Cuộc Chiến Chốn Mê Cung - Rick Riordan (Huyền Huyễn)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      XV


      “Lối này!” Rachel

      “Tại sao chúng tôi phải theo cậu?” Annabeth gặng hỏi. “Cậu đã dẫn chúng tôi thẳng vào cái bẫy chết người đó!”

      “Đó chính là con đường các cậu cần phải ,” Rachel nói. “Và lần này cũng vậy. thôi nào!”

      Annabeth trông vui vẻ gì, nhưng ấy vẫn cùng chúng tôi. Có vẻ như Rachel biết rất rõ mình đâu. ấy lao vào cả những ngóc ngách và hề do dự mỗi khi tới những nút giao nhau. Có một lần Rachel hét “Cúi xuống!”, tất cả chúng tôi ngồi thụp xuống và một chiếc rìu khổng lồ bay sượt qua phía đầu chúng tôi. Sau đó chúng tôi tiếp tục như chẳng hề có chuyện gì xảy ra.

      Tôi thể nhớ nổi đã qua bao nhiêu ngã rẽ. Chúng tôi dừng lại nghỉ cho đến khi đặt chân đến một căn phòng rộng bằng phòng tập thể dục với những ̣t nhà bằng đá cẩm thạch chống đỡ cho trần nhà. Tôi đứng ở cửa ra vào, lắng nghe những tiếng động đuổi theo nhưng chẳng nghe thấy gì. Có lẽ chúng tôi và Luke cùng bọn tay sai đã thực sự mất dấu nhau trong mê cung.

      Sau đó tôi còn phát hiện ra một chuyện khác nữa: chó O’ Leary đã biến mất, biết từ khi nào. Tôi biết nó đã lạc hay bị giày xéo bởi con quái vật nào đó hay cái gì khác. Tim tôi đau nhói. Con O’ Leary đã cứu chúng tôi, vậy mà tôi thậm chí thèm đợi nó để chắc chắn là nó theo sau chúng tôi.

      Ethan ngã quỵ xuống sàn nhà. “Các người đều mất trí hết rồi.” Cậu ta tháo mũ bảo hiểm ra, gương mặt nhễ nhại mồ hôi.

      Annabeth kinh ngạc. “Tôi nhớ ra cậu rồi! Cậu chính là một trong những đứa trẻ rõ danh tính ở nhà thần Hermes vài năm trước.”

      Cậu ta nhìn trừng trừng Annabeth. “Đúng rồi, còn cậu là Annabeth. Tôi nhớ ra rồi.”

      “Mắt cậu bị sao vậy?”

      Ethan nhìn chỗ khác và tôi có cảm giác rằng cậu ta sẽ muốn nói về chuyện đó.

      “Cậu chính là á thần trong giấc mơ của tôi,” tôi nói. “Chính là người mà tay chân của Luke quan tâm đến. Rốt cuộc thì người đó phải là Nico.”

      “Nico là ai?”

      “Đừng để ý,” Annabeth vội nói. “Tại sao cậu lại ́ gia nhập phe ác cơ chứ?”

      Ethan nhếch méphẳng có bên nào đúng cả. Các thần đâu có quan tâm đến chúng ta. Vậy tại sao tôi thể...”

      thể gia nhập một đội quân và chiến đấu đến chết chỉ để mua vui ư?” Annabeth nói. “Trời ạ, tớ hiểu nổi.”

      Ethan ́ gắng đứng dậy. “Tôi muốn tranh luận với cậu. Cám ơn vì đã giúp đỡ, nhưng tôi sẽ ra khỏi đây.”

      “Bọn tớ tìm Daedalus,” tôi nói. “Hãy cùng bọn tớ . Và khi công việc hoàn thành, mọi người sẽ chào đón cậu trở lại trại.”

      “Các cậu thật điên khi nghĩ Daedalus sẽ ra tay giúp đỡ.”

      “Ông ta sẽ phải làm như vậy,” Annabeth nói. “Bọn tớ sẽ khiến ông ta phải lắng nghe.”

      Ethan cười phá lên. “Ờ, vậy thì chúc may mắn với điều đó.”

      Tôi túm lấy tay cậu ta. “Cậu ̣nh trong mê cung này một mình sao? Đó là tự sát.”

      Cậu ta nhìn tôi và ́ gắng kiềm chế cơn giận dữ. Miếng vải băng mắt đã sờn ở phía mép và màu đen của tấm vải cũng đã nhạt phai như thể cậu ta đã đeo nó rất, rất lâu rồi. “Đáng lẽ cậu nên tha mạng cho tôi. Lòng nhân từ có chỗ trong cuộc chiến này đâu.”

      Sau đó cậu ta chạy biến mất vào bóng tối, quay trở lại nơi mà chúng tôi vừa chạy trốn.

      Tôi, Rachel và Annabeth đã quá mệt mỏi nên chúng tôi dựng luôn trại ngay trong căn phòng rộng lớn đó. Tôi tìm được một ít gỗ vụn và chúng tôi bắt đầu nhóm lửa. Những cái bóng như nhảy múa những chiếc ̣t quanh chúng tôi như những thân cây.

      “Có chuyện gì đó xảy ra với Luke rồi,” Annabeth lẩm bẩm và chọc con dao vào đống lửa. “Các cậu có để ý cách ấy cư xử ?”

      “Tớ thấy hắn ta khá vui vẻ đấy chứ,” tôi nói. “Như thể hắn ta vừa dành cả một ngày đẹp trời để hành hạ các hùng.”

      đúng! Có chuyện gì đó hay đã xảy ra. ấy có vẻ... lo lắng. ấy còn bảo con quái vật thả tớ ra. ấy muốn nói với tớ điều gì đó.”

      “Chắc hắn ta ̣nh nói Chào Annabeth, ngồi đây với tớ và xem tớ xé xác các bạn của cậu nè. Việc đó sẽ vui lắm!”

      “Cậu thật quá quắt,” Annabeth càu nhàu. ấy cho con dm vào bao rồi nói với Rachel. “Bây giờ ta đường nào hả Sacagawea?”

      Rachel trả lời ngay. ấy trở nên yên lặng hơn từ khi ở đấu trường. Giờ đây bất cứ khi Annabeth có tỏ thái độ mỉa mai thì Rachel cũng chẳng thèm trả lời nữa. ấy đốt đầu thanh gậy và dùng nó để vẽ những hình thù bằng than sàn, hình của những con quái vật mà chúng tôi đã gặp. Chỉ với vài nét, Rachel đã khắc họa tuyệt vời chân dung một con dracaena.

      “Chúng ta sẽ đường này,” Rachel nói. “Ánh sáng sàn nhà.”

      “Thứ ánh sáng đã dẫn thẳng chúng ta tới cái bẫy sao?” Annabeth hỏi.

      “Để ấy yên, Annabeth,” tôi nói. “ ấy ́ hết sức có thể.”

      Annabeth đứng dậy. “Lửa sắp tàn rồi. Tớ sẽ kiếm thêm chút củi trong khi các cậu bàn kế hoạch.” Và ấy bước về phía bóng tối.

      Rachel vẽ một hình thù khác với cây gậy của mình – một Antaeus bằng than đung đưa dây xích.

      “Bình thường Annabeth cư xử như vậy,” tôi nói với Rachel. “Tớ hiểu có chuyện gì với ấy.”

      Rachel nhướn mày. “Cậu chắc là biết chứ?”

      “Ý cậu là sao?”

      “Bọn con trai,” Rachel lẩm bẩm. “Đều đầu đất cả.”

      “Này, đừng vơ đũa cả nắm vậy chứ. Này, tớ xin lỗi đã lôi cậu vào chuyện này.”

      , cậu nói đúng,” Rachel nói. “Tớ có thể nhìn thấy lối . Tớ hiểu tại sao nhưng nó hiện ra rất rõ.” Rachel chỉ về phía bên kia góc phòng. Cái xưởng ở đằng kia. Trung tâm của mê cung. Chúng ta đến rất gần rồi. Tớ cũng biết tại sao con đường đó lại dẫn qua đấu trường. Xin... xin lỗi nhé, tớ cứ nghĩ cậu sắp chết rồi cơ.”

      Rachel nghe như sắp khóc đến nơi.

      “Này, tớ luôn trong tình trạng sắp chết mà,” tôi an ủi ấy. “Đừng bận tâm điều đó.”

      Rachel nhìn tôi. “Vậy hè nào cậu cũng làm những việc như thế này sao? Giết quái vật? Giải cứu thế giới? Chẳng lẽ cậu bao giờ làm những việc, cậu biết đấy, những việc bình thường sao?”

      Tôi chưa bao giờ nghĩ về điều đó. Lần cuối cùng tôi có một cuộc sống bình thường là từ khi... ừm, chưa bao giờ cả. “Tớ nghĩ con lai như bọn tớ đã quen với chuyện đó rồi. Hoặc có thể là phải quen nhưng...” Tôi đổi hướng câu chuyện. “Thế còn cậu thì sao? Bình thường cậu làm những gì?”

      Rachel nhún vai. “Tôi vẽ. Tôi đọc rất nhiều sách.”

      Được rồi, tôi nghĩ, nãy giờ cả hai đều đạt điểm 0 trong danh mục những điểm chung. “Thế còn gia ̀nh của cậu?”

      Tôi có thể cảm nhận ấy cảnh giác, như thể đây phải là một chủ đề an toàn. “Ồ... họ chỉ, cậu biết đấy, gia ̀nh thôi.”

      “Cậu đã nói rằng nếu như cậu có biến mất họ cũng sẽ để ý mà?”

      ấy đặt que củi xuống. “Oa, tôi thực sự mệt mỏi. Tôi có thể ngủ một chút ?”

      “Ồ, được chứ. Xin lỗi nếu...”

      Tôi mới nói đến đó thì Rachel đã co mình lại, lấy balô làm gối đầu. ấy nhắm mắt lại và nằm im, nhưng tôi có cảm giác ấy thực sự ngủ.

      Vài phút sau Annabeth quay trở lại. ấy ném thêm vài thanh củi vào đám lửa, liếc nhìn Rachel rồi nhìn sang tôi.

      “Tớ sẽ canh ca đầu,” Annabeth nói. “Cậu cũng nên ngủ .”

      “Cậu cần phải cư xử như thế.”

      “Như thế nào?”

      “Như... thôi quên .” Tôi nằm xuống mà trong lòng thấy buồn bã vô cùng. Tôi quá mệt đến nỗi ngủ thiếp khi vừa nhắm mắt.

      Trong giấc mơ, tôi nghe thấy tiếng cười. Tiếng cười lạnh lẽo và chói tai như tiếng mài dao.

      Tôi đứng bên rìa một cái hố trong vực thẳm Tartarus. Bên dưới, bóng đen sủi bọt lên như súp mực.

      “Ngươi đã tiến rất gần tới sự hủy diệt, người hùng bé nhỏ ạ,” giọng nói của Kronos cất lên khiển trách. “Và ngươi vẫn mù quáng.”

      Giọng nói nghe thật khác trước kia. Nghe có vẻ giống thật hơn, như thể nó phát ra từ một cơ thể thực sự chứ phải... trong bất cứ hình dạng nào đó mà ông ta đã từng trong tình trạng bị băm nát.

      “Ta phải cám ơn ngươi rất nhiều,” Kronos nói. “Ngươi bảo đảm cho sự trỗi dậy của ta.”

      Bóng đen trong hang động bắt đầu dày đặc và trở nên nặng nề hơn. Tôi ́ gắng lùi ra xa khỏi miệng hố, nhưng việc đó giống như bơi trong bể dầu vậy. Thời gian trôi chậm lại và tôi như ngừng thở.

      “Một ân huệ thôi,” Kronos nói. “Chúa tể thần Titan luôn trả các món nợ của ông ta. Có thể là hình ảnh của những người bạn mà ngươi đã bỏ rơi...”

      Bóng tối bao quanh tôi khẽ lay động, và tôi đã ở trong một hang động khác.

      “Nhanh lên nào!” Tyson nói và phi thẳng vào trong phòng. Grover tấp tểnh theo sau. Có tiếng rì rầm trong hành lang mà họ vừa bước ra, và đầu của một con rắn khổng lồ xộc vào trong động. Ý tôi là, con quái vật này quá lớn nên phần thân nó gần như thể chui qua đường hầm. Những cái vảy bằng đồng, cái đầu hình kim cương giống của rắn đuôi chuông, và đôi mắt vàng sáng rực đầy thù hận. Khi con quái vật há mồm, những chiếc răng nanh của nó cao bằng với cơ thể của Tyson.

      Con quái vật đớp Grover nhưng cậu ấy chạy thoát và nó bị ăn một miệng đất. Tyson nâng một tảng đá và ném về phía con quái vật, tảng đá rơi vào ngay giữa hai mắt con quái vật, nhưng nó chỉ chùn lại và kêu rít lên.

      “Nó sắp ăn thịt cậu đấy!” Grover hét lên.

      “Làm sao cậu biết?”

      “Nó vừa nói với tớ! Chạy!”

      Tyson lao sang một bên nhưng con quái vật dùng cái đầu như chiếc dùi cui quật ngã Tyson.

      !” Grover hét lên. Nhưng trước khi Tyson lấy lại thăng bằng, con quái vật đã quấn lấy cậu ấy và xiết chặt.

      Tyson dùng hết sức bình sinh để đẩy con quái vật ra nhưng nó lại càng xiết chặt hơn. Grover điên cuồng dùng các ống sáo sậy của mình đánh vào con quái vật, nhưng có vẻ như cậu ta đấm vào một bức tường đá.

      Cả căn phòng rung lên khi con quái vật siết chặt cơ bắp của nó, cả người giật mạch để lấn át sức mạnh của Tyson.

      Grover bắt đầu thổi chiếc sáo và thạch nhũ trần rơi xuống như mưa. Cả hang động như sắp sụp đổ...

      Tôi thức dậy khi Annabeth lắc lắc vai tôi. “Percy, dậy !”

      “Tyson... Tyson gặp nguy hiểm,” tôi nói. “Chúng ta phải giúp cậy ấy!”

      “Việc đầu tiên phải làm là ứng phó với trận động đất này đã,” ấy nói.

      Rõ ràng căn phòng rung chuyển. “Rachel!” Tôi hét.

      ấy mở mắt ngay lập tức, túm lấy túi xách và cả ba chúng tôi cùng chạy. Khi chúng tôi chạy gần hết đường hầm thì một chiếc ̣t gần đó bắt đầu oằn xuống. Chúng tôi tiếp tục chạy trong lúc hàng trăm tấn cẩm thạch ầm ầm đổ phía sau.

      Chúng tôi thoát tới hành lang và kịp nhìn thấy những chiếc ̣t còn lại sụp xuống. Một làn khói bụi trắng dâng lên cuồn cuộn phía chúng tôi và chúng tôi vẫn tiếp tục chạy.

      “Cậu biết ?” Annabeth nói. “Rốt cuộc thì tớ thấy thích cách này đấy.”

      lâu sau đó, chúng tôi nhìn thấy ánh sáng trước mặt – đó là ánh sáng điện bình thường.

      “Ở đó,” Rachel nói.

      Chúng tôi theo ấy vào hành lang bằng thép gỉ, trong tưởng tượng của tôi nó giống như một trạm vũ trụ hay gì đó. Ánh sáng huỳnh quang chiếu từ trần xuống. Sàn nhà là cũng được làm bằng kim loại.

      Tôi đã quá quen với việc ở trong bóng tối nên tôi phải nheo mắt lại. Cả Annabeth và Rachel đều trông thật xanh xao trong ánh sáng chói lòa này.

      “Lối này,” Rachel nói, và ấy bắt đầu chạy. “Chúng ta sắp đến rồi.”

      “Thật là sai lầm!” Annabeth. “Cái xưởng đó lẽ ra phải ở khu ̉ nhất của mê cung. Đây thể...”

      Annabeth ngập ngừng, vì chúng tôi đã đứng trước một loạt những cánh cửa kép bằng kim loại. Được khắc sâu vào thép, ngang tầm mắt chúng tôi, là một kí tự Hy Lạp màu xanh da trời lớn.

      “Chúng ta đã đến nơi,” Rachel tuyên bố. “Xưởng của Daedalus.”

      Annabeth ấn vào biểu tượng và cánh cửa rít lên mở ra.

      “Quá nhiều đối với kiến trúc ̉ đại nhỉ,” tôi nói.

      Annabeth quắc mắt. Chúng tôi cùng nhau bước vào phía trong.

      Điều đầu tiên khiến tôi chú ý chính là ánh sáng ban ngày – ánh sáng mặt trời sáng chói chiếu xuyên qua những khung cửa sổ khổng lồ. Đó phải là điều mà bạn mong chờ giữa ngục tối. Cái xưởng giống như studio của một nghệ sĩ, với trần nhà cao mười hai mét, đèn chiếu sáng công nghiệp, sàn nhà đá sáng bóng và những chiếc bàn máy được đặt dọc theo các cửa sổ. Một cầu thang xoắn dẫn lên một căn gác xép ở tầng hai. Nửa tá khung vẽ trưng bày những biểu đồ vẽ tay cho những tòa nhà và máy móc giống như những bức phác thảo của Leonardo de Vinci. Rất nhiều máy tính xách tay vứt ngổn ngang bàn. Những lọ thủy tinh chứa dầu màu xanh lục – Lửa Hy Lạp – xếp thành một giá. Ngoài ra còn có những vật phát minh – những ̃ máy kim loại mà tôi thể hiểu nổi. Một trong số đó là chiếc ghế bằng đồng có nhiều dây điện gắn vào, trông giống như một dụng cụ tra tấn. Một góc khác lại có một quả trứng kim loại khổng lồ kích thước bằng một người đàn ông. Có một chiếc đồng hồ quả lắc to có vẻ như được làm hoàn toàn bằng kính, vì thế mà bạn có thể nhìn thấy tất cả các bánh răng chuyển động bên trong. Và treo tường là một loạt các loại cánh bằng bạc và đồng.

      “Trời ơi,” Annabeth lẩm bẩm. ấy chạy đến khung vẽ gần nhất và nhìn vào bản phác thảo. “Ông ta là một thiên tài. Hãy nhìn những đường cong ở tòa nhà này!”

      “Và là một nghệ sĩ nữa,” Rachel kinh ngạc. “Những đôi cánh này thật tuyệt!”

      Những đôi cánh trông như đã được cải tiến hơn so với những cái tôi nhìn thấy trong giấc mơ. Lông vũ được đan xen vào nhau chặt chẽ hơn. Thay cho các mối nối bằng sáp là những sợi dây tự dán chạy dọc xuống theo chiều dài cánh.

      Tôi cầm thanh Thủy Triều trong tay. Rõ ràng Daedalus có ở nhà, nhưng căn xưởng trông như mới được sử dụng. Những chiếc máy tính xách tay chạy màn hình bảo vệ. Chiếc bánh nướng việt quất ăn dở và tách cà phê ở bàn làm việc.

      Tôi bước về phía cửa sổ. Quang cảnh bên ngoài tuyệt đẹp. Tôi nhận ra dãy núi Rocky ở phía xa. Chúng tôi ở cao, cách chân núi ít nhất là hai trăm mét, và bên dưới là cả một thung lũng mở ra với những ngọn núi ̉nh bằng đỏ rực, đá cuội và những tảng đá có hình tháp cao. Thung lũng trông như một thành phố đồ chơi với những tòa nhà chọc trời được tạo nên bởi một đứa trẻ khổng lồ và sau đó nó quyết ̣nh đập phá tất cả.

      “Chúng ta ở đâu thế này?” Tôi nói.

      “Colorado Springs,” một giọng nói phía sau tôi cất lên. Khu Vườn Các Vị Thần.”

      Đứng cầu thang xoắn ốc phía chúng tôi với vũ khí trong tay là thầy dạy đấu kiếm mất tích, Quintus.

      “Ông,” Annabeth nói. “Ông đã làm gì Daedalus?”

      Quintus mỉm cười yếu ớt. “Tin tôi , các người muốn gặp ông ta đâu.”

      “Nghe này, ngài Phản bội,” Annabeth gằn giọng, “tôi đã chiến đấu với những người phụ nữ rồng, một tên có ba thân và một con Nhân sư tâm thần để gặp ông ở đây. Giờ thì nói cho tôi biết DAEDALUS ở đâu?”

      Quintus bước xuống, giữ thanh kiếm bên mình. Ông ta mặc quần jean, bốt và chiếc áo phông của người ́ vấn từ Trại Con Lai. Đó quả là một điều sỉ nhục vì giờ đây chúng tôi đã biết ông ta là một tên gián điệp. Tôi biết liệu mình có thể đánh bại ông ta trong một trận đấu kiếm hay . Ông ta rất giỏi. Nhưng tôi nghĩ mình sẽ phải thử xem sao.

      nghĩ tôi là mật vụ của Kronos?” ông ta nói. “Rằng tôi làm việc cho Luke?”

      “Đúng vậy.” Annabeth trả lời.

      là một gái thông minh,” ông nói. “Nhưng nhầm rồi. Tôi chỉ làm việc cho chính bản thân tôi mà thôi.”

      “Luke đã nhắc đến ông,” tôi nói. “Greyon cũng biết ông. Ông đã đến nông trại của hắn ta.”

      “Dĩ nhiên,” ông ta nói. “Ta đã đến khắp mọi nơi. Thậm chí là ở đây.”

      Ông ta qua tôi như thể tôi hề là mối đe dọa gì cả, và tới bên cửa sổ. “Khung cảnh thay đổi từng ngày,” ông ta trầm ngâm. “Luôn là cảnh từ cao nhìn xuống. Ngày hôm qua là nóc một tòa nhà chọc trời nhìn ra Manhattan. Ngày trước đó là cảnh hồ Michigan tuyệt đẹp. Nhưng nó luôn quay trở lại Khu Vườn Các Vị Thần. Ta nghĩ Mê Cung thích nơi này. Ta cho rằng đó là một cái tên phù hợp.”

      “Ông đã từng đến đây,” tôi nói.

      “Đúng vậy.”

      “Ngoài kia có phải là ảo ảnh ?” tôi hỏi. “Một hình chiếu hay một thứ gì đó?”

      phải đâu,” Rachel thì thầm. “Đó là thật. Chúng ta ở Colorado.”

      Quintus nhìn chăm chú Rachel. “ có thể nhìn thấy mọi thứ đúng ? gợi cho ta nhớ đến một gái người trần khác mà ta từng quen. Một nàng công chúa gặp nạn khác.”

      “Đủ rồi,” tôi nói. “Ông đã làm gì với Daedalus?”

      Quintus nhìn tôi chăm chăm. “Cậu bé của tôi ơi, cậu cần phải học từ bạn cậu cách nhìn nhận sự việc một cách rõ ràng. Ta chính là Daedalus.”

      Tôi có thể chọn trả lời bằng nhiều cách khác nhau, từ “Tôi biết điều đó” cho đến “NÓI DỐI!” và “Vậy sao, tôi là thần Zeus đây.”

      Nhưng cuối cùng, câu duy nhất tôi có thể nói là, “Nhưng ông phải nhà phát minh! Ông là kiếm sĩ kia mà!”

      “Ta là cả hai,” Quintus nói. “Ta là một kiến trúc sư. Một học giả. Ta cũng chơi khá giỏi môn bóng rổ với một gã chỉ mới bắt đầu chơi khi được hai ngàn tuổi. Một nghệ sĩ thực thụ thì cần phải giỏi nhiều thứ.”

      “Đúng vậy,” Rachel nói. “Giống như tôi có thể vẽ bằng chân cũng như bằng tay.”

      “Cậu thấy chưa?” Quintus nói. “Một gái với rất nhiều tài lẻ.”

      “Nhưng ông thậm chí giống Daedalus,” tôi phản đối. “Tôi đã nhìn thấy ông ấy trong các giấc mơ và...” Đột nhiên một ý nghĩ khủng khiếp hiện ra trong tôi.

      “Đúng vậy,” Quintus nói. “Cuối cùng thì cậu cũng đoán ra sự thật.”

      “Ông là một người máy. Ông đã tạo cho mình một thân thể mới.”

      “Percy,” Annabeth bứt rứt nói, “ thể như thế được. Đó... đó thể nào là một người máy được.”

      Quintus cười khúc khích. “Vậy quý có biết Quintus nghĩa là gì ?”

      “Trong tiếng Latinh nó nghĩa là lần thứ năm nhưng...”

      “Đây là cơ thể thứ năm của ta.” Ông ta giơ cẳng tay ra, ấn vào khuỷu tay và một phần ̉ tay bật mở – một cánh cửa hình chữ nhật da. Phía bên dưới, những chiếc răng cưa bằng đồng quay tròn và dây điện phát sáng.

      “Thật kì diệu!” Rachel thốt lên.

      “Thật kỳ cục,” tôi nói.

      “Ông đã tìm được cách chuyển linh hồn mình vào một ̃ máy sao?” Annabeth nói. “Như thế là... trái

      “Ồ, ta dám đảm bảo với rằng nó vẫn là ta. Ta vẫn là Daedalus. Mẹ của chúng ta, nữ thần Athena, cũng đã khiến ta bao giờ quên được điều đó.” Quintus kéo ̉ áo đằng sau xuống. Ở gần cuối ̉ ông ta là một vết bớt mà tôi đã nhìn thấy trước đây – hình con chim sẫm màu được cấy vào da.

      “Dấu sắt nung dành cho kẻ giết người,” Annabeth nói.

      “Vì Perdix, cháu trai của ông đúng ,” tôi đoán. “Cậu bé mà ông đã đẩy từ tòa tháp xuống.”

      Mặt Quintus tối sầm lại. “Ta đẩy nó. Ta chỉ...”

      “Làm cậu ta mất thăng bằng,” tôi nói. “Bỏ mặc cho cậu ta chết.”

      Quintus nhìn chằm chằm vào những ngọn núi màu đỏ tía bên ngoài cửa sổ. “Ta hối hận về những gì ta đã làm, Percy. Ta đã rất tức giận và đau khổ. Nhưng ta thể thay đổi được sự việc và nữ thần Athena bao giờ để ta quên điều đó. Khi Perdix chết, bà ấy đã biến nó thành một con chim nhỏ – con gà gô. Bà ấy đóng dấu sắt nung hình con chim đó lên ̉ ta như một lời nhắc nhở. Dù ta có biến thành hình hài nào chăng nữa, vết nung đó vẫn luôn xuất hiện da ta.”

      Tôi nhìn vào đôi mắt ông ta và nhận ra đó chính là người vẫn hiện ra trong những giấc mơ của tôi. Có thể đó là một gương mặt hoàn toàn khác nhưng vẫn là tâm hồn ấy – vẫn trí thông minh ấy và cả những nỗi buồn.

      “Ông thực sự là Daedalus,” tôi đồng ý. “Nhưng tại sao ông lại đến trại? Tại sao lại theo dõi chúng tôi?”

      “Để xem trại của các ngươi có đáng cứu vớt hay . Luke đã kể cho ta một câu chuyện nhưng ta thích tự mình đưa ra quyết ̣nh.”

      “Vậy là ông đã từng nói chuyện với Luke.”

      “Tất nhiên. Một vài lần. Hắn ta khá có sức thuyết phục đấy.”

      “Nhưng giờ thì ông đã thấy trại rồi,” Annabeth khăng khăng. “Vậy nên ông biết chúng tôi cần ông giúp đỡ. Ông thể để Luke qua mê cung được!”

      Daedalus đặt thanh kiếm lên bàn máy. “Ta đã còn khả năng kiểm soát mê cung này nữa rồi, Annabeth ạ. Ta đã tạo nên nó, đúng vậy. Đáng lý ra nó phải được gắn liền với năng lượng cuộc sống của ta. Nhưng ta đã cho phép nó sống và tự sinh trưởng. Đó là cái giá ta phải trả cho sự cách biệ

      “Cách biệt khỏi cái gì?”

      “Các vị thần,” ông nói. “Và cái chết. Ta đã sống hai thiên niên kỉ rồi và luôn trốn tránh cái chết.”

      “Nhưng làm sao ông trốn thần Hades được?” tôi hỏi. “Thần Hades có Các Nữ thần Báo Thù.”

      “Họ thể biết tất cả mọi thứ,” ông nói. “Hay là nhìn thấy tất cả mọi thứ. Cậu đã chạm trán họ rồi mà Percy. Cậu biết điều ta nói ra là chính xác. Một người thông minh có thể chạy trốn trong một thời gian khá dài và ta đã tự giấu mình rất kỹ. Chỉ có kẻ thù lớn nhất của ta vẫn đuổi theo ta, nhưng ngay cả hắn vẫn chưa thể làm gì ta.”

      “Ý ông là Minos?” Tôi nói.

      Daedalus gật đầu. “Hắn truy tìm ta ngừng nghỉ. Bây giờ hắn đã là người phán xử cái chết, nên hắn còn mong muốn gì hơn việc ta đến trước mặt hắn để hắn có thể trừng phạt vì các tội ác của ta? Sau khi các con gái vua Cocalus giết Minos, linh hồn hắn bắt đầu hành hạ ta trong những giấc mơ. Minos thề sẽ săn đuổi ta. Ta đã làm việc duy nhất ta còn có thể làm. Đó là biến mất hoàn toàn khỏi thế giới và ẩn mình trong Mê Cung. Ta quyết ̣nh đây sẽ là thành công lớn nhất của mình: Trốn tránh cái chết.”

      “Và ông đã làm được điều đó,” Annabeth kinh ngạc, “trong suốt hai nghìn năm.” Annabeth tỏ ra vô cùng ấn tượng về điều này bất kể bao chuyện khủng khiếp mà Daedalus đã gây ra.

      Và sau đó một tiếng sủa lớn vọng lại từ hành lang. Tôi nghe thấy tiếng baBUMP, baBUMP, baBUMP của một bộ móng lớn gõ xuống sàn, và sau đó O’Leary nhảy vào trong xưởng. Nó liếm mặt tôi và sau đó suýt nữa làm Daedalus ngã bổ chửng với cú nhảy bổ đầy nhiệt tình.

      “Đây là một người bạn cũ của ta!” Daedalus nói khi gãi gãi tai con O’Leary. “Người bạn đồng hành duy nhất của ta trong suốt những năm tháng đơn.”

      “Ông đã bảo nó cứu tôi,” tôi nói. “Cái còi đó đã hoạt động.”

      Daedalus gật đầu. “Dĩ nhiên là vậy rồi Percy. Cậu có một trái tim nhân hậu. Và tôi biết con O’Leary sẽ quý cậu. Tôi muốn giúp cậu. Có lẽ tôi... tôi cũng cảm thấy có lỗi.”

      “Về việc cuộc tìm kiếm của cậu sẽ có kết quả gì cả.”

      “Sao cơ?” Annabeth hỏi. “Nhưng ông vẫn có thể giúp chúng tôi. Ông phải giúp chúng tôi. Hãy đưa cho chúng tôi sợi dây của Ariadne để Luke thể có được nó.”

      “Đúng... sợi dây. Ta đã nói với Luke rằng đôi mắt của một người thường sáng suốt chính là lời chỉ dẫn tuyệt vời nhất, nhưng hắn tin ta. Hắn quá quan tâm đến đồ vật ma thuật này. Và sợi dây đã có tác dụng. Nó được chính xác như người bạn của nhưng đủ tốt. Đủ tốt.”

      “Nó đâu rồi ?” Annabeth hỏi.

      ở chỗ Luke,” Daedalus buồn bã nói. “Xin lỗi nhưng đã đến chậm rất nhiều giờ rồi.”

      Tôi rùng mình nhận ra tại sao Luke lại vui như vậy khi hắn ở đấu trường. Hắn đã lấy được sợi dây từ Daedalus. Vật cản duy nhất của hắn đó chính là chủ nhân đấu trường và tôi đã giúp hắn bằng cách giết chết Antaeus.

      “Kronos đã hứa trao cho ta sự tự do,” Quintus nói. “Một khi thần Hades bị lật đổ, ông ta sẽ đưa ta lên đứng đầu ̣a Ngục. Ta sẽ giành lại con trai Icarus của ta. Ta sẽ bù đắp cho Perdix bé nhỏ đáng thương. Ta sẽ tận mắt nhìn linh hồn của Minos bị ném xuống Tartarus nơi hắn sẽ thể làm phiền ta được nữa. Và ta sẽ bao giờ phải trốn tránh cái chết nữa.”

      “Đó chính là ý tưởng tuyệt vời của ông sao?” Annabeth hét lên. “Ông sẽ để Luke phá hủy trại của chúng tôi, giết chết hàng trăm á thần và rồi tấn công ̉nh Olympus ư? Ông sẽ hủy diệt cả thế giới này để có thể có được thứ mình muốn sao?”

      “Các ngươi thể tránh được. Ta đã nhìn thấy điều đó khi ta bắt đầu làm việc ở trại. Các ngươi thể kìm hãm sức mạnh của Kronos được đâu.”

      đúng!” Annabeth gào lên.

      “Ta làm những gì mình phải làm, Annabeth thân mến. Lời đề nghị đó quá ngọt ngào và ta thể từ chối. Ta xin lỗi.”

      Annabeth đẩy một khung vẽ. Những bức vẽ rơi tung tóe xuống sàn nhà. “Tôi đã từng tôn trọng ông, ông chính là người hùng của tôi! Ông... ông đã tạo nên những thứ thật tuyệt diệu. Ông giải quyết mọi vấn đề. Nhưng giờ thì... tôi biết ông là gì nữa. Những đứa con của Athena chỉ thông minh thôi chưa đủ, mà còn phải sáng suốt nữa. Có lẽ ông chỉ còn là một ̃ máy. Lẽ ra ông đã chết cách đây hai nghìn năm rồi.”

      Thay vì tức giận, Daedalus lại cúi đầu xuống. “ nên cảnh báo cho mọi người ở trại. Vì giờ này Luke đã có sợi dây...”

      Đột nhiên tai con O’Leary dựng đứng lên.

      “Ai đó đến!” Rachel cảnh báo.

      Cánh cửa xưởng bật mở, Nico bị đẩy vào với hai tay bị xích. sau Nico là Kelli và hai tên khổng lồ Laistrygonians, và sau cùng là con ma Minos. Giờ đây trông hắn gần như đông đặc lại – một vị vua với bộ râu và làn da tái xanh, đôi mắt lạnh lẽo, những tia sương mù quấn quanh áo choàng của hắn.

      Hắn nhìn Daedalus chằm chằm. “Ngươi đây rồi, người bạn cũ của ta.”

      Daedalus nghiến chặt hàm răng lại. Ông ta nhìn Kelli. “Chuyện này là sao đây?”

      “Luke gửi lời hỏi thăm đến ngươi đấy,” Kelli nói. “ ấy nghĩ có thể ngươi muốn gặp lại người chủ cũ của mình – Minos.”

      “Đây phải là điều được ghi trong thỏa thuận,” Daedalus nói.

      “Đúng vậy,” Kelli nói. “Nhưng chúng ta đã có được thứ chúng ta cần, và chúng ta còn có những thỏa thuận khác nữa. Minos cũng cầu một điều từ phía ta và đổi bằng chàng trai trẻ này.” Ả ta nói và chạm tay vào bên dưới cằm Nico. “Cậu ta khá hữu ích đó. Tất cả những gì Minos muốn là đầu của nhà ngươi, ông già ạ.”

      Mặt Daedalus tái nhợt. “Đồ phản bội.”

      “Hãy làm quen với chuyện đó ,” Kelli nói.

      “Nico, em ổn chứ?” tôi hỏi.

      Cậu ta gật đầu buồn bã. “Em... em xin lỗi, Percy. Minos nói với em rằng gặp nguy hiểm. Hắn thuyết phục em quay trở lại mê cung.”

      “Em ́ giúp bọn sao?”

      “Em đã bị lừa.” Nico nói. “Hắn lừa tất cả chúng ta.”

      Tôi đưa mắt trừng trừng nhìn Kelli. “Luke ở đâu? Tại sao Luke ở đây?”

      Con quỷ cái đó mỉm cười như thể tôi và ả ta chia sẻ một chuyện buồn cười riêng tư nào đó vậy. “Luke ... bận. ấy chuẩn bị cho một cuộc đột kích. Nhưng đừng lo. Rất nhiều người bạn của chúng ta đường đến đây. Và trong khi chờ đợi, ta nghĩ mình nên thưởng thức một bữa ăn nhẹ tuyệt vời!” Bàn tay ả ta biến thành bộ móng vuốt. Mái tóc biến thành lửa và đôi chân hiện nguyên hình – một chân lừa và chân còn lại bằng đồng.

      “Percy,” Rachel thì thầm, “những đôi cánh. Cậu có nghĩ rằng...”

      “Lấy chúng,” tôi nói. “Tớ sẽ ́ gắng giữ chân bọn chúng.”

      Sau câu nói đó, trận chiến bắt đầu. Annabeth và tôi tấn công Kelli. Những con quái vật khổng lồ tiến thẳng về phía Daedalus nhưng con O’Leary đã nhảy tới bảo vệ ông ta. Nico bị đẩy xuống đất và ́ gắng thoát khỏi xiềng xích trong khi con ma Minos gào lên, “Hãy giết tên phát minh ! Giết hắn!”

      Rachel lấy những đôi cánh tường. ai để ý đến ấy cả. Kelli tấn công Annabeth, tôi ́ gắng tấn công ả ta nhưng Kelli rất nhanh. Ả ta hất tung những chiếc bàn, phá hủy các sáng chế và để chúng tôi lại gần. Ở phía bên kia, tôi thấy con O’Leary gặm cánh tay của một tên khổng lồ. Hắn gào thét và quăng nó khắp nơi, ́ gắng rũ nó ra. Daedalus với tay túm lấy thanh kiếm của ông nhưng tên khổng lồ thứ hai đã dùng nắm đấm phá nát chiếc bàn máy và thanh kiếm văng . Một chiếc lọ đất sét đựng Lửa Hy Lạp bị đập vỡ sàn nhà và bắt đầu bùng cháy, ngọn lửa xanh lục nhanh chóng lan ra.

      “Hãy đến với ta!” Minos kêu lên. “Linh hồn người chết!” Hắn giơ hai bàn tay ma của mình lên và bắt đầu ngâm nga.

      !” Nico hét. Nico đứng dậy và hiểu bằng cách nào cậu ta đã phá bỏ được xiềng xích.

      “Ngươi thể điều khiển được ta đâu, đồ ngu.” Minos cười khinh bỉ. “Trong suốt quãng thời gian qua, ta đã luôn điều khiển ngươi! Linh hồn đổi lấy linh hồn, đúng vậy. Nhưng chị ngươi phải là người sẽ quay trở lại từ cõi chết. Đó là ta, ngay sau khi ta giết chết tên phát minh kia!”

      Những linh hồn bắt đầu xuất hiện quanh Minos – những hình ảnh mờ ảo từ từ nhân lên và đông đặc lại thành những tên lính Crete.

      “Ta là con trai của thần Hades,” Nico nhấn mạnh. “Hãy biến !”

      Minos phá lên cười. “Ngươi có quyền hạn gì với ta cả. Ta là vua của các linh hồn! Vị vua ma!”

      .” Nico rút thanh kiếm ra. “Là ta.”

      Nico đâm thẳng thanh kiếm đen của mình xuống sàn và nó xuyên qua đá như xuyên qua một miếng bơ.

      bao giờ!” Hình dạng của Minos khẽ lay động. “Ta sẽ ...”̀n nhà rung chuyển. Những cánh cửa sổ nứt ra và vỡ vụn, một luồng khí trong lành tràn vào. Một vết nứt hiện ra sàn đá của xưởng, và Minos cùng với những linh hồn bị hút vào trong khoảng đó với những tiếng kêu gào kinh hoàng.

      Tin xấu: là cuộc chiến vẫn xảy ra và tôi đã bị mất tập trung. Kelli nhảy bổ vào tôi nhanh đến mức tôi kịp phòng vệ. Thanh kiếm trượt khỏi tay tôi và tôi ngã xuống, đập đầu rất mạnh vào một chiếc bàn máy. Mắt tôi nhòe và tay thì nhấc nổi lên nữa.

      Kelli cười tự đắc. “Ngươi sẽ ngon lắm đây!”

      Kelli nhe răng nanh ra. Nhưng rồi người ả cứng đờ lại. Đôi mắt đỏ rực mở to. Ả há hốc mồm, “... trường học... linh hồn...”

      Và Annabeth rút con dao ra khỏi lưng con empousa. Cùng với tiếng rít chói tai, Kelli biến thành làn hơi màu vàng.

      Annabeth giúp tôi đứng dậy. Tôi vẫn thấy chóng mặt nhưng chúng tôi còn nhiều thời gian nữa. Con O’Leary và Daedalus vẫn bị kẹt lại trong trận chiến với lũ người khổng lồ, và tôi có thể nghe thấy nhiều tiếng la hét trong đường hầm. Có nhiều quái vật hơn tiến đến xưởng.

      “Chúng ta phải giúp Daedalus!” Tôi nói.

      có thời gian đâu,” Rachel nói. “Có quá nhiều quái vật đến!”

      ấy đã khoác đôi cánh lên và giúp Nico. Cậu nhóc trông xanh mét và ướt sũng mồ hôi sau khi chiến đấu với Minos. Đôi cánh ngay lập tức bám vào lưng và cánh tay Nico.

      “Đến lượt cậu đấy !” Rachel nói.

      Trong giây lát, Nico, Annabeth, Rachel và tôi đã gắn được những đôi cánh đồng lên người. Tôi đã cảm thấy mình như bay lên nhờ những cơn gió thổi vào từ cửa sổ. Lửa Hy Lạp thiêu rụi bàn ghế, đồ đạc và lan ra phía cầu thang xoắn ốc.

      “Daedalus,” tôi hét lên. “ nào!”

      Ông ấy bị chém khắp mình. Nhưng thay vì chảy máu, những giọt dầu vàng ứa ra. Daedalus tìm thấy thanh kiếm và dùng mảnh vỡ của bàn làm lá chắn trước bọn khổng lồ. “Tôi sẽ để O’Leary lại!” ông ấy nói. “ !”

      còn thời gian để tranh luận nữa. Thậm chí có ở lại thì tôi cũng chắc chúng tôi có thể giúp được gì hay .

      “Có chúng ta biết bay đâu!” Nico phản đối.

      “Giờ là lúc để học đấy,” tôi nói. Và cả bốn chúng tôi cùng nhau nhảy ra khỏi cửa sổ và vào bầu trời rộng mở kia.

    2. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      XVI


      Nhảy ra ngoài cửa sổ cách mặt đất khoảng một trăm năm mươi mét đối với tôi bao giờ là một ý tưởng hay ho. Đặc biệt là khi tôi mang mình đôi cánh bằng đồng và vẫy vẫy cánh tay như một con vịt.

      Tôi lao thẳng xuống thung lũng và những dãy đá đỏ bên dưới. Trong khi tôi chắc mẩm rằng mình sắp biến thành một vết mỡ dơ trong Khu Vườn Các Vị Thần thì nghe được tiếng Annabeth hét lớn từ đâu đó phía tôi: “Dang cánh tay rộng ra! Giữ cho chúng được duỗi ra.”

      Một phần nhỏ trong bộ não tôi đã bị nhấn chìm trong sợ hãi đã nghe thấy tiếng ấy và cánh tay tôi phản ứng. Ngay sau khi tôi giang cánh tay ra, đôi cánh cứng lại đón lấy gió và tôi rơi chậm dần. Tôi liệng xuống phía dưới, nhưng góc bay giờ đã được kiểm soát, giống như một con diều chao xuống vậy.

      Tôi đập cánh một lần để thử nghiệm. Tôi uốn lượn bầu trời, tiếng gió rít trong tai tôi.

      “Tuyệt!” tôi hét lên. Cảm giác này thật thể tin được. Khi đã thuần thục, tôi cảm thấy như đôi cánh là một phần thân thể. Tôi có thể bay lên, lượn xuống bất cứ nơi đâu mình muốn.

      Tôi quay lại nhìn các bạn của tôi – Rachel, Annabeth và Nico bay theo đường xoắn ốc phía tôi, lấp lánh trong ánh mặt trời. Phía sau họ, khói bốc lên từ những khung cửa sổ khu xưởng của Daedalus.

      “Đáp xuống thôi!”Annabeth hét. “Những đôi cánh này dùng mãi được đâu.”

      “Trong bao lâu?” Rachel hỏi.

      “Tớ muốn khám phá điều đó đâu!” Annabeth nói.

      Chúng tôi lao xuống về phía Khu Vườn Các Vị Thần. Tôi lượn trọn một vòng quanh một trong các ̉nh đá và khiến cho một vài nhà leo núi một phen hoảng hốt. Sau đó bốn chúng tôi bay qua thung lũng, phía một con đường, và đáp xuống mái hiên của trung tâm đón khách. Lúc đó là chiều muộn và nơi đó khá là vắng vẻ, nhưng chúng tôi vẫn ́ tháo cánh ra càng nhanh càng tốt. Nhi lại chúng, tôi có thể thấy Annabeth đã đúng. Chất keo tự dán ở các điểm giúp gắn đôi cánh vào lưng chúng tôi chảy ra, và chúng tôi làm rụng những chiếc lông vũ bằng đồng. Đáng tiếc rằng chúng tôi thể sửa được chúng, nhưng cũng thể để chúng lại cho những người thường trông thấy. Vì vậy chúng tôi quyết ̣nh nhét chúng vào thùng rác bên ngoài quán ăn.

      Tôi dùng máy chụp ảnh lập thể dành cho khách du lịch để nhìn lên ngọn đồi nơi đã từng có khu xưởng của Daedalus, nhưng nó đã biến mất. khói, cửa sổ vỡ, chỉ là một sườn đồi.

      “Khu xưởng đó chuyển chỗ khác rồi,” Annabeth nói. “ biết là đến nơi nào.”

      “Chúng ta làm gì bây giờ?” Tôi hỏi. “Làm sao để quay trở lại mê cung đây?”

      Annabeth trân trân nhìn lên những ̉nh núi Pikes Peak ở phía xa, “Có thể chúng ta quay lại được. Nếu như Daedalus chết... ông ấy đã nói sức mạnh của ông gắn chặt với mê cung đó. Có thể mọi thứ đã bị phá hủy. Có thể điều đó sẽ ngăn chặn cuộc xâm chiếm của Luke.

      Tôi nghĩ về Grover và Tyson, họ vẫn ở đâu đó dưới đường hầm. Và Daedalus... mặc dù ông ta đã làm một số chuyện kinh khủng và khiến những người tôi quan tâm gặp nguy hiểm, nhưng chết cách đó thì thật khủng khiếp.

      .” Nico nói. “Ông ta chưa chết.”

      “Sao em có thể chắc chắn như vậy?” Tôi hỏi

      “Em biết khi nào thì có người chết. Đó là khi em nghe được thanh như những tiếng vo ve bên trong tai.”

      “Thế còn Grover và Tyson thì sao?”

      Nico lắc đầu. “Việc đó thì khó. Họ phải là con lai hay người thường. Họ có linh hồn giống con người.”

      “Chúng ta phải vào thành phố,” Annabeth quyết ̣nh. “Cơ hội tìm thấy lối vào mê cung ở đó sẽ cao hơn. Chúng ta phải quay trở về trại trước Luke và đội quân của hắn.”

      “Thế chúng ta chỉ việc lên máy bay thôi,” Rachel nói.

      Tôi rùng mình. “Tớ bay đâu.”

      “Nhưng cậu vừa bay còn gì.”

      “Đó là bay ở tầm thấp,” tôi nói, “và ngay cả điều đó cũng vẫn khá nguy hiểm. Bay lên cao – đó là ̣a phận của thần Zeus. Tớ thể làm được. Vả lại chúng ta cũng có thời gian để bay. Mê Cung chính là cách trở lại nhanh nhất.”

      Tôi muốn nói ra, nhưng tôi hy vọng rằng có thể, chỉ là có thể thôi, chúng tôi sẽ tìm thấy Grover và Tyson đường.

      “Vậy thì chúng ta sẽ cần một chiếc ô tô để vào thành phố,” Annabeth nói.

      Rachel nhìn xuống bãi đỗ xe. ấy nhăn nhó như thể sắp làm một điều gì đó mà ấy cảm thấy hối tiếc. “Tớ sẽ lo chuyện này.”

      “Bằng cách nào?” Annabeth hỏi.

      “Cứ tin ở tớ.”

      Trông Annabeth có vẻ thoải mái nhưng ấy vẫn gật đầu. “Được, tớ sẽ mua một lăng kính ở cửa hàng lưu niệm để tạo một chiếc cầu vồng và gửi thông điệp Iris về trại.”

      “Em sẽ cùng chị,” Nico nói. “Em đói.”

      “Vậy thì tớ sẽ với Rachel,” tôi nói. “Hẹn gặp các cậu tại bãi đỗ xe nhé.”

      Rachel cau mày như thể ấy muốn cho tôi cùng. Thái độ đó khiến tôi cảm thấy hơi tệ, nhưng tôi vẫn theo ấy xuống bãi đỗ xe.

      Rachel tiến thẳng đến chiếc xe đen to đỗ ở rìa bãi gửi xe. Đó là chiếc Lexus có tài xế lái, giống loại mà tôi vẫn nhìn thấy quanh Manhattan. Người tài xế đọc báo ở phía trước mũi xe. Ông ta mặc comple đen và thắt cà vạt.

      “Cậu ̣nh làm gì?” Tôi hỏi Rachel.

      “Cậu đợi ở đây nhé,” ấy nói với vẻ khổ sở. “Xin cậu đấy.”

      Rachel thẳng đến gần người tài xế và nói chuyện với ông ta. Ông ta cau mày. Rachel nói thêm điều gì đó. Ông ta tái mặt và gập tờ tạp chí lại. Ông ta gật đầu và lục tìm chiếc điện thoại. Sau cuộc gọi ngắn, ông ta mở cửa sau cho Rachel bước vào. ấy chỉ về phía tôi và người tài xế tiếp tục gật đầu rối rít như nói: Vâng thưa quý . Bất cứ điều gì quý muốn.

      Tôi thể hiểu tại sao ông ta lại tỏ ra bối rối như vậy.

      Rachel quay lại đón tôi đúng lúc Annabeth và Nico bước ra từ cửa hàng lưu niệm.

      “Tớ đã nói chuyện với bác Chiron,” Annabeth nói. “Mọi người ́ hết sức để chuẩn bị cho trận chiến, nhưng bác ấy vẫn muốn chúng ta quay lại. Trại sẽ cần sự giúp đỡ của tất cả các hùng. Chúng ta đã kiếm được xe chưa?”

      “Tài xế đã sẵn sàng lâu rồi,” Rachel nói.

      Người tài xế nói chuyện với một người đàn ông khác mặc quần kaki và áo phông, có lẽ là một khách hàng đã thuê chiếc xe đó. Người khách phàn nàn nhưng tôi có thể nghe thấy người tài xế nói: “Xin lỗi ngài, nhưng đây là chuyện khẩn cấp. Chúng tôi đã gọi một chiếc xe khác cho ngài rồi.”

      “Nào, thôi,” Rachel nói. ấy chui thẳng vào xe mà ngước nhìn ngưòi đàn ông đã thuê xe. Một phút sau đó chúng tôi lên đường. Ghế ngồi bằng da và chỗ để chân rất thoải mái. Phía sau ghế có tivi gắn vào chỗ tựa đầu và một tủ lạnh mini chứa đầy nước đóng chai, sô đa và đồ ăn vặt. Chúng tôi liền ăn ngấu nghiến.

      đâu thưa Dare?” người lái xe hỏi.

      “Tôi cũng chưa chắc, Robert,” Rachel nói. “Chúng tôi chỉ cần lại qua thành phố và ngắm nhìn xung quanh đã.”

      “Vâng thưa .”

      Tôi nhìn Rachel. “Cậu quen ông ấy sao?”

      “Nhưng tại sao ông ấy lại bỏ mọi thứ để giúp cậu?”

      “Cậu hãy giúp mình quan sát mọi thứ .” ấy nói.

      Tuy nhiên đó phải câu trả lời cho câu hỏi của tôi.

      Chúng tôi lái xe khắp Colorado Springs cả nửa giờ đồng hồ và thấy gì tương tự như lối vào Mê Cung cả. Tôi nhận ra rằng vai Rachel ghì sát vào vai tôi. Tôi luôn tự hỏi thực ra Rachel là ai, làm sao ấy có thể bước tới nói chuyện với một người tài xế nào đó và ngay lập tức được mời lên xe.

      Sau một tiếng đồng hồ chúng tôi quyết ̣nh thẳng về phía bắc đến Denver và nghĩ rằng có lẽ chúng tôi sẽ tìm được lối vào Mê Cung ở một thành phố lớn hơn. Tuy nhiên, chúng tôi đều bắt đầu lo lắng. Chúng tôi phí phạm thời gian.

      Sau đó, ngay khi chúng tôi chuẩn bị rời Colorado Springs thì Rachel ngồi thẳng người dậy. “Ra khỏi đường cao tốc.”

      Người lái xe liếc ra đằng sau. “Thưa ?”

      “Tôi nghĩ mình đã nhìn thấy cái gì đó. Ra khỏi đây.”

      Người lái xe băng qua luồng giao thông và vào con đường ra khỏi đường cao tốc.

      “Cậu đã nhìn thấy cái gì vậy?” Tôi hỏi, bởi vì chúng tôi đã ra khỏi thành phố khá xa rồi. có thứ gì cả ngoài đồi núi, bãi cỏ và một vài ngôi nhà kiểu trang trại đã đổ nát. Rachel bảo người lái xe tiến lại con đường đất trông có gì khả quan này. Chiếc xe lao nhanh qua một biển chỉ dẫn nên tôi kịp đọc, nhưng Rachel nói, “Bảo tàng Công nghiệp & Khai thác Mỏ Miền Tây.”

      Trông nó giống một viện bảo tàng cho lắm – đó là một ngôi nhà nhỏ như nhà ga kiểu cũ với vài cái máy khoan, máy bơm và máy đào cũ bên ngoài.

      “Ở đó.” Rachel chỉ về một cái lỗ một bên sườn của một ngọn đồi gần đó. Một đường hầm đã được đóng ván và xích lại. “Lối vào một khu mỏ cũ.”

      “Một cánh cửa vào Mê Cung ư?” Annabeth hỏi. “Sao cậu có thể chắc chắn thế?”

      “Ừ, nhìn là biết!” Rachel nói. “Ý tớ là... tớ có thể nhìn thấy điều đó, được chưa?”

      ấy cảm ơn người lái xe và tất cả chúng tôi bước ra khỏi xe. Ông ta đòi tiền hay bất cứ thứ gì. “ chắc sẽ ổn chứ, Dare? Tôi sẽ rất vui lòng gọi cho...”

      !” Rachel trả lời. “ cần đâu. Cám ơn Robert, chúng tôi ổn cả mà.”

      Viện bảo tàng dường như bị đóng cửa, ai làm phiền khi chúng tôi leo lên đồi để đến cửa hầm mỏ, tôi nhìn thấy dấu của Daedalus khắc chiếc khóa móc. Dù vậy nhưng tôi vẫn hiểu sao Rachel có thể nhìn thấy một thứ bé xíu như thế từ tận đường cao tốc. Tôi chạm vào cái khóa và những sợi xích rơi xuống. Chúng tôi đá một vài tấm ván xuống rồi bước vào trong. Dù hậu quả thế nào thì chúng tôi cũng đã quay trở lại Mê Cung.

      Những đường hầm bằng đất biến thành đá. Chúng uốn lượn và tách ra và ́ làm chúng tôi rối trí, nhưng Rachel hề gặp khó khăn gì khi dẫn đường cho chúng tôi. Chúng tôi nói với ấy rằng mình cần quay lại New York nhưng Rachel gần như dừng lại khi những đường hầm gợi ý một lối .

      Tôi vô cùng ngạc nhiên khi Annabeth và Rachel bắt đầu nói chuyện với nhau đường . Annabeth hỏi Rachel về cuộc sống của ấy nhưng Rachel ́ lảng tránh nên họ nói về kiến trúc. Hóa ra Rachel biết được ít nhiều nó nhờ việc học mỹ thuật. Họ nói về vẻ ngoài khác nhau của các công trình xây dựng quanh New York – kiểu “Cậu đã thấy cái này chưa,” vân vân và vân vân. Vì vậy tôi lùi lại cùng Nico trong sự im lặng đến khó chịu.

      “Cám ơn vì đã cùng với bọn ,” cuối cùng tôi cũng mở lời.

      Nico nheo mắt lại. Cậu ta giận dữ như trước nữa – chỉ hoài nghi, cẩn thận. “Em nợ về chuyện ở nông trại, Percy. ̣ng thêm... em muốn tận mắt gặp Daedalus. Về mặt nào đó thì Minos đã đúng. Daedalus nên chết. một ai nên né tránh cái chết lâu như vậy. Đó là trái với tự nhiên.”

      “Đó chính là điều em ́ gắng theo đuổi bấy lâu nay ư? Đổi linh hồn Daedalus lấy linh hồn của chị gái em.”

      Nico bước thêm năm mươi thước rồi mới trả lời. “ biết đấy, mọi việc hề dễ dàng chút nào. Chỉ có người chết làm bầu bạn. Hiểu rằng mình sẽ bao giờ được những người sống chấp nhận. Chỉ có người chết là kính trọng em và họ làm vậy chỉ vì sợ hãi.”

      “Em có thể được chấp nhận,” tôi nói. “Em có thể kết bạn với mọi người ở trại kia mà.” Tôi nói.

      Cậu ta nhìn tôi chằm chằm. “ thật sự tin như vậy sao, Percy?”

      Tôi trả lời. Sự thật là tôi cũng dám chắc. Nico đã luôn có chút gì khác biệt, và kể từ sau cái chết của Bianca, cậu ta gần như trở nên... đáng sợ. Nico có đôi mắt của cha mình – ngọn lửa mãnh liệt, vui buồn thất thường đó khiến cho bạn hoài nghi: cậu ta hoặc là một thiên tài hoặc là một kẻ điên. Và cách Nico xua đuổi Minos cũng như tự nhận mình là vua của những hồn ma cũng khá ấn tượng, nhưng nó cũng khiến tôi cảm thấy khó chịu.

      Trước khi tôi nghĩ ra điều gì để nói với Nico thì tôi đâm sầm vào Rachel dừng lại trước mũi tôi. Chúng tôi đến một chỗ đường giao nhau. Đường hầm vẫn thẳng tiến nhưng có một đường rẽ ngang về bên phải – một ống thông hơi tròn bằng đá núi lửa đen.

      “Cái gì vậy?” Tôi hỏi.

      Rachel nhìn chằm chằm xuống đường hầm tối thui. Trong ánh sáng đèn pin lờ mờ, trông Rachel như một trong những hồn ma của Nico vậy.

      “Có phải đường đó ?” Annabeth hỏi.

      .” Rachel lo lắng nói. “ phải đâu.”

      “Vậy tại sao chúng ta lại?” Tôi hỏi.

      “Mọi người nghe xem,” Nico nói.

      Tôi lắng nghe tiếng gió thổi vào đường hầm giống như lối ra ở rất gần. Và tôi ngửi thấy mùi gì đó mơ hồ quen thuộc. Nó gợi lại những kí ức tốt đẹp.

      “Cây bạch đàn,” tôi nói. “Giống như ở California.”

      Mùa đông năm ngoái, khi chúng tôi đối mặt với Luke và thần Titan Atlas ̉nh ngọn Tamalpais, khí cũng có mùi như thế này.

      “Có cái gì đó rất tà ác ở phía cuối đường hầm đó,” Rachel nói. “Nó rất mạnh.”

      “Và mùi của cái chết.” Nico thêm vào, khiến tôi cảm thấy tốt hơn rất nhiều.

      Tôi và Annabeth nhìn nhau.

      “Lối vào của Luke,” ấy đoán. “Lối đó dẫn đến Núi Othrys – cung điện của các thần Titan.”

      “Tớ phải kiểm tra nó,” tôi nói.

      được, Percy.”

      “Luke có thể ở đó,” tôi nói “Hoặc... hoặc là Kronos. Tớ phải tìm hiểu xem chuyện gì xảy ra.”

      Annabeth ngập ngừng. “Vậy tất cả chúng ta cùng .”

      ,” tôi nói. “Việc đó quá nguy hiểm. Nếu họ bắt được Nico hoặc là Rachel, Kronos có thể dùng hai người họ. Cậu phải ở lại để bảo vệ họ.”

      Điều tôi nói ra là tôi cũng lo cho Annabeth. Tôi chắc ấy sẽ làm gì nếu ấy nhìn thấy Luke lần nữa. Trước đây hắn đã lừa và lôi kéo Annabeth rất nhiều lần.

      “Percy đừng,” Rachel nói. “Đừng đến đó một mình.”

      “Tớ sẽ nhanh thôi,” tôi hứa. “Tớ sẽ làm gì ngu xuẩn đâu.”

      Annabeth lôi chiếc mũ Yankee trong túi ra. “Ít nhất thì hãy cầm theo cái này và nhớ cẩn thận nhé.”

      “Cám ơn.” Tôi nhớ lần trước khi tôi và Annabeth tách ra, ấy đã tặng tôi một nụ hôn may mắn ở núi St. Helens. Còn lần này, tất cả những gì tôi có chỉ là một chiếc mũ.

      Tôi đội chiếc mũ. “Nào lên đường.” Và tôi tàng hình lén lút xuống đường hầm tối tăm

      Ngay trước khi tôi kịp bước ra ngoài, tôi nghe được các giọng nói: những tiếng gầm gừ, tiếng tru của những tên thợ rèn quái vật biển, bọn telekhine.

      “Ít ra chúng ta cũng cứu được lưỡi dao,” một con cất tiếng. “Ông chủ sẽ vẫn thưởng cho chúng ta.”

      “Đúng vậy, đúng vậy,” con thứ hai ré lên. “Các phần thưởng rất lớn!”

      Một giọng khác, lần này có vẻ giống người hơn, nói: “Ừ, tuyệt đấy, giờ nếu các ngươi đã xong việc với ta thì...”

      , con lai!” một telekhine nói, “Mày phải giúp bọn tao thuyết trình. Đó là vinh dự rất lớn đấy!”

      “Gee, cám ơn,” gã con lai nói. Tôi nhận ra đó là Ethan Nakamura, người đã bỏ chạy sau khi tôi cứu mạng đáng thương của hắn ở đấu trường.

      Tôi rón rén về phía cuối đường hầm. Tôi luôn phải nhắc nhở bản thân rằng mình vô hình. Bọn chúng thể nhìn thấy tôi.

      Một luồng gió mạnh táp vào khi tôi ra khỏi đường hầm. Tôi đứng gần ̉nh núi Tam. Thái Bình Dương trải dài phía dưới, xám xịt dưới bầu trời đen kịt những mây. Khoảng năm, sáu mét phía dưới, hai tên telekhine đặt thứ gì đó lên một tảng đá lớn, một vật dài và mỏng được gói bằng vải đen. Ethan giúp họ mở nó.

      “Cẩn thận, thằng ngốc,” con telekhine mắng, “Chỉ cần một cái chạm nhẹ, lưỡi dao rút linh hồn ra khỏi cơ thể ngươi.”

      Ethan lo lắng nuốt nước bọt. “Có lẽ tao nên để mày mở nó vậy.”

      Tôi nhìn lên ̉nh núi, nơi pháo đài bằng đá cẩm thạch đen hiện ra lờ mờ, giống như tôi đã nhìn thấy trong giấc mơ. Nó gợi cho tôi về một lăng tẩm đồ sộ, với những bức tường cao mười lăm mét. Tôi thể hiểu sao con người lại biết rằng nó tồn tại ở đây. Nhưng lần nữa, mọi thứ dưới chân núi này dường như mờ mịt đối với tôi, như thể có một tấm mạng dày chắn giữa tôi và phần chân núi bên dưới. Có ma thuật nào đó diễn ra ở đây, bởi Màn Sương Mù cực kỳ mạnh mẽ. đầu tôi, bầu trời cuộn vào trong một đám mây hình phễu khổng lồ. Tôi thể nhìn thấy Atlas, nhưng có thể nghe thấy tiếng ông ta rên rỉ ở đằng xa, tiếp tục chịu sự giày vò bên dưới sức nặng của bầu trời, ngay phía bên kia pháo đài thôi.

      “Đây!” tên telekhine nói. Hắn cung kính nhấc vũ khí lên và máu tôi đông cứng lại.

      Đó là một lưỡi hái, một lưỡi dao cong dài gần hai mét như một mảnh trăng hình lưỡi liềm, với tay cầm bằng gỗ bọc da. Lưỡi dao lóe lên hai màu khác nhau, màu thép và màu đồng. Đó là vũ khí của Kronos, thứ mà hắn đã dùng để chém cha hắn, Ouranos, trước khi các vị thần tước và chặt hắn thành nhiều mảnh rồi ném vào Tartarus. Giờ đây, vũ khí đó đã được rèn lại.

      “Chúng ta phải thánh hóa nó bằng máu,” con telekhine nói. “Rồi mày, con lai, mày giúp chúng tao trình bày với ông chủ khi ngài thức dậy.”

      Tôi chạy về phía pháo đài, mạch máu rần rật trong tai tôi. Tôi muốn tới bất cứ nơi nào gần với cái lăng tẩm đen tối đó, nhưng tôi biết đó là những gì mình phải làm. Tôi phải ngăn cho Kronos thức dậy. Đây có lẽ là cơ hội duy nhất của tôi.

      Tôi băng qua một sảnh nghỉ tối om vào trong sảnh chính. Sàn nhà sáng lên như một chiếc piano màu gỗ gụ đen tuyền nhưng căn phòng tràn đầy ánh sáng. Những bức tượng bằng đá cẩm thạch đen sếp dọc theo các bức tường. Tôi nhận ra những khuôn mặt nhưng tôi biết mình nhìn ngắm tượng các thần khổng lồ Titan, những người thống trị thế giới trước khi các vị thần cai quản. Ở cuối căn phòng, giữa hai lò than bằng đồng là một cái bệ. Và bệ là một cái quách bằng vàng.

      Căn phòng tĩnh mịnh ngoại trừ tiếng lách tách của ngọn lửa. Luke có ở đây. Cũng chẳng có lính gác. có ai cả.

      Thật quá dễ dàng, và tôi đến gần cái bệ.

      Cái quách giống như trong trí nhớ của tôi, dài khoảng ba mét, quá lớn đối với một con người. Nó được chạm khắc tỉ mỉ với những cảnh chết chóc và hủy diệt, hình ảnh các vị thần bị bị giẫm đạp dưới các ̃ xe ngựa, những ngôi đền, những điểm nổi tiếng thế giới bị tàn phá và thiêu rụi. Cả chiếc quan tài toát ra hơi lạnh khủng khiếp, tựa hồ tôi bước vào cái tủ đông. Tôi bắt đầu thở ra khói.

      Tôi rút thanh Thủy Triều ra và cảm thấy thoải mái hơn dưới sức nặng quen thuộc của thanh kiếm trong tay.

      Trước đây, bất cứ khi nào tiến gần đến Kronos, giọng nói ác độc của hắn lại văng vẳng trong đầu tôi. Vậy sao bây giờ hắn lại im lặng? Hắn đã bị băm thành hàng ngàn mảnh, bằng lưỡi hái của chính hắn.Tôi sẽ thấy cái gì khi mở nắp quan tài này ra? Bọn chúng có thể làm thân thể mới cho hắn thế nào?

      Tôi câu trả lời. Tôi chỉ biết là nếu hắn tỉnh dậy, tôi phải đốn ngã hắn trước khi hắn có được lưỡi hái của hắn. Và tôi phải tìm ra cách ngăn chặn hắn.

      Tôi đứng bên cạnh chiếc quan tài. Nắp quan tài còn được trang trí phức tạp hơn, với những hình ảnh chém giết và quyền lực. Ở giữa là dòng chữ được chạm bằng thứ tiếng còn ̉ hơn cả tiếng Hy Lạp, thứ ngôn ngữ ma thuật. Tôi đọc được nó, đúng vậy, nhưng tôi biết nó nói gì: KRONOS, CHÚA TỂ THỜI GIAN.

      Tay tôi chạm tới cái nắp hòm. Đầu ngón tay tôi chuyển sang màu xanh. Sương giá tụ lại thanh kiếm của tôi.

      Rồi tôi nghe thấy tiếng động sau lưng – những giọng nói tới gần. Bây giờ hoặc bao giờ. Tôi đẩy cái nắp vàng ra, nó rơi xuống sàn với một tiếng BUUUUUM lớn.

      Tôi nâng kiếm lên sẵn sàng tấn công. Nhưng khi nhìn vào trong, tôi hiểu được những gì mình nhìn thấy. Chân người trong chiếc quần màu xám. Áo phông trắng và hai tay gập lại đặt bụng. Một mảnh ngực của hắn ta đã bị mất – một hố đen bằng kích cỡ một viên đạn ở ngay chỗ mà đáng ra tim hắn phải ở. Đôi mắt nhắm nghiền. Làn da tái nhợt. Tóc vàng... và một vết sẹo chạy dài bên trái khuôn mặt.

      Cơ thể bên trong quan tài là của Luke.

      Tôi nên đâm hắn ngay lập tức. Tôi nên đâm thẳng mũi kiếm xuống bằng cả sức mạnh của mình.

      Nhưng tôi quá sửng sốt. Tôi hiểu gì cả. Dù tôi có ghét hắn thế nào chăng nữa, dù hắn đã phản bội tôi bao nhiêu lần nữa, tôi chỉ hiểu sao hắn lại ở trong quan tài, và lại trông như... xác chết thế kia.

      Rồi giọng của bọn telekhine ở ngay sau lưng tôi.

      “Chuyện gì thế này?” một đứa hét lên khi thấy cái nắp. Tôi trượt khỏi cái bệ, nấp sau một cái ̣t khi chúng tới gần, quên mất là mình vô hình.

      “Cẩn thận!” một con quỷ khác cảnh báo. “Có lẽ ngài cựa mình. Chúng ta phải dâng món quà ngay bây giờ. Ngay lập tức!”

      Hai tên telekhine tiến về phía trước và quỳ xuống, nâng lưỡi hái bọc trong gói vải đen lên. “Chúa tể của ta,” một con nói. “Biểu tượng sức mạnh của ngài đã được làm lại.”

      Im lặng. có gì xảy ra bên trong quan tài.

      “Đồ ngốc,” con telekhine khác càu nhàuần thằng con lai trước.”

      Ethan lùi lại. “Oa, ý chúng mày là sao, ngài cần tao à?”

      “Đừng hèn nhát thế!” con telekhine thứ nhất rít lên. “Ngài cần mày chết. Chỉ cần lòng trung thành của mày, tình nguyện phục dịch ngài, từ bỏ các vị thần, thế là đủ.”

      !” Tôi hét lên. Đó thực sự là một việc làm ngu ngốc, nhưng tôi vẫn nhào vào căn phòng và bỏ mũ ra: “Ethan, đừng!”

      “Kẻ xâm phạm!” Bọn telekhine nhe hàm răng hải cẩu của chúng ra. “Ông chủ sẽ xử lý mày sớm thôi. Nhanh lên, con lai.”

      “Ethan!” tôi nài nỉ. “Đừng nghe lời bọn chúng, giúp tôi hủy nó .”

      Ethan quay về phía tôi. phần dán mắt của cậu ta hòa lẫn với bóng khuôn mặt. Biểu hiện của cậu ta dường như có gì tiếc nuối. “Tôi đã bảo cậu đừng tha thứ cho tôi, Percy. ‘Ăn miếng trả miếng.’ Cậu đã nghe câu ấy chưa? Tôi đã nhận biết được ý nghĩa của câu nói đó theo cách khó khăn nhất – khi tôi khám phá ra cha mẹ thần thánh của mình. Tôi là con của Nemesis, Nữ thần Báo thù. Và đây là việc mà tôi phải làm.”

      Cậu ta quay về phía cái bệ. “Tôi sẽ từ bỏ các vị thần. Họ đã làm gì cho tôi chứ ? Tôi sẽ chứng kiến họ bị hủy diệt. Tôi sẽ phục vụ Kronos.”

      Cả tòa nhà rung lên. Một làn khói sáng xanh bốc lên từ sàn nhà bên dưới chân Ethan. Nó hướng về phía quan tài rồi tỏa ánh sáng, giống như một đám mây đầy năng lượng. Sau đó nó hạ xuống bên trong cái quách.

      Luke bật người ngồi thẳng dậy. Hắn mở mắt ra và đôi mắt còn màu xanh nữa. Chúng có màu vàng, giống như màu ̃ quan tài. Cái lỗ ngực biến mất. Người hắn hoàn toàn lành lặn. Hắn nhẹ nhàng nhảy ra khỏi quan tài, và nơi hắn chạm chân xuống sàn nhà, cẩm thạch đóng băng lại như một hố băng.

      Hắn nhìn Ethan và bọn telekhine với đôi mắt màu vàng đáng sợ, như thể hắn là một đứa trẻ sơ sinh, chắc chắn mình nhìn thấy gì. Rồi hắn nhìn tôi, một nụ cười thoảng miệng hắn vì hắn nhận ra tôi.

      “Thân thể mới thật là tốt.” Giọng hắn sắc như lưỡi dao sắc chạy khắp làn da tôi. Đó là Luke nhưng phải Luke. Ở bên dưới giọng Luke là một giọng nói khác đáng sợ hơn, một giọng nói ̉ xưa, lạnh băng như kim loại va vào đá. “Mày có nghĩ vậy , Percy Jackson?”

      Tôi thể cử động, cũng thể trả lời.

      Kronos ngửa ̉ ra sau cười. Vết sẹo mặt hắn khẽ chuyển động.

      “Luke sợ mày” vị thần Titan nói. “Lòng ghen tỵ và căm thù của hắn trở thành công cụ đầy sức mạnh. Nó khiến hắn phải vâng lời. Tao phải cảm ơn mày vì điều đó.”

      Ethan quỵ người xuống vì sợ hãi. Cậu ta lấy tay che mặt. Bọn telekhine run run giơ lưỡi hái lên.

      Cuối cùng tôi cũng lấy lại được bình tĩnh. Tôi tấn công bất thình lình vào cơ thể vốn đã từng là của Luke, đâm mạnh lưỡi dao xuyên thẳng vào ngực hắn, nhưng da hắn chống lại cú đâm tựa như hắn làm bằng thép nguyên chất. Hắn nhìn tôi đầy thích thú. Sau đó hắn búng ngón tay và tôi bay từ đầu đến cuối căn phòng.

      Tôi đâm sầm vào một cái ̣t. Tôi ́ gắng đứng lên, chớp chớp mắt để đẩy những ngôi sao ra khỏi mắt tôi, nhưng Kronos đã kịp túm lấy lưỡi hái.

      “Ah... tốt hơn rồi đấy,” hắn nói. “Backbiter, Luke đã gọi nói như vậy. Đó là một cái tên phù hợp. Bây giờ nó đã được rèn lại hoàn toàn, chắc chắn nó sẽ cắn ngược lại.

      “Ngươi đã làm gì Luke?” Tôi lầm bầm.

      Kronos giơ lưỡi hái lên. “Hắn đã dâng tặng cả con người hắn ta, như ta cầu. Điểm khác biệt là, hắn sợ ngươi, còn ta thì .”

      Đó là khi tôi bỏ chạy mà nghĩ ngợi. Chẳng có cuộc đấu tranh nội tâm nào, như kiểu: trời đất, tôi có nên dũng cảm đương đầu với hắn ta và ́ tấn công thêm một lần nữa? . Tôi chỉ đơn giản là bỏ chạy.

      Thế nhưng chân tôi nặng như chì. Thời gian như trôi chậm lại quanh tôi, như thể cả thế giới biến thành kẹo Jelly vậy. Trước đây tôi đã từng bị như thế này và tôi biết đó là do sức mạnh của Kronos. Sự hiện diện của hắn tỏa ra nhiều năng lượng đến nỗi nó có thể tự bẻ cong thời gian.

      “Hãy chạy , người hùng bé nhỏ,” hắn cười lớn. “Chạy !”

      Tôi liếc lại đằng sau và thấy hắn thong thả tiến lại, tay hắn vung vẩy lưỡi hái như thể hắn rất thích thú khi lại được cầm nó trong tay. thứ vũ khí nào thế gian có thể ngăn hắn lại. Kể cả đồng celestial.

      Khi hắn chỉ còn cách tôi khoảng ba mét thì tôi nghe thấy ai đó gọi tên tôi, “PERC

      Đó là giọng của Rachel.

      Có cái gì đó bay vèo ngang qua người tôi, một chiếc lược chải tóc nhựa màu xanh đâm trúng mắt Kronos.

      “Ối!” hắn hét lên. Trong khoảnh khắc đó chỉ có tiếng hét của Luke, đầy kinh ngạc và đau đớn. Chân tôi được giải thoát và tôi chạy thẳng đến chỗ Rachel, Nico và Annabeth ở lối vào mở to mắt sợ hãi.

      “Luke ư?” Annabeth nói. “Làm sao...”

      Tôi túm lấy áo ấy lôi . Tôi chạy nhanh hết sức có thể ra khỏi pháo đài. Khi chúng tôi gần như quay trở lại lối vào Mê Cung thì tôi nghe thấy tiếng gầm to nhất thế giới – giọng của Kronos, khi hắn lấy lại bình tĩnh. “ĐUỔI THEO CHÚNG!”

      !” Nico hét lên. Cậu ta vỗ hai tay vào nhau, và một tảng đá khổng lồ, to bằng cỡ chiếc xe mười tám bánh bắn lên từ mặt đất ngay trước pháo đài. Cơn chấn động do nó gây ra lớn đến nỗi những ̣t trụ phía trước tòa nhà đổ sụp xuống. Tôi nghe thấy tiếng kêu bị nghẹt lại từ bên trong của lũ telekhine. Bụi tung mù mịt khắp nơi.

      Chúng tôi lao ngay vào Mê Cung và tiếp tục chạy. Tiếng gào thét của chúa tể các thần Titan làm rung chuyển cả thế giới đằng sau chúng tôi.

    3. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      XVII


      Chúng tôi chạy đến khi kiệt sức. Rachel giúp cả bọn tránh được những cái bẫy, nhưng chúng tôi chẳng có ́ch đến cụ thể nào – chỉ là tránh xa ngọn núi đen sì đó và tiếng rống đầy giận dữ của Kronos.

      Chúng tôi dừng lại ở một đường hầm bằng đá trắng ẩm ướt, giống như một phần của hang động tự nhiên. Tôi nghe thấy tiếng gì phía sau, nhưng cũng chẳng cảm thấy an toàn hơn chút nào. Tôi vẫn còn nhớ đôi mắt màu vàng tự nhiên đó nhìn chăm chăm vào chúng tôi từ khuôn mặt của Luke, và cảm giác rằng chân tay tôi dần hóa đá.

      “Tớ xa hơn được nữa đâu,” Rachel ôm ngực thở hổn hển.

      Annabeth đã khóc suốt dọc đường chúng tôi tháo chạy. Giờ ấy sụp xuống và đặt cằm lên hai đầu gối. Tiếng khóc của ấy vang vọng khắp đường hầm. Nico và tôi ngồi cạnh nhau. Cậu ta để kiếm cạnh thanh Thủy Triều của tôi và thở một cái nhè

      “Điều đó thật tệ,” cậu ta nói, làm tôi nghĩ đến những điều tôi đã làm.

      “Em đã cứu sống tất cả,” tôi nói.

      Nico lau bụi bám khuôn mặt. “Đổ lỗi cho mấy gái vì đã kéo em theo. Đó là thứ duy nhất họ có thể đồng tình với nhau. Bọn em cần phải giúp , nếu sẽ làm mọi thứ rối tung lên.”

      “Thật tuyệt làm sao khi họ đã rất tin tưởng .” Tôi chiếu đèn pin quanh động. Nước nhỏ từ thạch nhũ xuống như những giọt mưa quay chậm. “Nico... em... em đã tự mình bộc lộ thân phận đấy.”

      “Ý là sao?”

      “Bức tường bằng đá đen đó? Nó thật ấn tượng. Nếu trước đó Kronos biết em là ai thì giờ ông ta biết rồi đấy – một đứa con của ̣a Ngục.”

      Nico nhíu mày. “Ghê gớm nhỉ.”

      Tôi nói thêm gì nữa. Có lẽ Nico ́ che giấu nỗi sợ hãi, và tôi thể trách cậu ta.

      Annabeth ngẩng đầu lên. Mắt ấy đỏ hoe vì khóc. “Chuyện... chuyện gì xảy ra với Luke vậy? Chúng đã làm gì ấy?”

      Tôi kể với ấy những gì tôi nhìn thấy trong ̃ quan tài, và việc mảnh cuối cùng của linh hồn Kronos đã nhập vào cơ thể Luke như thế nào khi Ethan Nakamura thề phục vụ cho Kronos.

      ,” Annabeth nói. “ thể thế được. ấy ...”

      “Hắn đã tự dâng hiến chính mình cho Kronos,” tôi nói. “Tớ xin lỗi, Annabeth. Nhưng Luke rồi.”

      !” ấy khăng khăng. “Cậu nhìn thấy Rachel ném trúng ấy mà.”

      Tôi gật đầu, nhìn Rachel đầy cảm phục. “Cậu đã ném trúng mắt chúa tể các thần Titan với một cái lược nhựa màu xanh.”

      Rachel hơi bối rối. “Đó là thứ duy nhất tớ có.”

      “Nhưng cậu đã nhìn thấy mà,” Annabeth khăng khăng. “Khi nó đâm trúng ấy, chỉ trong một giây, ấy đã rất kinh ngạc. Rồi sau đó quay trở lại bình thường.”

      “Vậy có lẽ Kronos chưa hoàn toàn chiếm giữ cơ thể đó,” tôi nói. “Điều đó có nghĩa là Luke bị sai khiến.”

      “Cậu muốn ấy trở thành ma quỷ, phải vậy ?” Annabeth gào lên. “Cậu chẳng biết biết gì về ấy trước đây, Percy. Tớ thì biết rõ đấy!”

      “Cậu sao thế?” tôi ngắt lời ấy. “Sao cậu luôn bảo vệ hắn ta?”

      “Thôi nào hai người,” Rachel nói. “Ngừng tranh cãi .”

      Annabeth quay sang phía Rachel. “Đừng xen vào chuyện này, gái con người ạ! Nếu phải ...”

      biết ấy ̣nh nói gì tiếp theo, nhưng giọng ấy nghẹn lại. ấy gục đầu xuống và bắt đầu khóc một cách đau khổ. Tôi muốn an ủi ấy nhưng lại chẳng biết làm thế nào. Tôi vẫn thấy choáng váng, như thể tác động của việc làm thời gian chậm lại của Kronos đã ảnh hưởng lên não của tôi. Tôi chỉ thể hiểu những gì mình vừa nhìn thấy. Kronos còn sống. Hắn đã được vũ trang. Và có lẽ ngày cuối cùng của thế giới đã đến rất gần rồi.

      “Chúng ta phải tiếp thôi,” Nico nói. “Hắn sẽ cho quái vật đuổi theo chúng ta.”

      ai đủ sức để nữa, nhưng Nico nói đúng. Tôi gắng gượng dậy và giúp Rachel đứng lên.

      “Mới nãy cậu đã làm rất tốt,” tôi bảo với ấy.

      ấy ́ nở một nụ cười yếu ớt. “Ừm, đúng vậy. Tớ muốn cậu chết.” ấy đỏ mặt. “Ý tớ là... chỉ vì, cậu biết đấy. Cậu nợ tớ quá nhiều thứ. Nếu cậu chết thì tớ đòi nợ ai đây?”

      Tôi quỳ xuống cạnh Annabeth. “Này, tớ xin lỗi. Chúng ta cần phải tiếp thôi.”

      “Tớ biết,” ấy nói. “Tớ... tớ ổn mà.”

      Rõ ràng là ấy ổn tí nào. Nhưng ấy đã đứng lên được và chúng tôi tiếp tục .

      “Trở lại New York,” tôi nói. “Rachel, cậu có thể...”

      Người tôi đông cứng lại. Cách chúng tôi vài mét, đèn pin của tôi quét qua và dừng lại chỗ một cục vải đỏ nằm mặt đất. Đó là một chiếc mũ lưỡi trai Rasta: cái mũ mà Grover vẫn thường hay đội.

      Tay tôi run run khi tôi nhặt chiếc mũ lên. Có vẻ nó đã bị một đôi bốt khổng lồ đầy bùn đất của ai đó giẫm lên. Sau tất cả những gì tôi trải qua ngày hôm nay, tôi thể nghĩ rằng hay đã xảy ra với Grover.

      Sau đó tôi thấy một thứ khác. Sàn động đầy bùn và ẩm ướt là do nước nhỏ xuống từ các thạch nhũ. Có những dấu chân lớn như của Tyson, và những dấu chân nhỏ hơn – là móng dê – dẫn về phía trái.

      “Chúng ta phải theo họ,” tôi nói. “Họ theo lối này. Chắc là mới đây thôi.”

      “Thế còn Trại Con Lai thì sao?” Nico nói. “ còn nhiều thời gian đâu.”

      “Chúng ta phải tìm họ,” Annabeth nói. “Họ là bạn chúng ta.”

      ấy nhặt cái mũ nhàu nát của Grover lên và lao về phía trước.

      Tôi theo sau, chuẩn bị cho điều tồi tệ nhất. Đường hầm thay đổi luôn. Nó dốc đứng ở những góc rất kỳ cục và nhớt nhúa vì hơi ẩm. Phân nửa thời gian của chúng tôi là trượt chân và lướt chứ phải bộ.

      Cuối cùng chúng tôi cũng đến được cuối đoạn dốc và nhận ra mình ở trong một cái động lớn với những ̣t măng đá rất to. Ở giữa động là một con sông ngầm, và Tyson ngồi bên bờ sông ôm Grover trong lòng. Mắt Grover nhắm chặt. Chân tay cậu ấy cử động.

      “Tyson!” Tôi hét lên.

      Percy! Đến đây nhanh!”

      Chúng tôi chạy đến chỗ cậu ẩy. Grover chưa chết, nhờ ơn các vị thần, nhưng cả người cậu ấy lạnh ngắt như sắp chết.

      “Chuyện gì xảy ra vậy?” tôi hỏi.

      “Rất nhiều chuyện,” Tyson lẩm bẩm. “Rắn to. Chó to. Nhiều người cầm kiếm. Nhưng rồi... bọn em đến gần chỗ này. Grover rất kích động. Cậu ta bỏ chạy. Rồi bọn em đến được căn phòng này, và cậu ta ngã. Thế đấy.”

      “Cậu ấy có nói gì ?” tôi hỏi.

      “Cậu ta nói, ’Chúng ta ở rất gần rồi.’ Rồi sau đó cậu ta đập đầu vào đá.”

      Tôi quỳ xuống cạnh cậu ấy. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy Grover ngất là ở New Mexico, khi cậu ấy cảm nhận được sự hiện diện của thần Pan.

      Tôi chiếu đèn pin quanh động. Những tảng đá sáng lấp lánh. Đầu bên kia là lối thông sang một cái hang khác, nơi có những ̣t pha lê khổng lồ trông như những viên kim cương. Và ở bên kia lối vào đó

      “Grover,” tôi gọi. “Dậy .”

      “Uhhhhhhhh.”

      Annabeth quỳ xuống bên cạnh và té nước sông lạnh như băng vào mặt cậu ấy.

      “Phù!” Mí mắt cậu ấy run run. “Percy? Annabeth? Đây...”

      sao đâu,” tôi nói. “Cậu ngất . Sự hiện diện đó quá mức đối với cậu.”

      “Tớ... tớ nhớ rồi. Thần Pan.”

      “Ừm,” tôi nói. “Có cái gì đó rất mạnh đằng sau cánh cửa đó.”

      Tôi làm một bài giới thiệu nhanh vì Tyson và Grover chưa bao giờ gặp Rachel. Tyson nói với Rachel rằng ấy thật xinh đẹp, việc đó khiến mũi Annabeth mở to như thể ấy chuẩn bị phun lửa vậy.

      “Dù sao nữa,” tôi nói. “ thôi, Grover. Dựa vào tớ này.”

      Annabeth và tôi giúp cậu ấy đứng dậy, và chúng tôi cùng nhau lội qua dòng sông ngầm. Nước chảy khá xiết và cao đến tận thắt lưng chúng tôi. Tôi giữ cho mình khô ráo bởi đó là khả năng dễ như trở bàn tay của tôi, nhưng nó giúp được những người khác. Tôi vẫn cảm nhận được sự lạnh giá giống như lội qua một đống tuyết.

      “Tớ nghĩ chúng ta ở động Carlsbad Caverns(17),” Annabeth nói trong khi răng va lập cập. “Có lẽ là vùng đất chưa được khai phá.”

      “Carlsbad ở New Mexico,” ấy nói. “Điều này giải thích cho mùa đông năm ngoái.”

      Tôi gật đầu. Việc bất tỉnh của Grover xảy ra khi chúng tôi xuyên qua New Mexico. Đó là nơi cậu ấy cảm thấy gần với năng lượng của thần Pan nhất.

      Chúng tôi ra khỏi chỗ nước và tiếp tục bộ về phía trước. Khi những ̣t pha lê trở nên lớn hơn, tôi bắt đầu cảm thấy năng lượng tỏa ra từ phòng bên cạnh. Tôi đã từng chứng kiến sự hiện diện của các thần, nhưng lần này hoàn toàn khác. Da tôi ngứa ran với nguồn năng lượng sống. Sự mệt mỏi của tôi như tiêu tan hết, như thể tôi vừa được ngủ một giấc ngon lành. Tôi có thể cảm nhận được cơ thể mình khỏe mạnh hơn, giống như những cái cây trong đoạn phim quay nhanh. Và mùi hương trong động cũng hoàn toàn giống khi ở trong đường hầm ẩm thấp, tối tăm. Nó có mùi của các loại cây và các loại hoa và một ngày hè ấm áp.

      Grover khóc thút thít đầy sung sướng. Tôi cũng quá ngạc nhiên đến độ nói được lời nào. Ngay cả Nico cũng trở nên á khẩu. Chúng tôi cùng bước vào động, và Rachel thốt lên, “Ồ, ối chà.”

      Các bức tường sáng lấp lánh với pha lê – đỏ, xanh lá và xanh da trời. Trong thứ ánh sáng kỳ lạ, những cái cây kỳ lạ mọc lên – hoa lan khổng lồ, các cây hoa hình ngôi sao, những thân cây nho trổ quả mọng màu cam và màu tím dọc tường đá. Sàn động dường như được phủ một lớp rêu mềm mịn. đầu, trần nhà còn cao hơn cả nóc nhà thờ, nó sáng lấp lánh giống như một dải ngân hà gồm hàng triệu vì sao. Ở giữa động là một cái giường kiểu La Mã, gỗ được mạ vàng có hình giống chữ U quăn tít, kèm với những tấm nệm bằng nhung. Những con vật thơ thẩn quanh đó – nhưng đó là các loài thú đáng lẽ phải tuyệt chủng từ lâu: Một con chim cưu, một con gì đó giống như loài lai giữa sói và hổ, một con thuộc bộ gặm nhấm đủ to để làm mẹ của tất cả lũ chuột lang, và vừa lang thang đằng sau giường, dùng vòi nhặt những quả mọng là một con voi ma mút khổng lồ.

      Một thần rừng già nằm giường. Ông quan sát khi chúng tôi tiến lại gần, mắt ông ấy xanh hệt như bầu trời. Cả bộ tóc xoăn lẫn râu của ông đều bạc trắng. Ngay cả lông dê chân ông ấy cũng lấm tấm những sợi bạc. Đôi sừng của ông lớn vô cùng – cong và nâu bóng. Chắc chắn ông ấy thể nào giấu chúng xuống dưới mũ như Grover vẫn làm. Quanh ̉ ông treo một bộ ống sáo bằng cây sậy.

      Grover quỳ sụp xuống trước giường. “Chúa tể Pan!”

      Vị thần rừng mỉm cười nhân hậu, nhưng mắt ông đầy buồn bã. “Grover, thần rừng dũng cảm quý của ta. Ta đã chờ con lâu lắm rồi.”

      “Con... con bị lạc đường,” Grover xin lỗi.

      Thần Pan cười to. thanh đó thật tuyệt vời, giống như ngọn gió đầu mùa của mùa xuân, cả hang như tràn ngập với niềm hy vọng. Con hổ-sói thở dài và kê đầu lên đầu gối của thần. Con chim cưu mổ một cách trìu mến lên móng của thần Pan, tạo nên một thanh kỳ lạ từ mỏ con chim. Tôi thề là thanh đó nói Đó là một Thế Giới Nhỏ Bé.

      Tuy nhiên, trông thần Pan rất mệt mỏi. Cả thân hình của ông ấy mờ mờ ảo ảo giống như được tạo ra bằng Màn Sương Mù.

      Tôi để ý thấy các bạn của tôi đều quỳ. Khuôn mặt họ đầy vẻ kính sợ. Tôi cũng

      “Ngài có một con chim cưu biết ngâm nga à?” tôi hỏi một câu ngu ngốc.

      Mắt vị thần lấp lánh. “Đúng, đó là Dede. nàng diễn viên nhỏ của ta.”

      Con chim cưu Dede trông có vẻ khó chịu. Nó mổ vào đầu gối thần Pan và ngân nga một bài gì đó nghe như một bài hát trong lễ truy điệu.

      “Đây là nơi đẹp nhất!” Annabeth nói. “Nó đẹp hơn bất cứ tòa nhà nào được xây dựng.”

      “Ta vui vì thích nó,” thần Pan nói. “Đây là một trong những nơi cuối cùng còn sót lại của tự nhiên. Vương quốc phía của ta đã biến mất, ta sợ là vậy. Chỉ còn sót lại những mỏ quặng. Những mảnh sống nhỏ bé. Nơi này sẽ vẫn giữ được sự yên tĩnh... lâu hơn một chút.”

      “Thưa ngài,” Grover nói, “xin Người hãy cùng con quay về! Hội đồng Trưởng Lão sẽ bao giờ tin điều này! Họ sẽ vui mừng lắm! Người có thể cứu lấy thiên nhiên!”

      Thần Pan đặt tay lên đầu Grover và xoa xoa mái tóc quăn của cậu ấy. “Con còn quá trẻ, Grover ạ. Quá tốt và chân thật. Ta nghĩ ta đã chọn đúng.”

      “Chọn?” Grover ngạc nhiên. “Con... con hiểu.”

      Hình ảnh của thần Pan nhấp nháy, và biến thành khói trong giây lát. Con chuột lang khổng lồ chạy lon ton vào phía dưới giường với tiếng ré vì khiếp sợ. Con voi ma mút cũng kêu lên đầy lo lắng. Con Dede giấu đầu vào sau cánh. Sau đó thần Pan xuất hiện trở lại.

      “Ta đã ngủ qua hàng thiên niên kỷ,” vị thần nói trong đau khổ. “Giấc mơ của ta đã trở nên tối tăm. Ta tỉnh dậy thất thường, và mỗi lần như thế thời gian tỉnh thức của ta lại ngắn . Giờ chúng ta ở điểm kết thúc rồi.”

      “Cái gì?” Grover khóc lóc. “ thể! Người ở ngay đây cơ mà!”

      “Thần rừng quý của ta,” thần Pan nói. “Ta đã ́ cảnh báo thế giới, từ hai nghìn năm trước. Ta đã thông báo điều đó với với Lysas, một thần rừng rất giống con. Cậu ta sống ở Ephesos, và cậu ấy cũng ́ gắng thông báo cho cả thế giới.”

      Mắt Annabeth mở to. “Một câu chuyện cũ. Một thủy thủ qua bờ biển Ephesos và nghe thấy giọng nói phát ra từ bờ, ‘Hãy nói với mọi người rằng thần Pan vĩ đại đã chết.’”

      “Nhưng điều đó là đúng! nói.

      “Các con bao giờ tin điều đó,” thần Pan nói. “Các thần rừng tốt bụng, cứng đầu như các con chấp nhận cái chết của ta. Và ta các con vì điều đó. Nhưng các con chỉ trì hoãn một việc tất yếu xảy ra. Các con chỉ kéo dài cái chết đau đớn, kéo dài, giấc ngủ lúc chạng vạng u ám của ta. Nó cần được chấm dứt.”

      !” Giọng Grover lạc

      “Grover quý,” thần Pan nói. “Con phải chấp nhận sự thật thôi. Người bạn đồng hành của con, Nico, cậu ấy hiểu điều đó.”

      Nico chậm rãi gật đầu. “Ông ấy chết. Đáng lẽ ông ấy phải chết lâu rồi. Đây... đây chỉ giống như một hồi ức thôi.”

      “Nhưng các vị thần thể chết,” Grover nói.

      “Họ có thể tan biến,” thần Pan nói, “khi tất cả những gì họ cần bảo vệ còn nữa. Khi họ thôi còn sức mạnh, và khi nơi lãnh ̣a thần thánh của họ biến mất. Grover quý của ta à, thiên nhiên giờ chỉ còn lại rất nhỏ, bị kiệt quệ đến nỗi vị thần nào cứu vớt nổi nữa. Vương quốc của ta mất rồi. Đó là lý do tại sao ta cần con truyền thông điệp. Con phải quay lại Hội Đồng. Con phải nói với các thần rừng, các nữ thần cây, và các tinh linh khác của tự nhiên, rằng chúa tể Pan đã chết. Kể cho họ cái chết của ta. Vì họ cần phải thôi chờ đợi việc ta đến cứu giúp họ. Ta thể. Các con phải tự cứu giúp lấy chính mình. Mỗi người các con cần phải...”

      Vị thần dừng lại và nhíu mày nhìn con chim cưu khi lại nó bắt đầu ngâm nga.

      “Dede, mày làm gì vậy?” thần Pan hỏi. “Mày lại hát bài Kumbaya nữa đấy à?”

      Dede nhìn lên và chớp chớp đôi mắt màu vàng một cách ngây thơ vô tội.

      Thần Pan thở dài. “Mọi người đều hoài nghi. Nhưng như ta nói, Grover quý, mỗi người các con cần phải nghe lời kêu cứu của ta.”

      “Nhưng... thể!” Grover rên rỉ.

      “Hãy mạnh mẽ lên,” thần Pan nói. “Con đã tìm thấy ta. Và giờ con phải để ta ra . Con phải trông nom tinh thần ta. Nó có thể còn được gìn giữ bởi một vị thần. Nó phải được gìn giữ bởi tất cả các con.”

      Thần Pan nhìn thẳng vào tôi với đôi mắt xanh trong vắt, và tôi nhận ra ông ấy chỉ nói đến các người rừng. Ông ấy muốn đến các con lai và cả con người nữa. Tất cả mọi người.

      “Percy Jackson,” vị thần nói. “Ta biết những gì con chứng kiến ngày hôm nay. Ta hiểu những hoài nghi của con. Nhưng ta báo cho con tin này: khi thời gian đến, con sẽ bị sự sợ hãi thống trị nữa.”

      Ông quay sang phía Annabeth. “Con gái của Athena, thời khắc của con cũng đến rồi. Con sẽ đóng một vai trò rất lớn, dù đó phải là điều con vẫn tưởng tượng.”

      Sau đó ngài ấy nhìn Tyson. “Cậu Cyclops, đừng tuyệt vọng. Các hùng thường sống theo mong đợi của chúng ta đâu. Nhưng con, Tyson – tên tuổi của con sẽ sống mãi qua nhiều thế hệ Cyclops. Và quý Rachel Dare...”

      Rachel lưỡng lự khi vị thần gọi tên . ấy lùi lại như thể thấy mình có tội hay gì đó, nhưng thần Pan chỉ mỉm cười. Ông ấy đưa tay lên như một lời chúc phúc.

      “Ta biết con luôn nghĩ mình thể sửa chữa được sai lầm,” ông nói. “Nhưng con cũng quan trọng như cha con vậy.”

      “Tôi...” Rachel ấp úng. Một giọt nước mắt rơi xuống má .

      “Ta biết giờ con sẽ tin điều này,” thần Pan nói. “Nhưng hãy chờ đợi những cơ hội. Chúng sẽ đến thôi.”

      Cuối cùng, ông quay trở lại với Grover. “Thần rừng quý của ta,” thần Pan ôn tồn nói. “Con sẽ giúp ta mang thông điệp chứ?”

      “Con... con thể.”

      “Con có thể,” thần Pan nói. “Con là người mạnh mẽ và dũng cảm nhất. Trái tim con thật chân thành. Con đã tin vào ta nhiều hơn tất cả mọi người, và đó là lý do tại sao con phải mang thông điệp, và tại sao con phải là người đầu tiên giúp ta giải thoát.”

      “Con muốn thế.”

      “Ta hiểu,” vị thần nói. “Nhưng tên của ta, Pan... đầu tiên có nghĩa là mộc mạc. Con biết điều đó chứ? Nhưng qua nhiều năm nó trở thành tất cả. Linh hồn của thiên nhiên cần phải được trao cho tất cả mọi người. Con cần phải nói với mỗi một người mà con gặp: Nếu muốn tìm thần Pan, thì hãy nhận lấy tinh thần của ông ấy. Hãy tái tạo lại thiên nhiên, từng chút từng chút một, mỗi một chút dù là nhỏ ở tại chính nơi ở của người đó thế giới. Bạn thể chờ đợi bất cứ người nào khác, ngay cả một vị thần, làm việc đó cho bạn.”

      Grover quệt mắt mình. Rồi sau đó từ từ đứng lên. “Con đã dành cả đời để tìm Người. Giờ... con giải thoát cho Người.”

      Thần Pan mỉm cười. “Cảm ơn con, thần rừng quý của ta. Phép lành cuối cùng của ta.”

      Ông ấy nhắm mắt và sau đó vị thần tan biến . Màn sương trắng chia thành những làn năng lượng nhỏ, nhưng trông chúng đáng sợ như thứ năng lượng màu xanh mà tôi nhìn thấy ở Kronos. Nó tràn ngập căn phòng. Một cuộn khói bay thẳng vào miệng tôi, Grover và những người khác, nhưng tôi nghĩ Grover được nhiều hơn. Các tinh thể tối dần. Các con vật nhìn chúng tôi buồn bã. chim cưu Dede thở dài thườn thượt. Rồi tất cả chúng chuyển sang màu xám và tan thành tro bụi. Dây nho cũng héo . Và giờ chỉ còn lại chúng tôi trong động tối om với cái giường trống .

      Tôi bật đèn pin.

      Grover hít một hơi dài.

      “Cậu... cậu ổn chứ?” tôi hỏi cậu ấy.

      Trông cậu ấy buồn và già hẳn . Cậu ấy lấy cái mũ của mình từ Annabeth, phủi bùn và đội nó ngay ngắn lên đầu tóc xoăn của cậu ấy.

      “Chúng ta phải thôi,” cậu ấy nói, “và nói với họ. Thần Pan vĩ đại đã qua đời.”

    4. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      XVIII


      Khoảng cách trở nên ngắn hơn trong Mê Cung. Tuy nhiên, khi Rachel đưa chúng tôi trở lại Quảng trường Thời Đại, tôi cảm giác đúng như mình vừa chạy bộ từ New Mexico trở về. Chúng tôi trèo ra khỏi tầng hầm của khách sạn Marriott và đứng vỉa hè trong ánh nắng chói chang của mùa hè nhìn xe ̣ qua lại và đám đông.

      Tôi còn biết nơi nào thật hơn – New York hay hang động tinh thể nơi tôi vừa thấy một vị thần qua đời.

      Tôi vào một con ngõ, nơi tôi có thể nghe thấy tiếng vọng của mình. Sau đó tôi huýt sáo to hết mức có thể, năm lần.

      Một phút sau, Rachel há hốc miệng vì kinh ngạc. “Chúng đẹp quá!”

      Một đàn ngựa pegasus từ trời bay xuống, nhào xuống giữa những tòa nhà cao chọc trời. Blackjack dẫn đầu, đằng sau là bốn con ngựa trắng bạn của nó.

      Chào sếp! Tiếng nó nói trong đầu tôi. Ngài còn sống!

      “Ừm,” tôi nói. “May là thế. Nghe này, bọn tớ cần bay nhanh về trại.”

      Đó là chuyên môn của tôi mà! Ôi trời, chàng Cyclops đó cũng với ngài ư? Này, Guido, lưng cậu có chở nổi ?

      Chú ngựa tên Guido rên rỉ và cằn nhằn, nhưng cuối cùng cũng đồng ý chở Tyson. Mọi người bắt đầu trèo lên lưng ngựa, trừ Rachel.

      “Ừm,” ấy bảo tôi, “Tớ đoán đây là lúc.”

      Tôi gật đầu miễn cưỡng. Chúng tôi đều biết ấy thể đến trại. Tôi liếc nhìn Annabeth, người giả vờ bận rộn với con pegasus của mình.

      “Cảm ơn Rachel,” tôi nói. “Bọn tớ đã thể thành công nếu có cậu.”

      “Đáng lẽ tớ nên nhầm lẫn. Tớ... tớ đã làm mọi người suýt chết, và thần Pan...” Giọng ấy ngập ngừng.

      “Ông ấy nói gì đó về cha cậu,” tôi nhớ lại. “Ý ông ấy là gì?”

      Rachel xoắn sợi dây ba lô của mình. “Cha tớ... Công việc của cha tớ. Ông ấy là một thương gia nổi tiếng.”

      “Ý cậu là... cậu rất giàu?”

      “Ừ, đúng vậy.”

      “Đó là lý do tại sao cậu gọi được người lái xe đến giúp? Cậu chỉ cần nói tên cha cậu và...”

      “Đúng,” Rachel ngắt lời tôi. “Percy... cha tớ kinh doanh bất động sản. Ông ấy bay khắp mọi nơi thế giới, tìm những vùng đất chưa được khai thác.” ấy thở nhẹ. “Thiên nhiên. Ông ấy... ông ấy mua toàn bộ. Tớ ghét điều đó, nhưng ông vẫn đào xới chúng lên, xây những phân khu và các trung tâm thương mại xấu xí. Và giờ thì tớ phải chứng kiến cái... cái chết của thần Pan...”

      “Này, cậu thể đỗ lỗi cho chính mình vì điều đó.”

      “Cậu hiểu gì cả. Tớ... tớ thích nói chuyện về gia ̀nh mình. Tớ muốn cậu biết. Tớ xin lỗi. Lẽ ra tớ nên nói gì cả.”

      ,” tôi nói. “Rất tuyệt mà, Rachel, cậu đã làm rất tuyệt. Cậu đã dẫn bọn tớ qua mê cung. Cậu rất dũng cảm. Đó là thứ duy nhất để tớ đánh giá cậu. Tớ quan tâm đến những gì cha cậu làm.”Rachel nhìn tôi đầy cảm kích. “Ừ... nếu cậu muốn chơi với một người bình thường một lần nữa... thì cậu có thể gọi tớ.”

      “Ừ, được. Chắc chắn rồi.”

      ấy nhíu mày. Có thể tại tôi nói với giọng hào hứng cho lắm, nhưng thực sự tôi có ý đó. Chỉ là tôi biết nói gì khi bao nhiêu bạn bè đứng xung quanh. Và có lẽ mấy ngày gần đây tâm trạng của tôi xáo trộn.

      “Ý tớ là... tớ rất hân hạnh,” tôi nói.

      “Số điện thoại của tớ có trong danh bạ đâu,” Rachel nói.

      “Tớ có rồi.”

      “Vẫn ở tay cậu sao? thể nào.”

      , tớ... nhớ nó mà.”

      ấy hơi mỉm cười, nhưng trông ấy hạnh phúc hơn rất nhiều. “Gặp lại cậu sau nhé, Percy Jackson. Hãy cứu thế giới giùm tớ nhé, được ?”

      ấy bộ về phía cuối Đại lộ Seventh và lẫn vào đám đông.

      Khi tôi quay lại với những con ngựa thì phát hiện Nico gặp vấn đề. Chú ngựa pegasus tránh xa khỏi cậu ấy và muốn cho cậu bé trèo lên.

      Cậu ta có mùi như mùi người chết ấy! con ngựa kêu ca.

      Thôi nào, Blackjack nói. ́ lên, Porkpie. Nhiều á thần có mùi kỳ cục mà. Đó đâu phải lỗi của họ. À, ừ... tôi có ý nói sếp đâu nhé.

      “Mọi người trước !” Nico nói. “Em cũng chẳng muốn quay trở lại đó.”

      “Nico,” tôi nói, “bọn cần em giúp.”

      Cậu nhóc khoanh tay và cau có. Sau đó Annabeth đặt tay lên vai cậu ấy.

      “Nico,” ấy nói. “Làm ơn .”

      Dần dần, mặt cậu ấy cũng dãn ra. “Được rồi,” Nico ngần ngại. “Vì chị. Nhưng em sẽ ở đó đâu.”

      Tôi nhướn mày nhìn Annabeth, ý nói, Sao tự dưng Nico lại nghe cậu nhỉ? ấy lè lưỡi về phía tôi.

      Cuối cùng thì mọi người cũng leo hết được lên lưng ngựa. Chúng tôi bay lên trời, và nhanh chóng hình ảnh Sông Đông và đảo Long Island đã trải dài dưới tầm

      Chúng tôi hạ cánh ở bãi cỏ giữa nhà và nhanh chóng gặp bác Chiron, thần rừng bụng phệ Silenos và một số cung thủ của nhà thần Apollo. Bác Chiron nhướn mày khi nhìn thấy Nico, nhưng nếu tôi mong bác ấy ngạc nhiên bởi những tin tức mới nhất của chúng tôi về Quintus là Daedalus hay Kronos hồi sinh thì tôi đã lầm.

      “Bác đã rất sợ hãi,” bác Chiron nói. “Chúng ta phải khẩn trương lên. Hy vọng các cháu đã làm chậm lại hành động của chúa tể của các thần Titan, nhưng đội quân tiên phong của hắn sẽ vẫn tới đây. Chúng là những kẻ khát máu. Hầu hết các người bảo vệ của chúng ta đều đã sẵn sàng. thôi!”

      “Chờ một chút,” Silenos cầu. “Việc tìm kiếm thần Pan thế nào rồi? Cậu đã quá hạn gần ba tuần rồi đấy, Grover Underwood! Giấy phép tìm kiếm của cậu đã bị thu hồi!”

      Grover hít một hơi sâu. Cậu ấy đứng thẳng dậy và nhìn vào mắt Silenos. “Giấy phép tìm kiếm chẳng có ý nghĩa gì cả. Thần Pan vĩ đại đã chết. Ông ấy đã ra để lại linh hồn cho chúng ta.”

      “Cái gì?” Mặt Silenos đỏ lên. “Báng bổ và dối trá! Grover Underwood, ta sẽ cho ngươi đày vì những gì ngươi vừa nói!”

      “Đó là sự thật,” tôi nói. “Chúng tôi đều ở đó khi ông ấy chết. Tất cả chúng tôi.”

      thể! Các người đều là lũ nói dối! Những kẻ phá hoại thiên nhiên!”

      Bác Chiron nhìn đăm đăm vào mặt Grover. “Chúng ta sẽ nói chuyện này sau.”

      “Chúng ta sẽ nói chuyện này ngay bây giờ!” Silenos nói. “Chúng ta phải giải quyết vấn đề...”

      “Silenos,” bác Chiron cắt ngang. “Trại của ta bị tập kích. Vấn đề về thần Pan đã kéo dài hai nghìn năm nay rồi. Ta e là nó sẽ phải đợi thêm một quãng thời gian nữa. Miễn là tối nay chúng ta vẫn còn sống sót ở đây.”

      Và sau thông báo đó, bác ấy chuẩn bị cung tên và phi nước đại vào rừng, để chúng tôi đuổi theo sau.

      Đó là cuộc dàn trận lớn nhất mà tôi từng thấy ở trại. Mọi người đều ở bìa rừng, mặc đủ khiên giáp chiến đấu, nhưng lần này phải để chơi trò cướp cờ nữa. Các trại viên nhà thần Hephaestus đã đặt những cái bẫy quanh lối vào Mê Cung – dây thép gai, những cái hố chứa các bình Lửa Hy Lạp, những hàng chông nhọn để làm chệch hướng tấn công. Beckendorf đặt vào vị trí haihiếc máy lăng đá có kích thước của những chiếc xe bán tải, đã được mồi sẵn đá và nhắm về phía ̉nh Nắm Tay của thần Zeus. Các trại viên nhà thần Ares xếp đội hình pha lăng ở tuyến đầu và do Clarisse chỉ huy. Các á thần nhà thần Apollo và thần Hermes tỏa ra khắp các khu rừng với cung tên sẵn sàng tay. Nhiều người đã sẵn sàng ở các vị trí cây. Ngay cả các nữ thần cây cũng được trang bị cung tên, và các thần rừng thì chạy quanh với dùi cui gỗ và khiên làm từ vỏ cây cứng.

      Annabeth gia nhập với các em của mình ở nhà nữ thần Athena, những người đã dựng trại chỉ huy và chỉ đạo việc dàn quân. Một tấm banner màu xám với hình một con cú bay phấp phới ngoài ̉ng trại. Người đứng đầu phụ trách phần ninh của trại, Argus, đứng gác ở cửa. Các con của nữ thần Aphrodite chạy quanh chỉnh sửa lại áo giáp cho mọi người và đề nghị được giúp chúng tôi chải thẳng chùm lông ngựa bị rối mũ giáp. Ngay cả các con của thần Dionysus cũng tìm ra việc để làm. Bản thân vị thần đó vẫn mất tăm mất tích, nhưng hai người con trai sinh đôi của ông loanh quanh phát nước và nước hoa quả cho các chiến binh vã đầy mồ hôi.

      Cuộc bài binh bố trận dường như khá hoàn hảo, nhưng bác Chiron vẫn lẩm bẩm bên cạnh tôi, “Thế này chưa đủ.”

      Tôi nghĩ về những gì tôi đã nhìn thấy trong Mê Cung, tất cả những con quái vật trong sân vận động của Antaeus và sức mạnh của Kronos mà tôi từng cảm nhận khi ở núi Tam. Tim tôi như thắt lại. Bác Chiron nói đúng, nhưng đây là tất cả những gì chúng tôi có thể làm. Lần đầu tiên trong đời, tôi ước gì thần Dionysus có mặt ở đây, nhưng ngay cả như vậy thì tôi cũng chắc ông ấy có thể giúp gì hay . Khi liên quan đến chiến tranh, các vị thần bị cấm can thiệp trực tiếp. Nhưng hình như, các thần Titan đã tin vào những giới hạn đó.

      Ở rìa khoảng rừng trống, Grover nói chuyện với Juniper. Nữ thần cây nắm tay cậu ấy trong khi cậu ấy kể cho nghe câu chuyện của chúng tôi. Những giọt nước mắt xanh chảy trong mắt khi khi Grover báo tin tức về thần Pan.

      Tyson giúp những đứa trẻ nhà thần Hephaestus chuẩn bị hàng phòng vệ. Cậu ấy nhặt những tảng đá và xếp chúng cạnh súng cao su để sẵn sàng khai hỏa.

      “Ở lại với bác, Percy,” bác Chiron nói với tôi. “Khi cuộc chiến bắt đầu, bác muốn cháu đợi đến khi chúng ta xác ̣nh rõ kẻ ̣ch là ai. Cháu phải ứng chiến nơi cần người tiếp viện nhất.”

      “Cháu đã thấy Kronos,” tôi nói trong tâm trạng choáng váng với sự thật. “Cháu nhìn thẳng vào mắt hắn. Đó là Luke... nhưng phải.”

      Bác Chiron vuốt ngón tay dọc dây cung. “Hắn có đôi mắt màu vàng, bác đoán vậy. Và khi hắn có mặt, thời gian như biến thành chất lỏng.”

      Tôi gật đầu. “Sao hắn có thể nhập vào cơ thể một người bình thường nhỉ?”

      “Bác biết, Percy ạ. Lâu nay các vị thần vẫn mang hình dạng của con người, nhưng để trở thành một con người... trộn lẫn giữa cơ thể của thần thánh với người thường thì... Bác hiểu sao hắn có thể làm được điều đó mà Luke bị biến thành tro.”

      “Kronos nói cơ thể hắn đã được chuẩn bị.”

      “Cứ nghĩ tới việc đó có nghĩa là gì khiến bác thấy rùng mình. Nhưng có lẽ nó sẽ hạn chế sức mạnh của Kronos. Lúc này, ít nhất thì hắn cũng bị giới hạn trong cơ thể của một người thường. Cơ thể đó trói buộc hắn. Mong rằng nó cũng sẽ hạn chế Kronos phần nào.”

      “Bác Chiron, nếu hắn dẫn đầu cuộc tấn công này...”

      “Bác nghĩ vậy, cậu bé ạ. Nếu hắn tới gần thì bác sẽ cảm nhận được. Chắc chắn hắn đã có kế hoạch, nhưng bác tin rằng cháu đã quấy rầy hắn khi cháu làm sập phòng ngai lên người hắn.” Ông nhìn tôi có vẻ quở trách. “Cháu và cậu bạn Nico, con trai của thần Hades.”

      ̉ tôi như có gì đó nghẹn lại. “Cháu xin lỗi, bác Chiron. Đáng lẽ cháu phải nói với bác. Chỉ là...”

      Bác Chiron đưa tay lên. “Bác hiểu vì sao cháu làm vậy, Percy. Cháu thấy mình phải chịu trách nhiệm. Cháu ́ bảo vệ cậu ta. Nhưng cậu bé ạ, nếu chúng ta sống sót sau trận này, chúng ta sẽ phải tin tưởng nhau. Chúng ta phải...”

      Giọng ông ấy ngập ngừng. Mặt đất dưới chân chúng tôi rung chuyển.

      Mọi người ở khoảng rừng trống đều ngừng mọi việc họ làm. Clarisse ra hiệu: “Khóa khiên lại!”

      Và rồi quân đội của chúa tể Titan ào ra lối vào Mê Cung...

      Tôi đã từng chiến đấu trước đây, nhưng đây là một trận chiến thực sự. Thứ đầu tiên mà tôi nhìn thấy là hơn chục gã khổng lồ Laistrygonian ngoi lên từ mặt đất, chúng hét quá lớn khiến tai tôi như muốn nổ tung. Chúng mang khiên làm từ những chiếc ô tô đập bẹp và dùi cui làm từ thân cây với đầu nhọn bịt sắt. Một g̃ trong số đó tiến tới đội hình Pha-lăng của nhà thần Ares, đập văng nó với cái dùi cui của hắn và toàn bộ đội bị ném sang một bên, hơn chục chiến binh thì tung lên trời như những con búp bê rách.

      “Bắn!” Beckendorf hét lên. Những khẩu súng cao su bắt đầu hoạt động. Hai tảng đá lớn được bắn về phía những gã khổng lồ. Một viên làm cái khiên ô tô lệch nhưng có lấy một vết sứt mẻ, nhưng viên còn lại trúng ngay giữa ngực gã Laistrygonian và gã khổng lồ ngã xuống. Các cung thủ nhà thần Apollo bắn tên hàng loạt, hàng chục mũi tên đâm xuyên áo giáp của bọn khổng lồ trông như lông nhím. Một số mũi tên xuyên qua kẽ hở giáp và vài gã khổng lồ bốc hơi khi bị trúng mũi tên đồng celestial.

      Nhưng ngay khi lũ Lastrygonians yếu thế, đợt tấn công khác đã ào tới: khoảng ba mươi hoặc là bốn mươi người rắn dracaenae khiên giáp tới tận răng lăm lăm giáo và lưới trong tay. Chúng tỏa ra khắp mọi hướng. Một số con dính phải bẫy do nhà thần Hephaestus đã đặt. Một con bị mắc lại dây thép gai và đương nhiên là mục tiêu dễ dàng cho các cung thủ. Một con khác vướng vào dây bẫy, và những lọ đựng Lửa Hy Lạp nổ tung tạo thành những ngọn lửa màu xanh lá, nuốt gọn vài ả người rắn. Nhưng chúng ngừng kéo tới. Argus và các chiến binh ở nhà nữ thần Athena lao tới. Tôi thấy Annabeth rút kiếm ra và chém một trong số chúng. Ở gần đó, Tyson cưỡi lên một tên khổng lồ. Chẳng biết làm cách nào cậu ấy trèo được lên lưng hắn và giờ thì đánh vào đầu hắn bằng chiếc khiên đồng – BONG! BONG! BONG!

      Bác Chiron bình tĩnh giương cung bắn hết mũi tên này đến mũi tên khác, mỗi mũi tên lại hạ được một con quái vật. Nhưng chúng chui ra từ Mê Cung mỗi lúc một đông. Cuối cùng một con chó ngao ̣a ngục – nhưng phải chó O’Leary – nhảy lên khỏi Mê Cung và lao thẳng về phía các thần rừng.

      !” bác Chiron bảo tôi.

      Tôi rút thanh Thủy Triều ra và tấn công.

      Khi chạy băng qua chiến trường, tôi nhìn thấy những hình ảnh thật kinh khủng. Một á thần theo phe ̣ch đánh nhau với con trai của thần Dionysus, nhưng rõ ràng đây phải là một cuộc thi. Kẻ ̣ch đâm vào cánh tay cậu ấy rồi đập vào đầu cậu ấy bằng chuôi kiếm, và con trai của thần Dionysus ngã xuống. Một chiến binh khác bên ̣ch bắn những mũi tên lửa vào các cây, làm các cung thủ và nữ thần cây hoảng loạn.

      Một chục con dracaenae khác đột nhiên đánh nhau nữa mà trườn xuống con đường dẫn thẳng vào trại, giống như chúng biết mình cần đâu. Nếu chúng ra khỏi chúng có thể đốt cháy rụi nơi này mà hoàn toàn có ai ngăn cản.

      Người duy nhất ở gần khu vực đó là Nico di Angelo. Cậu nhóc đâm một con telekhine, và lưỡi kiếm Stygian đen của cậu ấy hấp thu toàn bộ tinh chất của con quái vật, uống năng lượng của nó cho đến khi chẳng còn lại gì ngoài cát bụi.

      “Nico!” tôi hét lên.

      Cậu ta nhìn theo hướng tay tôi chỉ, trông thấy những ả người rắn và lập tức hiểu ra vấn đề.

      Nico hít một hơi sâu và giơ thanh kiếm đen của cậu lên. “Hãy phục vụ ta,” cậu ta hét.

      Mặt đất rung chuyển. Một vết nứt mở ra trước mặt lũ dracaenae và hàng chục chiến binh bò lên từ lòng đất – những cái xác kinh dị trong đồng phục quân đội ở những thời đại khác nhau – Cách mạng Mỹ, sĩ quan La Mã ̉ đại, và kỵ binh Napoleon những con ngựa xương. Đồng loạt, chúng rút kiếm và giao chiến với bọn dracaenea. Nico khuỵu người xuống, nhưng tôi chẳng còn đủ thời gian để xem cậu ta có ổn hay .

      Tôi chặn đường con chó ngao, con vật đẩy lùi các thần rừng lùi vào sâu trong. Con quái vật đớp một thần rừng nhưng ta chạy thoát, nó bèn quay sang một kẻ khác chậm chạp hơn. Cái khiên bằng vỏ cây gãy đôi khi ta ngã xuống.

      “Này!” Tôi hét lớn.

      Con chó ngao quay lại. Nó nhe nhanh và nhảy bổ về phía tôi. Đáng lẽ nó đã xé tôi thành nhiều mảnh, nhưng khi ngã người ra sau, những ngón tay tôi vớ được một cái bình bằng gốm – một trong những bình đựng Lửa Hy Lạp của Beckendorf. Tôi ném nó vào bụng con quái vật, và lửa cháy bùng lên quanh nó. Tôi lật đật vừa chạy vừa thở dốc.

      Thần rừng vừa bị giẫm lên người nằm im cử động. Tôi vội lao tới để xem ta thế nào thì nghe thấy giọng Grover gọi: “Percy!”

      Rừng bắt đầu cháy. Lửa đã cháy cao ba mét quanh thân cây bách xù, và Juniper cùng Grover cuống cuồng bảo vệ nó. Grover dùng ống sáo chơi một bản nhạc gọi mưa. Juniper thì ́ liều lĩnh dập lửa bằng khăn choàng xanh lục của mình, nhưng tất cả chỉ làm cho mọi việc trở nên tồi tệ hơn.

      Tôi chạy về phía họ, nhảy qua những nhóm đấu tay đôi, luồn lách qua chân của những tên khổng lồ. Nguồn nước gần nhất là con lạch, cách đó chừng nửa dặm... nhưng tôi phải làm gì đó. Tôi tập trung. Ruột tôi nhói lên, một tiếng gầm vang lên trong tai tôi. Rồi một bức tường nước lao nhanhthân cây. Nước giội lên lửa, Juniper, Grover và gần như mọi thứ khác.

      Grover phun ra một ngụm nước. “Cảm ơn cậu, Percy!”

      có gì!” Tôi quay trở lại chiến trường, Grover và Juniper cũng theo. Grover cầm dùi cui trong tay và Juniper cầm gậy – giống như một cây roi quất kiểu cũ. ấy trông cực kỳ giận dữ, như chuẩn bị quất roi vào mông ai đó.

      Ngay khi cuộc chiến có vẻ cân bằng trở lại – khi chúng tôi có một cơ hội mong manh – thì một tiếng hét khủng khiếp vọng ra từ phía Mê Cung, một thanh tôi đã từng nghe thấy.

      Kampê bay vọt lên trời với đôi cánh dơi sải rộng. Mụ ta đậu lên ̉nh Nắm Tay của thần Zeus và quan sát cuộc chém giết. Mặt mụ ánh lên nỗi hân hoan. Những cái đầu động vật đột biến gen gầm gừ quanh hông mụ. Những con rắn rít xì xì và cuốn quanh chân mụ ta. Trong tay phải mụ ta cầm một cuộn chỉ lấp lánh – sợi dây của Ariadne – rồi mụ nhét nó vào miệng một con sư tử hông và rút hai thanh kiếm cong ra. Lưỡi kiếm ánh lên màu xanh của độc chất. Kampê rít lên với niềm vui chiến thắng khiến một số trại viên la hét hoảng loạn. Một số khác bỏ chạy và bị những con chó ngao hoặc người khổng lồ giẫm lên.

      “Vì các vị thần!” bác Chiron hét lớn. Bác ấy nhanh chóng giương cung, nhưng dường như Kampê cảm nhận được sự có mặt của bác ấy. Mụ ta bay với tốc độ kinh ngạc, và mũi tên của bác Chiron trượt qua đầu mụ ta – hoàn toàn vô hại.

      Tyson giờ mới buông gã khổng lồ ra sau khi đánh hắn đến bất tỉnh nhân sự. Cậu ấy chạy tới chỗ chúng tôi, hét lớn, “Đứng yên! Đừng bỏ chạy! Đánh lại mụ !”

      Nhưng ngay lập tức một con chó ngao nhảy lên người Tyson và bọn họ lăn .

      Kampê đậu lên lều chỉ huy của nhà nữ thần Athena làm nó bẹp dúm. Tôi đuổi theo mụ ta và phát hiện ra Annabeth cũng chạy bên cạnh tôi, tay cầm thanh kiếm.

      “Có thể là nó đấy,” ấy nói.

      “Ừ, có thể.”

      “Rất vui được chiến đấu với cậu, Óc Tảo Biển.”

      “Tớ cũng vậy.”

      Chúng tôi cùng nhau nhảy vào chặn đường con quái vật. Kampê rít lên và chém chúng tôi. Tôi né được và ́ gắng làm mụ ta phân tâm để Annabeth ra đòn, nhưng hình như hai tay con quái vật có thể chiến đấu độc lập với nhau. Mụ chặn được thanh kiếm của Annabeth, và Annabeth phải nhảy lùi lại để tránh chất độc bay ra. Đứng gần mụ ta giống như đứng trong màn sương axit. Mắt tôi bỏng rát. Phổi tôi đủ khí để thở nữa. Tôi biết chỉ vài giây nữa thôi, chúng tôi sẽ thể trụ vững ở chỗ này.

      “Lại đây!” tôi hét lớn. “Bọn tớ cần giúp đỡ!”

      Nhưng chẳng có ai đến hỗ trợ cả. Mọi người hoặc đã ngã quỵ, hoặc chiến đấu sống còn, hoặc là quá sợ hãi nên chẳng dám tiến lên. Ba mũi tên của bác Chiron đâm vào ngực Kampê, nhưng chỉ làm mụ ta gào rống to hơn.

      “Nào!” Annabeth nói.

      Chúng tôi cùng lao lên, tránh lưỡi kiếm của con quái vật, áp sát được mụ và suýt nữa... suýt nữa đâm được vào ngực Kampê, nhưng một cái đầu gấu khổng lồ lao ra từ bụng con quái vật, và chúng tôi phải nhảy lùi lại để khỏi bị nó đớp.

      Sầm!

      Mọi thứ trước mắt tối om. Những gì tôi biết sau đó là tôi và Annabeth nằm mặt đất. Hai chân trước của nó đạp lên ngực chúng tôi và giữ chúng tôi nằm in mặt đất. Hàng trăm con rắn trườn ngay bên tôi, rít lên như những tiếng cười. Kampê giơ thanh kiếm màu xanh lục non của mụ lên, và tôi biết Annabeth và tôi còn lựa chọn nào nữa.

      Nhưng, đằng sau chúng tôi, một tiếng tru vang lên. Một đống đen kịt lao vào Kampê và đẩy con quái vật qua một bên. Và chó O’Leary đứng đó, nhe nanh đớp về phía Kampê.

      “Giỏi lắm bé!” một giọng nói quen thuộc cất lên. Daedalus dẹp đường và bước ra khỏi Mê Cung, lũ quái vật bị chém như ngả rạ hai bên đường ông ấy tới chỗ chúng tôi. cạnh ông ấy còn có một ai đó – một gã khổng lồ quen thuộc, cao hơn bọn Laistrygonians rất nhiều, với hàng trăm cánh tay, và mỗi tay bê một tảng đá lớn.

      Briares!” Tyson gào lên trong kinh ngạc.

      “Chào cậu em!” Briares nói như rống. “Chiến đấu cừ nhé!”

      Và ngay khi O’Leary nhảy , Người Khổng Lồ Trăm Tay bắt đầu bắn một loạt đạn đá về phía Kampê. Những viên đá dường như lớn dần khi chúng bay khỏi tay Briares. Có quá nhiều đá, như thể cả nửa trái đất học bay vậy.

      BOOOOOM!

      Nơi Kampê đứng một vài giây trước đó giờ là một núi đá cao gần bằng Nắm của thần Zeus. Dấu hiệu duy nhất cho sự tồn tại của con quái vật là hai thanh kiếm xanh thò ra từ khe hở.

      Các trại viên reo hò mừng rỡ, nhưng kẻ thù của chúng tôi vẫn chưa nhụt chí. Một con dracaenae hét lên, “Giiiiiiết chúng ! Giết tất cả bọn chúng nếu muốn Kronossss lột da các ngươi!”

      Rõ ràng, lời đe dọa đó còn đáng sợ hơn chúng tôi. Những người khổng lồ tiến lên trong nỗ lực cuối cùng. Bác Chiron bị bất ngờ với cú đánh vào chân sau nên trượt ngã. Sáu tên khổng lồ hả hê lao tới.

      !” tôi gào lên, nhưng tôi ở quá xa nên thể chạy tới.

      Rồi điều đó đã xảy ra Grover mở miệng, trong gian vang lên một thanh kinh khủng nhất mà tôi từng nghe thấy. Nó giống như thanh của một chiếc kèn đồng trumpet nhưng được phóng to lên đến một ngàn lần – thanh của sự sợ hãi tột độ.

      Ngay lập tức, đội quân của Kronos làm rơi vũ khí và tháo chạy thục mạng. Những tên khổng lồ giẫm đạp lên bọn dracaenae để tranh nhau quay lại Mê Cung. Lũ telekhine, chó ngao và các á thần theo phe ̣ch cũng lật đật chạy theo chúng. Đường hầm rầm rầm đóng lại, và trận chiến kết thúc. Khoảng rừng thưa trở nên im ắng, trừ tiếng lửa cháy phừng phừng trong rừng và tiếng kêu la của những người bị thương.

      Tôi giúp Annabeth đứng dậy và chúng tôi cùng chạy về phía bác Chiron.

      “Bác vẫn ổn chứ ạ?” tôi hỏi.

      Bác ấy nằm nghiêng và ́ gắng đứng dậy. “Thật xấu hổ quá,” bác ấy lẩm bẩm. “Bác nghĩ là sao đâu. May sao, chúng ta bắn chết các nhân mã bị... Ôi! ... bị gãy chân.”

      “Bác cần giúp đỡ,” Annabeth nói. “Cháu sẽ gọi lính cứu thương từ nhà thần Apollo.”

      ,” bác Chiron khăng khăng từ chối. “Còn nhiều người bị thương đáng chăm sóc hơn. ! Bác ổn mà. Nhưng Grover này... chốc nữa chúng ta phải nói chuyện với nhau về việc cậu vừa làm.”

      “Thật đáng kinh ngạc,” tôi đồng tình.

      Grover đỏ mặt. “Tớ cũng chẳng biết nó ở đâu ra nữa.”

      Juniper ôm cậu ấy thật chặt. “Tớ biết!”

      Trước khi ấy kịp nói thêm điều gì thì tôi nghe Tyson gọi, “ Percy, nhanh đến! Nico bị thương rồi!

      Khói cuộn cuộn bay lên từ bộ quần áo đen của cậu ta. Những ngón tay của cậu ta đan vào nhau, và cỏ xung quanh Nico chuyển thành màu vàng và chết.

      Tôi xoay người cậu ta lại nhẹ nhàng hết mức có thể và đặt một tay lên ngực cậu ta. Tim cậu ta đập yếu ớt. “Đem rượu thánh lại đây!” tôi hét lên.

      Một trại viên nhà thần Ares chạy đến và đưa cho tôi một bi-đông. Tôi đổ thứ thức uống ma thuật vào miệng Nico. Cậu ta ho và phì ra, nhưng bắt đầu từ từ mở mắt.

      “Nico, có chuyện gì vậy?” Tôi hỏi. “Em có nói được ?”

      Cậu nhóc gật đầu yếu ớt. “Em chưa bao giờ triệu tập nhiều linh hồn đến vậy trước đây. Em... em sẽ ổn thôi.”

      Chúng tôi giúp Nico ngồi dậy và cho cậu ta uống thêm một ít nước thánh nữa. Cậu nhóc chớp chớp mắt nhìn tất cả chúng tôi, như thể ́ nhớ xem chúng tôi là ai. Và sau đó cậu tập trung vào ai đó đằng sau chúng tôi.

      “Daedalus,” cậu bé nói khàn khàn.

      “Đúng vậy, con trai,” nhà phát minh nói. “Ta đã gây ra một sai lầm lớn. Và ta đến để sửa chữa nó.”

      Daedalus có vài vết xước và dầu màu vàng chảy ra, nhưng trông ông ấy vẫn ổn hơn hầu hết chúng tôi. Rõ ràng là thân thể rô bốt của ông ta tự chữa được vết thương một cách nhanh chóng. chó O’Leary lù lù ở đằng sau, liếm vết thương đầu của chủ nó khiến tóc Daedalus dựng lên trông rất tức cười. Briares đứng ngay cạnh ông ấy, bao quanh là một đám trại viên và thần rừng đầy kính sợ. Tuy khá rụt rè nhưng ấy bận rộn ký lên những bộ giáp, khiên và những chiếc áo phông.

      “Ta tìm thấy chàng Trăm Tay này khi qua mê cung,” Daedalus giải thích. “Dường như cậu ta cũng có chung ý ̣nh: tới đây giúp đỡ, nhưng cậu ta bị lạc đường. Và sau đó chúng ta cùng tới đây để sửa chữa sai lầm.”

      “Zeee!” Tyson nhảy choi choi. “ Briares! Em biết là sẽ tới mà!”

      “Tôi biết nữa,” chàng Trăm Tay nói. “Nhưng cậu đã nhắc tôi nhớ mình là ai, Cyclops ạ. Cậu chính là một hùng.”

      Tyson đỏ mặt. Tôi vỗ vào lưng cậu ấy. “ biết điều này từ lâu rồi,” tôi nói. “Nhưng, Daedalus... quân đội của Titan vẫn còn ở dưới đó. Ngay cả khi có sợi dây thì chúng vẫn. Sớm muộn chúng cũng sẽ tìm được đường thôi, và Kronos dẫn đầu bọn chúng.”

      Daedalus tra kiếm vào vỏ. “Cậu nói đúng. Một khi Mê Cùng còn ở đây thì kẻ ̣ch của cậu còn sử dụng nó. Đó là lý do tại sao Mê Cung được tiếp tục tồn tại nữa.”

      Annabeth nhìn ông ấy chằm chằm. “Nhưng ông nói Mê Cung gắn chặt với cuộc sống của ông! Chỉ cần ông còn sống thì...”

      “Đúng vậy, kiến trúc sư trẻ tuổi của ta,” Daedalus đồng ý. “Khi ta chết thì Mê Cung sẽ chết theo. Và ta cũng có một món quà cho .”

      Ông lôi từ sau lưng ra một cái túi da, mở nó và lôi ra một cái laptop bằng bạc bóng loáng – một trong những máy tính tôi đã nhìn thấy trong khu xưởng. vỏ máy là một dấu hiệu . màu xanh da trời.

      “Công trình của ta ở đây,” ông nói. “Đây là tất cả những gì ta ́ gắng cứu được trong ngọn lửa. Ghi chép cho những dự án ta chưa bao giờ thực hiện được. Một trong số chúng là những mẫu thiết kế thích của ta. Ta thể triển khai nó trong vài thiên niên kỷ tới. Ta dám để lộ những thiết kế này cho người thường. Nhưng có lẽ sẽ thích chúng.”

      Ông ta đưa máy tính cho Annabeth, người chăm chăm nhìn nó như nhìn một cục vàng. “Ông cho tôi sao? Nhưng thứ này là vô giá! Nó đáng giá... tôi biết nó đáng giá bao nhiêu nữa!”

      “Một sự đền bù nho nhỏ cho những gì tôi đã làm thôi mà,” Daedalus nói. “ nói đúng, Annabeth, về những đứa con của nữ thần Athena. Chúng ta cần phải sáng suốt, và ta thì . Một ngày nào đó sẽ trở thành một kiến trúc sư tài ba hơn ta nhiều. Hãy sử dụng những ý tưởng của ta và cải tạo chúng. Ít ra đây là thứ ta có thể làm trước khi chết.”

      “Oa,” tôi nói. “Chết sao? Nhưng ông thể tự giết mình như vậy được! Thế là sai lầm!”

      Ông ta lắc đầu. “ sai bằng việc trốn tránh tội ác suốt hai nghìn năm. Những thiên tài bao giờ bào chữa cho những sai lầm, Percy. Thời điểm của ta đã đến. Ta phải đối mặt với sự trừng phạt.”

      “Ông sẽ được xử công bằng đâu,” Annabeth nói. “Linh hồn của Minos là chủ tọa mà.”

      “Ta sẽ đón nhận tất cả,” ông nói. “Và tin vào công lý của ̣a Ngục. Đó là tất cả những gì chúng ta có thể làm, đúng ?”

      Daedalus nhìn thẳng vào Ni và mặt Nico tối sầm lại.

      “Đúng vậy,” cậu ta nói.

      “Cậu có dùng linh hồn tôi như một khoản chuộc ?” Daedalus hỏi. “Cậu có thể dùng nó để đổi lấy chị cậu.”

      ,” Nico nói. “Tôi sẽ giúp ông giải thoát linh hồn ông. Nhưng chị Bianca đã chết rồi. Chị ấy phải ở nơi thuộc về chị ấy.”

      Daedalus gật đầu. “Tốt lắm, con trai của thần Hades. Cậu trở nên sáng suốt rồi đấy.” Rồi ông ấy quay về phía tôi. “Một ân huệ cuối cùng, Percy Jackson. Ta muốn để O’Leary một mình. Và nó cũng muốn trở lại ̣a Ngục nữa. Cậu có thể chăm sóc nó được ?”

      Tôi nhìn con vật màu đen khổng lồ rên rỉ một cách tội nghiệp, và vẫn tiếp tục liếm lên tóc Daedalus. Tôi nghĩ căn hộ của mẹ tôi sẽ được phép nuôi chó, nhất là giống chó có kích cỡ to hơn cả căn hộ, nhưng tôi vẫn nói: “Vâng, tất nhiên rồi.”

      “Vậy ta đã sẵn sàng để gặp con trai ta... và Perdix,” ông nói. “Ta phải nói với họ ta đã hối tiếc như thế nào.”

      Mắt Annabeth ngấn nước.

      Daedalus quay sang phía Nico. Cậu bé rút kiếm ra. Ban đầu, tôi sợ Nico sẽ giết người phát minh già, nhưng cậu ta chỉ nói, “Ông đã sống quá lâu rồi. Hãy giải thoát và yên nghỉ nhé.”

      Một nụ cười khuây khỏa hiện lên mặt Daedalus. Ông ấy đông lại như một bức tượng. Da ông trở nên trong suốt, để lộ những bánh răng bằng đồng và máy móc chạy ro ro bên trong. Rồi sau đó bức tượng biến thành tro màu xám và biến mất.

      O’Leary tru lên. Tôi xoa đầu nó và ́ hết sức có thể để an ủi con vật. Mặt đất rung chuyển – một trận động đất mà có lẽ mọi thành phố cả đất nước này đều có thể cảm nhận được – khi Mê Cung ̉ xưa sụp đổ. Ở nơi nào đó, tôi hy vọng rằng phần còn lại của đội quân tiên phong của thần Titan cũng sẽ bị chôn vùi.

      Tôi nhìn quanh tàn tích của cuộc chiến và những khuôn mặt mệt mỏi của các bạn tôi.

      ́ lên nào,” tôi bảo họ. “Chúng ta còn có việc phải làm mà.”

    5. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      XIX


      Có quá nhiều lời tiễn biệt.

      Đêm đó là lần đầu tiên tôi thực sự chứng kiến những tấm vải liệm được dùng thi thể người như thế nào, và đó là điều bao giờ tôi muốn trông thấy lần thứ hai.

      Trong số những người chết, Lee Fletcher ở nhà thần Apollo bị đánh gục bởi cây côn của một gã khổng lồ. Cậu ấy được cuộn trong vải liệm màu vàng và có hoa văn trang trí. Con trai của thần Dionysus, người đã gục ngã khi chiến đấu với một á thần được bọc trong một tấm vải liệm màu tím sẫm được thêu những thân cây nho. Tên cậu ấy là Castor. Tôi thấy xấu hổ bởi ba năm ở chung trại với nhau mà tôi còn thèm nhớ tên cậu ấy. Cậu ấy mười bảy tuổi. Người em sinh đôi của Castor, Pollux, đã ́ nói một vài lời, nhưng ̉ họng cậu ta nghẹn lại nên chỉ cầm đuốc đứng một bên. Cậu ta châm lửa giàn thiêu giữa đấu trường, và chỉ trong vài giây, đống vải liệm đã chìm trong lửa, làm khói và tia lửa bay lên tới tận các vì sao.

      Chúng tôi dành hết cả ngày hôm sau chữa trị cho những người bị thương, tức là gần như tất cả mọi người. Các thần rừng và các nữ thần cây cũng làm việc vất vả để khôi phục lại khu rừng.

      Vào buổi trưa, Hội đồng Trưởng Lão Cloven tổ chức một cuộc họp khẩn cấp trong bụi cây thánh. Ba vị thần rừng già ở đó với bác Chiron. Bác ấy ngồi chiếc xe lăn. Một chân ngựa bị gãy của bác ấy vẫn được chữa trị, vậy nên chắc bác ấy sẽ dính với cái ghế thêm vài tháng nữa, cho đến khi cái chân đủ khỏe để nâng đỡ trọng lượng của bác ấy. Trong bụi cây thánh chật cứng với các thần rừng, nữ thần cây và các nữ thủy thần từ dưới nước ngoi lên – có hàng trăm nữ thần như vậy, họ nóng lòng muốn nghe xem chuyện gì sẽ diễn ra. Juniper, Annabeth và tôi đứng ngay bên cạnh Grover.

      Silenos muốn tống Grover đày ngay lập tức, nhưng bác Chiron đã thuyết phục ông ta ít nhất thì cũng cần nghe chứng cứ. Sau đó chúng tôi kể cho mọi người chuyện xảy ra trong hang động tinh thể và những gì thần Pan đã nói. Sau đó một số nhân chứng của trận đánh mô tả những thanh kỳ lạ mà Grover đã tạo ra, thứ thanh đã đẩy quân đội của Titan trở lại bên trong đường hầm.

      “Đó là sự hoảng sợ,” Juniper nhấn mạnh. “Grover đã triệu tập sức mạnh của thần tự nhiên.”

      “Hoảng sợ?” tôi hỏi.

      “Percy,” bác Chiron giải thích, “trong cuộc chiến đầu tiên giữa các vị thần các Titan, thần Pan đã hét lên một tiếng kinh hoàng và đẩy lui đội quân của ̣ch. Đó – đó là sức mạnh lớn nhất của ông ấy – một làn sóng sợ hãi khổng lồ đã giúp các vị thần chiến thắng trong trận đó. Từ hoảng sợ được đặt theo tên của thần Pan, như cháu thấy đấy. Và Grover đã sử dụng sức mạnh đó, triệu hồi nó từ bên trong cậu ấy.”

      “Phi lý!” Silenos gầm lên. “Báng bổ! Có thể thần tự nhiên lúc đó đã thương tình giúp đỡ chúng ta. Hoặc có thể thứ nhạc của Grover kinh khủng quá đến nỗi quân thù cũng phải bỏ chạy!”

      phải đâu, thưa ngài,” Grover nói. Nếu tôi bị xúc phạm đến vậy thì chắc chắn tôi chẳng thể bình tĩnh như cậu ấy. “Ông ấy đã để linh hồn của mình xâm nhập vào tất cả chúng ta. Chúng ta phải hành động. Mỗi người trong chúng ta phải hành động để cải tạo lại thiên nhiên, để bảo vệ những gì còn sót lại. Chúng ta phải loan truyền điều đó. Thần Pan đã chết rồi. Chẳng còn ai ngoài chúng ta đâu.”

      “Sau hai nghìn năm tìm kiếm, đây là những gì cậu muốn chúng ta tin sao?” Silenus giận dữ. “ bao giờ! Chúng ta phải tiếp tục tìm kiếm. Tống kẻ phản bội đày !”

      Một số thần rừng già lẩm bẩm tán thành.

      “Chúng ta sẽ bỏ phiếu!” Silenos cầu. “Ai sẽ tin gã thần rừng trẻ tuổi lố bịch này nhỉ?”

      “Tôi tin,” một giọng nói quen thuộc vang lên.

      Mọi người quay lại nhìn. Thần Dionysus sải bước tiến vào. Ông ấy mặc một bộ com lê đen trang trọng, đến nỗi tôi suýt nữa thì nhận ra ông ấy, một chiếc cà vạt tía sẫm, áo sơ mi tím nhạt và mái tóc đen quăn được chải chuốt rất cẩn thận. Mắt ông vẫn đỏ ngầu như thường lệ, khuôn mặt béo tròn mang đầy vẻ xúc động, nhưng có vẻ đó là do nỗi đau buồn chứ phải do say rượu.

      Tất cả các thần rừng đều đứng lên kính cẩn cúi chào khi ông ấy tới. Thần Dionysus vẫy tay, và một cái ghế mới mọc lên từ mặt đất ngay bên cạnh Silenus – một cái ngai làm bằng các thân dây nho.

      Thần Dionysus ngồi xuống và bắt chéo chân. Ông ấy búng tay và một thần rừng hối hả bước tới với một ̃a pho mát, bánh quy giòn và một lon Coca dành cho người ăn kiêng.

      Vị thần rượu nho nhìn đám đông tụ tập. “Nhớ ta chứ?”

      Các thần rừng tranh nhau gật đầu và cúi chào. “Ôi, có chứ! Rất nhiều thưa ngài!”

      “Ừ, ta thì lại chẳng nhớ nơi này!” thần Dionysus đáp lại. “Ta đem đến cho các bạn tin xấu đây. Tin dữ. Các tiểu thần thay đổi. Morpheus đã chuyển qua phe ̣ch. Hecate, Janus và Nemesis cũng vậy. Thần Zeus còn biết nhiều người như vậy nữa kia.”

      Sấm rền vang phía xa.

      “Quên điều đó ,” thần Dionysus nói. “Ngay cả thần Zeus cũng biết. Giờ ta muốn nghe câu chuyện của Grover. Kể lại từ đầu nào.”

      “Nhưng thưa ngài,” Silenus phản đối. “Câu chuyện đó thật nhảm nhí!”

      Đôi mắt thần Dionysus bừng lên ngọn lửa màu tía. “Ta vừa biết tin con trai ta, Castor đã chết, Silenus ạ. Tâm trạng ta tốt. Ngươi mua vui cho ta có lẽ hay hơn đấy.”

      Silenus nuốt nước miếng và vẫy tay ra hiệu cho Grover kể lại câu chuyện một lần nữa.

      Khi Grover kể xong câu chuyện, Ngài D gật đầu. “Đúng là thần Pan thường làm những việc như thế này. Grover nói đúng đấy. Cuộc tìm kiếm thật mệt mỏi. Các người cần nghĩ cho bản thân mình một chút.” Ông quay sang một thần rừng. “Đem cho ta vài quả nho đã bóc vỏ, nhanh nào!”

      “Vâng thưa ngài!” thần rừng đó luống cuống chạy .

      “Chúng ta phải tống kẻ phản bội đó đày!” Silenus khăng khăng.

      “Ta nói ,” thần Dionysus phản bác. “Đó là ý kiến của ta.”

      “Ta cũng bầu là ,” bác Chiron chen vào.

      Silenus vẫn cứng đầu phản kháng. “Mọi người đều đồng ý cho hắn đày chứ?”

      Ông ta và hai thần rừng già nữa giơ tay.

      “Ba thắng hai,” Silenus nói.

      “À đúng,” thần Dionysus nói. “Nhưng rất tiếc, một phiếu của thần được tính bằng hai phiếu. Và vì ta bỏ phiếu chống nên chúng ta quyết ̣nh như vậy nhé.”

      Silenus đứng lên tức tối. “Thế này là vi phạm! Hội đồng thể vào ngõ cụt như vậy được.”

      “Vậy thì để nó giải tán !” Ngài D nói. “Ta quan tâm.”

      Silenus và thần rừng nữa miễn cưỡng cúi chào, rồi họ rời bụi cây. Khoảng hai mươi thần rừng khác cùng họ. Số còn lại đứng chung quanh và thì thầm đầy lo lắng.

      “Đừng lo,” Grover nói với họ. “Chúng ta cần một Hội Đồng để bảo chúng ta phải làm gì. Tự chúng ta cũng tìm ra được cơ mà.”

      Rồi cậu ấy kể lại cho họ từng lời của thần Pan – rằng mọi người cần nỗ lực từng chút một để bảo vệ thiên nhiên như thế nào. Cậu ấy bắt đầu chia các thần rừng thành các nhóm – một số nhóm sẽ đến các công viên quốc gia, một số nhóm tìm những nơi nguyên sinh còn sót lại, và vài nhóm khác bảo vệ những công viên trong các thành phố lớn.

      “Cuối cùng,” Annabeth nói với tôi, “Grover có vẻ trưởng thành hơn rồi đấy.”

      Vào buổi chiều muộn của ngày hôm đó, tôi gặp Tyson nói chuyện với Briares bên bãi biển. Briares dùng khoảng năm mươi bàn tay để xây một lâu đài cát. Dường như ta tập trung vào công việc đó, nhưng ta đã tạo được một tác phẩm rất ấn tượng: một tòa nhà ba tầng với những bức tường vững chắc, một cái hào bao quanh và một chiếc cầu kéo bắc qua.

      Tyson vẽ một bản đồ cát.

      “Rẽ trái ở rặng đá ngầm,” cậu ấy bảo Briares. “ thẳng xuống đến chỗ thuyền bị chìm, rồi khoảng một dặm về phía đông, rồi băng qua nghĩa ̣a của các nàng tiên cá, sẽ thấy có rất nhiều lửa cháy.”

      “Em chỉ đường cho ta tới lò rèn à?” tôi hỏi.

      Tyson gật đầu. “ Briares muốn giúp. ấy sẽ dạy các Cyclops những kỹ thuật mà họ đã lãng quên, cách làm những bộ giáp và vũ khí tối tân hơn.”

      muốn gặp các Cyclops,” Briares đồng tình. “ muốn phải sống đơn nữa.”

      “Có thể ở dưới đó cũng sẽ vẫn đơn thì sao?” tôi nói với vẻ đăm chiêu, bởi tôi chưa bao giờ ở vương quốc của thần Poseidon. “ sẽ phải làm việc bận rộn đấy.”

      Mặt Briares chuyển sang sắc thái vui vẻ. “Bận là tốt mà! chỉ ước Tyson có thể cùng.”

      Tyson đỏ mặt. “Em phải ở đây với Percy, Briares ạ. sẽ ổn thôi, Briares. Cảm ơn .”

      Người Trăm Tay bắt tay tôi – khoảng một trăm lần. “Chúng ta sẽ còn gặp lại, Percy à. Chắc chắn như vậy!”Rồi ta cho Tyson một cái ôm của một con bạch tuộc khổng lồ, rồi sau đó Briares ra biển. Chúng tôi đứng trông theo cho đến khi cái đầu khổng lồ của ấy biến mất dưới những con sóng.

      Tôi vỗ vai Tyson. “Em đã giúp ấy rất nhiều đấy.”

      “Em chỉ nói chuyện thôi mà.”

      “Em đã tin ấy. Nếu có Briares, chúng ta sẽ bao giờ hạ được Kampê.”

      Tyson nhăn răng cười. “ ấy giỏi ném đá nhỉ!”

      Tôi cũng phá lên cười. “Đúng vậy, tay ném đá cừ khôi! thôi, chúng ta ăn tối nào.”

      Tôi thấy thật thoải mái khi lại có được một bữa ăn tối bình thường như bao ngày ở trại. Tyson ngồi cùng tôi ở bàn dành cho nhà thần Poseidon. Cảnh hoàng hôn ở Long Island Sound thật đẹp. Mọi thứ trở lại bình thường ngay lập tức, nhưng khi tôi tới chỗ lò than và trút một phần thức ăn của mình vào ngọn lửa như một chút lễ vật cho thần Poseidon, tôi cảm thấy thực sự biết ơn về rất nhiều điều. Tôi và các bạn vẫn còn sống. Trại đã được an toàn. Kronos cũng đã phải lui về, ít nhất là trong thời gian sắp tới.

      Thứ duy nhất làm tôi bận lòng là Nico, cậu nhóc ngồi trong bóng tối ở một góc nhà ăn. Cậu ta được một chỗ ở nhà thần Hermes, và thậm chí được đề nghị ngồi mâm với bác Chiron, nhưng cậu ta từ chối.

      Sau bữa tối, các trại viên cùng tới nhà hát vòng tròn, nơi các trại viên nhà thần Apollo hứa sẽ biểu diễn một màn ca nhạc tuyệt vời, nhưng Nico tham gia mà thẳng vào rừng. Tôi quyết ̣nh theo cậu ta.

      Khi băng qua bóng râm của những thân cây tôi mới nhận ra trời đã tối thế nào. Tôi chưa bao giờ thấy sợ hãi khi ở trong rừng, mặc dù biết rằng ở đó có bao nhiêu là quái vật. Tôi vẫn nghĩ về trận chiến ngay hôm qua và tự hỏi liệu tôi có thể bộ thong dong trong rừng mà nhớ đến cuộc chiến khốc liệt vừa rồi.

      Tôi nhìn thấy Nico, nhưng sau vài phút bộ, tôi thấy một đốm sáng ở phía trước. Ban đầu tôi nghĩ đó là Nico cầm đuốc. Nhưng khi đến gần, tôi nhận ra đốm sáng đó là một con ma. Bóng ma của Bianca di Angelo đứng ở khoảng rừng trống và mỉm cười với cậu em trai. ấy nói điều gì đó và chạm tay vào mặt Nico. Rồi sau đó hình ảnh ấy mờ dần.

      Nico quay lại và nhìn thấy tôi, nhưng cậu ta nổi

      nói lời tạm biệt,” cậu nhóc nói với giọng khàn khàn.

      “Em ăn tối à?” tôi nói. “Em có thể ngồi với mà.”

      “Nico, em thể bỏ bữa mãi như vậy được. Nếu em muốn ở nhà thần Hermes, có thể họ sẽ có ngoại lệ và cho em ở trong Nhà Lớn. Ở đó có nhiều phòng lắm.”

      “Em sẽ ở lại đâu, Percy ạ.”

      “Nhưng... em thể được. Ở ngoài kia quá nguy hiểm cho một á thần đơn độc. Em cần phải được rèn luyện.”

      “Em có thể tập luyện với người chết,” Nico nói dứt khoát. “Trại này dành cho em. Đó là lý do tại sao ở đây có nhà dành cho thần Hades, Percy ạ. Ông ấy được chào đón, cũng như khi ông ấy ở ̉nh Olympus vậy. Em thuộc về nơi này. Em phải thôi.”

      Tôi muốn tranh luận, nhưng một phần trong tôi hiểu rằng cậu ta nói đúng. Tôi muốn thế, nhưng Nico sẽ phải tìm ra con đường của chính mình – con đường đen tối. Tôi vẫn còn nhớ khi ở trong động của thần Pan, vị chúa tể của tự nhiên đã kể tên chúng tôi từng người một... trừ Nico.

      “Khi nào em ?” Tôi hỏi.

      “Ngay bây giờ. Em còn có một tấn câu hỏi chờ được trả lời. Ví dụ mẹ em là ai? Ai trả tiền cho Bianca và em học? Ai là vị luật sư đưa bọn em ra khỏi Khách sạn Hoa Sen? Em chẳng biết gì về quá khứ của mình. Và em phải tìm hiểu nó.”

      “Có lý đấy,” tôi đồng ý. “Nhưng hy vọng rằng chúng ta sẽ trở thành kẻ thù.”

      Cậu ta nhìn xuống đất. “Em xin lỗi. Em đúng là đứa trẻ hỗn xược. Đáng lẽ em phải nghe về chuyện của Bianca.”

      “Nhân tiện...” tôi rút từ trong túi ra một thứ. “Tyson tìm thấy thứ này khi bọn dọn dẹp nhà. nghĩ có thể em cần nó.” Tôi lôi ra một bức tượng bằng chì nhỏ – hình của thần Hades – bức tượng Ma thuật nhỏ mà Nico đã bỏ lại khi rời trại vào mùa đông năm ngoái.

      Nico ngần ngại. “Em chơi trò đó nữa rồi. Trò đó là cho trẻ con.”

      “Nó có bốn nghìn điểm tấn công đấy,” tôi dỗ dành.

      “Năm nghìn,” Nico chữa lại. “Nhưng đó là khi đối thủ tấn công trước

      Tôi mỉm cười. “Vậy thì thỉnh thoảng làm trẻ con cũng chẳng sao mà.” Tôi ném cho cậu ta bức tượng.

      Nico tần ngần vài giây nhìn bức tượng trong tay, rồi sau đó nhét nó vào túi. “Cảm ơn.”

      Tôi đưa tay ra. Nico ngần ngại bắt tay tôi. Tay cậu bé lạnh như băng vậy.

      “Em còn phải điều tra nhiều thứ lắm,” cậu bé nói. “Một vài điều trong số chúng... Ừm, nếu có tin gì hay em sẽ báo cho ngay.”

      Tôi hiểu rõ ý cậu ta, nhưng vẫn gật đầu. “Giữ liên lạc nhé, Nico.”

      Cậu bé quay đầu và thẳng vào rừng. Những cái bóng dường như ngả về đằng trước khi cậu bé bước , như thể thu hút sự chú ý của cậu.

      Một giọng nói ở ngay đằng sau tôi cất lên, “Vậy là một cậu bé vô cùng rắc rối đã bỏ .”

      Tôi quay lại và thấy thần Dionysus đứng đó, vẫn trong bộ lễ phục đen.

      dạo với ta,” ông ấy nói.

      đâu?” Tôi hỏi đầy ngờ vực.

      “Đến chỗ lửa trại thôi mà,” vị thần trả lời. “Ta bắt đầu cảm thấy khá hơn, nên ta sẽ nói chuyện với cậu một chút. Cậu luôn ́ chọc tức ta.”

      “Vâng, cảm ơn.”

      Chúng tôi bộ xuyên rừng trong im lặng. Tôi để ý thấy thần Dionysus bước khí, đôi giày đen bóng của ông cách mặt đất vài xăng ti mét. Có lẽ ông muốn làm bẩn chúng.

      “Chúng ta đã có quá nhiều kẻ phản bội,” ông nói. “Mọi thứ trở nên bất lợi cho ̉nh Olympus. Nhưng chính cậu và Annabeth đã cứu lấy trại này. Ta phải cảm ơn hai người vì điều đó.”

      “Đó là nỗ lực của cả nhóm mà.”

      Ông nhún vai. “Nhưng những gì hai người làm rất đáng khâm phục. Cậu biết đấy – chúng ta mất mát hoàn toàn mà.”

      Khi chúng tôi tới hội trường, thần Dionysus chỉ tay về phía đống lửa. Ở đó, Clarisse ngồi vai kề vai nghe một gã Tây Ban Nha to lớn, người kể chuyện cười cho ta. Đó là Chris Rodriguez, một á thần bị hóa điên sau khi lạc trong Mê Cung.

      T quay sang thần Dionysus. “Ngài đã chữa trị cho cậu ta?”

      “Chữa bệnh điên là chuyên môn của ta mà. Thực ra cũng khá đơn giản.”

      “Nhưng... ngài đã vừa làm một điều tốt. Tại sao?”

      Ông ấy nhướn một bên mày. “Ta là người tốt mà! Chỉ là ta ít khi thể hiện thôi, Perry Johansson. Cậu thấy sao?”

      “Vâng...”

      “Có lẽ ta thấy đau lòng vì cái chết của con trai ta. Có thể ta nghĩ cậu bé Chris đó xứng đáng được một cơ hội nữa. Và dù sao thì nó cũng giúp Clarisse phấn chấn hơn.”

      “Sao ngài lại nói với tôi điều này?”

      Vị thần rượu trả lời. “Ồ, ta cũng chẳng biết. Nhưng cậu bé ạ, hãy nhớ rằng một hành động tử tế đôi khi có sức mạnh như một thanh kiếm. Khi còn là một người bình thường, ta chưa bao giờ là một nhà thơ, một vận động viên hay một chiến binh vĩ đại. Ta chỉ làm rượu. Mọi người trong làng đều cười ta. Họ nói ta sẽ chẳng làm được gì nên hồn. Nhưng giờ hãy nhìn ta xem. Thỉnh thoảng những thứ cực nhỏ cũng có thể trở nên to lớn đấy.”

      Ông ấy để tôi lại một mình suy nghĩ về những điều đó. Và tôi đã phải mỉm cười khi thấy Clarisse và Chris cùng nhau hát một bài ngớ ngẩn quanh lửa trại, nắm chặt tay nhau trong bóng tối vì nghĩ chẳng ai nhìn thấy điều đó.





      XX


      Quãng thời gian còn lại của mùa hè năm đó dường như thật lạ vì nó trôi quá bình yên. Những hoạt động hằng ngày vẫn tiếp diễn: bắn cung, leo núi, cưỡi ngựa pegasus. Chúng tôi chơi trò cướp cờ (mặc dù tất cả chúng tôi đều né tránh Nắm Tay của thần Zeus). Chúng tôi ca hát bên lửa trại, đua xe ngựa rồi chơi khăm những nhà khác. Tôi đã dành rất nhiều thời gian với Tyson, chơi đùa cùng chó O’Leary, nhưng tối đến nó vẫn tru tréo vì nhớ người chủ cũ. Tôi và Annabeth gần như tránh gặp nhau. Tôi thấy vui khi ở cùng ấy, nhưng nó cũng là một kiểu tổn thương. Và lại càng tổn thương hơn khi được gặp nhau.

      Tôi muốn nói chuyện với Annabeth về Kronos, nhưng tôi thể làm điều đó mà nhắc đến Luke. Và Luke chính là chủ đề mà tôi thể nào đề cập tới. Annabeth sẽ ngăn tôi lại nếu tôi có ý

      Tháng Bảy trôi qua với màn bắn pháo hoa bãi biển vào ngày Quốc khánh. Thời tiết tháng Tám nóng nực đến nỗi những trái dâu tây đã bắt đầu rám nắng những cánh đồng. Cuối cùng thì ngày khép lại hội trại cũng đã đến. Một bức thư được theo mẫu chuẩn xuất hiện trn giường tôi sau bữa sáng. Bức thư cảnh báo rằng các nữ mình người cánh chim làm vệ sinh sẽ sơi tái tôi nếu tôi ở lại quá trưa.

      Đúng mười giờ, tôi đứng ̉nh Đồi Con Lai để chờ xe của trại đến chở tôi vào thành phố. Tôi đã sắp xếp để O’Leary lại trại, nơi bác Chiron hứa sẽ chăm sóc nó. Tôi và Tyson sẽ thay nhau đến thăm nó trong năm.

      Tôi đã hy vọng Annabeth cũng tới Manhattan, nhưng ấy chỉ đến tiễn tôi. Annabeth nói muốn ở lại trại thêm một thời gian nữa. ấy sẽ chăm sóc bác Chiron cho đến khi chân bác ấy bình phục hoàn toàn, đồng thời nghiên cứu laptop của Deadalus, việc đã chiếm hết thời giờ của trong suốt hai tháng vừa qua. Sau đó ấy sẽ về thăm cha ở San Francisco.

      “Tớ sẽ theo học tại một trường tư ở đó,” Annabeth nói. “Có thể tớ sẽ ghét nó nhưng mà...” ấy nhún vai.

      “Ừ, nhớ gọi điện cho tớ nhé.”

      “Tất nhiên rồi,” ấy nói một cách miễn cưỡng. “Tớ sẽ để ý nếu có tin tức của...”

      Lại thế nữa rồi. Luke. ấy thể nói tên hắn ta mà kèm theo nỗi đau, lo âu và tức giận.

      “Annabeth này,” tôi nói. “Đoạn cuối của Lời Sấm Truyền đó là gì?”

      ấy cứ dán mắt vào khu rừng phía xa mà nói câu nào.

      “Ngươi sẽ vào bóng tối của mê cung vô tận,” tôi nhớ lại. “Người chết, kẻ phản bội và người mất tích sẽ được triệu hồi. Chúng ta đã gọi nhiều linh hồn đã chết. Chúng ta đã cứu Ethan Nakamura, người hóa ra là kẻ phản bội. Chúng ta đã tìm thấy linh hồn của thần Pan, người mất tích.”

      Annabeth lắc đầu có ý muốn tôi ngừng lại.

      “Ngươi sẽ đứng lên hoặc ngã xuống dưới bàn tay của ma vương,” tôi tiếp tục. “Đó phải là Minos như tớ từng nghĩ. Mà là Nico. Cậu ấy đã cứu chúng ta khi quyết ̣nh đứng về phía bọn mình. Và sự kháng cự cuối cùng của đứa con của nữ thần Athena – đó chính là Daedalus.”



      “Phá hủy với hơi thở cuối cùng của một hùng. Giờ thì điều đó đã có nghĩa. Daedalus đã chết để phá hủy Mê Cung. Nhưng còn điều cuối...”

      “Mất tình còn tệ hơn là cái chết.” Annabeth rưng rưng nước mắt. “Đó chính là dòng cuối cùng đấy, Percy. Cậu vừa lòng chưa?”

      Mặt trời bỗng nhiên trở nên lạnh giá hơn trước đó. “Ồ,” tôi nói. “Vậy là Luke...”

      “Percy, tớ biết lời tiên tri đó ám chỉ ai. Tớ biết nếu...” ấy ngập ngừng đầy bất lực. “Tớ và Luke... trong nhiều năm, ấy là người duy nhất thực sự quan tâm đến tớ. Tớ đã nghĩ....”

      Trước khi Annabeth tiếp tục nói, một chùm ánh sáng hiện ra ngay cạnh chúng tôi, giống như ai đó mở ra một tấm rèm bằng vàng trong khí.

      “Con có gì phải ân hận cả, Annabeth quý.” Đứng ngọn đồi là một người phụ nữ rất cao trong bộ đồ màu trắng, mái tóc đen của bà được tết lại vắt ngang vai.

      “Nữ thần Hera,” Annabeth nói.

      Nữ thần mỉm cười. “Con đã tìm được câu trả lời đúng như ta nghĩ. Cuộc tìm kiếm của con đã thành công.”

      “Thành công sao?” Annabeth nói. “Luke đã ra . Daedalus đã chết. Thần Pan đã chết. Làm sao có thể...”

      “Gia ̀nh chúng ta đã an toàn,” nữ thần Hera nhấn mạnh. “Những con người đó nên ra . Ta tự hào về con.”

      Tôi nắm chặt bàn tay lại. Tôi thể tin là bà ta lại có thể nói những điều này. “Chính bà đã trả tiền cho Geryon để chúng tôi qua nông trại đó đúng ?”

      Nữ thần Hera nhún vai. Bộ đồ của bà ta lấp lánh trong sắc màu của cầu vồng. “Ta chỉ muốn giúp mọi người tăng tốc thôi.”

      “Nhưng bà đã hề quan tâm đến Nico. Bà vui sướng khi cậu ta đứng về phía các thần Titan.”

      “Ôi thôi nào.” Nữ thần Hera phẩy tay một cách đầy miệt thị. “Con trai của Hades cũng tự biết mà. ai muốn sự hiện diện của cậu ta cả. Nó thuộc về nơi này.”

      “Thần Hephaestus đã đúng. Bà chỉ quan tâm đến cái gia ̀nh hoàn hảo của bà mà thôi, chứ quan tâm đến con người thực sự.” Tôi hét lên

      Đôi mắt nữ thần bỗng rực sáng đầy nguy hiểm. “Cẩn thận đấy, con trai của Poseidon. Trong mê cung, ta dẫn đường cho ngươi nhiều hơn những gì ngươi biết. Ta về phe ngươi khi ngươi đối mặt với Geryon. Ta giúp cho mũi tên của ngươi bay thẳng hướng. Ta đưa ngươi tới đảo của Calypso. Ta mở đường cho ngươi đến ngọn núi của các thần Titan. Annabeth, con , con thấy ta đã giúp đỡ thế nào chưa? Ta sẽ rất vui nếu có một vật hiến tế cho những nỗ lực của ta.”

      Annabeth đứng ngây như tượng. Có thể ấy đã nói lời cám ơn. Có thể đã hứa sẽ tổ chức buổi nướng thịt ngoài trời cho nữ thần Hera và quên hết mọi chuyện. Nhưng Annabeth nghiến chặt răng ngoan ́. Trông vẻ mặt ấy hệt như khi đối mặt với con Nhân sư – ấy sẽ chấp nhận trả lời một cách dễ dàng, cho dù nó có thể mang lại cho biết bao phiền toái. Tôi nhận ra đó là một trong những điều tôi thích nhất ở Annabeth.

      “Percy nói đúng.” Annabeth quay lưng về phía nữ thần. “Bà mới chính là người thừa, nữ hoàng Hera ạ. Vì vậy lần sau, xin cám ơn... à mà thôi, xin khỏi.”

      Nụ cười mỉa mai của nữ thần Hera còn tệ hơn của ả empousa. Thân hình bà bắt đầu rực sáng. “Ngươi sẽ phải hối tiếc vì sự lăng mạ này, Annabeth. Ngươi sẽ phải hối tiếc rất nhiều.”

      Tôi ngoảnh khi nữ thần Hera trở về hình dạng thánh thần thực sự và biến mất trong vệt sáng chói lòa.

      ̉nh đồi bình yên trở lại. Phía cây thông, con rồng Peleus vẫn ngủ dưới Bộ Lông Cừu Vàng như thể hề có chuyện gì xảy ra.

      “Tớ... tớ xin lỗi,” Annabeth nói với tôi. “Tớ phải quay lại thôi. Tớ sẽ giữ liên lạc với cậu.”

      “Nghe này Annabeth...” Tôi nghĩ về ngọn núi St. Helen, về hòn đảo Calypso, về Luke, Rachel Elizabeth Dare và về việc mọi chuyện bỗng nhiên trở nên phức tạp thế nào. Tôi muốn nói với Annabeth rằng tôi thật sự muốn trở nên xa cách với ấy.

      Rồi Argus bóp còi xe dưới đường và tôi đã bỏ mất cơ hội.

      “Cậu nên ,” Annabeth nói. “Cẩn thận nhé, Óc Tảo Biển.”

      ấy chạy xuống đồi. Tôi nhìn theo cho đến khi ấy vào trong nhà mình. Annabeth ngoái lại lấy một lần.

      Hai ngày sau là sinh nhật tôi. Tôi chưa bao giờ báo cho mọi người vì ngày sinh nhật rơi đúng kỳ nghỉ hè nên sẽ người bạn nào ở trại có thể đến, và tôi cũng có nhiều bạn là người thường. Ngoài ra, trở nên già cũng chẳng phải điều gì hay ho mà ăn mừng khi tôi đã nhận được Lời Sấm Truyền rằng mình sẽ hủy diệt hoặc cứu lấy thế giới vào năm mười sáu tuổi. Hiện giờ tôi chuẩn bị bước sang tuổi mười lăm và thời gian của tôi đã gần hết.

      Mẹ tổ chức cho tôi một bữa tiệc nhỏ tại căn hộ. Paul Blofis ghé qua nhưng cũng sao vì bác Chiron đã dùng Màn Sương Mù để thuyết phục mọi người tại trường Goode rằng tôi chẳng liên quan gì đến vụ nổ ở phòng học nhạc. Giờ thì Paul và những người làm chứng còn lại tin rằng Kelli là một hoạt náo viên điên loạn và ném bom liều chết, trong khi tôi chỉ là một kẻ ngoài cuộc vô tội đã sợ hãi và bỏ chạy khỏi hiện trường. Tôi vẫn được phép quay trở lại trường làm tân học sinh vào tháng tới. Nếu tôi muốn được lưu trong học bạ là năm nào cũng bị đuổi khỏi trường thì tôi sẽ phải ́ gắng hơn nhiều.

      Tyson cũng đến dự bữa tiệc sinh nhật của tôi và mẹ tôi đã nướng thêm hai chiếc bánh xanh chỉ cho riêng mình cậu ấy. Trong lúc Tyson giúp mẹ tôi thổi những quả bóng thì Paul nhờ tôi giúp việc trong bếp.

      Khi chúng tôi đổ rượu bân, ông nói, “Ta nghe nói mẹ đã đăng kí cho cháu lớp học lái xe mùa thu này.”

      “Vâng, thật tuyệt. Cháu rất háo hức.”

      Thật sự là tôi đã luôn muốn lấy bằng lái xe, nhưng có lẽ tôi chẳng mấy thiết tha với việc đó nữa và Paul cũng nhận ra điều này. Thật lạ là đôi lúc Paul khiến tôi nhớ về bác Chiron, làm sao ông ấy có thể nhìn bạn và biết bạn nghĩ gì. Có lẽ đó là bản năng của một người thầy giáo.

      “Cháu đã trải qua một mùa hè dữ dội,” Paul nói. “Ta đoán cháu đã mất một người rất quan trọng. Và... gặp vấn đề với một gái đúng ?”

      Tôi trố mắt nhìn Paul. “Tại sao chú biết? Có phải mẹ cháu đã...”

      Ông đưa hai tay lên. “Mẹ cháu nói điều gì hết và ta cũng chẳng dò hỏi. Ta chỉ biết điều gì đó bất thường xảy đã ra với cháu thôi, Percy. Có rất nhiều điều thuộc về cháu mà ta thể hiểu. Nhưng ta cũng đã trải qua tuổi mười lăm rồi và ta chỉ suy đoán từ nét mặt của cháu thôi... cháu đã trải qua một giai đoạn khó khăn.”

      Tôi gật đầu. Tôi đã hứa với mẹ rằng sẽ nói với Paul sự thật về mình, nhưng giờ phải lúc. “Cháu đã mất một vài người bạn trong trại,” tôi nói. “Ycháu là tuy phải bạn thân nhưng vẫn...”

      “Ta rất tiếc.”

      “Vâng. Và còn về chuyện có liên quan đến phụ nữ...”

      “Nào.” Paul đưa cho tôi ít rượu bân. “Mừng sinh nhật cháu mười lăm tuổi. Mong tuổi mới tốt lành đến với cháu.”

      Chúng tôi cụng ly nhựa và uống.

      “Percy này. Ta thấy hơi áy náy khi khiến cháu phải bận tâm thêm về điều này,” Paul nói. “Nhưng ta muốn hỏi cháu một điều.”

      “Vâng ạ?”

      “Chuyện về con gái đó.”

      Tôi cau mày. “Ý chú là gì?”

      “Ta nghĩ đến chuyện ngỏ lời cầu hôn mẹ cháu.”

      Tôi suýt đánh rơi ́c rượu. “Ý chú là cưới mẹ cháu ấy à? Chú và mẹ cháu?”

      “Ta có ý như thế. Ý cháu thế nào?”

      “Chú xin phép cháu đấy à?”

      Paul gãi râu mình. “Ta chắc liệu đó có phải là xin phép , nhưng bà ấy là mẹ cháu. Và ta biết cháu cũng đã trải qua nhiều chuyện. Ta sẽ thấy thoải mái nếu như nói chuyện đó với cháu trước. Như hai người đàn ông với nhau.”

      “Hai người đàn ông ư,” tôi nhắc lại. Nghe thật lạ. Tôi nghĩ đến mẹ tôi và Paul, đến việc mẹ tôi cười nhiều hơn mỗi khi có Paul ở bên, đến việc Paul đã phá lệ để xin cho tôi vào trường trung học. Tôi nghe thấy giọng nói của mình vang lên: “Tuyệt đó Paul, ́ lên.”

      Ông ấy cười rất tươi. “Cạn ly nào Percy. Hãy nhập tiệc nào.”

      Tôi chuẩn bị thổi nến thì tiếng chuông cửa vang lên.

      Mẹ tôi cau mày. “Ai vậy nhỉ?”

      Thật là lạ vì khu nhà chúng tôi mới chuyển đến có người gác ̉ng, nhưng ông ấy hề gọi điện báo hay gì cả. Mẹ tôi mở cửa và kinh ngạc.

      Đó là cha tôi. Ông mặc chiếc quần soóc Bermuda, áo sơmi Hawaii và đôi Birkenstocks như mọi khi. Bộ râu đen của ông được cắt tỉa gọn gàng cùng với đôi mắt xanh biển lấp lánh. Ông đội chiếc mũ méo mó được trang trí bằng mồi câu cá. đó có ghi, Chiếc Câu Cá May Mắn Của Hải Vương.

      “Pos...” mẹ tôi ngừng lại. Bà đỏ mặt đến tận chân tóc. “Ừm xin chào.”

      “Xin chào Sally.” Poisedon nói. “Nàng trông vẫn xinh đẹp như mọi khi. Ta có thể vào ?”

      Mẹ tôi kêu một tiếng rõ là “đồng ý” hay “kêu cứu”. Thần Poisedon cho đó là lời đồng ý và bước vào.

      Paul nhìn tới nhìn lui, ́ gắng đọc nét mặt của chúng tôi. Cuối cùng ông ấy cũng bước lên và nói: “Xin chào, tôi là Paul Blofis.”

      Thần Poisedon rướn lông mày khi hai người bắt tay. “Có phải ông nói là Cá Nóc ?”

      “À , thật ra là Blofis.”

      “Ồ, tôi hiểu rồi.” Thần Poisedon nói. “Thật ngại. Tôi khá thích loài cá nóc. Tôi là Poseidon.”

      “Poseidon à. Cái tên nghe thật thú vị.”

      “Tôi rất thích cái tên đấy. Tôi có nhiều cái tên khác nhưng tôi vẫn thích Poseidon hơn.”

      “Giống như tên của vị thần biển cả ấy nhỉ.”

      “Ờ, đại loại như vậy.”

      “Được rồi.” Mẹ tôi cắt ngang. “Mọi người rất vui khi có thể ghé qua đấy. Paul, đây là cha của Percy.”

      “À.” Paul gật đầu, dù trông ông ấy thoải mái cho lắm. “Ra thế.”

      Thần Poseidon mỉm cười với tôi. “Con trai ta đây rồi. Và cả Tyson nữa à. Chào con.”

      “Cha!!!” Tyson nhảy tới và ôm chặt lấy thần Poseidon, suýt chút nữa làm rơi chiếc mũ câu của ông.

      Paul há hốc miệng. Ông quay sang nhìn mẹ tôi. “Tyson là...”

      phải con em đâu.” Mẹ tôi nói. “Đó là câu chuyện dài.”

      “Ta thể bỏ lỡ sinh nhật lần thứ mười lăm của Percy được,” thần Poseidon nói. “Vì sao ư, vì nếu như đây là thành phố Sparta thì hôm nay Percy đã là người đàn ông thực thụ rồi.”

      “Đúng vậy” Paul nói. “Tôi cũng đã từng dạy lịch sử ̉ đại.”

      Đôi mắt thần Poseidon lấp lánh. “Đó là tôi. Lịch sử ̉ đại. Sally, Paul, Tyson... mọi người có phiền nếu tôi mượn Percy một lát?”

      Ông khoác tay qua vai tôi rồi hướng tôi vào phía nhà bếp.

      Khi còn lại hai người. Nụ cười của ông chợt tắt.

      “Con thế nào, con trai của ta?”

      “Con khỏe. Con đoán thế.”

      “Ta đã nghe chuyện rồi.” thần Poseidon nói. “Nhưng ta muốn nghe trực tiếp từ con. Hãy kể cho ta mọi chuyện .

      Tôi kể lại. Mặc dù tôi kể chuyện khá ấp úng nhưng ông vẫn lắng nghe chăm chú. Ánh mắt của ông hề rời chỗ khác, nét mặt ông hề thay đổi trong suốt câu chuyện. Khi tôi kể xong, ông khẽ gật đầu.

      “Vậy là Kronos thực sự quay trở lại sao? lâu nữa một cuộc chiến sẽ ập đến?”

      “Còn Luke thì sao ạ?” tôi hỏi. “Có phải ta đã ra thật rồi ?”

      “Cha biết Percy. Điều đó thật khó chịu.”

      “Nhưng cơ thể ta là người thường. Liệu cha có thể tiêu diệt hắn ta ?”

      Thần Poseidon suy tư. “Người thường ư, có thể. Nhưng có điều gì đó khác thường về Luke, con trai của ta. Ta biết cậu ta đã được chuẩn bị để tiếp đón tiếp linh hồn của thần Titan như thế nào, nhưng cậu ta sẽ dễ dàng bị giết đâu. Nhưng ta e rằng cậu ta sẽ bị giết nếu như chúng ta đưa Kronos quay trở lại ̣a ngục. Ta sẽ phải suy nghĩ thêm về chuyện này. Nhưng thật may là ta còn có những vấn đề riêng nữa.”

      Tôi nhớ những điều mà Tyson đã nói với tôi từ đầu hè. “Những vị thần già của biển cả?”

      “Đúng vậy. Cuộc chiến xảy đến với ta trước, Percy. Ta thể nán lại lâu. Thậm chí ngay cả lúc này đại dương cũng xung đột với chính nó. Đó là tất cả những gì ta có thể làm để giữ cho những cơn cuồng phong và bão táp phá hủy thế giới bề mặt của con, cuộc chiến vô cùng căng thẳng.”

      “Hãy để con xuống đó, hãy để con giúp.”

      Mắt của thần Poseidon nheo lại khi ông cười. “Chưa được đâu con trai. Ta có cảm giác mọi người sẽ cần có con ở đây. Nó làm ta nhớ đến...” Ông lấy ra một đồng sand dollar và dúi nó vào tay tôi. “Quà sinh nhật của con. Nhớ chi tiêu đúng mực

      “Hả, chi tiêu bằng sand dollar sao?”

      “Đúng vậy, thời của ta một đồng sand dollar có thể mua được rất nhiều thứ. Ta nghĩ con vẫn có thể mua được nhiều thứ với nó nếu như con dùng đúng lúc.”

      “Lúc nào ạ?”

      “Khi thời điểm đến,” thần Poseidon nói. “Ta nghĩ con sẽ biết.”

      Tôi nắm đồng sand dollar trong tay nhưng có điều gì đó làm tôi băn khoăn.

      “Cha” tôi nói. “Khi con ở trong mê cung, con đã gặp Antaeus. ta nói... ta nói rằng ta là con trai cưng của cha. ta trang trí vũ đài thi đấu bằng đầu lâu và...”

      “Nó đã dâng lên cho ta,” thần Poseidon nói. “Và con băn khoăn tại sao lại có người làm một chuyện khủng khiếp như vậy dưới tên của ta đúng ?”

      Tôi miễn cưỡng gật đầu.

      Thần Poseidon đặt bàn tay chai sạn lên vai tôi. “Percy này, những kẻ thấp bé làm những điều tồi tệ nhân danh thánh thần. Điều đó có nghĩa các vị thần chúng ta đồng ý với điều đó. Cách mà con cái chúng ta hành động nhân danh tên chúng ta... ừm, nó thường chỉ rõ hơn về chính bản thân chúng hơn là của chúng ta. Và con, Percy, con mới là đứa con trai mà ta quý nhất.”

      Ông mỉm cười, và giây phút ấy, được ở cạnh ông trong căn bếp đã là món quà sinh nhật tuyệt vời nhất mà tôi nhận được. Tiếng mẹ tôi vang lên trong trong phòng khách: “Percy ơi, nến chảy ra rồi kìa.”

      “Con ra ngoài đó ,” thần Poseidon nói. “Nhưng Percy này, có một điều cuối cùng mà con cần biết. Việc ở núi St Helens...”

      Lúc đó tôi tưởng rằng ông ấy sẽ nói về việc Annabeth hôn tôi và tôi đỏ mặt. Nhưng rồi tôi nhận ra ông nói về một điều quan trọng hơn rất nhiều.

      “Núi lửa vẫn tiếp tục phun trào,” ông nói. “Typhon cựa mình. Rất có thể sẽ sớm thôi, trong vài tháng hoặc nhiều nhất là một năm, hắn sẽ thoát khỏi xiềng xích.”

      “Con xin lỗi,” tôi nói. “Con ́ ý.”

      Thần Poseidon đưa tay lên. “Đó phải lỗi của con, Percy ạ. Chuyện đó sớm muộn gì cũng xảy ra, với việc Kronos đánh thức những con quái vật ̉ đại. Nhưng hãy thận trọng, nếu như Typhon cựa mình... nó sẽ ư bất cứ thứ gì con đã đối mặt trước đó. Trước đây trong lần đầu hắn xuất hiện, tất cả sức mạnh của núi Olympus cũng đủ để hạ hắn. Và lần này khi hắn cựa mình trở lại, hắn sẽ đến đây, đến New York. Rồi hắn sẽ thẳng tiến đến ̉nh Olympus.

      Đó quả là một cái tin tuyệt vời dành cho ngày sinh nhật của tôi, nhưng thần Poseidon vỗ lên vai tôi như thể mọi chuyện vẫn vô cùng ổn thỏa. “Cha phải đây. Ăn bánh ngon nhé.”

      Và thế là ông biến thành bụi nước và bay ra ngoài cửa sổ trong cơn gió biển ấm áp.

      Tôi phải mất một chút công sức để thuyết phục Paul tin rằng cha tôi đã ra bằng thang thoát hiểm. Nhưng vì con người thể tan biến vào trong hư vô được nên ông ấy đành phải tin như vậy.

      Chúng tôi ăn bánh ngọt màu xanh và kem cho đến khi no căng. Sau đó chúng tôi chơi những trò như đố chữ và cờ tỉ phú. Tyson giỏi chơi trò đoán chữ. Thay vì phải giữ bí mật thì nó lại cứ gào lên kết quả. Nhưng cậu nhóc chơi trò cờ tỉ phú rất giỏi. Cậu ấy đã đánh bại tôi sau đúng năm vòng đầu và sau đó khiến mẹ tôi và Paul phá sản. Tôi để họ chơi và vào phòng ngủ.

      Tôi đặt một lát bánh xanh chưa ăn lên mặt tủ và tháo dây chuyền của Trại Con Lai đặt thành cửa sổ. dây có ba hạt cườm tượng trưng cho ba mùa hè ở trại: một cái đinh ba, Lông Cừu Vàng, và một cái gần đây nhất: mê cung rối rắm – biểu tượng cho Cuộc chiến ở Mê Cung, như các trại viên bắt đầu gọi. Tôi suy nghĩ biết hạt của năm sau sẽ trông thế nào nếu như tôi vẫn còn cơ hội giành thêm một hạt. Nếu như trại tồn tại được đến hè năm sau.

      Tôi nhìn chiếc điện thoại cạnh giường. Tôi ̣nh gọi điện cho Rachel Elizabeth Dare. Khi mẹ hỏi tôi có muốn gọi ai đến bữa tiệc tối nay nữa , tôi đã nghĩ đến Rachel. Nhưng tôi đã gọi. Tôi hiểu tại sao. Ý nghĩ đó khiến tôi lo lắng như khi mình đứng trước cánh cửa bước vào Mê Cung.

      Tôi vỗ lên túi quần và lôi mọi thứ ra – Thủy Triều, khăn giấy Kleenex và chìa khóa căn hộ. Và tôi sờ thấy một cục nhỏ khi vỗ lên túi áo. Tôi thậm chí nhận ra tôi mặc chiếc áo cotton trắng mà Calypso tặng tôi ở Ogygia. Tôi lấy ra một mảnh vải nhỏ, tháo ra và thấy một hạt giống cây Mảnh Trăng. Đó là một chồi non nhỏ xíu đã khô cong sau hai tháng nhưng tôi vẫn ngửi thấy mùi hương thoang thoảng của khu vườn ma thuật đó. Nó khiến tôi buồn.

      Tôi nhớ lại cầu cuối cùng của Calypso: Hãy trồng một khu vườn ở Manhattan cho tôi nhé, được ? Tôi mở cửa sổ và bước ra lối thoát hiểm.

      Mẹ tôi có giữ một hộp trồng cây ở ngoài đó. Vào mùa xuân bà thường trồng hoa vào đấy nhưng bây giờ chỉ toàn đất là đất, chúng chờ đợi một điều mới đến. Bầu trời đêm hôm đó thật trong, mặt trăng tròn trịa chiếu con đường số 82. Tôi trồng chồi khô của cây Mảnh Trăng vào đấy rồi phun một ít rượu thánh từ bình nước trại.

      Lúc đầu chẳng có điều gì xảy ra.

      Sau đó, một thân cây bạc nhỏ xíu nhú lên từ mặt đất. Một cây Mảnh Trăng bé tẹo sáng lấp lánh trong một buổi tối mùa hè ấm áp.

      “Cây đẹp đấy,” một giọng nói vang lên.

      Tôi giật mình. Nico Di Angelo đứng ở cửa thoát hiểm ngay sát tôi. Cậu ta vừa mới xuất hiện ở đó.

      “Xin lỗi,” cậu ta nói. “ ́ ý làm giật mình.”

      ... sao cả. Em làm gì ở đây vậy?”

      Nico đã cao hơn một chút trong vài tháng vừa qua. Mái tóc cậu ta là một mớ bờm xờm màu đen. Cậu ta mặc áo phông đen, quần jean đen và đeo một cái nhẫn bạc mới có hình đầu lâu. Thanh kiếm sắt Stygian màu đen được đeo bên hông.

      “Em đã thực hiện được một vài cuộc thăm dò,” cậu ta nói. “Em nghĩ muốn biết chuyện này, Daedalus đã bị trừng phạt rồi.”

      “Cậu gặp ông ấy rồi sao?”

      Nico gật đầu. “Minos muốn đun sôi ông ấy trong nước sốt bơ mãi mãi, nhưng cha em lại có ý khác. Deadalus sẽ xây cầu vượt và các dốc ra ở Asphodel. Nó sẽ giúp giảm tình trạng ách tắc giao thông. Thật sự em nghĩ ông ấy rất thích thú với ý tưởng đó. Ông ấy vẫn xây dựng. Vẫn sáng tạo. Và ông ấy được gặp con trai và Perdix vào dịp cuối tuần.”

      “Tốt lắm.”

      Nico gõ nhẹ lên chiếc nhẫn bạc. “Nhưng đó phải lý do em đến đây. Em đã tìm ra vài thứ. Em muốn cho một vài gợi ý.”

      “Gì cơ?”

      “Cách đánh lại Luke,” cậu ấy nói. “Nếu em đúng, đó là cách duy nhất sẽ có cơ hội.”

      Tôi hít một hơi thật sâu. “Được rồi, lắng nghe đây.”

      Ni vào bên trong phòng tôi. Cậu ta nhíu mày. “Đó... đó có phải bánh sinh nhật màu xanh ?”

      Cậu ta có vẻ đói, dường như hơi chút thèm khát. Tôi tự hỏi biết liệu cậu bé đáng thương ấy có bao giờ được tổ chức sinh nhật , hay thậm chí chỉ là được mời đến dự một bữa tiệc sinh nhật...

      “Vào bên trong ăn bánh ngọt và kem ,” tôi nói. “Có vẻ như chúng ta có rất nhiều chuyện để nói đấy.”


      Chú Thích:


      1: Một loại trống được làm bằng da linh dương xuất xứ từ xứ châu Phi, được gõ bằng tay. (ND)

      2: Nữ thần của sự hoang vu, điêu tàn, ma thuật, thuật. (ND)

      3: Dấu bằng sắt nung đóng vào vai tội nhân. (ND)

      4: Froot Loops là nhãn hiệu của loại ngũ ́c ăn sáng được sản xuất bởi Kellogg’s và được bán ở Áo, Ấn Độ, Úc, Canada, New Zealand, Mỹ, Hàn Quốc, Đức, Trung Đông, các nước vùng biển Caribbea, Nam Phi và các nước châu Mỹ Latinh. (ND)

      5: Là một quả bóng bằng thép nặng, thường được treo đầu cần cẩu, được sử dụng để phá dỡ công trình lớn. Nó đã được phổ biến nhất trong những năm 1950 và 1960. (ND)

      6: Trong thần thoại La Mã, thần Janus cai quản sự khởi đầu và kết thúc. Và bởi thế nên Janus lại có 2 khuôn mặt, một nhìn về phía trước và một nhìn về phía sau. Nghĩa là mọi sự khởi đầu và kết thúc đều được tạo thành từ cả quá khứ và tương lai.

      7: Là thần của các giấc mơ theo thần thoại Hy Lạp, người đứng đầu Oneiroi. Morpheus có khả năng biến thành bất cứ hình dáng con người nào và xuất hiện trong các giấc mơ. (ND)

      8: Đảo Alcatraz (đôi khi gọi đơn giản là Alcatraz hay Núi Đá) là một hòn đảo nằm giữa vịnh San Francisco, thuộc ̣a phận San Francisco, tiểu bang California, Hoa Kỳ. Hòn đảo này từng là hải đăng, sau đó là một đồng lũy quân đội, sau nữa là nhà tù quân đội, nhà tù liên bang nổi tiếng của Hoa Kỳ. Năm 1972, hòn đảo này trở thành một khu vực giải trí quốc gia, là nơi du lịch. Ngày nay, hòn đảo này là một phần của khu giải trí quốc gia ̉ng Vàng. (ND)

      9. Là một trong các vị thần ban sơ, được người Hy Lạp tôn thờ là “đất mẹ”, tượng trưng cho mặt đất. Ga là vị th̀n thuở ban sơ và được coi như một vị thần phủ trong thần thoại Hy Lạp. Bà được tôn kính như nữ thần vĩ đại hay như nữ thần mẹ. (ND)

      10. Trong thần thoại Hy Lạp ông được coi là “cha trời”, bản thân ông là con và cũng là chồng của Gaea, mẹ đất. Ouranos và Gaea được coi là tổ tông của hầu hết các vị thần Hy Lạp nhưng được thờ cúng. (ND)

      11: Frank Lloyd Wright (1867-1959) là một trong những kiến trúc sư có ảnh hưởng nhất trong thê kỷ 20. Phong cách kiến trúc của ông thể hiện rõ nhất qua kiến trúc của Viện bảo tàng Guggenheim ở New York. Phong cách của ông được xác ̣nh là một phong cách kiến trúc mang lại nhiều cảm xúc và sự nhạy cảm với môi trường xung quanh. Là một trong những người sáng lập của kiến trúc hiện đại ở Bắc Mỹ, Frank Lloyd Wright chú trọng vào việc sử dụng các công nghệ mới, nguyên vật liệu và kỹ thuật để tạo nên công trình, là hình mẫu cơ bản của các công trình xây dựng trong thế kỷ 20. Trong suốt cuộc đời ông đã thiết kế 1000 đồ án trong đó có 400 đồ án đã được đưa vào xây dựng. (ND)

      12: Arachne là tên một thợ dệt tài hoa trong thần thoại Hy Lạp – La Mã. Quá kiêu ngạo với tài năng của mình, khoe khoang rằng tài năng của mình lớn hơn cả nữ thần trí tuệ, và phủ nhận khi những bạn dệt nói rằng tài năng của mình một phần là sự ban ân của thần linh. Nữ thần đã đến thăm trong hình dạng một bà lão để khuyên nhủ. Bị xúc phạm bởi gái, nữ thần quyết ̣nh mở một cuộc thi đấu giữa hai thợ dệt. Sau cùng đã bị biến thành một con nhện. (ND)

      13: Núi lửa St Helens cao 2.250 mét, nằm trong “vòng cung lửa” bao quanh Thái Bình Dương, cách Portland 88 km về phía đông bắc và là núi lửa hoạt động mạnh nhất trong số 12 núi lửa còn hoạt động của Cascade Range, chuỗi núi lửa trải dài từ bang California đến bang Washington. (ND)

      14: Enchiladas, phát xuất từ Mexico, sau này thì phổ biến sang nhiều nước dùng tiếng Tây Ban Nha khác nữa. Enchiladas được làm bằng tortilla cuộn với rau củ/thịt/hải sản/... sau đó nướng/bỏ lò cùng với pho mát & sốt tương ớt. Khi ăn thì người ta thường dọn kèm với cơm & đậu hầm nhuyễn. (ND)

      15: Trong thần thoại Hy Lạp, nữ thần Hestia còn có tên Vesta, là 1 trong 12 vị thần ̉nh Olympus. Hestia là con của hai vị thần Rhea và Kronos thuộc dòng dõi Titan, và là chị cả của thế hệ các vị thần thứ nhất ̉nh Olympus. Nữ thần là người mà nữ thần Rhea sinh ra đầu tiên và cũng là người mà thần Kronos nôn ra cuối cùng. Nữ thần Hestia là vị thần của bếp lửa, sự quây quần của mọi thành viên trong gia ̀nh, sức khỏ gia ̀nh và nội trợ..., nhưng trước kia là nữ thần của đạo đức, sự tôn trọng, tốt bụng, ngoan đạo và thiện chí. (ND)

      16: Harriet Tubman (sinh Araminta Ross; khoảng 1820 hoặc 1821 – 10 tháng 3 1913) là một người Mỹ gốc Phi, nhà hoạt động nhân đạo hoạt động chống lại chế độ nô lệ người Mỹ gốc Phi, là một điệp viên Liên bang trong nội chiến Hoa Kỳ. Sau khi thoát khỏi ách nô lệ, nơi bà được sinh ra, bà đã tiến hành 13 phi vụ giải cứu hơn 70 nô lệ bằng cách sử dụng mạng lưới các nhà hoạt động chống chế độ nô lệ và các nhà an toàn được gọi là đường sắt ngầm. Sau đó bà đã giúp John Brown tuyển dụng người cho cuộc tấn công của ông ở bến phà Harpers. Thời kỳ sau chiến tranh, bà là nhà đấu tranh cho quyền bầu cử của phụ nữ. (ND)

      17: Carlsbad Caverns là công viên quốc gia của Mỹ, nằm gần Carlsbad, bang New Mexico. Động đá vôi thiên nhiên này có diện tích 1219 m x 190 m và cao 107 m (điêm cao nhất của động). Đây là động lớn thứ 7 thế giới với cách bài trí độc đáo của những loại đá có nhiều hình dạng tuyệt đẹp. (ND)

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :