1. QUY ĐỊNH BOX XUẤT BẢN :

       

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]

    ----•Nội dung cần:

    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)

    - Tác giả

    - Dịch giả

    - Đơn vị phát hành

    - Số trang ( nên có)

    - Giá bìa (nên có)

    - Ngày xuất bản (nên có)

    --- Quy định

    1 . Thành viên post có thể tự type hoặc copy từ nơi khác (để nguồn)

    2 . Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn

    3. Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ

    Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Dưới nắng trời châu Âu - Hoàng Yến Anh

Thảo luận trong 'Sách XB Hoàn'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      [LUXEMBOURG]









      Lang thang Luxembourg











      Khu phố mua sắm trong trung tâm thành phố



      KHI ĐỌC TỜ BÁO mạng, người ta liệt kê ra 10 lý do nên đến Luxembourg, trong đó có lý do Luxembourg là thủ đô văn hóa, có lâu đài ở khắp mọi nơi, có Echternacht - thành phố cổ kính, có rượu ngon, có những nhà hàng đẳng cấp thế giới… Đọc đến đó, tôi dừng lại và nghĩ tới chuyến của mình hồi cuối tháng Sáu năm 2010.



      Có lẽ, nên bắt đầu bằng việc “chê” cái gì đó ở Đại Công Quốc này trước chăng? Đó là lần đầu tiên Jean Paul lái xe đưa tôi và Quỳnh Nga tới Luxembourg. Xuất phát từ Cologne, qua Bỉ và dừng lại ở Luxembourg. Việc đầu tiên chúng tôi làm là ăn vì bụng sôi sùng sục. Nhìn thấy nhà hàng châu Á, chúng tôi bước vào. Tôi thề tôi phải là người nấu ăn ngon nhưng tôi cũng chưa bao giờ ăn món phở nào dở như ở đây, có rau, chỉ có cọng hành và ba miếng thịt lõm bõm, nước phở chắc chắn là nước luộc thịt gì đó. Nga ngửi xong liền đẩy sang trước mặt tôi và bảo: “Chị ăn , em ăn đâu”, tôi nuốt mãi cũng chỉ được vài ba miếng rồi bỏ đó, bạn Jean Paul gọi món thịt vịt chủ nhà hàng mang ra món tôm. Nhìn thấy hai đứa chúng tôi ăn, Jean Paul bảo: “Đưa đây thử, có khi bọn em được ăn ngon quá rồi nên giờ chê”. Jean Paul về Việt Nam mấy lần v còn là dân ăn phở sành điệu hơn tôi nữa ấy chứ nên khi Nga đẩy bát phở sang, chàng vội vàng đẩy ra và bảo “mùi gì mà ghê thế” làm tôi đói và tức cũng phải cười ngặt ngẽo. Ông bà chủ nhà người miền Nam thấy chúng tôi bỏ mứa hỏi tại sao, nhưng tôi đủ can đảm ra . Khi rời khỏi nhà hàng tôi thề là bao giờ ăn đồ Châu Á ngoài tiệm nữa, sau đó tiến thẳng đến McDonalds ăn lót dạ.



      Luxembourg



      Luxembourg là đất nước nhưng giàu có với thu nhập đầu người luôn ở mức cao nhất thế giới. Diện tích chỉ vẻn vẹn 2.568km2, từ Bắc tới Nam chừng 80km, từ Đông sang Tây chừng 50km nhưng đất nước này lại có rất nhiều cơ quan nước ngoài đặt trụ sở và sử dụng cả hai thứ tiếng Đức và Pháp.



      Chúng tôi tới Luxembourg vào ngày đẹp trời và quyết định dạo quanh thành phố bằng cách… bộ. Bởi lẽ Luxembourg bé nên bộ là cách tốt nhất để chúng tôi có thể khám phá thành phố.



      Do và được ngắm khá nhiều công trình nổi tiếng ở Châu Âu rồi nên khi tới Luxembourg, tôi vô cùng ngạc nhiên khi ở ngay giữa trung tâm Luxembourg mà lúc nào cũng phải leo lên leo xuống chẳng khác gì… leo núi. Sau ngày bộ rã rời, tôi mới phát ra rằng thành phố này tuy nhưng lại được chia ra tới 24 quận, trong đó có những khu vực mà khách du lịch thường xuyên lui tới là khu phố cổ Ville Haute (phố cao), Ville Basse (phố thấp) và khu phố Kirchberg. Tôi cũng bất ngờ kém khi kiến trúc ở đây có gì đặc sắc, từ văn phòng thủ tướng cho đến trụ sở của bộ Ngoại giao đều trang trí cách rất bình thường. Tôi nhận ra được giàu sang ở đất nước này hay bởi Luxembourg quá khiêm tốn? Bởi theo thống kê Luxembourg là trung tâm kinh tế của Châu Âu và luôn nằm trong danh sách những đất nước giàu nhất thế giới với tổng thu nhập bình quân đầu người là 80.000 USD mỗi năm.



      Cầu đá Đại công tước Adolphe



      Luxembourg dường như cố tình “giấu” vẻ đẹp của mình để khách du lịch tự kiếm tìm và phám phá. Khi đứng ở Quảng trường Guillaume nhìn xuống phía dưới, người ta có thể nhìn thấy thung lũng Petusse xanh ngắt với cây, hoa và cỏ, xen kẽ đâu đó là những giọt nắng mùa hạ lấp lánh. Bắc ngang qua thung lũng là cây cầu đá Adolphe khổng lồ với cấu trúc vòm khá đẹp. Cây cầu này nằm giữa trung tâm Luxembourg, là Di sản văn hóa thế giới và từ lâu trở thành niềm kiêu hãnh của người dân Luxembourg. Cầu Adolphe được xây dựng từ năm 1900 đến năm 1903, cao 84m do kiến trúc sư Séjourné (người Pháp) và Paul Rodange (người Luxembourg) thiết kế. Từ cây cầu này, người ta có thể thấy bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, tôi tưởng tượng ra mùa thu ở đây phải đẹp và lãng mạn lắm khi những chiếc lá xanh, vàng, đỏ hòa quyện vào nhau. Chúng tôi xuống phía dưới thung lũng và cảm nhận được yên bình toát ra từ thành phố này, cuộc sống mộc mạc và dịu dàng, khác xa bầu khí ồn ào của khách du lịch ở bên .



      Nhắc đến Luxembourg, lẽ dĩ nhiên người ta được phép bỏ qua Place d’Armes. Đây là quảng trường chính ở Đại Công quốc Luxembourg, quảng trường này được gọi là nhà khách thành phố. Khác hẳn trầm lặng ở thung lũng Petusse, quảng trường này luôn nhộn nhịp bởi khách du lịch với rất nhiều nhà hàng và quán cà phê san sát nhau, người người ngồi uống bia và rượu vang, khung cảnh thành phố nhộn nhịp nhưng dường như tất cả vẫn tuân theo trật tự vốn có sẵn từ lâu. Chúng tôi đến đây đúng vào dịp lễ hội mùa hè của thành phố nên tiếng nhạc được vang lên khắp mọi nơi. Luxembourg lúc ấy trong tôi chút nào.



      Lang thang ở Luxembourg trong ngày ngắn ngủi - nơi giàu sang được khéo léo giấu nhẹm , tôi biết được nhiều điều về đất nước bé mà hề bé này. đôi lần, tôi tự hỏi tại sao đất nước này bé như thế, cũng từng bị xâm chiếm suốt bao nhiêu thế kỉ, cho đến tận Chiến tranh Thế giới lần thứ hai vẫn còn bị xâm chiếm, mà lại có thể hồi phục nhanh và có tiếng quan trọng chỉ ở Châu Âu mà cả toàn thế giới đến vậy. Để lý giải được điều này mất rất nhiều thời gian nhưng có lẽ những quyết định đúng đắn của chính phủ Luxembourg cũng như phong cách giáo dục và làm việc chính là yếu tố đưa đất nước này lên từ nghèo khó. Theo thống kê về số lượng người được hai ngôn ngữ ở Châu Âu Luxembourg bé chiếm vị trí đầu tiên với 99%. Lúc đó tôi thầm ước: Giá như Việt Nam mình…












      [PHÁP]









      Paris - Thỏa niềm mơ ước











      Nắng cuối ngày nhà thờ Đức Bà



      TÔI CÓ NGƯỜI BẠN sau khi xem xong những bức hình tôi chụp ở Paris về với tôi rằng mơ ước lớn nhất của bạn ấy là được lần đến với Paris, được lần chạm tay vào tháp Eiffel, được Đại lộ Champs Elysee và được thưởng thức những món ẩm thực Pháp tuyệt vời. Lúc đó tôi mỉm cười. Bởi nhiều năm về trước, khi còn là nữ sinh ngồi dưới mái trường phổ thông trung học ở Đức và học tiếng Pháp suốt sáu bảy năm trời, tôi cũng mơ ngày được đặt chân đến thành phố Paris phồn hoa và tráng lệ này. Những mãi đến mùa thu năm 2009, Mắm Tôm mới giúp tôi thực được ước mơ của mình khi cùng tôi rong ruổi giữa nắng gió Paris.



      Sau này khi qua hết những con đường trong những giấc mơ của mình, thỉnh thoảng tôi vẫn nhớ về Paris. Tôi nhớ buổi sáng đầu tiên, khi ăn xong bữa sáng, tôi nhất định đòi Mắm Tôm dẫn ra cây cầu Mirabeau, chỉ vì năm lớp 12 trong giờ học tiếng Pháp, giáo cho chúng tôi đọc và phân tích bài thơ Le Pont Mirabeau của Apollinaire. Tôi ấn tượng với Mirabeau từ đó, ấn tượng về mối tình buồn, ấn tượng với cách ví von về tình của tác giả để rồi nhận ra rằng đời này ra chẳng có gì là tồn tại mãi mãi. Tất cả đều trôi theo dòng chảy của thời gian, chỉ có kỉ niệm là ở lại. Như là mối tình xưa đó của ông, dù qua rồi nhưng có điều gì hình như vẫn sống.



      Tôi nhớ cả những ngày lang thang ở Quảng trường Concorde nằm ở đầu đại lộ Champs Élysées có cột đá Obelisque ở giữa trung tâm. Nghe đó là món quà mà vương quốc Ai Cập tặng cho nước Pháp vào năm 1831. Từ quảng trường này, qua khu vườn Tuileries là đặt chân tới đại lộ Champs Élysées - con đường mà hơn 60 triệu người Pháp cho rằng đó là con đường đẹp nhất thế giới. Đại lộ này được bao bọc bởi gian xanh với những hàng cây nối dài. Cái cảm giác được ngồi trong quán cà phê nhâm nhi, ngắm nhìn dòng người qua lại tạo nên mùa thu Paris vô cùng quyến rũ.



      Tôi nhớ cảm giác trèo qua mấy trăm bậc thang để leo lên Khải hoàn môn (Arc de Triomphe). Với độ cao 111m, từ phía này bạn có thể ngắm những kỳ quan của Paris từ nhiều hướng. Phía Bắc là thánh đường Sacre Coeur, phía Nam là điện Panthéon, phía Đông là nhà thờ Đức Bà Paris và phía Tây là tháp Eiffel. khó để diễn tả được cảm giác lâng lâng khi thả lỏng mình giữa toàn cảnh Paris và tôi nhận ra rằng nơi đây cũng có những góc nhìn xuống Paris rất đẹp chứ nhất thiết phải xếp hàng mấy tiếng đồng hồ để trèo lên tận tháp Eiffel mới có thể chiêm ngưỡng Paris như hàng trăm bạn trẻ khác ngoài kia làm. Khi chúng tôi chạm đến bậc thang cuối cùng, Mắm Tôm vừa vừa giảng giải cho tôi về lịch sử: “Khải hoàn môn này được Napoleon quyết định xây để vinh danh quân đội, ngay dưới nơi này có vị trí dành để tưởng niệm chiến sỹ vô danh người Pháp hy sinh trong trận chiến.”



      Tôi thậm chí nhớ cả cái mùi tàu điện ngầm ở Paris trong những ngày lang thang nơi đó. Kì lạ chưa! Nếu như London có hệ thống tàu điện ngầm lâu đời nhất và Copenhagen có hệ thống tàu điện ngầm vô cùng đại Paris lại là nơi có hệ thống tàu điện ngầm dày đặc nhất thế giới. Khi ngồi trong tàu điện ngầm người giàu, kẻ nghèo tất cả đều như nhau. Bạn có thể gặp người rách rưới hoặc bạn cũng có thể “chạm trán” doanh nhân.



      Và tất nhiên, tôi nhớ cả những khu vườn Paris rực rỡ sắc màu hoa với những buổi chiều cùng Mắm Tôm dạo. Tôi nhớ khu vườn Tuileries, nhớ cả những chiếc ghế bên cạnh vòi phun nước mà tôi ngồi đó cả giờ đồng hồ, chịu nhấc mông đứng dậy đến nỗi Mắm Tôm phải thở dài ngao ngán. Tôi nhớ cả khu vườn Luxembourg đẹp ơi là, với những hàng cây xanh thẳng lối được cắt tỉa rất công phu, với những công trình điêu khắc nằm rải rác, với những vườn hoa đủ màu xanh đỏ tím vàng, thế mà trong buổi sáng sớm tinh mơ khi lang thang trong đó, tôi chỉ toàn nhìn thấy những , những cậu trai nằm thảm cỏ đọc sách, ôn bài. Tôi như thấy mình sống lại tuổi 15 thuở nào, nhớ lại những câu thơ mình từng viết trong mùa thu cũ cho người bạn đặc biệt học cùng lớp năm xưa:



      “Có phải vì



      Hay là vì em



      Mà tình trở thành dang dở



      Hay lỗi tại mùa thu



      Đưa chúng mình cách xa?”



      Từ Khải hoàn môn, chúng tôi theo con đường dẫn về tháp Eiffel. đường , tôi hỏi Mắm Tôm: “ Đố biết tại sao tháp lại có tên là Eiffel?” chàng nhìn tôi rồi buông câu mà buồn suy nghĩ: “ biết!”. Thế là tôi thao thao: “Này nhé, tháp Eiffel được lấy tên từ người kỹ sư Gustave Eiffel bởi ông là người phát minh ra ý tưởng này, nhưng người biến ý tưởng này thành thực lại là người khác. Dẫu vậy người ta vẫn biết ơn người sáng lập ra công trình này và đặt luôn tên ông thành tên tháp.” Mắm Tôm sau khi nghe tôi “thuyết trình” xong quay sang tôi hỏi: “Em đọc khi nào và đọc ở đâu thế?” “Hi hi, đọc tàu hôm qua khi ngủ và đọc trong cuốn sách du lịch mua đấy.”



      Khi đặt chân mình bên cạnh tháp, lòng tôi mang cảm giác rất bồi hồi. Xung quanh là khách du lịch với đủ mọi màu da, những đôi tình nhân tay trong tay lặng lẽ trao cho nhau những nụ hôn nồng ấm. Tôi chọn cho mình góc khuất, đứng ở đó và nguyện cầu cho mình, cho tất cả những người thế gian này và được . Vì suy cho cùng , như Trịnh Công Sơn “cuộc sống thể thiếu tình ”, vì đó là thứ làm cho ta hạnh phúc nhất mà cũng đau khổ nhất. Bất chợt tôi nhớ tới mối tình mong manh như gió thoảng qua của mình để rồi nhận ra rằng hình như mình vẫn còn giữ tình có thực.



      Dòng cảm xúc trôi theo những bước chân đưa tôi tới Notre Dame, ánh nắng chiếu vàng óng hắt lên tháp đôi. Trong khi Mắm Tôm mải mê chụp ảnh, tôi chăm chú đứng nhìn dòng người qua lại, các lớp người từ trẻ đến già, từ Á đến Âu nô đùa, thư giãn, ngắm nhìn những trò thú vị cầu. Trẻ em cho chim ăn, những đàn bồ câu bay phấp phới giữa bầu trời. Tự nhiên tôi nhớ tới tuổi thơ của mình, nhớ tới tuổi thơ của những em ở miền quê lam lũ. Có lẽ, ước mơ của chúng chẳng phải là lần đặt chân đến Paris để cho bồ cầu ăn đâu, ước mơ của chúng giản dị và bình thường lắm: Thoát khỏi đói nghèo thôi! Tôi kể cho Mắm Tôm nghe điều đó, quay sang nhìn tôi bảo: “Em lạ , chơi tận hưởng , sao cứ nghĩ về những điều đó. Thương chúng làm điều gì đó sau này cho chúng chứ phải là nghĩ tới chúng bây giờ.” Tôi lủi thủi bước sau rồi “gạ” về quận 13 ăn phở. Nghe ở đó nổi tiếng với ẩm thức Việt Nam. Là người đất nước Việt Nam và cũng từng đến Việt Nam vài lần, rồi phải lòng với Phở, với Bún Chả nên khi nghe tôi đề nghị ăn tối ở quận 13, chàng hưởng ứng nhiệt liệt và mời tôi luôn bữa tối hôm đó. Chúng tôi đáp tàu điện ngầm tới nơi mà người Paris hay gọi là “phường Châu Á” và ghé vào quán ăn với tấm biển là nhà hàng Việt Nam, nhưng lại hề có người Việt nào. Mỗi đứa gọi tô phở với vài ba miếng thịt và mấy lọn rau thơm. Khi người phục vụ đặt tô phở lên trước mặt mà tôi vẫn chẳng thấy mùi thơm bốc lên như hồi còn được ăn ở Việt Nam. Nhưng vì đói nên cả hai vẫn cắm cúi vào ăn, ăn xong chàng phàn nàn về đồ ăn ở đây, nào là ăn phở ở nhiều nơi nhưng nơi nào có thể sánh bằng phở vỉa hè ở Việt Nam. Tôi cũng thất vọng kém gì , có lẽ tôi đã quá ảo tưởng khi phải đòi hỏi rằng cái quận 13 danh tiếng ở Paris ấy phải hoàn hảo với những món ăn đậm chất Việt Nam và sạch trong nhà hàng ở Pháp. Tôi hỏi đùa Mắm Tôm rằng nếu dịp nào đó trở lại Paris, có ghé lại quận 13 để ăn tô phở Việt Nam nữa , tủm tỉm cười thay cho câu trả lời và tôi hiểu im lặng đó lên điều gì.



      Ngày cuối cùng ở lại Paris, chúng tôi tới thánh đường Sacré Couer nằm đồi Montmartre. Phải leo lên mấy trăm bậc thang tôi mới lên được phía này, những con đường dốc trải dài, những ngôi nhà cổ kính đẹp như tranh. Sacré Couer là nhà thờ Thiên Chúa giáo nổi tiếng ở Paris với cấu trúc rất đẹp và công bằng mà , nơi đây mới chính là trái tim của Paris. Tôi những giờ phút ngồi những bậc thang hay những thảm cỏ nhắm mắt và đắm chìm trong những giai điệu của những người nhạc sĩ vô danh bên đường phố hay đơn giản là lang thang xem những nghệ sĩ vẽ tranh đường phố ở Quảng trường Tertre nằm ngay sau Sacré Coure. Chiều tàn chúng tôi dành thời gian ngắm nhìn Paris ở góc khác, nơi có chỗ cho sành điệu nữa mà là những mảnh đời trái ngược khiến tôi thẫn thờ và trở nên suy tư hơn.



      Tôi rời Paris vào chiều nắng đẹp với bao ý nghĩ ngổn ngang. Cuối cùng tôi cũng thực được ước mơ được đặt chân tới kinh thành ánh sáng lần. Trong đầu tôi ra câu hỏi của Mắm Tôm khi chúng tôi cùng dạo, hỏi tôi rằng: “Nếu được lựa chọn, em có muốn sống ở Paris ?” Tôi đăm chiêu rất lâu rồi bảo đùa : “Vứt em ở đâu em cũng sống được mà.” Ừ, đúng là như thế nhưng nếu phải chọn một nơi để sống đến cuối đời, có lẽ tôi chọn Paris. Bởi tôi thích những ngày dài đâu cũng phải chui vào tàu điện ngầm, có những đoạn bạn có thể chiếm ba, bốn ghế cho riêng mình, có những đoạn người chen chúc nhau đến nỗi bạn thể cựa hay nhúc nhích thêm bước nào được nữa. Tôi thích lắm cái hối hả triền miên và quá nhiều những mảnh đời trái ngược nhau ấy. Khác với Berlin hay những thủ đô khác của Châu Âu, giàu nghèo ở Paris được phân chia cách rệt. Tôi từng lạc vào một khu phố giàu có với những chiếc đồng hồ giá hàng trăm nghìn euro để rồi tần ngần vì mình… nghèo kiết xác mà cứ lân la tới đó. Nhưng rồi khi lạc vào một khu phố nghèo, nơi mà mỗi chủ nhật người ta bán đồ second hand dưới gầm cầu, thậm chí cái áo rách hay cái thắt lưng ngả màu cũng được đem ra để… bán đấu giá, để rồi lúc đó tôi chợt nhận ra rằng mình con người giàu có.



      Ở Paris, mọi thứ đều có thể, người giàu sống được người nghèo cũng bám trụ được. Cơ hội làm giàu và được dấn thân ở thủ đô kiều diễm này khá cao, nhưng nếu bạn chỉ là người bình thường hay nghèo khổ bạn cũng có thể tồn tại. Đối với nhiều người, tồn tại là được sống. Thế là đủ. Nhưng đối với tôi khác! Ừ là sống, nhưng sống như thế nào mới là điều quan trọng. Tôi sợ cuộc sống bon chen, đắt đỏ và cũng đành lòng nhìn những người vô gia cư nghèo khổ mà ở bất cứ ngõ ngách nào ở Paris mà mình cũng có thể nhìn thấy. Nhưng tôi vẫn thích được trở lại Paris, được thả mình trong những khu vườn, được đứng những cây cầu bắc qua dòng sông Seine hiền hòa để cảm nhận được yên bình toát ra trong tâm hồn bé . Nhiều người bảo tôi văn thơ nên tâm hồn lúc nào cũng treo ngược ở mây. Biết làm sao được, miễn biết chân mình chạm ở dưới đất là được mà, có phải Paris?












      [PHẦN LAN]









      Helsinki - rồi nhớ











      Bình yên đảo Suomenlinna



      TÔI CÓ MẤY NGƯỜI ĐỒNG nghiệp Đức Bắc Âu về khen lấy khen để Stockholm và Oslo, nhưng khi tôi hỏi về Helsinki họ đều lắc đầu và bảo chưa vì “thành phố đó có gì đặc biệt.” ra nếu chưa mà đánh giá như vậy tôi thấy oan và tội nghiệp cho Helsinki quá, vì mỗi người đều có tiêu chuẩn riêng cho những điều mà họ cho là đặc biệt. Dẫu vậy, tôi vẫn dám kì vọng quá nhiều vào thành phố này và tới Helsinki bằng tất cả niềm háo hức, nhưng khi trở về, lại da diết nhớ mong.



      Helsinki vào những đầu tháng Chín, thời tiết rất đẹp và vô cùng dễ chịu. Nắng trải dài những vòm cây và nước lóng lánh màu óng ả. Helsinki đẹp, cái đẹp dịu dàng của thôn nữ, kiêu sa mà vẫn nồng nàn. Những ngày ở đây, tôi may mắn có được quan tâm, thương và quý mến của Sara, Thảo và Dung. Dù mới chỉ gặp tôi lần đầu nhưng những Hải Phòng tốt bụng ấy đón tiếp tôi bằng tất cả chân thành. Sara thậm chí còn xin nghỉ việc suốt cả tuần để đưa tôi chơi, nào là Helsinki, Tampere, Turku, Tallinn… Sau này khi về lại Đức, thỉnh thoảng tôi vẫn thường hay ngồi mình, nhớ lại và mỉm cười về những ngày tươi đẹp ở đất nước phương Bắc ấy.



      Tôi nhớ những buổi chiều cùng Sara hẹn hò với Vy và Nhàn rồi cùng nhau lang thang những con phố trải dài ở Helsinki, ghé thăm Nhà thờ Trắng - biểu tượng của thành phố, được thiết kế bởi kiến trúc sư người Đức Carl Ludwig Engel. Bên trong nhà thờ tương đối giản dị và có nhiều bố cục đặc biệt như những nhà thờ mà tôi thường thấy ở các thành phố Châu Âu khác nhưng màu trắng phía bên ngoài tạo nên nét nổi bật của nhà thờ này. Ngay cạnh nhà thờ là Quảng trường Senaatintori, vào những ngày nắng đẹp mọi người tập trung ở đây khá nhiều. Dường như từ lâu nơi này là điểm hẹn của khách thập phương, ngay giữa quảng trường là Đài tưởng niệm Sa hoàng Alexander II, người có công rất lớn đối với Phần Lan. Bằng những cải cách của mình, ông là người cho ra đời tiền tệ riêng cho đất nước Phần Lan cũng như đưa tiếng Phần Lan thành ngôn ngữ quốc gia ngang hàng với Thụy Điển. Để tỏ lòng biết ơn ông, người Phần Lan cho xây dựng đài tưởng niệm ngay ở quảng trường Senaatintori vào năm 1894 - 13 năm sau ngày ông bị ám sát.



      Cách Nhà thờ Trắng xa là Nhà thờ Đỏ (vì được xây bằng gạch đỏ) có kiến trúc bên trong tuyệt vời với những trụ cột đá được làm bằng đá granite vàng. Vào thời điểm xây dựng nhà thờ này, nó là biểu tượng về thống trị của Nga đất nước Phần Lan và đây cũng là nhà thờ Thiên Chúa giáo lớn nhất Tây Âu. Chúng tôi dạo dọc quanh Nhà thờ Đỏ, nhìn xuống bến cảng với những chiếc thuyền bé xinh xinh nằm phơi mình trong nắng rồi rẽ vào khu chợ trời, thưởng thức món Kalalautanen. Đây là trong những đặc sản phổ biến ở Helsinki, có rau, khoai tây chiên ăn kèm với hai món cá Muikku và Lohi. Sara và tôi gọi chung đĩa mà vẫn ăn hết mặc dù rất ngon. Lúc đó tôi hiểu tại sao ngày xưa ông Tổng thống Pháp Jaques Chirac lại “hết lòng” chê ẩm thực của Phần Lan đến nỗi người Phần Lan tự ái và “ thèm” bỏ phiếu cho Pháp trong cuộc tranh cử quyền đăng cai kiện thể thao lớn nhất hành tinh năm 2012 và thắng cuộc trong lần tranh cử ấy.



      điều ở Helsinki khiến tôi rất thích đó là thành phố này có rất nhiều đảo, mỗi hòn đảo đều mang vẻ đẹp riêng nhưng nổi bật nhất vẫn là đảo Suomenlinna. Chỉ cách Helsinki 15 phút thuyền, Suomenlinna là pháo đài rất lớn do người Thụy Điển xây dựng từ năm 1784 để bảo vệ trước tấn công của Nga vì lúc đó Phần Lan vẫn còn là phần của Thụy Điển. Khắp quần đảo đều tràn ngập màu xanh của cây cối, mọi người có thể cắm trại, nướng thịt, tắm nắng hay chỉ đơn giản là nằm thư giãn đọc sách trong gian thơ mộng. Ngoài những căn hầm còn sót lại ở đâ, Suomenlinna còn là nơi lý tưởng để chụp ảnh cưới của các bạn trẻ.



      ©STENT



      Những giọt nắng đầu tháng Chín ở Suomenlinna quá gay gắt, tôi thả lỏng mình trôi theo những dòng nước cuộn chảy phía dưới rồi trèo lên những mỏm đá hoang sơ. Những bông hoa vàng nằm sát triền cỏ dường như cũng cố khoe vẻ đẹp của mình trước biển. Phía dưới chân tôi, sóng lặng lẽ vỗ về bên triền cát, tôi khẽ mỉm cười, chợt nhớ tới bài thơ viết hồi 23 tuổi khi ví mình là cát, còn người là sóng với lời nhắn nhủ thiết tha, chân thành:



      “Biển chiều vẫn hát



      Khúc nhạc đồng giao



      Ơi sóng dạt dào



      Chớ đừng tan nhé…”








      Nhà thờ Trắng



      Nhưng cuối cùng vẫn tan và trôi về với biển, để lại tôi - hạt cát mong manh, bé giữa đời…



      Nếu Suomenlinna là hòn đảo được cho là hấp dẫn nhất Helsinki Seurasaari cũng khoác lên mình vẻ đẹp cũng kém phần sang trọng. Đảo này nối với đất liền bằng cây cầu trắng dài 200m và chỉ có chuyến xe buýt thứ 24 từ trung tâm tới nơi này. Khi dạo hòn đảo này tôi có cảm giác như mình trong cánh rừng thu vì cây cối ở đây khá nhiều và chỉ có hai bãi tắm. Người dân ở Helsinki tới đây chạy bộ nhiều, khách du lịch hầu như là rất ít nên đôi khi tôi có cảm giác Seurasaari giống như hòn đảo hoang sơ, nhưng nó lại là chốn bình yên cho những ai thích lặng lẽ giữa biển trời thiên nhiên.



      điều chỉ ở Helsinki riêng mà cả Phần Lan chung, đó là đất nước này luôn luôn sử dụng song hành hai thứ ngôn ngữ là tiếng Phần Lan và tiếng Thụy Điển. Trong trường học, học sinh Phần Lan học tiếng Thụy Điển, đường phố các biển chỉ dẫn cũng đều bắt buộc phải có tiếng Thụy Điển ngay bên dưới tiếng Phần Lan mặc dù chỉ có 5% số lượng người Phần Lan sử dụng ngôn ngữ này. Trong khi đó ở Thụy Điển họ chỉ sử dụng ngôn ngữ của đất nước họ mà thôi. Tôi đem thắc mắc này ra hỏi Sara được bé trả lời rằng trước đây phần của Phần Lan bị lệ thuộc vào Thụy Điển, tiếng Phần Lan khi đó chỉ là ngôn ngữ thứ hai, rất nhiều trẻ em Phần Lan sinh ra và lớn lên ở đó đều phải học tiếng Thụy Điển, sau này khi Phần Lan giành được độc lập, người Phần Lan vẫn muốn tiếp tục sử dụng tiếng Thụy Điển để nếu các em ấy có “tìm về cội nguồn” cũng đỡ vất vả.



      Những ngày ở Helsinki là những ngày thú vị trong chuyến Bắc Âu của tôi, tôi quên những ngày lang thang đảo, những chuyến tàu giữa Tampere - Helsinki - Turku. đến Tampere và Turku, đó là hai thành phố tương đối lớn ở Phần Lan nhưng tôi chưa thấy cái sân bay nào bé như sân bay Tampere đến nỗi tôi đùa với Sara rằng nếu ai sợ lạc ở sân bay phải đến Tampere. Còn Turku là thành phố nằm bên bờ sông Aura trước đây là thủ đô của Phần Lan và cũng là thành phố cổ nhất đất nước này, được mệnh danh là thành phố văn hóa Châu Âu năm 2011 nhưng hiểu sao, tôi vẫn thấy Helsinki là đẹp nhất.



      Ngày cuối cùng trước khi tạm biệt Helsinki, Sara dẫn tôi tắm hơi. Đây là điều bắt buộc làm khi tới Phần Lan. ra trong khu nhà của Sara cũng có phòng tắm hơi dành cho những người dân sống trong khu nhà trọ đó, nhưng do phải đăng kí giờ trước nên Sara đưa tôi ra trung tâm luôn vì sau đó chúng tôi có hẹn với gia đình Việt. Người con dâu xứ Thanh ấy đãi chúng tôi món phở Nam Định ngon tuyệt vời mà sau này mỗi lần nghĩ lại tôi vẫn nhớ. Đôi khi người ta mảnh đất nào đó nhất thiết vì phong cảnh, mà có khi là tình người ấm áp, và đó cũng là trong những lý do khiến tôi thấy Helsinki luôn xa mà gần trong kí ức.











      Nhà thờ Đỏ



      Tôi rời Helsinki vào lúc 6h sáng để kịp cho chuyến tàu sang Tallinn, ngồi chuyến xe buýt về bến cảng, nhìn những sợi nắng ban mai phủ những ngôi nhà và lấp lánh biển, tôi thấy nhớ Helsinki cồn cào dù thời điểm ấy tôi vẫn chưa thực rời xa Helsinki. Trước khi tới Helsinki, bạn tôi bảo: “Hết chỗ rồi hay sao mà qua xứ ấy?” nhưng qua Helsinki rồi, tôi mới biết mình sai khi đặt chân tới nơi này. Nắng, gió và mùi hương của biển cùng những tiếng cười trong vắt của những người bạn nơi này còn in đậm mãi trong kí ức của tôi.












      [SEC]









      Praha - Xứ sở tình











      Thành cổ Praha nhìn từ chân cầu thành phố



      KHI TÔI VỚI KRISTINA - bạn người Đức của mình rằng tôi qua Praha trong kì nghỉ, Kristina trầm trồ khen: “Praha cổ, đẹp và thơ mộng lắm đó. Nhớ ghé thăm Cầu Tình nữa nha.” Tôi mỉm cười, bởi từ lâu tôi luôn kì vọng Praha như thế, nơi mà lẽ ra tám năm về trước tôi đặt chân tới đó nếu quá sợ say xe trong những ngày đầu ở Châu Âu.



      Là thủ đô và cũng là thành phố lớn nhất của Cộng hòa Séc, Praha được biết đến như thành phố vàng với cây Cầu Tình Charles mộng mơ bên dòng sông Vltaya. Thành phố này vẫn giữa được nguyên vẻ đẹp cổ xưa với những công trình kiến trúc độc đáo và được công nhận là Di sản văn hóa thế giới vào năm 1992. Khi tới Praha, điều đầu tiên khiến tôi ngạc nhiên là thành phố này có nhiều người Việt nhất trong tất cả những thành phố châu Âu tôi từng đặt chân đến. bạn người Việt tôi gặp ở Munich sống ở Praha cũng cho tôi biết rằng có lẽ ở Châu Âu, cộng đồng người Việt tập trung nhiều nhất ở Séc và Praha chỉ là ví dụ điển hình. Người Việt ở bên này phần lớn kinh doanh và buôn bán, chợ Sapa ở Praha và các chợ vùng ven biên giới Đức từ lâu trở thành “mảnh đất của người Việt” ở đây.



      Quảng trường Wenceslas



      Quảng trường Wenceslas còn có tên gọi khác là Quảng trường Dân chủ. Quảng trường này được đặt theo tên của vị thánh đỡ đầu của xứ Bohemia - Saint Wenceslas và nằm ngay ở trung tâm Praha, đây là nơi chứng kiến những thăng trầm lịch sử của Séc. Nằm quảng trường là tượng thánh Wenceslas và bia đá của hai người thanh niên trẻ mà mãi sau này khi trở lại Đức tôi mới biết đó là hai chàng sinh viên hi sinh cuộc đời mình để chống lại Chủ nghĩa Cộng sản Liên bang Xô Viết.



      Từ quảng trường này, người ta có thể nhìn thẳng xuống đại lộ Václavské Náměstí với rất nhiều cửa hàng bán đồ lưu niệm, đặc biệt là pha lê, các quán bar, các tiệm ăn, khách sạn. Chúng tôi tới Praha đúng vào ngày tổ chức trình diễn nhạc dân ca thế giới và tất nhiên chúng tôi bỏ lỡ cơ hội này dừng chân lại cùng những du khách nước ngoài khác, lắng nghe những giai điệu dân ca từ Ba Lan, Áo, Đức…



      Nằm ngay ở quảng trường này là tòa thị chính nổi tiếng với chiếc đồng hồ thiên văn được chế tạo từ năm 1410. Điểm nổi bật thu hút khách du lịch ở đây là mỗi giờ, các bức tượng cử động và khi tới 12h có 12 vị tông đồ nối nhau từ hai cửa ra phía trước. Ngoài ra, trong trung tâm này còn có đài tưởng niệm của vỠanh hùng người Séc có tên là Jan Hus - người bị thiêu sống khi chịu bỏ tư tưởng tôn giáo cấp tiến của mình.



      Cầu Tình Charles



      qua những khu phố cổ, dần dần chúng tôi cũng tới được cây cầu Charles mà người Việt Nam vẫn hay gọi là Cầu Tình. Ở Praha có rất nhiều cầu bắc qua dòng song Vltava nhưng Cầu Tình vẫn là nơi thu hút nhiều du khách nhất. Riêng tôi lại thích ngắm Cầu Tình từ những cây cầu khác hơn.



      Cầu Tình là cây cầu bằng đá lâu đời nhất châu Âu bắc qua dòng sông Vltava, nối hai quận Malá Strana và Staré Město với nhau và được xây dựng từ thế kỉ XIV mang tên Hoàng đế Kar IV. Cầu Charles dài chừng hơn 500m và rộng khoảng 9m, cầu này chỉ dành cho người bộ, bởi thế nên khách du lịch kéo tới đây nườm nượp. Tôi đếm hết được những bức tượng ở cầu nhưng ngó qua cũng phải cỡ 30 bức tượng lớn khác nhau của những danh nhân Séc gắn liền với từng giai đoạn lịch sử của đất nước này. Nổi bật nhất vẫn là bức tượng của Thánh Nepomuck mà người ta vẫn truyền miệng rằng nếu chạm vào chân bức tượng đó, bạn có cơ hội quay trở lại Praha. chỉ có vậy, dọc hai bên đường có vô số những sạp bán đồ lưu niệm, tranh ảnh, đồ trang sức và những món quà bằng gỗ, bằng đá rất dễ thương. Những người họa sĩ và nhạc sĩ đường phố cũng có dịp trổ tài ở đây. Cứ được đoạn lại có “người mẫu” làm dáng trước những nét vẽ mềm mại, tôi cũng định bỏ ra 30 euro để lưu lại bức chân dung của mình nhưng vì phải đợi quá lâu, mà bàn chân cứ muốn bước tiếp nên đành lỡ hẹn với người họa sĩ đường phố nơi đây.



      Cầu Charles đẹp và lãng mạn nên cũng dễ hiểu khi nhiều đôi tình nhân chọn nơi này để chụp ảnh cưới. Từ cầu, người ta có thể ngắm nhìn Cung điện Hoàng Gia, Nhà thờ thánh Vitus và cả những ngôi nhà mái đỏ nhấp nhô phía xa xa. Dòng song Vltava lặng lẽ trôi, những đàn chim cứ sải cánh, những chú vịt trời cũng lang thang như quen với có mặt của du khách, những công trình kiến trúc soi mình dưới bóng nước. Lướt nhìn xung quanh, tôi thấy nhiều đôi uyên ương đứng hôn nhau. Tôi ghen tị với hạnh phúc của họ, bởi phút giây đó tôi cũng hạnh phúc. Có phải vì thế mà nơi đây được gọi là cầu Tình.



      Thành cổ Praha



      Rời cầu Charles, chúng tôi rảo bước tới thành cổ Praha. Những con đường ở đây khá dốc. Thành cổ nằm khu đồi cao nên khi lên tới đây, người ta có thể nhìn thấy xuống toàn bộ phía dưới. Khung cảnh Praha lúc xế chiều đẹp vô cùng.



      Thành cổ là công trình kiến trúc đẹp và cổ kính nhất Praha và cũng là cái nôi của lịch sử thủ đô, bởi đây từng là nơi trú ngụ của hầu hết các vị vua ở đất nước này. Ngày này, thành cổ vẫn là nơi diễn ra những hoạt động kinh tế, xã hội và chính trị ở Séc. Lâu đài Praha nằm ở trong khu thành cổ là biểu tượng của thành phố và cũng là tòa lâu đài vĩ đại của châu Âu. Đó là quần thể kiến trúc rộng tới 45 ha với nhiều tháp, nhiều công trình như Nhà thờ St. Vitus, St. George, Cung điện Tây Ban Nha, Vườn hoa mùa hè Hoàng Gia… Mỗi công trình đều có vẻ đẹp và những câu chuyện lịch sử riêng. Tôi biết nhiều về lịch sử Séc, chỉ nhớ là từng đọc trong cuốn sách rằng: Công tước Borivoj I là người cho khởi công xây dựng những công trình đầu tiên trong khu thành cổ này, từ cung điện cho đến nhà thờ và rất nhiều công trình khác. thời gian sau, cung điện bị cháy, hơn thế kỷ sau vua Karl IV mới cho tu sửa lại và xây dựng thêm cả Nhà thờ thánh Víta. nay, lâu đài là nơi ở của các vị Tổng thống của Cộng hòa Séc. Bên ngoài cổng chính lâu đài bao giờ cũng có rất nhiều người tập trung để nhìn thấy Tổng thống. Các tòa nhà trong lâu đài đại diện cho hầu như tất cả các phong cách kiến trúc của thiên nhiên kỷ quan.



      Chúng tôi dạo bước những con phố ở thành cổ Praha và bắt gặp những người lính đứng gác ngoài cổng thành. Khách du lịch thay phiên nhau đứng cạnh để chụp hình, dĩ nhiên người bạn đồng hành cũng chụp cho tôi được tấm hình làm kỉ niệm. Mặc cho khách du lịch đứng làm trò cười và cố tình chọc ghẹo, những người lính vẫn đứng sừng sững như những pho tượng.



      Khi đêm đến, Lâu đài Prague tỏa sáng với ánh đèn rực rỡ, lung linh và huyền ảo. Như ai đó từng về thành phố này: “Nếu Praha là bức tranh đó là bức tranh mà các nghệ nhân chuyền tay nhau tô vẽ, hoàn thiện trong suốt chiều dài lịch sử ngàn năm”.








      Phiên đổi gác diễn ra trong khu thành cổ



      Rời khu thành cổ, chúng tôi men theo những con đường dốc lát đá với những vườn nho trĩu quả và xuống phố. Chiều Praha bình yên. Có lẽ bởi nơi đây là trong những thành phố hiếm hoi của Đông Âu bị tàn phá bởi chiến tranh nên các công trình cổ kính vẫn nguyên vẹn. Phố xá ở đây hẹp và dài, với những con đường chạy ngoằn ngoèo theo các triền đồi, trong đó rất nhiều con đường vẫn còn được lát đá. Tôi thích cách bài trí của người dân Praha khi thiên nhiên ưu đãi họ phong cảnh hữu tình và họ cũng biết tận dụng tối đa vẻ đẹp ấy để làm hài lòng du khách. Men theo những con đường lát đá là những quán cà phê phủ đầy hoa, từ đây khách du lịch vừa có thể thưởng thức bia Séc, vừa có thể nhìn xuống thung lũng với những vườn nho xanh ngắt.



      Mới là tháng Tám nên ngày ở Praha vẫn còn dài, sau khi ăn bữa tối trong quán ăn ở dưới hầm, chúng tôi lại băng qua những cây cầu và ngắm thành phố ở góc khác. Trong khí trong lành và sạch , chúng tôi men theo những con đường và bước vào thiên đường của những món quà lưu niệm. Séc từ lâu nổi tiếng với pha lê, những cửa hàng bán pha lê ở đây rất nhiều và sang trọng với những lọ hoa, những sợi dây chuyền, những chiếc vòng luôn lấp lánh sắc màu rực rỡ.



      ©STENT: http://www.luv-ebook.com



      Khi những giọt nắng cuối ngày bắt đầu tắt, chúng tôi quay về khách sạn và bắt đầu leo lên những con dốc với xung quanh toàn là màu xanh của cây cối và hoa lá. Ven đường là những vườn táo, vườn nho, quả còn nhưng tiện tay nên chúng tôi vẫn… hái ăn thử. được đoạn, tôi sững sờ khi thấy đồi cherry, những quả cherry màu đỏ treo lơ lửng phía cao khiến tôi thể nào với tới được. Tôi quay ra phía sau thấy mình leo được đoạn khá cao, từ này người ta có thể ngắm mặt trời từ từ lặn xuống. Praha thanh bình và đẹp như bức tranh dù tôi biết những gì mình nhìn thấy hoàn toàn có thực. Cách chỗ chúng tôi đứng xa là ngọn tháp Petřín, người ta gọi đó là Tháp Eiffel của Praha.



      Niềm tự hào của Praha chỉ có Cầu Tình, Thành cổ, Quảng trường Wenceslas mà còn rất nhiều công trình kiến trúc đặc sắc khác nữa như Nhà hát uốc gia, Ngôi nhà Nhảy múa (Dancing House), Đền Thánh Đức Mẹ Loreto, Thính phòng Rudolfinum… Để khám phá được hết những nét đẹp của thành phố này, có lẽ người ta cần nhiều hơn là những ngày cuối tuần ngắn ngủi. Những thung lũng, những ngọn đồi, những ngôi nhà mái đỏ, những cây cầu và dòng sông Vltava còn theo mãi dấu chân tôi…












      [TÂY BAN NHA]









      Sevilla - Chưa xa nhớ











      Những chú chim bồ câu ở Plaza de America



      ĐẶT CHÂN TỚI TÂY BA NHA lần đầu tiên vào những ngày giữa tháng Sáu năm 2009, tôi bị sốc bởi thời tiết khắc nghiệt của xứ sở này. Sau gần ba tiếng bay từ Đức, bạn thân Nienke đón tôi ở sân bay Sevilla. Khi xuống máy bay, câu đầu tiên tôi thốt ra là: “Trời ơi, nóng quá!” Trước đó tháng, Nienke nhắn tin dặn tôi: “Bên này khoảng 38 độ, nhớ mang váy và quần áo mát mẻ nhé, thời tiết bên này như ở Đức đâu.” Nhưng khi lái xe đưa tôi về nhà, Nienke bảo tôi: “ tại bây giờ ở Sevilla là 44 độ.” Tôi chỉ còn biết lau mồ hôi và : “Chẳng trách…”



      Sevilla nằm ở phía Tây Nam của Tây Ban Nha và cũng là thủ phủ của bang Andalusien. Lần đầu đến Tây Ban Nha, tôi chỉ bị choáng bởi thời tiết mà còn bởi Tây Ban Nha khác Đức nhiều quá. Cùng nằm trong châu Âu và cũng chỉ cách nhau ba giờ bay nhưng quả có quá nhiều khác biệt giữa hai đất nước này. “Tây Ban Nha có nền văn hóa giống với những nước Nam Mĩ nhiều hơn”, Nienke vừa lái xe vừa tranh thủ kể cho tôi về đất nước mà ở trong vòng năm qua. Sau khi tốt nghiệp phổ thông, dù học rất giỏi nhưng cũng như rất nhiều những bạn trẻ khác ở Đức, Nienke chọn ngay con đường vào đại học mà quyết định làm aupair[1] năm vì nàng dành tình cho đất nước Tây Ban Nha từ lâu. “Từ ngày làm aupair, cuộc sống của tớ cũng thay đổi rất nhiều, nhưng theo chiều hướng tích cực. Tớ học được rất nhiều điều và có những trải nghiệm rất quý báu”. Lời tâm của Nienke làm tôi thấy tiếc nuối cho quyết định của mình ngày xưa, bởi ngày đó tôi cũng làm giấy tờ sang Pháp năm theo diện aupair, nhưng rồi sau đó lại đầu quân cho công ty nội thất của Đức và bỏ dở luôn kế hoạch của mình.



      [1] Aupair là cụm từ ngữ hóa từ tiếng Pháp có nghĩa là “đôi cặp” hoặc “ngang hàng”, để chỉ một bạn trẻ (thường là nữ) sống với một gia ̀nh nuôi ở nước ngoài dựa cơ sở bình đẳng. Những người làm công việc aupair sẽ giúp đỡ gia ̀nh đó chăm sóc trẻ, làm việc nhà hoặc cả hai trong thời gian sống như một người khách của gia ̀nh và thông thường nhận được một khoản tiền tiêu vặt.



      Nienke dẫn tôi về nhà chào gia đình bố mẹ nuôi của . Mẹ nuôi là người Đức và giảng dạy ở trường đại học Sevilla và bố nuôi là bác sỹ người Tây Ban Nha. Họ có với nhau ba đứa con, hai con quá lém lỉnh, còn cậu út lại rất hiền. Vì muốn làm phiền tới gia đình bạn nên tôi thuê hostel và ở cùng phòng với người Pháp, nhưng hầu như ngày nào Nienke cũng ghé qua đón tôi về nhà ấy. Khi bơi với bọn trẻ, khi được bố mẹ mời qua ăn trưa với những món Tây Ban Nha do giúp việc người Maroko chế biến, khi cùng gia đình bố mẹ nuôi dự buổi biểu diễn văn nghệ ngoài trời. Thời gian còn lại Nienke đưa tôi chơi suốt mọi nẻo đường Sevilla. Do thời tiết quá nóng nên tôi chọn phương án dậy sớm và chơi đêm vì đó là hai thời điểm đẹp và mát mẻ nhất trong ngày.



      Sáng sớm nàng đến đón tôi ở Hostel rồi hai đứa lân la xem những kỳ quan của Sevilla gần đó như quận của người Do Thái, vườn cam, và những khu phố đông kẹt người khi trời tắt nắng. Tầm đầu giờ chiều cho đến 4h chiều ở ngoài phố hầu như rất vắng người vì họ bận nghỉ trưa hoặc ra hồ bơi (Sevilla là thành phố có nhiều bể bơi nhất tiểu bang, trung bình ở những khu nhà giàu hầu như cứ ba nhà nhà có bể bơi riêng). Nienke bảo tôi: “Thời tiết như thế này vẫn còn nhiều du khách đến thăm, nhưng vào cuối tháng Bảy đầu tháng Tám hầu như ở Sevilla luôn vắng người vì thời tiết quá nóng, có thể lên tới 48 độ. Ngoại trừ những công ty nhà nước và các siêu thị buộc phải mở cửa hầu hết tất cả mọi người đều ra biển hết.” Sau đó bạn còn thêm rằng người Tây Ban Nha “lười” lắm vì họ nghỉ trưa rất lâu. Giờ nghỉ trưa của họ thường kéo dài tới 2-3 giờ đồng hồ và nó thành tập tục thể bỏ qua ở đất nước này. Tây Ban Nha có nửa đất nước giáp với biển, nên vào mùa hè, người ta thường đổ về những thành phố biển hay những hòn đảo xinh xắn để tránh nắng.








      Thánh đường Sevilla



      Tôi nhớ buổi tối đầu tiên, dù mệt nhưng tôi vẫn nhất định phải dạo vòng quanh phố. Sevilla rực rỡ trong những ánh đèn. Những tòa nhà sáng lấp lánh, bên những quán cà phê, mọi người thong thả ngồi chuyện, trẻ em nô đùa ngoài đường phố. ngày ở Sevilla thường bắt đầu rất muộn nên kết thúc cũng rất muộn, tôi còn bỡ ngỡ và thắc mắc tại sao hơn 10h tối rồi mà trẻ con vẫn tụ tập chơi và hò hét ngoài đường và quảng trường. Bởi cuộc sống của người Tây Ban Nha thiên về đêm, buổi tối là thời điểm lý tưởng nhất để trẻ em ở Sevilla có thể nô đùa sau khi kết thúc ngày học ở trường. Tôi để những bước chân dẫn mình những con phố , mơ màng nhìn về phía dòng sông, ngắm Tháp chuông Giralda và những vì sao lấp lánh phía trời.



      Chiều hôm sau, hai đứa chúng tôi rủ nhau dạo dọc dòng sông Guadalquivir và ngắm hoàng hôn từ từ buông xuống, tôi thấy mình như vừa trút bỏ được những bộn bề cuộc sống ngoài kia và ngắm những giọt nắng từ từ buông dòng nước bằng tất cả say mê. Tự nhiên tôi nhớcô giáo dạy tiếng Tây Ban Nha của mình, nhớ những bài thơ từng đọc cho cả lớp nghe, nhớ lời từng kể rằng người dân Sevilla luôn tự hào về thành phố của họ vì nơi đây là nơi Christopher Columbus bắt đầu cho chuyến kiếm tìm thế giới của mình, nhớ nhứng ngày hè trước khi năm học kết thúc, tôi và các bạn luôn đòi tổ chức nấu bữa ăn Tây Ban Nha. Nỗi nhớ vô tình gợi lại kỉ niệm khiến tôi khẽ mỉm cười. Có ai ngờ được rằng sau khi thôi học tiếng Tây Ban Nha, tôi lại đặt chân đến mảnh đất này đâu. Âu có lẽ cũng là cái duyên của cuộc sống.



      Những ngày ở Sevilla, Nienke hướng dẫn viên tuyệt vời, đưa tôi thăm thú Sevilla. nàng dẫn tôi tới Thánh đường Sevilla và Cung điện Real Alcazares. Hai công trình kiếm trúc nằm giữa trung tâm này có thể được xem là biểu tượng của thành phố và thu hút khách du lịch nhiều nhất.








      Xe ngựa ở Sevilla



      Từ đỉnh của thánh đường bạn có thể ngắm nhìn toàn bộ thành phố và dễ dàng thấy khu vườn với rất nhiều cam. Ở Sevilla vào khoảng tháng Tư và tháng Năm khi mùa cam bắt đầu, khắp các thành phố hay những công viên người ta có thể thấy hàng loạt những cây cam nặng trĩu cành. Khi chúng tôi dạo trong công viên, vẫn còn những cây cam cuối mùa còn sót lại. Tôi nhắm mắt và tận hưởng mùi hương của nó. Nienke quay sang dặn: “Cẩn thận kẻo vấp phải quả cam đấy” bởi dưới chân tôi những quả cam lăn tròn long lóc. Tôi vừa vừa bảo: “Sao cam ở đây rụng nhiều thế mà ai nhặt nhỉ?” bạn phá lên cười: “Đắng lắm làm sao mà nuốt nổi, cậu thích ăn gom lại , mang về Đức mà làm mứt”. Tính tôi xưa nay vẫn vậy, rất thường hay tiếc vặt, dù đôi khi có những thứ chẳng liên quan gì tới mình.



      Thánh đường Sevilla được thiết kế theo kiến trúc Gothic và cũng là trong những thánh đường cao nhất thế giới, Thánh đường này có chiều dài gần 115m và rộng 76m, ở bên trong được trang trí rất cầu kì và cũng tốn kém rất nhiều, bởi phần lớn các hình ảnh được tái ở thánh đường này đều mô tả cuộc đời của Chúa Giêsu. Ở Tây Ban Nha, 90% dân số theo đạo Thiên Chúa giáo bởi vậy nên họ rất tự hào gìn giữ nét đẹp cổ truyền. Những bức tranh quý giá của Murillo, Valázquenz hay Zurbarán[2] cũng được lưu giữ ở trong này. Nienke dẫn tôi tới bàn thờ chính, nơi cất giữ mộ của Columbus, người phát ra châu Mĩ. Thi hài ông ban đầu được chôn ở Santo Domingo rồi sau đó được cải táng ở Cuba và cho đến khi Cuba độc lập người ta mang thi hài ông về và chôn ở Sevilla. Cho đến bây giờ vẫn có nhiều giả thuyết cho rằng mộ của Columbus ở Sevilla chỉ là mộ giả, còn mộ vẫn được chôn ở Santo Domingo và cuộc tranh chấp giữa Sevilla và Santo Domingo vẫn diễn ra. Dạo quanh ở bên trong thánh đường, chúng tôi trèo hơn mấy trăm bậc thang để leo lên Tháp chuông Giralda. Từ tháp chuông này, bạn có thể nhìn toàn bộ thành phố từ phía cao, rất đẹp!



      [2] Các họa sĩ nổi tiếng người Tây Ban Nha.



      Từ thánh đường Sevilla, chúng tôi đến thăm cung điện của Vua Reales Alcazares, cũng là công trình kiến trúc rất kì công. Từng viên gạch tường, từng cột nhà đều được làm rất công phu. Khi bước chân vào đây, tôi như thấy mình lạc vào thế giới cổ tích với những khu vườn rất đẹp, những căn phòng được trang trí lộng lẫy. các tường nhà, trần nhà là hàng trăm các bức chạm khắc vô cùng tuyệt vời, thậm chí có những vòm trần còn được dát vàng trông vô cùng rực rỡ. Tôi chẳng nhớ mình qua bao nhiêu căn phòng, bao nhiêu hành lang rộng lớn được trang trí cầu kì, phức tạp, để rồi cứ vừa vừa trầm trồ, chẳng biết có khi nào trong đời mình lại được chiêm ngưỡng những tác phẩm nghệ thuật có hai này nữa, dù có phải giá trị nghệ thuật nào tôi cũng hiểu hết được đâu. Nhưng chính những cái lạ đó khiến tôi thích thú, tò mò và tin chắc điều rằng khi lạc vào chốn này, bạn cũng có những cảm giác như tôi.



      Chúng tôi bộ những con phố dài với những dãy cửa hàng bán quần áo, bán đồ lưu niệm, tranh ảnh và những thứ làm bằng tay của người dân Sevilla. Thỉnh thoảng khi dạo đường, tôi lại bắt gặp tiếng nhạc rộn rã phát ra từ những người nghệ sĩ đường phố hay những nàng diện mình chiếc váy Flammenco trông yểu điệu và quyến rũ. Mỗi con đường, mỗi góc phố đều mang vẻ đẹp riêng, nhưng tôi vẫn thích nhất là được những con phố hẹp với những ngôi nhà nho được trang trí bằng những giàn dây leo màu xanh và những giỏ hoa treo lơ lửng bên cửa sổ. Phố hẹp nên chỉ có những người bộ hoặc xe đạp mới có thể vào được, tha hồ được tận hưởng yên tĩnh và hít hà mùi hương hoa tỏa ra khu phố. Khi ngồi gõ những dòng chữ này, tôi tài nào nhớ nổi tên những con phố mà mình bước qua,khi nhắm mắt lại, tôi vẫn thấy trước mắt mình là bức tranh Sevilla thơ mộng. biết bây giờ, nếu có dịp lại những con đường đó, tôi có còn nhận ra nữa. Những con phố có bao giờ đổi thay?



      buổi sáng đẹp trời, chúng tôi dừng chân ở công viên Maria Luisa. Đây là trong những công viên đẹp nhất Tây Ban Nha với hàng ngàn cây xanh và rất nhiều vườn hoa lộng lẫy. Tôi và Nienke làm cuộc picnic thảm cỏ, vừa ăn vừa chuyện về những tháng ngày cùng nhau học, những đổi thay kể từ ngày rời nước Đức và nằm nghe tiếng ve sầu kêu. Cho đến tận bây giờ tôi vẫn chẳng biết đó có phải là tiếng ve sầu nữa, nhưng tiếng kêu của nó hệt như tiếng ve sầu mà thuở còn học ở Việt Nam tôi vẫn thường được nghe. lâu lắm rồi kể từ ngày rời quê hương, tôi cứ ngỡ bao giờ được nghe tiếng ve sầu kêu vào những ngày mùa hạ nữa, nhưng Sevilla cho tôi được sống lại cái cảm giác của ngày xưa.



      Khi xế trưa, Anne gọi điện rủ chúng tôi uống cà phê ở Quảng trường Plaza de América. Anne cũng làm aupair ở Sevilla và tôi thực phục cái của người Đức này. Sau khi tôi trở về Đức, Anne vẫn giữ liên lạc với tôi và qua Facebook, tôi cũng biết được rằng cũng vừa có chuyến bụi thú vị ở Việt Nam. Chúng tôi ngồi trong quán cà phê tán ngẫu và ngắm những chú chim bồ câu rồi sau đó cả bọn rủ nhau ăn trưa trong nhà hàng mà theo lời Nienke là “ngon nhất Sevilla”. Họ bắt tôi thử món Tapas, món ăn truyền thống của Tây Ban Nha, có thể ví như món khai vị thường là mực chiên, khoai tây chiên, các loại thịt, ô liu, cà rốt, rau quả trông rất hấp dẫn và ngon miệng, để rồi sau này dù rời Sevilla, tôi vẫn nhớ mãi mùi hương tuyệt vời đó.



      Đêm cuối trước khi trở về Hostel sửa soạn vali cho chuyến bay ngày hôm sau, Nienke dẫn tôi thăm Quảng trường Plaza de Espana (Spain Square). Quảng trường này là biểu tượng chính của thành phố từ khi ra đời vào năm 1929. Khung cảnh buổi đêm với tòa nhà dài 200m trải dài hai bên chân tháp cùng những cây cầu trong ánh đèn mờ mờ ảo ảo tạo nên bầu khí yên bình và lãng mạn. Phía dưới chân tường được trang trí bằng những bức tranh vẽ hình phong cảnh của những thành phố khác nhau của Tây Ban Nha. Tôi chọn Barcelona với hy vọng trong chuyến Tây Ban Nha tới của mình, được đặt chân ở thành phố đó. Đến tận lúc này, trong tôi Sevilla có cái gì đó vừa cổ điển, vừa đại, vừa nồng nhiệt nhưng cũng rất kiêu kì. Vẻ đẹp của thành phố phương Nam này được dung hòa như thế, nhưng tiếc, chuyến nào rồi cũng phải trở về, cho dù có phải khó khăn để lời tạm biệt. Tôi biết rồi tôi nhớ lắm Sevilla với những nụ cười trong trẻo của người dân nơi đây, làm tôi quên cái nắng nóng tới hơn 40 độ của xứ sở này. Tôi nhớ lắm mùi cam thơm ngây ngất mà có thể ngửi được từ bất cứ con đường nào trong thành phố. Nhớ sáng tinh mơ nằm dài bãi cỏ trong tiếng gió đu đưa và ve kêu của mùa hè, nghe tiếng nhạc du dương và những vũ điệu nhảy Flammenco của những nàng Sevilla xinh đẹp. Nhớ thành phố phương Nam nồng nàn và quyến rũ…



      Tạm biệt Sevilla - thành phố thương đầy thơ mộng, nơi cho tôi những ngày rất đẹp. Và tôi biết nếu bất kỳ ai từng nghe đến cái tên Anda-Louise Bogza chắc chắn họ biết tới thủ đô Sevilla dấu của bang này. Cái thành phố nhìn bề ngoài có vẻ tĩnh lặng và cổ điển nhưng lại chứa chất rất nhiều điều kì thú để bất cứ du khách nào đến đây đều háo hức khám phá và hề ân hận khi trở về. Khi lái xe đưa tôi ra sân bay, Radio chạy bản nhạc Time to say Goodbye, tự nhiên tôi thấy lòng mình trùng xuống. Nienke quay sang nhìn tôi rồi khẽ: “Hai tuần nữa tớ cũng theo chân nàng về Đức, đến bây giờ tớ vẫn chưa định hình được cảm xúc của mình nữa. Chỉ biết là rất nhớ thôi.” Tôi im lặng hồi, mãi sau mới : “Ừ, Sevilla là vậy đó, chưa xa mà nhớ…”

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      [THỤY SĨ]








      Lucerne thơ mộng










      Hồ của bốn vùng đất rừng - chiếc nôi cội nguồn của Thụy Sĩ


      TÔI CÓ THÓI QUEN LÀ TRƯỚC mỗi lần đâu đều lên mạng tìm thông tin hoặc đọc các cuốn sách hướng dẫn du lịch để khỏi ngỡ ngàng và tiết kiệm thời gian khi đến đó. Nhân có Hoa - bạn học ở Lucerne, tôi quyết định dùng mấy ngày nghỉ phép cuối cùng trong năm để ghé thăm đất nước Thụy Sỹ.


      Trong chuyến tàu đêm từ Zurich về Weggis, tôi phải qua Lucerne. Khi tàu chạy dọc đường ray ven hồ Lucerne, tôi ồ lên vì bất ngờ. Lucerne về đêm đẹp đến nỗi tôi nghĩ rằng nếu có trở thành họa sĩ, tôi cũng bao giờ có thể vẽ lại được bức tranh hoàn hảo như thế. Những căn nhà, những ngọn đèn lung linh soi bóng xuống mặt hồ khiến Lucerne khác gì nữ hoàng kiêu sa của Thụy Sĩ. Giây phút đó, tôi biết mình có cảm tình với thành phố này.


      Núi Pilatus


      Sáng hôm sau, tôi và Hoa tới Lucerne từ sáng sớm, thời tiết rất đẹp nên chúng tôi quyết định leo núi Pilatus thuộc Lucerne với độ cao 2132m. Từ chân núi lên đến đỉnh, bạn có thể cáp treo hoặc tàu, mất khoảng 40 phút. Lúc lên chúng tôi bằng cáp treo và lúc xuống tàu để có thể nhìn thấy thành phố Lucerne từ hai góc nhìn khác nhau. bằng cáp treo, người ta có cảm giác như lơ lửng giữa bầu trời, nhìn xuống phía dưới là hồ, là những ngọn đồi nhấp nhô, còn nếu tàu bạn được ngồi đoạn đường ray dốc nhất Châu Âu với độ dốc 48%. Do độ dốc cao nên tuyến tàu lên núi Pilatus phải sử dụng công nghệ bánh răng hỗ trợ. Bình thường nếu vào mùa đông thời tiết xấu, có lên được đỉnh núi cũng khó có thể nhìn xuống vì những lớp sương mù dày dặc nhưng hiểu sao hôm chúng tôi , bầu trời lại xanh ngắt. Tôi và Hoa chọn góc đẹp nhất núi và nhìn xuống hồ Lucerne, hít thở khí trong lành của thiên nhiên. những mỏm đá, những mảng tuyết dày đặc vẫn chưa kịp tan ra, mà tôi cũng biết nó có còn cơ hội để tan nữa hay khi mùa đông bắt đầu đến. Tôi nằm dài tảng đá lớn, nhắm mắt lại và nghe những bản tình ca của Trịnh Công Sơn từ máy nghe nhạc. Đối với tôi, đó là thú vui, cách tận hưởng cuộc sống hết sức bình dị.







      núi Pilatus


      Rời núi Pilatus, chúng tôi vào trung tâm thành phố Lucerne - trong những thành phố đẹp và thơ mộng nhất Thụy Sĩ. Có rất nhiều những tấm bưu ảnh quảng cáo Thụy Sĩ chọn Lucerne bởi thành phố này có địa hình hết sức thuận lợi, được bao bọc bởi hồ và phía sau hồ là những dãy núi trùng điệp. Lucerne phải là thành phố lớn của Thụy Sĩ nhưng đáng tiếc cho những ai tới Thụy Sĩ mà dừng chân lại nơi này.


      Cầu gỗ cổ nhất Châu Âu


      Từ ga Lucerne, tôi và Hoa tới thẳng chiếc cầu Nhà thờ (tiếng Đức là Kappelbrücke). Đây là cầu gỗ có mái che cổ nhất Châu Âu được xây dựng từ thế kỉ XIV, dài 204m với những bức tranh mô tả phần nào lịch sử của Lucerne. Theo cuốn sách hướng dẫn du lịch “Đây là thành phố đầu tiên nhập vào khối liên minh ba thung lũng thuộc vùng núi Alpes. Hồ Lucerne nằm giữa ba thung lũng thuộc vùng núi Alpes và Lucerne mang tên Vierwaldstättersee, có nghĩa là hồ của bốn vùng đất rừng. Nơi đây được coi là cội nguồn của đất nước Thụy Sĩ.” Đứng cầu, người ta có thể ngắm dọc khu phố bộ với những quán cà phê treo đầy cờ Thụy Sĩ. Dưới chân cầu, những chú thiên nga trắng muốt thi nhau khoe vẻ đẹp kiêu sa của mình. Khách du lịch có thể ngồi ven hồ và tận hưởng những giây phút bình yên giữa lòng thành phố xinh đẹp này.







      Cận cảnh cầu Kappelbrücke


      Từ đây, chúng tôi dạo dọc quanh hồ, ánh nắng chiều yếu ớt của những ngày tháng Mười vẫn lóng lánh những mái nhà. Phía bên kia hồ những dãy núi còn phủ màu tuyết trắng, tôi ngồi bệt xuống bên cạnh béái Thụy Sĩ cho thiên nga ăn và ngắm nhìn mặt hồ gợn sóng. Xung quanh tôi là bầu trời, là núi, là hồ và những người khách du lịch thân thiện. Chao ôi, Lucerne đẹp biết bao!


      Tượng sư tử buồn khắc trong núi


      Say khi dọc đoạn dài bên hồ và đắm mình trong thiên nhiên, tôi quyết định ghé thăm bức tượng sư tử. Hình ảnh chú sư tử khắc núi với đôi mắt buồn bi thảm gây xúc động mạnh mẽ cho tôi. Hình ảnh con sư tử nằm chết oai hùng được nhà điêu khắc người Đan Mạch Bertel Thorvaldsen tạc vào năm 1810 để tưởng niệm hơn 800 người lính Thụy Sĩ hi sinh thân mình để bảo vệ Hoàng gia Pháp, bởi đội quân Thụy Sĩ này trước đây được thuê để bảo vệ vua Louis XVI trong cuộc cách mạng Pháp. Bên cạnh bức tượng in hình hoa lưu ly biểu tượng cho kết thúc của triều đại Louis XVI và hình dấu thập tượng trưng cho trung thành và dũng cảm của những người lính Thụy Sĩ.


      Điều khiến bức tượng sư tử trở nên sống động là dáng nằm oai phong, khi chết vẫn rất kiêu hãnh. Đó có lẽ cũng là lý do vì sao Mark Twain thốt lên “Tượng như khối đá biết chuyển động và toát lên thương cảm đau buồn!” khi đứng trước bức tượng này.


      Dừng chân ở đây chừng 30 phút, tôi và Hoa quay trở lại khu phố cổ. Vì là Chủ nhật nên phố cổ có phần vắng vẻ, nhưng đâu đâu cũng là những cửa hiệu bán đồng hồ và sô--la vì đây cũng chính là “đặc sản” của đất nước Thụy Sĩ. Chúng tôi thong thả dạo những con phố cổ lát đá dành cho người bộ và trở về ga. Tạm biệt Lucerne với núi Pilatus, tôi biết mình còn lưu giữ mãi những hình ảnh đẹp này về sau.







      Chiếc cáp treo đưa khách lên xuống núi Pilatus









      [Ý]








      Tới Trieste nhớ về Hà Nội










      Những con thuyền xếp hàng bến cảng Trieste


      HÔM TRƯỚC TÌNH CỜ đọc được tờ báo 10 thành phố đẹp bị phớt lờ thế giới có nhắc tới Trieste, tôi quay sang bảo với bạn cùng nhà trọ: “Tự nhiên tao nhớ Trieste quá mày ạ, nhớ những chiều hoàng hôn vương biển, nhớ những con đường chạy dài bên Grande Canal (Kênh Lớn) với những quán cà phê thơm mùi quế.” Cho đến tận bây giờ tôi vẫn ngừng thắc mắc tại sao thành phố đẹp và thơ mộng như Trieste lại bị lãng quên cách vô tình như thế, dù dưới con mắt nhìn của tôi, nhan sắc của Trieste chẳng hề thua kém gì với nàng Venice kiều diễm. Trước khi tới Trieste, tôi thấy Venice đẹp lắm, cái đẹp mà tôi cứ ngỡ khó có nơi nào có thể sánh được, nhưng tới Trieste rồi tôi mới biết, hình như mình nhầm.


      Tôi Trieste ngay từ đoạn đường từ sân bay về thành phố, khi xe chạy dọc bờ biển tôi tin vào mắt mình dù lúc đó thấm mệt. Những ngày ở đó, tôi được khám phá miền đất đẹp như mơ mà có lẽ nếu có bạn mình ở đó, có lẽ tôi chẳng bao giờ có cơ hội được đặt chân tới. Bởi trong các cuốn sách về du lịch châu Âu, Trieste hầu như được nhắc tới hoặc nếu có, chỉ là thước phim ngắn hay vài dòng giới thiệu. Dường như vẻ đẹp của Venice làm mờ mắt những du khách tới tới Ý và Trieste bỗng nhiên bị phớt lờ. Nhưng nếu ai từng đặt chân tới nơi này, tôi tin rằng họ cũng như tôi, còn muốn quay trở lại đây, chỉ mà còn nhiều lần nữa.


      Trieste là thành phố nằm ở miền Đông Bắc của nước Ý, nằm giữa biển Adriatic và biên giới Ý, giáp với Slovenia. Trong quá trình lịch sử, Trieste chịu ảnh hưởng rất nhiều từ nền văn hóa Slav và Áo, trước đây thành phố này nằm trong quản lý của triều đại Habsburg, cho đến khi Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất kết thúc Trieste mới thuộc về Ý. Vì công việc và cơ hội phát triển ở đây chưa cao nên phần lớn lớp trẻ ở Trieste đều di cư nơi khác làm việc thế nên ở Trieste có tới 60% dân số là người già, số còn lại có thể là khách du lịch hoặc là các bạn trẻ ở vùng khác tới đây học.







      Grande Canal vào sớm ban mai


      Lần đầu tiên tới Trieste tôi có cảm giác như mình ở Hà Nội và tôi ngần ngại gọi thành phố này là Hà Nội thứ hai của tôi. dừng chân qua rất nhiều thành phố ở châu Âu nhưng chưa có thành phố nào gợi cho tôi nhớ về Hà Nội nhiều như Trieste. Cuộc sống ở đây dù là ngày hay đêm lúc nào cũng nhộn nhịp và tấp nập nhưng vẫn hề mất cái hồn của thành phố cổ. Tôi nhớ có lần Thảo dẫn tôi tới Muggia - thị trấn nằm ven biển ở Đông Nam Trieste giáp với Slovenia và cách trung tâm Trieste chừng 30 phút xe buýt. Đó là lần đầu tiên tôi thực nhớ Hà Nội da diết. Cuộc sống ở đây chẳng khác gì Hà Nội thu , có khác chăng chút là có biển. Buổi chiều khi nắng đã bắt đầu nhạt, mọi người tập trung ở nhà thờ lớn bên quảng trường. Trẻ con nô đùa, hò hét, đá bóng, chơi cầu lông. Người lớn ngồi uống cà phê, tán dóc hay dẫn con dạo. Những con ngõ nối dài, sâu hun hút với những ô cửa sổ bị bạc màu bởi thời gian. Những ngôi nhà từ xanh đến đỏ bên những chiếc ban công với những chiếc dây phơi quần áo bay bay trong gió. Tất cả những thứ đó dường như đều mang hơi thở của Hà Nội mà mười năm về trước tôi thầm mang theo trong kí ức sang trời Âu. Bất chợt tôi nhớ tới bài hát Hà Nội ngày trở về của nhạc sỹ Phú Quang với những ca từ sâu lắng, cho dù Hà Nội phải là nơi tôi sinh ra và lớn lên, nhưng c cái gì đó như sợi dây tình kết nối tôi và Hà Nội:


      “… Tôi bồi hồi khi chạm bóng cửa ô


      Như ngày xưa mỗi lần chạm vai gầy áo mẹ


      Ôi nỗi nhớ muôn đời vẫn thế


      Như dòng sông Hồng cuộn đỏ mãi trong tôi…”


      Có khác chăng bên cạnh tôi bây giờ phải là dòng sông Hồng cuộn đỏ mà là bờ biển dài xanh thẳm bao la. Tôi hiểu tại sao khi đứng ở nơi này mà lòng lại khắc khoải nhớ về Hà Nội cách ồn ào và da diết đến thế. Có bao giờ bạn có cảm giác đó như tôi, đứng giữa miền xa lạ mà cứ ngỡ, mình nơi rất thân thương mà thời bạn từng sống, từng qua?


      Tới Trieste nhất định thể bỏ qua Lâu đài Miramare - trong những nơi nghỉ mùa hè của dòng họ Habsburg, nằm vách núi đá, được xây dựng trong thế kỷ XIX bởi Đại công tước Ferdinand Miximilian của Áo. Điều khiến tôi ấn tượng trong các căn phòng này phải vì chúng được trang trí lộng lẫy mà tất cả đều hướng ra mặt biển, nhất là phòng ngủ. Chỉ cần mở mắt ra là thấy ánh mặt trời rọi qua khung cửa sổ, phía xa xa là biển trời xanh thẳm. tuyệt vời khi mỗi sáng ban mai được thức dậy trong khung cảnh đẹp đến thế. chỉ có vậy, phía bên ngoài lâu đài là công viên khá rộng. Chúng tôi dạo bước con đường phủ đầy cây, nhìn ra biển và toàn bộ thành phố Trieste mà ngơ ngẩn bởi vẻ đẹp của thành phố.


      Cũng nằm sát ven biển và đẹp thua kém gì Miramare là Lâu đài Duino, cách trung tâm thành phố giờ xe buýt. Đường tới Duino khá dốc và ngoằn ngoèo nhưng cảm giác con đường với bên là đồi, bên là biển thú vị - điều mà trước đây tôi chỉ thấy trong những bộ phim hôm nay được tận hưởng nó bằng những cảm xúc của mình. Lâu đài này được xây dựng từ thế kỉ thứ XIV và dưới quyền sở hữu của Hoàng tử Thurn và Taxis - người mà nhiều năm về trước quyết định mở phần lâu đài cho công chúng vào tham quan, tổ chức các buổi hòa nhạc hay đám cưới. Sau khi “dạo quanh” vòng phía bên trong, tôi và Thảo ra ngoài công viên ngắm biển và chụp lại những khoảnh khắc tuyệt vời này và trèo ra phía ngoài ở bên dưới. Trong lúc hai đứa thay nhau “tạo mẫu” ở phía , hai chàng quản lý đẹp trai người Ý vẫy tay ra hiệu và đề nghị chúng tôi quay trở lại, Thảo đáp lại câu khiến tôi nhịn nổi cười: “Nhưng ở đây đâu có treo biển cấm.”


      ©STE.NT


      Thời tiết Ý vào tháng Chín khá dễ chịu vào sáng sớm, tầm khoảng 26 độ nhưng bắt đầu vào trưa nhiệt độ có thể lên tới 35 độ và khá nóng. Có điều Trieste là thành phố biển nên nhiều gió và điều đó khiến người ta có cảm giác ngột ngạt khi trong thành phố, mặc dù mật độ giao thông ở đây cũng kém gì so với ở Việt Nam. Tôi thích nhất là những buổi chiều khi nắng bắt đầu dịu , cùng Thảo dạo phố rồi lên những đoạn đường với những ngôi nhà rất cũ mà tôi đoán nếu chỉ tới Trieste mình, tôi bao giờ có thể biết tới những con đường này. Càng sâu vào khám phá cuộc sống và đất nước con người Ý, tôi càng nhận ra rằng so với các nước châu Âu khác, Ý giàu về kinh tế nhưng lại có nền du lịch khá phát triển. Đời sống ở đây so với Đức có phần đắt đỏ hơn, người giàu vẫn cứ giàu, còn người nghèo vẫn cứ mãi luẩn quẩn trong vòng quay cuộc sống của mình. Tôi nhớ có bài báo mình dọc được ở đâu đó có rằng phụ nữ Ý là những người phụ nữ khốn khổ nhất châu Âu, mặc dù người Ý nổi tiếng là luôn có cuộc sống tươi đẹp (la dolce vita). Trong bài báo đó có nhắc đến việc hai phần ba phụ nữ nước này hối tiếc vì lập gia đình và có con, ngoài ra họ cho rằng ở đất nước này vẫn còn tình trạng trọng nam khinh nữ và phụ nữ suốt ngày phải lo việc nhà, trong khi các ông chồng chẳng bao giờ muốn dính tay vào chuyện bếp núc.


      Khi mặt trời bắt đầu lặn cũng là lúc Trieste ngập tràn trong ánh đèn, những quán bar, những cửa hàng ăn uống lại bắt đầu nhộn nhịp. Ý là nước có nền ẩm thực khá phong phú nên khi tới đây tôi cũng bỏ lỡ cơ hội thưởng thức những món ăn của đất nước này, khi Pizza, khi spaghetti được chế biến 100% theo kiểu Ý. Sau bữa ăn, chúng tôi thường dạo quanh những khu phố mua sắm rồi ra Quảng trường Thống Nhất Ý (Piazza dell’ Unità d’Italia). Quảng trường này thực là trái tim của thành phố với tòa thị chính rực rỡ ánh đèn. Từ quảng trường này, chỉ cần băng qua phía bên kia con đường là tới biển. Lần đầu tiên tới đây tôi thực ngỡ ngàng trước khung cảnh tuyệt đẹp này. Ngồi bên Molo Audace hít thở gió biển, ngắm hoàng hôn và nhìn lên những ngôi nhà nằm nép mình những ngọn đồi phía cao, tôi có cảm giác như mình giấc mơ nào đó mà rất nhiều năm trước đây có lần mơ thấy. Có khác chăng những gì hữu trước mắt tôi bây giờ là gian hoàn toàn có .


      Chúng tôi ngồi bên bờ biển và về những buồn vui trong cuộc sống cho đến khi gió đêm bắt đầu se lạnh rồi mới bắt đầu đứng dậy và tới Canal Grande nhâm nhi ly cappuccino. Kênh này trước đây được xây dựng cho tàu của thương gia giao và nhận hàng trong trung tâm thành phố nhưng bây giờ nó thể đáp ứng được những chức năng ban đầu của mình, tàu lớn thể vào được nữa nên chỉ có những chiếc thuyền đánh cá mới có thể vào được.


      Trieste cũng có quán cà phê khá nổi tiếng nằm cách Quảng trường Thống nhất Ý chừng 150m với cái tên Caffè Tommaseo. Đây là quán cà phê lâu đời nhất ở Trieste được khai trương vào năm 1830. Đêm cuối ở Trieste, thay vì uống cappuccino ở Canal Grande, tôi và Thảo ghé vào đây thưởng thức đồ uống đúng theo phong cách từ ngàn xưa của Ý rồi dạo về ký túc xá. Hơn 11h đêm, đường phố có phần vắng vẻ hơn, nhưng thời tiết khá dễ chịu và mát mẻ. So với các thành phố khác ở Ý Trieste khá an toàn, bởi vậy nên Thảo bảo tôi: “Chị em mình có thể tới hai giờ sáng cũng sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra ở đây đâu.” ngoa chút nào khi thành phố này được bình chọn là thành phố hòa bình năm 2009 ở Ý.


      Tôi thể viết hết được những kỉ niệm trong suốt bốn ngày ngắn ngủi ở nơi đây, nhưng chắc chắn nó thực là những ngày đáng nhớ. Tôi có cơ hội được biết hơn, hiểu hơn về nước Ý xinh đẹp. chỉ có vậy, thành phố này làm cho tôi thấy nhớ và Hà Nội nhiều hơn, thứ tình ngủ yên nay bất chợt bị đánh thức bằng những ngọt ngào say đắm. Tôi quên Hà Nội tốt bụng nhiệt tình làm hướng dẫn viên cho tôi suốt những ngày ở đây và nhường giường cho tôi ngủ. Tôi cũng quên bữa cơm sinh viên giản dị với vài miếng thịt và nồi canh mướp đắng do em Quân nấu, mà sau này tôi vẫn là món canh mướp đắng ngon nhất từ trước tới nay mà tôi được thưởng thức.


      9h tối, chiếc máy bay của hãng hàng Ryanair đưa tôi trở về Đức. biết vì lý do gì mà máy bay mãi mới hạ cánh được. Kéo vali về nhà nghỉ của sân bay nằm khuất trong rừng lúc 12h đêm, tôi khẽ run vì lạnh, chợt nhớ tới những giọt nắng vàng của Trieste biết bao nhiêu. Thảo nhắn tin cho tôi và : “Hội ngộ rồi chia ly, nhưng em tin mình gặp lại nhau ở bầu trời nào đó.” Tôi cũng tin là như thế, biết đâu lại là Trieste nữa sao. Ai mà biết được!? Sau này khi ngồi lật lại những bức hình chụp ở Trieste, tôi vẫn quên cái cảm giác mỗi đêm dạo ra quảng trường Thống Nhất Ý, băng qua một con đường rồi ngồi bên Molo Audace hít thở gió biển cho đến khi bắt đầu thấy lành lạnh về Grande Canal uống cappuccino. Tôi nhớ cả buổi chiều lang thang ở thị trấn Muggia ngắm nhìn hoàng hôn buông biển để rồi sau này trong những giấc mơ về châu Âu của tôi Trieste về như với vẻ đẹp dịu dàng và đằm thắm, khiến cho những ai từng tới nơi này đều thấy trái tim mình rộn rã những bình yên.







      Tượng James Joyce đường phố Trieste





      Duyên dáng Verona










      Những ngôi nhà nằm nhấp nhô bên dòng sông Adige thơ mộng.


      NHẮC TỚI Ý, TÔI THƯỜNG mơ tới Venice xinh đẹp bên những con kênh xanh xanh, Pisa nổi tiếng với tháp nghiêng hay Milan thời trang lộng lẫy. Verona ít được người ta nhắc đến hơn. Nhưng có lẽ tôi có duyên với thành phố này nên sau những ngày “vừa học vừa chơi” ở vùng Hồ Garda, tôi và bạn người Đức tìm đến Verona.


      Nằm ở miền Bắc của Ý, Verona là thành phố du lịch được nhiều người biết đến, chỉ sau Venice là Hồ Garda. Người ta thường gọi Verona là thành phố màu hồng bởi ở đây có rất nhiều ngôi nhà được quyét màu hồng. Đây còn là thành phố tình vì nơi đây chính là quê hương của câu chuyện tình huyền thoại Romeo và Juliet.


      Chúng tôi đến Verona vào sớm tinh mơ giữa tháng Sáu, thời tiết rất dễ chịu và mát mẻ. Ấn tượng đầu tiên của tôi về Verona là những ngôi nhà cao bốn, năm tầng với ban công phủ đầy hoa. Thành phố trong mắt tôi bỗng trở nên đẹp cách diệu kì. Hít sâu khí trong lành của buổi ban mai, tôi bách bộ những khu phố , ngắm nhìn những ngôi nhà được trang trí bắt mắt và những giỏ hoa treo lơ lửng bên thềm.


      Trước khi tới Verona, người thầy của tôi dặn tôi phải mua giày tốt để vì những con đường ở đó được lát đá rất cứng. Nhưng khi đến Verona, tôi chỉ thấy những con đường lát bằng đá mà đá còn được trưng bày khắp nơi, từ những tòa thành cho đến các ngôi nhà.


      Verona có những con phố hẹp rất đáng , những con phố mà tôi hay gọi đùa là “phố tránh nắng” vì mùa hè ở đây rất nóng và khi lang thang vào những con phố này, người ta dễ có cảm giác mình lạc vào khu rừng râm mát. Tôi thích nhất là được dừng chân ở quán cà phê nào đó, nhâm nhi ly cappuccino và ngắm nhìn dòng người qua lại. hớt hải và nhộn nhịp đời thường nhường chỗ cho vẻ đẹp của thanh bình. Phía trước quán cà phê hay ban công của những ngôi nhà, những bông hoa li ti cũng vươn mình khoe sắc, những chàng bảnh trai người Ý ra trước cửa tận tình mời khách vào uống cà phê. Tất cả tạo nên bức tranh Verona dịu dành và thơ mộng.







      Đường phố Verona với những cà phê trải dài


      Cầm tấm bản đồ thành phố tay, chúng tôi loay hoay tới Roma Arena - Đấu trường La Mã thời xưa. Đây là công trình khá nổi tiếng ở châu Âu, được xây dựng từ thế kỉ đầu tiên sau Công Nguyên với chiều dài chừng hơn 150m, rộng 123m, phía bên ngoài được bao bọc bởi đá vôi màu trắng và hồng. Hồi học lịch sử về Rome, chúng tôi được xem bộ phim Võ sĩ giác đấu (Gladiator) và biết nơi đây ngày xưa diễn ra các trận chiến của các dũng sĩ, Roma Arena có sức chứa tới hơn 30.000 người. Trận động đất vào năm 1117 khiến phần bên ngoài của công trình bị hỏng. Vào thời kỳ Phục Hưng, người ta có ý định sử dụng đấu trường này làm nhà hát, nhưng mãi đến năm 1913, ý tưởng này mới trở thành thực. Ngày nay, Roma Arena là nơi diễn ra các buổi hòa nhạc nổi tiếng, tập trung chủ yếu vào các tháng Sáu, Bảy và Tám.


      Người tìm đến Roma Arena vì tò mò, người đến vì muốn ngắm công trình vĩ đãi này lần trong đời, người đến vì vô tình bước qua, nhưng mọi bước chân đều dừng lại ở đó. Trước đấu trường Arena, người ta có thể nhìn thấy khách du lịch từ nhiều nước khác nhau đứng thành từng đoàn, họ chiêm ngưỡng và bàn tán về công trình tuyệt vời này. Vào những ngày cuối tuần, khi chiều xuống, khung cảnh nơi đây càng trở nên tuyệt vời khi ánh nắng nhạt màu phủ lên bức tường màu hồng tạo nên bức tranh Verona diệu kì. Đường phố châu Âu khá sạch nên chúng tôi cũng ngần ngại ngả lưng xuống nghỉ ngơi chút trước khi tìm đến căn nhà của Juliet.


      Căn nhà của Juliet có tên gọi tiếng Ý là Casa di Giulietta. Đây là ngôi nhà bắt đầu tình huyền thoại của Romeo và Juliet. Nhưng mãi đến thế kỷ XVII, nhà soạn kịch nổi tiếng người William Shakespeare mới cho ra đời tác phẩm lừng danh Romeo và Juliet. Tôi đến căn nhà với một cảm xúc bồi hồi khó tả, tưởng như chỉ cần khép khẽ bờ mi lại là chàng Romeo và nàng Juliet ra trước mặt mình.


      Trước cổng vào căn nhà của Juliet, hai bên tường đầy những dòng chữ của những người nhau đến từ khắp nơi thế giới. Họ kí tên mình lên đó, vẽ những kí tự tình khác nhau để đánh dấu có mặt của mình ở ngôi nhà của xinh đẹp nhưng lại có kết cục quá bi thảm. Tôi đảo mắt qua những dòng chữ những bức tường, định tìm khoảng trống để đánh dấu tên mình nhưng sau lại thôi.


      Nhà Juliet rộng, phía trước ngôi nhà là một khoảng sân , dây leo mọc tường, bên cạnh là bức tượng Juliet. Khách du lịch thay nhau đứng trước bức tượng để chụp ảnh kỉ niệm. Người ra kẻ vào chen chúc nhau, luồn lách mãi cuối cùng tôi mới thoát khỏi đám đông và bước vào bên trong ngôi nhà. Phía bên trong ngôi nhà là viện bảo tàng . Chỉ cần trả phí vài euro, bạn có thể trèo lên ban công của ngôi nhà và nhìn xuống khoảng sân phía dưới. Ban công rất nên chỉ chứa được vài người, tôi đủ kiên nhẫn để đứng xếp hàng nên chỉ đứng ở phía dưới nhìn lên. Khách du lịch chen chúc nhau nên để chụp được bức ảnh cũng rất khó. Có lẽ, chỉ vào ban mai hoặc chiều tàn mọi thứ ở đây mới yên ắng hơn.







      Ban công căn nhà của Juliet


      Rời căn nhà của Juliet, chúng tôi vào trong khu phố , dừng chân ở quán ăn cũng với hàng cây xanh trông rất thơ mộng để ăn trưa. Đồ ăn Ý khá phong phú và hấp dẫn. Dù trước đó tôi cũng từng nếm thử ở Hồ Garda, nhưng tôi vẫn “chung thủy” với Pizza. bạn cùng bảo ăn Pizza về Đức ăn cũng được, nhưng tôi lại muốn thưởng thức nó ở nơi đây, ngay tại chính quê hương của món này. Sau đó, chúng tôi tráng miệng bằng kem, tôi ăn kem ở nhiều nước khác nhau nhưng chưa nơi nào tôi được ngồi thưởng thức món kem trong khí nhàng như ở Ý, cũng chưa bao giờ tôi cố tình ăn chậm để thưởng thức hương vị của kem như thế.


      Ăn xong bữa trưa, chúng tôi ra phố để mua đồ. Những cửa hàng thời trang dù quyến rũ đến đâu cũng có sức hút với tôi như những cửa hiệu bán đồ ăn nho , mùi hương từ phía bên trong tỏa ra thơm nức khiến tôi đành lòng bước tiếp. Chúng tôi chia thành hai nhóm, nhóm mua sắm và nhóm còn lại tiếp tục tận hưởng những khoảng khắc thú vị của Verona. Tôi cùng hai bạn bạn người Đức bước vào những khu phố hẹp, qua nhà thờ, ngắm nghía những công trình kiến trúc đại nhưng vẫn giữ được phong cách cổ điển, quay lại Quảng trường Erbe và sau đó nghỉ chân ở Quảng trường Bra, ngắm nhìn dòng người qua lại.


      Ở Verona có rất nhiều quảng trường được xây theo kiểu La Mã, nhưng có lẽ Quảng trường Erbe là trong những quảng trường đẹp nhất. Thầy tôi - người đã từng tới Ý nhiều lần - kể cho chúng tôi nghe rằng nơi đây ngày xưa là nơi tụ họp và bàn bạc của những người có chức quyền, còn bây giờ đây là khu trung tâm của thành phố với rất nhiều những cửa hàng nổi tiếng. Đến Verona, tôi mới biết, nơi đây chỉ là thành phố tình , cũng chỉ là thành phố của nghệ thuật mà còn là thành phố của yên bình. Dẫu hàng năm thu hút rất nhiều khách du lịch nhưng Verona vẫn giữ cho mình được những bản sắc xưa cũ. Thời gian cứ trôi và cuộc sống con người ngày càng tất bật, hối hả hơn nhưng thành phố này vẫn còn nguyên vẻ yên bình và duyên dáng.


      Nhắc đến Verona, người ta cũng quên nhắc tới Lâu đài cổ Castelvecchio, tới Thánh đường San Zeno Maggiore và khu vườn mơ ước Giardino Giusti. Có rất nhiều nơi ở Verona hấp dẫn bước chân bạn. Tôi vẫn thích Verona vào xế chiều hơn cả. Khi lang thang cây cầu bắc qua dòng sông Adige thơ mộng, tôi chợt thấy Verona êm ả và thanh bình. Tôi biết mình mơ khi đứng giữa nơi này, mà nếu có mơ tôi biết giấc mơ ấy cũng , nó như thước phim quay chậm, chậm, để rồi khi phải lời tạm biệt với Verona, tôi bỗng thấy nỗi buồn phủ kín gương mặt mình. Tôi vẫy tay chào thành phố như từng vẫy tay chào những người thân của mình, nhưng tôi biết hành trang tôi mang theo trong chặng đường còn lại phải là Verona với những trung tâm thương mại, với những tòa nhà chọc trời hay những ánh đèn lấp loáng, mà là Verona thanh bình và êm ả, Verona với những khu phố xinh, những căn nhà treo hoa khắp ban công, với dòng sông Adige hứng những giọt nắng vàng nhuộm dấu vết thời gian và những nụ cười thân thiện của các , chàng trai Ý. Và tôi biết, dẫu thời gian có trôi và ngày nào đó tôi trở lại, Verona có thể khoác thêm lên mình chiếc áo mới nữa, nhưng tôi tin, tình tôi dành cho Verona vẫn còn mãi ở lại, như cuộc tình của Romeo và Juliet vẫn ghi dấu trong lòng người suốt bao thập kỉ qua.








      Venice và tình còn đó










      Cầu Rialto huyền thoại


      TÔI TỚI VENICE VÀO những ngày giữa tháng Mười, khi ở Đức bắt đầu ngập tràn những chiếc lá vàng bay ở thành phố tình Venice lại ngập tràn trong mênh mông sông nước với hàng trăm chiếc gondola cong cong lướt những con kênh và những cây cầu thơ mộng dẫn lối người .


      Tôi Venice ngay từ cái nhìn đầu tiên khi đứng cây cầu Sealzi (Ponte degli Scalzi) nhìn xuống con kênh Grande Canal. Phút giây ấy, tôi đã hiểu vì sao ai cũng khát khao lần trong đời được đặt chân tới xứ sở tình này.


      quen với hệ thống kênh rạch ở Hà Lan nhưng khi tới Venice, tôi vẫn khỏi ngỡ ngàng. Nếu như ở Amsterdam là xe đạp, Paris là tàu điện ngầm và Việt Nam là… xe máy ở Venice, thuyền là phương tiện giao thông thể thiếu hay chính xác hơn, thuyền (hay còn gọi là xe buýt nước) là phương tiện duy nhất để khám phá Venice cho những ai muốn… bộ. Ở Venice, để thuận tiện cho việc lại, bạn nên mua chiếc vé thuyền tùy theo thời gian ở lại, tôi chỉ ở Venice có ba ngày nên mua vé 24h để sử dụng, thời gian còn lại tôi muốn dạo bộ trong những con hẻm để ngắm Venice khác.


      Sau khi nhận phòng khách sạn và cất đồ đạc xong, chúng tôi xuống phố và ăn trưa ở quán ăn người Ý, ông chủ quán nhiệt tình chào đón và ngồi tán dóc cùng chúng tôi, hỏi han và dặn dò chúng tôi đủ mọi thứ trong những ngày ngắn ngủi ở Venice. Nào là nếu có thời gian hãy thuyền tới đảo Lido và nếu muốn ngắm Venice từ cao phải tới Quảng trường St. Marco từ sáng sớm vì lúc đó còn ít người và tiết kiệm được thời gian đứng xếp hàng. Người chủ cửa hàng thân thiện ấy cho chúng tôi cảm giác dễ chịu đầu tiên trong những ngày ở Venice để rồi sau này khi về lại Đức, thi thoảng chúng tôi vẫn còn nhắc đến ông với tình cảm trìu mến.


      Dạo phố ở Venice


      Thoảng trong những cơn gió mặn mòi của biển, chúng tôi tản bộ những con đường ở Venice, lang thang ngắm nhìn kiến trúc thành phố, những công trình La Mã với cột và vòm. Những ngôi nhà với giàn hoa rực rỡ, những cửa hiệu bán mặt nạ và thủy tinh Murano nối đuôi nhau, những quán cà phê thơm lừng và xen lẫn đâu đó là mùi Pizza và Pasta khiến người ta thể dừng lại. Venice từ lâu nổi tiếng với những chiếc mặt nạ đủ mọi kiểu dáng khiến người ta luôn có cảm giác rằng tất cả những gương mặt đó hướng về bạn và bạn chính là “điểm ngắm” của cả thành phố. Tôi nhớ ai đó rằng: “Đeo mặt nạ là trong những cách Venice khiến mọi đẳng cấp xã hội biến mất, mọi con người đều như nhau đằng sau khuôn mặt bị che giấu.” Venice thực cho tôi cảm giác ấy trong những ngày ngắn ngủi ở đây.







      Một cửa hàng lưu niệm ở Venice


      Tôi ấn tượng với những ngôi nhà tróc lở nằm sát kênh mà cứ tưởng tượng ra rằng những người sống ở đây, khi mở cửa ra, thay vì thấy đường phố như ở châu Âu họ thấy… nước. Những căn nhà ở dưới tầng còn ai ở vì nước dâng lên, họ chuyển lên tầng hai, tầng ba và cứ như thế cho đến ngày Venice chìm hẳn vào lòng biển. Ở Venice, tôi chỉ thấy những ngôi nhà cũ, phải chăng vì những người sống ở đây cho rằng ngày nào đó Venice bị chìm nên cần đầu tư quá nhiều vào những ngôi nhà sang trọng như ở Pari, London hay Copenhagen? những thế, Venice còn đặc biệt vì ở thành phố này, dù có cầm bản đồ thành phố tay, tôi tin chắc mình vẫn có thể bị lạc ở bất cứ nơi nào, đơn giản vì ở đây có quá nhiều ngõ ngách chằng chịt san sát nhau. Tôi tin là kể cả dân Venice chính hiệu cũng có thể bị lạc nếu trong các con hẻm này có dấu mũi tên hướng về St. Marco.


      Grande Canal và cây cầu Rialto


      Venice còn được gọi bằng cái tên trìu mến khác là thành phố của những cây cầu bởi có đến hơn 400 cây cầu lớn bắc qua con kênh chính Grande Canal. Tôi có đủ thời gian để hết những cây cầu ấy, để đếm xem con số đó có hay hay chỉ là con số mà người dân Venice nghĩ ra, nhưng mỗi cây cầu tôi qua đều mang vẻ đẹp khác nhau, cây cầu nào giống cây cầu nào. Và tất nhiên, tôi quên dừng lại ở cây cầu Rialto huyền thoại. Đây là cây cầu lâu đời nhất ở Venice, đứng cây cầu này người ta có góc nhìn tuyệt đẹp xuống kênh Grande Canal. Hai bên bờ là những quán cà phê, những cửa hàng kem ngon tuyệt, những ban công đầy hoa và những bức tường gạch nung đỏ. Grande Canal là con kênh hình chữ S với chiều dài chưa đầy 4km, nhưng dọc con kênh này thấy rất nhiều nhà thờ. Những kiệt tác đẹp nhất của Venice dường như đều được trưng bày ở dọc hai bên bờ kênh. Phút giây đứng cây cầu này và ngắm thành phố vào đêm, những chiếc thuyền tránh nhau, những chiếc gondola xen lẫn những chiếc taxi nước, cho tôi hiểu rằng mình có những phút giây rất , phải ở trong phim, cũng phải trong những tấm thiệp bạn bè từng gửi, dường như tôi cũng trôi bồng bềnh cùng thành phố.


      Gondola và những khúc nhạc đêm


      Sau buổi chiều loanh quanh, khi trời bắt đầu tối, chúng tôi quyết định ngắm thành phố bằng xe buýt nước vào đêm và tới Quảng trường St.Marco. Tôi để tất cả những cảm xúc của mình trôi theo dòng nước, thả tất cả những ưu tư và phiền muộn vào trong đó và thưởng thức khoảnh khắc rất riêng ở Venice mà tôi biết rằng bao giờ có thể tìm thấy ở nơi nào khác thế giới này. St. Marco lung linh huyền ảo giữa màn đêm, giờ là tháng Mười nên trời cũng bắt đầu se lạnh, ngoài chúng tôi ra hầu như chỉ còn lại những cặp tình nhân dạo. Mùi thơm của Pizza, Pasta và hải sản tỏa ra khắp các con phố như muốn níu chân chúng tôi. Hai con của chị bạn chỉ thích chui vào những cửa hàng lưu niệm để mua quà, tôi tranh thủ thời gian đó dạo và ngắm bình yên của Venice trong màn đêm. Vì tôi biết, ngày mai khi bình minh bắt đầu lên, quảng trường này lại ngập tràn du khách, bởi thế nên đây là cơ hội tốt nhất để tôi được thả lỏng mình với Venice. Băng qua những cây cầu , tôi bắt gặp những chiếc gondola với tiếng nhạc vang lên, khi chở cặp tình nhân lãng mạn nào đó, khi đại gia đình với tiếng cười trẻ thơ, khi nhóm khách du lịch. gondola khá đắt nhưng lãng mạn vì chỉ có những con thuyền mũi cong này mới có thể “chui” vào được những con kênh ở Venice mà những chiếc xe buýt nước thể vào tới được. Lướt qua tôi là hình ảnh đôi bạn trẻ cùng nhau uống rượu vang đỏ gondola, họ nắm chặt tay nhau và cùng nhìn về hướng. Bản nhạc từ người chèo thuyền vang lên, giây phút đó tôi khỏi chạnh lòng nhưng tôi mỉm cười và vui cùng niềm vui của họ. Bởi tôi biết rằng khi biết vui cùng niềm vui của người khác, nghĩa là tôi cũng có niềm vui của riêng mình.










      Những ô cửa đầy hoa đường phố Venice


      Quảng trường St.Marco


      Sáng hôm sau, sau khi đã thưởng thức xong bữa ăn sáng ở khách sạn, chúng tôi quyết định tham quan Venice bằng xe buýt nước để có thể ngắm các kì quan của thành phố dọc hai bên bờ kênh vào ban ngày. Từ Quảng trường Roma, chúng tôi lên chuyến xe buýt số 1 vì tuyến xe buýt này dừng lại ở tất cả các bến và bạn có thể lên xuống tùy thích, chúng tôi quyết định thẳng tới St. Marco để ngắm các công trình kiến trúc vĩ đại này lần nữa vào ban ngày. Quảng trường St. Marco là quảng trường rất đẹp, nơi đây trước kia là trung tâm sôi động nhất của người dân Venice. St. Marco có tháp đồng hồ cao ngạo nghễ, hai bên là tượng người Moaris luôn gõ chuông báo hiệu mỗi giờ. Ngoài ra, quảng trường này được bao bọc bởi bốn tòa nhà dài dằng dặc và rất cổ kính với mặt trước là Nhà thờ St. Marco, được xây dựng từ năm 840 trước Công nguyên. Tôi đứng giữa quảng trường ngắm nhìn những chú bồ câu. từ lâu chính quyền Venice có lệnh cấm khách du lịch ăn uống ở quảng trường này (trừ trong những quán cà phê) cũng như được cho phép bồ câu ăn, nên quảng trường này khá sạch so với rất nhiều những quảng trường khác tôi từng qua. Từ đây, chúng tôi tiếp tục sâu vào những con phố , mỗi con phố là cuộc sống khác, nơi nào giống nơi nào, chỉ có chăng cửa hàng nào cũng bày bán thủy tinh và mặt nạ. Tôi cũng vào đây mua mấy chiếc mặt nạ về làm quà cho bạn bè và con mèo xinh xắn làm bằng thủy tinh để tặng mẹ nuôi mình. Sau đó, chúng tôi ghé vào những tiệm bánh với mùi hương quyến rũ và mua đủ những loại bánh khác nhau để ăn thử. Khi trời xế trưa, chúng tôi quay lại bến thuyền, định bụng trở về cây cầu Rialto để ăn trưa nhưng chị bạn cùng lại bảo: “Thôi, ăn ở đây cũng được” và chúng tôi ngồi ngay ở vị trí rất đẹp, phía trước là mặt biển xanh ngắt bao la. Nhưng cái giá phải trả cho đồ ăn thôi rồi, đến nỗi khi ăn xong rồi tôi với Dung - chị bạn cùng: “Ở đây, mình mua chỗ ngồi chứ phải là mua đồ ăn chị ạ” và sau lần đó chúng tôi rút kinh nghiệm, bữa tối chúng tôi chọn được chỗ còn lãng mạn hơn nhiều nhưng giá rất phải chăng và cho đến tận bây giờ tôi vẫn nghĩ đĩa mì spaghetti ấy là đĩa spaghetti ngon nhất tôi được ăn trong đời.


      Venice chìm dần trong biển nước


      Suốt những ngày lang thang ở Venice, tôi có dự định ra ngoài đảo Lido và đảo thủy tinh Murano nhưng vì thời gian quá gấp gáp nên tôi đành lỗi hẹn với Venice ở lần sau. Bạn tôi với tôi rằng: “Liệu lúc đó chúng ta có còn thấy Venice bản đồ thế giới nữa ?” Bởi thực thành phố là nỗi lo lắng của chỉ chính phủ Italia mà còn cả của những người mến Venice. Người dân Venice phải đối phó với cảnh nhà của họ chìm dần xuống nước do thủy triều. Tình trạng lụt lội ở đây xảy ra thường xuyên. Các trận lụt làm xói mòn nền móng của thành phố được xây dựng từ thế kỷ XVI và đe dọa đến các tác phẩm nghệ thuật kiến trúc vô giá. Chính phủ Venice xây dựng hệ thống kè chắn để đối phó với tình trạng này, vì theo thống kê của các nhà khoa học trong vòng 50 năm tới, nửa thành phố chìm trong biển nước.


      Tôi biết mình dành cho Venice tình vĩnh cửu khi dạo chơi những con đường hẹp, lắng nghe tiếng nước vỗ vào bờ sông mỗi khi thuyền qua lại, soi mình vào dòng nước mênh mông in bóng nắng chiều còn rớt những tòa nhà cổ kính hay chỉ đơn giản là ngắm nhìn những ô cửa sổ đầy hoa, những dây phơi quần áo bay bay trong gió, những nhà hàng thơm mùi Pizza và Pasta. Vinice cho tôi những phút giây được rời xa mọi toan tính đời thường và thả lòng trong những khoảng lặng yên bình của cuộc sống.


      Tôi Venice bằng tình như thế và tôi biết, ngày tôi quay trở lại với Venice.









      [CHÂU ÂU]








      Mùa thu vàng










      TỪNG SỐNG Ở CHÂU ÂU nhiều năm và trải qua đủ bốn mùa, nhưng nếu hỏi tôi mùa nào nhất có lẽ tôi ngần ngại mà rằng đó là mùa thu. Tôi bao giờ có thể lý giải nổi vì sao tôi lại mùa thu đến thế, cũng như khi , người ta cần biết đến lý do. Nhiều người vẫn hỏi tại sao tôi mùa xuân vì mùa xuân ở Châu Âu bao giờ cũng lung linh và rực rỡ sắc màu hoa. Người khác lại hỏi sao tôi mùa đông vì mùa đông châu Âu luôn ngập màu tuyết trắng tinh khiết. Tôi chỉ cười. Mỗi màu ở châu Âu đều mang vẻ đẹp riêng, nhưng tôi lại “thiên vị” mùa thu hơn cả. hẳn bởi mùa thu để lại trong tôi quá nhiều kỉ niệm, mà bởi tôi luôn thấy lòng mình ngập tràn cảm xúc mỗi độ thu sang. tươi rói như mùa xuân, ảm đạm như mùa đông, mùa thu là bức tranh của các mùa ghép lại. Tôi thích những buổi chiều dạo, nhặt những chiếc lá vàng, nâng niu chúng tay ngắm nhìn lâu rồi lại thả chúng bay … Tôi thích những ngày nằm dài thảm cỏ xanh, ngước lên bầu trời nhìn những chiếc lá vàng bay theo chiều gió thổi, đôi môi khẽ mỉm cười - cảm giác buâng khuâng, sâu lắng.


      Người dân châu Âu vốn dĩ rất thiên nhiên, bởi thế nên trong công viên, khi tiết trời vào thu luôn có rất nhiều người. Những cụ già tay trong tay, những bạn trẻ nuôi dưỡng tình bằng những cuộc picnic thảm cỏ hay thậm chí bạn cũng có thể gặp các tiến sĩ tương lai ôm sách ra công viên học. Tôi tự hỏi mùa thu châu Âu đẹp đến thế này, làm sao những nàng ấy có thể học nổi, nhưng họ vẫn rất chú tâm vào những trang sách của mình.


      Nhớ hồi ở Séc thăm người bà con, buổi chiều tôi thường lang thang con đường nhặt lá vàng. Khi người lớn hỏi tôi nhặt lá vàng làm gì, tôi trả lời rất : “Cháu gửi về Việt Nam cho bạn cháu!” Đó là suy nghĩ rất hồn nhiên của đứa bé 15 tuổi nhưng thói quen nhặt lá vàng ngày ấy tôi vẫn còn giữ cho đến tận bây giờ.


      Đến Paris cũng vào những ngày chớm thu, nhìn nắng rơi chiếc lá đổi màu, tôi thấy mình giàu trí tưởng tượng khi nghĩ rằng mùa thu Paris giúp tôi cho ra đời những tác phẩm văn chương bất hủ như các nhà văn Pháp ngày xưa. Bên dòng sông Seine, những chiếc lá bay rồi thả mình dòng nước luôn khiến tôi chăm chú ngắm nhìn mà chẳng bao giờ biết chán. Những người bạn nước ngoài của tôi dường như chẳng bao giờ có thể hiểu được vì sao chiếc lá vàng đậu vai cũng làm tôi rùng mình run khẽ. Mùa thu cho tôi những cung bậc thương, nhung nhớ, dỗi hờn. Mùa thu cho tôi được cười, được khóc những xác lá vàng bay. Tôi thích được thả hồn mình đại lộ Champs-Élyseés với những hàng cây thay lá, được ngồi trong những quán cà phê nhâm nhi và ngắm nhìn dòng người qua lại hay vào các khu vườn nổi tiếng Luxembourg và Tuileries với những chiếc lá nhuốm màu vàng và những vòi phun nước đẹp tạo nên mùa thu Paris vô cùng nên thơ.


      lần đặt chân tới Bonn - thành phố cổ xinh đẹp của nước Đức, tôi dạo bước con đường ngập tràn lá và hoa. bạn người Bỉ theo sau vừa tranh thủ chụp hình, vừa than thở: “Lạc vào thế giới của em rồi, biết đến ngày nào mới ra khỏi đây?” Tôi mặc kệ và cứ thế tung tăng. Kia là nắng, là hoa, là cỏ mềm êm ả. Tôi tản bộ những con đường được lát bằng những viên gạch cổ, ngắm nhìn những ngôi nhà bé núp mình những con phố lớn. Tôi tự hỏi có phải những ngôi nhà ấy cũng trốn tránh những ồn ào của phố thị như tôi lúc này hay ?


      Thời tiết vào thu dễ chịu. Se se lạnh chút vào ban mai, ấm áp vào ban trưa và mát mẻ vào ráng chiều. Mặc cho lá đổi màu, khoác lên mình những chiếc áo mới, hoa vẫn thi nhau nở. Vẫn còn những bông tulip rực rỡ sắc màu, vẫn là cúc vàng, là hồng đỏ xen lẫn vào nhau. Mùa thu châu Âu đẹp đến lạ kì. Và bao giờ cũng vậy, cứ mỗi độ thu về, tôi thường thấy mình sống chậm hơn, nhàng hơn và cũng trầm tư hơn chút. Thời gian có thể trôi và vạn vật có thể đổi thay, nhưng chắc chắn tình mùa thu trong tôi bao giờ thay đổi. Bởi vì mùa thu, dưới những ánh nắng vàng ấm áp, những con đường ngập tràn xác lá, tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình sống ở thế kỉ XXI với những lo toan đời thường, mà dường như tôi được sống trong câu chuyện cổ tích của ngày xưa.


      dễ chịu khi sớm mai thức dậy giữa mùa thu, được thấy bầu trời trong vắt, thấy nắng cười nắng tỏa khắp muôn nơi và được ngắm nhìn thỏa thuê gian với đủ những gam màu kì ảo.








      Tôi thấy…










      TÔI MÌNH QUEN RỒI, nhưng tới đâu cũng gặp được những người thương . Điều tuyệt vời này tôi biết phải ai cũng may mắn có được, thế nên tôi càng trân trọng nó nhiều hơn”, tôi chia sẻ với những người bạn của mình như thế khi luôn nhận được những câu hỏi rằng tôi mình hoài như vậy mà thấy chán sao?


      ra tôi thấy mình chuyến hành trình đầy thú vị, mỗi ngày được học hỏi thêm vài điều, được khám phá những miền đất mới lạ bằng những trải nghiệm riêng của mình, được thưởng thức những món ăn ngon và được sống với những cảm xúc bao giờ cũ. Vậy nên, chẳng có điều gì có thể khiến tôi cảm thấy chán nản cả, mà nếu thế có lẽ tôi khép lại chặng hành trình của mình từ lâu trước khi để người khác phát ra điều đó.


      Nhiều người cứ nghĩ du lịch phải có ít nhất người bạn đồng hành cùng mới vui, nhưng tôi nghĩ cái khái niệm “vui” hay “ vui” còn tùy thuộc rất nhiều vào suy nghĩ và cách nhìn nhận vấn đề của mỗi người. Tất nhiên, nếu được lựa chọn tôi biết, chẳng ai muốn mình cả. Nhưng nếu nhìn vào mặt tích cực của nó, ta thấy: Đôi khi mình cũng mang lại cho chúng ta điều gì đó mà có thể khi cùng nhóm bạn, ta bao giờ dành thời gian cho nó. Như tôi vẫn thường thích ngồi trong quán cafe ở thành phố xa lạ nào đó, ngắm nhìn những dòng người lướt ngang qua với những gương mặt khác nhau, với những buồn vui lẫn lộn. Tôi ngắm nhìn trời đất với muôn vàn ý nghĩ, tôi sẵn sàng mỉm cười với những người mà tôi hề quen biết khi họ lướt ngang qua. Tất cả những điều ấy, tôi nghĩ mình có thời gian để làm khi cùng cả nhóm bạn.


      Tôi có bạn học ngồi cạnh tôi suốt mấy năm trung học ở Đức, sau khi tốt nghiệp phổ thông, thay vì đăng kí vào một trường Đại học hay xin vào công ty nào đó để vừa học vừa làm như bạn bè cùng lớp quyết định sang tận Israel năm để làm công tác tình nguyện.


      Quyết định đó khiến nhiều người trong lớp ngỡ ngàng và hiểu tại sao lại “sang tận xứ ấy” bởi với họ, Israel là đất nước rất xa vời. Khi trở lại Đức, nhận ra mình vẫn chưa muốn dừng chân ở lại và sau khi gom góp được số tiền đủ để trả tiền vé máy bay, lên đường sang New Zealand. Ở đó làm những công việc khác nhau để trang trải cho cuộc sống và dành thời gian du lịch bụi. Từ New Zealand sang Úc rồi từ Úc sang Singapore và cứ thế dọc theo những nước Đông Nam Á, từ Indonesia, Malaysia đến Việt Nam, Lào và cuối cùng dừng lại ở Thái Lan trước khi bay trở lại Đức. Chín tháng cho chặng hành trình đầy thú vị với biết bao trải nghiệm quí báu mà tôi tin, kể cả trong những năm tháng ngồi ghế giảng đường cũng sẽ bao giờ học được điều đó.


      Giáng sinh vừa rồi chúng tôi gặp lại nhau ở trường cũ, tôi có hỏi ấy rằng cho đến bây giờ tôi vẫn ngừng thắc mắc trước quyết định táo bạo đến mạo hiểm của ấy ngày đó, ấy cười và với tôi rằng: “Bản thân tớ ra lúc đó cũng biết là mình nên hay nên đâu, có thể đó là mạo hiểm có phần táo bạo. Tớ cũng trải qua nhiều khoảng khắc hoang mang và sợ hãi những ngày còn đồng xu dính túi, nhưng cậu thấy đó, tớ vẫn trở về bình an và tớ nhận ra được điều rằng tớ có những ngày hạnh phúc”. Tôi nhận ra mãn nguyện trong từng lời của bạn tôi và tôi hiểu, những kỉ niệm đẹp đẽ và thân thương về những ngày tháng ấy là món quà vô giá trong kho tàng trải nghiệm sống của bạn hôm nay. Thế nên, tôi luôn ngưỡng mộ những con người dấn thân mình vào những chuyến cuộc đời.


      Có thể trong chuyến hành trình ấy, họ cũng như tôi, mất chút thời gian, chút sức khỏe, chút tiền và vài thứ khác nữa, nhưng đổi lại họ có những điều mà dù ai đó có sở hữu cả trăm triệu đô cũng khó có thể mua được.


      Tôi nhớ mình đọc được ở đâu đó có câu đại ý rằng: “Cứ rồi đến, khi đến rồi biết, nếu , nơi đó mãi mãi là điều bí mật.” Tôi cũng con đường chinh phục cái đẹp và khám phá những điều bí mật ấy bằng những chuyến của mình. và trở về, để thấy thế giới tươi đẹp, để thấy rằng mình là người may mắn vì được rong ruổi những nẻo đường ngược xuôi, được khám phá những miền đất mới lạ hay chỉ đơn giản là được cầm chiếc máy ảnh ghi lại những khoảnh khắc đẹp rồi sau đó ghé vào quán cafe nào đó, vừa nhâm nhi ly cappuccino nóng hổi, vừa viết Nhật kí du lịch. Thế nên trong túi xách tay của tôi bao giờ cũng có cuốn sổ để tôi lưu giữ những cảm xúc nhất thời ngay lúc đó, ai biết được ngày mai khi trở về, tôi có còn giữ được hay ? Tôi thấy mình trở nên tinh tế và dịu dàng hơn mỗi ngày và sau mỗi chuyến , tôi lại thấy tôi hoàn toàn khác. Tôi nhìn đời sống bằng đôi mắt thiết tha hơn, tôi cảm nhận được hạnh phúc từ những điều nhoi và vụn vặt nhất giữa đời thường và tôi thấy, mình vẫn mãi là lãng mạn của ngày hôm qua, cho dù tuổi thanh xuân của tôi nhàng khép lại.


      Tôi dành những lời thương nhất để viết vào cuốn Nhật kí hành trình của mình và vẫn tiếp tục sải dài đôi chân của mình những miền đất lạ cho dù nhiều người vẫn cứ mãi nhìn tôi như kẻ lang thang đơn độc. Nhưng đó là vì họ đứng phía sau tôi, bởi thế nên họ thấy được những cái đẹp mà tôi vô tình che mất. Mà suy cho cùng , độc hành đâu có nghĩa đơn. Đôi khi chỉ cần có bình an và tự tại ở trong tâm là có thể khiến cuộc sống hạnh phúc hơn lắm rồi. Tôi vẫn theo cách riêng của mình, chẳng phải là để “khoe” thành tích những nơi mình qua, mà chỉ đơn giản là biết hơn, hiểu hơn và thương hơn cuộc sống này và những con người sống ở quanh tôi.





      Lời cảm ơn





      Trước hết, tôi muốn dành tặng cuốn sách này cho bố mẹ và em trai - những người luôn dõi theo từng bước của tôi từ quê hương Việt Nam thân và chắp cánh cho mọi ước mơ của tôi bay xa. Cảm ơn bố mẹ dành cho con tình thương vô bờ bến, dẫu ít đôi lần con làm bố mẹ phải lo lắng và xót xa. Cảm ơn em trai Ngọc luôn ở bên và động viên chị trong mỗi lúc khó khăn.


      Tôi cũng muốn gửi lời cảm ơn tới gia đình bố mẹ nuôi người Đức của mình, cảm ơn bố mẹ nuôi dạy dỗ và nuôi nấng con, cho con ngôi nhà thứ hai thân thương và ấm áp quê hương nơi xứ lạ.


      Cảm ơn những người bạn đồng hành rong ruổi cùng tôi suốt những nẻo đường châu Âu. Cảm ơn những tấm lòng thương, trìu mến của những người bạn vừa lạ, vừa quen mà tôi gặp và quen trong mỗi chuyến xa của mình. Các bạn làm đầy cuộc sống của tôi bằng rất nhiều những điều thiết thực. Tôi vẫn và luôn nhớ tới các bạn với những tình cảm thân thương nhất!


      Cảm ơn các chị làm việc tại Công ty Cổ phần Sách Thái Hà giúp tôi thực cuốn sách đầy ý nghĩa này để kỉ niệm 12 năm ngày tôi xuất ngoại.


      Cuối cùng, tôi muốn gửi đến những độc giả của Dưới nắng trời Châu Âu lời nhắn nhủ rằng: Tất cả những gì tôi viết trong cuốn sách này đều là những kí ức thân thương được ghi lại bằng cảm xúc chân nhất. Tôi dám nhận mình là “ma xó” ở châu Âu nhưng tôi hi vọng rằng những trải nghiệm của mình “đánh thức” được phần nào những khao khát được dấn thân và ước muốn được xa của các bạn. Hãy khi còn có thể, bạn thấy thế giới là đẹp và người tốt trong cuộc đời này còn nhiều lắm!”


      Hẹn gặp lại các bạn ngày nào đó dưới nắng trời Châu Âu!


      Hoàng Yến

    3. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :