Cuộc Chiến Chốn Mê Cung - Rick Riordan (Huyền Huyễn)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      X


      Chúng tôi gọi hồn sau khi trời tối, ở một cái hố dài chừng sáu mét ngay phía trước két đựng chất thải. Cái két màu vàng tươi, với một cái mặt cười và một dòng chữ màu đỏ sơn bên cạnh: CÔNG TY DỘI RỬA PHẾ THẢI HẠNH PHÚC. Nó hợp lắm với khí của một cuộc gọi hồn người chết.

      Trăng tròn vằng vặc. Những đám mây bạc trôi lững lờ bầu trời.

      “Giờ này Minos đáng lẽ phải ở đây rồi,” Nico cau mày khó chịu. “Trời đã tối hẳn rồi.”

      “Có thể ông ta bị lạc,” tôi nói đầy hy vọng.

      Nico rót bia và ném thịt nướng vào trong hầm, sau đó bắt đầu niệm chú bằng tiếng Hy Lạp ̉. Ngay lập tức tiếng côn trùng kêu trong rừng im bặt. Trong túi quần, chiếc còi gọi chó làm từ băng của sông Styx càng lúc lạnh, làm một bên chân tôi tê buốt.

      “Bảo cậu ta ngừng lại,” Tyson thì thầm với tôi.

      Một phần trong tôi cũng đồng ý với Tyson. Điều này trái với tự nhiên. Bầu khí ban đêm lạnh lẽo và hăm dọa. Nhưng trước khi tôi kịp nói bất cứ điều gì, những linh hồn đầu tiên đã xuất hiện. Làn khói ̣a ngục rỉ ra từ dưới mặt đất. Các hình bóng đó bắt đầu đậm dần biến thành hình dáng con người. Một cái bóng màu xanh trôi về phía rìa hố và quỳ xuống để uống.

      “Ngăn hắn” Nico nói, gián đoạn lời thần chú. “Chỉ có Bianca mới được uống!”

      Tôi rút thanh Thủy triều ra. Những con ma lui về với tiếng kêu xì xì ngay trước mũi lưỡi kiếm đồng celestial của tôi. Nhưng đã quá muộn để ngăn linh hồn đầu tiên lại. Hắn đã biến thành hình dạng của một người đàn ông có râu trong chiếc áo choàng màu trắng. Hắn đội một vòng bằng vàng đầu, và mặc dù đã chết nhưng đôi mắt hắn vẫn đầy còn toát ra vẻ gian ác.

      “Minos!” Nico nói. “Ngươi làm cái gì thế?”

      “Xin lỗi, chủ nhân,” hồn ma nói, mặc dù hắn chẳng có vẻ gì là xin lỗi cả. “Món hiến tế thơm quá, tôi cầm lòng được.” Hắn giơ tay lên xem xét rồi mỉm cười. “Lại được nhìn thấy chính mình thật là thích! Ở trong hình dạng gần như nguyên vẹn...”

      “Ngươi phá vỡ nghi lễ đấy!” Nico giận dữ. “Biến...”

      Những vong hồn bắt đầu sáng lên, một thứ ánh sáng lờ mờ đầy nguy hiểm, và Nico phải tiếp tục đọc thần chú để giữ cho chúng lại gần.

      “Đúng, làm thế đúng đấy, thưa chủ nhân,” Minos nói với vẻ vui thích. “Ngài cứ tiếp tục đọc thần chú . Tôi tới chỉ để bảo vệ ngài khỏi những kẻ dối trá lừa dối ngài thôi.”

      Hắn quay người nhìn về phía tôi như thể tôi là một loài gián bẩn thỉu nào đó vậy. “Percy Jackson... chà chà. Những đứa con trai của Poseidon qua bao thế kỷ cũng chẳng tiến bộ được mấy nhỉ?”

      Tôi muốn đấm hắn, nhưng tôi nghĩ nắm đấm của tôi sẽ chỉ xuyên qua mặt hắn mà thôi. “Chúng ta tìm Bianca di Angelo,” tôi nói. “Biến .”

      Con ma cười mỉa. “Tao biết mày từng giết con Minotaur của tao bằng tay . Nhưng những thứ kinh khủng hơn đợi mày dưới mê cung đấy. Mày thực sự nghĩ Daedalus sẽ giúp mày à?”

      Những hồn ma khác nhao nhao lên ủng hộ. Annabeth rút dao ra và giúp tôi giữ chúng cách xa khỏi cái hố. Grover thì lo lắng đến nỗi phải bám dính vào vai Tyson.

      “Daedalus chẳng quan tâm gì tới các ngươi đâu, các con lai à,” Minos cảnh báo. “Các ngươi nên tin hắn ta. Hắn ta già khú rồi, và xảo trá nữa. Hắn ta cay đắng với mặc cảm tội lỗi vì đã giết người và bị các vị thần nguyền rủa.”

      “Mặc cảm tội lỗi vì đã giết người ư?” Tôi hỏi. “Ông ấy đã giết ai

      “Đừng có đánh trống lảng!” con ma gầm gừ. “Ngươi cản đường Nico. Ngươi ́ thuyết phục cậu ấy từ bỏ mục ́ch của mình. Ta sẽ biến cậu ấy thành chúa tể!”

      “Đủ rồi, Minos,” Nico ra lệnh.

      Con ma cười nhạt. “Ông chủ, chúng là các kẻ thù của ngài. Ngài được nghe lời chúng! Hãy để tôi bảo vệ ngài! Tôi sẽ biến đầu óc chúng thành điên dại, như tôi đã làm với những kẻ khác.”

      “Những kẻ khác?” Annabeth kinh ngạc. “Ý ngươi là Chris Rodriguez? Hóa ra là ngươi à?”

      “Cái mê cung là tài sản của ta,” con ma nói, “ phải là của Daedalus! Bọn khách mời xứng đáng bị như vậy.”

      , Minos!” Nico ra lệnh. “Ta muốn gặp chị ta!”

      Con ma ́ kiềm chế cơn thịnh nộ. “Xin tuân theo lệnh chủ nhân. Nhưng tôi cảnh báo ngài. Ngài thể tin các vị hùng này được đâu.”

      Sau đó, hắn biến vào màn sương.

      Những linh hồn khác lao về phía trước, nhưng tôi và Annabeth ngăn chúng lại.

      “Bianca, xuất hiện!” Nico ngâm lên. Cậu bé bắt đầu đọc thần chú nhanh hơn, và những linh hồn di chuyển ngừng nghỉ.

      “Bất cứ khi nào,” Grover thầm thì.

      Sau đó một ánh sáng màu bạc lập lòe trong bụi cây – một linh hồn có vẻ sáng hơn và mạnh mẽ hơn những linh hồn khác. Nó tiến tới gần, và có một cái gì đó mách bảo tôi phải cho nó qua. Đốm sáng quỳ xuống và uống nước trong cái hố. Khi ngẩng dậy, nó hiện ra là linh hồn của Bianca di Angelo.

      Những câu niệm chú của Nico ngừng dần. Tôi hạ thanh kiếm xuống. Những linh hồn khác bắt đầu xúm về phía trước, nhưng Bianca giơ hai tay lên, và chúng rút vào rừng.

      “Chào Percy,” ấy nói.

      ấy trông giống hệt như lúc còn sống: một cái mũ lưỡi trai màu xanh lá đội lệch mái tóc đen dày, đôi mắt đen và làn da ô liu giống em trai ấy. ấy mặc quần jeans và một chiếc áo vest bằng bạc, trang phục của Đội Thợ Săn của nữ thần Artemis. Một cây cung được đeo ở một bên vai. ấy mỉm cười yếu ớt, và cả cái bóng của ấy rung lên.

      “Bianca,” tôi nói. Giọng tôi khàhàn. Bấy lâu nay tôi vẫn thấy tội lỗi trước cái chết của ấy, nhưng nhìn thấy ấy ngay trước mặt cảm giác còn kinh khủng gấp năm lần, như thể chuyện vừa mới xảy ra thôi vậy. Tôi vẫn còn nhớ mình đã lục tung cả cái đống đổ nát còn lại của gã chiến binh bằng đồng khổng lồ mà Bianca hi sinh cả thân mình để đánh bại, vậy mà vẫn chẳng thấy tăm hơi ấy ở đâu.

      xin lỗi,” tôi nói.

      chẳng có gì phải xin lỗi cả, Percy. Đó là lựa chọn của em. Em hối hận đâu.”

      “Chị Bianca!” Nico lao ra phía trước như thể vừa mới hết bàng hoàng.

      ấy quay về phía em trai. Trông ấy khá buồn, như thể hoảng sợ thời điểm này vậy. “Chào Nico. Em cao quá nhỉ!”

      “Sao chị trả lời em sớm hơn?” cậu bé gào lên. “Em đã ́ gắng suốt hàng tháng trời!”

      “Còn chị thì hy vọng rằng em sẽ bỏ cuộc.”

      “Bỏ cuộc ư?” Giọng cậu bé nghe như vô cùng đau khổ. “Sao chị có thể nói thế? Em ́ gắng để cứu chị!”

      “Em thể, Nico. Đừng làm thế. Percy nói đúng đấy.”

      , ta để cho chị phải chết! ta phải là bạn chị.”

      Bianca giơ tay ra như để chạm vào mặt cậu em trai, nhưng ấy là sương khói. Tay ấy bốc hơi khi chạm gần đến da con người.

      “Em phải nghe chị,” ấy nói. “Mang trong mình sự oán giận là vô cùng nguy hiểm đối với những đứa con của thần Hades. Đó là sai lầm chí tử của chúng ta. Em cần phải biết tha thứ. Em phải hứa với chị điều này.”

      “Em thể. bao giờ.”

      Percy đã rất lo lắng cho em, Nico. ấy có thể giúp. Chị đã để ấy biết tình hình của em, và hy vọng rằng ấy sẽ tìm thấy em.”

      “Vậy hóa ra chính là em à,” tôi nói. “Em đã gửi những thông điệp Iris đó.”

      Bianca gật đầu.

      “Sao chị lại giúp ta mà phải là em?” Nico gào lên. “Thế là công bằng!”

      “Giờ em đã đến gần với sự thật rồi,” Bianca nói với cậu bé. “ phải em bực mình với Percy, Nico. Mà là với chị.”

      “Em bực bội vì chị đã bỏ em lại, để trở thành Thợ Săn của nữ thần Artemis. Em bực mình vì chị ra để lại em một mình. Chị xin lỗi về điều đó, Nico. Chị thực sự xin lỗi. Nhưng em phải vượt qua được sự bực tức này. Và ngừng việc đổ lỗi cho Percy vì những quyết ̣nh của chị. Vì nó sẽ là cái chết của chính em.”

      ấy nói đúng đấy,” Annabeth chen vào. “Kronos sống lại, Nico. Hắn sẽ lợi dụng bất cứ ai để đạt được mục ́ch.”

      “Tôi chẳng quan tâm Kronos,” Nico nói. “Tôi chỉ muốn chị tôi quay trở lại.”

      “Điều đó là thể, Nico,” Bianca nói nhẹ nhàng.

      “Em là con trai của thần Hades! Em có thể.”

      “Đừng ́,” ấy nói. “Nếu em chị thì đừng...”

      Giọng ấy tắt dần. Các linh hồn bắt đầu tụ tập quanh chúng tôi lần nữa, và dường như chúng hoảng sợ. Những cái bóng lập lòe và cất tiếng thì thầm: Nguy hiểm!

      “Tartarus chuyển động,” Bianca nói. “Sức mạnh của em đã thu hút sự chú ý của Kronos. Đã đến lúc các linh hồn trở về với ̣a Ngục. Bọn chị thể an toàn ở đây được nữa.”

      “Chờ đã,” Nico nói. “Xin chị đấy...”

      “Tạm biệt, Nico,” Bianca nói. “Chị em. Nhớ những lời chị nói nhé.”

      Hình dáng ấy tan dần và những con ma khác cũng biến mất, để lại chúng tôi với một cái hố, một cái thùng rác tự hoại Dội Rửa Hạnh Phúc và một vầng trăng tròn lạnh lẽo.

      Chẳng ai trong chúng tôi thiết tha muốn lên đường đêm hôm đó, vì thế chúng tôi quyết ̣nh chờ đến sáng hôm sau. Grover và tôi gieo mình vào chiếc ghế bành da trong phòng khách của Geryon. Nó thoải mái hơn rất nhiều so với túi ngủ trong mê cung; nhưng nó cũng chẳng thể làm cho cơn ác mộng của tôi tốt hơn chút nào cả.

      Tôi mơ thấy mình cùng Luke xuyên qua lâu đài tối tăm ̉nh Núi Tam. Bây giờ nó thực sự là một tòa nhà – còn là một vài hình ảnh hư hư ảo ảo hoàn chỉnh như tôi thấy hồi mùa đông năm ngoái nữa. Lửa xanh cháy trong những lò than chạy dọc theo tường. Sàn nhà được lót đá cẩm thạch đen sáng bóng. Một ngọn gió lạnh thổi dọc hành lang, bay qua đầu chúng tôi và xuyên qua trần nhà mơầu trời vần vũ với những đám mây xám xịt.

      Luke mặc đồ chiến binh. Hắn mặc một chiếc quần lính, áo phông trắng và giáp che ngực bằng đồng, nhưng thanh kiếm của hắn, thanh Backbiter, lại ở bên – chỉ là cái bao kiếm bỏ . Chúng tôi vào một cái sân nhỏ nơi có hàng tá chiến binh và dracaenae chuẩn bị cho chiến tranh. Khi nhìn thấy hắn, các á thần đứng dậy và tạo sự chú ý. Bọn họ đập kiếm vào khiên uỳnh uỳnh.

      “Giiiiiiờ đã phải lúc chưa, Chúa tể?” một dracaena hỏi.

      “Sắp rồi,” Luke hứa. “Tiếp tục làm việc .”

      “Thưa chúa tể,” một giọng nói vang lên từ đằng sau. Kelli – ả ma nữ cười với hắn. Tối hôm nay ta mặc một bộ đầm xanh, trông ta cực kỳ xinh đẹp. Đôi mắt ta long lanh – lúc thì màu nâu sậm, lúc chỉ hoàn toàn là màu đỏ. Tóc ta được tết ngang lưng và dường như muốn níu lấy ánh sáng từ những cây đuốc, như thể nó nóng lòng được trở lại thành lửa.

      Tim tôi đập thình thịch. Tôi chờ Kelli nhìn thấy tôi và đuổi tôi ra khỏi giấc mơ như ta từng làm trước đây, nhưng có vẻ lần này ta đã chú ý đến tôi.

      có khách đấy,” ta nói với Luke. Kelli bước sang một bên, và ngay cả Luke dường như cũng sững sờ trước những gì hắn nhìn thấy.

      Con quái vật Kampê bay vèo về phía hắn. Những con rắn của Kampê phì phì quanh chân bà ta. Những cái đầu động vật gầm gừ quanh hông mụ. Hai thanh kiếm của bà ta tỏa ra chất độc, và với đôi cánh dơi sải rộng, bà ta chắn hết toàn bộ hành lang.

      “Ngươi.” Giọng Luke có phần run run. “Ta nói ngươi phải ở Alcatraz cơ mà.”

      Mắt Kampê chớp ngang như mắt loài bò sát. Bà ta nói bằng một thứ tiếng kỳ quái, nhưng lần này tôi hiểu, đâu đó từ sâu trong tâm trí tôi: Tôi đến để phục vụ đây. Hãy để tôi trả thù.

      “Ngươi là cai ngục,” Luke nói. “Công việc của ngươi...”

      Tôi sẽ tiêu diệt chúng. ai có thể thoát được.

      Luke chần chừ. Một dòng mồ hôi chảy xuống một bên mặt của hắn ta. “Tốt lắm,” hắn nói. “Ngươi sẽ với chúng ta. Ngươi sẽ mang sợi dây của Ariadne. Đây là niềm vinh dự lớn lao đấy.”

      Kampê hướng lên bầu trời đầy sao và rít phì phì. Mụ ta tra kiếm vào bao và quay dọc hành lang đôi chân rồng khổng lồ.

      “Đáng lẽ chúng ta nên để con quái vật đó ở Tartarus mới phải,” Luke làu bàu. “Mụ ta quá phiền hà. Quá mạnh.”

      Kelli cười nhẹ nhàng. “ được sợ hãi trước sức mạnh, Luke. Hãy sử dụng nó!”

      “Chúng ta phải càng sớm càng tốt,” Luke nói. “Ta muốn kết thúc chuyện này.”

      “Ôi,” Kelli tỏ ra thông cảm, vuốt lên tay hắn ta. “ thấy khó chịu khi phải tiêu diệt chính doanh trại trước đây của mình đúng ?”

      “Ta nói thế.”

      sẽ đổi ý về, gì nhỉ, một phần đặc biệt của chứ?”

      Mặt Luke trở nên sắt đá. “Ta biết nhiệm vụ của mình.”

      “Vậy là tốt,” con quái vật nói. “ có nghĩ đội quân tiên phong của chúng ta đã đủ mạnh chưa? Hay là ta phải gọi Mẹ Hecate đến giúp?”

      “Quá đủ rồi,” Luke tỏ vẻ dứt khoát. “Cuộc thương lượng đã gần như ngã ngũ. Tất cả những gì ta cần bây giờ là qua được đấu trường một cách an toàn.”

      “Ừm,” Kelli nói. “Thú vị đấy. Tôi sẽ rất buồn nếu phải nhìn thấy cái đầu đẹp trai của treo ngọn giáo khi thất bại.”

      “Ta sẽ thất bại. Và , ác quỷ, có việc gì khác để làm à?”

      “Ồ, có chứ.” Kelli mỉm cười. “Tôi sẽ đem niềm tuyệt vọng đến cho kẻ thù nghe lỏm chúng ta. Ta sẽ làm việc đó ngay bây giờ.”

      Mắt ta hướng về phía tôi, để lộ những móng vuốt và rạch vào giấc mơ của tôi.

      Đột nhiên tôi ở một nơi hoàn toàn khác.

      Tôi đứng ̉nh một tòa tháp bằng đá, nhìn ra một vách đá và sâu dưới đó là đại dương bao la. Người đàn ông già Daedalus còng người trước một cái bàn làm việc, đánh vật với một loại dụng cụ hàng hải nào đó giống như chiếc la bàn khổng lồ vậy. Trông ông ta già hơn rất nhiều so với lần cuối cùng tôi gặp ông. Dáng Daedalus còng còng và đôi bàn tay thì nhăn nheo. Ông ta chửi rủa bằng tiếng Hy Lạp ̉ và nheo mắt như thể ông thể nhìn thấy gì, mặc dù lúc đó trời nắng.

      “Chú!” một giọng nói

      Một cậu bé khoảng bằng tuổi Nico tươi cười lao tới, mang theo một cái hộp làm bằng gỗ.

      “Chào, Perdix,” người đàn ông già nói, mặc dù nghe giọng ông vẫn rất lạnh lùng. “Đã xong việc rồi à?”

      “Vâng thưa chú. Dễ quá mà!”

      Daedalus quạu lại. “Dễ à? Đem nước lên đồi trong khi có lấy một cái bơm là dễ sao?”

      “Vâng, đúng thế. Nhìn này!”

      Cậu bé thả chiếc hộp và lục lọi đống đồ lổn nhổn bên trong. Cậu nhóc lôi ra một cuộn giấy cói và đưa cho nhà phát minh già xem một vài biểu đồ và ghi chú. Chúng chẳng có ý nghĩa gì với tôi, nhưng Daedalus thì gật đầu miễn cưỡng. “Ta thấy rồi. tệ.”

      “Nhà vua thích nó!” Perdix nói. “Ông ấy nói cháu có thể còn thông minh hơn chú đấy!”

      “Ông ta nói vậy sao?”

      “Nhưng cháu tin điều đó. Cháu rất vui vì Mẹ gởi cháu đến học với chú! Cháu muốn biết tất cả những gì chú biết.”

      “Đúng,” Daedalus lẩm bẩm. “Và khi ta chết, cậu có thể thay thế ta đúng ?”

      Mắt cậu bé mở to. “À chú ơi! Nhưng cháu nghĩ... tại sao con người lại phải chết nhỉ?”

      Nhà phát minh nổi quạu: “Mọi việc được sắp đặt như vậy. Mọi người đều phải chết, trừ các vị thần.”

      “Nhưng tại sao?” cậu bé vẫn khăng khăng hỏi. “Nếu chú có thể bắt được animus, một dạng khác của linh hồn... Ừm, phải chú đã kể với cháu về những người máy của chú sao? Những con bò, đại bàng, rồng và ngựa bằng đồng. Vậy tại sao lại có người đồng?”

      , cậu bé của ta,” Daedalus nói giọng đanh sắc. “Cậu ngây thơ quá. thể có chuyện đó được.”

      “Cháu nghĩ thế,” Perdix vẫn cứ khăng khăng. “Với một chút ma thuật thôi...”

      “Ma thuật? Chà!”

      “Vâng thưa chú! Ma thuật và cơ khí cùng nhau – chỉ cần một chút công sức, chúng ta có thể tạo ra một cơ thể giống hệt con người, chỉ có điều mạnh hơn thôi. Cháu đã viết ra một vài ghi chú về điều đó

      Cậu ta đưa cho người đàn ông già một cuộn giấy dày. Daedalus mở nó ra. Ông đọc nó rất lâu. Đôi mắt ông nheo lại. Ông liếc nhìn chàng trai, rồi cuộn tờ giấy lại và hắng giọng. “Chẳng có tác dụng gì đâu, cậu bé của ta. Khi lớn lên cậu sẽ hiểu.”

      “Thế cháu có thể sửa ̃a trắc cao thiên văn kia nhé chú? Các khớp xương của chú có lại sưng lên nữa ?”

      Người đàn ông già nghiến chặt răng. “, cảm ơn. Giờ sao cậu còn chưa ?”

      Perdix dường như chẳng để ý đến sự tức giận của người đàn ông già. Cậu ta lôi một con bọ cánh cứng màu đồng trong đống đồ của mình và chạy tới rìa tòa tháp. Một ngưỡng cửa bao quanh và cao đến đầu gối cậu nhóc. Gió thổi rất mạnh.

      Lùi lại, tôi muốn nói với cậu bé như thế, nhưng tôi thể cất giọng lên.

      Perdix vặn dây cót và tung con bọ lên trời. Nó xòe cánh và vo ve bay mất. Perdix cười đầy sung sướng.

      “Thông minh hơn ta à,” Daedalus lẩm bẩm, nhưng quá nhỏ nên cậu bé nghe thấy.

      “Có đúng là con trai chú đã chết khi bay ? Cháu nghe mọi người nói rằng chú đã làm một đôi cánh khổng lồ cho cậu ấy nhưng nó đã bị hỏng.”

      Hai bàn tay của Daedalus siết chặt lại. “Thay vị trí của ta,” ông ta lẩm bẩm.

      Gió quất từng hồi quanh cậu bé, kéo giật quần áo và làm đầu tóc cậu xác xơ.

      “Cháu cũng muốn bay,” Perdix nói. “Cháu sẽ tự làm cho mình một đôi cánh bao giờ rơi. Chú nghĩ cháu có làm được ?”

      Có lẽ đó chỉ là một giấc mơ trong giấc mơ của tôi, nhưng đột nhiên tôi tưởng tượng vị thần hai đầu Janus hiện ra lờ mờ trong khí bên cạnh Daedalus, mỉm cười khi ông ta tung qua tung lại chiếc chìa khóa bạc. Chọn , ông ta thì thầm vào tai nhà phát minh già. Hãy chọn .

      Daedalus nhặt một con bọ bằng kim loại khác của cậu bé lên. Mắt nhà phát minh già đỏ lên vì giận dữ.

      “Perdix,” ông ta gọi. “Bắt lấy.”

      Ông tung con bọ cánh cứng bằng đồng về phía cậu bé. Vui sướng, Perdix ́ bắt lấy nó, nhưng cú ném quá xa. Con bọ bay lên trời và Perdix đã phải với hơi xa. Cậu bé bị gió thổi tu

      Bằng cách nào đó cậu bé chộp lấy được mép tòa tháp khi ngã xuống. “Chú!” Perdix gào thét. “Cứu cháu!”

      Người đàn ông già mặt hề đổi sắc. Ông ta chẳng nhúc nhích một phân.

      ́ lên, Perdix,” Daedalus nói nhẹ nhàng. “Hãy tự làm cho mình đôi cánh . Nhanh lên.”

      “Chú!” cậu bé khóc thét khi tuột tay khỏi rìa tòa tháp. Cậu ta bị thổi bay ra biển.

      Một khoảnh khắc yên lặng đến chết người. Thần Janus mờ dần và biến mất. Rồi sấm nổ vang bầu trời. Một giọng phụ nữ nghiêm nghị từ cao vọng xuống: Ngươi sẽ trả giá vì điều đó, Daedalus.

      Tôi đã nghe thấy giọng nói này trước đây. Đó là mẹ của Annabeth: nữ thần Athena.

      Daedalus giận dữ nhìn lên bầu trời. “Tôi luôn tôn vinh người, Mẹ. Tôi đã hi sinh mọi thứ để theo người.”

      Nhưng cậu bé cũng được nhận phúc lành của ta. Và ngươi đã giết nó. Vì thế, ngươi phải trả giá.

      “Ta đã phải trả giá rồi đó thôi!” Daedalus gầm lên. “Ta đã mất tất cả. Ta sẽ phải chịu đau khổ dưới ̣a Ngục thôi, chắc chắn thế. Nhưng trong khi chờ đợi...”

      Ông ta nhặt cuộn giấy của cậu bé lên, nhìn kỹ nó một lúc rồi đút nó vào tay áo.

      Ngươi hiểu đâu, nữ thần Athena nói một cách lạnh lùng. Ngươi sẽ phải trả giá, bây giờ và mãi mãi.

      Daedalus bỗng nhiên đổ sụp xuống trong đau đớn. Tôi cảm nhận được những gì ông ấy cảm nhận. Một cảm giác đau đớn đến khô héo quấn quanh ̉ tôi giống như chiếc vòng ̉ làm bằng kim loại nấu chảy. Nó làm tôi nghẹt thở, mọi thứ chuyển dần thành một màu đen kịt.

      Tôi bật dậy trong bóng tối, hai tay ôm lấy ̉.

      “Percy?” Grover gọi từ phía chiếc sô pha còn lại. “Cậu ổn chứ?”

      Tôi điều chỉnh nhịp thở của mình. Tôi biết phải trả lời như thế nào nữa. Tôi vừa chứng kiến người chúng tôi tìm kiếm, Daedalus, giết chết chính đứa cháu của mình. Thế thì sao tôi ổn được? Ti vi vẫn bật. Ánh sáng xanh của nó lập lòe trong căn phòng.

      “Mấy... mấy giờ rồi?” tôi thều tha

      “Hai giờ sáng,” Grover nói. “Tớ ngủ được. Tớ xem Kênh Tự nhiên.” Cậu ấy khịt mũi. “Tớ nhớ Juniper.”

      Tôi dụi dụi mắt cho tỉnh ngủ. “Ừ, được rồi,... cậu sẽ sớm gặp lại ấy thôi.”

      Grover lắc đầu buồn bã. “Cậu có biết ngày nào rồi , Percy? Tớ vừa nhìn thấy ti vi. Hôm nay là ngày mười ba tháng Sáu. Đã bảy ngày kể từ khi chúng ta rời trại rồi.”

      “Cái gì?” Tôi sửng sốt. “ thể như thế được.”

      “Thời gian trôi nhanh hơn khi ở trong Mê Cung,” Grover nhắc tôi. “Lần đầu tiên cậu và Annabeth xuống dưới đó, cậu nghĩ các cậu chỉ có vài phút đúng ? Nhưng thực ra đã là cả tiếng đồng hồ đấy.”

      “Ừ,” tôi nói. “Đúng thật.” Rồi sau đó tôi nhận ra những gì cậu ấy nói, ̉ tôi lại nóng lên rừng rực. “Thời hạn của cậu với Hội đồng Trưởng Lão.”

      Grover cho cái điều khiển ti vi vào miệng và nhai đến hết. “Tớ hết giờ rồi,” cậu ta nói với cái mồm đầy mảnh nhựa. “Ngay khi tớ quay lại, họ sẽ tước giấy phép tìm kiếm của tớ. Tớ sẽ chẳng bao giờ được phép ra ngoài nữa.”

      “Chúng ta sẽ nói chuyện với họ,” tôi hứa với cậu ấy. “Để họ cho cậu thêm thời gian.”

      Grover nuốt cái điều khiển. “Họ sẽ chẳng bao giờ đồng ý đâu. Thế giới chết dần, Percy. Mỗi ngày nó lại trở nên tồi tệ hơn. Thiên nhiên... tớ cảm thấy nó héo mòn dần. Tớ phải tìm thần Pan.”

      “Cậu sẽ tìm được, bạn ạ. Chắc chắn là như thế.”

      Grover nhìn tôi với đôi mắt dê buồn rười rượi. “Cậu luôn là người bạn tốt, Percy. Những gì cậu làm hôm nay – cứu cả trại gia súc khỏi tay Geryon – điều đó thật tuyệt vời. Tớ... tớ ước gì được giống như cậu.”

      “Này,” tôi nói. “Đừng có nói thế. Cậu cũng rất hùng đấy chứ...”

      , đâu. Tớ đã ́ lắm, nhưng...” Cậu ấy thở dài. “Percy, tớ thể quay về trại mà tìm được thần Pan. thể. Cậu hiểu điều đó, đúng ? Tớ thể nhìn mặt Juniper nếu tớ thất bại. Tớ cũng còn mặt mũi nào đối diện với chính mình nữa.”

      Giọng cậu ấy đau khổ đến nỗi làm người he cũng thấy đau. Chúng tôi đã cùng nhau trải qua bao nhiêu chuyện, nhưng tôi chưa bao giờ thấy cậu ấy sầu não đến như vậy.

      “Chúng ta sẽ tìm được cái gì đó,” tôi nói. “Cậu chưa bao giờ thất bại. Cậu là một chàng dê vô ̣ch, đúng nào? Juniper biết điều đó. Tớ cũng thế.”

      Grover nhắm mắt. “ chàng dê vô ̣ch à,” cậu ấy lẩm bẩm một cách chán nản.

      Sau khi cậu ấy đã ngủ một lúc lâu, tôi vẫn còn thức, mắt nhìn chăm chăm vào ánh sáng xanh phát ra từ Kênh Tự nhiên phủ lên những cái đầu thú nhồi treo tường nhà Geryon.

      Sáng hôm sau, chúng tôi bộ tới chỗ người canh gia súc để nói lời tạm biệt.

      “Nico, em có thể với bọn ,” tôi buột miệng nói. Tôi đoán lúc đó tôi nghĩ về giấc mơ, và cậu bé Perdix làm tôi nhớ đến Nico.

      Cậu ta lắc đầu. Tôi nghĩ tối qua chẳng ai trong chúng tôi có thể ngủ ngon trong một trại chăn nuôi của quái vật, nhưng trông Nico là tệ hơn cả. Mắt cậu ta đỏ ngàu và khuôn mặt thì trắng bệch. Cậu bé khoác mình một chiếc áo choàng màu đen, có lẽ trước đó thuộc về Geryon, vì ngay cả với một người trưởng thành thì chiếc áo cũng rộng hơn ba cỡ.

      “Tôi cần thời gian để suy nghĩ.” Cậu ta nhìn vào mắt tôi, nhưng nghe giọng nói tôi biết cậu bé vẫn còn tức giận. Sự thật rằng chị gái cậu ấy đã ra khỏi ̣a Ngục vì tôi chứ phải vì cậu ta dường như là điều mà cậu bé thể chấp nhận được.

      “Nico,” Annabeth nói. “Bianca chỉ muốn những điều tốt đẹp cho em.”

      ấy đặt một tay lên vai cậu bé, nhưng Nico đã tránh và quay người lê bước chậm chạp về phía nhà trệt. Có thể đó chỉ là tưởng tượng của tôi, nhưng dường như sương mù buổi sớm bám vào người Nico khi cậu bé bước .

      “Tớ lo cho thằng bé,” Annabeth nói với tôi. “Nếu cậu ta lại nói chuyện với hồn ma Minos nữa thì...”

      “Cậu bé sẽ ổn thôi,” Eurytion hứa. chàng chăn bò giờ trông đã gọn gàng sạch sẽ. ta mặc quần jean mới và áo sơ mi kiểu miền Tây sạch sẽ. Thậm chí ta còn cắt tỉa râu và đôi ủng của Geryon. “Cậu nhóc có thể ở đây suy nghĩ đến bao giờ cũng được. Cậu ta sẽ được an toàn. Tôi hứa.”

      “Còn thì sao

      Eurytion gãi gãi vào một bên cằm Orthus. “Từ giờ mọi chuyện ở đây sẽ khác một chút. Sẽ còn việc bán hay ăn thịt gia súc hiến tế nữa. Tôi nghĩ đến những chiếc bánh hamburger nhân đậu nành. Và tôi sẽ đối xử tốt với những con ngựa ăn thịt kia. Có lẽ nên đăng ký tham gia cuộc thi chăn bò lần tới nhỉ?”

      Một ý kiến khiến tôi rùng mình. “Ừm, chúc may mắn.”

      “Ờ.” Eurytion nhổ xuống cỏ. “Tôi nghĩ giờ cậu sẽ tìm xưởng của Daedalus đúng ?”

      Annabeth mắt sáng lên. “ giúp chúng tôi được ?”

      Eurytion nghiên cứu tấm lưới ngăn gia súc, và tôi cảm giác chủ đề về xưởng của Daedalus khiến ta khó chịu. “Tôi biết nó ở đâu. Nhưng thần Hephaestus chắc chắn biết.”

      “Đó là những gì nữ thần Hera đã nói,” Annabeth đồng ý. “Nhưng bọn em tìm thần Hephaestus bằng cách nào đây?”

      Eurytion lôi cái gì đó bên dưới ̉ áo sơmi ra. Đó là một cái vòng ̉ – một cái mặt bằng bạc bóng láng cùng một sợi dây chuyền bạc. Mặt dây có một vết lõm ở chính giữa, giống như một dấu điểm chỉ tay. ta đưa nó cho Annabeth.

      “Thần Hephaestus thỉnh thoảng lại đến đây,” Eurytion nói. “Để tìm hiểu về lũ động vật và từ đó tạo ra những bản sao của chúng bằng đồng. Lần trước, tôi... ờ... đã giúp ông ấy một lần. Một trò nhỏ mà ông ấy muốn để chơi xỏ cha tôi – thần Ares và nữ thần Aphrodite. Ông ấy đã đưa cho tôi sợi dây để thể hiện lòng biết ơn. Nói rằng nếu tôi có cần tìm gặp, mặt dây chuyền sẽ dẫn tôi đến lò rèn của ông ấy. Nhưng chỉ được một lần duy nhất thôi.”

      “Và bây giờ tặng nó cho tôi?” Annabeth hỏi.

      Eurytion đỏ mặt. “Tôi muốn đến thăm cái lò rèn đó đâu, quý . Có đủ việc phải làm ở đây rồi. Chỉ cần ấn nút và các cậu sẽ tới được đó.”

      Annabeth ấn nút và chiếc ̃a biến thành một thực thể sống. Nó mọc ra tám cái chân bằng kim loại. Annabeth rùng mình và đánh rơi nó xuống đất trước sự lúng túng của Eurytion.

      “Nhện!” ấy hét lên.

      ấy, ừm, ấy hơi sợ nhện,” Grover giải thích. “Mối hận thù ngày xưa giữa nữ thần Athena và Arachne2).”

      “Ôi.” Trông Eurytion có vẻ ngượng ngùng. “Xin lỗi, quý .”

      Con nhện bò tới chỗ tấm lưới ngăn gia súc và biến mất giữa các chấn song.

      “Nhanh lên nào,” tôi nói. “Nó sẽ chờ đợi chúng ta đâu.”

      Annabeth ngần ngại muốn theo, nhưng chúng tôi còn lựa chọn nào khác. Chúng tôi chào tạm biệt Eurytion, Tyson kéo tấm chắn ra khỏi cái lỗ, và chúng tôi quay trở lại mê cung.

      Tôi ước gì mình có thể xích ̉ cái con nhện bằng kim loại đó lại. Nó chạy thoăn thoắt trong các đường hầm, hầu như tôi chẳng bao giờ nhìn thấy nó cả. Nếu nhờ khả năng nghe tuyệt vời của Tyson và Grover thì chúng tôi sẽ chẳng bao giờ biết đường nào mà .

      Chúng tôi dọc một cái hầm bằng đá cẩm thạch, rồi quẹo trái và suýt nữa thì rơi xuống vực. May mà Tyson kịp chộp lấy tôi và kéo lại trước khi tôi ngã. Đường hầm vẫn hiện ra trước mặt chúng tôi, nhưng khoảng ba chục mét hề có sàn mà chỉ là bóng tối và một loạt các thanh sắt ngang trần. Con nhện máy được nửa đường, đu từ thanh này qua thanh khác bằng cách nhả ra các sợi tơ bằng kim loại.

      “Xà khỉ,” Annabeth nói. “Tớ giỏi khoản này.”

      ấy nhanh chóng chen lên đầu và đu lên xà vèo vèo. ấy sợ những con nhện nhỏ xíu nhưng lại chẳng hề sợ hãi trước những thanh xà khỉ đe dọa mạng sống của . Kỳ cục thật.

      Annabeth tới được đầu bên kia và chạy theo sau con nhện. Tôi đuổi theo. Khi quay lại, tôi thấy Tyson cõng Grover vai. chàng to lớn đó chỉ cần ba lần đu là đã qua được, và đó cũng là điều may mắn vì ngay khi cậu ấy chạm đất, thanh xà khỉ cuối cùng gãy đôi dưới sức nặng của cậu ta.

      Chúng tôi tiếp tục tiến lên và băng ngang qua một bộ xương dúm dó ở góc hầm. Nó mặc một chiếc áo sơ mi, quần thường phục và đeo một cái cà vạt. Con nhện chịu chậm lại. Tôi trượt vào một cái ống toàn đầu mẩu gỗ, nhưng khi chiếu đèn pin vào chúng, tôi nhận ra đó là những cây bút chì – hàng trăm cây bút chì và tất cả đều bị gãy đôi.

      Cuối đường hầm là một căn phòng rộng. Một luồng ánh sáng làm chúng tôi chói mắt. Khi mắt tôi kịp điều chỉnh, thứ đầu tiên mà tôi chú ý là những bộ xương. Hàng chục bộ nằm rải rác khắp sàn nhà xung quanh chúng tôi. Một số cái đã lâu lắmuyển thành màu trắng. Một số cái có vẻ mới gần đây và bóng bẩy hơn. Mùi ở đây kinh khủng bằng ở chuồng gia súc của Geryon, nhưng cũng chẳng thua kém là bao.

      Sau đó tôi nhìn thấy con quái vật. Nó đứng một cái bục phát sáng lấp lánh ở phía đối diện của căn phòng. Nó có thân sư tử và phần đầu là đầu của một phụ nữ. Người phụ nữ đó trông khá xinh, nếu bà ta buộc hết tóc thành một búi chặt cứng ở đằng sau và trang điểm quá đậm. Bà ta làm tôi liên tưởng đến giáo trong đội hợp xướng của tôi hồi lớp ba. Bà ta đeo một dây ruy băng màu xanh biển trước ngực mà phải mất một lúc tôi mới đọc được, đó viết: CON QUÁI VẬT NÀY ĐƯỢC XẾP VÀO HÀNG MẪU!

      Tyson rên rỉ, “Nhân sư.”

      Tôi biết quá rõ lý do tại sao cậu ấy sợ hãi. Khi còn nhỏ, Tyson đã bị một con Nhân sư tấn công khi ở New York. Giờ lưng cậu ấy vẫn còn một vết sẹo chứng minh.

      Đèn pha rọi vào tứ phía xung quanh con quái vật. Lối ra duy nhất là một đường hầm nằm sau cái bục. Con nhện máy chui tọt vào giữa các móng vuốt của con nhân sư và lặn mất tăm.

      Annabeth tiến lên phía trước, nhưng con Nhân sư gầm lên, để lộ những cái răng nanh bộ mặt người của nó. Các thanh chắn sập xuống ở cả hai cửa hầm, đằng trước và đằng sau chúng tôi.

      Ngay lập tức tiếng gầm của con quái vật chuyển thành một nụ cười tươi rói.

      “Xin chào, những thí sinh may mắn!” con quái vật tuyên bố. “Chuẩn bị cho màn... GIẢI CÂU ĐỐ nhé!”

      Tiếng vỗ tay được ghi sẵn vọng xuống từ trần, giống như có những chiếc loa phóng thanh vô hình ở quanh đây vậy. Đèn pha quét một lượt căn phòng và phản chiếu cái bục, chiếu thứ ánh sáng loang loáng lên những bộ xương nằm ở sàn.

      “Những giải thưởng vô cùng hấp dẫn!” con Nhân sư nói. “Qua được cuộc thi, các ngươi sẽ được tiến lên! Còn nếu thua, ta sẽ ăn thịt các ngươi! Ai sẽ là thí sinh đây?”

      Annabeth nắm lấy cánh tay tôi. “Tớ biết rồi,” ấy thì thầm. “Tớ biết nó ̣nh hỏi gì rồi.”

      Tôi cũng tranh cãi quyết liệt nữa. Tôi muốn Annabeth bị một con quái vật xơi ngấu nghiến, nhưng nếu con Nhân sư ̣nh chơi trò giải đố thì chắc chắn ấy là người có khả năng nhất trong số chúng tôi.

      ấy bước tới cái bục dành cho thí sinh, với một bộ xương mặc đồng phục học sinh phủ lên nó. ấy đẩy bộ xương ra, bộ xương kêu loảng xoảng khi rơi xuống nền nhà.

      “Xin lỗi,” Annabeth nói với bộ xương.

      “Xin chào, Annabeth Chase!” con quái vật gào lên, mặc dù Annabeth chưa hề nói tên. “Ngươi đã sẵn sàng chưa?”

      “Rồi, hỏi câu nào thì hỏi .”

      “Thực ra là hai mươi câu hỏi mới đúng!” con Nhân sư vui sướng nói.

      “Cái gì? Nhưng ngày xưa...”

      “À, nhưng bọn ta đã nâng chuẩn lên rồi! Để hoàn tất cuộc thi, ngươi phải chứng tỏ khả năng của mình qua hai mươi câu đố! Tuyệt ?”

      Tiếng vỗ tay vang lên và ngừng lại như thể ai đó vặn vòi nước vậy.

      Annabeth nhìn tôi lo lắng. Tôi gật đầu trấn tĩnh.

      “Được rồi,” ấy bảo con Nhân sư. “Tôi đã sẵn sàng.”

      Một tiếng trống vang lên từ phía . Mắt con Nhân sư sáng lên với vẻ hân hoan. “Thủ... thủ đô của Bulgaria là gì?”

      Annabeth nhíu mày. Trong khoảnh khắc tồi tệ đó, tôi nghĩ ấy trả lời được.

      “Sofia,” ấy trả lời, “nhưng...”

      “Chính xác!” Lại tiếng vỗ tay được thu sẵn vang lên. Con Nhân sư cười nhăn nhở nhe hết cả răng nanh. “Nhớ đánh dấu rõ ràng vào đáp án trong bài kiểm tra bằng cây bút chì số 2.”

      “Cái gì?” Annabeth trông hoang mang. Sau đó một cuốn sách bài tập nhỏ xuất hiện cái bục phía trước ấy, cùng với một cây bút chì đã được gọt sẵn.

      “Ngươi phải khoanh tròn các đáp án một cách rõ ràng, đáp án được thừa ra ngoài,” con Nhân sư nói. “Nếu cần phải tẩy xóa thì phải tẩy sạch sẽ, nếu máy đọc được đáp án của ngươi đâu.”

      “Máy nào?” Annabeth hỏi.

      Con Nhân sư chỉ bằng bộ móng vuốt của nó. Bên cạnh cái đèn pha là một cái hộp bằng đồng với một đống bánh răng, đòn bẩy và một chữ cái Hy Lạp Êta to đùng ở bên cạnh, dấu hiệu của thần

      “Giờ là câu hỏi tiếp theo,” con Nhân sư nói.

      “Chờ một chút,” Annabeth chen vào. “Thế còn câu ‘Con gì bốn chân vào buổi sáng’ thì sao?”

      “Ngươi vừa nói cái gì cơ?” giờ thì rõ ràng là con Nhân sư giận dữ.

      “Câu đố về con người. ta bằng bốn chân vào buổi sáng, giống như trẻ con, bằng hai chân vào buổi chiều, giống như người lớn, và bằng ba chân vào buổi tối, giống như ông già chống gậy vậy. Đó là câu ngươi thường hỏi.”

      “Đó chính là lí do tại sao chúng ta đổi câu hỏi!” con quái vật tuyên bố. “Ngươi đã biết đáp án rồi. Bây giờ là câu tiếp theo, căn mười sáu bằng bao nhiêu?”

      “Bốn,” Annabeth nói, “nhưng...”

      “Chính xác! Tổng thống Mỹ nào ký Tuyên ngôn giải phóng nô lệ?”

      “Abraham Lincoln, nhưng...”

      “Đúng! Câu số bốn...”

      “Dừng lại đã!” Annabeth gào lên.

      Tôi muốn bảo ấy đừng phàn nàn gì nữa. ấy làm rất tốt. ấy chỉ cần trả lời các câu hỏi và chúng tôi có thể .

      “Đó phải là những câu đố,” Annabeth nói.

      “Ngươi nói thế có ý gì?” con Nhân sư đớp lời. “Tất nhiên đó là câu đố rồi. Đây là bài kiểm tra được thiết kế đặc biệt...”

      “Đó chỉ là một mớ những câu hỏi ngớ ngẩn về sự kiện,” Annabeth khăng khăng. “Câu đố phải khiến người ta suy nghĩ.”

      “Nghĩ à?” con Nhân sư nhíu mày. “Làm sao ta kiểm tra được các ngươi có khả năng suy nghĩ hay ? Thật là lố bịch! Nào, bây giờ cần bao nhiêu lực để...”

      “Dừng lại!” Annabeth vẫn khăng khăng. “Đây là một bài kiểm tra ngu ngốc.”

      “Ừm, Annabeth,” Grover lo lắng xen vào. “Có lẽ cậu cứ, uhm, cậu biết đấy, thi trước rồi phàn nàn sau được ?”

      “Tớ là con của nữ thần Athena,” ấy nhấn mạnh. “Và đây là sự sỉ nhục với trí tuệ của tớ. Tớ sẽ trả lời những câu hỏi này.”

      Một phần trong tôi bị ấn tượng bởi cá tính mạnh mẽ của ấy, nhưng một phần tôi lo lắng rằng niềm kiêu hãnh của Annabeth có thể khiến cả lũ tong!

      Ánh đèn pha chiếu chói lòa. Mắt con Nhân sư sáng lên toàn một màu đen.

      “Thế thì sao, thí sinh quý,” con quái vật nói chậm rãi. “Nếu ngươi trả lời, ngươi thua cuộc! Và vì chúng ta thể để đứa trẻ nào được phép tiết lộ bí mật nên ngươi sẽ bị ĂN THỊT!”

      Con Nhân sư giơ bộ móng vuốt sáng bóng như thép gỉ. Nó nhào đến chỗ cái bục.

      !” Tyson lao lên. Cậu ấy rất khó chịu khi thấy ai đó bắt nạt Annabeth, nhưng tôi thể tin được là cậu ấy lại dũng cảm đến thế, đặc biệt là khi cậu ấy bị ám ảnh với con Nhân sư đến vậy trong quá khứ.

      Cậu ta chặn con Nhân sư lại giữa trung và cả hai rơi xuống đống xương bên cạnh. Điều đó giúp Annabeth có đủ thời gian vận dụng trí khôn của mình và rút dao ra. Tyson đứng dậy, chiếc áo sơ mi của cậu ấy bị xé vụn. Con Nhân sư gầm gừ, tìm kiếm cơ hội tấn công.

      Tôi rút thanh Thủy Triều ra và bước lên phía trước Annabeth.

      “Tàng hình ,” tôi nói với ấy.

      “Tớ có thể chiến đấu!”

      !” Tôi la lên. “Con Nhân sư muốn ăn cậu! Để bọn tớ xử nó.”

      Như để chứng minh lời nói của tôi, con Nhân sư đẩy Tyson sang một bên và ́ gắng vượt qua tôi. Grover chọc nó một nhát vào mắt bằng một khúc xương cẳng chân của ai đó. Con Nhân sư thét lên đau đớn. Annabeth đội cái mũ lưỡi trai lên và biến mất. Con Nhân sư nhảy bổ vào chỗ ấy vừa đứng, nhưng bắt được gì.

      công bằng!” con Nhân sư la hét. “Đồ lừa đảo!”

      còn nhìn thấy Annabeth đâu nữa, con Nhân sư quay sang tôi. Tôi giơ kiếm lên, nhưng trước khi tôi kịp ra đòn, Tyson đã nhấc bổng cái máy chấm điểm lên khỏi mặt sàn và ném vào đầu con Nhân sư, làm hỏng búi tóc đầu nó. Cái máy tan tành thành từng mảnh và rơi vãi xung quanh con quái vật.

      “Máy chấm điểm của ta!” nó gào lên. “Ta thể trở thành hàng mẫu nếu có cái máy chấm điểm!”

      Ở lối ra, các thanh chắn được nhấc lên. Chúng tôi cùng lao vào đường hầm. Và tôi chỉ rằng Annabeth cũng làm như vậy.

      Con Nhân sư bắt đầu đuổi theo, nhưng Grover đưa cây sáo bằng sậy của mình lên và bắt đầu thổi. Đột nhiên những cây bút chì nhớ ra rằng chúng từng là một phần của thân cây. Chúng tụ tập lại quanh móng vuốt của nhân sư, mọc rễ và cành và bắt đầu quắp chặt lấy bốn chân của con quái vật. Con Nhân sư vùng vẫy thoát ra, nhưng điều đó cũng giúp chúng tôi có đủ thời gian để tháo chạy.

      Tyson kéo Grover vào đường hầm, và các thanh chắn đóng sầm lại phía sau chúng tôi.

      “Annabeth!” tôi hét lớn.

      “Đây!” ấy ở ngay bên cạnh tôi. “Tiếp tục chạy !”

      Chúng tôi chạy xuyên qua đường hầm tối om như mực, vẫn nghe thấy tiếng con Nhân sư ở phía sau kêu gào về tất cả các bài kiểm tra mà nó sẽ phải chấm bằng tay.

    2. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      XI


      Tôi nghĩ chúng tôi đã để lạc mất con nhện cho đến khi Tyson nghe thấy những tiếng bong bong nho nhỏ. Chúng tôi rẽ ở một vài đoạn, quay về chỗ cũ một vài lần, và cuối cùng thì tìm thấy con nhện đập cái đầu tí hon vào cánh cửa kim loại.

      Cánh cửa trông giống như một cửa sập ở tàu ngầm kiểu ̉ – hình ô van, với những chiếc đinh tán đóng xung quanh và một bánh lái thay cho tay đấm. Nơi đáng lẽ la cánh cửa là một tấm bảng bằng đồng thau, xanh lên vì cũ kỹ và có một chữ Hy Lạp Êta được khắc ở giữa.

      Chúng tôi tất thảy nhìn nhau.

      “Đã sẵn sàng để gặp thần Hephaestus chưa?” Grover nói một cách lo lắng.

      “Chưa,” tôi thừa nhận.

      “Rồi!” Tyson giọng hân hoan, và cậu ta quay bánh xe.

      Ngay khi cánh cửa mở ra, con nhện chạy vụt vào trong với Tyson ngay đằng sau nó. Tất cả chúng tôi theo sau, đến nỗi nóng lòng như cậu ấy.

      Căn phòng rộng mênh mông. Trông nó như một cái gara thợ cơ khí, với một vài cái máy nâng thủy lực. Một số máy có ô tô để phía , nhưng những cái khác còn có những vật lạ hơn: một con hippalektryon bằng đồng đầu và một đống dây rợ lằng nhằng treo cái đuôi rống của nó, một con sư tử bằng kim loại có vẻ được treo ở đó để sạc pin, và một ̃ xe ngựa thời chiến của Hy Lạp làm hoàn toàn bằng lửa.

      Các loại máy móc nhỏ hơn nằm rải rác hơn mười cái bàn làm việc. Công cụ được treo dọc các bức tường. Mỗi công cụ có một vị trí riêng bảng treo dụng cụ, nhưng dường như chẳng có thứ gì ở đúng vị trí của nó cả. Cái búa thì nằm ở chỗ tua vít. Còn súng bắn ghim thì treo ở chỗ cái cưa.

      Bên dưới chiếc máy nâng thủy lực gần nhất đỡ chiếc Toyota Corolla đời 98 là một cặp chân thò ra ngoài – phần nửa dưới của một người to lớn trong chiếc quần bẩn thỉu màu xám, và đôi giày còn to hơn cả của Tyson. Một bên chân phải nẹp bằng kim loại.

      Con nhện bò hối hả xuống dưới gầm xe, và tiếng bong bong cũng ngừng lại.

      “Được rồi, được rồi,” một giọng trầm trầm vang lên từ dưới chiếc xe Corolla. “Chúng ta có gì đây nhỉ?”

      Người thợ cơ khí chui ra một chiếc xe đẩy thấp và đứng dậy. Tôi đã nhìn thấy thần Hephaestus một lần chớp nhoáng ̉nh Olympus trước đây, nên tôi tưởng mình đã chuẩn bị trước tinh thần, nhưng bộ dạng của ông ấy lúc này khiến tôi nuốt nước miếng.

      Tôi đoán ông ấy đã tắm táp sạch sẽ khi tôi gặp ông ấy ̉nh Olympus, hoặc là sử dụng phép thuật nào đó để cho hình dạng của ông bớt phần gớm guốc. Giờ đây trong xưởng làm việc, rõ ràng ông ấy quan tâm đến ngoại hình chút nào. Ông ấy mặc một bộ áo liền quần trét đầy dầu mỡ và bụi bẩn. Chữ Hephaestus được thêu ở túi ngực. Chân ông kêu cọt kẹt bên trong tấm nẹp kim loại khi ông ấy đứng lên, và vai trái của ông thấp hơn vai phải, vì thế trông thần Hephaestus lúc nào cũng như nghiêng người, ngay cả khi ông ấy đứng thẳng. Đầu ông thì méo mó và chỗ lồi chỗ lõm. Vẻ mặt cau có giận dữ luôn thường trực khuôn mặt ông. Chòm râu đen của ông ta bốc khói và kêu xì xì. Cứ một chốc những đốm lửa lại bắn lên râu ông và rồi vụt tắt. Bàn tay ông to bằng cỡ cái găng tay bắt bóng chày, nhưng thao tác với con nhện máy vô cùng linh hoạt. Ông tháo nó ra chỉ trong hai giây, và sau đó lắp nó lại như ban đầu.

      “Rồi đây,” ông ấy lẩm bẩm một mình. “Tốt hơn nhiều rồi đấy.”

      Con nhện vui sướng tụt xuống khỏi lòng bàn tay ông ta, chăng một cái tơ lưới bằng kim loại lên trần nhà và nhún nhảy bỏ .

      Thần Hephaestus về phía chúng tôi. “Ta tạo ra các ngươi, đúng ?”

      “Vâng,” Annabeth nói, “ thưa ngài.”

      “Tốt,” vị thần lẩm bẩm. “Tay nghề kém.”

      Ông ta nhìn kỹ Annabeth và tôi. “Con lai,” ông ấy càu nhau. “Có thể là người máy, dĩ nhiên, nhưng có thể .”

      “Chúng ta đã gặp nhau rồi, thưa Ngài,” tôi bảo với ông ấy.

      “Thế à?” vị thần đáp một cách lơ đãng. Tôi có cảm giác ông ấy chẳng quan tâm đến bất cứ điều gì khác. Ông ấy chỉ tính toán cái xương hàm của tôi hoạt động theo cơ chế nào, là bản lề, hay đòn bẩy, hay là cái gì khác. “Vậy thì, nếu ta đã đập tan ngươi thành đống bột nhão trong lần gặp mặt trước đây, ta cho là giờ ta cũng sẽ làm điều đó.”

      Ông ấy nhìn Grover và nhíu mày. “Thần rừng.” Sau đó quay sang Tyson, và mắt ông ta chớp chớp. “À, một Cyclops. Tốt tốt. Ngươi cùng lũ này làm gì vậy?”

      “Uh...” Tyson nhìn vào vị thần với sự kinh ngạc.

      “Đúng, một câu trả lời thật hay,” thần Hephaestus đồng tình. “Vậy thì phải có lý do gì đó nghe được cho việc các ngươi làm phiền ta chứ nhỉ. Ta phải gián đoạn công việc với chiếc Corolla này, đó phải là chuyện nhỏ đâu.”

      “Thưa ngài,” Annabeth ngập ngừng nói. “Chúng tôi tìm Daedalus. Chúng tôi nghĩ...”

      “Daedalus?” vị thần kêu lên. “Các ngươi muốn tìm lão già côn đồ đó à? Các ngươi dám tìm hắn sao!”

      Chòm râu của ông ấy biến thành lửa, và đôi mắt đen của ông sáng rực lên.

      “Vâng, đúng vậy, mong ngài giúp,” Annabeth nói.

      “Hừm. Các ngươi phí thời gian rồi.” Ông nhíu mày nhìn vào cái gì đó chiếc bàn làm việc và lê bước tới đó. Ông nhặt một mớ gồm những lò xo và mảnh kim loại lên và chắp nối chúng lại với nhau. Chỉ trong vài giây, tay ông ấy đã là một con chim ưng bằng đồng và bạc. Nó xòe cánh, chớp chớp đôi mắt bằng đá và bay lượn quanh phòng.

      Tyson vỗ tay cười lớn. Con chim đậu lên vai Tyson và cắn cắn vào tai cậu ấy một cách trìu mến.

      Thần Hephaestus nhìn cậu ấy. Nét cau có mặt ông ấy thay đổi, nhưng tôi nghĩ t thấy một nét nhìn thân thiện hơn trong mắt ông. “Ta có cảm giác là ngươi có điều gì đó cần nói với ta, Cyclops ạ.”

      Nụ cười môi Tyson tắt dần. “Vâ... vâng, thưa ngài. Chúng tôi đã gặp một người trăm tay.”

      Thần Hephaestus gật đầu và chẳng tỏ vẻ gì là ngạc nhiên cả. “Briares?”

      “Đúng. ấy... ấy sợ. ấy sẽ giúp chúng tôi.”

      “Và điều đó làm ngươi thấy buồn phiền.”

      “Vâng!” Giọng Tyson ngập ngừng. “ Briares đáng lẽ phải mạnh chứ! ta lớn tuổi hơn và mạnh hơn các Cyclops. Nhưng ấy lại bỏ chạy.”

      Thần Hephaestus làu bàu. “Đã có thời ta từng ngưỡng mộ các chàng trăm tay đó. Quay lại những ngày xảy ra cuộc chiến tranh đầu tiên. Nhưng con người, quái vật, và ngay cả các vị thần nữa cũng thay đổi, bạn Cyclops. Cậu thể tin bọn họ. Hãy nhìn người mẹ quý Hera của ta. Cậu đã gặp bà ấy rồi đúng ? Bà ấy sẽ cười với cậu và nói về chuyện gia ̀nh quan trọng như thế nào, đúng ? Nhưng việc đó cũng ngăn việc bà ấy ném ta khỏi ̉nh Olympus khi nhìn thấy khuôn mặt xấu xí của ta.”

      “Nhưng tôi nghĩ thần Zeus mới là người làm thế với ngài,” tôi nói.

      Hephaestus hắng giọng và nhổ vào một cái ống nhổ bằng đồng. Ông ấy búng tay, và con chim ưng bằng kim loại bay trở lại bàn làm việc.

      “Mẹ ta cứ thích kể theo kiểu như vậy đấy,” ông ấy gầm gừ. “Một cách tự làm cho mình đáng hơn. Đổ hết lỗi lên đầu cha ta. Sự thật là, mẹ ta thích cuộc sống gia ̀nh, nhưng phải loại nào cũng thích. Phải là gia ̀nh hoàn hảo. Bà ấy nhìn ta và... hừm, rõ ràng ta giống những gì bà ấy tưởng tượng, đúng ?”

      Ông ấy nhổ một cái lông lưng con chim sắt, và con chim máy rời thành từng mảnh.

      “Tin ta , bạn Cyclops trẻ tuổi,” thần Hephaestus nói, “ngươi thể tin một người nào khác. Tất cả những gì ngươi có thể tin là sản phẩm do chính tay mình làm ra.”

      Đó dường như là cách sống quá ư đơn độc. Vả lại, tôi hoàn toàn tin tưởng vào tác phẩm của thần Hephaestus. Một lần ở Denver, con nhện máy của ông ấy đã suýt giết chết Annabeth và tôi. Còn năm ngoái, chính một cái tượng Talos bị lỗi khi chế tạo đã khiến Bianca mất mạng – lại một trong những công trình nhỏHephaestus.

      Ông ấy nhìn chăm chú vào tôi và nheo nheo mắt, như thể đọc suy nghĩ của tôi vậy. “Ồ, chàng này thích ta. Đừng lo, ta quen việc đó rồi. Ngươi sẽ hỏi ta việc gì đây, chàng á thần nhỏ tuổi?”

      “Chúng tôi đã nói với ngài rồi,” tôi nói. “Chúng tôi cần tìm Daedalus. Có một gã tên là Luke, và hắn ta làm việc cho Kronos. Hắn tìm đường qua Mê Cung, rồi từ đó chiếm trại của chúng tôi. Nếu chúng tôi tìm thấy Daedalus trước thì...”

      “Ta đã nói cho ngươi rồi. Tìm Daedalus chỉ phí thời gian thôi. Hắn sẽ giúp đâu.”

      “Tại sao ?”

      Thần Hephaestus nhún vai. “Vài người trong số chúng ta từng bị hất ̉ khỏi ̉nh Olympus. Một vài người trong số chúng ta... cách chúng ta học để tin người khác thì còn đau khổ hơn nhiều. Xin ta vàng. Hoặc là một thanh kiếm lửa. Hoặc một con chiến mã có phép thuật. Những thứ đó ta có thể cho các ngươi một cách dễ dàng. Nhưng còn Daedalus? Đó lại là món quà quá đắt rồi!”

      “Vậy là ngài biết ông ấy ở đâu,” Annabeth tạo sức ép.

      “Nhưng giờ tìm thì phải là lựa chọn thông minh đâu, gái.”

      “Mẹ tôi nói tìm kiếm là bản năng của trí tuệ.”

      Thần Hephaestus nheo mắt. “Thế mẹ là ai?”

      “Nữ thần Athena.”

      “Hiểu rồi,” ông ấy thở dài. “Nữ thần xinh đẹp, Athena. Thật xấu hổ là ấy lại hứa rằng bao giờ kết hôn. Được rồi, con lai. Ta có thể nói cho những gì muốn biết. Nhưng mọi thứ đều có cái giá của nó. Ta cũng cần ngươi đáp trả một việc.”

      “Ngài nói ,” Annabeth trả lời.

      Thần Hephaestus cười lớn – một thanh oang oang như một cái ống bể lớn ngấu nghiến ăn lửa vậy. “ hùng các ngươi,” ông ta nói, “lúc nào cũng hứa liều! Thật khoan khoái làm sao!”

      Ông ta nhấn một cái nút bàn làm việc, và một cánh cửa chớp bằng kim loại một dọc tường mở ra. Đó có thể là một cái cửa sổ lớn, hoặc cũng có thể là một chiếc ti vi màn hình lớn, tôi cũng rõ nữa. Chúng tôi nhìn thấy một dãy núi xám ngoét được bao quanh bởi các khu rừng. Chắc hẳn đó phải là một ngọn núi lửa, bởi khói bốc ngút từ ̉nh.

      “Một trong những lò rèn của ta,” thần Hephaestus nói. “Ta có rất nhiều nơi như vậy, nhưng đó đã từng là chỗ ta ưa thích nhất.”

      “Đó là Núi St. Helens(13),” Grover nói. “Cả một cánh rừng lớn bao quanh nó.”

      “Cậu từng ở đó rồi à?” tôi hỏi.

      “Thì tớ tìm... cậu biết rồi đấy, thần Pan.”

      “Chờ đã,” Annabeth vừa nói vừa nhìn thần Hephaestus. “Ngài nói đó đã từng là nơi ưa thích. Vậy chuyện gì đã xảy ra?”

      Thần Hephaestus vuốt chòm râu ỉ cháy. “Ừm, đó là nơi con quái vật tên Typhon bị nhốt, các ngươi biết đấy. Trước đây hắn bị nhốt dưới núi Etna, nhưng khi chúng ta chuyển đến châu Mỹ thì ngọn núi St. Helens chính là nơi giam giữ sức mạnh của hắn. Một nguồn lửa mãnh liệt, nhưng hơi nguy hiểm. Lúc nào cũng có nguy cơ hắn sẽ trốn thoát. Dạo này núi lửa phun rất nhiều, lửa cháy ỉ cả ngày đêm. Hắn ta thao thức với sự nổi loạn của các thần khổng lồ Titan.”

      “Vậy ngài muốn chúng tôi làm gì? Đánh lại hắn?”

      Thần Hephaestus khịt mũi. “Thế là tự sát. Chính các thần còn bỏ chạy nếu Typhon được giải thoát nữa là. , cầu mong các ngươi gặp phải hắn, chứ đừng nói là đánh nhau với hắn. Nhưng gần đây ta cảm nhận được có kẻ xâm phạm ngọn núi này của ta. Kẻ nào đó, hoặc cái gì đó sử dụng lò rèn này của ta. Khi ta tới đó thì chẳng có gì, nhưng ta biết có ai đó đã sử dụng nó. Chúng cảm nhận được mỗi khi ta tới và chuồn mất. Ta cho các ̃ máy của ta đến do thám, nhưng chúng quay trở lại. Có cái gì đó... ̉ xưa ở đó. Ma quỷ. Ta muốn biết ai dám cả gan xâm chiếm lãnh ̣a của ta, và liệu có phải chúng muốn thả Typhon .”

      “Vậy là ngài muốn chúng tôi tìm hiểu xem chúng là ai,” tôi nói.

      “Ây da,” thần Hephaestus nói. “Đến đó . Có thể chúng sẽ cảm nhận được sự có mặt của các ngươi, vì các ngươi phải là thần.”

      “Rất vui là ông nhận ra điều đó,” tôi nhủ thầm.

      “Hãy và tìm ra những gì các ngươi có thể,” thần Hephaestus nói. “Báo cáo lại cho ta, rồi ta sẽ nói cho các ngươi điều các ngươi muốn biết về Daedalus.Annabeth nói. “Làm sao chúng tôi đến đó?”

      Thần Hephaestus vỗ tay. Một con nhện đu xuống từ nóc nhà. Annabeth lùi lại khi nó “hạ cánh” xuống chân ấy.

      “Con vật máy này sẽ dẫn đường cho các ngươi,” thần Hephaestus nói. “Nơi đó sẽ xa lắm nếu các ngươi xuyên qua Mê Cung. Và ́ gắng sống sót nhé, được chứ? Con người yếu mềm hơn nhiều so với máy móc đấy.”

      Lộ trình của chúng tôi vẫn tốt đẹp, cho đến khi chúng tôi chạm phải những cái rễ cây. Con nhện vẫn cứ phăng phăng trong khi chúng tôi bị kẹt lại, nhưng rồi chúng tôi cũng tìm được một đường hầm ở rìa bên cạnh, đất thịt được đào lên và phủ cả lên những cái rễ cây to. Grover dừng lại và nhìn chăm chăm vào những dấu vết đó.

      “Cái gì thế?” Tôi hỏi.

      Cậu ấy động đậy. Grover há hốc mồm nhìn vào cái đường hầm tối đen. Mái tóc xoăn của cậu ấy bay sột soạt trong gió.

      nào!” Annabeth nói. “Chúng ta phải tiếp tục .”

      “Đây là lối ,” Grover lẩm bẩm trong nỗi kinh sợ. “Chính là nó.”

      “Đường nào?” tôi hỏi. “Ý cậu là... tới chỗ thần Pan?”

      Grover nhìn Tyson. “Cậu ngửi được nó sao?”

      “Đất,” Tyson nói. “Và thực vật.”

      “Đúng, đây chính là lối . Tớ chắc chắn đấy!”

      Ở đằng trước, con nhện xa dần bên dưới cái hành lang bằng đá. Chỉ vài giây nữa thôi chúng tôi sẽ mất dấu nó.

      “Chúng ta sẽ quay lại,” Annabeth hứa. “ đường về gặp thần Hephaestus.”

      “Lúc đó đường hầm biến mất rồi,” Grover nói. “Tớ phải theo nó. Một cánh cửa như thế này sẽ mở mãi đâu!”

      “Nhưng chúng ta thể,” Annabeth nói. “Còn những cái lò rèn!”

      Grover nhìn Annabeth đầy buồn bã. “Tớ thể làm khác được, Annabeth. Cậu có hiểu ?”

      ấy trông thật tuyệt vọng, như thể ấy chẳng hiểu gì hết. Con nhện sắp biến khỏi tầm mắt. Nhưng tôi nghĩ về cuộc trò chuyện giữa tôi và Grover tối qua, và tôi biết chúng tôi sẽ phải làm gì.

      “Chúng ta sẽ chia ra,” tôi nói.

      !” Annabeth kêu lên. “Như thế quá nguy hiểm. Làm sao chúng ta có thể tìm lại nhau được? Vả lại thể để Grover một mình.”

      Tyson để tay lên vai Grover. “Em... em sẽ với cậu ấy.”

      Tôi tin nổi vào tai mình. “Tyson, em chắc chứ?”

      Cậu nhóc cao lớn gật đầu. “ chàng dê này cần sự giúp đỡ. Chúng ta sẽ tìm thấy người gọi là thần. Em giống như thần Hephaestus. Em tin vào bạn bè.”

      Grover hít một cái thật sâu. “Percy, chúng ta sẽ tìm được nhau. Chúng ta vẫn còn sợi dây giao cảm mà. Tớ... tớ phải làm như vậy.”

      Tôi trách cậu ấy. Đây là mục ́ch sống của cậu ấy. Nếu cậu ấy tìm thấy thần Pan trong chuyến này thì Hội đồng sẽ bao giờ cho cậu ấy thêm một cơ hội nữa.

      “Tớ hy vọng là cậu đúng,” tôi nói.

      “Tớ biết là tớ đúng mà.” Tôi chưa bao giờ thấy cậu ấy tự tin đến vậy trước bất cứ điều gì, trừ việc món enchiladas(14) phô mai ngon hơn món enchiladas gà.

      “Hãy cẩn trọng,” tôi căn dặn Grover, rồi nhìn Tyson. Cậu ấy ́ ngăn tiếng khóc rồi ôm tôi một cái làm tôi sắp lòi cả con ngươi ra khỏi mắt. Rồi sau đó cậu ấy và Grover lẩn vào đường hầm rễ cây và biến mất vào bóng tối.

      “Điều này thật tệ,” Annabeth nói. “Chia người ra thế này đúng là một ý tưởng vô cùng, vô cùng tồi tệ đấy.”

      “Chúng ta sẽ gặp lại họ,” tôi ́ nói với giọng tự tin. “Giờ thì thôi, con nhện xa rồi kìa!”

      Chỉ một lúc sau đường hầm trở nên nóng hầm hập.

      Các bức tường đá nóng rực. Chúng tôi có cảm giác như thể mình di chuyển qua một cái bếp lò. Đường hầm dốc xuống và tôi có thể nghe thấy tiếng rầm rầm rất to, giống như là một dòng sông kim loại vậy. Con nhện lướt với Annabeth theo ngay đằng sau.

      “Này, chờ đã,” tôi gọi ấy.

      ấy quay lại nhìn tôi. “Sao thế?”

      “Thần Hephaestus lúc đó nói cái gì... về nữ thần Athena ấy nhỉ.”

      “Bà ấy đã thề bao giờ kết hôn,” Annabeth nói. “Giống như nữ thần Artemis và nữ thần Hestia(15). Bà ấy là một trong những nữ thần đồng trinh.”

      Tôi chớp mắt. Tôi chưa bao giờ nghe chuyện này về nữ thần Athena. “Nhưng thế...”

      “Làm sao bà ấy lại có các con là á thần chứ gì?”

      Tôi gật đầu. Có thể tôi còn đỏ mặt nữa, nhưng hy vọng luồng khí nóng sẽ khiến Annabeth chú ý.

      “Percy, cậu biết nữ thần Athena được sinh ra thế nào ?”

      “Bà ấy nhảy ra từ đầu thần Zeus với đầy đủ vũ khí và y phục hay gì đó đại loại như vậy.”

      “Chính xác. Bà ấy sinh ra theo cách bình thường. Bà ấy đúng là đã được sinh ra bởi ý nghĩ. Các con của bà ấy cũng được sinh ra theo cách đó. Khi Athena một người bình thường, tình đó hoàn toàn là trong trí óc, như cách mà bà ấy Odysseus trong những câu chuyện ̉. Đó là sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn. Bà ấy nói đó là kiểu tình thuần khiết nhất.”

      “Vậy cha cậu và nữ Athena... vậy cậu phải...”

      “Tớ là đứa trẻ được sinh ra bằng trí tuệ,” Annabeth nói. “Đúng ra mà nói thì các con của nữ thần Athena đều được sinh ra từ suy nghĩ thần thánh của mẹ và tài trí tuyệt vời của cha. Bọn tớ được xem là một món quà, một lời chúc tốt lành mà nữ thần Athena gửi cho người đàn ông mà bà quý.”

      “Percy, con nhện sắp mất rồi kia kìa. Cậu thực lòng muốn tớ giải thích chi tiết chuyện tớ sinh ra như thế nào sao?”

      “À ừ... . Vậy là được rồi.”

      ấy cười điệu đà. “Tớ nghĩ là .” Và ấy chạy lên phía trước. Tôi đuổi theo, nhưng tôi chắc mình sẽ nhìn Annabeth bằng con mắt như trước hay . Tôi nghĩ có lẽ một số chuyện thà cứ là điều huyền bí lại tốt hơn.

      Tiếng ầm ầm mỗi lúc một to. Sau khi chạy thêm khoảng nửa dặm, chúng tôi tới một cái hang to cỡ bằng một sân vận động Super Bowl. Con nhện dẫn đường của chúng tôi dừng lại và cuộn thành một quả bóng. Vậy là chúng tôi đã tới lò rèn của thần Hephaestus.

      Chẳng có sàn nhà gì chỉ có dung nham sủi bong bóng hàng chục mét phía bên dưới. Chúng tôi đứng một dãy đồi đá bao quanh cái hang. Một hệ thống cầu kim loại bắc ngang qua nó. Và ở trung tâm là một cái bệ lớn với đủ loại máy móc, vạc, lò rèn, và một cái đe lớn chưa từng thấy – một cục sắt với kích cỡ của một ngôi nhà. Các con vật di chuyển xung quanh chiếc bục – một vài con màu đen, rất lạ, nhưng chúng ở quá xa nên tôi thể nhìn rõ từng chi tiết.

      “Chúng ta sẽ thể nào lẻn đến chỗ chúng được,” tôi nói.

      Annabeth nhặt con nhện kim loại lên và cho nó vào túi áo. “Tớ có thể. Đợi đây.”

      “Chờ đã!” tôi nói, nhưng trước khi tôi có thể tranh cãi, ấy đã đội cái mũ Yankees lên và biến thành tàng hình.

      Tôi dám gọi theo ấy, nhưng tôi thích ý tưởng ấy tiếp cận cái lò rèn một mình. Nếu bọn ngoài kia có thể cảm nhận được một vị thần đến thì liệu Annabeth có an toàn được ?

      Tôi quay lại nhìn con đường hầm Mê Cung. Tôi đã thấy nhớ Grover và Tyson rồi. Cuối cùng, quyết ̣nh thể ngồi chờ một chỗ. Tôi bò dọc theo mép ngoài của chiếc hồ đầy dung nham, với hy vọng kiếm được một góc nhìn thuận lợi hơn để theo dõi những gì xảy ra ở giữa hồ.

      Nhiệt độ thật kinh khủng. Trại nuôi gia súc của Geryon so với nơi này thì vẫn là một thiên đường mùa đông! Chẳng có lúc nào người tôi có mồ hôi. Mắt tôi cay xè vì khói. Tôi tiến lên, ́ tránh xa miệng núi lửa, cho đến khi bị chặn lại bởi một chiếc xe đẩy với những bánh xe kim loại, giống loại người ta vẫn dùng để khai mỏ. Tôi nhấc tấm che bằng vải dầu lên và bên trong sắt vụn chất đầy nửa xe. Tôi ̣nh lòng vòng quanh nó thì bỗng nghe thấy một tiếng nói vọng ra từ phía trước mặt, có lẽ là từ một đường hầm bên cạnh.

      “Có đem nó tới ?”

      “Có,” một giọng khác nói. “Phim sắp xong rồi.”

      Tôi hoảng sợ. Tôi có đủ thời gian để lùi lại. Chẳng có nơi nào để trốn cả, trừ... cái xe đẩy. Tôi bò vào trong xe và phủ tấm vải lên , hy vọng chưa bị ai phát hiện. Một tay tôi nắm lấy thanh Thủy Triều, đề phòng trường hợp tôi sẽ phải chiến đấu.

      Chiếc xe tròng trành lăn về phía trước.

      “Ôi,” một giọng ̣c cằn thô lỗ vang lên. “Thứ này nặng đến hàng tấn.

      “Đây là đồng celestial,” người còn lại nói. “Ngươi cho rằng nó là cái gì?”

      Tôi bị kéo theo. Bọn chúng rẽ, và qua thanh của bánh xe vọng lên thành xe, tôi đoán chúng tôi đã về phía cuối của đường hầm và vào một căn phòng nhỏ hơn. Hy vọng tôi sẽ bị đổ vào một cái vại sôi sùng sục. Nếu chúng bắt đầu lật ngược, thì tôi phải nhanh chóng thoát ra. Tôi nghe thấy rất nhiều tiếng nói chuyện huyên náo, nhưng phải tiếng người – cái gì đó nửa giống tiếng hải cẩu tru tréo, nửa giống tiếng chó gầm gừ. Còn có một thanh gì đó khác nữa, giống như tiếng một chiếc máy chiếu phim đời ̉ và một giọng bé tí đọc lời dẫn truyện.

      “Cứ để nó vào phía cuối,” một giọng mới vang lên từ đầu kia của căn phòng. “Giờ thì các con, hãy cùng xem phim. Sau khi kết thúc các con sẽ có thời gian đặt câu hỏi.”

      Các giọng nói lắng xuống và tôi có thể nghe thấy tiếng trong phim.

      Đối với một quái vật biển mới trưởng thành, giọng thuyết minh vang lên, cơ thể các bạn sẽ có những thay đổi. Các bạn có thể để ý thấy răng nanh của mình ngày một dài ra và bỗng nhiên có mong muốn được ăn thịt con người. Những thay đổi này là rất bình thường và xảy ra với tất cả quái vật mới trưởng thành.

      Những tiếng gầm gừ thích thú tràn ngập căn phòng. Gã giáo viên – tôi đoán chắc nó phải là giáo viên – mắng lũ thú con giữ trật tự, và bộ phim tiếp tục. Tôi chẳng hiểu gì phần lớn bộ phim, nhưng cũng dám ngẩng lên nhìn. Bộ phim tiếp tục nói về giai đoạn dậy thì, mụn trứng cá do làm việc trong các lò rèn, cách vệ sinh chân màng hợp lý và cuối cùng thì nó cũng kết thúc.

      “Nào, các con,” gã giáo viên nói. “Tên đúng của loài chúng ta là gì?”

      “Quái vật biển!” một con kêu lên.

      đúng. Ai có ý kiến khác?”

      “Các Telekhine!” một con khác phát biểu.

      “Tốt lắm,” giáo viên khen ngợi. “Và tại sao chúng ta ở đây?”

      “Trả thù!” một vài con trả lời.

      “Đúng đúng, nhưng tại sao?”

      “Zeus là quỷ dữ!” một con nói. “Hắn ném chúng ta xuống Tartarus chỉ vì chúng ta đã sử dụng phép thuật

      “Thực ra là,” gã giáo viên nói, “sau khi chúng ta đã rèn cho các lũ thần đó những vũ khí tốt nhất. Cây đinh ba của Poseidon là một ví dụ. Và tất nhiên – chúng ta còn chế ra loại vũ khí vĩ đại nhất cho các Titan! Vậy mà Zeus lại ném chúng ta và tin tưởng vào mấy gã Cyclops vụng về. Đó là lý do tại sao chúng ta đoạt lại những lò rèn mà gã Hephaestus chiếm đoạt của chúng ta. Và chẳng mấy nữa chúng ta sẽ làm chủ các lò luyện kim dưới đáy biển, ngôi nhà của tổ tiên chúng ta!”

      Tôi nắm chặt cây kiếm-bút của tôi. Những con vật gầm gừ đằng kia đã chế tạo ra cái đinh ba của thần Poseidon sao? Chúng nói về cái gì vậy? Tôi chưa bao giờ nghe về một con telekhine nào cả.

      “Và vì vậy, các con,” gã giáo viên tiếp tục, “chúng ta phục vụ ai?”

      “Kronos!” chúng hô to.

      “Và khi các con lớn lên thành những telekhine to lớn, các con có chế tạo vũ khí cho quân đội của ngài ấy ?”

      “Có!”

      “Tốt lắm. Giờ chúng ta đem đến một ít kim loại vụn cho các con thực hành. Để xem các con khéo léo thế nào.”

      Ai đó hăm hở tới chỗ cái xe đẩy, cùng với những thanh hân hoan thích thú. Tôi đã sẵn sàng để mở nắp thanh Thủy Triều. Tấm vải phủ mở ra. Tôi nhảy dựng lên, thanh kiếm đồng hiện ra trong tay tôi sáng lóa, và cùng lúc tôi nhận ra trước mặt tôi là một bầy... chó.

      Ừm, đúng ra thì chỉ có mặt chúng là giống chó, với cái mõm màu đen, mắt nâu và tai nhọn hoắt. Thân chúng bóng mượt và đen tuyền như động vật biển, chân ngắn mập, một nửa là vây bơi một nửa là chân người. Chúng có tay giống người với những móng vuốt sắc nhọn. Nếu các bạn kết hợp một đứa trẻ, một con chó Doberman pinscher và một con sư tử biển, bạn sẽ được một loại động vật tương tự như những gì tôi nhìn thấy lúc này.

      “Một á thần!” một con gầm gừ.

      “Ăn nó !” con khác nheo nhéo.

      Nhưng chúng chỉ nói được đến đấy trước khi tôi vung Thủy Triều lên và cho lũ quái vật ở hàng đầu bốc hơi.

      “Lùi lại!” Tôi hét vào lũ quái vật còn lại, ́ gắng tỏ ra giận dữ. Đằng sau chúng là gã giáo viên, một con telekhine cao gần hai mét với những cái răng nanh gầm gừ chĩa về phía tôi. Tôi ́ hết sức nhìn chằm chằm lại nó.

      “Bài học mới nào, cả lớp,” tôi thông báo. “Hầu hết quái vật bị bốc hơi khi bị chém bằng thanh kiếm đồng celestial. Thay đổi này là hoàn toàn bình thường, và sẽ xảy ra với các ngươi ngay bây giờ nếu các ngươi LÙI LẠI!”

      Thật là ngạc nhiên, lời nói của tôi lại có tác dụng. Những con quái vật lùi lại, nhưng vẫn còn ít nhất hai mươi con nữa. Sự sợ hãi mà tôi tạo ra sẽ chẳng kéo dài lâu.

      Tôi nhảy khỏi cái xe đẩy, hét lớn: “CẢ LỚP GIẢI TÁN!” và sau đó chạy về phía lối ra.

      Lũ quái vật đuổi theo tôi, sủa và gầm gừ ầm ỹ. Tôi hy vọng chúng chạy nhanh được với những cái chân nhỏ xíu cũn cỡn và những màng bơi, nhưng chúng đuổi theo khá nhanh. Cám ơn các vị thần vì có một cánh cửa cuối đường hầm dẫn ra hang chính. Tôi đóng sầm cánh cửa và quay bánh xe cửa để khóa nó lại, nhưng chẳng biết liệu nó giữ chân được lũ quái vật bao lâu.

      Tôi biết phải làm gì. Annabeth tàng hình đâu đó quanh đây. Cơ hội cho nhiệm vụ trinh sát để bị phát hiện của chúng tôi thế là đã tong. Tôi chạy về phía cái bục nằm giữa hồ chứa dung nham.

      “Suỵt!” Một bàn tay vô hình che lấy miệng tôi và kéo tôi ra đằng sau một chiếc vạc đồng. “Cậu muốn chết cả đôi à?”

      Tôi chạm được tới đầu ấy và lột cái mũ Yankees ra. Annabeth hiện ra trước mặt tôi, mặt mày nhăn nhó và nhem nhuốc với tro và bụi bẩn. “Percy, cậu làm sao thế?”

      “Chúng ta sắp có bạn đồng hành!” Tôi nhanh chóng giải thích về việc lớp học ̣nh hướng của lũ quái vật. Mắt ấy mở lớn.

      “Hóa ra chúng là như vậy à,” ấy nói. “Các con Telekhine. Đáng lẽ mình phải biết rồi chứ. Và chúng làm... Ôi, nhìn kìa.”

      Chúng tôi nhìn trộm qua cái vạc. Ở giữa cái bục là bốn con quái vật biển, nhưng chúng đều là những con trưởng thành hoàn toàn, cao ít nhất là hai mét rưỡi. Da chúng đen và sáng lấp lánh trong ánh lửa lò rèn khi chúng làm việc, những tàn lửa tóe ra khi chúng thay nhau nện búa xuống một thanh kim loại dài nóng rực.

      “Thanh kiếm sắp hoàn thành rồi,” một con nói. “Nó cần được làm lạnh trong máu để kim loại chảy ra.”

      “Ừ,” con thứ hai nói. “Lúc đó nó sẽ sắc hơn trước”

      “Cái gì đấy?” tôi thầm thì.

      Annabeth lắc đầu. “Bọn chúng nói về việc làm chảy kim loại, tớ hiểu...”

      “Chúng nói về loại vũ khí vĩ đại nhất dành cho thần khổng Titan,” tôi nói. “Và chúng... chúng nói chính bọn chúng đã chế tạo chiếc đinh ba cho cha tớ.”

      “Loài telekhine đã phản bội lại các vị thần,” Annabeth nói. “Chúng thực hiện những trò ma thuật xấu xa. Tớ biết chính xác đó là gì, nhưng thần Zeus đã đày chúng xuống Tartarus.”

      “Với Kronos.”

      ấy gật đầu. “Chúng ta cần phải ra khỏi...”

      Ngay khi ấy vừa dứt lời thì cánh cửa dẫn vào phòng học nổ tung và lũ telekhine nhỏ nhào vào. Chúng giẫm đạp cả lên nhau, ́ tính toán xem nên tấn công vào hướng nào.

      “Cậu đội mũ lên ,” tôi nói. “Ra khỏi đây!”

      “Cái gì?” Annabeth rít lên. “! Tớ bỏ cậu lại đây.”

      “Tớ có một kế hoạch. Tớ sẽ làm chúng mất tập trung. Sau đó cậu có thể dùng con nhện máy – có thể nó sẽ dẫn cậu quay về chỗ thần Hephaestus. Cậu phải nói với ông ấy chuyện gì diễn ra.”

      “Thế thì cậu sẽ bị giết!”

      “Tớ sao đâu. Với lại chúng ta chẳng còn sự lựa chọn nào cả.”

      Annabeth lườm tôi như chuẩn bị đấm tôi vậy. Rồi ấy làm một việc khiến tôi ngạc nhiên gấp bội. Annabeth hôn tôi.

      “Cẩn thận đấy, Óc Tảo Biển.” ấy đội mũ lên và biến mất.

      Có lẽ tôi sẽ còn ngồi đó cả ngày, mắt dán vào cái hồ dung nham và ́ nhớ xem mình tên là gì, nhưng lũ quái vật biển đã kéo tôi về với hiện thực.

      “Ở đó!” một con hét lên. Cả lớp telekhine lao qua cầu về phía tôi. Tôi chạy tới giữa cái bục, khiến bốn con quái vật trưởng thành ngạc nhiên đến nỗi chúng làm rơi cả thanh kiếm đỏ rực. Nó dài khoảng một mét tám và cong cong như hình trăng lưỡi liềm. Tôi đã trông thấy nhiều thứ đáng sợ, nhưng cái vật – dù-nó-có-là-cái-gì--chăng-nữa còn chưa hoàn thành này cũng làm tôi cực kỳ khiếp sợ.

      Mấy con quái vật trưởng thành vượt qua cơn sốc một cách nhanh chóng. Có bốn đường dốc dẫn ra khỏi căn phòng, và trước khi tôi kịp lao tới bất kỳ lối thoát nào thì mỗi con trưởng thành đã lao tới, mỗi con chặn một lối ra.

      Con cao nhất gầm gừ. “Chúng ta có gì đây nhỉ? Một đứa con trai của Poseidon sao?”

      “Đúng,” một con khác làu bàu. “Tao có thể ngửi thấy biển trong máu của nó.”

      Tôi đưa thanh Thủy Triều lên. Tim tôi đập thình thịch.

      “Chém một trong số chúng ta , á thần,” con trưởng thành thứ ba nói, “và tất cả những người còn lại sẽ xé ngươi thành từng mảnh. Cha ngươi đã phản bội chúng ta. Hắn nhận món quà và chẳng thèm nói đỡ một câu khi chúng ta bị ném xuống vực. Sẽ đến lúc chúng ta chứng kiến hắn bị chém thành từng mảnh. Hắn và tất cả bọn thần ̉nh Olympus.”

      Ước gì tôi có một kế hoạch thật. Tôi ước mình đã nói dối Annabeth. Tôi chỉ muốn ấy chạy thoát ra ngoài an toàn, và tôi hy vọng ấy đủ tỉnh táo để làm việc đó. Nhưng giờ tôi chợt nhận ra rằng đây có lẽ là nơi tôi sẽ phải bỏ mạng. có lời tiên tri nào cho tôi. Tôi sẽ bị lũ quái vật mặt chó mình sư tử biển giày xéo ở tâm núi lửa này. Những con telekhine con giờ cũng ở cái bục, gầm gừ và chờ xem bốn con lớn kia sẽ làm gì với tôi

      Tôi cảm thấy cái gì đó nóng rực ở một bên đùi. Chiếc còi băng trong túi của tôi càng lúc càng lạnh hơn. Nếu tôi cần sự trợ giúp thì chính là lúc này đây. Nhưng tôi ngần ngại. Tôi tin vào món quà của Quintus.

      Trước khi tôi kịp quyết ̣nh thì con telekhine cao nhất đã nói: “Để chúng ta xem hắn mạnh đến cỡ nào nào. Để xem trong bao lâu hắn sẽ bị cháy thành tro!”

      Hắn xúc một ít dung nham từ cái lò gần nhất. Nó làm các ngón tay của hắn bốc cháy, nhưng điều đó chẳng mảy may làm hắn lo lắng chút nào. Những con telekhine trưởng thành khác cũng làm như vậy. Con đầu tiên ném một nắm đá nấu chảy vào tôi làm quần tôi bắt đầu bốc cháy. Hai nắm nữa được ném vào ngực tôi. Tôi làm rơi thanh kiếm trong sự khiếp sợ hoàn toàn và hoảng loạn dập lửa cháy quần áo người. Lửa nhấn chìm tôi. Kỳ lạ là, ban đầu tôi chỉ thấy hơi ấm, nhưng ngay sau đó nó trở nên nóng rực.

      “Bản năng của cha ngươi sẽ bảo vệ ngươi,” một con nói. “Nên ngươi sẽ khó bị đốt cháy. Nhưng phải là thể, bạn trẻ ạ. phải là thể.”

      Chúng ném thêm dung nham nóng chảy vào người tôi và tôi nhớ mình đã hét lên. Cả người tôi bốc cháy. Nỗi đau này tệ hơn bất cứ nỗi đau nào mà tôi đã từng phải chịu đựng. Tôi bị thiêu rụi. Tôi đổ gục xuống nền nhà bằng kim loại và nghe thấy lũ quái vật con hò hét vui sướng.

      Sau đó tôi nhớ đến giọng nói của nữ thủy thần lúc ở trại nuôi gia súc: Nước lúc nào cũng có trong người tôi.

      Tôi cần biển. Tôi cảm thấy nhói lên trong ruột, nhưng xung quanh chẳng có gì giúp được tôi. Chẳng có một cái vòi nước hay một dòng sông. Thậm chí có đến một vỏ sò hóa thạch. Hơn nữa, lần trước ở chuồng gia súc tôi thể hiện sức mạnh của mình thì giây phút đó cũng thật kinh khủng vì tôi suýt thì mất nó.

      Tôi còn lựa chọn nào khác. Tôi gọi biển. Tôi chạm đến phần sâu bên trong cơ thể mình và nhớ lại những con sóng, những dòng hải lưu, nguồn năng lượng vô tận của đại dương. Và tôi để năng lượng của mình phát ra trong một tiếng thét hãi hùng.

      Sau đấy, tôi bao giờ có thể diễn tả được chuyện gì đã xảy ra. Một vụ nổ, một cơn sóng triều, một cơn gió xoáy đầy năng lượng đồng thời bắt lấy và cuốn tôi lên cao, sau đó ném tôi vào hồ dung nham. Lửa và nước va chạm vào nhau, hơi nước sôi sùng sục, và tôi bị bắn lên trung từ tâm núi lửa trong một tiếng nổ kinh hoàng, như một mảnh ván bị đẩy tự do bằng một áp lực hàng triệu pao vậy. Thứ cuối cùng tôi nhớ được trước khi bất tỉnh là tôi bay, bay cao đến nỗi thần Zeus sẽ bao giờ tha thứ cho tôi, và sau đó thì bắt đầu rơi, khói và lửa và nước bao quanh tôi. Tôi như một ngôi sao chổi lao xuống va vào trái đất.

    3. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      XII


      Tôi thức dậy với cảm giác vẫn bốc cháy. Da tôi nhức nhối. ̉ họng tôi khô rát.

      Tôi thấy bầu trời xanh và cây ́i bên . Tôi nghe thấy tiếng chảy róc rách của đài phun nước và ngửi thấy mùi cây bách xù và cây tuyết tùng và mùi của một số loài thực vật có mùi ngọt. Tôi cũng nghe thấy cả tiếng sóng nữa, vỗ nhẹ nhàng vào bờ đá. Tôi biết mình đã chết hay chưa, nhưng có một điều tôi biết rõ, đó là tôi đã từng đến Vùng đất Chết, nhưng nơi đó có bầu trời xanh thế này.

      Tôi ́ ngồi dậy. Các cơ bắp của tôi như nhão ra.

      “Nằm im,” giọng một gái vang lên. “ còn yếu lắm, dậy được

      ấy đặt một miếng vải lạnh ngang trán tôi. Một chiếc muỗng bằng đồng lơ lửng phía và chất lỏng nhỏ từng giọt vào miệng tôi. Thức uống làm ̉ họng tôi dịu và có vị sô la ấm sau khi nuốt. Rượu thánh của các vị thần. Rồi khuôn mặt của gái hiện ra phía mặt tôi.

      ấy có đôi mắt màu quả hạnh và mái tóc màu ca ra men được tết ở một bên vai. ấy khoảng... mười lăm tuổi? Mười sáu? Khó mà đoán được. Khuôn mặt ấy thuộc kiểu thể đoán được tuổi. ấy bắt đầu hát và cơn đau của tôi giảm hẳn . ấy làm phép thuật. Tôi có thể cảm nhận được tiếng hát thấm vào làn da tôi, chữa lành và tái tạo lại những vết bỏng của tôi.

      “Ai vậy?” Tôi rền rĩ.

      “Suỵt, chàng trai dũng cảm,” ấy nói. “Hãy nghỉ ngơi chờ vết thương lành. Sẽ có gì làm hại được. Tôi là Calypso.”

      Lần tiếp theo thức dậy, tôi ở trong một hang đá, một hang đá lúc này cũng tốt chán rồi. Trần hang lấp lánh với các tinh thể có màu sắc khác nhau – trắng và đỏ tía và xanh lục, như thể tôi ở bên trong một tinh hốc đã được cắt đôi mà bạn nhìn thấy ở các cửa hàng lưu niệm. Tôi nằm một chiếc giường thoải mái với gối lông vũ và drap trải giường bằng vải cotton trắng. Cái hang được chia ra nhiều phần bởi những tấm rèm lụa màu trắng. Tựa vào một bức tường là một cái khung cửi dệt vải và một cây đàn hạc. Còn ở tường phía đối diện là những chiếc giá, bên là các lọ mứt hoa quả được xếp ngay ngắn. Các loại dược thảo khô được treo trần nhà: cây hương thảo, cỏ xạ hương, và một bó các loại khác. Nếu là mẹ tôi thì bà có thể đọc được tất cả tên của chúng.

      Có một lò sưởi được bên trong thành hang, và một chiếc ấm sôi sùng sục phía ngọn lửa. Mùi của nó thật tuyệt, giống như món thịt bò hầm vậy.

      Tôi ngồi dậy, ́ lờ cái đầu đau nhức. Tôi nhìn hai cánh tay, chắc mẩm chúng phải bị sẹo kinh khủng lắm, nhưng hình như chúng vẫn ổn. Hơi đỏ tấy hơn bình thường một chút, nhưng đến nỗi tệ. Tôi mặc một chiếc áo phông cotton trắng và chiếc quần dải rút, tất cả đều phải của tôi. Hai chân cũng chẳng có giày. Trong giây phút hốt hoảng, tôi tự hỏi biết điều gì sẽ xảy ra với thanh Thủy Triều, nhưng tôi cảm giác được cây bút nằm trong túi tôi, ở chỗ quen thuộc của nó.

      chỉ có thế mà cả chiếc còi băng gọi chó cũng quay lại nằm trong túBằng cách nào đó chúng đã theo tôi. Nhưng điều đó cũng thật sự làm tôi yên lòng.

      Tôi đứng dậy một cách khó khăn. Nền nhà bằng đá lạnh buốt dưới chân tôi. Tôi quay lại và thấy bóng mình trong một chiếc gương đồng sáng bóng.

      “Poseidon thần thánh,” tôi lẩm bẩm. Trông tôi giống như vừa sụt chục ký mà trước giờ ́ mãi vẫn giảm được. Đầu tóc tôi trông như tổ quạ. Nó bết vào như bộ râu của thần Hephaestus. Nếu đến ngã tư mà trông thấy ai đó với bộ mặt này tiến tới xin tiền thì tôi sẽ khóa ngay cửa xe lại.

      Tôi ngoảnh mặt chỗ khác. Lối vào trong động ở phía bên trái tôi. Tôi thẳng về phía có ánh sáng.

      Hang động hướng mặt ra một thảo nguyên xanh ngát. Bên trái là khu rừng tuyết tùng nhỏ và bên phải là một vườn hoa khổng lồ. Tiếng nước chảy róc rách phát ra từ bốn đài phun nước được đặt giữa thảo nguyên, nước được bắn ra từ các ống sáo của tượng thần rừng bằng đá. Trước mặt tôi, thảm cỏ chạy dài xuống một bãi biển lởm chởm đá. Những con sóng từ dưới hồ vỗ lên bờ. Tôi có thể nói đó là một cái hồ vì..., ừm, đơn giản là tôi biết. Nước ngọt. phải nước mặn. Ánh mặt trời chiếu xuống mặt nước long lanh, và bầu trời xanh trong trẻo. Nơi này giống như thiên đường vậy, ngay lập tức nó làm tôi lo lắng. Nếu bạn phải đối mặt với những câu chuyện thần thoại hoang đường suốt mấy năm trời thì bạn sẽ hiểu thiên đường chỉ xuất hiện khi bạn đã toi mạng.

      gái với mái tóc tết màu caramen, người tự xưng là Calypso, đứng chỗ bờ đá và nói chuyện cùng ai đó. Tôi nhìn rõ ta vì ánh sáng hắt lên từ dưới hồ, nhưng hình như họ cãi nhau chuyện gì đó. Tôi ́ nhớ lại những gì tôi biết về Calypso qua những câu chuyện thần thoại ̉. Tôi đã nghe cái tên này rồi, nhưng... tôi chẳng nhớ gì cả. ta có phải quái vật nhỉ? ta giăng bẫy các hùng và giết họ? Nhưng nếu ta là ác quỷ thì tại sao tôi vẫn còn sống?

      Tôi chậm rãi bước tới chỗ ấy vì chân tôi vẫn còn tê. Khi thảm cỏ đã chuyển thành thảm sỏi, tôi nhìn xuống để giữ thăng bằng, và khi tôi ngẩng lên thì gái chỉ có một mình ở đó. ấy mặc một chiếc áo đầm kiểu Hy Lạp tay màu trắng, đường viền ̉ áo tròn thấp được ́nh vàng. ấy dụi mắt như thể vừa mới khóc xong vậy.

      “Ừm,” ấy cất tiếng, ́ nở một nụ cười, “cuối cùng cũng thức giấc rồi.”

      nóiai thế?” Giọng tôi nghe như một con ếch đã ngồi vài ngày trong lò vi sóng.

      “À... một người đưa tin thôi,” ấy nói. “ cảm thấy thế nào?”

      “Tôi đã ngủ bao lâu rồi?”

      “Thời gian,” Calypso đăm chiêu. “Ở đây thời gian là khái niệm khó nắm bắt. Thực sự tôi biết đâu, Percy.”

      biết tên tôi à?”

      nói mơ trong khi ngủ.”

      Tôi đỏ mặt. “À ừ, cũng có người nói với tôi điều đó rồi.”

      “Ừ, Annabeth là ai?”

      “À, ừm, một người bạn. Chúng tôi cùng nhau khi – mà chờ đã, sao tôi đến được đây? Tôi ở đâu?”

      Calypso với tay vuốt mái tóc bết dính của tôi. Tôi lo lắng lùi lại.

      “Tôi xin lỗi,” ấy nói. “Tôi đã quen với việc chăm sóc cho rồi. Với câu hỏi làm thế nào tới được đây, thì rơi từ trời xuống. rơi xuống nước, ngay chỗ kia kìa.” ấy chỉ ra phía hồ. “Tôi hiểu sao lại sống sót. Dường như nước đã nâng đỡ cho khỏi bị thương vì cú ngã. Còn câu hỏi ở đâu, thì đây là Ogygia.”

      ấy phát nghe như oh-jee-jee-ah.

      “Ở đây có gần núi St. Helens ?” Tôi hỏi, vì kiến thức ̣a lý của tôi khá tệ.

      Calypso cười. Đó là một nụ cười kìm nén, như thể ấy nhận ra tôi khá buồn cười nhưng muốn làm tôi ngượng. ấy cười rất đáng .

      “Nó chẳng gần bất cứ nơi nào cả, chàng trai dũng cảm ạ,” ấy nói. “Ogygia là hòn đảo bằng ảo ảnh của tôi. Nó tồn tại như chính nó, ở mọi nơi và đâu cả. có thể an toàn dưỡng thương ở đây. phải sợ gì cả.”

      “Nhưng các bạn của tôi...”

      “Annabeth,” ấy nói. “Và Grover và Tyson đúng ?”

      “Đúng!” tôi nói. “Tôi phải quay lại với họ. Họ gặp nguy hiểm.”

      ấy chạm vào mặt tôi, và lần này tôi lùi lại nữa. “Cứ nghỉ ngơi đã. Từ giờ đến khi khỏi hẳn sẽ chẳng giúp được gì cho các bạn mình

      Khi ấy nói vậy tôi mới nhận ra mình mệt mỏi như thế nào. “ phải là... phải là một phù thủy độc ác, đúng ?”

      ấy e lệ mỉm cười. “Sao lại nghĩ vậy?”

      “À, vì trước đây tôi đã gặp Circe một lần rồi, bà ta cũng ở một hòn đảo cực kỳ xinh đẹp. Chỉ khác một điều là bà ta thích biến đàn ông thành chuột lang.”

      Calypso lại cười to. “Tôi hứa sẽ biến thành chuột lang.”

      “Hay bất cứ con gì khác?”

      “Tôi phải là một phù thủy độc ác,” Calypso nói. “Và tôi cũng phải kẻ thù của , người hùng ạ. Giờ thì nghỉ ngơi . Mắt díp vào rồi đấy.”

      ấy nói đúng. Đầu gối tôi rã rời, và tôi có lẽ đã ngã sấp mặt xuống bãi sỏi nếu Calypso giữ tôi lại. Tóc ấy có mùi quế. ấy rất khỏe, hoặc là tôi quá yếu. ấy dìu tôi quay lại chiếc ghế có lót nệm bên cạnh đài phun nước và giúp tôi nằm xuống.

      “Nghỉ ngơi ,” ấy ra lệnh. Và tôi thiếp trong thanh của các đài phun nước, hương quế và hương bách xù.

      Lần thứ hai tôi thức giấc là lúc nửa đêm, nhưng tôi chắc là đêm hôm đó hay nhiều đêm sau nữa. Tôi nằm giường bên trong hang động, nhưng tôi bật người dậy, khoác chiếc áo choàng lên người và nhẹ nhàng ra ngoài. Những vì sao thật rực rỡ – có hàng ngàn ngôi sao như thế, giống như bạn chỉ có thể nhìn thấy chúng khi ở vùng quê. Tôi có thể kể ra tất cả những chòm sao mà Annabeth đã dạy cho tôi: Ma Kết, Phi Mã, Nhân Mã. Và kia, ở gần đường chân trời phía nam là một chòm sao mới: chòm sao Thợ săn, để tưởng nhớ một người bạn của chúng tôi đã qua đời mùa đông năm ngoái.

      “Percy, nhìn cái gì thế?”

      Mắt tôi quay trở lại với mặt đất. Các chòm sao dù có chói lòa đến đâu cũng thể sánh với vẻ đẹp rực rỡ của Calypso. Ý tôi là, tôi đã từng tận mắt nhìn thấy nữ thần tình , nữ thần Aphrodite, và tôi sẽ lớn tiếng nói điều này ra kẻo nữ thần sẽ cho tôi nổ tung thành cát bụi, nhưng quả tình mà nói, Calypso đẹp hơn rất nhiều, bởi ấy trông rất tự nhiên, như hề ́ gắng để trở nên xinh đẹp, và cũng chẳng mấy quan tâm điều đó. ấy chỉ là ấy mà thôi. Với mái tóc tết gọn và chiếc váy trắng, ấy như tỏa sáng trong ánh trăng. ấy giữ một ây nhỏ trong tay. Những bông hoa của nó có màu bạc và mỏng manh.

      “Tôi chỉ nhìn...” tôi nhận ra mình nhìn chăm chăm vào mặt ấy. “Ừm... tôi quên rồi.”

      ấy cười dịu dàng. “Ừ, nhân lúc thức, hãy giúp tôi trồng các cây này nhé.”

      ấy đưa cho tôi một cái cây với một cục đất bám rễ. Những bông hoa sáng lên khi tôi cầm vào chúng. Calypso nhặt cái mai làm vườn lên và chỉ tôi về phía bìa vườn, nơi ấy bắt đầu đào đất.

      “Đó là Mảnh Trăng,” Calypso giải thích. “Chỉ có thể trồng nó vào ban đêm thôi.”

      Tôi quan sát thứ ánh sáng màu bạc lấp lánh xung quanh các cánh hoa. “Nó có tác dụng gì?”

      “Tác dụng?” Calypso trầm ngâm. “Thực ra nó chẳng có tác dụng gì cả, tôi nghĩ vậy. Nó sống, nó phát sáng, nó đẹp mắt. Còn cần tác dụng gì nữa ?”

      “Tôi đoán là ,” tôi trả lời.

      ấy nhận lại cái cây, và tay chúng tôi chạm nhau. Những ngón tay của ấm áp. ấy trồng Mảnh Trăng và lùi lại vài bước ngắm thành quả của mình. “Tôi khu vườn của mình.”

      “Thật tuyệt vời,” tôi đồng ý. Tôi phải kiểu người thích vườn tược, nhưng Calypso có những lùm cây với sáu loại hoa hồng có màu sắc khác nhau, hàng rào mắt cáo là những dây hoa rạng đông, một luống nho với những chùm nho đỏ, tím có thể khiến thần Dionysus phải đứng dậy và cầu xin.

      “Ở nhà,” tôi nói, “mẹ tôi lúc nào cũng mong có một khu vườn.”

      “Sao bà ấy thể tự trồng một cây?”

      “À, chúng tôi sống ở Manhattan. Trong một căn hộ.”

      “Manhattan? Căn hộ?”

      Tôi chăm chú nhìn ấy. “ hiểu tôi nói gì, đúng ?”

      “Tôi sợ là . Tôi đã rời Ogygia... từ lâu lắm rồi.”

      “Ừm, Manhattan là một thành phố lớn, và chẳng có nhiều gian cho vườn tược đâu.”

      Calypso nhíu mày. “Vậy thì buồn nhỉ. Thần Hermes thỉnh thoảng vẫn tới thăm. Ông ấy nói thế giới bên ngoài đã thay đổi rất nhiều rồi. Tôi ngờ n thay đổi đến nỗi mọi người có cả vườn nữa.”

      “Sao lại rời hòn đảo của mình?”

      ấy nhìn xuống đất. “Đó là hình phạt dành cho tôi.”

      “Tại sao? đã làm gì sai?”

      “Tôi à? Chẳng làm gì. Nhưng có lẽ cha tôi đã làm nhiều điều sai trái. Tên ông ấy là Atlas.”

      Cái tên làm tôi lạnh sống lưng. Tôi đã gặp vị thần Titan tên Atlas vào mùa đông năm ngoái, và đó chẳng phải là quãng thời gian vui vẻ gì. Ông ta đã rắp tâm giết những người mà tôi thương.

      “Nhưng,” tôi nói với vẻ do dự, “thật công bằng khi phạt vì những gì cha làm. Tôi biết một người con gái khác của Atlas. Tên ấy là Zo. ấy là một trong những người dũng cảm nhất mà tôi từng gặp.”

      Calypso nhìn tôi một lúc lâu. Đôi mắt ấy buồn rười rượi.

      “Có chuyện gì thế?” Tôi hỏi.

      ... đã khỏe hẳn chưa, người hùng của tôi? đã sẵn sàng để rời khỏi đây chưa?”

      “Gì cơ?” Tôi hỏi lại. “Tôi cũng biết.” Tôi cử động chân. Chúng vẫn còn tê cứng. Tôi bắt đầu cảm thấy choáng váng đau đầu vì phải đứng quá lâu. “ muốn đuổi tôi à?”

      “Tôi...” Giọng ấy nghẹn ngào. “Hẹn gặp ngày mai. Ngủ ngon nhé.”

      ấy chạy về hướng bờ hồ. Tôi quá bối rối và biết làm gì ngoài việc đứng nhìn ấy cho đến khi bóng ấy biến mất trong bóng tối.

      Tôi biết chính xác thời gian đã trôi qua bao lâu. Đúng như Calypso nói, thật khó để nắm bắt thời gian khi ở hòn đảo này. Tôi biết tôi cần phải . Ít nhất thì các bạn tôi cũng sẽ lo lắng. Và trong tình huống xấu nhất, có thể họ còn gặp nguy hiểm. Tôi còn biết Annabeth đã thoát khỏi núi lửa hay chưa. Tôi ́ kết nối đường dây giao cảm với Grover một vài lần, nhưng tôi thể liên lạc được. Tôi ghét cái cảm giác biết họ có ổn hay .

      Nhưng mặt khác, tôi vẫn còn yếu. Tôi sẽ thể đứng vững quá một vài giờ. Những gì tôi đã làm núi St. Helens đã vắt kiệt sức tôi hơn tất cả những gì tôi từng trải qua.

      Tôi cảm thấy mình giống một tùhay gì cả. Tôi nhớ đến Khách Sạn và Sòng Bài Hoa Sen ở Vegas, nơi tôi bị thôi miên và sa vào một thế giới trò chơi kỳ ảo cho đến khi tôi gần như quên mất mọi thứ tôi phải lo lắng đời. Nhưng hòn đảo Ogygia này lại chẳng có gì giống thế. Tôi chẳng bao giờ thôi nghĩ về Annabeth, Grover, và Tyson. Tôi vẫn biết tại sao mình cần rời khỏi đây. Chỉ là tôi... thể. Khi chỉ có một mình Calypso độc sống ở đây.

      ấy chẳng bao giờ nói nhiều về mình, nhưng điều đó càng làm tôi muốn biết nhiều hơn. Tôi có thể ngồi đồng cỏ, uống rượu thánh, và tôi sẽ ́ tập trung vào những bông hoa, những đám mây hay bóng của chúng trong hồ nước. Nhưng , thực sự tôi chỉ chăm chăm nhìn Calypso khi ấy làm việc, khi ấy ngồi chải mái tóc dài qua vai, và những sợi nhỏ vương mặt ấy mỗi khi ấy quỳ xuống đào hố trồng cây trong vườn. Thỉnh thoảng ấy lại giơ tay ra, và lũ chim sẽ bay từ trong rừng ra mà đậu lên tay ấy: vẹt, vẹt lorikeet và chim bồ câu. ấy sẽ chào buổi sáng, hỏi chúng xem chiếc tổ thế nào, và chúng sẽ líu lo một hồi rồi bay vui vẻ. Mắt Calypso sáng lên. ấy nhìn về phía tôi và chúng tôi cùng cười, nhưng gần như ngay lập tức ấy trở lại vẻ mặt buồn rầu và quay chỗ khác. Tôi hiểu điều gì làm ấy phiền lòng.

      Một buổi tối, khi chúng tôi ăn tối ở bờ hồ, những người phục vụ tàng hình đã dọn bàn ăn với món thịt bò hầm và nước ép táo. Nghe có vẻ có gì hấp dẫn, nhưng đó là vì bạn chưa được nếm chúng thôi. Khi mới tới hòn đảo này tôi mấy để ý đến những người phục vụ vô hình, nhưng sau một thời gian tôi bắt đầu nhận ra giường của tôi vẫn được dọn sạch sẽ, đồ ăn tự nấu, quần áo được giặt và gấp bởi những bàn tay vô hình.

      Lúc đó, Calypso và tôi dùng bữa, trông ấy thật xinh đẹp trong ánh nến. Tôi kể cho ấy nghe về New York và Trại Con Lai, và sau đó tôi kể cho ấy nghe về việc Grover đã ăn mất quả táo khi chúng tôi dùng nó để chơi đá cầu. ấy cười vui vẻ, một nụ cười đẹp đến sửng sốt, và chúng tôi bốn mắt nhìn nhau. Sau đó ấy lại cụp mắt xuống.

      “Lại thế nữa rồi,” tôi nói.

      luôn lẩn tránh, như ́ gắng cho mình được vui vẻ vậy.”

      ấy rời mắt khỏi ly nước táo. “Tôi đã nói rồi mà, Percy, tôi phải chịu một hình phạt. Một lời nguyền, có thể nói như vậy.”

      “Là sao? Kể cho tôi . Tôi muốn giúp .”

      nói thế. Xin đừng nói nữa.”

      “Kể cho tôi hình phạt đó là gì .”

      ấy đậy món thịt ăn dở lại bằng một cái khăn ăn, và ngay lập tức một người phục vụ vô hình tới và mang cái tô . “Percy, hòn đảo Ogygia này là nhà tôi, là nơi tôi sinh ra. Nhưng đây cũng là nhà tù của tôi nữa. Tôi bị... tù giam lỏng, theo ngôn ngữ của có lẽ là vậy. Tôi sẽ bao giờ được tới thăm thành phố Manhattan của . Hay bất cứ nơi nào khác. Tôi phải ở đây, một mình.”

      “Vì cha là Atlas.”

      ấy gật đầu. “Các vị thần tin tưởng bất cứ ai trong gia ̀nh của kẻ thù. Và đúng là như vậy. Tôi nên phàn nàn về điều đó. Một số nhà tù khác còn chẳng đẹp bằng nơi này của tôi.”

      “Nhưng như vậy là công bằng,” tôi nói. “ là con gái ông ta nhưng có nghĩa là theo phe ông ta. Một người con gái khác của ông ta mà tôi biết, Zo Nightshade... ấy còn chống lại chính cha mình. ấy có bị cầm tù đâu.”

      “Nhưng, Percy,” Calypso nhẹ nhàng nói, “Tôi từng đứng về phe ông ấy trong cuộc chiến thứ nhất. Ông ấy là cha tôi.”

      “Tại sao? Nhưng các thần Titan đều xấu xa!”

      “Vậy ư? Tất cả bọn họ ư? Và luôn luôn như vậy sao?” ấy mím môi. “ thử nói xem, Percy. Tôi chẳng muốn tranh cãi với , nhưng về phe các vị thần bởi vì họ tốt, hay vì đó là gia ̀nh ?”

      Tôi trả lời. ấy nói cũng đúng. Mùa đông năm ngoái khi Annabeth và tôi cứu ̉nh Olympus, các vị thần cũng có một cuộc thảo luận xem có nên giết tôi hay . Như thế cũng đâu thực sự là tốt. Nhưng tôi vẫn muốn ở bên họ vì thần Poseidon là cha tôi.

      “Có lẽ trong cuộc chiến đó, tôi đã sai,” Calypso nói. “Và công bằng mà nói, các thần cũng đối xử với tôi rất tốt. Thỉnh thoảng họ lại tới thăm tôi. Họ còn đem tới cho tôi thông tin về thế giới ngoài kia. Nhưng họ có thể , còn tôi thì .”

      có bạn sao?” Tôi hỏi. “Ý tôi là... có ai sống ở đây với sao? Nơi này rất tuyệt mà.”

      Một giọt nước mắt chảy xuống gò má gái. “Tôi... tôi đã tự hứa với mình sẽ nói điều này ra, nhưng...”

      ấy bị ngắt lời bởi thanh ùng ục từ dưới hồ nước vọng lên. Một quầng sáng xuất hiện phía chân trời. Nó cứ sáng dần, sáng dần, cho đến khi tôi trông thấy một ̣t lửa chuyển động mặt nước, và tiến dần về phía chúng tôi.

      Tôi đứng dậy và vươn tay cầm lấy thanh kiếm. “Cái gì vậy?”

      Calypso thở dài. “Một vị khách.”

      Khi ̣t lửa cập bờ, Calypso đứng dậy và nghiêm nghị cúi chào. Ngọn lửa biến mất và trước mặt chúng tôi là một người đàn ông cao lớn trong bộ đồ bảo hộ lao động màu xám và một chiếc nạng chân bằng kim loại, tóc và râu ông ta lửa cháy ỉ.

      “Ngài Hephaestus,” Calypso nói. “Thật là một vinh dự hiếm có.”

      Vị thần lửa lẩm bẩm. “Calypso. Lúc nào cũng xinh đẹp. có thể thứ lỗi cho chúng tôi một chút ? Tôi có vài lời muốn nói với bạn trẻ Percy Jackson này.”

      Thần Hephaestus vụng về ngồi xuống bàn ăn và gọi một ly Pepsi. Người phục vụ vô hình đem nước cho ông ta, rồi mở nó đột ngột khiến soda bắn tung tóe lên quần áo làm việc của vị thần. Thần Hephaestus gầm lên và nguyền rủa vài câu rồi vứt lon nước sang một bên.

      “Bọn hầu ngu độn,” ông ta lầm bầm. “Những con rô bốt thông minh có lẽ cần thiết cho ấy hơn. Chúng bao giờ cư xử lỗ mãng thế này!”

      “Thần Hephaestus,” tôi nói, “Có chuyện gì xảy ra sao? Có phải Annabeth đã...”

      bé ổn,” ông ấy nói. “Đó là một gái tháo vát. bé tự tìm được đường trở về và kể cho ta đầu đuôi câu chuyện. bé lo đến phát ốm, ngươi biết đấy.”

      “Ngài nói với ấy là tôi vẫn ổn à?”

      “Cái đó ta được nói,” thần Hephaestus trả lời. “Mọi người đều nghĩ là ngươi đã chết. Ta phải chắc chắn rằng ngươi sẽ quay về trước khi ta nói với mọi người rằng ngươi ở đâu chứ!”

      “Ngài nói thế là sao? Tất nhiên là tôi sẽ trở về rồi!”

      Thần Hephaestus nhìn tôi nghi ngại. Ông ấy rút cái gì đó ra khỏi túi – một vật dẹt bằng kim loại kích cỡ khoảng bằng chiếc iPod. Ông ấy bấm nút đó và nó mở rộng ra thành một chiếc ti vi nhỏ bằng đồng. màn hình là bản tin về ở núi St. Helens, một ̣t lửa và bụi lớn phụt lên trời.

      “Vẫn chưa liệu núi lửa có tiếp tục phun hay ,” phát thanh viên nói. “Các quan chức đã cầu di tản gần nửa triệu người để đề phòng núi lửa tiếp tục phun trào. Trong thời gian đó, tro đã bay tới tận hồ Tahoe và Vancouver, và cấm các phương tiện giao thông qua lại ở khu vực núi St. Helens trong bán kính một trăm dặm. Tuy chưa có thiệt hại nào về người được thông báo nhưng cũng có những người bị thương nhẹ và bệnh tật bao gồm...”

      Thần Hephaestus tắt ti vi. “Ngươi vừa tạo ra một vụ nổ khá lớn đấy.”

      Tôi nhìn đăm đăm vào cái màn hình bằng đồng trống rỗng. Một nửa triệu người phải sơ tán? Bị thương. Bệnh tật. Tôi đã làm gì thế này?

      “Lũ telekhine đã tháo chạy tán loạn,” vị thần bảo tôi. “Một số đã bốc hơi. Còn một số bỏ , chắc chắn là vậy. Ta nghĩ chúng sẽ quay lại dùng lò rèn của ta trong thời gian tới đâu. Mà cả ta cũng thế. Vụ nổ vừa rồi khuấy động giấc ngủ của Typhon. Chúng ta sẽ phải chờ xem thế nào...”

      “Tôi thể thả hắn ra được, đúng ? Ý tôi là, tôi mạnh đến thế!”

      Vị thần lẩm bẩm. “ mạnh đến thế ấy hả? Ngươi lừa ta à. Ngươi là con trai của vị thần chuyên gây động đất, chàng trai ạ. Ngươi biết rõ sức mạnh của chính mình.”

      Đó là điều cuối cùng tôi muốn ông ấy nói. Tôi đã kiểm soát được bản thân khi ở ngọn núi đó. Tôi đã sử dụng quá nhiều năng lượng đến nỗi suýt làm bốc hơi cả chính mình, vắt kiệt sự sống của chính bản thân. Giờ thì tôi hiểu tôi suýt phá hủy cả vùng Tây Bắc nước Mỹ và suýt nữa thì đánh thức cả một con quái vật cực kỳ nguy hiểm mà các vị thần lâu nay vẫn giam cầm. Có lẽ tôi đã quá nguy hiểm. Có lẽ tốt hơn đối với các bạn tôi khi để họ nghĩ rằng tôi đã chết.

      “Còn Grover và Tyson thì sao?” tôi hỏi.

      Thần Hephaestus lắc đầu. “Chẳng có tin tức gì, ta e là vậy. Ta nghĩ bọn họ ở trong Mê Cung.”

      “Vậy tôi phải làm sao đây?”

      Thần Hephaestus nhăn mặt. “Đừng bao giờ xin lời khuyên từ một người què già cả, bạn. Nhưng để ta nói cho ngươi cái này. Ngươi đã gặp vợ ta à?”

      “Nữ thần Aphrodite.”

      “Đúng, chính ta. ta xảo quyệt lắm đấy. Hãy cẩn thận với tình . Nó sẽ khiến cho não của ngươi x vòng, khiến ngươi tưởng là dưới, đúng là sai.”

      Tôi nghĩ về cuộc gặp của tôi với nữ thần Aphrodite, ở ghế sau của một chiếc xe Cadillac trắng sa mạc hồi năm ngoái. Bà ấy đã nói với tôi rằng rất chú ý đến tôi, và sẽ làm cho con đường tình cảm của tôi gặp nhiều trắc trở, chỉ vì bà ấy thích tôi.

      “Đây có phải một phần của kế hoạch đó ?” tôi hỏi. “Chính bà ấy cho tôi rơi xuống đây à?”

      “Có thể. thể nói chắc chắn đó là ta. Nhưng nếu ngươi quyết ̣nh rời khỏi nơi này – ta nói cái gì đúng, cái gì sai nhé – thì ta hứa sẽ đưa cho ngươi đáp án cho cuộc tìm kiếm của ngươi. Ta hứa sẽ chỉ cho ngươi đường tới chỗ Daedalus. Và đây mới là vấn đề. Chuyện này chẳng có liên quan gì đến sợi dây của Ariadne. hề. Tất nhiên là sợi dây vẫn hoạt động. Đó là những gì quân đội của các Titan theo đuổi. Nhưng cách tốt nhất để qua được mê cung là... Theseus đã có được sự giúp đỡ của công chúa. Và công chúa là một người bình thường chính hiệu. Chẳng có giọt máu thần linh nào chảy trong ấy cả. Nhưng ấy rất thông minh, và ấy có thể nhìn thấy, chàng trai ạ. ấy có thể nhìn thấy rất rõ. Nên những gì ta nói... ta nghĩ ngươi biết phải làm thế nào để ra khỏi rắc rối rồi đấy.”

      Cuối cùng tôi đã hiểu. Tại sao tôi thấy điều đó sớm hơn nhỉ? Nữ thần Hera nói đúng. Câu trả lời đã ở đó từ rất lâu rồi.

      “Đúng,” tôi nói. “Đúng vậy, tôi biết.”

      “Thế nên ngươi sẽ phải quyết ̣nh là có rời khỏi đây hay .”

      “Tôi...” Tôi rất muốn nói có. Tất nhiên là tôi sẽ rời khỏi đây. Nhưng tiếng cứ nghẹn lại trong ̉ tôi. Tôi thấy mình nhìn ra hồ, và đột nhiên câu nói sẽ rời khỏi nơi đây dường như trở nên rất khó khăn.

      “Đừng quyết ̣nh vội,” thần Hephaestus khuyên. “Chờ đến khi trời sáng . Bình minh là lúc tốt nhất để đưa quyết ̣nh đấy.”

      “Liệu Daedalus có giúp chúng tôi ?” tôi hỏi. “Ý tôi là, nếu ông ta cho Luke một con đường để thoát khỏi Mê Cung thì chúng tôi sẽ chết. Trong mơ tôi thấy... Daedalus giết cháu ruột của mình. Ông ta trở nên cay độc, tức giận và...”

      “Trở thành một nhà phát minh đại tài chẳng phải dễ dàng,” thần Hephaestus lầm bầm. “Lúc nào cũng độc. Lúc nào cũng bị hiểu lầm. Dễ trở nên cay độc, và gây ra những tội lỗi kinh hoàng. La việc với con người khó hơn với các ̃ máy nhiều. Và khi làm hại một con người thì thể sửa lại được.”

      Thần Hephaestus giũ những giọt Pepsi cuối cùng ra khỏi áo. “Daedalus đã khởi đầu rất tốt. Ông ta đã giúp công chúa Ariadne và Theseus vì ông ta thấy thương cảm với họ. Ông ta ́ gắng rất nhiều để làm việc tốt. Và cuộc đời ông ta trở nên tồi tệ cũng vì điều đó. Như thế liệu có công bằng ?” Vị thần nhún vai. “Ta biết liệu Daedalus có giúp các ngươi , bạn trẻ ạ, nhưng đừng vội phán xét về ai đó nếu chưa thử ở vào hoàn cảnh của họ, hiểu chưa?”

      “Tôi sẽ ́ gắng.”

      Thần Hephaestus đứng dậy. “Tạm biệt chàng trai. Ngươi đã làm rất tốt, tiêu diệt bọn telekhine. Ta sẽ luôn nhớ ngươi vì điều đó.”

      Nghe đúng là một lời tạm biệt, một lời kết thúc. Sau đó ông ta biến thành một ̣t lửa và di chuyển ra phía hồ, quay trở lại với thế giới bên ngoài.

      Tôi bộ dọc bờ nước đến vài giờ. Khi tôi quay lại thảm cỏ thì đã rất muộn, có lẽ là bốn hay năm giờ sáng, nhưng Calypso vẫn trong vườn và chăm sóc những đóa hoa bằng ánh sao. Cây Mảnh Trăng của phát ra màu sáng bạc, và những loài cây khác cũng hưởng ứng thứ phép thuật đó, phát ánh sáng màu đỏ, vàng và xanh.

      “Ông ta cầu trở về đúng ?” Calypso đoán.

      “À, phải cầu. Mà ông ấy cho tôi sự lựa chọn.”

      ấy nhìn vào mắt tôi. “Tôi hứa sẽ mời mọc .”

      “Mời mọc?”

      “Mời ở lại.”

      “Ở lại,” tôi nói. “Ở lại... mãi mãi ấy à?”

      “Ở hòn đảo này sẽ trở thành bất tử,” ấy nói nhẹ nhàng. “ sẽ bao giờ già, bao giờ chết. có thể để trận chiến đó cho người khác, Percy Jackson. có thể tránh được Lời Sấm Truyền về mình.”

      Tôi nhìn ấy chăm chăm, sửng sốt. “Chỉ như vậy sao?”

      ấy gật đầu. “Chỉ như vậy.”

      “Nhưng... các bạn của tôi?”

      Calypso đứng dậy và nắm lấy tay tôi, khiến tôi cảm thấy vô cùng ấm áp. “ hỏi tôi về lời nguyền, Percy. Tôi đã muốn kể cho . Sự thật là các vị thần thỉnh thoảng vẫn gửi cho tôi những người bạn đồng hành. Cứ khoảng một nghìn năm, họ lại cho một hùng trôi dạt đến đây, một người cần sự giúp đỡ của tôi. Tôi sẽ chăm nom, săn sóc người đó và trở thành bạn bè, nhưng điều này phải ngẫu nhiên. Ba vị Thần Mệnh đã ̣nh đoạt rằng người hùng mà họ gửi tới cho tôi là người...”

      Giọng ấy run run, và dừng lại.

      Tôi nắm tay ấy chặt hơn. “Sao vậy? Tôi đã làm điều gì khiến buồn hay sao?”

      “Họ đem tới một người nhưng người đó lại thể ở lại đây,” ấy thì thầm. “Một người chỉ có thể làm bạn với tôi trong một thời gian ngắn ngủi. Họ đem tới cho tôi một người hùng mà tôi thể... một kiểu người tôi thể .”

      Màn đêm tĩnh lặng, chỉ trừ tiếng nước róc rách chảy ra từ đài phun nước và những con sóng vỗ bờ. Phải mất một lúc lâu tôi mới hiểu ra những gì mà Calypso nói.

      “Tôi sao?” Tôi hỏi.

      “Nếu tự nhìn thấy khuôn mặt của mình.” ấy ́ nén lại một nụ cười, mặc dù mắt ấy vẫn ươn ướt nước. “Tất nhiên là rồi.”

      “Đó là lý do tại sao luôn phải kiềm chế sao?”

      “Tôi đã rất ́ gắng, nhưng tôi thể. Ba vị Thần Mệnh thật ác nghiệt. Họ đem tới đây, người hùng của tôi, mặc dù họ biết sẽ làm tim tôi tan nát.”

      “Nhưng... tôi chỉ... ý tôi là tôi chỉ là tôi.”

      “Vậy là đủ rồi,” Calypso hứa hẹn. “Tôi đã tự nhủ sẽ bao giờ nói đến chuyện này. Tôi sẽ để , và níu kéo gì cả. Nhưng tôi thể. Có lẽ Ba vị Thần Mệnh cũng biết điều này. có thể ở lại mà, Percy. E rằng đó là việc duy nhất có thể giúp tôi.”

      Tôi nhìn về phía chân trời. Những tia sáng màu đỏ đầu tiên của bình minh ló rạng bầu trời. Tôi có thể ở đây, mãi mãi, biến mất khỏi trái đất. Tôi có thể sống cùng Calypso, với những người hầu vô hình làm bất cứ những gì mà tôi cầu họ. Chúng tôi có thể trồng hoa trong vườn và nói chuyện với lũ chim, dạo bãi biển dưới bầu trời xanh trong trẻo. chiến tranh. có Lời Sấm Truyền nào cả. còn cần phải chọn lựa phe để ủng hộ.

      “Tô thể,” tôi trả lời.

      ấy buồn bã cúi xuống.

      “Tôi sẽ bao giờ làm điều gì để khiến đau khổ,” tôi nói, “nhưng bạn bè cần tôi. Giờ tôi biết làm thế nào để giúp họ rồi. Tôi phải quay về thôi.”

      ấy ngắt một bông hoa từ trong vườn – một cành hoa Mảnh Trăng bằng bạc. Ánh hào quang của nó tắt dần khi mặt trời mọc. Bình minh là thời điểm tốt nhất để đưa ra quyết ̣nh. Thần Hephaestus đã nói vậy. Calypso nhét bông hoa vào túi áo phông của tôi.

      ấy kiễng chân hôn lên trán tôi, như một lời cầu nguyện. “Vậy hãy tiến về phía bờ nước . Và tôi sẽ giúp quay về nhà.”

      Một chiếc bè được tạo thành từ những thanh gỗ ghép vào và rộng khoảng ba mét vuông, ̣t buồm làm bằng một cây sào và đó treo một mảnh vải trắng làm buồm trông cực kỳ đơn giản. Trông nó thể biển được, hoặc thể hồ được.

      “Nó sẽ giúp đến bất cứ nơi nào muốn,” Calypso nói. “Và nó cũng rất an toàn.”

      Tôi nắm lấy tay ấy, nhưng ấy rụt tay lại.

      “Có thể tôi sẽ lại tới thăm ,” tôi nói.

      ấy lắc đầu. “Chẳng ai tìm được đảo Ogygia đến hai lần, Percy. Khi nghĩa là tôi sẽ chẳng bao giờ được gặp lại nữa.”

      , tôi xin đấy.” Giọng ấy nghẹn ngào. “Ba vị Thần Mệnh thật ác nghiệt, Percy. Chỉ cần nhớ tới tôi thôi.” Rồi một nụ cười cũng nở môi ấy. “Hãy trồng nó trong vườn ở Manhattan vì tôi nhé?”

      “Tôi hứa.” Tôi bước lên chiếc bè và ngay lập tức nó rời bờ.

      Khi chiếc bè ra đến giữa hồ, tôi mới thực sự nhận ra Ba vị Thần Mệnh đã ác nghiệt đến thế nào. Họ đưa đến cho Calypso một người mà ấy thể ... nhưng lần này nó đã tác động hai chiều. Đến hết cuộc đời này, tôi sẽ mãi nhớ ấy. Và gái ấy mãi là một chữ NẾU NHƯ lớn nhất của tôi.

      Chỉ trong vài phút đảo Ogygia đã biến mất trong màn sương. Tôi một mình giữa hồ và bơi về phía mặt trời.

      Rồi sau đó tôi bảo cái bè phải làm gì. Tôi nói cho nó nơi duy nhất tôi nghĩ đến, vì tôi cần sự an ủi và cần những người bạn của tôi.

      “Trại Con Lai,” tôi nói. “Đưa ta về nhà.”

    4. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      XIII


      Vài giờ sau, bè của tôi cập vào Trại Con Lai. Tôi cũng hiểu tôi về được đây bằng cách nào nữa. hồ thì nước hồ biến thành nước biển, rồi bờ biển Long Island quen thuộc hiện ra trước mắt, và một cặp cá mập trắng quen thuộc ngoi lên mặt nước kéo tôi vào bờ.

      Khi tôi dừng lại, Trại Con Lai dường như bị bỏ . là buổi chiều muộn nhưng khu vực bắn cung lại trống huếch. Tường để tập trèo thì dung nham cứ ì èo tuôn chảy một mình. Sảnh đường: chẳng có gì. Các khu nhà: đều trống . Rồi sau đó tôi để ý thấy có một đám khói bốc lên từ phía đài vòng. Còn quá sớm để đôt lửa trại, và tôi nghĩ là họ nướng bánh marshmallow. Tôi bèn chạy về phía đó.

      Nhưng trước khi tôi đến được đó, tôi đã nghe thấy tiếng bác Chiron ra thông báo. Khi nghe được những gì bác ấy nói, tôi đứng khựng lại.

      “... cho rằng cậu ấy đã chết,” bác Chiron nói. “Sau một thời gian dài im lặng, có lẽ lời cầu nguyện của chúng ta đã được trả lời. Ta đã nhờ người bạn tốt nhất còn sống của cậu ấy cử hành nghi thức tôn vinh cuối cùng.”

      Tôi xuất hiện ở phía sau khán đài, nhưng chẳng ai để ý đến tôi. Họ đều nhìn về phía trước, khi Annabeth cầm một tấm vải liệm bằng lụa xanh dài có thêu một cây đinh ba và đặt nó vào trong ngọn lửa. Họ đốt vải liệm cho tôi.

      Annabeth quay lại phía mọi người. Trông ấy thật kinh dị. Mắt ấy sưng húp vì khóc, nhưng vẫn ́ nói, “Có lẽ cậu ấy là người bạn dũng cảm nhất mà tôi từng có. Cậu ấy...” Rồi ấy nhìn thấy tôi. Mặt ấy đỏ lựng lên. “Cậu ấy kia kìa!”

      Những cái đầu quay lại. Mọi người há hốc mồm nhìn tôi.

      “Percy!” Beckendorf cười nhăn nhở. Một đám trẻ khác vây quanh tôi và vỗ vào lưng tôi. Tôi nghe thấy vài câu nguyền rủa từ phía nhà thần Ares, nhưng Clarisse chỉ tròn mắt ngạc nhiên, như thể ấy thể tin được là tôi sống sót. Bác Chiron chạy bay đến và mọi người nhường đường cho bác ấy.

      “Được rồi,” bác ấy thở dài như một sự giải thoát thể tin được là mình lại chưa bao giờ vui hơn thế này khi thấy một trại viên trở về. Nhưng cháu phải kể cho bác nghe...”

      “CẬU ĐÃ Ở ĐÂU THẾ?” Annabeth ngắt lời bác Chiron, gạt hết những trại viên khác ra. Tôi tưởng ấy chuẩn bị đấm tôi, nhưng thay vào đó, ấy ôm tôi chặt đến nỗi tôi suýt gãy xương sườn. Tất cả các trại viên khác đều im lặng. Rồi sau đó nhận ra những gì mình làm, Annabeth đẩy tôi ra và nói: “Tôi... chúng tôi nghĩ cậu đã chết rồi cơ, Óc Tảo Biển!”

      “Tớ xin lỗi,” tôi nói. “Tớ lạc.”

      LẠC?” ấy hét lớn. “Lạc mà hai tuần hả, Percy? Cậu đã ở chỗ nào...”

      “Annabeth,” bác Chiron ngắt lời. “Có lẽ chúng ta nên nói chuyện này ở một nơi nào đó riêng tư hơn, được . Tất cả mọi người quay lại với công việc hàng ngày !”

      đợi chúng tôi phản kháng, bác Chiron nhấc bổng tôi và Annabeth một cách dễ dàng như thể chúng tôi là những con mèo con, vứt chúng tôi lên lưng và phi nước đại về phía Nhà Lớn.

      Tôi đã kể hết câu chuyện cho họ nghe. Tôi thể nói về Calypso. Tôi đã giải thích việc mình tạo nên vụ nổ tại núi St. Helens như thế nào, và bị bắn tung ra khỏi núi lửa ra sao. Tôi nói với họ rằng tôi lạc đến một hòn đảo, rồi sau đó thần Hephaestus tìm thấy tôi và nói với tôi rằng tôi có thể rời hòn đảo. Một chiếc bè có phép thuật đã đưa tôi trở lại trại.

      Tất cả những chuyện đó đều đúng, nhưng khi kể lại lòng bàn tay tôi vẫn ướt đẫm mồ hôi.

      “Cậu đã biến mất hai tuần nay.” Giọng Annabeth đã bình tĩnh hơn, nhưng trông ấy vẫn còn khá sốc. “Khi tớ nghe thấy vụ nổ, tớ tưởng...”

      “Tớ biết rồi,” tôi nói. “Tớ xin lỗi, nhưng tớ đã biết được cách qua Mê Cung rồi. Tớ đã nói chuyện với thần Hephaestus.”

      “Ông ấy cho cậu câu trả lời à?”

      “Ừ, đại khái ông ấy nói là tớ đã biết câu trả lời. Và đúng là như vậy. Giờ thì tớ đã hiểu.”

      Tôi nói cho họ nghe ý tưởng của tôi.

      Annabeth há hốc miệng. “Percy, điều đó thật là điên rồ!”

      Bác Chiron ngồi lùi lại trong chiếc xe lăn của mình và vuốt râu. “Tuy nhiên luôn có những tiề lệ. Theseus thì có sự giúp đỡ của Ariadne. Harriet Tubman(16), con gái của thần Hermes, cũng đã sử dụng rất nhiều người thường ở Đường Sắt Ngầm chỉ vì lí do này.”

      “Nhưng đây là cuộc tìm kiếm của cháu,” Annabeth nói. “Cháu phải là người dẫn đường.”

      Bác Chiron trông được thoải mái cho lắm. “Cháu , đó đúng là cuộc tìm kiếm của cháu. Nhưng cháu cần sự giúp đỡ.”

      “Và việc đó được cho là sự giúp đỡ sao? Bác ơi, điều đó hoàn toàn sai. Đó là hèn nhát, đó là...”

      “Thật khó khi phải thừa nhận rằng chúng ta cần sự giúp đỡ của con người,” tôi nói. “Nhưng đó là sự thật.”

      Annabeth liếc nhìn tôi đầy giận dữ: “Cậu là một kẻ phiền nhiễu nhất mà tớ từng gặp đấy!” Nói rồi ấy lao ra khỏi phòng.

      Tôi đăm chiêu nhìn cửa ra vào. Lúc này tôi chỉ muốn đánh vào cái gì đó. “Quá nhiều cho việc là người bạn dũng cảm nhất mà ấy từng có.”

      “Con bé sẽ bình tĩnh trở lại thôi,” bác Chiron hứa hẹn. “Nó ghen đấy, cháu ạ.”

      “Thật là ngu ngốc. ấy ... phải...”

      Bác Chiron cười khúc khích. “Chẳng vấn đề gì đâu. Annabeth rất quan tâm đến bạn bè mình, do cháu để ý đấy thôi. Con bé đã rất lo lắng cho cháu. Và giờ thì cháu đã trở về, ta nghĩ con bé nghi ngờ biết cháu đã lạc đâu.”

      Ánh mắt chúng tôi gặp nhau, và tôi biết bác Chiron đã đoán được về Calypso. Thật khó để giấu điều gì với một người từng huấn luyện các hùng suốt mấy nghìn năm nay. Bác ấy hiểu quá rõ điều đó.

      “Chúng ta nói nói lại mãi về lựa chọn của cháu,” bác Chiron nói. “Cháu đã quay lại. Vấn đề nằm ở đó.”

      “Hãy nói với Annabeth điều đó.”

      Bác Chiron mỉm cười. “Sáng mai bác sẽ bảo Argus đưa hai cháu đến Manhattan. Cháu có thể qua thăm mẹ nữa Percy ạ. Bà ấy... quẫn trí là điều có thể hiểu được.”

      Tim tôi như ngừng một nhịp. Trong suốt thời gian ở đảo của Calypso, tôi chưa bao giờ nghĩ về cảm giác của mẹ tôi. Mẹ sẽ nghĩ là tôi đã chết. Mẹ sẽ đau buồn mòn mỏi đến chết mất. Sao tôi lại hê nghĩ gì đến mẹ mình nhỉ?

      “Bác Chiron,” tôi hỏi, “còn Grover và Tyson thì sao? Bác có nghĩ...”

      “Bác biết.” Bác Chiron nhìn vào cái lò sưởi nguội giá. “Juniper khá đau khổ. Tất cả các cành cây của ấy chuyển sang màu vàng. Hội đồng Trưởng lão Cloven đã thu hồi giấy phép tìm kiếm khi có sự hiện diện của Grover. Cho dù cậu ấy có còn sống quay trở lại thì họ cũng sẽ ép cậu ấy đày trong tủi hổ thôi.” Bác ấy thở dài. “Tuy nhiên Grover và Tyson đều là người tháo vát. Chúng ta vẫn có thể hy vọng.”

      “Đáng lẽ cháu nên để cho họ .”

      “Grover có số phận riêng của cậu ấy, và Tyson cũng rất dũng cảm khi theo Grover. Nếu Grover gặp nguy hiểm nguy đến tính mạng thì cháu phải biết chứ, đúng ?”

      “Cháu cho là thế. Sợi dây giao cảm. Nhưng...”

      “Có một số việc ta muốn nói với cháu, Percy,” bác ấy nói. “Thực ra là có hai tin mấy hay ho.”

      “Tuyệt.”

      “Chris Rodriguez, vị khách của chúng ta...”

      Tôi nhớ lại những gì mình đã nhìn thấy ở tầng hầm, Clarisse ́ nói chuyện với cậu ấy trong khi cậu lảm nhảm nói về Mê Cung. “ ta chết rồi sao?”

      “Chưa,” bác Chiron nói một cách dứt khoát. “Nhưng tình hình của cậu ta tồi tệ nhiều. Giờ cậu ta ở bệnh xá, quá yếu để có thể di chuyển. Bác đã phải ra lệnh Clarisse quay lại với lịch tập hàng ngày, vì con bé suốt ngày quanh quẩn bên giường bệnh. Cậu ta chẳng phản ứng với bất cứ điều gì. ăn mà cũng chẳng uống. Chẳng có thuốc nào của ta trị được. Cậu ta đơn giản đã mất hết nghị lực sống rồi.”

      Tôi rùng mình. Mặc dù đã cãi lộn với Clarisse nhiều lần nhưng tôi vẫn thấy tội nghiệp cho ta. ta đã ́ gắng hết sức để giúp Chris. Và sau khi đã vào Mê Cung thì tôi lại càng hiểu tại sao vua Minos có thể dễ dàng làm Chris phát điên lên như vậy. Nếu tôi phải quanh quẩn dưới đó một mình và được bạn bè giúp đỡ thì có lẽ tôi cũng chẳng bao giờ tìm được đường ra.

      “Và ta rất buồn phải thông báo rằng,” bác Chiron tiếp tục, “tin thứ hai còn kinh khủng hơn. Quintus biến mất rồi.”

      “Biến mất? Như thế nào ạ?”

      “Ba đêm trước ông ta lẻn vào Mê Cung. Juniper là người chứng kiến việc đó. Có lẽ cháu đã nói đúng về hắn.”

      “Ông ta là gián điệp cho Luke.” Tôi kể cho bác Chiron về Nông Trại Ba G – việc Quintus đã mua lũ bọ cạp ở đó như thế nào và việc Geryon cung cấp cho quân đội của Kronos những gì. “ thể trùng hợp như vậy được.”

      Bác Chiron thở dài nặng nề. “Quá nhiều kẻ phản bội. Ta đã hy vọng Quintus sẽ chứng minh hắn là bạn của chúng ta. Xem ra nhận ̣nh của ta thật là tồi tệ.”

      “Còn con O’Leary thì sao?” tôi hỏi.

      “Con chó ngao vẫn ở trong trường đấu. Nó chẳng cho ai tới gần cả. Bác muốn lùa nó vào chuồng... mà cũng muốn giết nó.”

      “Quintus sẽ bỏ nó như vậy đâu.”

      “Bác đã nói rồi, Percy, dường như chúng ta đã nhìn lầm về hắn. Giờ thì cháu phải chuẩn bị cho sáng mai . Cháu và Annabeth vẫn còn nhiều việc để làm lắm đấy.”

      Tôi để bác ấy lại chiếc xe lăn, mắt nhìn mông lung vào lò sưởi. Tôi tự hỏi biết đã bao nhiêu lần bác ấy ngồi đó và chờ đợi những hùng chẳng bao giờ quay lại.

      Trước bữa tối, tôi dừng lại một chút ở trường đấu kiếm. Rõ ràng con O’Leary cuộn tròn thành một đống đen sì giữa đấu trường và miễn cưỡng nằm nhai cái đầu của hình nộm chiến binh.

      Khi nhìn thấy tôi, nó sủa và nhảy bổ vào tôi. Tôi đứng đơ ra như khúc thịt. Tôi chỉ có đủ thời gian để nói, “Oa!” trước khi con chó ngao đẩy tôi xuống và liếm lên mặt tôi. Bình thường là con của thần biển Poseidon, tôi chỉ bị ướt người khi nào tôi muốn, nhưng sức mạnh của tôi hình như chẳng có tác dụng gì trước nước dãi của loài chó, vì tôi được tắm một trận ra trò.

      “Oa, thôi nào!” tôi la nheo nhéo. “ thở được rồi! Để tao đứng dậy chứ!”

      Cuối cùng tôi cũng đẩy được nó ra. Tôi gãi gãi tai nó và tìm cho nó một cái bánh quy cực kỳ khổng lồ dành cho chó.

      “Chủ của mày đâu?” tôi hỏi nó. “Sao ông ta lại bỏ mày, hả?”

      Nó rên rỉ, như thể cũng muốn biết điều đó lắm. Tôi đã hoàn toàn nghĩ rằng Quintus là kẻ thù, nhưng tôi vẫn hiểu sao ông ta lại để O’Leary ở lại. Điều duy nhất tôi có thể chắc chắn là ông ấy rất con chó siêu bự của mình.

      Khi vừa nghĩ ngợi lung tung về điều đó vừa lau nước dãi của con chó mặt thì tôi nghe thấy một giọng con gái cất lên, “May mà nó cắn lìa đầu cậu ra đấy.”

      Clarisse đứng ở đầu kia khán đài với khiên và kiếm trong tay. “Hôm qua đến đây luyện tập,” ta gầm gừ. “Con chó đó ̣nh nhai sống tớ.”

      “Nó là một con chó thông minh,” tôi nói.

      “Buồn cười nhỉ.”

      ta bước về phía chúng tôi. ConO’Leary gầm gừ, nhưng tôi vỗ vỗ đầu nó để nó bình tĩnh lại.

      “Con chó ngao đần độn,” Clarisse nói. “ ngăn cản tao luyện tập nữa à.”

      “Tớ đã nghe chuyện về Chris,” tôi nói. “Tớ rất tiếc.”

      Clarisse bước theo vòng tròn trong sân đấu. Khi tới gần hình nộm gần nhất, ta tấn công một cách dữ dội, chặt đứt đầu nó chỉ bằng một nhát kiếm và đâm thanh kiếm xuống đến tận ruột của con bù nhìn. ta rút kiếm ra và tiếp tục bước .

      “Ừ, đúng. Thỉnh thoảng mọi việc vẫn diễn ra theo hướng tồi tệ.” Giọng ta run run. “Các hùng bị thương. Họ... họ chết, nhưng quái vật thì vẫn sống lại.”

      ta nhặt một mũi lao lên và ném nó ngang qua trường đấu. Mũi lao đâm trúng giữa trán hình nộm, giữa hai hốc mắt mũ sắt.

      ta đã gọi Chris là hùng, như thể cậu ta chưa bao giờ đứng về phía các thần Titan. Điều đó làm tôi nhớ đến cái cách mà Annabeth thỉnh thoảng vẫn nói về Luke. Tôi muốn nhắc thêm chuyện đó nữa.

      “Chris rất dũng cảm,” tôi nói. “Hy vọng cậu ta sẽ đỡ hơn.”

      ta liếc tôi như thể tôi chuẩn bị là mục tiêu tiếp theo vậy. chó ngao O’Leary tiến lại gầm gừ.

      “Hãy giúp tôi một việc,” Clarisse bảo tôi.

      “Ừ, chắc chắn rồi.”

      “Nếu cậu tìm thấy Daedalus, đừng có tin hắn. Đừng có nhờ hắn giúp đỡ. Cứ giết hắn .”

      “Clarisse

      “Bởi vì đâu có phải người nào cũng có thể làm được cái gì đó như cái Mê Cung đó, Percy? Người đó chỉ là quỷ dữ. Hoàn toàn xấu xa.”

      Trong một khoảnh khắc, ta làm tôi nhớ đến chàng chăn bò Eurytion, người em cùng cha khác mẹ với ta. Trong mắt ta cũng có cái nhìn cứng cỏi, như thể ta đã cật lực trong hai nghìn năm qua và mệt mỏi vì điều đó. Clarisse tra kiếm vào bao. “Giờ luyện tập đã kết thúc. Từ giờ trở , chúng ta sẽ chiến đấu thật.”

      Đêm hôm đó, tôi lại được ngủ chiếc giường của chính mình, và lần đầu tiên kể từ khi ở đảo của Calypso, những giấc mơ đã tìm đến tôi.

      Tôi ở trong phòng xử án của nhà vua – một phòng xét xử lớn màu trắng với những chiếc ̣t ốp đá cẩm thạch và một chiếc ngai bằng gỗ. Ngồi đó là một gã béo mập với mái tóc đỏ quăn tít và đội một chiếc vương miện làm từ cành nguyệt quế. Đứng bên cạnh ông ta là ba gái, có vẻ là con gái ông. Họ đều thừa kế mái tóc đỏ và mặc những chiếc áo đầm dài màu xanh.

      Cánh cửa kẽo kẹt mở ra và sứ giả thông báo: “Minos, Vua vùng Crete!”

      Tôi căng thẳng, nhưng người đàn ông ngai vàng chỉ mỉm cười và nói với các con gái. “Ta thể chờ thêm nữa để xem biểu hiện mặt hắn.”

      Minos bước vào phòng. Trông hắn cao và uy nghi, khiến cho gã vua còn lại trở nên ngớ ngẩn. Bộ râu nhọn của Minos đã bạc trắng. Trông ông ta gầy hơn lần trước tôi gặp trong mơ, còn đôi xăng đan của ông ta cũng nhoe nhoét bùn đất, nhưng vẫn là ánh mắt độc ác sáng lấp lánh ấy.

      Hắn ta cúi chào một cách khó khăn với người đàn ông ngai vàng. “Vua Cocalus. Ta nghĩ ngài đã giải được câu đố nhỏ của ta rồi chứ?”

      Cocalus mỉm cười. “ nhỏ đâu, Minos. Đặc biệt khi ngài quảng bá khắp thế giới rằng ngài sẵn sàng trả một ngàn talăng vàng cho người nào có thể giải được câu đố đó. Lời đề nghị liệu có chính xác ?”

      Minos vỗ tay. Hai tên lính gác bước vào, ́ gắng di chuyển một cái thùng gỗ lớn. Họ đặt nó dưới chân Cocalus và mở ra. Hàng chồng, hàng chồng những thanh vàng sáng lấp lánh. Chúng phải trị giá đến nhiều triệu đô la.

      Cocalus huýt sáo cảm kích. “Ngài chắc phải làm phá sản cả vương quốc để có được món quà này ấy nhỉ, bạn

      “Ngươi cần phải quan tâm điều đó.”

      Cocalus nhún vai. “Thực ra câu hỏi đó khá đơn giản. Một trong các tùy tùng của ta đã giải được nó đấy.”

      “Cha,” một trong những con gái nhắc nhở. Có vẻ ta là con cả – cao hơn hai còn lại một chút.

      Cocalus lờ ta . Ông ta cầm một cái vỏ ốc xoắn từ trong tay áo ra. Một sợi dây bạc đã được xuyên qua nó, vì thế nó được treo giống cái hạt lớn chuỗi hạt đeo ̉.

      Minos bước lên phía trước và cầm lấy cái vỏ sò. “Ngài nói là một trong số các người tùy tùng của mình sao? Làm sao hắn có thể luồn dây mà làm vỡ vỏ sò?”

      “Hắn đã dùng một con kiến, nếu ngươi tin điều đó. Buộc một sợi lụa vào con vật nhỏ, dụ nó xuyên qua cái vỏ sò bằng cách đặt mật ong ở đầu bên kia.”

      “Thật là thông minh,” Minos nói.

      “Ồ, đúng vậy. Đó là gia sư của các con gái của ta. Bọn chúng đều rất thích ông ta.”

      Mắt Minos trở nên sắc lạnh. “Ta sẽ cảnh giác điều đó.”

      Tôi muốn cảnh báo cho Cocalus: Đừng tin gã này! Ném hắn vào ngục tối với mấy con sư tử ăn thịt người hoặc các con gì đó tương tự! Nhưng vị vua đầu đỏ chỉ cười khùng khục. “Đừng lo, Minos. Các con gái ta đều thông minh trước tuổi. Thế còn bây giờ, vàng của ta...”

      “Vâng,” Minos said. “Nhưng ngài thấy đấy, vàng này là dành cho người giải được câu đố. Và chỉ có người được nhận mà thôi. Ngài che giấu Daedalus.”

      Cocalus xoay người khó chịu chiếc ngai của hắn ta. “Sao ngài biết tên ông ta?”

      “Hắn là một tên trộm,” Minos nói. “Hắn từng làm việc cho ta, Cocalus. Hắn làm cho con gái ta chống lại ta. Hắn giúp một kẻ tiếm quyền biến ta thành trò hề ngay trong cung điện của ta. Và rồi hắn bỏ trốn. Ta đã tìm kiếm hắn suốt mười năm nay.”

      “Ta biết gì về chuyện này cả. Nhưng ta đã hứa bảo hộ ông ta. Ông ta là một trong những cận thần đắc lực...”

      “Ta cho ngài một lựa chọn,” Minos nói. “Giao tên phản bội cho ta, và số vàng này là của ngài. Hoặc là liều mạng biến ta thành kẻ thù. Chắc ngài muốn Crete là kẻ thù của chứ.”

      Mặt Cocalus biến sắc. Tôi nghĩ ông ta thật ngu ngốc khi tỏ ra sợ hãi như vậy ở giữa cung điện của chính mình. Đáng lẽ ông ta phải triệu tập quân đội ngay lập tức, hoặc làm gì đó. Minos chỉ đem theo mỗi hai tên lính gác. Nhưng Cocalus chỉ ngồi đó và toát mồ hôi.

      “Cha,” con gái cả nói, “cha thể...”

      “Im lặng, Aelia.” Cocalus xoắn xoắn râu mình. Ông ta nhìn chỗ vàng sáng lấp lánh một lần nữa. “Điều này khiến ta thật đau lòng, Minos. Các vị thần thích những người tôn trọng lòng hiếu khách của họ đâu.”

      “Họ cũng thích những người chứa chấp tội phạm đâu.”

      Cocalus gật đầu. “Tốt lắm. Ta sẽ trả gã đó cho ngài.”

      “Cha!” Aelia nói một lần nữa. Rồi sực nhớ ra điều gì, gái đổi sang một giọng nói ấm áp hơn. “Ít... ít nhất thì cũng để chúng con tiếp đãi vị khách của chúng ta đã. Sau chuyến dài, chắc ngài ấy sẽ cần tắm nước nóng, thay quần áo mới và một bữa ăn tươm tất. Con sẽ rất vinh hạnh nếu được chuẩn bị nước nóng cho ngài tắm.”

      ấy mỉm cười tươi tắn với Minos, và vị vua già lẩm bẩm. “Có lẽ tắm cũng phải là việc gì xấu xa.” Ông ta nhìn Cocalus. “Ta sẽ gặp ngài vào bữa tối. Cùng với tên tù binh nữa.”

      “Đường này, thưa Bệ hạ,” Aelia nói. cùng hai người em gái dẫn Minos ra khỏi khán phòng.

      Tôi theo họ vào một phòng tắm trang trí bằng đá khảm. Hơi nước bốc mù mịt trong khí. Nước nóng từ một chiếc vòi chảy vào bồn. Aelia và các em thả cánh hoa hồng và cái gì đó như “sản phẩm tạo bọt” của Hy Lạp ̉ đại, vì ngay lập tức một lớp bọt đầy màu sắc đã phủ đầy bồn nước. Các gái quay để Minos cởi áo choàng và bước vào bồn tắm.

      “Ahh.” Hắn ta mỉm cười. “Thật tuyệt vời. Cảm ơn các quý nhé. Quả là ta đã có một hành trình dài.”

      “Ngài đã đuổi theo kẻ phản bội đó suốt mười năm ư, thưa Bệ hạ?” Aelia chớp chớp mắt hỏi, “Chắc hẳn ngài phải quyết tâm lắm nhỉ?”

      “Nợ ta thì ta bao giờ quên.” Minos cười ha hả. “Cha các đồng ý với cầu của ta là thông minh đấy.”

      “Ôi, thưa Bệ hạ, quả là như vậy!” Aelia nói. Tôi thấy rõ ràng là ta niợ, nhưng lão vua già vẫn cứ điềm nhiên nhận nó. Các em của Aelia xức dầu thơm lên đầu nhà vua.

      “Ngài biết , Bệ hạ,” Aelia nói, “Daedalus đã nghĩ rằng ngài sẽ đến. Ông ấy nghi câu đố ngài đưa ra là một cái bẫy, nhưng ông ấy thể giải câu đố đó.”

      Minos nhíu mày. “Daedalus nói với các về ta sao?”

      “Vâng, thưa Bệ hạ.”

      “Hắn là một gã tồi, công chúa ạ. Chính con gái ta cũng bị bùa chú của hắn làm hại. Đừng có nghe hắn.”

      “Ông ấy là một thiên tài,” Aelia nói. “Ông ấy tin rằng phụ nữ cũng thông minh giống đàn ông. Ông ấy là người đầu tiên đã dạy chúng tôi như thể chúng tôi có suy nghĩ riêng của chính mình! Và có lẽ con gái ngài cũng có cảm giác như vậy.”

      Minos ́ ngồi thẳng lên, nhưng các em của Aelia đã ấn hắn xuống nước. Aelia xuất hiện đằng sau hắn. gái cầm ba quả cầu nhỏ trong tay. Ban đầu, tôi nghĩ đó là những viên dầu tắm, nhưng khi gái ném chúng xuống bồn nước, chúng mọc lên thành những sợi dây đồng cuốn chặt lấy vị vua, trói ̉ chân hắn lại, buộc hai tay hắn vào cạnh sườn và quấn quanh ̉ hắn. Mặc dù tôi ghét Minos nhưng chứng kiến cảnh này cũng khiến tôi kinh hãi. Hắn vùng vẫy kêu gào, nhưng các gái đó còn mạnh hơn nhiều. Chẳng mấy chốc hắn trở nên bất lực, nằm im trong nước và chỉ nhô từ cằm trở lên. Những sợi dây đồng vẫn cuốn lấy hắn như cái kén, càng ngày càng siết chặt hơn.

      “Các ngươi muốn gì?” Minos gặng hỏi. “Tại sao các ngươi làm thế này?”

      Aelia mỉm cười. “Daedalus đã rất tốt với chúng tôi, thưa Bệ hạ. Và tôi thích cái cách ông dọa nạt cha chúng tôi.”

      “Ngươi hãy nói với Daedalus,” Minos gầm lên. “Nói với hắn là đến chết ta cũng theo hắn! Nếu ̣a Ngục vẫn còn công lý thì linh hồn ta sẽ ám hắn suốt đời!”

      “Những từ ngữ thật dũng cảm, Bệ hạ,” Aelia nói. “Chúc ngài tìm được công lý dưới ̣a Ngục nhé.”

      Và cùng lúc đó, những sợi dây đồng cuốn quanh mặt Minos, biến hắn thành một xác ướp bằng đồng.

      Cửa nhà tắm bật mở. Daedalus bước vào, đem theo một chiếc túi du lịch.

      Ông ta đã tỉa thành tóc ngắn. Râu của ông ta trắng tinh. Trông ông buồn bã và yếu ớt, rồi ông cúi xuống và chạm vào trán cái xác ướp. Những sợi dây lỏng ra và chìm xuống đáy bồn. Chẳng có gì trong đó cả. Giống như vua Minos đã tan biến hoàn toàn.

      “Một cái chết đau đớn,” Daedalus trầm ngâm. “Thế là nhẹ nhàng cho hắn rồi. Cảm ơn các công chúa của ta.”

      Aelia ôm lấy ông. “Thầy thể ở đây nữa, thầy giáo! Khi cha ta phát hiện ra...”

      “Vâng,” Daedalus nói. “Ta cảm giác mình đã đem rắc rối cho các .”

      “Ồ, đừng lo cho chúng tôi. Cha cầm được đống vàng của lão già đó chắc vui lắm rồi. Và Crete cũng ở xa lắm. Nhưng cha ta sẽ đổ lỗi cho thầy về việc đã hại chết Minos. Thầy phải tới một nơi nào đó an toàn mới được”

      “Nơi nào đó an toàn,” người đàn ông già lẩm bẩm. “Suốt những năm qua ta đã lang bạt hết vương quốc này đến vương quốc khác nhằm tìm một nơi nào đó an toàn. Ta sợ điều Minos nói là sự thật. Cái chết cũng sẽ khiến hắn buông tha ta. một nơi nào dưới ánh mặt trời có thể che giấu ta một khi vụ giết người này bị bại lộ.”

      “Vậy thì thầy sẽ đâu?” Aelia hỏi.

      “Một nơi mà ta đã thề là bao giờ tới nữa,” Daedalus nói. “Nhà tù có lẽ là nơi trú ẩn duy nhất của ta.”

      “Ta hiểu,” Aelia nói.

      hiểu thì tốt hơn.”

      “Thế còn ̣a Ngục thì sao?” một trong hai em lên tiếng. “Những lời phán quyết khủng khiếp đợi thầy! Con người đều phải chết mà.”

      “Có thể,” Daedalus nói. Sau đó ông lôi trong túi du lịch của mình ra một cuộn giấy – giống như cuộn lần trước tôi đã nhìn thấy trong giấc mơ, với những dòng chữ của cháu ông ta. “Hoặc có thể .”

      Ông vỗ vai Aelia, rồi sau đó chúc phúc cho các chị em . Một lần nữa ông nhìn xuống những vòng dây đồng sáng lấp lánh dưới đáy bồn tắm. “Cứ tìm tao nếu mày dám, vua của những con ma ạ.”

      Ông ấy quay về phía bức tường khảm và chạm vào một viên đá. Một cái dấu phát sáng xuất hiện – một dấu của Hy Lạp – và bức tường mở về hai phía. Các công chúa há hốc miệng vì ngạc nhiên.

      “Thầy chưa bao giờ nói với chúng tôi về những lối bí mật!” Aelia nói. “Thầrất bận rộn.”

      “Mê Cung này mới bận rộn,” Daedalus chữa lại. “Đừng theo tôi nhé các gái, nếu các còn minh mẫn.”

      Tôi lại chuyển sang một giấc mơ khác. Tôi ở trong một căn phòng đá dưới mặt đất. Luke và một chiến binh á thần nữa đọc một tấm bản đồ bằng ánh sáng đèn pin.

      Luke chửi thề. “Đáng lẽ đó phải là chỗ rẽ cuối cùng rồi chứ.” Hắn ta vò nhàu tấm bản đồ và vứt qua một bên.

      “Thưa ngài!” người cùng hắn ta lên tiếng.

      “Bản đồ cũng vô dụng ở đây,” Luke nói. “Đừng lo. Ta sẽ tìm thấy nó.”

      “Thưa ngài, có đúng là nhóm càng đông...”

      “Thì càng dễ lạc chứ gì? Đúng vậy đấy. Thế ngươi nghĩ tại sao chúng ta lại cho từng người đơn lẻ thám thính đầu tiên chứ? Nhưng đừng lo, ngay khi có được sợi dây, chúng ta sẽ có thể đưa nguyên một đội quân tiên phong qua.”

      “Nhưng làm thế nào để chúng ta có được sợi dây?”

      Luke đứng dậy, bẻ các ngón tay. “À, Quintus sẽ tới đây. Và tất cả những gì chúng ta phải làm là tới trường đấu, đó là điểm gặp gỡ. Chúng ta thể đến bất cứ đâu nếu xuyên qua chỗ này. Đó là lý do tại sao chúng ta phải thỏa hiệp với chủ nhân của nó. Chúng ta phải sống sót cho tới khi...”

      “Thưa ngài!” một giọng lạ phát ra từ phía hành lang. Một gã trong bộ giáp Hy Lạp chạy tới, cầm theo một ngọn đuốc. “Dracaenae tìm thấy một con lai!”

      Luke quắc mắt: “Một mình? Lang thang trong mê cung sao?”

      “Vâng thưa ngài! Ngài hãy tới nhanh . Họ ở phòng kế bên. Họ dồn hắn vào chân tường rồi.”

      “Ai thế?”

      “Tôi chưa từng gặp người này.”

      Luke gật đầu. “Một đặc ân từ chúa tể Kronos. Có thể chúng ta sẽ dùng được tên con lai này. thôi!”

      Họ chạy về cuối theo hành lang, và lúc đó tôi tỉnh giấc, mắt nhìn đăm đăm vào bóng tối. Một con lai lang thang một mình trong mê cung. Phải mất một lúc lâu tôi mới ngủ trở lại được.

      Buổi sáng hôm sau tôi phải đa bảo có đủ bánh bích quy dành cho chó đem cho con O’Leary. Tôi nhờ Beckendorf để mắt trông chừng nó. Chắc cậu ta cũng chẳng vui sướng gì với việc này. Sau đó tôi bộ về phía Đồi Con Lai và gặp Annabeth cùng Argus ở đường.

      Annabeth và tôi nói chuyện nhiều khi ngồi xe. Còn Argus thì chẳng bao giờ mở miệng, có lẽ vì ấy có mắt ở khắp người, thậm chí – theo như tôi được biết – cả ở lưỡi nữa, và ấy muốn khoe nó ra.

      Annabeth trông cau có khó chịu, như thể giấc ngủ tối qua của ấy còn tệ hơn cả tôi.

      “Ác mộng à?” cuối cùng tôi cũng lên tiếng.

      ấy lắc đầu. “Một thông điệp Iris từ Eurytion.”

      “Eurytion ư! Nico có chuyện gì à?”

      “Thằng bé bỏ tối qua rồi, nó quay lại mê cung.”

      “Cái gì? Eurytion ngăn nó lại à?”

      “Nico bỏ trước khi Eurytion tỉnh dậy. Con Orthus lần theo mùi của thằng bé đến lưới ngăn gia súc. Eurytion nói mấy đêm vừa rồi vẫn thấy Nico tự nói chuyện một mình. Đến giờ ta mới hiểu có lẽ Nico lại nói chuyện với hồn ma, Minos.”

      “Thằng bé gặp nguy hiểm,” tôi nói.

      “Đúng vậy. Minos là một trong những kẻ phán xét cái chết, hắn là kẻ xấu xa. Tớ biết hắn muốn gì ở Nico, nhưng...”

      “Ý tớ phải vậy,” tôi nói. “Đêm qua tớ đã mơ thấy chuyện này...” Tôi kể cho ấy nghe về Luke, hắn đã nhắc tới Quintus như thế nào, và người của hắn tìm thấy một con lai lang thang trong mê cung một mình ra sao.

      Annabeth há hốc miệng. “Thật là quá, quá tệ!”

      “Vậy chúng ta làm gì bây giờ?”

      ấy nhướn mày. “Ít ra cậu cũng có một kế hoạch để chúng ta theo, đúng ?”

      Hôm đó là thứ Bảy, và giao thông vào thành phố tắc nghẽn. Chúng tôi tới căn hộ của mẹ tôi vào khoảng buổi trưa. Khi vừa mở cửa, bà đã dành cho tôi một cái ôm mạnh mẽ chẳng kém khi một con chó ngao nhảy bổ lên người bạn là mấy.

      “Mẹ đã nói với họ là con sao,” tuy nói vậy nhưng nghe giọng bà giống như vừa trút được một gánh nặng bằng cả bvai – và tin tôi – tôi trực tiếp biết quá rõ sức nặng đó là thế nào.

      Bà để chúng tôi ngồi ở bàn bếp và bắt chúng tôi ăn món bánh quy xanh phủ sôcôla đặc biệt của bà, trong khi chúng tôi kể cho bà nghe về nhiệm vụ lần này. Như thường lệ, tôi ́ gắng làm giảm nhẹ những phần kinh khủng (thực ra là tất cả các phần), nhưng chẳng hiểu thế nào việc đó lại làm cho câu chuyện càng thêm nguy hiểm.

      Khi tôi kể đến đoạn Geryon và cái chuồng ngựa, mẹ tôi giả vờ như chuẩn bị siết lấy ̉ tôi: “Tôi bắt nó dọn phòng thì được, thế mà nó lại dọn được cả tấn phân ngựa trong chuồng của một con quái vật vớ vẩn nào đó sao?”

      Annabeth cười lớn. Suốt một thời gian dài đây là lần đầu tiên tôi thấy ấy cười, thật vui làm sao.

      “Vậy là,” mẹ tôi nói sau khi tôi kể xong câu chuyện, “con đã tàn phá cả Đảo Alcatraz, làm nổ tung núi St. Helens và khiến cả nửa triệu người phải sơ tán, nhưng ít nhất thì con cũng an toàn.” Mẹ tôi là thế đấy, lúc nào cũng nhìn đời tích cực.

      “Vâng,” tôi đồng ý. “Như vậy cũng đủ rồi.”

      “Ước gì Paul ở đây,” bà gần như nói một mình. “Ông ấy muốn nói chuyện với con.”

      “Ồ đúng rồi, trường học.”

      Quá nhiều việc đã xảy ra khiến tôi suýt nữa thì quên khuấy mất buổi học ̣nh hướng ở trường Goode – rằng tôi đã rời hội trường trong biển lửa và bạn trai của mẹ tôi đã nhìn thấy tôi nhảy qua cửa sổ như một tên đào tẩu.

      “Mẹ nói gì với ông ấy?” Tôi hỏi.

      Mẹ tôi lắc đầu. “Mẹ nói gì được? Ông ấy biết có gì đó đặc biệt ở con, Percy. Ông ấy thông minh lắm. Ông ấy tin con phải là người xấu. Ông ấy biết có chuyện gì xảy ra, nhưng trường học gây áp lực với ông ấy. Ông ấy đã ́ gắng để con được nhận vào đó học. Và ông ấy cần phải thuyết phục họ rằng vụ cháy phải là lỗi của con. Nhưng vì con chạy mất nên mọi việc có vẻ tồi tệ.”

      Annabeth nhìn tôi chăm chú. Trông ấy có vẻ rất thông cảm. Tôi biết ấy từng ở vào trường hợp tương tự. Cuộc sống của con lai ở thế giới của người trần thật đơn giản.

      “Con sẽ nói chuyện với ông ấy,” tôi hứa hẹn. “Sau khi chúng con xong nhiệm vụ. Con sẽ kể cho ông ấy sự thật nếu mẹ muốn.

      Mẹ tôi đặt tay lên vai tôi. “Con sẽ làm vậy sao?”

      “Ừm, vâng, có lẽ ông ấy sẽ nghĩ chúng ta bị điên.”

      “Ông ấy đã nghĩ thế rồi mà.”

      “Vậy thì còn gì để mất đâu.”

      “Cảm ơn con, Percy. Mẹ sẽ nói với ông ấy là con sẽ trở về...” Bà cau mày. “Khi nào nhỉ? Bây giờ thì thế nào?”

      Annabeth bẻ đôi chiếc bánh quy. “Percy có một kế hoạch thế này ạ.”

      Tôi ngần ngại kể cho mẹ tôi nghe.

      Bà chậm rãi gật đầu. “Nghe có vẻ nguy hiểm. Nhưng có thể có tác dụng đấy.”

      “Mẹ cũng có các khả năng đó đúng ?” Tôi hỏi. “Mẹ có thể nhìn thấu Màn Sương Mù.”

      Mẹ tôi thở dài. “Giờ thì được nhiều nữa. Lúc mẹ còn trẻ thì dễ hơn. Nhưng đúng, mẹ lúc nào cũng nhìn được nhiều hơn mức bình thường. Đó là một trong những điều khiến cha con chú ý đến khi chúng ta mới gặp nhau. Hãy cẩn thận nhé. Hứa với mẹ là con sẽ an toàn nhé.”

      “Chúng cháu sẽ ́ gắng, Jackson ạ,” Annabeth nói. “Nhưng để bảo vệ con trai an toàn là việc khá khó khăn đấy.” Bà khoanh tay và nhìn ra ngoài cửa sổ. Tôi lau miệng và ́ gắng nói gì cả.

      Mẹ tôi nhíu mày. “Hai đứa con có chuyện gì sao? Vừa cãi nhau à?”

      Chúng tôi nói gì cả.

      “Mẹ hiểu rồi,” mẹ tôi gật gù, và tôi nghĩ có lẽ khả năng của bà ấy còn hơn cả mức nhìn thấu sự việc. Mẹ tôi nói như thể bà hiểu chuyện gì xảy ra với tôi và Annabeth, trong khi tôi chắc chắn là chả biết gì. “Thôi, nhớ này,” bà nói, “Grover và Tyson dựa vào hai con đấy.”

      “Con biết,” Annabeth và tôi đồng thanh nói, làm tôi lại càng thêm lúng túng.

      Mẹ tôi cười mỉm. “Percy, tốt nhất con nên dùng điện thoại ở hành lang. Chúc may mắn.”

      Tôi ra khỏi bếp mà thở phào nhẹ nhõm, mặc dù tôi vẫn lo lắng về những việc tôi chuẩn bị làm. Tôi tới chỗ cái điện thoại và gọi. Số điện thoại đã trôi sạch khỏi tay tôi từ lâu, nhưng sao. Mặc dù ́ ý nhưng tôi vẫn nhớ no

      Chúng tôi sắp xếp gặp nhau ở Quảng trường Thời Đại. Chúng tôi tìm thấy Rachel Elizabeth Dare ở trước khách sạn Marriott Marquis, và cả người ấy đều phủ một lớp vàng.

      Ý tôi là mặt, tóc, quần áo... của ấy – tất tần tật mọi thứ. Trông ấy như vừa bị Vua Midas chạm vào vậy. ấy đứng như tượng với năm đứa nhóc khác được sơn màu kim loại: đồng đỏ, đồng thau và bạc. Họ đứng nhúc nhích trong các tư thế khác nhau trong khi các du khách lượn lờ xung quanh hoặc dừng lại để ngắm nhìn. Một số người qua đường còn ném tiền lên tấm vải dầu vỉa hè.

      Tấm biển dưới chân Rachel ghi: NGHỆ THUẬT ĐƯỜNG PHỐ CHO TRẺ EM, khuyến khích quyên góp ủng hộ.

      Annabeth và tôi đứng đó khoảng năm phút, nhìn chằm chằm vào Rachel, nhưng nếu ấy nhìn thấy chúng tôi chắc ấy để chúng tôi làm vậy. Rachel động đậy, mà thậm chí tôi còn chẳng thấy ấy chớp mắt. Một đứa bị chứng tăng động như tôi thì chẳng thể nào làm như vậy được. Đứng im cả tiếng đồng hồ như thế sẽ khiến tôi phát điên lên mất. Mà nhìn Rachel phủ lớp vàng lên người cũng thật là kỳ cục. ấy giống như bức tượng một người nổi tiếng, một diễn viên hay gì đó. Chỉ có mắt ấy là vẫn màu xanh lá bình thường.

      “Hay chúng ta đẩy ta một cái nhỉ,” Annabeth gợi ý.

      Tôi thấy trò đó hơi xấu tính, nhưng Rachel chẳng thèm phản ứng. Vài phút sau, một đứa nhóc sơn màu bạc bước tới, sau khi đã kịp nghỉ ngơi tại bãi đỗ taxi trước khách sạn. Cậu nhóc đứng cạnh Rachel trong tư thế như diễn thuyết trước đám đông. Rachel thả lỏng và bước ra khỏi tấm vải dầu.

      “Chào Percy.” ấy cười toe toét. “Đến đúng lúc đấy. uống café .”

      Chúng tôi bộ tới một nơi gọi là Java Moose tại số 43 phố West. Rachel gọi một ly Espresso Extreme, thứ mà Grover vẫn thích. Annabeth và tôi gọi sinh tố và ngồi ở chiếc bàn ngay bên dưới con nai nhồi bông. Chẳng ai buồn nhìn Rachel đến lần thứ hai trong cái bộ trang phục vàng của ấy.

      “Vậy,” Rachel nói. “Đây là Annabell, đúng ?”

      “Annabeth,” Annabeth sửa lại. “ lúc nào cũng mặc đồ vàng lè thế này à?”

      ,” Rachel nói. “Chúng tôi quyên góp tiền cho nhóm. Chúng tôi tình nguyện làm những dự án nghệ thuật cho bọn trẻ tiểu học, vì ở trường học người ta bỏ môn Nghệ thuật. Chúng tôi biểu diễn mỗi tháng một lần, cuối tuần nào được được thì kiếm khoảng năm trăm đôla. Nhưng tôi đoán các cậu muốn nói về chủ đề đó. Cậu cũng là con lai à?”

      “Suỵt!” Annabeth nhìn quanh cẩn trọng. “Cậu ̣nh thông báo cho cả thế giới biết hay sao?”

      “Được rồi.” Rachel đứng dậy và thực sự gào lớn, “Này mọi người! Hai đứa này phải là người! Chúng là các á thần Hy Lạp!”

      Chẳng ai thèm nhìn chúng tôi lấy một cái. Rachel nhún vai và ngồi xuống. “Hình như bọn họ quan tâm thì phải.”

      “Chẳng có gì buồn cười cả,” Annabeth nói. “Đây phải trò đùa đâu, gái thường ạ.”

      “Nào nào, hai ,” tôi nói. “Bình tĩnh nào.”

      “Tôi bình tĩnh mà,” Rachel nhấn mạnh. “Lần nào tôi ở cạnh cậu cũng có con quái vật nào đó tấn công. Có gì phải lo lắng đâu?”

      “Nghe này,” tôi nói. “Tớ xin lỗi về chuyện phòng nhạc. Hy vọng là họ đuổi cậu ra khỏi trường hoặc gì đó tương tự.”

      “Này. Họ hỏi tôi rất nhiều điều về cậu. Tôi đành giả ngu vậy.”

      “Có khó khăn lắm ?” Annabeth hỏi.

      “Được rồi, dừng lại!” Tôi chen vào. “Rachel, chúng tôi gặp rắc rối. Và chúng tôi cần cậu giúp.”

      Rachel nheo nheo mắt nhìn Annabeth. “Cậu cần tôi giúp đỡ?”

      Annabeth khuấy khuấy chiếc ống hút trong ́c. “À,” ấy rầu rĩ nói. “Có thể.”

      Tôi kể với Rachel về Mê Cung, và chúng tôi cần phải tìm Daedalus như thế nào. Tôi kể cho ấy về những gì đã xảy ra trong một vài lần trước đây khi chúng tôi vào trong đó.

      “Vậy các cậu muốn tôi dẫn đường,” ấy nói. “ qua một nơi tôi chưa bao giờ tới.”

      “Cậu có thể nhìn thấu Màn Sương Mù,” tôi nói. “Giống như Ariadne. Tớ cá là cậu sẽ nhìn được đúng đường . Cái Mê Cung đó làm sao có thể qua mặt cậu dễ dàng thế được.”

      “Vậy nếu cậu sai thì sao?”

      “Thì chúng ta sẽ bị lạc. Nói cách khác, việc đó sẽ râ nguy hiểm. Vô cùng, vô cùng nguy hiểm.”

      “Tôi có thể chết?”

      “Đúng.”

      “Tôi tưởng cậu nói lũ quái vật quan tâm đến người thường. Thanh kiếm đó của cậu...”

      “Đúng thế,” tôi nói. “Thanh kiếm đồng celestial tổn thương con người. Hầu hết lũ quái vật sẽ bỏ qua cậu. Nhưng Luke... hắn ta quan tâm. Hắn sẽ sử dụng quái vật, á thần, con người, bất cứ cái gì. Và hắn sẽ giết bất kỳ ai cản đường hắn.”

      “Một chàng trai tốt bụng đấy,” Rachel nói.

      ấy bị một Titan kiểm soát,” Annabeth bảo vệ Luke. “ ấy bị lừa dối thôi.”

      Rachel hết nhìn tôi rồi lại nhìn Annabeth. “Được rồi, tôi sẽ tham gia.”

      Tôi chớp chớp mắt. Tôi nghĩ là thuyết phục ấy lại dễ dàng đến thế. “Cậu chắc đấy?”

      “Này, kỳ nghỉ hè của tôi sẽ rất nhàm chán. Đây lại là lời mời thú vị nhất đối với tôi. Vậy tôi còn phải mong đợi gì nữa nhỉ?”

      “Chúng ta phải tìm được đường vào Mê Cung,” Annabeth nói. “Có một lối vào ở Trại Con Lai, nhưng cậu thể tới đó. Chỗ ấy cấm người thường.”

      ấy nói người thường như thể nhắc đến một giống gì kinh khủng lắm vậy, nhưng Rachel chỉ gật đầu. “Được rồi. Vậy lối vào Mê Cung trông thế nào?”

      “Nó có thể là bất cứ cái gì,” Annabeth nói. “Một đoạn tường. Một tảng đá. Một cánh cửa. Một cái nắp ́ng. Nhưng nó phải có dấu của Daedalus đó. Một chữ Delta Hy Lạp phát sáng màu xanh.”

      “Như thế này à?” Rachel vẽ một dấu bằng nước lên mặt bàn.

      “Chính nó,” Annabeth nói tiếp. “Cậu biết tiếng Hy Lạp?”

      ,” Rachel trả lời. Rồi ấy rút từ trong túi ra một chiếc lược nhựa màu xanh và bắt đầu chải hết sơn vàng bám tóc của ấy. “Chờ tôi thay đồ. Tốt nhất các cậu hãy với tôi đến chỗ khách sạn Marriott.”

      “Tại sao?” Annabeth hỏi.

      “Vì có một lối vào giống như thế này ở tầng hầm khách sạn, nơi chúng tôi để phục traNó có dấu của Daedalus đó.”

    5. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      XIV


      Cánh cửa kim loại bị che mất một nửa bởi cái giỏ đựng đầy khăn tắm bẩn của khách sạn. Tôi thấy nó có gì lạ cả, nhưng Rachel chỉ cho tôi nơi cần nhìn, và tôi đã nhận ra cái dấu màu xanh nhạt khắc kim loại.

      “Nó bị bỏ hoang đã lâu rồi,” Annabeth nói.

      “Có lần tôi đã thử mở nó,” Rachel nói, “chỉ vì tò mò thôi. Nhưng nó đã bị đóng chặt vì rỉ.”

      .” Annabeth bước tới trước. “Nó chỉ cần một cái chạm tay của một con lai.”

      Quả là như vậy, ngay khi Annabeth đặt tay lên dấu, nó phát sáng màu xanh. Cánh cửa kim loại từ từ hé mở ra, lộ ra một cầu thang tối dẫn xuống phía dưới.

      “Oa.” Rachel trông rất bình tĩnh, nhưng tôi biết ấy có giả vờ tỏ ra như vậy hay . ấy đã thay sang chiếc áo phông Bảo Tàng Nghệ Thuật Hiện Đại cũ rích và quần jeans loang lổ đầy màu sắc như thường lệ, chiếc lược nhựa màu xanh thò ra khỏi túi. Mái tóc đỏ của ấy được buộc gọn đằng sau, nhưng vẫn còn những vụn vàng đó, và ánh sáng vàng lấp lánh mặt . “Vậy... tôi sẽ sau các bạn?”

      “Cậu dẫn đường,” Annabeth nói với thái độ nửa lịch sự nửa chế giễu. “Dẫn đầu.”

      Cầu thang dẫn chúng tôi xuống một đường hầm bằng gạch lớn. Nó tối đến nỗi tôi thế nhìn thấy chân mình, nhưng Annabeth và tôi đã dự trữ đèn pin. Ngay khi chúng tôi bật chúng lên, Rachel đã hét oai oái.

      Một bộ xương nhăn răng cười với chúng tôi. Đó phải là người. Trước tiên trông nó khổng lồ – dài ít nhất là ba mét. Nó bị treo lên, ̉ tay và ̉ chân bị xích nên trông như một chữ X khổng lồ đường hầm. Nhưng điều làm tôi lạnh sống lưng là một hốc mắt đen sì ở giữa cái đầu lâu.

      “Cyclops,” Annabeth nói. “Bộ xương này lâu lắm rồi. phải... người quen của chúng ta.”

      ấy là Đó phải Tyson. Nhưng điều đó cũng khiến tôi dễ chịu hơn chút nào. Tôi vẫn cảm giác như bộ xương được đặt ở đây như một lời cảnh báo. Dù là cái gì có thể giết chết một Cyclops trưởng thành như vậy thì tôi cũng muốn gặp nó.

      Rachel nuốt nước miếng. “Các cậu có bạn là Cyclops à?”

      “Đó là Tyson,” tôi nói. “Em cùng cha khác mẹ với tớ.”

      “Em cùng cha khác mẹ?”

      “Hy vọng chúng ta có thể tìm được cậu ấy dưới kia,” tôi nói. “Và Grover nữa. Cậu ta là thần rừng.”

      “Ồ.” ấy kêu khẽ. “Vậy thì, chúng ta nên tiếp thôi.”

      ấy bước dưới cánh tay trái của bộ xương và tiếp tục tiến về phía trước. Annabeth và tôi nhìn nhau. Annabeth nhún vai. Chúng tôi theo Rachel vào sâu hơn trong mê cung.

      được khoảng mười lăm mét, chúng tôi tới một ngã tư. Trước mặt chúng tôi, hành lang bằng gạch vẫn tiếp tục. Bên phải là những bức tường được xây bằng các phiến đá cẩm thạch ̉. Bên trái là hành lang bẩn thỉu và đầy những gốc cây.

      Tôi chỉ sang bên trái. “Nó trông giống đường hầm mà Tyson và Grover vào.”

      Annabeth nhíu mày. “Ừ, nhưng kiến trúc của hành lang bên phải – những phiến đá cũ kỹ – có lẽ sẽ dẫn chúng ta đến một nơi nào đó ̉ kính trong mê cung này, tới xưởng của Daedalus.”

      “Chúng ta cần thẳng,” Rachel nói.

      Annabeth và tôi cùng quay ra nhìn ấy.

      “Đó là lựa chọn tồi tệ nhất,” Annabeth nói.

      “Các cậu thấy sao?” Rachel hỏi. “Nhìn sàn nhà mà xem.”

      Tôi chẳng thấy gì ngoài tường gạch cũ kỹ và bùn đất.

      “Có ánh sáng ở đằng kia,” Rachel khăng khăng. “Rất mờ nhạt. Nhưng thẳng mới là đường đúng. Phía bên trái, ở phía cuối đường hầm, những gốc cây đó di chuyển như các xúc tu, tôi thích điều đó. Phía bên phải, có một cái bẫy cách đây khoảng sáu mét. Những cái lỗ các bức tường, có lẽ là những cái chông. Vậy chúng ta nên mạo hiểm với nó.”

      Tôi chẳng nhìn thấy bất cứ điều gì giống như ấy miêu tả, nhưng tôi gật đầu luôn. “Được rồi. thẳng.”

      “Cậu tin ta à?” Annabeth hỏi.

      “Ừ, tin sao?”

      Annabeth trông như muốn cãi nhau, nhưng vẫn khoát tay ý bảo Rachel dẫn đường. Chúng tôi cùng nhau sâu xuống hành lang bằng gạch. Nó ngoằn nghoèo và nhiều đường rẽ, nhưng có thêm đường hầm nào xuất hiện ở hai bên nữa. Dường như chúng tôi xuống, sâu dần, sâu dần xuống lòng đất.

      có cái bẫy nào sao?” Tôi hỏi với tâm trạng lo lắng.

      “Chẳng có gì.” Rachel nhíu mày. “Dễ như thế này sao?”

      “Tớ biết,” tôi trả lời. “Nó chưa bao giờ dễ cả.”

      “Vậy, Rachel,” Annabeth hỏi, “chính xác là cậu đến từ đâu?”

      Nghe giọng điệu thì giống như ấy hỏi, Cậu đến từ hành tinh nào? Nhưng dường như Rachel cảm thấy bị xúc phạm.

      “Brooklyn,” ấy trả lời.

      “Cậu về muộn cha mẹ cậu lo lắng à?”

      Rachel thở dài. “. Tớ có hàng tuần thì họ cũng chẳng để ý.”

      “Tại sao lại thế?” Lần này Annabeth nói nghe đỡ mỉa mai hơn. ấy thông cảm được chuyện cãi cọ với cha mẹ.

      Trước khi Rachel kịp trả lời, một tiếng kẽo kẹt phát ra trước mặt chúng tôi, giống như người ta mở một cánh cửa vĩ đại.

      “Cái gì thế?” Annabeth hỏi.

      “Tôi biết,” Rachel trả lời. “Tiếng bản lề bằng kim loại.”

      “Ồ, ý nghĩa đấy. Ý tớ là đó là cái gì?”

      Rồi tôi nghe thấy tiếng bước chân rung cả hành lang – và tiến lại phía chúng tôi.

      “Chạy à?” Tôi hỏi.

      “Chạy!” Rachel đồng ý.

      Chúng tôi quay đầu tháo chạy, nhưng chỉ kịp khoảng sáu mét thì đã đâm sầm vào một vài người bạn cũ. Hai con dracaenae – những người phụ nữ rắn mặc giáp Hy Lạp – chĩa lao vào thẳng ngực chúng tôi. Đứng giữa chúng là Kelli, một hoạt náo viên empousa.

      “Nào, nào,” Kelli nói.

      Tôi mở nắp thanh Thủy Triều, và Annabeth rút dao ra; nhưng cái bút của t còn chưa kịp biến hình thì Kelli đã vồ lấy Rachel. Bàn tay ả ta biến thành bộ vuốt, và mụ dùng nó nhấc ̉ Rachel lên xoay ấy tứ phía.

      “Lại đưa cả vật nuôi dạo cơ à?” Kelli hỏi tôi. “Bọn chúng yếu đuối lắm. Mong manh dễ vỡ!”

      Đằng sau chúng tôi, tiếng bước chân to dần. Một cái bóng to lớn bước ra từ bóng tối – người khổng lồ Laistrygonian cao hai mét rưỡi với đôi mắt đỏ rực và bộ răng nanh nhọn hoắt.

      Con quái vật liếm môi khi nó nhìn thấy chúng tôi. “Tôi có được ăn chúng ?”

      ,” Kelli nói. “Chủ của ngươi sẽ cần bọn chúng. Chúng sẽ là trò mua vui thú vị đấy.” Ả ta cười với tôi. “Giờ thì thôi, bọn con lai. Hoặc tất cả các ngươi sẽ chết ở đây, bắt đầu với con bé người trần này.”

      Đây có lẽ đó là cơn ác mộng kinh khủng nhất của tôi. Và tin tôi , tôi đã có rất nhiều cơn ác mộng rồi. Chúng tôi về cuối hành lang với hai con dracaenae hai bên, và với Kelli cùng con quái vật khổng lồ ở đằng sau, để đề phòng chúng tôi bỏ chạy. Dường như chẳng có ai lo việc chúng tôi chạy về phía trước. Đó chính là hướng bọn chúng áp giải chúng tôi đến.

      Ở phía trước tôi nhìn thấy những cánh ̉ng bằng đồng. Chúng cao chừng ba mét, được trang trí với hai thanh kiếm bắt chéo. Đằng sau đó là những tiếng huyên náo, nghe như một đám đông.

      “Ôi, đúng rồiiiiiiii,” nữ mình rắn phía bên trái nói. “Ngươi sẽ rất quen thuộc với khách mời của bọn ta đấy.”

      Tôi chưa bao giờ nhìn tận mặt một con dracaena trước đây, và tôi cũng chưa bao giờ liều mình để làm việc ấy. Đó sẽ là một khuôn mặt đẹp nếu cái lưỡi của ả phải là lưỡi rắn, tròng mắt màu vàng và con ngươi màu đen. Ả mặc giáp đồng dài đến thắt lưng. Phía bên dưới, thay vì đôi chân là hai mình rắn to lớn với những vảy màu đồng và xanh lục. Ả vừa vừa trườn, như ván trượt vậy.

      “Khách mời của các ngươi là ai?” tôi hỏi.

      Mụ ta rít lên phì phì, có thể đó là tiếng cười. “Ngươi sẽ biết thôiiiii. Sẽ nhanh chóng quen ấy mà. Dù saoooo thì đó cũng là trai của ngươi.”

      “Cái gì của ta?” Ngay lập tức tôi nghĩ tới Tyson, nhưng điều đó là thể. Ả nói đến cái gì vậy nhỉ?

      Gã khổng lồ tiến tới và mở cửa. Hắn túm áo Annabeth nhấc lên và nói, “Ngươi đứng đây.”

      “Này!” ấy phản kháng, nhưng gã kia to lớn gấp hai lần ấy, và hắn đã kịp tịch thu kiếm của tôi và dao của Annabeth rồi.

      Kelli cười to. Ả ta vẫn kề móng vuốt vào ̉ Rachel. “ nào, Percy. Mua vui cho chúng ta. Chúng ta sẽ chờ ở đây với các bạn ngươi, để ngươi liệu mà cư xử đúng mực.”

      Tôi nhìn Rachel. “Xin lỗi nhé. Tớ sẽ đưa được cậu ra khỏi đây.”

      ấy ́ gắng gật đầu trong hoàn cảnh móng vuốt kề ̉. “Vậy thì tuyệt quá.”

      Một con dracaenae đẩy tôi tới chỗ cửa vào bằng mũi giáo, và tôi bước ra, đó là sàn của một trường đấu.

      Có thể đó phải là trường đấu to nhất tôi từng tới, nhưng cả một khu vực như vậy ở dưới lòng đất thì quả là rất rộng. Sàn đấu bằng đất hình tròn, đủ rộng để bạn có thể lái xe xung quanh mép sàn nếu bạn cẩn thận. Ở giữa sàn đấu, một trận đấu diễn ra giữa một người khổng lồ và một nhân mã. Nhân mã trông có vẻ hoảng hốt. ta phi quanh kẻ thù của mình, tay cầm kiếm và khiên, trong khi gã khổng lồ giơ mũi lao to bằng ̣t điện thoại lên và đám đông thì reo hò.

      Hàng ghế đầu tiên cao hơn sàn đấu khoảng chừng bốn mét. Những chiếc ghế làm hoàn toàn bằng đá bao quanh, và tất cả đều kín chỗ. Khán giả gồm những người khổng lồ, dracaenae, á thần, telekhine, và nhiều con vật kỳ cục hơn thế: các con quỷ cánh dơi, và các loài sinh vật một nửa là loài người, một nửa còn lại bạn có thể gọi tên chúng – chim, bò sát, côn trùng, hay động vật có vú.

      Nhưng kinh dị nhất là những cái đầu lâu. Đấu trường chất đầy đầu lâu. Chúng được giăng xung quanh rào chắn. Hàng đống đầu lâu cao gần một mét được dùng làm bậc thang giữa các hàng ghế. Chúng nhăn nhở những ngọn giáo ở cuối khán đài và được treo những sợi xích trần nhà tạo thành những chiếc đèn chùm kinh dị. Một số đầu lâu trông đã rất cũ – chẳng có gì ngoài xương khô trắng. Một số cái khác trông mới hơn rất nhiều. Tôi sẽ mô tả chúng ra đây. Tin tôi , các bạn cũng chẳng muốn nghe điều đó đâu.

      Ở chính giữa tất cả mớ hổ lốn , được trưng bày trang trọng tường khán đài, là một thứ chẳng có mấy ý nghĩa đối với tôi – một tấm biểu ngữ màu xanh với hình cây quyền trượng của thần Poseidon ở giữa. Nó làm cái gì ở một nơi như thế này?

      Bên tấm biểu ngữ là một kẻ thù cũ của tôi – ngồi ghế danh dự.

      “Luke,” tôi nói.

      biết trong đám đông huyên náo hắn có nghe thấy tôi nói hay , nhưng hắn mỉm cười lạnh lẽo. Hắn mặc một chiếc quần lính, áo phông trắng và giáp che ngực bằng đồng, giống như những gì tôi thấy trong giấc mơ. Nhưng có điều hơi lạ là hắn mang theo kiếm. Bên cạnh hắn là gã khổng lồ to lớn nhất mà tôi từng thấy, to hơn cái gã đánh nhau với nhân mã rất nhiều. Hắn phải cao hơn bốn mét, và ngồi choán mất ba cái ghế. Hắn chỉ mặc mỗi cái khố, trông như những võ sĩ su mô Nhật Bản. Da hắn đỏ thẫm và xăm trổ đầy hình sóng biển màu xanh. Tôi đoán hắn có thể là vệ sĩ mới của Luke hay thứ gì đó tương tự như thế.

      Có tiếng kêu cứu sàn đấu, và tôi nhảy lùi lại khi nhân mã ngã nhào xuống mặt sàn ngay bên cạnh tôi.

      ta nhìn tôi cầu khẩn. “Cứu!”

      Tôi với tay tìm kiếm, nhưng nó đã bị tịch thu và vẫn chưa quay trở lại túi của tôi.

      Nhân mã ́ gắng đứng dậy trong khi gã khổng lồ tiến đến, lăm lăm mũi lao trong tay.

      Một bàn tay đầy móng vuốt nắm lấy vai tôi. “Nếu ngươi biết quý trọng mạng ssssống của các bbbbbbạn ngươi,” con dracaena áp giải tôi nói, “thì đừng có xía mũi vào. Trận này khôôôông phải của ngươi. Chờ đến lượt .”

      Nhân mã đứng lên nổi nữa. ta đã bị gãy một chân. Người khổng lồ đặt bàn chân khổng lồ của gã lên ngực nhân mã và giơ mũi lao lên. Gã quay lại nhìn Luke. Đám đông vui vẻ hò hét: “GIẾT ! GIẾT !”

      Luke có phản ứng gì, nhưng gã su mô xăm trổ ngồi cạnh hắn đứng dậy. Gã su mô mỉm cười với chàng người ngựa, kẻ van nài thảm thiết: “Đừng! Xin đừng!”

      Sau đó gã su mô giơ tay ra và ra hiệu với ngón tay cái chĩa xuống.

      Tôi nhắm mắt lại khi đấu sĩ khổng lồ ra đòn kết thúc. Khi tôi mở mắt ra, nhân mã đã biến mất, tan thành tro bụi. Tất cả những gì còn lại chỉ là một cái móng ngựa mà gã khổng lồ lấy làm chiến lợi phẩm để khoe với đám đông. Cả đấu trường reo hò sung sướng.

      Một cánh ̉ng mở ra ở đầu kia khán đài và gã khổng lồ bước ra trong vinh quang ch thắng.

      ghế danh dự, gã su mô giơ tay lên ra hiệu mọi người im lặng.

      “Một trận đấu hay!” tiếng hắn gầm vang. “Nhưng có gì ta chứng kiến trước đây. Cậu còn có gì nữa hả, Luke, con trai của Hermes?”

      Luke nghiến chặt hàm răng. Có thể thấy hắn thích bị gọi là con trai của Hermes. Hắn ghét cha mình. Tuy nhiên Luke vẫn điềm tĩnh đứng lên. Mắt hắn sáng lên. Sự thật thì hắn dường như có tâm trạng rất tốt.

      “Chúa tể Antaeus,” Luke nói đủ lớn để cả đám đông cùng nghe thấy. “Ngài là một chủ nhà tuyệt vời! Chúng tôi rất hạnh phúc được mua vui cho ngài, để trả ơn ngài đã cho chúng tôi qua lãnh ̣a của ngài.”

      “Một ơn huệ ta vẫn chưa nhận được,” Antaeus gầm lên. “Ta muốn được giải trí!”

      Luke cúi rạp xuống. “Tôi đảm bảo chiến binh sắp ra trường đấu bây giờ hay hơn gã nhân mã kia nhiều. Tôi có một người em của ngài.” Nói rồi hắn chỉ vào tôi. “Percy Jackson, con trai của Poseidon.”

      Đám đông bắt đầu chế giễu và ném đá vào tôi, tôi tránh được gần hết, nhưng vẫn bị một vết cắt khá sâu ở má.

      Mắt Antaeus sáng bừng lên. “Con trai của Poseidon à? Vậy hắn sẽ đánh hay đấy! Hoặc là chết cũng hay!”

      “Nếu cái chết của hắn làm ngài vui vẻ,” Luke nói, “thì ngài sẽ cho quân đội của chúng tôi qua lãnh thổ của ngài chứ?”

      “Có thể!” Antaeus nói.

      Luke có vẻ vui lắm với hai từ “có thể.” Hắn liếc nhìn tôi, như thể cảnh báo tốt nhất là tôi nên chết một cú ngoạn mục, nếu tôi sẽ tha hồ mà gặp rắc rối.

      “Luke!” Annabeth hét lên. “Dừng trò này lại ! Thả bọn tớ !”

      Có vẻ lúc này Luke mới để ý đến ấy. Hắn bối rối một giây lát. “Annabeth?”

      “Vẫn còn đủ thời gian cho các chiến binh nữ cơ mà,” Antaeus cắt ngang. “Giờ thì, Percy Jackson, ngươi chọn vũ khí nào?”

      Con dracaenae đẩy tôi vào giữa đấu trường.

      Tôi ngẩng lên nhìn Antaeus. “Sao ngươi có thể là con trai của thần Poseidon được?”

      Antaeus cười to, cả khán đài cũng cười theo.

      “Ta là đứa con của ông ấy!” Antaeus nói sang sảng. “Hãy nhìn xem, đền thờ ta xây cho Vị thần Động đất, được xây bằng đầu lâu của tất cả những kẻ ta đã giết nhân danh ông ấy! Và sọ ngươi cũng gia nhập hàng ngũ thôi!”

      Tôi kinh hãi nhìn tất cả những cái đầu lâu – có hàng trăm cái, và tấm biểu ngữ của Poseidon. Sao đây có thể là đền thờ cho cha tôi được? Cha tôi là người tốt. Ông ấy còn chưa bao giờ đòi tôi một tấm thiệp nhân Ngày của Cha, nói gì đến những cái đầu lâu.

      “Percy!” Annabeth gọi tôi. “Mẹ hắn là Gaea! Gae...”

      Gã khổng lồ Laistrygonian áp giải Annabeth đã lấy tay che miệng ấy. Mẹ hắn là Gaea. Mẹ Trái Đất. Annabeth ́ nói với tôi rằng điều này có một ý nghĩa quan trọng, nhưng tôi rõ tại sao. Có lẽ vì gã này có cả cha lẫn mẹ đều là thần hay sao? Như vậy sẽ rất khó giết hắn.

      “Ngươi bị điên rồi, Antaeus,” tôi nói. “Nếu ngươi nghĩ đây là đóng góp lớn thì đúng là ngươi chẳng hiểu gì về thần Poseidon cả.”

      Đám đông la hét chế nhạo tôi, nhưng Antaeus giơ tay ra dấu im lặng.

      “Vũ khí,” hắn nhấn mạnh. “Và chúng ta sẽ xem ngươi chết như thế nào. Ngươi dùng rìu? Khiên? Lưới? Hay súng phun lửa?”

      “Chỉ cần kiếm của ta,” tôi trả lời.

      Những con quái vật cười nghiêng ngả, nhưng ngay lập tức, thanh Thủy Triều đã quay lại trong tay tôi. Và một số giọng nói trong đám đông trở nên hoảng sợ. Lưỡi kiếm bằng đồng phát ra ánh sáng mờ ảo.

      “Hiệp một!” Antaeus tuyên bố. Cánh ̉ng mở ra, và một con dracaena trườn ra. Một tay mụ cầm cây đinh ba, tay kia cầm mảnh lưới – kiểu đấu sĩ ̉ điển. Hồi ở trại tôi đã được rèn luyện để đấu lại kiểu vũ khí này suốt mấy năm trời rồi.

      Mụ ta thử đâm tôi, nhưng tôi tránh được. Mụ tung lưới, hy vọng bắt được tay cầm kiếm của tôi, nhưng tôi cũng tránh sang bên một cách dễ dàng, bẻ gãy cây giáo của mụ và đâm thẳng Thủy Triều qua khe hở bộ giáp của mụ ta. Với tiếng la khóc quằn quại, nữ bốc hơi và biến mất, và tiếng reo hò của đám đông tắt lịm.

      !” Antaeus rống lên. “Quá nhanh! Ngươi phải chờ lệnh mới được giết. Chỉ ta mới được quyền ra lệnh!”

      Tôi liếc nhìn Annabeth và Rachel. Tôi phải tìm cách thả họ ra, có thể đánh lạc hướng bọn lính canh chẳng hạn.

      “Làm tốt lắm, Percy.” Luke mỉm cười. “Ngươi tiến bộ hơn nhiều đấy. Ta đã ban cho ngươi điều đó.”

      “Hiệp hai!” Antaeus hét lên. “Và lần này từ từ thôi đấy! Để chúng ta còn tiêu khiển! Phải chờ lệnh ta mới được giết, NẾU THÌ LIỆU HỒN!”

      Cánh ̉ng lại bật mở, và lần này một chiến binh trẻ bước ra. Cậu ta chỉ hơn tuổi tôi một chút, khoảng mười sáu. Cậu ta có mái tóc đen bóng mượt, và mắt trái được bịt một miếng băng. Chiến binh trẻ này gầy gò và mảnh dẻ khiến bộ giáp Hy Lạp trở nên thùng thình người cậu ta. Chàng chiến binh trẻ cắm kiếm xuống đất, chỉnh lại đai chiếc khiên và đội chiếc mũ giáp đuôi ngựa lên.

      “Cậu là ai?” tôi hỏi.

      “Ethan Nakamura,” cậu ta đáp. “Ta phải giết ngươi.”

      “Sao cậu phải làm vậy?”

      “Này!” một con quái vật khán đài chế giễu. “Đừng có nói chuyện nữa, chiến đấu chứ!” Những con khác cũng hưởng ứng.

      “Ta phải chứng tỏ bản thân,” Ethan bảo tôi. “Cách duy nhất để được gia nhập.”

      Và cùng với câu đó, cậu ta ra đòn tấn công. Kiếm của chúng tôi chạm nhau giữa trung và đám đông hò hét. Chuyện này chẳng hay ho chút nào. Tôi muốn phải đánh nhau để mua vui cho một lũ quái vật, nhưng Ethan Nakamura cho tôi lựa chọn nào khác.

      Cậu ta dồn dập tấn công lên. Cậu ta đánh khá hay. Theo tôi biết thì Ethan chưa bao giờ đến Trại Con Lai, nhưng cậu ta đã được luyện tập rất nhiều. Cậu ta tránh được hầu hết mọi cú đánh của tôi và suýt dùng khiên để đập lại tôi, nhưng tôi đã kịp nhảy lùi lại. Cậu ta đâm tiếp, và tôi lại tránh sang bên. Chúng tôi thay nhau đâm rồi tránh để thăm dò cách đánh của nhau. Tôi ́ gắng lợi dụng phía mắt bị mù của Ethan, nhưng cũng có tác dụng gì mấy. Cậu ta có lẽ đã chiến đấu với chỉ một mắt từ rất lâu rồi, vì cậu ấy rất giỏi phòng ngự phía trái.

      “Máu!” lũ quái vật la ó.

      Đối thủ của tôi nhìn lên phía khán đài. Tôi nhận ra đó chính là điểm yếu của cậu ta. Ethan cần phải gây ấn tượng cho chúng. Còn tôi thì .

      Cậu ta hét lên và xô tấn công tôi, nhưng tôi né được và lùi lại, để Ethan đuổi theo tôi.

      “Êeeeee!” Antaeus nói. “Đứng lại và chiến đấu chứ!”

      Ethan tấn công dồn dập, nhưng tôi dễ dàng phòng ngự, ngay cả khi có khiên. Cậu ta mặc để phòng ngự – một bộ giáp nặng và cả khiên nữa – điều đó gây bất lợi khi chơi tấn công. Tôi nhẹ nhàng hơn và nhanh hơn. Đám đông trở nên điên loạn, gào thét phản đối và bắt đầu ném đá. Chúng tôi đã chiến đấu khoảng gần năm phút và máu vẫn chưa đổ ra.

      Cuối cùng Ethan cũng mắc sai lầm. Khi cậu ta ́ đâm vào bụng tôi, tôi khóa kiếm của cậu ta lại bằng thanh Thủy Triều của tôi và vặn. Kiếm của Ethan rơi xuống sàn. Trước khi để cậu ta kịp hoàn hồn, tôi dùng chuôi kiếm đánh lên mũ giáp của cậu ta, và đẩy cậu ta ngã xuống. Bộ giáp nặng nề hóa ra lại có lợi cho tôi nhiều hơn. Cậu ta ngã ngửa ra đất, choáng váng và mệt mỏi. Tôi kề mũi kiếm lên ngực cậu ta.

      “Kết thúc ,” Ethan rên rỉ.

      Tôi ngẩng lên nhìn Antaeus. Khuôn mặt đỏ lừ của hắn đanh lại vì giận dữ, nhưng hắn vẫn giơ tay ra và làm một dấu ngón tay cái trỏ xuống.

      “Quên .” Tôi tra kiếm vào vỏ.

      “Đừng có ngu ngốc,” Ethan tiếp tục rên rỉ. “Chúng sẽ giết cả hai chúng ta đấy.”

      Tôi đưa tay ra cho cậu ta. Ethan ngần ngại nắm lấy nó. Tôi giúp cậu ấy đứng dậy.

      ai được quyền coi thường trò chơi như vậy!” Antaeus gào rống. “Cả hai ngươi sẽ phải làm vật hiến tế cho Poseidon!”

      Tôi nhìn Ethan. “Khi nào có cơ hội thì chạy nhé.” Sau đó tôi quay lại nói với Antaeus. “Sao ngươi tự chiến đấu với ta? Nếu ngươi được cha ưu ái thì hãy chứng minh nó !”

      Bọn quái vật gầm gừ khán đài. Antaeus nhìn quanh, và hình như nhận ra hắn còn sự lựa chọn nào khác. Nếu nói , hắn sẽ trở thành kẻ hèn nhát.

      “Ta là võ sĩ đấu vật mạnh nhất thế giới đấy nhóc ạ,” hắn cảnh báo tôi. “Ta đã tập từ hồi mới có môn pankration kia!”

      “Pankration là gì?” tôi hỏi.

      “Ý hắn là chiến đấu cho đến chết,” Ethan nói. “ có luật lệ. giới hạn. Nó từng là một môn thi đấu thể thao Olympic.

      “Cảm ơn về lời mách nước,” tôi nói.

      có gì.”

      Rachel mở to mắt nhìn tôi. Annabeth lắc đầu quầy quậy, trong khi tay gã khổng lồ Laistrygonian vẫn bịt chặt lấy miệng ấy.

      Tôi chỉ kiếm vào Antaeus. “Người chiến thắng sẽ được tất cả! Ta thắng, tất cả chúng ta sẽ được . Ngươi thắng, chúng ta sẽ chết. Ta thề có dòng sông Styx.”

      Antaeus cười ha hả. “Sẽ nhanh thôi. Ta đồng ý với những điều khoản của ngươi!”

      Hắn nhảy qua rào vào trường đấu.

      “Chúc may mắn,” Ethan nói với tôi. “Cậu sẽ cần tới nó.” Rồi cậu ta nhanh chóng lùi lại.

      Antaeus bẻ đốt ngón tay răng rắc. Hắn cười toe toét, và tôi thấy ngay cả răng hắn cũng được chạm khắc hình sóng biển, có lẽ khiến việc đánh răng sau khi ăn trở nên khốn khổ.

      “Ngươi chọn vũ khí nào?” hắn hỏi.

      “Ta vẫn dùng kiếm của ta. Ngươi?”

      Hắn đưa bàn tay vĩ đại lên và xua xua ngón tay: “Ta chẳng cần vũ khí gì cả. Cậu Luke, cậu làm trọng tài đợt này nhé.”

      Luke mỉm cười nhìn xuống chỗ tôi. “Rất hân hạnh, thưa ngài.”

      Antaeus bất thình lình tấn công, tôi chui qua chân hắn và chém vào bắp chân sau của hắn.

      “Aaaaa!” hắn hét lên. Nhưng nơi đáng lẽ phải có máu chảy ra lại chỉ có một dòng cát, giống như tôi vừa chém một bên chiếc đồng hồ cát vậy. Nó chảy xuống nền sàn đấu bằng đất, rồi đất bắt bám xung quanh chân hắn, gần giống như một cái khuôn. Khi đất rơi ra, vết thương lành trở lại.

      Hắn lại tiếp tục tấn công. May mắn là tôi đã có kinh nghiệm đánh nhau với các gã khổng lồ. Lần này tôi tránh sang bên và chém vào dưới cánh tay hắn. Nguyên cả phần lưỡi của thanh Thủy Triều đâm sâu vào dẻ sườn của hắn. Đó là tin tốt. Còn tin xấu là thanh Thủy Triều tuột khỏi tay tôi khi tên khổng lồ quay lại, và tôi bị ném băng qua phía bên kia trường đấu, một tấc sắt trong tay.

      Antaeus rống lên đau đớn. Tôi chờ đợi hắn tan biến vào khí. Chẳng có con quái vật nào chịu nổi một đòn tấn công trực tiếp bằng thanh Thủy Triều . Lưỡi kiếm đồng celestial chắc tiêu hủy hắn. Nhưng Antaeus mò mẫm tìm vết thương, và hắn rút lưỡi kiếm ra, ném nó về phía sau. Cát lại chảy ra từ vết thương, nhưng một lần nữa đất lại bao phủ lấy hắn. Đất ôm trọn hắn đến tận vai. Ngay khi lớp đất đó trôi , Antaeus lại khỏe mạnh bình thường.

      “Giờ thì ngươi hiểu tại sao ta bao giờ thua chưa, á thần!” Antaeus hả hê nói. “Đến đây để ta nghiền nát ngươi nào! Sẽ nhanh thôi!”

      Antaeus đứng giữa tôi và thanh kiếm của tôi. Tuyệt vọng, tôi liếc nhìn hai bên, và bắt gặp ánh mắt của Annabeth.

      Mặt đất, tôi nghĩ. Annabeth ́ nói với tôi điều gì nhỉ? Mẹ của Antaeus là Gaea, đất mẹ, một trong những nữ thần ̉ xưa nhất. Cha của Antaeus có thể là Poseidon, nhưng Gaea vẫn luôn bảo vệ, cứu sống hắn ta. Tôi sẽ thể làm gì được hắn một khi hắn vẫn đứng mặt đất.

      Tôi ́ quanh hắn, nhưng Antaeus đoán trước được động thái của tôi. Hắn chặn đường tôi, cười khùng khục. Giờ thì hắn coi tôi như một món đồ chơi. Tôi bị dồn vào góc.

      Tôi ngẩng lên nhìn sợi xích trần nhà, với những cái sọ kẻ thù của hắn ta được treo lắc lư các cái móc. Đột nhiên tôi có một ý tưởng.

      Tôi giả vờ chạy sang một bên. Antaeus chặn đường tôi. Đám đông reo mừng và hò hét, muốn Antaeus xử tôi, nhưng hắn còn mải mê với trò vui.

      “Thằng nhóc yếu ớt,” hắn nói. “Chẳng đáng là con thần biển chút nào!”

      Tôi cảm thấy chiếc bút đã quay lại túi của tôi, nhưng Antaeus hay biết gì về chuyện đó. Hắn sẽ nghĩ thanh Thủy Triều vẫn nằm đất đằng sau hắn. Hắn sẽ nghĩ mục ́ch của tôi là lấy lại thanh kiếm. Đó hẳn là một lợi thế, nhưng đó là tất cả những gì tôi có!

      Tôi tấn công thẳng trực tiếp, cúi thấp để hắn tưởng tôi chuẩn bị chui qua hai chân hắn một lần nữa. Khi hắn cúi xuống, chuẩn bị sẵn sàng để bắt tôi như một vận động viên bắt bóng, tôi bèn nhảy cao hết mức có thể – đạp lên tay hắn, leo lên vai hắn như thể nó là một chiếc thang, và đạp cả giày lên đầu hắn. Hắn phản ứng một cách tự nhiên. Đứng thẳng dậy đầy căm phẫn và hét lớn “NÀY!”. Tôi tận dụng lực của hắn để quăng mình lên phía trần nhà. Tôi bắt được phần cùng của một sợi xích, và những cái móc ̣ng với đầu lâu kêu chói tai bên dưới chân tôi. Tôi quấn hai chân quanh sợi xích, giống như tôi vẫn thường làm với môn dây trong giờ thể dục. Tôi rút thanh Thủy Triều ra và cưa đứt sợi xích bên cạnh tôi.

      “Xuống đây, đồ hèn!” Antaeus rống lên. Hắn ́ túm tôi, nhưng tôi ở ngoài tầm với. Vừa treo mình dây, tôi vừa hét, “Lên đây mà bắt ta! Hay là ngươi quá béo và chậm chạp?”

      Hắn rống lên và túm tôi lần nữa. Hắn bắt được một sợi dây và ́ đu mình lên. Khi hắn vật lộn để leo lên, tôi hạ thấp sợi xích đã bị cưa xuống, đầu tiên là phần móc. Tôi phải thử hai lần, nhưng cuối cùng tôi đã móc được dây xích vào khố của Antaeus.

      “AAAA!” Antaeus la hét. Tôi nhanh chóng luồn sợi xích tay qua một mắt dây xích của tôi và kéo nó căng hết mức có thể. Antaeus ́ gắng quay lại mặt đất nhưng thể bởi khố của hắn bị treo móc. Hắn phải dùng cả hai tay bám vào dây xích để khỏi bị ngã lộn đầu xuống đất. Tôi cầu nguyện rằng cái khố và dây xích có thể giữ hắn lại thêm vài giây nữa. Khi Antaeus bận nguyền rủa và vùng vẫy, tôi nhảy nhót từ dây xích này sang dây xích khác, vừa đu vừa chém như một con khỉ điên. Tôi tạo thành các thòng lọng với những móc và mắt xích kim loại. Tôi hiểu sao mình có thể làm như vậy. Mẹ luôn nói tôi có khả năng làm mọi vật quấn lại với nhau. Vả lại tôi cũng tuyệt vọng để cứu các bạn của mình. Dù sao thì chỉ trong vài phút, tôi đã treo được tên khổng lồ lên khỏi mặt đất, gầm gừ vô vọng giữa một đống móc và dây xích.

      Tôi thả mình xuống đất, mồ hôi đầm ̀a và thở hổn hển. Tay tôi trầy da chảy máu vì đu dây.

      “Thả tao xuống!” Antaeus hò hét.

      “Thả ta ra!” Luke cầu tôi. “ ta là chủ nhà của chúng ta cơ mà!”

      Tôi mở nắp thanh Thủy Triều. “Ta sẽ thả hắn.”

      Và sau đó tôi đâm vào bụng gã khổng lồ. Hắn rống lên và cát tuôn chảy ra từ vết thương, nhưng hắn ở quá cao để có thể chạm tới mặt đất, và đất mẹ thể dâng lên cao để trị lành vết thương cho hắn. Antaeus tan biến dần, từng phần, từng phần một, cho đến khi chẳng còn gì sót lại ngoài một chùm dây xích đung đưa, một cái khố to khổng lồ treo móc, và một mớ những đầu lâu cười nhăn nhở và nhảy múa đầu tôi như thể cuối cùng thì họ cũng được cười mãn nguyện.

      “Jackson!” Luke hét lên. “Lẽ ra ta phải giết ngươi từ lâu rồi mới phải!”

      “Ngươi đã ́,” tôi nhắc cho hắn nhớ. “Hãy để bọn ta qua , Luke. Chúng ta đã có giao kèo với Antaeus. Ta là người thắng cuộc.”

      Hắn làm đúng theo những gì tôi nghĩ. Hắn nói, “Antaeus đã chết. Lời thề của hắn cũng chết theo. Nhưng hôm nay ta khá nhân từ nên sẽ để ngươi chết một cách khẩn trương nhất.”

      Hắn chỉ Annabeth. “Thả gái ra.” Giọng hắn hơi run run một chút. “Ta sẽ nói chuyện với ấy trước – trước chiến thắng vĩ đại của chúng ta.”

      Những con quái vật khán đài đã rút vũ khí ra hoặc là giơ móng vuốt. Chúng tôi còn đường thoát. Và hoàn toàn bị áp đảo về số lượng.

      Tôi cảm nhận một vật gì đó trong túi – một cảm giác lạnh buốt, và mỗi lúc một lạnh hơn. Chiếc còi gọi chó. Tôi cầm chặt lấy nó. Đã nhiều ngày nay tôi tránh sử dụng món quà của Quintus. Rất có thể đó là một cái bẫy. Nhưng giờ... tôi còn lựa chọn nào khác. Tôi lấy nó ra khỏi túi và thổi. thanh của nó nghe được, và nó vỡ ra thành từng mảnh băng, tan chảy tay tôi.

      Luke cười lớn. “Cái đó để làm gì thế nhỉ?”

      Từ đằng sau tôi một tiếng hét đột ngột vang lên. Tên khổng lồ Laistrygonian nãy giờ vẫn canh giữ Annabeth bay vèo qua mặt tôi và đập vào tường.

      “HÚÚÚÚÚ!”

      Kelli con empousa hét lên thất thanh khi một con chó đen khổng lồ nặng khoảng hơn hai trăm cân nhấc bổng ả lên như một món đồ chơi và ném ta bay thẳng vào lòng Luke... chó O’Leary gầm gừ khiến hai tên lính canh dracaenae lùi lại. Trong một chốc, tất cả lũ quái vật khán đài chưa hết bàng hoàng.

      thôi!” tôi gọi các bạn mình. “ nào O’Leary!”

      “Cửa ra phía xa ấy!” Rachel gào to. “Đó là lối đúng đấy!”

      Ethan Nakamura cũng nhận ra ám hiệu. Chúng tôi cùng nhau chạy như bay, băng qua đấu trường về phía cửa ra đằng xa. Con O’Leary theo sát chúng tôi. Trong khi chạy thục mạng, tôi vẫn còn nghe thấy những thanh huyên náo hỗn độn của cả một đội quân hùng hậu nhảy xuống từ khán đài và đuổi theo chúng tôi.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :