, mà là đẳng cao đứng tên chương trình hẳn hoi. phải ngày nay còn nhạc công saxophone nào đứng tên chương trình nữa, ông , và lặp lại danh sách quen thuộc. Marcus Lightfoot. Silvio Tarrentini. Họ đều chơi jazz cả, tôi nhắc nhở. “Thế cậu chơi jazz chơi cái gì?” ông . Nhưng chỉ trong những giấc mơ sâu kín nhất tôi mới còn chơi jazz mà thôi. Trong thế giới thực - lúc phải quấn băng kín mặt như bây giờ - tôi chỉ là cây tennor mùa vụ, phục vụ mức độ phải chăng cho các studio, hay khi ban nhạc nào đó khuyết vị trí cố định. Nếu họ đòi nhạc pop, ừ chơi pop. Hoặc R&B ư, được ngay. Quảng cáo xe hơi, nhạc dạo talk show, tôi làm tất. Bây giờ tôi chỉ còn chơi jazz khi ở trong căn buồng con của riêng mình.



      Tôi thích chơi trong phòng khách hơn, nhưng cái căn hộ được xây rẻ mạt này, hàng xóm láng giềng lên tiếng càu nhàu từ đầu đến cuối tầng. Thế nên tôi chọn biến buồng nhất trong nhà thành phòng tập. Nó hơn buồng để chổi là mấy - có thể nhét cái ghế tựa vào và thế là hết - nhưng tôi trang bị cách bằng xốp và hộp đựng trứng và những xập phong bì dày bỏ mà bầu Bradley lấy của văn phòng đem cho. Helen, vợ tôi, hồi còn sống với tôi, ấy thường thấy tôi xách cây kèn vào đó và cười mà bảo cứ như tôi vào toa lét, và đôi lúc tôi cũng cảm thấy như vậy. vậy nghĩa là, cũng như tôi ngồi giữa bốn bức tường tối mờ, bí hơi để chăm sóc nhu cầu cá nhân ai khác buồn để tâm đến.



      Đến khúc này đoán ra Lindy Gardner bao giờ sống kế căn hộ tôi miêu tả. Bà cũng nằm trong số láng giềng vẫn đến đập cửa phòng mỗi lần tôi dám chơi bên ngoài căn buồng con. Khi tôi bà là láng giềng của tôi, ý tôi muốn nghĩa khác, và tôi giải thích bây giờ đây.



      Cho đến hai ngày trước, Lindy còn ở phòng kế bên trong cái khách sạn hoa lệ này, và cũng như tôi, mang khuôn mặt quấn kín băng. Lindy, dĩ nhiên, có ngôi nhà lớn tiện nghi gần đây, và có người ở, nên bác sĩ Boris cho bà về. Thực tế , nếu xét theo khía cạnh thuần y học, bà có thể về từ lâu rồi, nhưng hiển nhiên còn nhiều yếu tố khác. Thứ nhất là, khi về nhà bà dễ lẩn tránh máy quay và các tay nhà báo thóc mách. Thêm nữa, cảm tưởng của tôi là danh tiếng lẫy lừng của bác sĩ Boris xây dựng những nền tảng hoàn toàn hợp pháp, và đấy là vì sao ông giấu các bệnh nhân ở tít cái tầng ai lên cũng phải thào này, cách ly khỏi mọi nhân viên và khách nghỉ thông thường, lại căn dặn chỉ được rời khỏi phòng khi tuyệt đối cần thiết. Nếu có thể nhìn xuyên qua lớp vải quấn, đếm thấy sao ở đây trong tuần nhiều hơn trong tháng ở khách sạn Chateau Marmont.



      Vậy thế nào mà kẻ như tôi lại có mặt ở đây giữa các minh tinh và triệu phú thế này, đợi khuôn mặt biến đổi dưới tay bậc thầy xịn nhất ngành? Tôi nghĩ mọi chuyện bắt đầu từ ông bầu của tôi, Bradley, mà bản thân cũng phải đẳng cao gì lắm, và trông cũng giống George Clooney hơn tôi. Ông chuyện đó lần đầu mấy năm trước, theo kiểu đùa cợt, rồi có vẻ càng lúc càng nghiêm túc mỗi lần nhắc lại. Phát biểu của ông, gọn lại, là tôi xấu. Và đấy chính là cái cản trở tôi tiến lên đẳng cao.



      “Nhìn Marcus Lightfoot xem,” ông . “Nhìn Kris Bugoski nữa. Hay là Tarrentini. Trong số họ có ai có được cái thần thái trong tiếng kèn của cậu ? hề. Họ có được nét dịu dàng của cậu? Tầm nhìn của cậu? Họ có được bằng nửa kỹ thuật của cậu? hề. Nhưng họ có cái mặt, nên cửa nào cũng mở cho họ.”



      “Thế Billy Fogel sao?” tôi hỏi. “Ông ấy xấu như ma nhưng vẫn thành công tốt.”



      “Billy xấu, đồng ý. Nhưng ông ta xấu kiểu sexy, xấu kiểu găng tơ. Còn cậu, Steve, cậu … Hừm, cậu xấu kiểu tẻ nhạt, hãm tài. Xấu như thế ăn tiền. Nghe này, bao giờ cậu nghĩ đến chuyện sửa sang chút chưa? Giải phẫu ấy, ý tôi là thế?”



      Tôi về nhà kể lại từ đầu đến cuối cho Helen vì tôi nghĩ ấy cũng thấy buồn cười như tôi. Và lúc đầu, tất nhiên, chúng tôi cười nhạo Bradley bằng thích. Rồi Helen đến gần, quàng tay ôm tôi và rằng, ít nhất với , tôi là chàng điển trai nhất thế giới. Rồi hơi lùi lại bước và im lặng, tôi liền hỏi có chuyện gì à, có gì. Rồi rằng có lẽ, chỉ là có lẽ thôi, Bradley có ý đúng. Có lẽ tôi nên nghĩ đến chuyện sửa sang chút.



      “Đừng có nhìn em như thế!” hét trả. “Giờ ai cũng làm chuyện đó cả. Với , lý do nghề nghiệp. Muốn thành tài xế bảnh bao phải mua cái xe bảnh bao. Với cũng đâu khác gì!”



      Nhưng vào thời điểm đó tôi nghĩ thêm về chuyện này, kể cả dù tôi bắt đầu chấp nhận ý kiến rằng mình “xấu kiểu hãm tài”. Thứ nhất là, tôi có tiền. Thực tế là, ngay khi Helen thốt lên câu tài xế bảnh bao, chúng tôi khoản nợ chín ngàn rưởi đô la. Như thế là rất Helen đấy. con người rất tốt về nhiều khía cạnh, nhưng cái khả năng quên hoàn toàn tình trạng tài chính của gia đình và mơ tưởng thêm những khoản tiêu pha mới, cái ấy đặc Helen.



      Ngoi chuyện tiền nong, tôi thích ý tưởng bị người ra đè ra mổ xẻ. Tôi thoải mái lắm với những việc kiểu ấy. lần, hồi tôi mới bắt đầu quen Helen, ấy rủ tôi cùng chạy bộ. Đấy là sáng mùa đông lạnh buốt, và tôi phải là chuyên gia chạy bộ, nhưng tôi mê đắm Helen và mong gây ấn tượng với . Thế là chúng tôi chạy vòng quanh công viên, và tôi bắt nhịp với rất đều bỗng dưng mũi giày tôi đá phải vật rất cứng trồi lên mặt đất. Tôi cảm thấy đau ở chân, đến nỗi nặng lắm, nhưng khi bỏ giày và tất ra, nhìn thấy móng ngón chân cái dựng đứng lớp thịt như giơ tay chào kiểu Hitler, tôi chóng mặt ngất xỉu. Tôi là như thế. Nên cũng hiểu, tôi hào hứng gì với chuyện đẽo lại mặt.



      Thế rồi, tất nhiên, còn vấn đề nguyên tắc nữa. Được rồi, tôi kể với , tôi phải khắt khe về tư chất nghệ thuật. Tôi chơi mọi loại xanh đỏ tím vàng để lấy tiền. Nhưng cái việc này thuộc vào cấp độ khác, và tôi cũng còn lại tí danh dự chứ. Bradley đúng điều: tôi giỏi bằng hai hầu hết mọi kẻ trong cái mảng này. Nhưng có vẻ điều ấy ngày nay đáng giá nhiều nữa. Bởi vì còn phải lo đến hình ảnh, đến tính thương mại, đến bìa tạp chí và chương trình truyền hình, đến tiệc tùng và những người cùng ngồi dự bữa trưa. Những thứ ấy làm tôi buồn nôn. Tôi là người làm nhạc, làm sao tôi lại phải nhập cuộc chơi ấy? Tại sao tôi thể chỉ chơi nhạc theo cách tốt nhất tôi biết, và hoàn thiện thêm dần, dù chỉ trong căn buồng con, và có thể ngày, có thể thôi, những người nhạc đích thực nghe được tôi và quý trọng những gì tôi làm. Tôi cần gì phải phẫu thuật thẩm mỹ chứ?



      Ban đầu Helen có vẻ cũng nhìn nhận như tôi, và đề tài này được nhắc lại trong thời gian. Thế nghĩa là, cho đến khi gọi đến từ Seattle rằng quyết định bỏ tôi mà dọn đến ở với Chris Prendergast, quen từ trung học và giờ là chủ chuỗi quán ăn phát đạt ở khắp Washington. Tôi có gặp gã Prendergast này vài lần trong suốt nhiều năm qua - thậm chí có lần gã tới nhà ăn tối - nhưng chưa bao giờ nghi ngờ gì cả. “Đấy là do cái xó cách của cậu,” Bradley có nhận xét. “Từ trong ra lẫn ngoài vào.” Tôi nghĩ ông có ý đúng.



      Nhưng tôi muốn kể lể về Helen và Prendergast mà chỉ giải thích vai trò của họ trong việc đưa tôi đến nơi giờ. Chắc là nghĩ tôi lái xe lên dọc bờ biển, giáp mặt đôi chim cu, và giải phẫu thẩm mỹ trở thành lựa chọn bất khả kháng sau màn đấu khẩu hùng dũng với tình địch. Lãng mạn lắm, nhưng , chuyện phải như thế.



      Chuyện là, khoảng vài tuần sau khi gọi điện, Helen trở lại căn hộ sắp xếp đồ đạc để chuyển . Trông khá buồn khi vòng quanh căn nhà - nơi, ít nhất, chúng tôi cũng có những giờ khắc hạnh phúc. Tôi cứ nghĩ sắp bật khóc ngay bây giờ, nhưng khóc, chỉ quanh nhà xếp mọi thứ thành những chồng gọn gàng. có người qua lấy trong hai ngày nữa, . Rồi trong lúc tôi chuẩn bị vào buồng con, kèn cầm tay, ngước lên và lặng lẽ :



      “Steve, xin . Đừng vào cái chỗ ấy nữa. Chúng ta cần chuyện.”



      chuyện gì chứ?”



      “Steve, vì Chúa.”



      Thế nên tôi cất lại kèn vào bao và chúng tôi vào căn bếp , ngồi xuống bên bàn đối diện nhau. Rồi trình bày cho tôi.



      có chuyện thay đổi quyết định. rất hạnh phúc với Prendergast, người vẫn thầm trộm nhớ từ hồi học. Nhưng thấy có lỗi vì bỏ tôi, nhất là tại thời điểm khi nghiệp của tôi êm đẹp lắm. Thế nên suy nghĩ kỹ và chuyện với bạn trai mới, và ta cũng thấy có lỗi với tôi. Xem ra là, gã ta thế này: “ tệ là Steve lại phải thiệt thòi vì hạnh phúc của hai đứa mình.” Thế nên đây là thỏa thuận. Prendergast sẵn sàng trả tiền cho tôi sửa mặt ở chỗ chuyên gia giỏi nhất trong ngành. “ đấy,” , khi tôi nhìn lại phản ứng gì. “ ấy thành ý. tiếc thứ gì. Toàn bộ phí chữa trị, phí hồi phục, mọi thứ. Bác sĩ giỏi nhất ngành.” khi mặt tôi sửa xong, có gì cản đường tôi nữa, . Tôi tiến thẳng lên đỉnh, làm sao khác được, với tài năng như vậy?



      “Steve, sao phải nhìn em như thế? Đây là đề nghị tuyệt vời. Và Chúa mới biết sáu tháng nữa ấy có còn sẵn lòng như thế hay . làm ơn cho bản thân mình. Chỉ vài tuần khó chịu chút thôi, thế rồi đùng! Lên thẳng ngai vàng và cao hơn nữa!”



      Mười lăm phút sau, đường ra, bằng giọng nghiêm khắc hơn: “Tức là nghĩ thế chứ gì? Nghĩ hạnh phúc khi cả đời chơi trong cái tủ chật chội ấy? Nghĩ thích thú vì được làm thằng hãm tài số ?” Và kết thúc ở đó, .



      Ngày hôm sau tôi ghé chỗ Bradley xem ông có mối nào mới cho tôi , và tình cờ kể chuyện vừa diễn ra, nghĩ hai chúng tôi cùng cười vì chuyện ấy. Nhưng Bradley cười.



      ta giàu à? Và sẵn sàng trả tiền cho cậu đến bác sĩ giỏi nhất? Có thể ta đưa cậu tới Crespo đấy. Hay cả Boris cũng nên.”



      Thế là giờ thêm cả Bradley nữa, dạy bảo tôi phải nắm lấy cơ hội này, và nếu nắm tôi chỉ là thằng hãm tài suốt đời. Tôi ra khỏi văn phòng ông trong cơn giận dữ, nhưng ông gọi lại ngay chiều hôm đó và cứ lui tới. Nếu là việc phải gọi điện làm tôi ngại, ông , nếu tôi thấy tổn thương lòng tự trọng vì phải nhấc điện thoại lên mà bảo Helen, có, làm ơn, tôi đồng ý, làm ơn bảo bạn trai ký tờ séc to đùng ấy, nếu đấy là điều cản trở tôi, ông, Bradley đây, vui lòng đứng ra thương thảo đại diện cho tôi. Tôi bảo ông cắp đít mà cút rồi dập máy. Nhưng rồi giờ sau ông gọi lại. Ông bảo giờ ông hiểu cả rồi và tôi đúng là ngốc mới tự hiểu ra.



      “Helen lên kế hoạch cẩn thận rồi. Cậu đặt mình vào vị trí ấy xem. ấy cậu. Nhưng về mặt mũi mà , chà, cậu khiến người ta xấu hổ khi xuất bên cậu trước công chúng. Cậu có tí gì là hấp dẫn. ấy muốn cậu làm gì đó để giải quyết, nhưng cậu chịu. Thế ấy phải làm gì? Ồ, nước tiếp theo của là thiên tài. Cực kỳ tinh tế. Là người quản lý chuyên nghiệp tôi cũng phải thán phục. ấy chạy tới gã này. Được rồi, có thể vẫn luôn mê gã, nhưng ra , gã tí nào. làm cho gã phải trả tiền cho cậu sửa mặt. khi cậu lành lặn, trở lại, cậu lại đẹp trai, ấy thèm khát cơ thể cậu, ấy nôn nóng được xuất cùng cậu tại các nhà hàng…”



      Tôi chặn ngang lời ông để chỉ ra rằng dù qua nhiều năm tôi thấy ông có thể chui xuống sâu đến đâu khi cần thuyết phục tôi làm gì đó có lợi cho việc làm ăn của ông, nhưng cái tiểu xảo mới này xuống đến tận đáy của đáy, đến tận nơi ánh sáng còn rọi xuống được và phân ngựa bốc hơi cũng phải đóng băng trong tích tắc. Và tiện thể đến phân ngựa, tôi ông hay mặc dù tôi hiểu là ông, do bản chất, thể vung vãi nó khắp nơi bất cứ khi nào có dịp, nhưng nếu muốn cái tiểu xảo có hiệu quả tốt hơn ông nên bịa ra cái gì ít nhất cũng có khả năng lừa phỉnh được tôi hai phút. Rồi tôi gác máy lần nữa.



      Trong mấy tuần sau đó, công việc trở nên khan hiếm hơn bao giờ hết, và mỗi lần tôi gọ Bradley xem có gì , ông gì đó kiểu như: “Khó mà giúp kẻ nào tự giúp lấy mình.” Cuối cùng, tôi bắt đầu cân nhắc toàn bộ vấn đề dưới góc độ thực tiễn. Tôi thể lờ thực là mình phải ăn. Và nếu chịu đựng xong chuyện này mà rốt cuộc có thêm nhiều người được nghe nhạc tôi chơi, đấy có phải là kết cục quá tệ? Và còn kế hoạch tự thành lập ban nhạc riêng ngày nào đó sao? Làm sao chuyện ấy có cơ hội thành thực đây?



      Rốt cuộc, có lẽ khoảng sáu tuần sau khi Helen đưa ra đề nghị, tôi tiện thể nhắc qua với Bradley rằng tôi nghĩ lại chuyện đó. Với ông như thế là đủ. Ông khởi động, gọi điện rồi lại thỏa thuận, quát tháo ầm ĩ và vô cùng kích động. Phải công bằng, ông giữ đúng lời hứa: ông lãnh toàn bộ những việc trung gian khiến tôi phải trải qua cuộc đối thoại xấu hổ nào với Helen, chưa đến Prendergast. Đôi lúc Bradley còn tạo ra được ảo tưởng rằng ông thương thảo mối hời cho tôi, rằng tôi mới là kẻ có gì để bán. Ngay cả thế, tôi cũng rơi vào nghi hoặc mất vài lần mỗi ngày. Khi chuyện đến, nó đến rất đột ngột. Bradley gọi điện bác sĩ Boris vừa hủy lịch hẹn sát giờ và tôi phải trình diện tại địa chỉ XYZ đúng ba giờ ba mươi chiều hôm ấy với toàn bộ hành lý. Hình như tôi lên cơn chấn động cuối giờ khi đến câu này, bởi tôi còn nhớ Bradley quát tướng lên trong điện thoại bảo tôi trấn tĩnh, và bảo ông tự thân đến đón tôi, và rồi tôi được chở những con đường ngoằn ngoèo đến tòa nhà lớn trong khu đồi Hollywood và lên bàn gây mê, cứ như nhân vật của Raymond Chandler.



      Vài ngày sau tôi được đưa xuống đây, trong khách sạn Beverly Hills, vào cửa sau dưới bóng đêm che giấu, và đặt xe đẩy dọc hành lang, trong khu độc quyền đến nỗi chúng tôi bị cắt rời khỏi toàn bộ sinh hoạt thông thường trong khách sạn.









      Tuần đầu tiên, mặt tôi đau kinh khủng và thuốc mê còn trong máu khiến tôi váng vất muốn nôn. Tôi phải ngủ trong tư thế tựa lưng lên gối ngồi thẳng tưng, có nghĩa là chẳng ngủ được mấy, và bởi y tá kiên quyết bắt trong phòng lúc nào cũng để mờ mờ, tôi mất khái niệm về giờ giấc. Mặc dù thế, tôi cũng thấy đến nỗi tệ. Thực tế là, tôi thấy cực kỳ phấn chấn lạc quan. Tôi đặt trọn lòng tin vào bác sĩ Boris, mà suy cho cùng các sao màn bạc đều đặt cả nghiệp vào tay ông. Chưa hết, tôi biết rằng với tôi ông hoàn thành tuyệt tác đỉnh cao của mình; rằng khi nhìn thấy khuôn mặt hãm tài của tôi, ông cảm thấy những tham vọng sâu kín trong mình cất tiếng gọi, và nhớ lại vì sao thuở xa xưa ông theo tiếng gọi này, nên ông dồn cả tâm huyết vào tôi. Khi lớp băng bỏ ra, tôi có thể trông chờ khuôn mặt được đẽo tạc lành nghề, hơi mang nét tàn bạo, nhưng đầy những sắc tinh vi. người danh tiếng như ông, hẳn nhiên, suy tính cẩn thận những cầu đối với nhạc công jazz cao cấp, và lầm lẫn với cầu đối với gã điểm tin ti vi chẳng hạn. Có thể ông còn thêm thắt để tôi có cái vẻ thoáng ưu tư, kiểu như De Niro hồi trẻ, hoặc như Chet Baker trước khi bị ma túy hủy hoại. Tôi nghĩ về những an bum tôi thu, những người tôi thuê làm dàn đệm cho mình. Tôi thấy bừng bừng đắc thắng và tin nổi có lúc mình do dự về chuyện này.



      Thế rồi sang đến tuần hai, khi tác dụng của thuốc giảm , đến lúc tôi thấy mình suy sụp, đơn và rẻ mạt. Y tá của tôi, Gracie, bây giờ cho phép chút ánh sáng trong phòng - dù vẫn buông rèm ít nhất nửa - và tôi được phép lại trong phòng trong áo khoác mặc nhà. Thế nên tôi bật hết đĩa nhạc này đến đĩa nhạc khác bộ dàn Bang & Olufsen và vòng vòng quanh thảm, thỉnh thoảng dừng lại trước gương bàn trang điểm săm soi con quái vật quấn băng kỳ dị giương mắt nhìn lại qua khe.



      Chính là trong giai đoạn thứ hai này Gracie lần đầu cho tôi biết Lindy Gardner ở ngay phòng bên. Giá cho tôi trong giai đoạn đầu, khi tôi còn hứng khởi, hẳn tôi vui sướng mà đón nhận tin ấy. Có thể tôi còn coi đó là tín hiệu đầu tiên về cuộc đời lấp lánh đợi sẵn phía trước. Song, vì tin ấy đến lúc này, khi tôi tụt xuống đáy, nó khiến tôi ghê tởm đến mức lại lên cơn buồn nôn nữa. Nếu thuộc về cộng đồng hâm mộ Lindy, tôi xin lỗi trước vì điều sắp . Nhưng thực tế là, vào thời điểm ấy, nếu có kẻ nào theo tôi là thân của mọi thứ nông cạn và gớm ghiếc đời, đấy là Lindy Gardner: người với tài năng ít ỏi - được rồi, thẳng ra, bà ta chứng tỏ mình biết diễn xuất, và còn buồn giả vờ có khả năng nhạc - nhưng dù thế nào cũng đánh đường tới được danh tiếng, trở thành đối tượng giành giật của các hãng truyền hình và tạp chí giấy bóng bao giờ hết thèm khát khuôn mặt tươi cười của bà ta. Đầu năm nay tôi có qua hiệu sách thấy hàng dài ngoằn ngoèo đằng trước và tự hỏi có phải Stephen King hay ai đó ở đây, nhưng rồi hóa ra chỉ là Lindy ký tặng quyển tự truyện thuê viết mới xuất bản. Và làm cách nào có được những điều này? Bằng cách thông thường, dĩ nhiên. đương hợp nơi, hôn nhân hợp người, ly dị hợp lúc. Mọi thứ dẫn đến những bìa báo hợp gu, talk show hợp mốt, rồi những món như trò gì đó của bà ta mới lên sóng gần đây, tôi nhớ tên, chỗ bà ta khuyên bảo về việc ăn mặc thế nào cho cuộc hẹn lớn đầu tiên sau khi ly dị, hoặc phải làm gì nếu nghi ngờ chồng mình đồng tính, kiểu như thế. có thể nghe người ta bà ta có “tố chất ngôi sao”, nhưng phép màu này cũng dễ phân tích. Đấy chỉ là phép cộng của mọi lần xuất ti vi và bìa tạp chí, mọi tấm hình thấy khắp nơi chụp bà ta tại các buổi tiệc hay ra mắt phim, tay khoác tay với các tên tuổi huyền thoại. Và bây giờ bà ta ở đây, ngay sát vách, cũng như tôi đợi hồi phục sau cuộc sửa sang mặt mũi với bác sĩ Boris. gì có thể tượng trưng tốt hơn cho cái chuyện tư cách tôi giờ xuống dốc đến thế nào. tuần trước, tôi còn là nhạc công jazz. Giờ tôi chỉ còn là gã hãnh tiến tuyệt vọng giữa số đông, chỉnh lại mặt mày hòng có cơ hôi bò đằng sau những Lindy Gardner của thế giới này để tới địa vị ngôi sao rỗng tuếch.



      Mấy ngày tiếp đó, tôi cố giải khuây bằng cách đọc sách, nhưng sao tập trung được. Dưới lớp băng, mặt tôi có chỗ đập thình thịch, chỗ khác lại ngứa điên cuồng và tôi trải qua từng đợt nóng bừng hay bức bối khó thở. Tôi mong mỏi đến lúc được chơi kèn, và ý nghĩ phải nhiều tuần nữa mới có thể bắt cơ mặt chịu áp lực đến thế khiến tôi càng tuyệt vọng hơn nữa. Cuối cùng, tôi rút ra kết luận: cách tốt nhất để qua ngày là xen kẽ giữa nghe đĩa và những đợt ngồi ngó bản nhạc - tôi mang theo tới đây cặp bản nhạc với hợp và ca từ mà tôi vẫn tập trong buồng con - và tự ngâm nga các dạng biến tấu cho mình mình nghe.



      Đến gần cuối tuần thứ hai khi tôi bắt đầu thấy khá hơn cả về thể chất lẫn tinh thần, y tá đưa tôi phong bì và cười đầy vẻ hiểu biết, bảo: “Thứ này phải ngày nào cũng có đâu.” Trong là trang viết từ giấy khách sạn, và vì nó ở ngay trước mặt tôi đây, tôi dẫn lại nguyên văn từ đó.



      Gracie với tôi buồn chán cảnh sống xa hoa này. Tôi cũng thế. qua thăm tôi sao nhỉ? Nếu nghĩ năm giờ tối nay là quá sớm để uống cocktail? Ông B. cấm chất cồn, tôi đoán với cũng vậy. Thế nên có lẽ chỉ là nước ngọt và Perrier. Bác với chẳng sĩ! Hẹn gặp năm giờ, nếu tôi đau khổ hết sức. Lindy Gardner.









      Có lẽ là do đến lúc này tôi hết sức buồn chán; hoặc có thể vì tâm trạng bây giờ lại khá lên; hoặc là ý nghĩ có bạn tù cùng trao đổi chuyện trò là quá hấp dẫn. Hoặc có thể tôi hoàn toàn miễn nhiễm với cái xa hoa như tôi tưởng. Đằng nào , bất chấp mọi điều nghĩ về Lindy Gardner, khi đọc lời nhắn này, tôi cảm thấy khá phấn khích, nên liền bảo Gracie báo với Lindy tôi qua lúc năm giờ.









      Lindy Gardner còn quấn băng nhiều hơn tôi. Tôi ít nhất cũng được chừa lại khoảng đầu, ở đó tóc tua tủa ra như rặng cọ trong ốc đảo hoang mạc. Nhưng Boris ốp toàn bộ đầu Lindy thành quả dừa vạch các đường vĩ tuyến, chỉ chừa kẽ hở cho mắt mũi miệng. Số phận nào đến với mớ tóc vàng rực rỡ ấy, tôi biết. Tuy nhiên giọng bà dè dặt như tưởng, và tôi nhận ra giọng thường nghe những lần bà xuất hiên ti vi.



      “Thế thấy ở đây thế nào?” bà hỏi. Khi tôi đáp rằng cũng đến nỗi, bà : “Steve. Tôi gọi là Steve được ? Tôi nghe Gracie nhiều về .”



      “Thế à? Tôi hy vọng ấy bỏ qua những điểm xấu.”



      “À, tôi cũng biết chơi nhạc. Và là người rất có triển vọng.”



      ấy bảo thế à?”



      “Steve, căng thẳng thế. Tôi muốn thoải mái khi ngồi với tôi. vài người nổi tiếng, tôi biết, họ thích công chúng căng thẳng khi ở gần họ. Khiến họ càng thấy mình đặc biệt. Nhưng tôi ghét lối đó lắm. Tôi muốn đối xử với tôi như bè bạn bình thường của thôi. gì nhỉ? bảo tôi thấy ở đây đáng ghét lắm.”



      Phòng bà rộng hơn phòng tôi thấy , mà đây mới chỉ là buồng khách của phòng suite. Chúng tôi ngồi đối mặt nhau bộ xô pha trắng, ở giữa là bàn cà phê thấp bằng kính mờ, qua đó nhìn thấy khối gỗ lũa to đùng đỡ bên dưới. bàn để đầy tạp chí bóng lộn và giỏ hoa quả vẫn còn bọc ni lông. Cũng như tôi, bà để máy điều hòa ở nấc cao - mặt quấn băng làm cho người rất nóng - và rèm buông thấp cửa chặn ánh nắng chiều. phục vụ vừa mang cho tôi cốc nước và cốc cà phê, cả hai đều bỏ ống hút bập bềnh ở trong - ở đây mọi món đồ đều phải thế - rồi ra khỏi phòng.



      Trả lời câu hỏi của bà, tôi điều khó khăn nhất với tôi là được chơi kèn.



      “Nhưng hiểu vì sao Boris cho mà,” bà . “Cứ tưởng tượng xem. thổi cái tù và ấy ngày trước khi lành lặn, mặt nổ tung bắn ra khắp phòng!”



      Bà có vẻ thấy ý nghĩ đó khá vui, và xua xua tay về phía tôi cứ như tôi mới là người vừa dí dỏm và bà phải bảo: “Thôi , quá thể!” Tôi cũng cười theo, và hút chút cà phê qua ống. Rồi bà bắt đầu kể về loạt bạn vừa làm phẫu thuật gần đây, về những gì họ thuật lại, những chuyện buồn cười họ gặp phải. Bà toàn nhắc những cái tên thuộc hàng sao, nếu cũng kết hôn với hàng sao.



      “Thế là chơi saxophone,” bà , đột ngột chuyển chủ đề. “Quyết định đúng đấy. Đấy là nhạc cụ tuyệt vời. biết tôi gì với mọi nhạc công saxo trẻ ? Tôi bảo họ nên nghe những người cổ điển. Tôi biết người, cũng mới nổi như , chỉ độc nghe những tay tân tiến. Wayne Shorter và các loại tương tự. Tôi bảo cậu ta, học được nhiều hơn từ những người cổ điển. Có thể là đột phá, tôi bảo cậu ta thế, nhưng các ông ấy rành kỹ thuật. Steve, có phiền nếu tôi bật nghe đoạn ? Để hiểu chính xác tôi đến cái gì?”



      , tôi phiền. Nhưng bà Gardner…”



      “Làm ơn. Gọi tôi là Lindy. Ở đây chúng ta ngang hàng.”



      “Được rồi. Lindy. Tôi chỉ định , tôi trẻ đến thế đâu. ra là, tới sinh nhật sau là tôi ba chín.”



      “Ồ ư? Chà, thế vẫn còn trẻ. Nhưng phải, tôi cứ nghĩ còn trẻ hơn nhiều. Với những mặt nạ đặc quyền Boris ban cho chúng ta khó mà đoán được, phải ? Theo như Gracie kể, tôi cứ nghĩ cậu trẻ mới nổi, và đoán là bố mẹ trả tiền cuộc phẫu thuật này để cho khởi đầu thuận lợi. Xin lỗi tôi nhầm.”



      “Gracie tôi ‘mới nổi’ à?”



      “Đừng giận Gracie. ấy chơi nhạc nên tôi hỏi tên . Khi tôi bảo tên này tôi quen, ấy bảo ‘Đấy là vì này mới nổi.’ Chỉ có thế thôi. Này, nhưng nghĩ xem, bao nhiêu tuổi quan trọng gì chứ? Lúc nào cũng có thể học được từ những người cổ điển. Tôi muốn nghe cái này. Tôi nghĩ thấy thú vị.”



      lại tủ và lúc sau giơ chiếc CD lên. “ tán thưởng mà xem. Tiếng saxo ở đây hoàn hảo.”



      Phòng bà cũng có bộ dàn Bang & Olufsen như phòng tôi, và chẳng mấy chốc cả phòng vang lừng tiếng đàn dây ngọt lịm. Sau vài nhịp, tiếng kèn tenor uể oải, đậm chất Ben Webster nổi lên và nhanh chóng dẫn đầu dàn nhạc. Nếu nắm những thứ này, còn có thể tưởng đây là trong những khúc dạo của dàn Nelson Riddle dành cho Sinatra. Nhưng giọng hát cuối cùng bắt vào lại là giọng Tony Gardner. Bài hát - mà tôi vừa nhớ ra - là bài tên “Back at Culver City”, bản ballad chưa bao giờ thịnh lắm và ngày nay mấy ai chơi nữa. Suốt trong lúc Tony Gardner hát, tiếng saxophone đuổi theo ông, đối đáp ông từng câu . Kiểu chơi này khá sáo, và quá ủy mị với tôi.



      Tuy thế sau lúc, tôi để ý nhiều đến bài hát nữa vì Lindy, trước mặt tôi, rơi vào trạng thái mơ màng, chầm chậm nhảy theo tiếng nhạc. Những động tác của bà uyển chuyển và duyên dáng - ràng ca mổ ảnh hưởng đến cơ thể bà - và bà có thân hình mảnh dẻ, cân đối. Bà mặc thứ gì đó nửa như áo khoác mặc nhà, nửa như váy tiệc chiều; nghĩa là nó cùng lúc hơi có vẻ bệnh viện mà vẫn xa hoa. Thêm nữa, tôi cố nghĩ cho ra điều. Tôi có ấn tượng ràng rằng Lindy mới đây ly dị Tony Gardner, nhưng với tư cách kẻ mù mờ nhất cả nước về hậu trường showbiz, tôi bắt đầu nghĩ có lẽ mình nhầm. Nếu làm sao bà lại nhảy thế này, chìm đắm trong tiếng nhạc, và ràng là thích thú?



      Tony Gardner ngưng hát lúc, đàn dây trội lên khi vào phần nối, và piano bắt đầu đoạn solo. Đến lúc này, Lindy có vẻ trở lại mặt đất. Bà đu đưa nữa, nhặt điều khiển tắt nhạc rồi quay lại ngồi xuống trước mặt tôi.



      “Có tuyệt diệu ? hiểu tôi gì chứ?”



      “Phải, rất là tuyệt,” tôi đáp, hiểu có phải câu hỏi vẫn chỉ là về saxophone hay .



      “Tiện thể thêm, nghe nhầm đâu.”



      “Nghĩa là sao?”



      “Người hát ấy. Đúng là người nghĩ đấy. phải vì ông ấy còn là chồng tôi nữa mà tôi được nghe đĩa của ông ấy, phải ?”



      , tất nhiên là .”



      “Và tiếng kèn mới đẹp làm sao. Giờ chắc hiểu tại sao tôi muốn nghe chứ.”



      “Phải, rất hay.”



      “Steve, có đĩa nào thu rồi ? Ý tôi là, đĩa chơi ấy?”



      “Có. Thực tình là tôi có vài đĩa CD ở ngay trong phòng.”



      “Lần sau đến chơi, cưng ạ, tôi muốn mang chúng theo. Tôi muốn biết chơi thế nào. hứa nhé?”



      “Được thôi, miễn chúng làm bà chán.”



      “Ôi , tôi chán đâu. Nhưng tôi mong đừng nghĩ là tôi tọc mạch. Tony luôn bảo tôi quá tọc mạch, tôi nên để cho người ta yên, nhưng biết , tôi nghĩ chẳng qua là ông ấy hách. Rất nhiều người nổi tiếng, họ nghĩ họ chỉ nên quan tâm đến những người nổi tiếng khác. Tôi chưa bao giờ như thế. Tôi nghĩ mỗi người đều có khả năng là người bạn. Như Gracie chẳng hạn. ấy là bạn tôi. Toàn bộ người làm ở nhà, họ đều là bạn tôi. Giá mà thấy tôi khi dự tiệc. Mọi người khác, họ đều chuyện với nhau về bộ phim mới quay hoặc cái gì đó, riêng tôi là người trò chuyện với nhà bếp hay đứng quầy. Tôi nghĩ như thế là tọc mạch, phải ?”



      , tôi cũng nghĩ thế là tọc mạch. Nhưng thế này, bà Gardner…”



      “Xin gọi tôi là Lindy.”



      “Lindy. Thế này, ngồi với bà chiều nay rất là dễ chịu. Nhưng mấy thứ thuốc men này, chúng thực làm tôi mệt. Tôi nghĩ mình phải nằm lúc.”



      “Ôi, thấy khỏe à?”



      có gì đâu. Chỉ là do thuốc thôi.”



      “Tệ quá! Khi nào thấy đỡ mệt nhất định phải quay lại đấy. Và mang cả đĩa theo nữa, những bản do chơi ấy. Thỏa thuận nhé?”



      Tôi phải cam đoan với bà lần nữa rằng chiều nay rất là tuyệt và tôi trở lại. Rồi trong lúc tôi ra khỏi cửa, bà :



      “Steve, có biết chơi cờ ? Tôi chơi cờ tệ nhất thiên hạ, nhưng tôi có bộ cờ xinh tuyệt trần đời. Meg Ryan vừa mang cho tôi tuần trước.”

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Quay lại phòng, tôi lấy lon Coca từ trong tủ lạnh , ngồi xuống bàn viết nhìn ra cửa sổ. Mặt trời lặn thành quầng hồng ửng bên ngoài, tầng tôi ở tít cao, và tôi nhìn thấy cả xe cộ chạy đường cao tốc đằng xa. Sau vài phút tôi gọi cho Bradley, và tuy thư ký bắt tôi chờ lúc lâu, cuối cùng ông cũng trả lời máy.



      “Mặt mũi thế nào rồi?” ông hỏi giọng lo âu, như thể hỏi thăm con chó cảnh cưng nhất nhà giao vào tay tôi chăm sóc.



      “Làm sao tôi biết được? Đến giờ tôi vẫn là Người Mặt.”



      “Cậu ổn ? Nghe giọng cậu có vẻ… chán nản.”



      “Tôi chán nản . Toàn bộ chuyện này là sai lầm. Giờ tôi hiểu rồi. ăn thua gì đâu.”



      phút im lặng, rồi ông hỏi: “Ca mổ hỏng à?”



      “Tôi tin là ca mổ sao. Ý tôi là toàn bộ phần còn lại, những gì nó kéo theo. Cái ý đồ này… Nó bao giờ tiến triển được như ông nghĩ. Lẽ ra tôi được nghe ông thuyết phục mà lao vào đó.”



      “Có chuyện gì với cậu thế? Nghe cậu có vẻ suy sụp. Họ bơm những gì vào người cậu hử?”



      “Tôi ổn cả. Thực tế là, đầu tôi còn sáng sủa hơn từ trước đến giờ. Vấn đề ở chỗ ấy. Bây giờ tôi hiểu cả. Cái ý đồ của ông… Lẽ ra tôi được nghe lời ông.”



      “Có chuyện gì đây? Cái ý đồ gì? Nghe này, Steve, có gì phức tạp cả. Cậu là nghệ sĩ rất có tài. Khi cậu vượt qua chặng này, mọi thứ cậu làm là những gì cậu vẫn làm từ trước đến nay. nay chỉ là cậu gỡ chướng ngại, thế thôi. có ý đồ gì cả…”



      “Nghe này, Bradley, tình hình ở đây rất tệ. chỉ là bất tiện thân thể. Tôi nhận ra mình làm gì với chính mình. Đây là sai lầm, lẽ ra tôi phải biết tôn trọng mình hơn.”



      “Steve, việc này là do cớ gì? Có chuyện gì vừa xảy ra ở đó phải ?”



      “Có chuyện xảy ra, phải quá. Vì thế tôi mới gọi cho ông. Tôi cần ông đưa tôi ra khỏi đây. Tôi cần ông đưa tôi đến khách sạn khác.”



      “Khách sạn khác? Cậu nghĩ cậu là ai? Hoàng tử Abdullah à? Cái khách sạn chết tiệt đó có vấn đề gì ổn?”



      “Có vấn đề là tôi ở ngay kế bên phòng Lindy Gardner. Và bà ta vừa mới mời tôi qua, và bà ta còn mời tôi qua nữa. Có vấn đề là thế đấy!”



      “Lindy Gardner ở phòng kế bên?”



      “Nghe này, tôi thể chịu đựng thêm lần như thế nữa. Tôi vừa ở đó ra xong, đấy là cố gắng lắm mới ở lại được đến lúc ấy. Và giờ bà ta bảo chúng tôi phải chơi bộ cờ Meg Ryan của bà ta…”



      “Steve, cậu là Lindy Gardner ở phòng kế bên? Và cậu giao lưu với bà ta?”



      “Bà ta bật đĩa của ông chồng! Chết mẹ, tôi nghĩ bà ta lại bật đĩa khác bây giờ đây. Tôi đến nước này rồi. Tôi xuống bậc này rồi.”



      “Steve, hượm , chúng ta lại từ đầu. Steve, câm mẹ cái mồm lại, rồi giải thích cho tôi. Giải thích cho tôi làm sao cậu lại gặp được Lindy Gardner.”



      Tôi dịu lại được chốc, rồi vắn tắt kể lại Lindy mời tôi qua ra sao, mọi chuyện tiếp diễn thế nào.



      “Tức là cậu thô lỗ với bà ấy chứ gì?” ông ta hỏi ngay khi tôi vừa dứt.



      , tôi thô lỗ với bà ta. Tôi giữ lại trong đầu. Nhưng tôi quay lại đấy đâu. Tôi phải kiếm khách sạn khác.”



      “Steve, cậu khách sạn khác. Lindy Gardner? Bà ấy quấn băng, cậu cũng quấn băng. Bà ấy ở ngay phòng bên. Steve, đây là cơ hội bằng vàng.”



      có vàng viếc gì cả, Bradley. Đây là tận đáy địa ngục. Bộ cờ Meg Ryan của bà ta, lạy Chúa!”



      “Bộ cờ Meg Ryan? Nghĩa là thế nào? Quân nào cũng có hình Meg à?”



      “Và bà ta còn muốn nghe tôi chơi! Bà ta nằng nặc đòi lần sau tôi mang đĩa sang!”



      “Bà ấy muốn… Chúa ơi, Steve, cậu còn chưa bỏ băng mà mọi thứ ngon lành quá rồi. Bà ấy muốn nghe cậu chơi?”



      “Tôi cầu ông xử lý vụ này, Bradley. Được rồi, tôi lún quá sâu, tôi mổ xong, ông thuyết phục tôi, bởi tôi ngu đến nỗi tin lời ông. Nhưng tôi có trách nhiệm phải chịu đựng việc này. Tôi phải dành cả hai tuần tiếp theo đây cho Lindy Gardner. Tôi cầu ông mang tôi lập tức!”



      “Tôi mang cậu đâu cả. Cậu có hiểu Lindy Gardner là nhân vật to lớn cỡ nào ? Cậu có biết bà ấy giao du với những ai ? Biết bà ấy có thể làm gì cho cậu chỉ cần cú điện thoại? Tất nhiên, bà ấy ly dị Tony Gardner. Chẳng có gì vì thế mà thay đổi. Có bà ấy trong đội, có gương mặt mới, cửa nào cũng mở cho cậu. Tiến thẳng lên đẳng cao, sau khi đếm đến năm.”



      có đẳng cao gì cả, Bradley, bởi vì tôi qua đó lần nữa, và tôi muốn cửa nào mở cho tôi ngoài những cửa mở cho tiếng kèn của tôi. Và tôi tin những gì ông lúc trước nữa, tôi tin cái ý đồ bố khỉ này…”



      “Tôi nghĩ cậu cần diễn đạt mạnh mẽ như thế. Tôi thực lo lắng về những vết khâu…”



      “Bradley, chỉ chốc nữa ông phải lo lắng về vết khâu nữa đâu, vì ông biết tôi định làm gì ? Tôi lột cái mặt nạ xác ướp này ra và tôi chọc ngón tay vào miệng và kéo giãn mặt mình thành mọi hình thù có thế! Ông nghe , Bradley?”



      Tôi nghe thấy ông thở dài. Rồi ông : “Được rồi, bình tĩnh. Cứ bình tĩnh. Cậu trải qua rất nhiều áp lực trong khoảng thời gian này. Cũng dễ hiểu. Nếu cậu muốn gặp Lindy lúc này, nếu cậu muốn quẳng cơ hội qua cửa sổ, sao, tôi hiểu tình thế của cậu. Nhưng hãy lịch , được chưa? Hãy đưa ra lý do dễ nghe. Đừng chặt bỏ cái cầu nào.”









      Tôi cảm thấy dễ chịu hơn nhiều sau khi chuyện với Bradley, và trải qua buổi chiều tương đối hài lòng, xem nửa cuốn phim, rồi nghe Bill Evans. Sáng hôm sau, sau bữa sáng, bác sĩ Boris cùng hai hộ lý vào khám, tỏ vẻ vừa ý, rồi ra. lúc sau đó, độ mười giờ, tôi có khách đến thăm - tay trống tên Lee từng chơi cùng ban với tôi cho studio ở San Diego vài năm trước. Bradley, vốn là bầu của cả Lee, gợi ý cậu ta đến.



      Lee khá ổn và tôi rất vui được gặp cậu ta. Cậu ta đến thăm độ tiếng đồng hồ, chúng tôi trao đổi tin tức về những người bạn chung, ai ở ban nào, ai xách va li Canada hay châu Âu.



      “Rất buồn là hội cũ chẳng mấy ai còn ở đây nữa,” cậu ta . “ chơi với họ rất vui vẻ, rồi thoắt cái chẳng biết họ ở đâu.”



      Cậu ta kể về những buổi diễn gần đây, và chúng tôi cùng cười khi nhớ lại vài chuyện cũ từ hồi ở San Diego. Rồi đến lúc gần về, cậu ta hỏi:



      “Thế còn Jake Marvell sao? Cậu nghĩ gì về ta? Thế giới này lạ lùng nhỉ?”



      “Lạ lùng đúng quá rồi,” tôi . “Nhưng dù sao, Jake vẫn luôn là gã cừ. xứng đáng với những gì được hưởng.”



      “Ừ, nhưng vẫn lạ lùng. Có nhớ hồi Jake còn ở đó ? San Diego ấy? Steve à, tối nào cậu cũng có thể thổi bay xuống bục. Mà giờ nhìn xem. Đấy gọi là may mắn hay cái gì?”



      “Jake lúc nào cũng là gã đáng mến,” tôi . “Mà về phần tôi tôi mừng khi thấy bất kỳ tay saxophone nào được công nhận.”



      “Công nhận, đúng thế,” Lee . “Mà lại ở ngay đây trong khách sạn này nữa. Để xem, tôi có mang theo đây.” Cậu ta lục trong túi và lôi ra tờ Tuần báo Los Angeles tơi tả. “Ừ, đây rồi. Giải thưởng nhạc Simon và Wesbury. Nghệ sĩ Jazz của năm. Jake Marvell. Xem nào, cái của khỉ này diễn ra lúc nào nhỉ? Ngày mai trong phòng khiêu vũ. Cậu lượn xuống cầu thang là có thể vào dự được buổi lễ.” Cậu ta bỏ tờ báo xuống và lắc đầu. “Jake Marvell. Nghệ sĩ Jazz của năm. Ai mà nghĩ được, hở, Steve?”



      “Tôi nghĩ là tôi xuống dưới nổi đâu,” tôi . “Nhưng tôi nhớ nâng cốc chúc mừng ta.”



      “Jake Marvell. Trời ạ, thế giới này đầu xuống đất rồi hay sao hở?”









      Khoảng tiếng sau bữa trưa, điện thoại đổ chuông và tôi nghe giọng Lindy.



      “Bàn cờ bày rồi, cưng ơi,” bà . “ sẵn sàng chơi chưa? Đừng có nhé, tôi sắp điên lên vì buồn chán rồi. À, mà đừng có quên đấy, đĩa CD của . Tôi háo hức được nghe chơi thế nào.”



      Tôi đặt máy, rồi ngồi xuống mép giường thử tự giải thích cho mình xem làm sao tôi lại vững lập trường hơn. Thực tế là, tôi còn lộ ra chút dấu hiệu ám chỉ từ “” nào. Có thể đấy chỉ là do thói bạc nhược. Hoặc có thể tôi tiếp thụ những lý lẽ của Bradley điện thoại nhiều hơn tôi thừa nhận. Nhưng còn đủ thời gian mà nghĩ về điều đó, vì tôi còn phải chọn xem đĩa nào gây ấn tượng với bà ta nhất. Thứ avant-garde loại hẳn rồi, cũng như cái tôi thu với tụi electro-funk ở San Francisco hồi năm ngoài. Cuối cùng, tôi chỉ nhặt lấy cái thích nhất, thay sơ mi mới, choàng lại áo khoác ra ngoài và qua gõ cửa.









      Bà cũng choàng áo khoác mặc nhà, nhưng đấy là thứ áo có thể mặc đến buổi ra mắt phim mà vẫn phải quá xấu hổ. Tất nhiên, bộ cờ nằm đó cái bàn cà phê kính, và chúng tôi ngồi xuống đối diện như hôm trước và bắt đầu chơi. Có lẽ bởi cả hai đều có việc cho đôi tay, khí lần này có vẻ thoải mái hơn nhiều. Trong lúc chơi, dần dần chúng tôi về đủ thứ chuyện: các chương trình ti vi, những thành phố châu Âu bà thích nhất, đồ ăn Tàu. Lần này tần số nhắc đến các tên tuổi giảm rệt, và bà có vẻ bình tĩnh hơn. Có lúc bà :



      có biết tôi làm gì để khỏi phát điên lên ở chỗ này ? Có biết bí mật lớn của tôi ? Tôi cho nhé, nhưng được hở ra, kể cả với Gracie, đồng ý ? Việc tôi làm là ra ngoài dạo lúc nửa đêm. Chỉ trong khách sạn này thôi, nhưng nó lớn đến nỗi có thể cả đời hết. Và giữa đêm khuya, cảm giác kỳ diệu. Đêm hôm qua tôi phải đến cả giờ phải? phải rất cẩn thận, vẫn có nhân viên khách sạn tuần hai tư hai tư, nhưng tôi chưa bao giờ bị ai thấy cả. Nghe thấy động là tôi chạy ngay và trốn ở đâu đó. Có lần mấy người dọn vệ sinh thấy tôi trong giây, nhưng mới thế tôi tan biến vào bóng đêm! là phấn chấn. Cả ngày là người tù ở đây, rồi lúc ấy gần như hoàn toàn tự do, cảm giác tuyệt vời. Đêm nào đó tôi đưa cùng, cưng ạ. Tôi cho thấy những thứ kỳ diệu. Quầy bar, nhà hàng, phòng hội thảo. Những phòng khiêu vũ tuyệt vời. Và có ai ở đó cả, mọi thứ đều tối mò và vắng vẻ. Và tôi khám phá ra chỗ thiên đường, phòng tầng thượng, tôi nghĩ chắc là phòng tổng thống? Người ta còn xây dở chừng, nhưng tôi tìm thấy và có thể thẳng vào trong, và tôi ở trong đó, hai mươi phút, có khi nửa giờ, suy nghĩ đủ thứ chuyện. Ô, Steve, như thế này được ? Tôi có thể thế này và ăn hậu của ?”



      “Ồ. Được, chắc thế. Tôi nhìn ra. Này, Lindy, bà chơi giỏi hơn nhiều so với bà tỏ ra đấy. Bây giờ tôi phải làm gì?”



      “Được thôi, tôi bảo làm gì. Bởi là khách, và ràng là bị phân tán vì điều tôi , tôi vờ như nhìn thấy nó. Thấy tôi có tốt bụng ? Này, Steve, tôi nhớ tôi hỏi câu này chưa. có gia đình rồi, phải ?”



      “Phải.”



      “Thế ấy nghĩ gì về chuyện này? Ý tôi là, vụ này rẻ. Nghĩ xem ấy có thể mua bao nhiêu đôi giày với số tiền này.”



      ấy vấn đề gì. Thực ra, đây trước hết là ý tưởng của ấy. Xem xem giờ ai phân tâm.”



      “Ôi quỷ sứ. Mà đằng nào tôi cũng chơi chẳng ra gì. Này, tôi có ý tọc mạch, nhưng ấy có đến thăm thường ?”



      “Thực ra là ấy chưa đến lần nào. Nhưng đấy là thỏa thuận từ đầu của chúng tôi, trước khi tôi đến đây.”



      “Thế à?”



      Bà có vẻ bối rối nên tôi bảo: “Nghe cũng kỳ, tôi biết, nhưng đấy là chúng tôi muốn như thế.”



      “Hiểu.” Rồi lúc sau bà : “Thế nghĩa là ai đến đây thăm à?”



      “Tôi cũng có người thăm. , có người vừa đến sáng nay. nhạc công từng chơi cùng tôi.”



      “Ồ thế à? Thế tốt. biết , cưng ạ, tôi bao giờ nhớ được con mã này phải thế nào. Nếu thấy tôi sai cứ , được ? phải là tôi muốn qua mặt đâu.”



      “Tất nhiên rồi.” Rồi tôi : “Cái người đến thăm tôi sáng nay, ta cho tôi biết tin. Nghe cũng lạ lùng. trùng hợp tình cờ.”



      “Thế à?”



      “Có nhạc công saxophone chúng tôi từng quen cách đây vài năm, ở San Diego, người tên Jake Marvell. Có thể bà nghe tiếng ta. Bây giờ ta ở đẳng cao. Nhưng hồi đó, khi chúng tôi quen nhau, ta chưa là gì. Thực ra, ta là tay vờ vĩnh. Loại người bà có thể gọi là dân bịp. Chưa bao giờ nhớ được hết các phím. Và tôi nghe ta chơi gần đây, rất nhiều lần, ta cũng khá hơn. Nhưng ta có vài bước tiến và giờ được coi là mốt. Tôi thề là ta khá hơn mảy may so với hồi trước, tẹo nào. Thế mà bà biết có tin gì ? Chính người này, Jake Marvell, ngày mai ta nhận giải thưởng nhạc lớn, tại ngay khách sạn này. Nghệ sĩ Jazz của năm. là điên rồ, bà hiểu ? Có bao nhiêu tay kèn giỏi, thế mà người ta chọn trao giải cho Jake.”



      Tôi bắt mình dừng, và rời mắt khỏi bàn cờ, khẽ bật cười. “Ta có thể làm được gì chứ?” tôi , nhàng hơn.



      Lindy ngồi thẳng dậy, tập trung hoàn toàn vào tôi. “ tệ quá. Mà người này, ta giỏi à, bảo vậy?”



      “Tôi xin lỗi, tôi hơi quá đà. Họ muốn trao giải cho Jake, tại sao lại ?”



      “Nhưng nếu ta giỏi…”



      ta cũng giỏi như mọi người. Tôi chỉ lung tung thôi. Tôi xin lỗi, bà phải bỏ qua cho tôi.”



      “Này, làm tôi nhớ ra,” Lindy . “ có nhớ mang đĩa sang ?”



      Tôi chỉ cái đĩa để bên cạnh ghế. “Tôi biết bà có thích . Bà bắt buộc phải nghe…”



      “Ôi, nhưng tôi muốn nghe, rất muốn nghe mà. Nào, đưa tôi xem.”



      Tôi đưa bà cái đĩa. “Đấy là ban nhạc tôi chơi cùng ở Pasadena. Chúng tôi chơi những bài cơ bản, swing kiểu cũ, ít bossa nova. có gì đặc biệt, tôi chỉ mang theo vì bà hỏi.”



      ngắm nghía cái bìa đĩa, giơ lên sát tận mặt, rồi lại đưa ra xa. “Thế có ở trong bức ảnh này ?” Bà lại kéo lại gần. “Tôi khá tò mò trông ra sao. Hoặc là đúng hơn, lúc trước trông ra sao.”



      “Tôi đứng thưa hai từ phải qua. Mặc áo chim cò, cầm cái cầu là.”



      “Người này?” Bà ta nhìn cái đĩa, rồi lại nhìn tôi. Rồi bà : “Ồ, trông rất là ngộ.” Nhưng bà , bằng giọng có gì tin tưởng. Thực tế là, tôi nghe ra vẻ thương hại rệt trong đó. Nhưng gần như lập tức, bà hồi lại. “Được rồi, thế ta nghe thôi!”



      Khi bà lại gần bộ dàn Bang & Olufsen, tôi : “Bài số chín. ‘The nearness of you’. Đấy là bài đặc biệt của tôi.”



      “Xin giới thiệu ‘The nearness of you’.”



      Tôi chọn bài này sau lúc suy nghĩ. Các nhạc công trong ban đó đều là loại xịn. Xét từng người chúng tôi đều có những tham vọng thuộc loại cấp tiến, nhưng khi họp lại thành ban nhạc chúng tôi xác định mục đích là chơi những bản đỉnh cao trong số nhạc thịnh hành, loại nhạc mà công chúng trong các phòng ăn tối sang trọng muốn nghe. Bản ‘The nearness of you’ của chúng tôi - với tiếng tenor của tôi từ đầu đến cuối - hẳn là trời vực so với lãnh địa của Tony Gardner, nhưng tôi vẫn luôn thực tình hãnh diện với nó. Có thể nghĩ nghe bài này chơi theo mọi kiểu phối khí đời. Chậc, nếu thế hãy nghe thử chúng tôi xem. Hãy nghe, chẳng hạn như lời hai ấy. Hoặc nghe đoạn chúng tôi vừa kết thúc đoạn điệp khúc, khi cả ban chuyển từ hợp III-5 sang VIx-9 trong lúc tôi lên đến những quãng bao giờ tin là có tồn tại và rồi ngân mãi ở nốt si giáng dịu dàng, rất đỗi mỏng manh. Tôi nghĩ ở đó có những sắc độ, những nỗi khát khao và nuối tiếc mà chưa bao giờ thấy trước đây.



      Thế nên có thể thấy tôi khá tự tin rằng đĩa này được Lindy tán thưởng. Và trong khoảng phút đầu, trông bà vẫn có vẻ thích thú. Bà đứng đó sau khi bỏ đĩa vào máy, và cũng như lần bật đĩa của chồng bà cho tôi nghe, bà bắt đầu đu đưa nhè theo tiết tấu chậm rãi. Nhưng rồi cử động của bà mất dần nhịp điệu, tới khi bà đứng im phăng phắc, lưng quay về phía tôi, đầu gục xuống như cố tập trung. Lúc đầu tôi chưa thấy đây là dấu hiệu xấu. Chỉ đến khi bà quay người bước trở lại và ngồi xuống trong lúc nhạc vẫn còn vang dội, tôi mới nhận ra có gì ổn. Qua lớp băng quấn, tất nhiên, tôi nhìn được nét mặt bà, nhưng cái vẻ bà ngồi thụp vào xô pha, như ma nơ canh căng thẳng, phải là điềm tốt.



      Khi bài hát dừng, tôi nhặt điều khiển và tắt máy. Trong lúc lâu lâu, bà ngồi nguyên như thế, cứng đờ và lúng túng. Rồi bà hơi nhổm người lên và bắt đầu mân mê quân cờ.



      “Bản nhạc rất hay,” bà . “Cám ơn cho tôi nghe.” Nghe rất sáo mòn, và bà có vẻ cũng bận tâm giấu điều đó.



      “Có lẽ đấy phải típ của bà.”



      , .” Giọng bà trở nên hờn dỗi và lặng lẽ. “Bài hát rất hay. Cảm ơn cho tôi nghe.” Bà đặt quân cờ xuống ô, rồi : “Đến lượt .”



      Tôi nhìn bàn cờ, thử nhớ xem chúng tôi đến đâu. Sau lúc, tôi nhàng hỏi: “Có lẽ bài đó, nó có những liên tưởng đặc biệt với bà chăng?”



      Bà nhìn lên và tôi cảm thấy cơn giận dữ qua lớp băng. Nhưng bà vẫn lặng lẽ như trước: “Bài ấy à? có liên tưởng gì cả. có đâu.” Bỗng nhiên bà bật cười - tiếng cười ngắn, lạnh lùng. “Ồ, là liên tưởng với ông ấy, với Tony à? , . Nó ở trong số những bài ông ấy hát. chơi hay lắm. Rất chuyên nghiệp.”



      “Rất chuyên nghiệp? Như thế có nghĩa là thế nào?”



      “Nghĩa là… là nó thực chuyên nghiệp. Tôi nghĩ đấy là lời khen.”



      “Chuyên nghiệp à?” Tôi đứng dậy, bước qua phòng và lấy đĩa ra khỏi máy.



      “Có gì mà bực tức thế?” Giọng bà vẫn xa vắng lạnh lùng. “Tôi gì sai à? Tôi xin lỗi. Tôi chỉ cố lịch .”



      Tôi quay lại bàn, bỏ đĩa vào vỏ, nhưng ngồi xuống.



      “Thế chúng ta có chơi nốt ?” bà hỏi.



      “Nếu bà phiền, tôi còn vài việc phải làm. Gọi điện. Giấy tờ nữa.”



      “Có gì mà bực tức thế? Tôi hiểu.”



      “Tôi bực tức gì cả. muộn rồi, thế thôi.”



      Ít nhất bà cũng đứng lên tiễn tôi ra cửa, trước khi chúng tôi chào nhau bằng cái bắt tay lạnh lẽo.









      Tôi là giờ giấc ngủ của tôi lộn tùng bậy cả sau ca mổ. Chiều hôm đó tôi bất chợt thấy mệt, ngủ sớm, ngủ yên lành được vài giờ, rồi tỉnh dậy giữa đêm mà tài nào ngủ lại được. lúc sau tôi trở dậy bật ti vi. Có bộ phim tôi xem hồi còn bé, nên tôi kéo ghế xem nốt phần còn lại, để tiếng . Khi phim hết tôi xem tiếp hai giảng sư quát tháo nhau trước bầy khán giả hú lên. chung, tôi cảm thấy bằng lòng. Tôi thấy dễ chịu và tưởng như ở cách thế giới bên ngoài hàng vạn dặm. Thế nên tim tôi chỉ thiếu nước nhảy khỏi lồng ngực khi điện thoại reo.



      “Steve? đấy phải ?” Đấy là Lindy. Giọng bà là lạ và tôi nghĩ hiểu có phải bà vừa uống rượu .



      “Vâng, tôi đây.”



      “Tôi biết là muộn rồi. Nhưng vừa nãy lúc qua, tôi thấy đèn phòng vẫn sáng dưới khe cửa. Tôi nghĩ là khó ngủ, giống tôi.”



      “Tôi nghĩ thế. Ở đây khó giữ được giờ giấc bình thường.”



      “Phải. Rất khó.”



      “Mọi thứ vẫn ổn chứ?” tôi hỏi.



      “Tất nhiên. Cái gì cũng ổn. Cực kỳ ổn.”



      Tôi nhận ra phải bà ta say, nhưng thể đoán nổi có chuyện gì với bà ta. Bà ta chắc cũng phải ngấm thuốc - chỉ là tỉnh táo quá mức và có thể hưng phấn vì điều gì đó muốn kể cho tôi.



      “Bà có chắc là mọi thứ ổn ?” tôi hỏi lần nữa.



      “Có, ổn mà, nhưng mà… Này, cưng ơi, tôi có cái này, cái này tôi muốn tặng cho .”



      “Thế à? Là cái gì vậy?”



      “Tôi muốn . Tôi muốn tạo bất ngờ.”



      “Có vẻ thú vị lắm. Tôi qua nhận, có lẽ là sau bữa sáng?”



      “Tôi trông đợi là qua lấy nó bây giờ cơ. Ý tôi là, nó ở ngay đây, và còn thức và tôi cũng thức. Tôi biết là muộn rồi, nhưng mà… Nghe này, Steve, chuyện lúc trước ấy, chuyện vừa xảy ra ấy. Tôi nghĩ mình nợ lời giải thích.”



      “Thôi bỏ . Tôi phiền…”



      bực tức với tôi vì nghĩ tôi thích nhạc của . Ồ, phải thế. là ngược lại, ngược hoàn toàn. Bài cho tôi nghe ấy, bài ‘Nearness of you’ ấy? Tôi tài nào dứt nó khỏi đầu mình. , phải đầu, mà là tim. Tôi tài nào dứt nó khỏi tim tôi.”



      Tôi biết phải trả lời thế nào, và trước khi tôi nghĩ ra lại .



      có sang ? Sang ngay bây giờ? Rồi tôi giải thích lại cẩn thận. Và quan trọng nhất là… , , tôi đâu. Đấy bất ngờ. Sang đây rồi thấy. Và mang cả đĩa của lại nữa. Đồng ý nhé?”









      Bà cầm lấy cái đĩa tay tôi ngay khi mở cửa, như thể tôi chỉ là người chuyển hàng, nhưng rồi tóm lấy cổ tay tôi dẫn vào. Lindy vẫn mặc chiếc áo choàng ở nhà hồi sáng, nhưng lúc này có vẻ phẳng phiu sạch bằng: vạt áo buông thấp hơn vạt kia, và có túm bông lù xù dính vào lớp băng đằng sau gần cổ áo.



      “Tôi đoán là bà vừa mới làm chuyến dạo ban đêm về,” tôi .



      “Tôi mừng là còn thức. Tôi biết mình có đợi nổi đến sáng . Giờ nghe nhé, như tôi , tôi có bất ngờ cho . Tôi hy vọng thích, tôi nghĩ là thích. Nhưng đầu tiên tôi muốn ngồi thoải mái . Chúng ta nghe lại bài hát của . Để tôi xem nào, bài số mấy nhỉ?”



      Tôi ngồi xuống xô pha chỗ thường lệ và nhìn bà chộn rộn quanh dàn loa. Trong phòng ánh sáng dịu dịu, và khí lạnh cách dễ chịu. Rồi ‘The nearness of you’ bật lên hết cỡ.



      “Bà có nghĩ làm phiền người khác ?” tôi .



      “Mặc xác họ. Chúng ta trả đống tiền cho chỗ này, đấy phải vấn đề của chúng ta. Giờ yên nào! Nghe , nghe !”



      Bà lại bắt đầu đung đưa theo tiếng nhạc như lúc trước, chỉ có lần này dừng lại sau khổ. Thực tế là dường như càng lúc bà càng chìm đắm vào tiếng nhạc, tay đưa ra như ôm bạn nhảy tưởng tượng. Khi nhạc hết, bà tắt và đứng lặng yên, ở đầu kia phòng quay lưng lại tôi. Bà đứng như thế trong lúc có vẻ lâu, rồi cuối cùng cũng lại phía tôi.



      “Tôi biết phải gì,” bà . “ là siêu phàm. nghệ sĩ tuyệt diệu, tuyệt diệu. thiên tài.”



      “Vâng, cám ơn.”



      “Tôi biết ngay lần đầu tiên. Đấy là thực. Đấy là lý do vì sao tôi phản ứng như thế. Giả vờ thích nó, giả vờ kênh kiệu à?” Bà ngồi xuống trước mặt tôi và thở dài. “Tony vẫn thương mắng mỏ tôi vì thế. Tôi luôn luôn làm thế, đấy hình như là tật tôi tài nào chữa được. Cứ hễ tôi gặp phải người, hiểu đấy, người thực có tài, người đơn giản là được Chúa ban cho như thế, là tôi đừng được, phản xạ đầu tiên là tôi làm như làm với . Đấy chỉ là, tôi biết, tôi nghĩ là thói ghen tị. Cũng như số người đàn bà thỉnh thoảng thấy, những người mấy nhan sắc ấy? người đẹp bước vào phòng, thế là họ căm ghét, họ muốn cào toạc mặt ta. Đấy là tôi mỗi lần tôi gặp người như . Nhất là nếu lại đề phòng, như là hôm nay và tôi chưa sẵn sàng. Ý tôi là, ngồi đây, phút trước tôi còn nghĩ chẳng qua là người trong công chúng, rồi bỗng nhiên là… chà, thứ khác hẳn. có hiểu tôi ? Tóm lại , tôi chỉ cố làm hiểu tại sao tôi lại cư xử tệ như thế hồi chiều. có toàn quyền nổi giận với tôi.”



      Nghe tiếng tĩnh mịch buổi đêm giữa chúng tôi lúc. “Ừm, tôi cám ơn,” cuối cùng tôi . “Cám ơn bà cho tôi biết.”



      Bà thình lình đứng dậy. “Bây giờ, đến bất ngờ! cứ đợi đấy, đừng đâu cả.”



      sang phòng bên và tôi nghe tiếng bà đóng mở ngăn kéo. Khi quay lại, bà cầm vật gì đó trước mặt trong cả hai tay, nhưng tôi nhìn thấy là vì bà phủ lên chiếc khăn lụa. Bà đứng lại giữa phòng.



      “Steve, tôi muốn đến đây nhận lấy. Đây buổi tặng thưởng.”



      Tôi hiểu gì, nhưng cũng đứng dậy. Khi tôi đến, bà kéo chiếc khăn ra và giơ cho tôi món đồ tí xíu bằng đồng.



      hoàn toàn xứng đáng được nhận. Nên nó là của . Nghệ sĩ Jazz của năm. Có lẽ còn của mọi thời đại. Xin chúc mừng.”



      Bà đặt nó vào tay tôi và hôn phớt lên má tôi qua lớp vải.



      “Ồ, cảm ơn. Đây đúng là bất ngờ. Ô, cái này xinh . Nó là gì đấy? Con cá sấu à?”



      “Cá sấu? Trời ơi! Đây là đôi thiên sứ xinh xẻo hôn nhau.”



      “Ờ đúng, tôi thấy rồi. Ừm, cám ơn, Lindy. Tôi biết phải gì. Thực là rất đẹp!”



      “Cá sấu!”



      “Tôi xin lỗi. Chẳng qua là vì cậu này có cái chân duỗi ra đến tận đây. Nhưng giờ tôi thấy rồi. Đẹp lắm.”



      “Ừ, của đấy. hoàn toàn xứng đáng.”



      “Tôi rất cảm động, Lindy. đấy. Thế còn dưới này viết gì? Tôi mang kính.”



      “Viết ‘Nghệ sĩ Jazz của năm’. Thế còn viết gì được nữa?”



      “Nó viết thế à?”



      “Tất nhiên, nó viết thế đấy.”



      Tôi quay lại xô pha, cầm bức tượng , ngồi xuống và suy nghĩ lúc. “Thế này, Lindy,” cuối cùng tôi . “Cái món quà bà vừa tặng tôi này. thể nào có chuyện, phải , là bà bắt gặp nó trong chuyến dạo chơi ban đêm thường lệ chứ?”



      “Có chứ. Tất nhiên là có thể.”



      “Tôi hiểu. Và thể nào có chuyện đây là đồ , phải ? Ý tôi là cái kỷ niệm chương người ta trao cho Jack ngày mai?”



      Lindy trả lời trong vài giây, chỉ đứng yên ở đó. Rồi bà :



      “Tất nhiên đây là đồ . Có ý nghĩ gì, nếu tặng món đồ cũ kỹ nào đó? việc bất công sắp diễn ra, nhưng bây giờ công lý chiến thắng. Đấy là điều quan trọng nhất. Này, cưng, tươi lên. biết mới là người xứng đáng nhận giải này mà.”



      “Tôi rất trân trọng quan điểm của bà. Chỉ có điều là… ừm, việc này có vẻ như ăn trộm.”



      “Ăn trộm à? Chẳng phải chính người này chẳng giỏi giang gì à? Chỉ là đồ giả? Còn là thiên tài. Ai ăn trộm của ai ở đây chứ?”



      “Lindy, chính xác bà lấy được cái này ở đâu?”



      Bà nhún vai. “ nơi nào đó. trong những nơi tôi qua. văn phòng, gọi thế cũng được.”



      “Tối nay à? Bà vừa lấy nó tối nay?”



      “Tất nhiên tôi lấy nó tối nay. Tối qua tôi đâu có biết về cái giải thưởng của .”



      “Được rồi, được rồi. Thế nghĩa là cách đây khoảng tiếng, phải ?”



      tiếng. Có thể hai. Ai biết được? Tôi ߠngoài đó khá lâu. Tôi còn vào phòng tổng thống của tôi lúc.”



      “Chúa ơi.”



      “Xem này, ai quan tâm chứ? lo lắng gì nào? Họ mất cái này, họ có thể lấy cái khác. Họ chắc phải có cả tủ cất đâu đó. Tôi trao tặng thứ đáng nhận. từ chối đâu, phải , Steve?”



      “Tôi từ chối đâu, Lindy. Tình cảm của bà, vinh dự này, mọi điều đó tôi xin nhận, tôi rất vui vì những điều đó. Nhưng cái này, cái biểu trưng này. Chúng ta phải trả nó về chỗ cũ. Chúng ta phải để lại đúng nơi bà thấy.”



      “Mặc kệ họ! Ai quan tâm chứ?”



      “Lindy, bà chưa nghĩ đến nơi đến chốn. Bà làm gì khi chuyện này lộ ra? Bà có thể tưởng tượng báo chí làm gì ? Tưởng tượng đến những lời bàn tán, đến vụ bê bối? Công chúng của bà gì? Nào thôi. Chúng ta ngay bây giờ trước khi có người thức dậy. Bà chỉ cho tôi chính xác bà tìm thấy nó ở đâu.”



      Bà bỗng có vẻ mặt như đứa trẻ vừa bị mắng. Rồi bà thở dài và bảo: “Tôi nghĩ đúng, cưng ạ.”









      Khi chúng tôi đồng ý mang trả rồi, Lindy chuyển sang thái độ chiếm hữu cao độ, khư khư giữ lấy nó trước ngực suốt trong lúc chúng tôi vội vã qua những hành lang trong khách sạn rộng lớn thiêm thiếp. Bà dẫn đường xuống các cầu thang mật, theo những đường sau, qua các phòng tắm hơi và máy bán hàng. Chúng tôi nhìn cũng nghe thấy ai. Rồi Lindy thầm: “Lối này,” và chúng tôi đẩy hai cánh cửa nặng nề vào nơi tối tăm.



      Khi chắc chắn chỉ có chúng tôi ở đây, tôi bật đèn pin mang theo từ phòng Lindy chiếu quanh phòng. Chúng tôi ở phòng khiêu vũ, dù nếu lúc này có ý nhảy nhót gặp vấn đề với những bàn tiệc khắp phòng, cái nào cũng trải khăn bàn trắng và ghế đồng bộ. Giữa trần có bộ đèn chùm cầu kỳ. Đằng xa là bục sân khấu, có lẽ đủ rộng cho tmục cỡ vừa, dù lúc này màn hạ che kín bục. Có người bỏ lại chiếc thang xếp giữa phòng và máy hút bụi dựng cạnh tường.



      có tiệc ở đây,” bà . “Bốn trăm, năm trăm người gì đó phải.”



      Tôi vào sâu hơn và lại lia đèn quanh phòng lần nữa. “Có thể phải là địa điểm này. Nơi họ trao giải cho Jake.”



      “Tất nhiên là ở đây. Khi tôi thấy cái này” – bà giơ bức tượng lên – “còn có cả những cái khác. Tài năng mới. An bum R&B của năm. Đại loại như thế. kiện rất to đấy.”



      Bây giờ mắt điều hòa lại, tôi nhìn nơi này hơn, dù ánh đèn pin sáng lắm. Và trong lúc, khi đứng đó nhìn lên sân khấu, tôi có thể hình dung nơi này lúc ấy trông thế nào. Tôi hình dung lớp lớp người quần áo cầu kỳ, đại diện các hãng thu , các nhà tổ chức kiện cỡ bự, vài tên tuổi làng showbiz, cười chúc tụng lẫn nhau; tiếng vỗ tay thành thực đến xun xoe mỗi lần MC nhắc tên nhà tài trợ; vỗ tay to hơn nữa, lần này cộng thêm hú hét chào mừng, khi người nhận giải lên. Tôi hình dung Jake Marvell bục ấy, ôm giải thưởng trong tay, với nụ cười tự mãn như hồi ở San Diego mỗi lần ta kết thúc đoạn solo và khán giả hoàn thành việc đập hai tay vào nhau.



      “Có lẽ chúng ta lầm,” tôi . “Có lẽ việc gì phải đem trả lại. Có lẽ chúng ta nên ném nó vào sọt rác. Và tất cả những giải khác bà tìm thấy vào cùng.”



      “Ồ?” Lindy có vẻ bối rối. “ muốn làm thế à, cưng ơi?”



      Tôi thở dài. “, chắc là . Nhưng làm thế mình rất… sung sướng, phải ? Tất cả giải thưởng vào sọt rác. Tôi cá từng người trong số nhận giải ấy đều là đồ giả. Tôi cá toàn bộ họ cộng lại cũng đủ tài năng để nhồi cái bánh kẹp xúc xích.”



      Tôi đợi Lindy đáp lại, nhưng nghe thấy gì. Rồi đến lúc bà cất tiếng, trong giọng bà có sắc mới, có vẻ căng hơn.



      “Làm sao biết vài người trong số họ có tài? Làm sao biết vài người trong số họ đáng nhận giải?”



      “Làm sao tôi biết à?” Bỗng nhiên tôi chợt nổi cáu. “Làm sao tôi biết à? Ồ, cứ nghĩ xem. Cái hội đồng coi Jake Marvell là nghệ sĩ jazz nổi trội nhất trong năm. Họ còn tôn vinh những loại người nào khác nữa?”



      “Nhưng biết những gì về những người này? Ngay cả về cái người tên Jake này. Làm sao biết ta thực nỗ lực để đạt được như tại?”



      “Thế là thế nào? Bà trở thành fan ruột của Jake rồi à?”



      “Tôi chỉ phát biểu ý kiến mình thôi.”



      “Ý kiến của bà? Vậy giờ ý kiến bà là thế à? Tôi nghĩ lẽ ra mình nên ngạc nhiên. Trong lúc, tôi quên mất bà là ai.”



      “Như thế nghĩa là thế quái gì chứ? Sao dám ăn với tôi như vậy?”



      Tôi nhận ra mình mất tự chủ. Tôi đáp nhanh: “Được rồi, tôi quá đà. Tôi xin lỗi. Giờ chúng ta hãy tìm cái văn phòng thôi.”



      Lindy trở nên im lặng, và khi quay lại nhìn bà, ánh sáng đủ cho tôi đoán bà nghĩ gì.



      “Lindy, cái văn phòng ở đâu? Chúng ta phải tìm được nó.”



      Cuối cùng, bà cũng giơ bức tượng chỉ về cuối phòng, rồi dẫn đường qua những dãy bàn, vẫn tiếng. Khi đến bên cửa, tôi áp tai vào cửa lúc, và khi nghe thấy gì mới thận trọng đẩy cửa.



      Chúng tôi ở trong phòng dài và hẹp hình như chạy song song với phòng khiêu vũ. Vẫn còn ngọn đèn lờ mờ ở đâu đó, vừa đủ cho chúng tôi thấy đường mà cần đèn pin. Đây ràng phải văn phòng mà tôi tìm kiếm, mà là khu vực nửa quầy phục vụ, nửa nhà bếp. Những mặt quầy dài và rộng chạy dọc hai bên tường, để lại lối ở giữa đủ rộng cho đầu bếp tô điểm những nét cuối cho món ăn.



      Nhưng Lindy có vẻ thông thạo nơi này và bước nhanh quả quyết qua lối giữa. Nửa đường, bà bất chợt dừng lại xem xét khay bánh còn lại quầy.



      “Ô, bánh quy này!” Bà có vẻ hoàn toàn trở lại thư thái. “Tệ quá, lại bọc ni lông cả. Tôi đói mềm người rồi. Hê! Xem thử trong này là cái gì.”



      Bà bước thêm vài bước nữa, đến cái nắp hình vòm, liền nhấc lên. “Nhìn này cưng ơi. Cái này trông ngon quá mất!”



      cúi người con gà tây quay mũm mĩm. Thay vì đậy lại nắp, bà cẩn thận đặt nó xuống bên cạnh.



      có nghĩ họ bực nếu tôi rút chân ?”



      “Tôi nghĩ họ bực lắm, Lindy ạ. Nhưng kệ xác.”



      “Em bé này to quá. muốn chia với tôi chân ?”



      “Được, sao lại ?”



      “Được rồi. nào.”



      Bà đưa tay về phía con gà. Rồi bỗng bà đứng thẳng lên và quay lại nhìn tôi.



      “Thế điều lúc nãy nghĩa là thế nào?”



      “Cái gì nghĩa là thế nào?”



      “Cái điều vừa ấy. ngạc nhiên. Về ý kiến của tôi. Như thế nghĩa là thế nào?”



      “Nào, tôi xin lỗi. Tôi có ý xấu. Chỉ là tôi nghĩ thành tiếng, thế thôi.”



      “Nghĩ thành tiếng à? Vậy nghĩ thành tiếng thêm chút nữa ? Tôi bảo có lẽ vài người trong số họ xứng đáng nhận giải, câu đó có gì ngớ ngẩn nào?”



      “Thế này, tôi chỉ điều là có những người ra gì lại được giải thưởng. Thế thôi. Nhưng có lẽ bà biết hơn. Bà nghĩ đấy phải điều xảy ra…”



      “Nhiều người trong số họ có khi làm việc quần quật để tới được như tại. Và có thể họ cũng đáng được chút công nhận nhoi. Vấn đề với những người như là, chỉ vì Chúa ban tặng tài năng đặc biệt cho , nghĩ như thế là có quyền được mọi thứ. Là hơn hẳn tất cả mọi người, là đáng đứng hàng đầu mọi nơi mọi lúc. thấy có hàng đống người kém may mắn hơn phải làm việc vất vả để có chỗ đứng đời…”



      “Thế bà nghĩ tôi vất vả chứ gì? Bà nghĩ tôi chỉ ngồi lê cả ngày chắc? Tôi đổ mồ hôi sôi nước mắt để làm ra thứ có giá trị, thứ đẹp đẽ, rồi ai là người được công nhận? Jake Marvell! Những người như bà!”



      “Làm sao dám…! Tôi liên quan gì đến cái này? Có phải tôi nhận giải hôm nay ? ai cho tôi cái giải gì bao giờ chưa? Có bao giờ tôi được nhận, kể cả hồi học, cái giấy của nợ gì về hát hò nhảy múa hay thứ chết tiệt gì khác? có! có bao giờ! Tôi phải giương mắt nhìn tất cả, cả đám khốn nạn nhà , lên đó, vác giải về, và bố mẹ các vỗ tay…”



      có giải? có giải? Nhìn bà xem! Ai là người được nổi tiếng? Ai là người được nhà to…”



      Đúng lúc đó có người bật công tắc và chúng tôi đứng chớp mắt nhìn nhau trong luồng ánh sáng gắt. Có hai người vào theo cùng lối chúng tôi vào, và giờ lại gần chúng tôi. Lối ở giữa chỉ đủ để họ chen vai bước lên. ông da đen khổng lồ mặc đồng phục bảo vệ khách sạn, trong tay cầm vật lúc đầu tôi nghĩ là súng nhưng nhận ra chỉ là máy bộ đàm. Bên cạnh là ông da trắng hơn mặc sơ mi xanh nhạt với mái tóc đen bóng lộn. Cả hai trông đều có ý định tỏ ra lịch thiệp. Họ dừng lại cách chúng tôi khoảng hai mét, rồi ông hơn rút thẻ khỏi túi áo.



      “Sở cảnh sát Los Angeles,” ông ta . “Morgan.”



      “Hân hạnh làm quen,” tôi .



      Trong lúc viên cảnh sát và bảo vệ chỉ nhìn chúng tôi im lặng. Rồi ông ta hỏi:



      “Khách nghỉ ở đây?”



      “Vâng,” tôi đáp. “Chúng tôi ở đây.”



      Tôi cảm thấy chất vải mềm áo Lindy cọ khẽ vào lưng. Rồi bà nắm lấy cánh tay tôi và chúng tôi đứng sánh vai nhau.



      “Chào buổi đêm, ngài cảnh sát,” bà bằng giọng uể oải, êm ru chẳng giống gì lệ thường.



      “Chào buổi đêm, thưa bà,” viên cảnh sát . “Ông bà có lý do đặc biệt gì để thức giấc giờ này ?”



      Chúng tôi cùng lên tiếng trả lời lúc, rồi cùng bật cười. Nhưng hai người kia cười cũng nhếch mép.



      “Chúng tôi chỉ khó ngủ,” Lindy . “Thế nên chúng tôi dạo loanh quanh.”



      dạo loanh quanh.” Viên cảnh sát nhìn quanh trong ánh sáng trắng lòa. “Có lẽ tìm xem có gì ăn được nữa.”



      “Đúng rồi đấy, thưa ngài sĩ quan!” Lindy vẫn giữ cái giọng khó tả. “Chúng tôi cảm thấy hơi đói, chắc ngài cũng biết cái cảm giác giữa đêm khuya.”



      “Tôi nghĩ là phục vụ phòng chất lượng lắm,” viên cảnh sát .



      , chẳng được gì,” tôi .



      “Chỉ có những thứ thông thường,” viên cảnh sát . “Thịt nướng, pizza, humburger, bánh kẹp ba tầng. Tôi biết vì chính tôi cũng vừa gọi phục vụ phòng ca đêm. Nhưng có thể ông bà thích mấy loại đó.”



      “Ôi, ông hiểu vì sao mà, thưa ngài sĩ quan,” Lindy . “ Vấn đề ở cái thú. Cái thú được lẻn ra ngoài và cắn miếng, ngài hiểu , miếng đồ cấm, cũng như hồi còn bé?”



      Cả hai đều tỏ dấu hiệu mủi lòng. Nhưng viên cảnh sát :



      “Xin lỗi phải làm phiền ông bà. Nhưng ông bà cũng hiểu khu vực này dành cho khách. Và có hai món đồ bị mất vừa đây xong.”



      à?”



      “Phải. Ông bà có thấy gì bất thường hay khả nghi đêm nay ?”



      Lindy và tôi nhìn nhau, rồi bà lắc đầu lực với tôi.



      ,” tôi . “Chúng tôi thấy gì bất thường cả.”



      có chút gì à?”



      Người bảo vệ bước đến gần hơn, và lúc này bước qua chúng tôi, ép người lách qua quầy. Tôi nhận ra mục đích là để ông ta kiểm tra được chúng tôi gần hơn, để xem liệu chúng tôi có giấu gì người , trong lúc người kia giữ chúng tôi tiếp tục .



      , có gì cả,” tôi . “Ông nghĩ có thể là chuyện gì?”



      “Những người khả nghi. Hoạt động trái khoáy.”



      “Ngài sĩ quan, có phải ý ông là,” Lindy kêu lên kinh hoảng, “có phòng ai bị đột nhập phải ?”



      hẳn thế, thưa bà. Nhưng số đồ vật giá trị mất tích.”



      Tôi có thể cảm thấy người bảo vệ dịch chuyển đằng sau chúng tôi.



      “Vì thế ông mới ở đây với chúng tôi,” Lindy . “Để bảo vệ con người và tài sản của chúng tôi.”



      “Đúng thế, thưa bà.” Ánh mắt viên cảnh sát chuyển hướng ly và tôi có cảm giác ông ta vừa giao mắt với người bảo vệ đằng sau lưng tôi. “Thế nên nếu bà có thấy gì bất thường, làm ơn gọi ngay cho bảo vệ.”



      Cuộc vấn đáp có vẻ đến đây là hết và viên cảnh sát đứng lùi bên cho chúng tôi ra. người, tôi cất bước định , nhưng Lindy :



      “Tôi nghĩ là chúng tôi cũng khá hư, xuống đây tìm cái ăn thế này. Chúng tôi định tự tiện lấy miếng bánh ga tô đằng kia, nhưng rồi nghĩ chắc nó dành cho dịp đặc biệt và làm hỏng nó đáng trách.”



      “Phục vụ phòng ở khách sạn này tốt lắm,” viên cảnh sát . “Hai tư hai tư.”



      Tôi giật tay Lindy, nhưng giờ có vẻ bà buông mình cho cơn gàn dở người ta hay tới, khi kẻ có tội vờn quanh cái nguy cơ bị phát .



      “Và chính ngài cũng vừa gọi lên, phải ngài sĩ quan?”



      “Vâng.”



      “Và đồ ăn có được ?”



      “Khá được. Tôi khuyên ông bà cũng nên làm thế.”



      “Để yên cho các ngài ấy tiếp tục điều tra nào,” tôi và giật tay bà. Nhưng bà chịu thua.



      “Ngài sĩ quan, tôi hỏi điều được ?” bà . “Ngài có phiền ?”



      “Bà cứ hỏi.”



      “Ngài vừa về chuyện thấy gì đó bất thường. Thế ngài có thấy gì bất thường ? Về chúng tôi ấy?”



      “Tôi hiểu bà gì, thưa bà.”



      “Như là cả hai chúng tôi mặt đều quấn kín băng này? Ngài có để ý thấy ?”



      Viên cảnh sát nhìn chúng tôi kỹ, như để kiểm định lại nhận xét của bà. Rồi ông ta : “Thực tình là tôi có nhận thấy, thưa bà, có. Nhưng tôi muốn phát biểu nhằm vào cá nhân.”



      “Ồ, tôi hiểu,” Lindy . Rồi quay sang tôi: “Chẳng phải là ngài sĩ quan đây tế nhị lắm sao?”



      thôi,” tôi , nắm tay bà kéo lực. Tôi còn cảm thấy cả hai người nhìn theo sau lưng suốt tới lối ra.









      Chúng tôi qua phòng khiêu vũ với vẻ ngoài bình tĩnh. Nhưng khi qua cánh cửa đôi, chúng tôi đầu hàng cơn sợ hãi và gần như co cẳng chạy. Vẫn khoác tay nhau, chúng tôi hết đâm sầm vào nhau lại ngã dúi dụi trong lúc Lindy dẫn đường tôi qua khách sạn. Rồi bà lôi tôi vào buồng thang máy dành cho nhân viên, và chỉ khi cửa đóng và thang chạy lên bà mới buông ra, tựa lưng vào vách thang kim loại mà phát ra chuỗi tiếng kêu kỳ dị, tôi nhận ra đó là tiếng cười điên dại qua bộ lọc của lớp băng quấn.



      Khi chúng tôi ra khỏi thang máy, bà lại khoác lấy tay tôi. “Được rồi, an toàn rồi,” bà . “Bây giờ tôi muốn đưa đến chỗ này. Đây thực chỗ đáng kể. Nhìn xem?” Bà giơ chiếc thẻ phòng lên. “Để xem nó làm được những gì.”



      Bà dùng chiếc thẻ mở cánh cửa có biển “ nhiệm vụ miễn vào”, rồi cửa “Nguy hiểm. vào”. Và chúng tôi đứng giữa nơi đầy mùi sơn và vữa. Các loại dây thả xuống lủng lẳng trần và tường, sàn nhà lạnh còn sũng nước và ố bẩn. Chúng tôi nhìn được vì vách tường phòng toàn bằng kính - chưa có màn hay rèm cửa gắn vào - và đèn đường bên ngoài hắt khắp phòng những vệt vàng dìu dịu. Chúng tôi còn ở cao hơn tầng mình nữa: trước mặt là toàn cảnh đường cao tốc và vùng lân cận, như nhìn từ trực thăng.



      “Đây phòng tổng thống mới,” Lindy . “Tôi rất thích đến đây. Vẫn chưa có đèn, chưa có thảm. Nhưng nó dần dần thành hình. Lần đầu tôi thấy, nó còn sơ sài hơn nhiều. Bây giờ thấy dáng vẻ chung của nó. Còn có cả cái văng này nữa.”



      Ở giữa phòng có vật lù lù trùm vải lên . Lindy tới như người quen cũ và thả mình xuống mệt mỏi.



      “Tôi có giấc mơ,” bà , “nhưng tôi gần như tin vào nó. Người ta xây phòng này chỉ để cho tôi. Vì thế tôi mới vào được đây. Toàn bộ việc này. Đấy là vì họ muốn giúp tôi. Giúp tôi xây dựng tương lai. Chỗ này lúc trước cực kỳ hỗn độn. Nhưng giờ nhìn xem. Nó định hình. Rồi ra nó tuyệt lắm.” Bà vỗ lên mặt ghế cạnh mình. “Lại đây, cưng, ngồi nghỉ chút . Tôi thấy rã rời cả người. Chắc cũng vậy.”



      Cái văng - hoặc bất kỳ cái gì nằm dưới tấm vải - êm ái đến ngạc nhiên, và ngay khi ngồi xuống, tôi thấy cơn mệt mỏi đổ ập lên mình.



      “Ôi trời. Tôi buồn ngủ quá mất,” bà , và tôi thấy sức nặng của bà tì lên vai. “Chỗ này có tuyệt ? Tôi thấy cái thẻ trong ổ khóa, khi lên đây lần đầu tiên.”



      Chúng tôi im lặng lúc, và tôi thấy mình lơ mơ ngủ. Nhưng rồi tôi nhớ ra điều.



      “Này, Lindy.”



      “Ưm?”



      “Lindy. Cái giải thưởng thế nào rồi?”



      “Cái giải thưởng? À ờ. Cái giải thưởng. Tôi giấu nó rồi. Tôi còn làm gì được? biết , cưng ạ, xứng đáng nhận cái giải đó. Tôi hy vọng cũng thấy có ý nghĩa gì, việc tôi trao giải cho tối nay ấy, cách tôi làm. Đấy phải là thói ngông trong phút chốc đâu. Tôi suy nghĩ chuyện đó. Tôi nghĩ rất là kỹ. Tôi biết nó có ý nghĩa nhiều với . Tôi biết liệu mười hay hai mươi năm nữa có còn nhớ nó .”



      “Tôi nhớ, tất nhiên rồi. Và nó có ý nghĩa nhiều lắm. Nhưng Lindy này, bà bảo bà giấu nó, nhưng ở đâu? Bà giấu nó ở đâu?”



      “Ừm?” Bà lại gà gật. “Tôi giấu nó ở chỗ duy nhất giấu được. Tôi nhét nó vào con gà tây.”



      “Bà nhét nó vào con gà tây.”



      “Tôi làm việc y hệt lần hồi lên chín. Tôi giấu quả bóng dạ quang của chị tôi trong con gà tây. Nhờ thế tôi mới nghĩ ra lúc ấy. Tôi nhanh trí nhỉ, phải ?”



      “Phải, tất nhiên rồi.” Tôi thấy mệt kinh khủng, nhưng buộc mình phải tập trung. “Nhưng Lindy này, bà giấu có kỹ ? Ý tôi là, liệu bây giờ hai người đó có thể tìm ra chưa?”



      “Tôi cho là . có cái gì thò ra cả, nếu ý là thế. Làm sao họ lại nghĩ ra mà tìm ở đó được? Tôi ấn nó vào đằng sau lưng mình, thế này này. Cứ thế mà ấn. Tôi quay lại nhìn, vì nếu thế hai cậu đó nghĩ xem tôi làm gì. Đấy phải thói ngông phút chốc đâu, biết . Quyết định trao giải cho ấy. Tôi suy nghĩ chuyện đó, nghĩ nhiều lắm. Tôi cực kỳ hy vọng nó có ý nghĩa gì với . Ôi trời, tôi muốn ngủ.”



      Bà đổ ập vào tôi và chốc sau vang lên tiếng ngáy. Lo cho vết mổ của bà, tôi lựa đầu bà cẩn thận để má bà tì lên vai mình. Rồi cả tôi cũng thiếp .









      Tôi giật mình tỉnh dậy thấy bình minh chớm đến trong khung cửa sổ lớn đùng trước mặt. Lindy vẫn ngủ rất say, nên tôi thận trọng giải phóng mình khỏi bà, đứng dậy vươn vai. Tôi đến bên cửa sổ nhìn lên bầu trời sáng mờ và đường cao tốc bên dưới. Có gì đó cứ vẩn trong đầu trong khi tôi ngủ và tôi cố nghĩ lại xem là gì, nhưng óc tôi cứ ù lên và rã rời cả. Rồi tôi nhớ ra, liền quay lại văng lay Lindy dậy.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      “Cái gì thế? Cái gì thế? muốn gì?” bà mở mắt.



      “Lindy,” tôi . “Cái giải thưởng. Chúng ta quên mất cái giải thưởng.”



      “Tôi với rồi. Nó ở trong con gà tây.”



      “Được rồi, giờ nghe này. Mấy người cảnh sát có thể nghĩ đến chuyện tìm trong con gà tây. Nhưng sớm hay muộn cũng có người tìm thấy. Có thể người ta cắt nó ra ngay lúc này cũng nên.”



      “Thế sao? họ tìm thấy nó trong ấy. Thế sao?”



      “Họ tìm thấy nó trong ấy, họ báo lại phát này. Rồi ông cảnh sát nhớ lại chúng ta. Ông ta nhớ lại chúng ta ở đó, đứng ngay cạnh con gà.”



      Lindy có vẻ tỉnh hơn. “Phải rồi,” bà . “Tôi hiểu gì rồi.”



      “Trong lúc cái tượng còn ở trong con gà, họ còn có thể truy ra chúng ta là thủ phạm.”



      “Thủ phạm à? Này, thủ phạm là thế nào?”



      “Bà gọi là gì cũng được. Chúng ta phải quay lại đó lấy nó ra khỏi con gà. Sau rồi chúng ta bỏ lại đâu cũng được. Nhưng chúng ta thể để nó lại chỗ của nó bây giờ.”



      “Cưng ơi, có chắc là chúng ta cần làm thế ? Tôi mệt quá chừng.”



      “Chúng ta phải làm thế, Lindy. Chúng ta cứ để nó đấy gặp rắc rối. Và phải nhớ đây là chuyện cánh nhà báo nhảy xổ vào.”



      Lindy suy nghĩ lúc, rồi thẳng người lên khúc và nhìn lên tôi. “Được rồi,” bà . “Chúng ta quay lại đó.”









      Đến lúc này tiếng cọ rửa và tiếng người vang trong hành lang, nhưng chúng tôi vẫn tới được phòng khiêu vũ mà phải gặp ai. Ánh sáng cũng dễ nhìn hơn, và Lindy chỉ cho tôi tấm bảng thông báo bên cửa. đó có dòng chữ bằng nhựa ghép từng ký tự: J. A. THIẾT BỊ CỌ RỬA HỒ BƠI – GỒM BỮA SÁNG.



      “Thảo nào mà chúng ta tìm được cái văn phòng để đầy giải thưởng,” bà . “ phải phòng khiêu vũ này.”



      “Chẳng có gì khác cả. Cái chúng ta cần bây giờ là ở trong này.”



      Chúng tôi qua phòng khiêu vũ, rồi thận trọng vào phòng bếp. Cũng giống lúc trước, có ngọn đèn lờ mờ vẫn để, và bây giờ có thêm cả chút ánh sáng trời chiếu vào qua cửa sổ thông gió. có ai ở đây, nhưng khi nhìn qua hai dãy quầy cạnh tường, tôi thấy chúng tôi gặp rắc rối.



      “Xem ra có người ở đây,” tôi .



      “Phải.” Lindy bước thêm vài bước dọc lối , quay nhìn xung quanh. “Phải. Nhìn phía này.”



      Tất cả hộp trà, khay đựng, hộp bánh, đĩa đậy nắp vòm bạc chúng tôi thấy hôm qua giờ biến sạch. Thay vào đó là những chồng đĩa ăn và khăn ăn gọn gàng sắp hàng cách đều nhau.



      “Được rồi, thế là họ mang hết đồ ăn ,” tôi . “Câu hỏi là: đâu?”



      Lindy sâu thêm vào trong, rồi quay lại nhìn tôi. “ nhớ , Steve, đêm qua lúc chúng ta ở đây, trước khi mấy ông đó vào ấy? Chúng ta cuộc tranh luận sôi nổi.”



      “Có, tôi có nhớ. Nhưng lại chuyện đó làm gì? Tôi biết mình quá đà.”



      “Phải rồi, quên chuyện đó . Thế con gà tây đâu rồi nhỉ?” Bà lại nhìn quanh. “ biết , Steve? Hồicòn , tôi muốn trở thành vũ công và ca sĩ biết mấy. Và tôi cố mãi cố mãi, có Chúa làm chứng, nhưng người ta chỉ cười, và tôi nghĩ, thế giới này bất công. Nhưng rồi tôi lớn lên chút và nhận ra rằng thế giới bất công, dù sao nữa. Rằng kể cả nếu đứa như tôi, kẻ bất hạnh vô tài, vẫn còn cơ hội cho , vẫn có thể tìm được chỗ đứng, phải chấp nhận làm kẻ trong công chúng. dễ dàng gì. phải nhọc công vì nó, chưa kể những gì người ta . Nhưng chắc chắn là vẫn còn cơ hội.”



      “Chà, có vẻ như bà làm tốt.”



      “Thế giới này vận hành buồn cười. biết , tôi nghĩ làm thế là rất khôn ngoan. Vợ ấy, ý tôi là thế. Khi khuyên làm ca mổ này.”



      “Chúng ta đừng về ấy. Này, Lindy, bà có biết nó dẫn đâu ? Đằng kia kìa?”



      Đầu bên kia phòng, nơi hai dãy quầy chấm dứt, có ba bậc cấp dẫn lên cánh cửa xanh.



      “Sao chúng ta thử xem?” Lindy .



      Chúng tôi mở cửa cũng thận trọng như lúc trước, rồi trong lúc tôi hoàn toàn mất phương hướng. Ở đây tối mịt và mỗi lần tôi cố quay đầu là thấy mình đập vào màn hay vải dầu. Lindy, chiếm lấy cây đèn pin, có vẻ di chuyển dễ dàng hơn đâu đó đằng trước. Rồi tôi lộn nhào vào khoảng tối om, nơi bà đứng đợi tôi, chiếu đèn pin vào chân tôi.



      “Tôi nhận ra rồi,” bà thầm. “ thích về ấy. Vợ ấy, ý tôi là thế.”



      hẳn,” tôi thầm đáp. “Chúng ta ở đâu đây?”



      “Và ấy bao giờ đến thăm.”



      “Đấy là vì chúng tôi hẳn ở với nhau vào thời gian này. Nếu bà muốn biết.”



      “Ôi, tôi xin lỗi. Tôi có ý tọc mạch.”



      “Bà có ý tọc mạch?!”



      “Này, cưng ơi, nhìn xem! Nó đây này! Chúng ta tìm ra rồi!”



      lia cây đèn vào cái bàn cách đó vài bước. đó phủ khăn bàn trắng, và hai đĩa đậy nắp bạc đặt cạnh nhau.



      Tôi lại cái đầu tiên và cẩn thận nhấc nắp. Đúng như nghĩ, con gà tây quay bự đặt đĩa. Tôi tìm xem hốc bụng đâu và thọc ngón tay vào.



      có gì cả,” tôi .



      phải thò hẳn vào cơ. Tôi đẩy tít vào bên trong. Mấy con này to hơn tưởng đấy.”



      “Tôi có gì cả. Đem đèn lại đây. Chúng ta thử con này.” Tôi cẩn thận nhấc nắp đậy con thứ hai.



      biết , Steve à, tôi nghĩ đấy là sai lầm. phải ngượng khi về chuyện đó.”



      về chuyện gì?”



      “Về chuyện vợ chồng ly thân.”



      “Tôi chúng tôi ly thân à? Tôi thế à?”



      “Tôi tưởng…”



      “Tôi chúng tôi hẳn ở với nhau. Hai chuyện phải .”



      “Nghe có vẻ như là …”



      “Thế đấy, phải. Đấy chỉ là chuyện tạm thời, điều chúng tôi thử. Này, tôi thấy gì đó. Có thứ gì đó trong này. Đúng nó rồi.”



      “Thế sao lôi nó ra, cưng ơi?”



      “Thế bà nghĩ tôi làm gì? Chúa ơi! Sao bà phải đẩy vào sâu thế này chứ?”



      “Suỵt! Có người ở ngoài kia!”



      Thoạt đầu khó mà được có bao nhiêu người ở đó. Rồi giọng đến gần hơn và tôi nhận ra chỉ có người, ngừng vào cái điện thoại. Tôi cũng nhận ra đích xác chúng tôi ở đâu. Tôi cứ ngỡ chúng tôi chỉ lạc vào khu vực nhà kho vẩn vơ nào đấy, nhưng thực tế là chúng tôi ở đúng sân khấu, và tấm màn trước mặt đây là thứ duy nhất ngăn chúng tôi với phòng khiêu vũ. Người điện thoại vậy là ngang phòng khiêu vũ lên sân khấu.



      Tôi thầm bảo Lindy tắt đèn pin và thế là xung quanh tối om. Bà khẽ vào tai tôi: “Ra khỏi đây thôi,” và tôi nghe thấy bà chuồn . Tôi cố lôi bức tượng ra khỏi con gà lần nữa, nhưng bây giờ tôi rất sợ phát ra tiếng động, và hơn nữa, những ngón tay tôi tiến được thêm chút nào.



      Giọng cứ tiến lại gần cho đến khi có vẻ như người này đứng ngay trước mặt tôi.



      “… Đấy phải việc của tôi, Larry. Chúng ta cần có logo in thực đơn. Tôi cần biết làm thế nào. Được rồi, thế tự làm lấy. Đúng thế, tự làm lấy, tự mang đến đây, tôi cần biết làm thế nào. Mang đến đây trong sáng nay, chậm nhất là bảy rưỡi. Ta cần chúng nó ở đây. Bàn tiệc đều ổn. Có khối bàn, cứ tin tôi. Được rồi. Tôi kiểm tra cái đó. Được rồi, được rồi. Phải. Tôi kiểm tra cái đó ngay bây giờ.”



      Đến khúc cuối, giọng ta sang bên phòng. Giờ chắc ta vừa bật công tắc bảng điều khiển nào đấy, vì luồng sáng gắt rọi xuống đúng đầu tôi, và cả tiếng rừ rừ như tiếng máy điều hòa vừa bật. Chỉ có điều tôi nhận ra đấy phải máy điều hòa, mà là màn sân khấu mở ra ngay trước mặt tôi.



      hai lần trong đời diễn của mình tôi lâm vào tình huống sân khấu, sắp chơi bản solo, và thình lình tôi thấy mình biết phải bắt đầu thế nào, ở gam gì, chuỗi hợp ra sao. Cả hai lần gặp cảnh ấy, tôi chỉ đứng đờ ra, như ảnh tĩnh từ bộ phim, đến khi cậu trong ban nhảy vào giải cứu. Chuyện đó chỉ xảy ra hai lần trong hơn hai chục năm chơi chuyên nghiệp. Dù gì , đấy là phản ứng của tôi khi ánh đèn pha rọi xuống đầu và tấm màn chuyển động. Tôi đứng đờ người. Và kỳ cục là tôi thấy khá dửng dưng. Tôi thấy hơi hiếu kỳ chút, muốn xem mình thấy gì khi màn mở hết.



      Cái tôi thấy là phòng khiêu vũ, và từ vị trí sân khấu nhìn xuống tôi cảm nhận hơn bài trí của hai dãy bàn ăn chạy song song đến tận cuối phòng. Ánh đèn đầu làm cả phòng tối đôi chút, nhưng tôi cũng nhìn ra bộ đèn chùm và cái trần nhà cầu kỳ.



      Người điện thoại là ông hói quá khổ mặc vét màu nhạt, sơ mi hở cổ. Chắc ông ta khỏi tường ngay sau khi bật công tắc, vì giờ ông ta gần như ngang hàng với tôi. Điện thoại ấn chặt vào tai, nhìn vẻ mặt phải đoán ông ta lắng nghe tập trung cao độ xem đầu bên kia gì. Nhưng tôi nghĩ là phải thế, vì ông ta dán mắt vào tôi. Ông ta cứ thế nhìn tôi và tôi cứ thế nhìn ông, và tình huống này có thể kéo dài vô tận nếu sau đó ông ta , có lẽ để trả lời bên kia hỏi xem tại sao thình lình lặng yên.



      có gì. có gì. Chỉ có người thôi.” Ngừng lúc, rồi tiếp: “Tôi tưởng là có gì khác. Nhưng chỉ là người thôi. Có cái đầu quấn băng, mặc áo ngủ. Chỉ có thế thôi, tôi thấy rồi. Chỉ có điều là ta có con gà hay cái gì đó mắc ở đầu cánh tay.”



      Đứng thẳng lên, tôi duỗi tay theo bản năng tựa như so vai. Bàn tay phải vẫn còn trong con gà ngập đến cổ tay, trọng lượng của nó kéo cả khối rơi trở lại đánh rầm. Nhưng ít nhất tôi cũng phải lo giấu giếm nữa, nên tôi cứ thế tới luôn, có gì cản trở, cố gắng giải phóng cả bàn tay lẫn bức tượng. Trong lúc đó người kia vẫn điện thoại.



      , đúng như tôi vừa đấy. Và giờ ra giũ con gà ra. Ồ, và ta lấy trong đó ra thứ gì đó. Ê cậu, đấy là cái gì thế? Con cá sấu à?”



      Mấy lời cuối này ông ta với tôi với vẻ thản nhiên đáng nể. Nhưng giờ tôi nắm được bức tượng trong tay và con gà rơi xuống sàn nhà đánh phịch. Trong lúc hối hả trở lại bóng tối đằng sau lưng, tôi nghe thấy người kia với bạn:



      “Làm thế quái nào tôi biết được? tiết mục ảo thuật, chắc vậy.”









      Tôi nhớ làm thế nào chúng tôi trở lại được tầng mình. Tôi lại lạc lối giữa mớ lùng nhùng những màn tuột khỏi sân khấu, rồi bà ra túm lấy tay tôi. phút sau, chúng tôi hối hả chạy qua khách sạn, buồn để ý là gây ồn ào đến đâu hay có ai thấy mình. Đâu đó đường tôi bỏ lại bức tượng khay đồ ăn đặt bên ngoài cửa phòng ngủ, cạnh những gì còn lại sau bữa tối của ai đó.



      Trở lại phòng bà, chúng tôi thụp người xuống xô pha và cười ầm ĩ. Chúng tôi cười đến khi ngã bổ vào người nhau, rồi bà đứng dậy, đến bên cửa sổ kéo mành. Bây giờ bên ngoài có ánh sáng, mặc dù trời khá u. Bà lại tủ rượu để pha đồ uống - “món cốc tai cồn quyến rũ nhất thế giới” - và mang ly lại cho tôi. Tôi nghĩ bà ngồi xuống cạnh tôi, nhưng bà bước trở lại bên cửa, nhấp ly của mình.



      có mong ngóng , Steve?” lúc sau bà hỏi. “Đến ngày tháo băng ấy?”



      “Có. Tôi nghĩ vậy.”



      “Mới tuần trước, tôi còn nghĩ đến nhiều lắm. Có vẻ như còn rất xa. Nhưng bây giờ còn lâu mấy nữa.”



      “Đúng thế,” tôi . “Với tôi cũng còn lâu mấy.” Rồi tôi : “Chúa ơi.”



      Bà nhấp rượu và nhìn ra ngoài cửa sổ. Rồi tôi nghe bà : “Này cưng ơi, có chuyện gì thế?”



      “Tôi ổn mà. Tôi chỉ thiếu ngủ chút, thế thôi.”



      Bà nhìn tôi lúc. “Tôi nhé, Steve,” cuối cùng bà . “ ổn cả thôi. Boris là tay cừ nhất. Rồi xem.”



      “Phải.”



      “Này, có chuyện gì thế? Nghe này, với tôi là lần thứ ba rồi. Lần thứ hai với Boris. Rồi ổn cả thôi. Trông cực kỳ, rất cực kỳ. Và nghiệp của nữa. Từ giờ trở nhảy vọt.”



      “Có thể.”



      có có thể gì hết! Rồi nó thành khác hẳn, cứ tin tôi. lên tạp chí, lên ti vi.”



      Tôi gì.



      “Nào, thôi !” Bà bước vài bước lại gần. “Tươi lên nào. phải vẫn còn bực tôi chứ, phải ? Chúng ta vừa mới là đội ăn ý, phải ? Và tôi muốn với điều này nữa. Từ giờ trở tôi vào đội của . thiên tài, và tôi đảm bảo mọi việc đều thuận lợi cho .”



      ăn thua đâu, Lindy.” Tôi lắc đầu. “ ăn thua đâu.”



      ăn thua cái con khỉ. Tôi gặp mấy người. Mấy người có ích cho lắm.”



      Tôi vẫn lắc đầu. “Tôi rất cảm kích. Nhưng được gì đâu. ăn thua đâu. chẳng bao giờ ăn thua cả. Lẽ ra tôi bao giờ nên nghe Bradley.”



      “Nào, thôi . Có thể tôi còn là vợ Tony nữa, nhưng tôi vẫn còn rất nhiều bạn tốt ở đây.”



      “Tất nhiên rồi, Lindy, tôi biết. Nhưng được gì đâu. Bà biết đấy, Bradley, ông bầu của tôi, ông ta thuyết phục tôi làm chuyện này. Tôi đúng là ngốc mới nghe lời ông ta, nhưng tôi tránh được. Tôi tắc tị cả, rồi ông ta đưa ra giả thiết này. Ông ta vợ tôi, Helen, ấy có ý đồ này. ấy hẳn bỏ tôi. , đấy chỉ là phần trong ý đồ của ấy. ấy làm thế là vì tôi, để tôi có thể làm vụ mổ này. Và rồi khi tháo băng ra, và tôi có khuôn mặt mới, ấy trở lại và mọi chuyện lại ổn thỏa. Đấy là Bradley thế. Ngay lúc ông ta thế, tôi biết là chuyện vớ vẩn, nhưng tôi còn biết làm gì? Ít ra đấy cũng là tia hy vọng. Bradley lợi dụng nó, ông ta lợi dụng nó, ông ta là thế, bà hiểu ? Ông ta là đồ mạt hạng. Trong đầu ông ta chỉ có chuyện làm ăn. Và chuyện đẳng cao. Ông ta đâu thèm quan tâm ấy có quay lại hay ?”



      Tôi dừng lời và bà lúc lâu. Rồi bà :



      “Nghe này, cưng, nghe tôi. Tôi hy vọng vợ quay lại. Tôi thực tình hy vọng thế. Nhưng nếu ấy quay lại, , phải bắt đầu tìm góc nhìn mới. ấy có thể là người tuyệt vời, nhưng cuộc đời lớn hơn nhiều chứ phải chỉ là chuyện ai đó. phải xông pha, Steve. người như , thuộc về công chúng. Nhìn tôi này. Khi lớp băng này bỏ ra, liệu tôi có thực giống như tôi của cách đây hai mươi năm? Tôi biết. Và lâu lắm rồi kể từ lần cuối tôi trung chuyển giữa hai cuộc hôn nhân. Nhưng thế nào tôi cũng xông ra mà thử lần xem.” Bà đến gần huých vào vai tôi. “Nào. Chỉ là mệt thôi. thấy khá hơn nhiều sau khi ngủ chút. Nghe này. Boris là tay cừ nhất. Ông ấy sửa chữa lại, cho cả hai ta. Rồi thấy.”



      Tôi đặt ly xuống bàn và đứng lên. “Tôi nghĩ bà đúng. Như bà , Boris là tay cừ nhất. Và chúng ta quả là đội ăn ý hồi lúc nãy.”



      “Chúng ta là đội cực kỳ ăn ý hồi lúc nãy.”



      Tôi đưa tay ra, đặt lên hai vai bà, rồi hôn lên hai bên má quấn băng. “Bà cũng ngủ cho lại sức,” tôi . “Tôi lại qua và chúng ta lại chơi cờ nữa.”









      Nhưng sau buổi sáng đó, chúng tôi còn mấy khi gặp nhau. Về sau này khi tôi nhớ lại, có những điều ra đêm hôm ấy, những điều có lẽ tôi nên xin lỗi, hay ít nhất nên giải thích. Nhưng lúc ấy, khi chúng tôi trở lại phòng bà, và chúng tôi cùng ngồi cười ghế, có vẻ như cần, thậm chí đúng chỗ, nếu nhắc lại những điều đó. Khi chúng tôi chia tay sáng hôm ấy, tôi nghĩ hai chúng tôi vượt qua chuyện đó rồi. Ngay cả thế, tôi cũng thấy Lindy có thể thất thường ra sao. Có thể là sau đó bà nghĩ lại và lại thấy tức giận. Ai biết được? Dù sao , dù tôi chờ bà gọi điện trong ngày hôm ấy, nhưng bà chẳng hề gọi, cả ngày hôm sau cũng thế. Thay vào đó, tôi nghe giọng Tony Gardner bật bên kia tường, vặn tiếng to nhất, hết đĩa này đến đĩa khác.



      Rồi cuối cùng tôi cũng lại qua, có lẽ là bốn ngày sau đó, bà có vẻ niềm nở, nhưng lạnh nhạt. Cũng như hôm đầu, bà kể rất nhiều về những bạn bè nổi tiếng của mình - dù gì về chuyện nhờ họ giúp tôi thăng tiến. Dù thế, tôi cũng buồn bực. Chúng tôi có bắt đầu chơi cờ, nhưng điện thoại của bà réo liên tục và bà lại vào phòng ngủ chuyện.



      Buổi tối hai hôm trước bà gõ cửa phòng tôi, mình sắp trả phòng. Boris rất hài lòng với bà và đồng ý cho bà tháo băng tại nhà. Chúng tôi chào tạm biệt nhau thân thiện, nhưng có vẻ như lời chia tay thực từ trước rồi, từ sáng hôm đó ngay sau chuyến phiêu lưu, khi tôi đưa tay ra và hôn lên hai má bà.



      Đấy là câu chuyện về thời kỳ tôi làm láng giềng của Lindy Gardner. Tôi cầu chúc bà may mắn. Còn với tôi, vẫn còn sáu ngày nữa mới tới lượt tôi lộ diện, và còn lâu nữa mới đến lúc tôi được phép thổi kèn. Nhưng giờ tôi quen với cuộc sống này, và tôi giết thời giờ cách khá vui vẻ. Hôm qua tôi nhận được điện thoại của Helen hỏi thăm, và khi tôi kể mình làm quen với Lindy Gardner, ấy khâm phục hẳn hoi.



      phải bà ấy lại kết hôn rồi à?” hỏi. Và khi tôi đính chính lại, : “À, phải. Chắc là em nhầm với bà kia. biết đấy. Cái bà ấy ấy.”



      Chúng tôi chuyện khá lâu về những thứ lặt vặt - vừa xem gì ti vi, bạn vừa mang con ghé chơi. Rồi Prendergast có hỏi thăm tôi, và khi thế, giọng căng thẳng thấy . Và tôi suýt nữa : “Ơ kìa? Có phải tôi vừa nhận thấy nỗi cáu kỉnh khi nhắc tên cục cưng ?” Nhưng tôi . Tôi chỉ bảo cho tôi gửi lời chào, và nhắc đến tên ta lần nữa. Mà chắc là tôi cũng chỉ tưởng tượng ra thôi. Làm sao tôi biết, có thể chỉ nhử cho tôi mình biết ơn .



      Khi sắp dập máy, tôi : “ em,” cái kiểu nhanh theo thói quen người ta vẫn đệm vào cuối cuộc chuyện với bạn đời. Nghe im lặng vài giây, rồi đáp lại, cũng theo kiểu đó. Rồi . Chúa biết được thế nghĩa là gì. Bây giờ còn việc gì làm nữa, tôi nghĩ thế, ngoài việc đợi đến khi tháo băng. Và rồi sao? Có thể Lindy đúng. Có thể, như bà , tôi cần góc nhìn mới, và cuộc đời lớn hơn nhiều chứ phải chỉ là chuyện ai đó. Có thể đây đúng là bước ngoặt đối với tôi, và đẳng cao đón chờ. Có thể bà đúng.






      Nghệ sĩ cello






      là lần thứ ba chúng tôi chơi bản nhạc phim Bố già từ sau bữa trưa, và tôi lia mắt qua các du khách ở bên kia piazza xem liệu bao nhiêu người có mặt từ lần chơi trước. chung nếu phải nghe bài tủ nào đó quá lần khách cũng thấy vấn đề gì, nhưng thể làm vậy quá thường xuyên vì họ ngờ vốn tiết mục ra hồn. Thường vào khoảng này trong năm, lặp lại chương trình cũng sao. Khi thu chớm đến trong gió cộng thêm cái giá cắt cổ cho mỗi cốc cà phê đủ đảm bảo lượng khách luân chuyển khá đều. Tóm lại, đấy là lý do khiến tôi chăm chú từng khuôn mặt trong quảng trường và tôi bắt gặp Tibor vì thế.



      Cậu ta giơ tay vẫy và ban đầu tôi nghĩ là vẫy chúng tôi, nhưng rồi nhận ra cậu chỉ tìm cách gọi bồi bàn. Trông cậu già hơn, và lên cân, nhưng cũng khó nhận ra. Tôi thúc vào Fabian đứng phong cầm ngay bên và hất đầu về phía chàng trai trẻ, dù lúc ấy thể rời tay khỏi cây saxophone để chỉ tận nơi được. Đấy là lúc tôi nhận ra, sau khi nhìn vòng ban nhạc, rằng ngoài tôi và Fabian, còn ai ở lại từ đội hình mùa hè năm chúng tôi gặp Tibor.



      Đồng ý, ngày đó cách nay bảy năm rồi, nhưng đấy vẫn là cú sốc. quen chơi cùng nhau ngày lại ngày, bắt đầu coi ban nhạc cũng như gia đình, những thành viên khác như là em. Và nếu đôi khi có người chuyển , muốn nghĩ rằng họ luôn giữ liên lạc, gửi thiếp về từ Venice hay Luân Đôn hay bất kể nơi nào họ đến, có thể cả tấm ảnh chụp ban chơi cùng - như là viết thư về thăm quê. Thế nên giây phút này cứ như lời nhắc nhở đúng chỗ, rằng vật vần xoay mau chóng thế nào. Rằng bạn chí cốt hôm nay ngày mai thành người xa lạ, rắc rải khắp châu Âu, chơi cùng bản Bố già hay “Autumn Leaves” trong những quảng trường hay quán trà chẳng bao giờ đặt chân đến.



      Khi chúng tôi chơi xong, Fabian ném cho tôi cái nhìn thịnh nộ, bực tức vì bị thúc đúng giữa đoạn “đặc biệt” của ta - hẳn là đoạn solo, mà là trong những phút hiếm hoi khi vĩ cầm và clarinet dừng, tôi chỉ thổi vài nốt nhè làm nền, mình dẫn dắt giai điệu cây phong cầm. Khi tôi tìm cách giải thích, và chỉ Tibor giờ ngồi dưới cây dù khuấy cà phê, Fabian có vẻ khó khăn mới nhớ ra cậu ta. Cuối cùng ta cũng :



      “À phải, thằng bé chơi cello. biết giờ nó còn với bà người Mỹ ấy .”



      “Tất nhiên là ,” tôi . “ nhớ à? Mọi chuyện cuối cùng kết thúc vào thời kỳ đó.”



      Fabian nhún vai, đầu óc lại để cả vào tờ bản nhạc, và rồi chúng tôi bắt đầu bài tiếp.



      Tôi thất vọng vì Fabian tỏ ra nhiệt tình hơn, nhưng có lẽ ta chưa bao giờ ở trong số những người đặc biệt quan tâm đến cậu nhạc công trẻ. Fabian, ta trước giờ chỉ chơi ở phòng trà quán bar, hiểu . phải như Giancarlo, người chơi vĩ cầm trong ban lúc đó, hay Ernesto chơi ghi ta bass. Họ đều học qua trường lớp, nên luôn bị cuốn hút về những người như Tibor. Có thể còn có thoáng tị nạnh trong đó - vì quá trình đào tạo hàng đầu của Tibor, vì tương lai cậu ta vẫn rộng mở. Nhưng, nhìn nhận công bằng, tôi nghĩ chỉ là vì họ ưa bao bọc lấy những Tibor của thế giới này, chăm lo cho họ chút, có thể còn chuẩn bị tinh thần cho họ về những gì đến, để khi gặp phải buồn phiền thất vọng cũng đến nỗi quá khó khăn.



      Mùa hè bảy năm trước trời ấm cách kỳ lạ, và ngay cả ở thành phố chúng tôi, cũng có những lúc cứ tưởng như mình xuống đến biển Adriatic. Chúng tôi chơi ngoài trời suốt hơn bốn tháng - dưới vòm quán cà phê, nhìn ra quảng trường và toàn bộ khu bàn, và tôi phải với làm việc như thế rất là nóng, kể cả có hai hay ba cây quạt điện ầm ù xung quanh. Nhưng đấy là mùa khấm khá, khách du lịch đến đông, lượng lớn từ Đức hay Áo tới, và cả người Ý trốn nóng từ bờ biển lên. Và đấy là mùa hè đầu tiên chúng tôi để ý thấy những người Nga. Ngày nay họ chẳng còn đập vào mắt, du khách Nga cũng chẳng khác gì mọi người. Nhưng thời đó, họ vẫn còn là của hiếm đủ để phải ngoái nhìn. Họ ăn bận kỳ cục và đứng như trẻ mới nhập trường. Lần đầu thấy Tibor, chúng tôi nghỉ giữa hai suất diễn, giải lao ở cái bàn to mà quán luôn giữ riêng cho chúng tôi. Cậu ta ngồi gần, chốc chốc lại đứng dậy dịch chỗ bao đàn cello để nắng khỏi chiếu vào.



      “Nhìn thằng nhóc kìa,” Giancarlo . “ sinh viên trường nhạc người Nga có đường kiếm sống. Và làm gì? Quyết định vung tiền nốc cà phê giữa quảng trường trung tâm.”



      là thằng ngốc, hẳn rồi,” Ernesto . “Nhưng là thằng ngốc lãng mạn. Vui lòng mà chết đói, miễn là được ngồi ở quảng trường đây cả chiều.”



      Cậu ta gầy gò với mái tóc màu hạt dẻ và cặp kính phản thời trang - gọng kính to đùng khiến cậu trông như con gấu trúc. Ngày nào cậu cũng đến, và tôi nhớ chính xác chuyện bắt đầu ra sao nhưng đến lúc chúng tôi ngồi trò chuyện với cậu giữa các suất diễn. Và đôi khi nếu cậu đến trong giờ diễn chiều khi xong chúng tôi gọi cậu lại, có khi đãi cậu rượu vang và crostino.



      Chúng tôi nhanh chóng được biết Tibor phải người Nga, mà là Hungary; rằng cậu hẳn là lớn tuổi hơn bề ngoài, vì cậu tốt nghiệp Nhạc viện hoàng gia Luân Đôn, rồi lại hai năm ở Viên với Oleg Petrovic. Sau khởi đầu gian nan dưới tay bậc đại danh cầm, cậu học được cách chinh phục những cơn hờn dỗi thành giai thoại của ông và rời khỏi Viên tràn đầy tự tin - cùng với chuỗi lịch diễn ở những nhà hát châu Âu danh giá, dù . Nhưng rồi các buổi hòa nhạc dần bị hủy vì thiếu người nghe; cậu buộc phải chơi thứ nhạc mà cậu ghét; chỗ ăn ở đều hoặc là đắt hoặc là ra gì.



      Thế nên Festival Văn hóa nghệ thuật được tổ chức đàng hoàng ở thành phố tôi - nguyên nhân đưa cậu đến đây mùa hè này - đem lại cú lên dây cót tinh thần cậu cần, và khi bạn học cũ ở Nhạc viện cho cậu ở mất tiền suốt mùa hè trong căn hộ gần kênh, cậu nhận lời lưỡng lự. Cậu rất thích thành phố này, cậu bảo chúng tôi thế, nhưng tiền bạc lúc nào cũng là vấn đề, và dù thi thoảng cũng có nơi mời diễn, lúc này cậu phải rất lung về bước tiếp theo.



      Đến lúc, sau khi lắng nghe những lo âu này Giancarlo và Ernesto quyết định chúng tôi phải làm gì đó giúp cậu. Và đấy là lý do Tibor đến gặp ông Kaufmann, người Amsterdam, họ hàng xa của Giancarlo với những quan hệ trong giới khách sạn.



      Tôi nhớ rất chiều hôm ấy. Vẫn còn là đầu mùa hè, và ông Kaufmann, Giancarlo, Ernesto, tất cả đám còn lại, chúng tôi ngồi trong nhà, trong phòng sau của quán, nghe Tibor chơi cello. Cậu thanh niên chắc nhận ra cậu ta diễn thử cho ông Kaufmann định giá, nên đến lúc này nhớ lại đêm ấy cậu háo hức chơi đến thế nào kể cũng thú vị. Cậu tỏ ra biết ơn chúng tôi rệt, và có thể thấy cậu vui lòng khi ông Kaufmann hứa hết sức giúp đỡ chừng nào quay về Amsterdam. Khi mọi người Tibor thay đổi theo chiều hướng xấu mùa hè ấy, rằng cậu ta thành ra tự cao quá mức cho phép, rằng tất cả là tại bà người Mỹ mà ra, , chà, có lẽ cũng có phần thực.









      Tibor để ý thấy bà ta khi uống cốc cà phê đầu tiên trong ngày. Vào giờ ấy, quảng trường mát dìu dịu rất dễ chịu - gần như cả sáng góc có quán cà phê vẫn nằm trong bóng râm - và đá lát đường còn ướt do vòi phun của công nhân vệ sinh. Vốn nhịn bữa sáng, cậu ta nhìn bằng cặp mắt ghen tị trong khi bàn bên bà ta gọi loại nước quả, tiếp đó - ràng vì nổi hứng, vì lúc đó còn chưa đến mười giờ - thêm bát trai hấp. Cậu ta mơ hồ cảm thấy bà ta, đến lượt mình, cũng đôi lúc lén nhìn về phía cậu, nhưng lúc đó cậu chưa nghĩ gì nhiều.



      “Bà ta rất ưa nhìn, đẹp nữa là khác,” sau đó cậu kể cho chúng tôi. “Nhưng các thấy, bà ta phải hơn tôi đến mười, mười lăm tuổi. Thế làm sao tôi lại nghĩ chuyện gì được?”



      Cậu quên bẵng bà và chuẩn bị quay về phòng để tập luyện vài giờ trước khi người hàng xóm ghé vào ăn trưa và bật radio, bỗng nhiên thấy người đàn bà đứng trước mặt mình.



      Bà ta tươi cười rạng rỡ, dáng vẻ tỏ ra họ quen biết từ trước. Thực tế là chỉ vì bản tính nhút nhát mà cậu lên tiếng chào bà ta. Rồi bà đặt tay lên vai cậu, cứ như cậu vừa trượt bài thi nhưng vẫn được tha thứ như thường, và :



      “Mấy hôm trước tôi nghe độc tấu. Ở San Lorenzo.”



      “Cám ơn bà,” cậu đáp, dù thấy ngay câu đó nghe ngớ ngẩn thế nào. Rồi vì người đàn bà vẫn tiếp tục tươi cười nhìn cậu, cậu tiếp: “À phải, nhà thờ San Lorenzo. Đúng thế. Tôi quả có chơi ở đó.”



      Người đàn bà cười to, rồi bỗng nhiên kéo ghế ngồi trước mặt cậu. “ cứ như gần đây có lịch diễn dày đặc lắm,” bà ta , giọng có ý mỉa mai.



      “Nếu thế tôi vừa khiến bà hiểu lầm. Buổi độc tấu bà đến là buổi duy nhất của tôi từ hai tháng nay.”



      “Nhưng mới chỉ vừa bắt đầu,” bà . “ có được cuộc biểu diễn nào là khá lắm rồi. Và hôm đó cũng có kha khá khán giả đấy chứ.”



      “Kha khá khán giả? Có đúng hai mươi tư người.”



      “Đấy là buổi chiều. Biểu diễn ban chiều như thế là tốt rồi.”



      “Tôi có tư cách than phiền. Nhưng thế cũng phải nhiều lắm. Toàn du khách có việc gì làm.”



      “Ồi! nên khinh thường họ thế. Suy cho cùng, ở đó có tôi. Tôi là trong số du khách ấy.” Rồi trong lúc mặt cậu đỏ lên - vì cậu vốn có ý xúc phạm - bà ta chạm vào tay cậu và mỉm cười : “ mới vừa bắt đầu thôi. Đừng lo về số lượng khán giả vội. Đấy phải lý do biểu diễn.”



      “Thế à? Thế tôi chơi nhạc để làm gì nếu phải vì khán giả?”



      “Tôi muốn thế. Điều tôi muốn là ở quãng này trong nghiệp của , khán giả hai mươi người hay hai trăm người quan trọng. Tôi có nên cho biết vì sao ? Vì có nó!”



      “Tôi có nó?”



      có nó. Chắc chắn là thế. có… tiềm năng.”



      Cậu ghìm tiếng cười khẩy suýt bật ra môi. Cậu thấy bực tức với mình nhiều hơn với bà, vì nghĩ bà kiểu như “thiên tư” hay ít nhất là “tài năng” và lập tức nhận ra mình tự lừa phỉnh mình thế nào mới mong chờ nhận xét như thế. Nhưng người đàn bà vẫn tiếp:



      “Ở quãng này, điều cần làm là chờ đợi cái người đặc biệt ấy đến và nghe . Và cái người ấy cũng rất có khả năng có mặt ở căn phòng như thế vào ngày thứ Ba, trong đám khán giả chỉ hai chục người…”



      “Có hai mươi tư người, chưa kể ban tổ chức…”



      “Hai mươi tư, thế nào cũng được. Điều tôi muốn là lúc này số lượng quan trọng. Lúc này quan trọng là cái người ấy.”



      “Ý bà là người từ hãng thu ?”



      “Hãng thu ? Ồ , . Cái đó tự nó đến. , tôi muốn cái người làm cho tỏa sáng. Cái người nghe thấy và nhận ra chỉ là trong những gã tầm thường được đào tạo bài bản. Rằng cho dù vẫn còn trong kén, nhưng chỉ cần chút giúp đỡ, xòe rộng đôi cánh bướm mà bay.”



      “Tôi hiểu. Có tình cờ nào khiến bà lại là cái người ấy ?”



      “Ồi, thôi nào! Tôi hiểu chàng trai trẻ kiêu hãnh. Nhưng tôi cũng thấy có vẻ có nhiều thầy hướng dẫn cậy cục mà đến với . Ít ra cũng phải những người ở cỡ tôi.”



      Bây giờ cậu mới nghĩ ra mình phạm phải điều đại ngớ ngẩn, và cậu quan sát kỹ khuôn mặt người đàn bà. Giờ bà ta gỡ đôi kính râm, và cậu nhìn thấy khuôn mặt về cơ bản là hiền từ và dịu dàng, nhưng hơi bực dọc và có lẽ sắp chuyển sang giận dữ. Cậu cố gắng nhìn bà, hy vọng sớm nhận ra, nhưng cuối cùng cũng buộc phải :



      “Tôi xin lỗi vô cùng. Có lẽ bà là nhạc sĩ danh tiếng?”



      “Tôi là Eloise McCormack,” bà xưng danh với nụ cười, và chìa tay ra. may, cái tên ấy chẳng lên gì cả và Tibor thấy mình tiến thoái lưỡng nan. Phản xạ đầu tiên của cậu là giả vờ kinh ngạc, và cậu thậm chí : “ ư. là ngạc nhiên hết sức.” Rồi cậu trấn tĩnh lại, nhận ra suông như thế chẳng những thiếu trung thực mà còn rất có khả năng dẫn đến lộ tẩy và hổ thẹn chỉ sau tích tắc. Thế nên cậu ngồi thẳng dậy mà :



      “Miss McCormack, rất hân hạnh được gặp bà. Tôi hiểu là bà tin nổi điều này, nhưng tôi xin bà thứ lỗi cho non nớt của tôi lẫn việc tôi trưởng thành trong khối Đông Âu cũ, phía sau bức rèm sắt. Có rất nhiều ngôi sao màn bạc và tên tuổi chính trường là tên cửa miệng ở phương Tây song cho đến tận hôm nay tôi vẫn chưa được biết. Vì thế bà phải tha lỗi cho chuyện tôi biết chính xác bà là ai.”



      “Chà… là thẳng thắn đáng khâm phục.” Mặc dù thế, bà tỏ ra bị xúc phạm thấy , và vẻ hào hứng ban đầu có vẻ nguội mất. Sau phút lúng túng, cậu nhắc lại:



      “Bà là nhạc sĩ danh tiếng, phải ạ?”



      Bà ta gật đầu, ánh mắt đánh sang bên kia quảng trường.



      “Lần nữa tôi xin thứ lỗi,” cậu . “Quả là vinh hạnh được người như bà đến nghe buổi diễn của tôi. Và xin phép hỏi bà chơi nhạc cụ gì?”



      “Cũng như ,” bà nhanh. “Cello. Vì thế tối mới vào. Kể cả là buổi diễn xoàng như của , tôi cũng đừng được. Tôi thể bỏ qua. Tôi có cảm giác về sứ mệnh, tôi nghĩ thế.”



      “Sứ mệnh?”



      “Tôi biết có thể gọi bằng từ gì khác. Tôi muốn mọi người chơi cello đều chơi tốt. Đều chơi tuyệt đẹp. Nhưng quá nhiều khi, họ chơi cách lầm lạc.”



      “Xin phép, nhưng có phải chỉ là nhạc công cello chúng ta mắc tội trình diễn lầm lạc? Hay bà đến tất cả các nhạc công?”



      “Có thể với cả các nhạc công khác nữa. Nhưng tôi chơi cello, nên tôi lắng nghe những người chơi cello khác, và khi nghe thấy người chơi hỏng… biết , mấy hôm trước, tôi thấy vài nhạc công trẻ chơi trong sảnh Bảo tàng thành phố và mọi người cứ thế qua, nhưng tôi thể đứng lại nghe. Và biết , tôi cố gắng hết sức mới ngăn được mình đến chỗ họ cho họ biết.”



      “Họ chơi lỗi à?”



      hẳn là lỗi. Nhưng… chà, chỉ là nó có đó. Nó hề có ở đó. Nhưng thấy đấy, tôi cầu quá nhiều. Tôi biết nên đòi hỏi tất cả mọi người phải lên được mức tôi đặt ra cho mình. Họ chỉ là sinh viên trường nhạc thôi, tôi nghĩ thế.”



      Bà ngả người vào ghế lần đầu tiên và nhìn ra mấy đứa trẻ, ở đài nước giữa quảng trường, té nước nhau ầm ĩ. Cuối cùng, Tibor :



      “Hôm thứ Ba trước bà cũng cảm thấy nỗi sốt ruột ấy, có lẽ thế. Nỗi sốt ruột muốn đến chỗ tôi và đưa ra lời khuyên.”



      Bà mỉm cười, nhưng giây sau chuyển sang vẻ mặt cực kỳ nghiêm túc. “Có thể,” bà . “Quả là thế. Bởi khi nghe chơi, tôi có thể nghe được chính mình ngày xưa. đừng để bụng, điều tôi sắp thô lỗ lắm. Nhưng thực tình là, hẳn đúng đường lúc này. Và khi tôi nghe , tôi rất muốn giúp tìm đến nó. Càng sớm càng tốt.”



      “Tôi phải trước là, tôi theo học Oleg Petrovic.” Tibor thẳng và chờ phản ứng của bà. Hết sức ngạc nhiên, cậu thấy bà cố nén nụ cười.



      “Petrovic, phải,” bà . “Petrovic, vào thời của ông, là nhạc sĩ đáng kính. Và tôi biết với các học trò ông ấy hẳn vẫn còn là nhân vật đáng kể. Nhưng với rất nhiều người trong chúng ta nay, những ý tưởng, những phương pháp của ông…” Bà lắc đầu và xòe đôi tay. Rồi trong khi Tibor vẫn chằm chằm nhìn bà, nghẹn lời vì tức giận, bà lần nữa lại đặt tay lên cánh tay cậu. “Tôi nhiều quá rồi. Tôi có quyền làm thế. Tôi để cho yên.”



      Bà đứng lên và cử chỉ này làm cơn giận của cậu lắng xuống; Tibor tính tình rộng lượng và bản tính cậu thể tức tối được lâu. Thêm nữa, điều bà vừa về người thầy cũ làm bật lên nốt vui từ sâu trong lòng cậu - những ý nghĩ cậu hẳn dám tự với mình. Thế nên khi cậu nhìn lên bà, nét mặt cậu hết chỉ cho thấy nỗi bối rối.



      “Xem này,” bà , “lúc này chắc hẳn là quá bực tức với tôi nên thể nghĩ về chuyện đó. Nhưng tôi muốn giúp . Nếu quyết định muốn chuyện tiếp, tôi ở ngay đằng kia. Ở Excelsior.”



      Khách sạn này, khách sạn lộng lẫy nhất toàn thành phố, nằm ở đầu kia quảng trường từ quán cà phê, và bà chỉ nó cho Tibor, rồi mỉm cười, và quay người bỏ về đó. Cậu vẫn nhìn theo bất ngờ bà quay lại khi đến gần đài nước, khiến bầy chim câu giật mình, đưa tay vẫy cậu, rồi tiếp.









      Suốt hai ngày sau cậu thấy mình nghĩ nghĩ lại về cuộc gặp này. Cậu nhớ lại nụ cười khinh khỉnh môi bà khi cậu rất đỗi tự hào xướng tên Petrovic và lại thấy cơn giận trào lên. Nhưng sau khi ngẫm nghĩ, cậu hiểu hẳn mình tức giận cho người thầy cũ. Đúng hơn là cậu quen với ý nghĩa cái tên Petrovic luôn luôn gây hiệu ứng, rằng có thể nhờ nó mà lôi kéo chú ý và kính nể: cách khác, cậu nhiễm thói quen dựa vào nó như thứ chứng chỉ mà cậu có thể cầm phẩy vào mặt cả thế giới. Cậu hoang mang là bởi cái khả năng tờ chứng chỉ này hề có cái quyền lực như cậu nghĩ.



      Cậu cũng nhớ cả lời mời của bà lúc chia tay, và trong những giờ ngồi quảng trường, cậu thấy mình liên tục đưa mắt nhìn về đầu bên kia, về cánh cổng lộng lẫy của khách sạn Excelsior, nơi hàng tắc xi và limousine nối nhau ngớt trước người gác cửa.



      Cuối cùng, tới ngày thứ ba sau cuộc chuyện với Eloise McCormack, cậu băng qua quảng trường, vào sảnh lát hoa cương và nhờ lễ tân gọi lên phòng bà. Người lễ tân vào điện thoại, hỏi tên cậu, rồi sau vài câu trao đổi, đưa cậu ống nghe.



      “Tôi xin lỗi,” cậu nghe giọng bà . “Hôm trước tôi quên hỏi tên nên lúc mới đoán ra là ai. Nhưng tất nhiên tôi quên đâu. Thực tế là tôi nghĩ về nhiều lắm. Có rất nhiều điều tôi muốn bàn kỹ với . Nhưng biết đấy, chúng ta phải làm cho đàng hoàng. có mang đàn theo ? , tất nhiên là . Có lẽ tiếng nữa quay lại nhé, đúng tiếng, mang cả đàn theo. Tôi chờ ở đây.”



      Khi cậu trở lại Excelsior với cây đàn, người lễ tân lập tức chỉ thang máy cho cậu và Miss McCormack chờ.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Ý nghĩ vào phòng bà, dù giữa buổi chiều, khiến cậu thấy mình như xâm phạm chỗ riêng tư, và cậu người khi thấy đấy là phòng suite lớn, buồng ngủ đóng cửa khuất tầm mắt. Cửa sổ cao kiểu Pháp có cửa chớp dài, lúc này mở, nên hai rèm đăng ten bay phất phơ trong gió, và cậu thấy nếu bước qua đó ra ban công, cậu nhìn thẳng xuống quảng trường. Căn phòng , với những bức tường đá thô và sàn gỗ màu tối, có cái vẻ gần như tu viện, chỉ phần nào dịu lại nhờ hoa, gối ngồi và đồ gỗ kiểu cổ. Bà ngược lại, mặc áo phông, quần nỉ và giày thể thao, như vừa chạy bộ về. Bà chào cậu kiểu cách - mời trà cũng như cà phê - và ngay:



      “Chơi cho tôi nghe. Hãy chơi bài gì chơi hôm độc diễn ấy.”



      đưa tay chỉ chiếc ghế tựa đánh bóng cẩn thận đặt giữa phòng, nên cậu ngồi xuống đó và bỏ đàn ra khỏi bao. Với vẻ đủ khiến người ta lúng túng, bà tự mình ngồi xuống cạnh khung cửa sổ để cậu gần như chỉ thấy khuôn mặt trông nghiêng, và bà cứ thế nhìn vào khoảng trước mặt suốt trong lúc cậu lên dây đàn. Bà đổi tư thế khi cậu bắt đầu chơi, và khi cậu kết thúc bài thứ nhất, bà tiếng. Thế nên cậu chuyển nhanh sang bài tiếp, rồi bài nữa. nửa giờ trôi qua, rồi giờ. Và có gì đó từ căn phòng tối mờ và thứ hưởng nhà tu của nó, từ ánh sáng chiều tán xạ qua đôi rèm phất phơ, từ tiếng xôn xao làm nền vẳng lên từ dưới quảng trường, và hết, từ có mặt của bà, đánh thức trong cậu những nốt nhạc từ những tầng sâu mới, những sắc thái mới. Khi gần hết giờ, cậu tin chắc mình vượt lên mong đợi của bà, nhưng khi cậu kết thúc bài cuối, và cả hai ngồi lặng yên vài phút, cuối cùng bà cũng quay lại phía cậu ghế mà bảo:



      “Được rồi, tôi hiểu đích xác ở đâu. dễ đâu, nhưng làm được. Chắc chắn là làm được. Hãy bắt đầu với bản của Britten. Chơi lại , chương đầu thôi, rồi chúng ta chuyện. Chúng ta có thể cùng làm việc với nhau, từng chút .”



      Khi nghe đến đây, cậu chỉ muốn dọn đàn bỏ tức khắc. Nhưng rồi động cơ khác - có thể chỉ là tò mò, có thể điều khác sâu kín hơn - thắng nỗi kiêu hãnh và bắt cậu chơi lại phần bà cầu. Khi bà dừng cậu lại sau vài nhịp và bắt đầu , cậu lại thấy sốt ruột muốn bỏ về. Cậu quyết định, chỉ do lịch , chịu đựng bài giảng mời này thêm năm phút nữa là nhiều nhất. Nhưng rồi cậu thấy mình ở lại thêm chút, rồi thêm nhiều. Cậu chơi thêm nữa, bà lại tiếp. Lời lẽ của bà lúc đầu luôn khiến cậu thấy là tự phụ và quá trừu tượng, nhưng khi thử nhập hồn vía của nó vào cách chơi, cậu kinh ngạc trước hiệu quả đạt được. Cậu chưa kịp để ý giờ nữa trôi qua.



      “Tôi chợt nhìn ra thứ,” cậu giải thích cho chúng tôi. “ ngôi vườn tôi còn chưa bước vào. Tôi thấy nó, ở đằng xa kia. Có nhiều thứ cản đường. Nhưng lần đầu tiên, tôi thấy nó. ngôi vườn tôi chưa từng biết trước kia.”



      Mặt trời gần lặn khi cậu rời khách sạn, vượt qua quảng trường tới khu bàn của quán, và tự thưởng cho mình miếng bánh quả hạnh có kem, với nỗi phấn khích khó mà kìm nổi.









      Trong suốt vài ngày tiếp, cậu trở lại khách sạn của bà mỗi chiều và khi trở về, nếu phải trong cảm giác được khai sáng như lần đầu tiên, cũng tràn đầy sinh khí và hy vọng mới mẻ. Những nhận xét của bà càng lúc càng thẳng thắn, và, với người ngoài cuộc, nếu có ai chứng kiến, có lẽ còn mang vẻ kiêu căng, nhưng Tibor lúc này còn nhìn nhận can thiệp của bà theo cách đó được nữa. Bây giờ cái cậu sợ là thời gian ở thành phố của bà rồi hết, và ý nghĩ này bắt đầu ám ảnh cậu, khiến cậu ngủ được, và phủ bóng lên bước chân cậu vào quảng trường sau mỗi buổi tập đầy phấn chấn. Nhưng mỗi lần cậu lưỡng lự nêu câu hỏi đó, bà luôn trả lời mập mờ và chẳng hề khiến cậu yên tâm. “Ồi, đến khi nào lạnh quá tôi chịu được nữa,” có lần bà . Hoặc lần khác: “Tôi nghĩ tôi ở lại chừng nào tôi còn chưa chán.”



      “Nhưng bà ấy thế nào?” chúng tôi cứ hỏi hỏi lại. “Khi chơi cello ấy. Bà ấy chơi thế nào?”



      Lần đầu chúng tôi nêu câu này, Tibor trả lời vào đề, chỉ đại loại như: “Bà ấy bảo tôi bà ấy là bậc thầy, từ hôm đầu tiên,” rồi sang chuyện khác. Nhưng đến lúc nhận ra chúng tôi chịu buông tha, cậu thở dài và giải thích cho chúng tôi.



      Thực tế là, ngay từ buổi đầu đó, Tibor tò mò muốn nghe bà chơi, nhưng quá nhát dám hỏi. Cậu cảm thấy chỉ chút nghi ngờ rất khi nhìn quanh phòng, thấy bóng dáng cây đàn của bà đâu. Suy cho cùng bà đem đàn theo khi nghỉ cũng tự nhiên thôi. Và lại nữa, vẫn còn khả năng có cây đàn - có thể đàn thuê - trong buồng ngủ sau cửa đóng kín.



      Nhưng càng nhiều lần trở lại căn phòng suite trong những buổi sau, nỗi nghi ngờ của cậu càng tăng. Cậu cố hết sức dẹp nó khỏi trí mình, bởi đến lúc này, cậu còn thắc mắc dè dặt gì về những buổi gặp nữa. Nội việc bà lắng nghe đủ gợi lên những tầng lớp mới trong trí tưởng tượng của cậu, và những giờ ngoài các buổi tập, cậu thấy mình dạo bài mới trong trí, đoán trước nhận xét của bà, cách bà lắc đầu, nhíu mày, gật đầu khuyến khích, và hết, những phút bà đắm mình vào đoạn cậu chơi, mắt nhắm lại và đôi tay, gần như trái ý bà, bắt đầu đưa theo những động tác của cậu. Dù thế, nỗi nghi ngờ chịu , và rồi hôm cậu vào phòng mà cửa buồng ngủ vẫn còn mở hé. Cậu nhìn thấy lại tường đá nữa, và thứ trông như giường bốn cọc màn kiểu Trung cổ, nhưng hề có mặt cây đàn. Có bậc thầy nào, dù kỳ nghỉ, lại lâu đến thế mà chạm vào đàn? Nhưng cả câu hỏi này nữa, cậu cũng dẹp khỏi tâm trí.









      Mùa hè cứ thế trôi, họ bắt đầu kéo dài cuộc trò chuyện bằng cách cùng ghé vào quán sau buổi tập, và bà mua cho cậu cà phê, bánh ngọt, có lúc cả xăng uých. Lúc này họ chuyện còn chỉ về nhạc - dù đề tài nào có vẻ cũng quay về đó. Ví dụ, có lần bà hỏi cậu về bé người Đức cậu thân hồi ở Viên.



      “Nhưng bà phải hiểu, ấy chưa bao giờ là bạn tôi,” cậu bảo bà. “Chúng tôi phải thế.”



      “Ý là hai người gần gũi về thân thể? Điều đó chứng tỏ ấy.”



      , Miss Eloise, cái đó đúng. Tôi rất thích ấy, hẳn rồi. Nhưng chúng tôi phải người .”



      “Nhưng khi chơi bản Rachmaninov ngày hôm qua, nhớ lại cảm xúc. Đấy là tình , tình đôi lứa.”



      phải, ngớ ngẩn. ấy là bạn tốt, nhưng chúng tôi phải người .”



      “Nhưng chơi đoạn ấy cứ như là ký ức về tình . còn trẻ vậy, mà biết thế nào là bỏ rơi, là phụ bạc. Đấy là vì sao chơi chương ba đó như thế. Phần lớn nhạc công cello khác, họ chơi về niềm vui. Nhưng với , đấy phải niềm vui, đấy là ký ức về thời có niềm vui qua mãi mãi.”



      Họ chuyện theo kiểu ấy, và thường cậu chỉ chực đặt câu hỏi ngược lại cho bà. Nhưng cũng như chưa bao giờ dám hỏi Petrovic câu về đời tư suốt trong thời kỳ học với ông, lúc này cậu thấy mình thể hỏi câu gì hẳn hoi về bà. Thay vào đó, cậu nghiền ngẫm những chi tiết bà để lộ - rằng bà sống ở Portland bang Oregon, rằng bà chuyển đến đó từ Boston ba năm trước, rằng bà ghét Paris “vì ở đó chỉ toàn những liên tưởng đáng buồn” - nhưng chùn lại dám hỏi sâu hơn.



      Bây giờ bà bật cười dễ hơn nhiều so với những ngày đầu họ làm bạn với nhau, và bắt đầu có thói quen, khi hai người bước ra khỏi khách sạn mà băng qua quảng trường, đưa tay khoác lấy tay cậu. Đấy là lúc chúng tôi lần đầu phát thấy cặp đôi lạ lùng này, cậu trông trẻ hơn nhiều tuổi thực, bà trông có lúc như bà mẹ, lúc khác “như đào lẳng lơ”, như Ernesto diễn tả. Trong những ngày trước khi bắt đầu chuyện với Tibor, chúng tôi mất khá nhiều thời gian tán gẫu về họ, như người trong ban nhạc thường làm. Khi họ qua tay trong tay, chúng tôi nhìn nhau mà bảo: “Bồ nghĩ thế nào? Họ có chuyện ấy rồi, hử?” Nhưng sau khi nhấm nháp cái phỏng đoán này, chúng tôi nhún vai thừa nhận rằng có lý: đơn giản là họ có phong thái của tình nhân. Và đến khi chúng tôi quen Tibor, và cậu kể với chúng tôi về những buổi chiều trong phòng suite của bà, người nào còn nghĩ đến chuyện chọc ghẹo cậu hay đưa ra những ám chỉ nhảm nhí nữa.



      Rồi buổi chiều khi họ ngồi quảng trường với cà phê bánh ngọt, bà bắt đầu về người muốn lấy bà. Tên ông ta là Peter Henderson, ông ta là chủ doanh nghiệp phát đạt ở Oregon bán đồ nghề chơi gôn. Ông ta thông minh, tốt bụng, được mọi người quen biết nể trọng. Ông ta hơn Eloise sáu tuթ, nhưng như thế chưa phải là già. Có hai đứa con với người vợ trước, nhưng mọi thứ được thu xếp êm thấm.



      “Thế nên giờ hiểu tôi làm gì ở đây,” bà với tiếng cười căng thẳng cậu chưa từng nghe trước đó. “Tôi trốn. Peter biết tôi ở đâu. Tôi nghĩ là tôi khá ác. Thứ Ba vừa rồi tôi gọi cho ông ấy, bảo mình ở Ý, nhưng là thành phố nào. Ông ấy giận điên lên và tôi nghĩ ông ấy hoàn toàn có quyền đó.”



      “Nghĩa là,” Tibor . “Bà dành cả mùa hè suy tính tương lai.”



      hẳn. Tôi chỉ trốn.”



      “Bà cái ông Peter này?”



      Bà nhún vai. “ ấy là người tốt. Và tôi cũng có nhiều đề nghị trước mắt.”



      “Ông Peter này. Ông ấy có nhạc ?”



      “Ồi… Nơi tôi sống bây giờ, ấy chắc chắn được tính là có. cho cùng , ấy cũng nghe hòa nhạc. Và sau đó, ở nhà hàng, ấy những điều tốt đẹp về chương trình chúng tôi vừa nghe. Thế nên tôi nghĩ có thể ấy nhạc.”



      “Nhưng ông ấy… có hiểu được bà ?”



      ấy biết phải lúc nào cũng dễ dàng khi sống với nghệ sĩ bậc thầy.” Bà thở dài tiếng. “Đấy là vấn đề của cả đời tôi. Với cũng dễ dàng. Nhưng và tôi, chúng ta hẳn có lựa chọn. Chúng ta có con đường riêng phải .”



      nhắc đến Peter lần nào nữa, nhưng bây giờ, sau cuộc đối đáp đó, khía cạnh mới mở ra trong quan hệ giữa họ. Những khi bà im lặng nghĩ ngợi sau khi cậu chơi, hoặc những khi, dù cùng ngồi trong quảng trường, bà trở nên xa vắng, nhìn ra đằng sau những cây dù gần đó, cậu thấy có gì khó xử, và hoàn toàn thấy bị bỏ rơi mà hiểu rằng bà thấy có mặt của cậu bên bà là đáng quý.









      buổi chiều, sau khi cậu vừa chơi xong bài, bà bảo cậu chơi lại đoạn ngắn - chỉ tám nhịp - ở gần đoạn cuối. Cậu làm theo và thấy vạch nhăn vẫn còn trán bà.



      “Nghe giống như chúng ta,” bà và lắc đầu. Cũng như mọi lần, chỉ thấy dáng ngồi nhìn nghiêng của bà trước cửa sổ lớn. “Phần còn lại chơi rất tốt. Tất cả phần còn lại, đấy đúng là chúng ta. Nhưng cái đoạn này…” Bà khẽ nhún vai.



      Cậu chơi lại theo cách khác, dù hẳn hiểu mình cần cái gì, và ngạc nhiên khi thấy bà lại lắc đầu.



      “Tôi xin lỗi,” cậu . “Bà có thể thể ý mình hơn. Tôi hiểu cái ‘ phải chúng ta’ này.”



      “Ý là muốn tôi tự chơi đoạn đó? muốn thế phải ?”



      bình tĩnh, nhưng khi bà quay lại nhìn cậu lúc này, cậu ý thức được căng thẳng hình giữa họ. Bà nhìn cậu chăm chăm, gần như thách thức, chờ câu trả lời.



      Cuối cùng cậu : “, tôi thử lại.”



      “Nhưng nghĩ tại sao tôi tự mà chơi lấy, phải ? Mượn đàn của và trình bày xem ý tôi là gì.”



      …” Cậu lắc đầu với vẻ cố làm ra thản nhiên. “. Tôi nghĩ là tốt, phương pháp chúng ta vẫn làm rất tốt. Bà gợi ý bằng lời, rồi tôi chơi. Như thế phải là tôi chỉ bắt chước rồi bắt chước. Lời của bà mở những cửa sổ trước mắt tôi. Nếu bà tự chơi, có cửa sổ nào mở. Tôi chỉ bắt chước.”



      Bà ngẫm nghĩ lúc, rồi : “Chắc là đúng. Được rồi, tôi thử thể ý mình hơn.”



      vài phút tiếp đó bà - về khác nhau giữa vĩ thanh và phần nối. Rồi khi cậu chơi lại mấy nhịp đó lần nữa, bà mỉm cười và gật đầu tán thành.



      Nhưng từ sau cuộc đối đáp ấy, có bóng đen phủ xuống các buổi chiều. Có lẽ nó ở đó từ đầu, nhưng giờ ra khỏi vỏ và lửng lơ giữa họ. lần khác, khi ngồi quảng trường, cậu vừa kể cho bà nghe chuyện làm sao người chủ trước của cây đàn túm được nó từ hồi còn Liên bang Xô viết bằng cách đổi vài chiếc quần bò Mỹ. Khi cậu kể xong, bà nhìn sang cậu với nụ cười nửa miệng lạ lùng và :



      “Đấy là cây đàn tốt. Tiếng của nó rất hay. Nhưng vì tôi chưa từng chạm vào nó, tôi hẳn phán xét về nó được.”



      Cậu biết bà lại tiến đến địa hạt nguy hiểm kia, cho nên, nhanh chóng đánh mắt chỗ khác, cậu :



      “Với người ở tầm vóc bà, nó phải là nhạc cụ tương xứng. Ngay cả với tôi giờ, nó cũng hẳn còn tương xứng.”



      Cậu thấy mình còn có thể trò chuyện thoải mái được nữa vì sợ bà lại phục kích và lái câu chuyện trở lại địa hạt này. Ngay cả trong những cuộc trao đổi vui vẻ nhất, phần trong đầu cậu vẫn phải liên tục đề phòng, sẵn sàng cản lại nếu bà lại vừa tìm ra hướng tấn công mới. Kể cả thế, cậu cũng thể đánh lạc hướng bà luôn luôn được, và cậu quyết định giả vờ nghe thấy khi bà những câu như: “Ồi, dễ dàng hơn nhiều nếu tôi chỉ việc chơi cho nghe!”









      Đến gần cuối tháng Chín - giờ thấy giá lạnh trong hơi gió - Giancarlo nhận được điện thoại của ông Kaufmann từ Amsterdam; có chỗ khuyết cần người chơi cello trong nhóm nhạc thính phòng khách sạn năm sao giữa trung tâm thành phố. Nhóm nhạc chơi ban công nhìn xuống phòng ăn tuần bốn tối, và các nhạc công cũng có những “công việc nhàng ngoài nhạc” khác trong khách sạn. Chỗ ăn chỗ ở đều có đủ. Ông Kaufmann nhớ ngay đến Tibor và chỗ làm này ể ngỏ chờ cậu. Chúng tôi đem tin cho Tibor tức khắc - trong quán ngay buổi chiều ông Kaufmann gọi đến - và tôi nghĩ tất cả đều bất ngờ vì phản ứng lạnh nhạt của Tibor. Đấy hẳn nhiên là ngược lại hoàn toàn với thái độ của cậu hồi đầu mùa hè, khi chúng tôi sắp đặt buổi “diễn thử” trước ông Kaufmann. Giancarlo là người đặc biệt giận dữ.



      “Thế cậu cần suy nghĩ cẩn thận đến thế là vì sao?” ta nạt cậu thanh niên. “Cậu còn muốn cái gì? Carnegie Hall hả?”



      phải là tôi biết ơn. Nhưng dù sao tôi cũng cần nghĩ kỹ . Chơi cho người ta vừa nghe vừa chuyện vừa ăn. Rồi lại những công việc khách sạn nữa. Có như thế thích hợp với người như tôi ?”



      Giancarlo vốn là người nóng tính, nên lúc này chúng tôi phải giữ cho túm cổ áo Tibor và hét vào mặt cậu. số còn cảm thấy cần thiết phải đứng về phía cậu bé, rằng suy cho cùng đấy là cuộc đời cậu, cậu việc gì phải bắt buộc nhận công việc cậu thích. Tình hình dần dần dịu lại, và Tibor đến lúc đó lại thừa nhận rằng công việc này cũng có những điểm lợi nếu coi là biện pháp trước mắt. Và thành phố chúng tôi, theo cậu ta nhận xét có phần vô tâm, rồi thành tù túng khi mùa du lịch qua. Amsterdam ít ra cũng là trung tâm văn hóa.



      “Tôi suy nghĩ việc này cẩn thận,” cuối cùng cậu . “Có lẽ có thể giúp tôi nhắn với ông Kaufmann là tôi báo lại quyết định trong vòng ba ngày.”



      Giancarlo thể là hài lòng vì thế - dù gì cũng trông đợi lòng biết ơn dạt dào - nhưng vẫn gọi lại cho ông Kaufmann. Trong cả cuộc tranh luận tối hôm đó, Eloise McCormack được nhắc đến lấy lần, nhưng chúng tôi đều ảnh hưởng của bà là nguyên do mọi lý lẽ của Tibor.



      “Con mụ đó biến thằng bé thành đứa ngạo mạn,” Ernesto sau khi Tibor . “Cứ để nó mang thái độ ấy đến Amsterdam. Rồi nó được giũa cho nhẵn.”









      Tibor chưa bao giờ với Eloise về lần diễn thử cho ông Kaufmann. Cậu định tâm kể hàng bao nhiêu lần, nhưng lần nào cũng rụt lại, và tình bạn của họ càng sâu đậm việc cậu từng đồng ý làm thế càng giống bội ước. Thế nên tất nhiên Tibor hề có ý định hỏi ý Eloise về diễn biến mới nhất này, hoặc kể cả để hở cho bà biết. Nhưng cậu chưa bao giờ giỏi giấu giếm, cho nên quyết định giữ bí mật với bà lại thành ra có những kết quả ngờ.



      Chiều hôm đó ấm cách bất thường. Cậu đến khách sạn bà ở như lệ thường, và bắt đầu chơi vài bản mới mà cậu chuẩn bị. Nhưng chỉ vừa sau ba phút, bà bảo cậu dừng và :



      “Có chuyện gì đó ổn. Tôi nghi từ lúc mới vào. Tôi hiểu lắm rồi, Tibor, tôi đoán được, gần như từ lúc nghe gõ cửa. Bây giờ khi chơi tôi biết chắc. ích gì đâu, thể giấu tôi đâu.”



      Cậu cảm thấy rầu lòng, liền cụp mắt xuống, định thổ lộ can tràng mọi việc, bà giơ tay lên và bảo:



      “Đây là chuyện chúng ta thể cứ chạy trốn mãi. cứ luôn tìm cách lẩn tránh, nhưng được gì đâu. Tôi muốn về chuyện đó. Cả tuần vừa qua này, tôi muốn về chuyện đó.”



      ư?” Cậu nhìn bà kinh ngạc.



      “Phải,” bà , và xoay ghế để quay mặt về phía cậu lần đầu tiên. “Tôi chưa bao giờ có ý định lừa , Tibor. Mấy tuần vừa qua, đối với tôi dễ dàng, và lại là người bạn thân thiết. Tôi phật lòng vô cùng nếu nghĩ tôi có bao giờ định giở mánh khóe nào với . , làm ơn, đừng tìm cách ngăn tôi lại lần này. Tôi muốn điều này. Nếu đưa tôi cây đàn ngay bây giờ và bảo tôi chơi, tôi phải , tôi thể chơi được. phải vì cây đàn đủ tốt, phải như thế. Nhưng nếu bây giờ mà nghĩ tôi dối, nghĩ tôi giả vờ đóng vai phải của tôi, tôi muốn nhầm. Hãy nhìn những thứ chúng ta cùng đạt được. Chẳng lẽ đấy phải bằng chứng rằng tôi dối? Phải, tôi bảo tôi là bậc thầy. Chà, hãy để tôi giải thích ý tôi là thế nào. Ý tôi là tôi được ban cho tài năng, cũng như . và tôi, chúng ta có thứ mà hầu hết các nhạc công cello khác bao giờ có được, dù họ có tập luyện cực khổ thế nào. Tôi nhận ra được ở , từ phút đầu tiên nghe chơi trong cái nhà thờ ấy. Và cách nào đó, chắc cũng nhận ra ߠtôi. Vì thế mới quyết định đến khách sạn này hôm ấy.



      “Người như chúng ta có nhiều, Tibor ạ, và chúng ta nhận ra được nhau. Chuyện tôi vẫn chưa học cách chơi cello chẳng thay đổi gì cả. phải hiểu, tôi là bậc thầy. Nhưng tôi là người vẫn chưa lột xác. Cả nữa, vẫn chưa lột xác hoàn toàn, và đấy là điều tôi làm mấy tuần vừa rồi. Tôi cố giúp trút bỏ những lớp vỏ đó. Nhưng tôi chưa bao giờ định lừa dối . Chín mươi chín phần trăm người chơi cello có gì bên trong những lớp vỏ, có gì cần thoát ra. Thế nên những người như chúng ta, ta phải giúp đỡ nhau. Khi chúng ta nhìn thấy nhau trong quảng trường đông đúc, dù ở đâu, chúng ta phải đến với nhau, bởi những người như chúng ta quá ít.”



      Cậu nhận thấy mắt bà có những giọt lệ, nhưng giọng bà vẫn vững vàng. Đến đây bà lặng yên và lại quay mặt .



      “Thế nên bà tin mình là nghệ sĩ cello đặc biệt,” sau chốc cậu . “ bậc thầy. Đám còn lại chúng tôi, Miss Eloise ạ, chúng tôi phải gom góp can đảm và tìm cách lột xác, như cách bà , lúc nào cũng nơm nớp biết tìm thấy gì bên trong. Nhưng còn bà, bà thèm quan tâm đến việc lột xác này. Bà làm gì cả. Nhưng bà vẫn tin chắc bà là bậc thầy…”



      “Xin đừng bực tức. Tôi biết nghe có vẻ điên khùng. Nhưng chuyện là thế, đấy là thực. Mẹ tôi, bà nhận ra tài năng của tôi từ sớm, từ khi tôi còn . Ít nhất tôi biết ơn bà vì thế. Nhưng những giáo viên bà tìm về cho tôi, khi tôi lên bốn, khi tôi lên bảy, khi tôi mười , họ chẳng ra gì. Mẹ biết thế, nhưng tôi biết. Từ khi còn rất , tôi có bản năng này. Tôi biết mình phải bảo vệ tài năng của mình khỏi những người, dù thiện ý đến đâu, có thể hoàn toàn tiêu diệt nó. Thế nên tôi tránh họ. cũng phải làm thế, Tibor. Tài năng của là điều quý giá.”



      “Xin lỗi bà,” Tibor ngắt lời, lần này nhàng hơn. “Bà chơi cello hồi còn . Nhưng bây giờ…”



      “Tôi chạm vào đàn từ hồi mười tuổi. Từ cái ngày tôi với mẹ mình thể tiếp tục học ông Roth. Và mẹ tôi hiểu. Bà đồng ý là tốt hơn nên làm gì cả và ngồi đợi. Điều cốt yếu là được làm hỏng tài năng của tôi. Thời của tôi vẫn có thể đến. Được rồi, có những lúc tôi nghĩ mình để quá muộn. Tôi bốn mươi mốt tuổi rồi. Nhưng ít nhất tôi vẫn chưa làm hỏng những gì mình có từ lúc sinh ra. Tôi gặp rất nhiều giáo viên qua năm tháng, những người họ giúp tôi, nhưng tôi nhìn thấu họ. Đôi lúc khó mà được, Tibor ạ, ngay cả với chúng ta. Những thầy giáo ấy, họ quá… chuyên nghiệp, họ quá hay, nghe họ và ban đầu bị lừa phỉnh. nghĩ, phải, cuối cùng cũng có người có thể giúp mình, có người thuộc về chúng ta. Rồi nhận ra họ chẳng phải là người ấy. Và đấy là lúc phải cứng cỏi mà tách mình ra. Nhớ lấy, Tibor, tốt nhất luôn là đợi. Đôi lúc tôi cũng cảm thấy khó chịu, rằng tôi vẫn còn bọc kín tài năng của mình. Nhưng tôi chưa làm hỏng nó, và đấy là điều quan trọng.”



      Cuối cùng cậu cũng chơi cho bà nghe vài bản cậu chuẩn bị, nhưng họ thể khôi phục tâm trạng thường ngày và kết thúc buổi tập sớm. Xuống đến quảng trường, họ uống cà phê, chuyện ít, đến lúc cậu cho bà biết kế hoạch rời thành phố vài ngày. Cậu vẫn luôn mong muốn khám phá vùng quê quanh đây, cậu , thế nên cậu lên kỳ nghỉ ngắn ngày cho mình.



      “Kỳ nghỉ có lợi cho ,” bà . “Nhưng đừng lâu quá. Chúng ta vẫn còn nhiều việc phải làm.”



      Cậu trấn an bà rằng cậu về sau tuần là nhiều nhất. Dù thế, trong dáng vẻ bà vẫn còn gì đó vui khi họ chia tay.



      Cậu hoàn toàn thành thực về chuyến : cậu chưa lên kế hoạch gì cả. Nhưng sau khi chào Eloise chiều hôm đó, cậu về nhà và gọi vài cú điện, cuối cùng cũng đặt được giường ở nhà nghỉ thanh niên trong vùng núi gần biên giới vùng Umbria. Cậu đến gặp chúng tôi trong quán tối hôm ấy, và ngoài việc với chúng tôi về chuyến - chúng tôi đưa ra đủ lời khuyên mâu thuẫn về việc xem gì ở đâu - cậu còn gần như bẽn lẽn nhờ Giancarlo nhắn với ông Kaufmann cậu đồng ý nhận làm.



      “Tôi còn làm thế nào được?” cậu bảo chúng tôi. “Đến khi quay lại, tôi chẳng còn xu.”









      Tibor kỳ nghỉ khá thoải mái trong vùng quê của chúng tôi. Cậu kể nhiều về nó, ngoài chuyện làm quen với vài người Đức, và vung tay quá trán trong các trattoria[1] bên đồi. Cậu trở lại sau tuần, nhìn phấn chấn lên rệt, nhưng cũng lo lắng hỏi cho chắc rằng Eloise McCormack đâu khỏi thành phố trong thời kỳ cậu vắng mặt.



      [1] Quán ăn bình dân (tiếng Ý).



      Mật độ du khách vãn dần lúc ấy, và bồi bàn các quán bắt đầu mang đèn sưởi ra đặt giữa các bàn ngoài sân. Buổi chiều hôm cậu về, vào giờ thường lệ, Tibor mang cây đàn quay lại Excelsior, và hài lòng thấy chỉ là Eloise chờ, mà ràng là bà nhớ cậu. Bà chào đón cậu nồng nhiệt, và cũng như người khác, trong cơn lốc tình cảm, có lẽ trút lên cậu hàng đống thức ăn hay đồ uống, bà ấn cậu vào cái ghế mọi khi và sốt ruột mở bao đàn, miệng : “Chơi cho tôi nghe! Nào! Chơi !”



      Họ trải qua buổi chiều tuyệt vời. Trước đó cậu lo lắng biết mọi thứ thế nào, sau lời “thú nhận” của bà và sau cách họ chia tay, nhưng căng thẳng hình như biến mất sạch , và khí giữa hai người hòa thuận hơn lúc nào hết. Ngay cả khi, sau khi chơi xong bản, bà nhắm mắt và bắt đầu bài phê bình dài, nghiêm khắc về cách cậu chơi, cậu cũng cảm thấy ghét bỏ gì, chỉ thấy cồn cào muốn hiểu lời bà càng kỹ càng tốt. Ngày hôm đó và hôm sau nữa, vẫn là như vậy: thoải mái, đôi lúc còn đùa cợt, và cậu biết chắc mình chưa bao giờ được chơi hay hơn thế trong đời. Họ hề nhắc đến cuộc đối thoại trước khi cậu , bà cũng hỏi về kỳ nghỉ ở vùng quê. Họ chỉ chuyện nhạc.



      Rồi ngày thứ tư sau khi cậu trở về, chuỗi những may lặt vặt - tính cả cái két bồn cầu rỉ nước trong phòng - khiến cậu thể đến Excelsior vào giờ mọi khi. Đến lúc cậu qua quán, ánh ngày nhạt, bồi bàn thắp nến trong những bát thủy tinh , và chúng tôi chơi được vài bài trong suất tối. Cậu giơ tay vẫy chúng tôi, rồi tiếp qua quảng trường đến khách sạn, trông như cà nhắc vì tha theo cây đàn.



      Cậu để ý thấy người lễ tân hơi do dự trước khi gọi lên phòng bà. Rồi khi mở cửa, bà chào cậu thân thiết nhưng có vẻ hơi khác mọi khi, và trước khi cậu kịp lên tiếng nhanh chóng :



      “Tibor, tôi mừng là tới. Tôi vừa kể với Peter mọi chuyện về . Đúng thế, Peter cuối cùng cũng tìm thấy tôi!” Rồi bà gọi với vào phòng: “Peter, ấy đây rồi! Tibor đây rồi. Và với cả cây đàn nữa!”



      Khi Tibor bước vào phòng, người to con, cứng tuổi, chậm chạp trong chiếc sơ mi cổ bẻ nhạt màu đứng lên với nụ cười. Ông ta bắt tay Tibor rất chặt và : “Ôi, tôi nghe bao nhiêu điều về . Eloise tin chắc thành ngôi sao sáng.”



      “Peter kiên trì lắm,” bà . “Tôi biết cuối cùng ấy tìm thấy tôi.”



      ai trốn được tôi,” Peter . Rồi ông kéo ghế cho Tibor, rót cho cậu cốc sâm banh từ xô đá đặt tủ ly. “Nào, Tibor, hãy cùng chúng tôi uống mừng cuộc hội ngộ này.”



      Tibor nhấp sâm banh, để ý thấy Peter tình cờ kéo cho cậu chiếc “ghế chơi đàn” mọi khi. Eloise mất tích đâu đó, và trong lúc Tibor và Peter chuyện, cốc trong tay. Peter có vẻ hiền hậu và hỏi rất nhiều chuyện. Tibor sống thế nào hồi trẻ ở nơi như Hungary? Có sốc nhiều khi lần đầu đến phương Tây?



      “Tôi ước gì mình biết chơi nhạc,” Peter . “ may mắn. Tôi rất muốn học. Nhưng có lẽ hơi muộn rồi, tôi nghĩ thế.”



      “Ôi, ông chẳng bao giờ được là quá muộn,” Tibor .



      phải. Đừng bao giờ quá muộn. Quá muộn luôn chỉ là cách bào chữa. , thực là, tôi là người bận rộn, và tôi tự nhủ mình bận rộn đến nỗi học được tiếng Pháp, chơi được nhạc, đọc được Chiến tranh và hòa bình. Mọi thứ tôi vẫn muốn làm từ trước đến nay. Eloise từng chơi nhạc hồi còn bé. Tôi nghĩ ấy kể với .”



      “Có, bà có kể. Tôi biết là bà ấy có rất nhiều tài năng.”



      “Ôi, chắc chắn là thế. Ai quen ấy cũng thấy là thế. ấy có tâm hồn nhạy cảm. ấy mới là người cần những giờ học ấy. Tôi, chỉ là đức ông Chuối Mắn.” Ông giơ hai bàn tay lên và cười. “Tôi rất muốn chơi dương cầm, nhưng còn làm gì được với bàn tay thế này? Rất thích hợp với công việc đào đất, và dòng họ tôi làm thế từ nhiều thế hệ. Nhưng còn ấy,” ông giơ cốc về phía cửa, “ ấy có tâm hồn nhạy cảm.”



      Cuối cùng, Eloise cũng ra từ buồng ngủ trong váy dạ tiệc và rất nhiều trang sức.



      “Peter, đừng làm Tibor phát chán,” bà . “ ấy thích đánh gôn đâu.”



      Peter giơ hai tay ra nhìn Tibor cầu khẩn. “ tôi nghe, Tibor. Tôi với chữ nào về đánh gôn chưa?”



      Tibor cậu cần thôi, cậu thấy mình làm vướng hai người sắp dùng bữa tối. Câu này vấp phải phản đối từ cả hai người, và Peter :



      nhìn tôi xem. Trông tôi có giống mặc để ăn tối hay ?”



      Và dù Tibor nghĩ ông mặc cực kỳ đàng hoàng, cậu cũng cười lên tiếng cho lịch . Rồi Peter :



      thể mà chưa chơi gì cả. Tôi nghe kể bao nhiêu về tiếng đàn của .”



      Bối rối, Tibor thực tế bắt đầu kéo khóa bao đàn, nhưng Eloise nghiêm khắc lên tiếng với thái độ mới trong giọng :



      “Tibor có lý. muộn rồi. Nhà hàng trong thành phố này, họ giữ bàn nếu đến đúng giờ đâu. Peter, thay đồ . Có lẽ cạo râu nữa? Em tiễn Tibor . Em cần chuyện riêng với ấy.”



      Trong thang máy, họ cười với nhau thân mật, nhưng gì. Khi ra đến ngoài, họ thấy piazza thắp sáng cho buổi tối. Trẻ con quanh đây, quay lại sau kỳ nghỉ, đá bóng hoặc chạy đuổi nhau vòng quanh đài phun. Dân chúng đổ hết xuống quảng trường trong giờ dạo hoàng hôn, và tôi nghĩ tiếng nhạc từ quán tôi chắc vượt gian đến tận chỗ họ đứng.



      “Chà, thế đấy,” cuối cùng bà . “ ấy tìm thấy tôi, nên tôi nghĩ ấy xứng đáng với tôi.”



      “Ông ấy là người cực kỳ dễ mến,” Tibor . “Bà định quay lại Mỹ luôn à?”



      “Vài ngày tới. Tôi nghĩ tôi quay lại.”



      “Bà định kết hôn?”



      “Tôi nghĩ thế.” Trong lúc, bà nhìn cậu chăm chú, rồi quay . “Tôi nghĩ thế,” bà nhắc lại.



      “Tôi chúc bà hạnh phúc. Ông ấy là người tốt bụng. Cũng là người nhạc. Đấy là điều quan trọng với bà.”



      “Phải. Đấy là điều quan trọng.”



      “Khi bà chuẩn bị vừa lúc nãy. Chúng tôi chuyện chơi gôn, mà chuyện học nhạc.”



      “Ồ à? là cho ấy hay tôi?”



      “Cả hai. Tuy thế, tôi nghĩ có nhiều giáo viên ở Portland, Oregon có thể dạy được bà.”



      Bà cười lên. “Tôi , rất khó cho những người như chúng ta.”



      “Phải, tôi hiểu điều đó. Sau mấy tuần vừa rồi, tôi càng hiểu điều đó hơn bao giờ hết.” Rồi cậu thêm: “Miss Eloise, có điều này tôi cần trước khi chúng ta chia tay. Tôi sắp Amsterdam, ở đó tôi có việc làm trong khách sạn lớn.”



      trực khách sạn à?”



      . Tôi chơi trong ban nhạc thính phòng trong phòng ăn tối khách sạn. Chúng tôi chơi cho khách nghe trong khi họ ăn.”



      Cậu quan sát bà kỹ và thấy có gì đó lóe lên trong hai mắt bà, rồi lại tắt . Bà đặt tay lên cánh tay cậu và mỉm cười.



      “Được rồi, thế chúc may mắn.” Rồi bà thêm. “Khách nghỉ ở đó. Họ sắp được hưởng vận may rồi.”



      “Tôi hy vọng thế.”



      Thêm lúc nữa, họ vẫn đứng đấy cùng nhau, ngay sát chân luồng sáng từ mặt tiền khách sạn đổ xuống, cây cello to đùng giữa họ.



      “Và cũng hy vọng,” cậu thêm, “bà hạnh phúc với ông Peter.”



      “Tôi cũng hy vọng thế,” bà và lại cười. Rồi bà hôn lên má cậu và ôm nhanh cậu cái. “ bảo trọng nhé,” bà .



      Tibor cám ơn bà, rồi chưa kịp để ý cậu nhìn bà bước trở lại Excelsior.









      Tibor rời thành phố chúng tôi sau đó chẳng bao lâu. Lần cuối cùng chúng tôi chạm cốc với cậu ta, cậu ràng là hết sức biết ơn Giancarlo và Ernesto giúp tìm việc, cũng như chúng tôi làm bạn với cậu, nhưng tôi thể có cảm giác cậu có hơi ngạo với chúng tôi. Có vài người trong chúng tôi nghĩ thế, chỉ riêng tôi, dù Giancarlo, theo bản tính , lúc này lại bênh Tibor, thằng bé chẳng qua phấn khích và căng thẳng về bước tiếp theo trong đời.



      “Phấn khích à? Làm sao nó phấn khích được?” Ernesto . “Nó qua cả mùa hè nghe mình là thiên tài. Làm ở khách sạn, đấy là bước lùi. Ngồi đây chuyện với chúng ta, đấy cũng là bước lùi. Nó là thằng bé tốt lúc đầu hè. Nhưng sau những gì con mụ ấy gây ra cho nó, tôi rất mừng là chúng ta tống tiễn được nó .”



      Như tôi , mọi chuyện này xảy ra bảy năm rồi. Giancarlo, Ernesto, tất cả ban từ hồi ấy trừ tôi và Fabian, họ đều tiến lên. Cho đến lúc bắt gặp cậu ta quảng trường mấy hôm trước, tôi nghĩ đến đại danh cầm Hungary trẻ tuổi từ rất lâu rồi. Cậu ta khó nhận ra lắm. Cậu ta lên cân, tất nhiên, và trông cổ mập hơn. Và cái lối cậu ta làm hiệu bằng ngón tay, gọi bồi bàn, có cái gì đó - cũng có thể tôi tưởng tượng - cái gì đó như sốt ruột, như khinh suất lại kèm theo thái độ có vẻ chua chát. Nhưng có thể thế là bất công. Suy cho cùng, tôi chỉ thoáng nhìn thấy cậu. Dù có thế, tôi cũng cảm giác cậu đánh mất nỗi háo hức muốn chứng tỏ mình hồi trẻ, và bộ dạng dè dặt cậu từng có hồi ấy. Nhưng chẳng có gì đời chỉ có mặt xấu, chắc vậy.



      Tôi muốn tới đó chuyện với cậu, nhưng tới khi suất diễn hết cậu rồi. Biết đâu đấy, có thể cậu chỉ ở đây buổi chiều. Cậu mặc vét - thực sang trọng, chỉ là bộ vét thường - nên có thể cậu tìm được việc làm bàn giấy ở đâu đó. Có thể cậu có công tác gì gần đây và qua thành phố chúng tôi chỉ để hồi nhớ chuyện cũ, ai biết được? Nếu cậu trở lại quảng trường, và nếu lúc ấy tôi chơi nhạc, tôi tới trò chuyện với cậu ta.

    5. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :