Cuộc Chiến Chốn Mê Cung - Rick Riordan (Huyền Huyễn)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      V


      Chí ít thì tôi cũng có được một giấc ngủ ngon trước cuộc tìm kiếm phải nà

      Nhầm to.

      Trong giấc mơ của tôi đêm hôm đó, tôi thấy mình ở trong phòng khánh tiết của con tàu Công Chúa Andromeda. Các cửa sổ mở trông ra mặt biển đầy ánh trăng. Gió lạnh thổi những tấm rèm nhung sột soạt.

      Luke quỳ một tấm thảm Ba Tư đặt trước quan tài bằng vàng của Kronos. Dưới ánh trăng, mái tóc vàng của hắn trông trắng muốt. Hắn mặc một chiếc áo chiton của người Hy Lạp ̉ và một chiếc himation trắng, một kiểu áo choàng rủ xuống vai. Y phục trắng khiến Luke như nhuốm màu thời gian và thực, giống như một tiểu thần ̉nh Olympus. Lần cuối cùng tôi trông thấy hắn, hắn thật ốm yếu và bất tỉnh sau một cú ngã đau đớn từ Núi Tam. Giờ hắn trông rất ổn. Gần như quá khỏe mạnh.

      “Các gián điệp của ta báo tin đã thành công, thưa ngài,” hắn nói. “Trại Con Lai cử người tìm kiếm, như ngài dự đoán. Phần của chúng ta trong giao kèo thế là đã xong.”

      Tuyệt. Giọng Kronos đã còn xuyên qua tâm trí tôi như một lưỡi dao găm. Nó lạnh lùng và ẩn chứa sự tàn bạo. Một khi chúng ta có cách thức để xuyên qua nó, ta sẽ ́ch thân dẫn đầu đoàn quân tiên phong.

      Luke nhắm mắt lại như để tập trung các ý kiến. “Thưa ngài, như vậy hơi sớm chăng. Có lẽ nên để Krios hoặc Hyperion dẫn đầu...”

      . Giọng nói rất nhỏ nhưng cương quyết. Ta sẽ chỉ huy. Một linh hồn nữa sẽ góp phần vào sự nghiệp của chúng ta, và thế là đủ. Cuối cùng, ta sẽ hồi sinh hoàn toàn từ Tartarus.

      “Nhưng hình dạng, thưa ngài...” giọng của Luke bắt đầu run run.

      Hãy cho ta xem thanh kiếm của ngươi, Luke Castellan.

      Tôi choáng váng và nhận ra rằng tôi chưa bao giờ nghe họ của Luke trước đây. Điều đó chưa bao giờ xảy đến với tôi.

      Luke rút thanh kiếm ra. Hai lưỡi của thanh Backbiter lóe sáng đầy nguy hiểm – nửa thép, nửa đồng celestial. Tôi suýt mất mạng một vài lần vì thanh kiếm này. Nó thực sự là một loại vũ khí ma quỷ, có khả năng giết cả người trần và quái vật. Đấy là lưỡi kiếm duy nhất mà tôi cực kỳ sợ.

      Ngươi đã thế chấp chính bản thân ngươi cho ta, Kronos nhắc nhở Luke. Ngươi đã lấy thanh kiếm này như bằng chứng cho lời thề của ngươi.

      “Vâng, thưa ngài. Chỉ là

      Ngươi muốn sức mạnh. Ta đã cho ngươi điều đó. Bây giờ ngươi đã được an toàn. Chẳng bao lâu nữa ngươi sẽ cai trị thế giới của loài người và các vị thần. Ngươi muốn báo thù cho mình sao? muốn trông thấy ̉nh Olympus bị phá hủy sao?

      Cả cơ thể Luke run rẩy. “Vâng.”

      Chiếc quan tài phát sáng, ánh sáng màu vàng tràn ngập khắp căn phòng. Vậy thì hãy chuẩn bị lực lượng sẵn sàng. Ngay khi thỏa thuận được hoàn tất, chúng ta sẽ xuất phát. Đầu tiên, Trại Con Lai sẽ biến thành đống tro tàn. Một khi những gã hùng khó chịu đó bị tiêu diệt, chúng ta sẽ tiến quân đến ̉nh Olympus.

      Có tiếng gõ cửa. Ánh sáng từ chiếc quan tài mờ dần. Luke đứng dậy. Hắn tra kiếm vào vỏ, chỉnh lại quần áo và hít một hơi thật sâu. “Vào !”

      Cửa mở. Hai nữ quái vật mình rắn dracaenae trườn vào – những người phụ nữ với những cái đuôi rắn kép thay thế cho những đôi chân. giữa là Kelli, con empousa hoạt náo viên ở buổi học ̣nh hướng của tôi.

      “Chào, Luke.” Kelli mỉm cười. ta mặc một chiếc váy đỏ trông thật ấn tượng, nhưng tôi đã từng trông thấy hình dạng thật của ta. Tôi biết điều ta che giấu: chân lệch, mắt đỏ, những chiếc răng nanh và tóc cháy đỏ rực.

      “Có chuyện gì, ma?” Giọng Luke lạnh lùng. “Đã bảo được quấy rầy ta rồi mà.”

      Kelli bĩu môi. “Như thế hay một chút nào. Trông ngài căng thẳng quá. Mát xa vai nhẹ nhàng một chút thì thế nào nhỉ?”

      Luke lùi lại. “Nếu ngươi có gì để báo cáo thì nói. Nếu thì ra ngoài!”

      “Tôi biết tại sao dạo này ngài hay cáu kỉnh thế. Trước đây gần ngài rất vui vẻ mà.”

      “Đó là trước khi ta trông thấy những gì ngươi đã làm với thằng nhóc ở Seattle.”

      “Ồ, thằng đó chẳng có nghĩa gì với tôi,” Kelli nói. “Chỉ là bữa ăn nhẹ, thật đấy. Ngài biết rằng trái tim tôi thuộc về ngài mà, Luke.”

      “Cảm ơn, nhưng ta cần điều đó. Giờ, báo cáo hoặc ra.”

      Kelli nhún vai. “Tốt thôi. Đoàn quân tiên phong đã sẵn sàng, như ngài cầu. Chúng ta có thể xuất phát...” Bỗng nhiên ta

      “Cái gì thế”? Luke hỏi.

      “Ai đó ở đây,” Kelli nói. “Các giác quan của ngài kém nhạy đấy, Luke. Chúng ta bị theo dõi.”

      Ả ta đảo mắt khắp phòng và nhìn đúng vào tôi. Mặt ả nhăn lại như phù thủy. Ả ta nhe nanh ra và nhào tới.

      Tôi giật mình tỉnh dậy, tim đập thình thịch. Tôi có thể thề rằng răng nanh của con empousa chỉ cách ̉ họng tôi một phân.

      Tyson ngáy ở giường bên. thanh này khiến tôi trấn tĩnh một chút.

      Tôi biết tại sao Kelli có thể đánh hơi thấy tôi trong giấc mơ, nhưng tôi đã nghe được nhiều hơn những gì tôi muốn biết. Một đội quân đã sẵn sàng. Kronos sẽ ́ch thân dẫn đầu. Tất cả những gì chúng cần là một phương thức để xuyên qua Mê Cung để chiếm và phá hủy Trại Con Lai, và rõ ràng Luke nghĩ rằng điều này sẽ sớm xảy ra.

      Tôi muốn đánh thức Annabeth và nói cho ấy biết, dù hiện giờ có là nửa đêm hay . Sau đó tôi nhận ra căn phòng sáng hơn bình thường. Một luồng sáng rực màu xanh lá cây lẫn xanh da trời tỏa ra từ bể phun nước biển, sáng hơn và dễ gây chú ý hơn đêm hôm trước. Gần như là nước ngâm nga một bài hát.

      Tôi ra khỏi giường và tiến đến gần.

      Lần này có giọng nói nào từ mặt nước cất lên đòi tiền nữa. Tôi có cảm giác bể nước đợi tôi có động thái trước.

      Có lẽ lúc đó tôi nên quay về giường ngủ. Nhưng thay vào đó, tôi lại nghĩ về hình ảnh tôi đã trông thấy đêm qua – hình ảnh kì lạ của Nico ở bên bờ sông Styx.

      “Mày ́ nói với tao điều gì,” tôi nói.

      Bể phun nước trả lời.

      “Được rồi,” tôi nói. “Hãy cho ta thấy Nico di Angelo.”

      Tôi thậm chí còn ném một đồng xu nào xuống, nhưng lần này điều đó vấn đề gì. Dường như có một sức mạnh nào đó có khả năng điều khiển dòng nước ngoài nữ thần truyền tin Iris. Dòng nước bắt đầu sáng lấp lánh. Nico xuất hiện, nhưng cậu bé đã còn ở dưới ̣a Ngục nữa. Cậu ta đứng trong một nghĩa ̣a dưới một bầu trời đầy sao. Những cây liễu khổng lồ hiện ra mờ mờ bao quanh cậu bé.

      co nhìn xem một số người đào huyệt. Tôi nghe tiếng xẻng và thấy đất được hất ra khỏi một cái hố. Nico mặc một chiếc áo choàng đen. Đêm có sương. Trời ấm, ẩm và có tiếng ếch kêu. Một cái túi Wal-Mart lớn được đặt ngay kế bên chân Nico.

      “Đủ sâu chưa?” Nico nói, giọng có vẻ khó chịu.

      “Gần xong rồi, thưa ngài.” Vẫn là con ma mà tôi trông thấy cùng Nico đêm hôm trước, với hình ảnh sáng mờ mờ của một người đàn ông. “Nhưng thưa ngài, tôi xin nói, điều này cần thiết. Ngài đã có tôi để có được lời khuyên.”

      “Nhưng ta muốn nghe một ý kiến khác!” Nico búng tay, và việc đào bới dừng lại. Hai cái bóng trèo ra khỏi hố. Chúng phải là người, mà là những bộ xương mặc quần áo rách tả tơi.

      “Các ngươi bị sa thải,” Nico nói. “Cảm ơn.”

      Hai bộ xương đổ sập xuống thành những đống xương.

      “Ngài có lẽ cũng nên cảm ơn cả những cái xẻng nữa,” con ma phàn nàn. “Chúng cũng có cảm giác đấy.”

      Nico phớt lờ lời nói của con ma. Cậu ta thò tay vào cái túi Wal-Mart và lôi ra một lốc mười hai lon Coca. Cậu ta mở nắp một lon. Nhưng thay vì uống nó, cậu ta lại rót vào trong ngôi mộ.

      “Hãy để người chết thưởng thức lại,” cậu bé lẩm nhẩm. “Hãy để họ thức dậy và nhận lễ vật này. Hãy để họ nhớ.”

      Nico thả chỗ nước ngọt còn lại xuống ngôi mộ và lại lấy ra một túi giấy trắng có trang trí hình họa. Tôi đã trông thấy thứ này trong nhiều năm, nhưng vẫn nhận ra nó – phần ăn có tên Happy Meal của McDonald.

      Cậu ta dốc ngược cái túi và lắc lắc cho khoai tây rán cùng hamburger vào ngôi mộ.

      “Vào thời của tôi, chúng tôi dùng máu động vật,” con ma lẩm bẩm. “Thế này đã khá đủ rồi. Họ thể nhận ra sự khác biệt.”

      “Ta sẽ tôn trọng họ,” Nico nói.

      “Ít nhất thì hãy cho tôi giữ lại món đồ chơi,” con ma đáp.

      “Im lặng nào!” Nico ra lệnh. Cậu ta dốc thêm một lốc mười hai lon nước ngọt và ba gói Happy Meal nữa xuống mộ, sau đó bắt đầu cầu nguyện bằng tiếng Hy Lạp ̉. Tôi chỉ nghe được một số từ – rất nhiều điều về người chết, kỉ niệm và hồi sinh từ ngôi mộ. Những ca từ ất hạnh phúc!

      Ngôi mộ bắt đầu nổi tăm. Một thứ chất lỏng có bọt màu nâu trồi lên ̉nh giống như toàn bộ cái lỗ đó được đổ đầy sô-đa. Sương giăng dày hơn. Ếch đã ngừng kêu. Hàng chục hình người mờ ảo màu xanh nhạt bắt đầu xuất hiện giữa những bia mộ. Nico đã triệu hồi người chết bằng Coca và hamburger.

      “Quá nhiều,” con ma lo sợ nói. “Ngài biết hết về sức mạnh của ngài.”

      “Ta kiểm soát được,” Nico nói, mặc dù giọng cậu ta rất yếu. Cậu ta rút kiếm ra – một thanh kiếm ngắn làm bằng kim loại cứng màu đen. Tôi chưa bao giờ trông thấy cái gì tương tự. Nó được làm bằng đồng celestial hay thép. Bằng sắt ư? Có thể. Đám linh hồn lùi lại khi trông thấy thanh kiếm của Nico.

      “Từng người một,” Nico ra lệnh.

      Một bóng người lướt nhanh về phía trước và quỳ bên cạnh chỗ nước ngọt. Cái bóng đó uống xì xụp và dùng tay bốc khoai tây rán ra ngoài. Khi nó đứng dậy, tôi có thể thấy rõ hơn – một thiếu niên trong bộ áo giáp Hy Lạp. ta có mái tóc xoăn, mắt màu xanh lục và có một cái móc giống hình vỏ sò áo choàng.

      “Ngươi là ai? Nói .” Nico ra lệnh.

      Cậu thiếu niên nhíu mày như ́ gắng nhớ ra. Sau đó cậu ta nói, giọng cậu ta giống như một tờ giấy khô bị vò nhàu: “Tôi là Theseus.”

      thể nào, tôi nghĩ. Đây thể là Theseus đó. Đây chỉ là một đứa trẻ thôi mà. Tôi đã lớn lên cùng với những câu chuyện kể cuộc chiến đấu của Theseus với con Minotaur và nhiều câu chuyện khác, và luôn hình dung đó là một người to khỏe, rắn chắc. Con ma mà tôi nhìn thấy hề to khỏe hay cao lớn chút nào. ta cũng chẳng hề lớn tuổi hơn tôi!

      “Làm thế nào để chị gái ta hồi sinh?” Nico hỏi.

      Mắt của Theseus vô hồn như một tấm kính. “Đừng ́ thử. Điều đó là điên rồ.”

      “Hãy nói cho ta biết.”

      “Cha dượng tôi chết,” Theseus nhớ lại. “Ông ấy gieo mình xuống biển vì nghĩ tôi đã chết trong Mê Cung. Tôi muốn mang ông ấy quay trở về, nhưng tôi thể làm điều đó.”

      Con ma của Nico rít lên. “Chủ nhân, việc trao đổi linh hồn! Hãy hỏi hắn về điều đó!”

      Theseus trở nên giận dữ. “G nói đó. Ta biết giọng nói đó.”

      , ngươi biết đâu, đồ ngốc!” con ma nói. “Hãy trả lời câu hỏi của cậu chủ và được nói gì thêm gì nữa!”

      “Ta biết ngươi,” Theseus khăng khăng, và ́ nhớ lại.

      “Ta muốn nghe về chị gái ta,” Nico nói. “Việc vào Mê Cung lần này có thể mang chị ta trở lại ?”

      Theseus tìm con ma, nhưng hình như chẳng thấy được nó. Cậu ta chầm chậm hướng mắt lại phía Nico. “Mê Cung là một nơi rất nguy hiểm. Chỉ có một điều duy nhất giúp tôi vượt qua được nó: tình với một gái trần gian. Sợi dây chỉ là một phần của câu trả lời. Chính công chúa đã dẫn dắt tôi.”

      “Chúng ta cần những cái đó,” con ma nói. “Tôi sẽ dẫn ngài . Hãy hỏi hắn xem việc trao đổi linh hồn có thật . Hắn sẽ nói cho cậu chủ biết.”

      “Một linh hồn đổi lấy một linh hồn. Điều này có đúng ?” Nico hỏi.

      “Tôi... tôi phải trả lời là đúng. Nhưng hồn ma...”

      “Chỉ trả lời các câu hỏi, đồ xỏ lá!” con ma nói.

      Đột nhiên, xung quanh gờ hố, những hồn ma khác bắt đầu trở nên bồn chồn. Chúng kích động, thì thầm với nhau đầy lo lắng.

      “Ta muốn gặp chị gái ta!” Nico ra lệnh. “Bây giờ chị ấy ở đâu?”

      “Ông ta đến,” Theseus nói vẻ sợ sệt. “Ông ta đã cảm nhận được lời triệu hồi của ngài. Ông ta đến.”

      “Ai?” Nico hỏi.

      “Ông ta đến để tìm khởi nguồn của sức mạnh này,” Theseus nói. “Ngài phải thả chúng tôi !”

      Nước trong bể phun bắt đầu rung mạnh, rì rầm với sức mạnh. Tôi nhận ra toàn bộ căn nhà lắc lư. Tiếng ồn lớn dần. Hình ảnh Nico trong nghĩa ̣a bắt đầu phát sáng cho đến khi tôi thể nào nhìn được vì chói mắt.

      “Dừng lại,” tôi hét to. “Dừng lại!”

      Bể phun bắt đầu nứt rạn. Tyson lẩm nhẩm trong giấc ngủ và trở mình. Ánh sáng màu đỏ tía tạo ra những hình bóng ma quái và kinh tởm các bức tường, như thể các bóng ma ́ thoát ra khỏi bể phun.

      Tron tuyệt vọng, tôi rút thanh Thủy Triều ra và chém mạnh xuống bể phun nước, chẻ nó ra làm đôi. Nước biển tràn khắp nơi, và tảng đá lớn vỡ tan thành từng mảnh. Tyson khịt mũi và lẩm bẩm, nhưng cậu ấy vẫn tiếp tục ngủ.

      Tôi quỵ xuống đất, run rẩy trước những gì vừa trông thấy. Sáng hôm sau, Tyson nhìn thấy tôi vẫn còn ngồi ở đó, nhìn chằm chằm vào những mảnh còn sót lại của bể phun nước biển.

      Ngay sau khi bình minh vừa lên, đội tìm kiếm gặp nhau ̉nh Nắm Tay Của thần Zeus. Tôi cho vào ba lô: bình đựng rượu tiên, một túi nhỏ bánh thánh, túi ngủ, dây thừng, quần áo, đèn pin và rất nhiều pin dự trữ. Tôi để thanh Thủy Triều trong túi quần. ̉ tay là chiếc khiên ma thuật-đồng hồ Tyson làm cho tôi.

      Đó là một buổi sáng trong trẻo. Sương đã tan và bầu trời trong xanh. Các trại viên hiện giờ chắc tham gia các bài học của ngày hôm nay, học cưỡi ngựa bay hay luyện bắn cung và trèo tường nham thạch. Trong khi đó, chúng tôi lại chuẩn bị xuống lòng đất.

      Juniper và Grover đứng tách ra khỏi đội. Juniper khóc, nhưng ấy ́ kìm nén vì Grover. Juniper tiếp tục chỉnh trang, kéo thẳng chiếc mũ len và phủi sạch lông dê khỏi áo sơ mi cho Grover. Vì chúng tôi biết sẽ phải đụng độ với những ai, nên cậu ấy đã ăn vận như một con người, lấy mũ che cặp sừng, quần jeans, chân giả và giày thể thao để ngụy trang cho hai chiếc chân dê.

      Bác Chiron, Quintus và con O’Leary đứng cạnh các trại viên khác đến để chúc chúng tôi bình an, nhưng có quá nhiều hoạt động cho việc này khiến tôi chẳng thể nào cảm nhận được đây là một buổi tiễn đưa vui vẻ. Hai cái lều đã được dựng lên các tảng đá làm chức năng canh gác. Beckendorf và những người em của mình tạo ra một chuỗi các dãy chông nhọn và hầm phòng thủ. Bác Chiron đã quyết ̣nh chúng tôi phải luôn có người canh gác lối ra Mê Cung để đề phòng.

      Annabeth kiểm tra ba lô của mình lần cuối. Khi thấy Tyson và tôi tới, ấy nhíu mày: “Percy, trông cậu thật kinh khủng.”

      ấy đã giết chết cái bể phun nước vào tối qua đấy,” Tyson bật mí.

      “Cái gì?” Annabeth hỏi.

      Trước khi tôi kịp giải thích, bác Chiron đã chạy đến. “Ồ, có vẻ như các cháu đã sẵn sàng!”

      Dù bác Chiron ́ gắng tỏ ra lạc quan vui vẻ nhưng tôi biết bác ấy lo lắng. Dù muốn làm bác ấy lo thêm nữa nhưng tôi nghĩ về đêm qua, và trước khi đổi ý, tôi nói, “Ừm, bác Chiron, cháu muốn nhờ bác làm giùm một việc khi cháu ở đây, được ạ?”

      “Tất nhiên rồi, cháu .”

      “Tớ sẽ quay lại ngay.” Tôi hất đầu về phía khu rừng. Bác Chiron nhướn mày, nhưng bác ấy cũng nhanh chóng theo tôi.

      “Đêm qua,” tôi nói, “cháu đã mơ về Luke và Kronos.” Tôi kể cho bác ấy nghe chi tiết. Thông tin này dường như đè nặng lên vai bác Chiron.

      “Ta đã lo sợ điều này,” Chiron nói. “Chống lại cha ta, Kronos, chúng ta sẽ chẳng có lấy một cơ hội.”

      Bác Chiron hiếm khi gọi Kronos là cha. Ý tôi là, chúng tôi đều biết đó là sự thật. Mọi người trong thế giới Hy Lạp – thần, quái vật, hoặc các Titan – đều có mối liên hệ nào đó. Nhưng tôi biết đó chính xác phải là điều bác Chiron tự hào và khoe khoang khoác lác. Ồ, cha ta là thần Titan xấu xa có sức mạnh nhất, muốn phá hủy Nền văn minh phương Tây. Ta muốn được giống ông khi ta lớn lên!

      “Bác có biết mối giao kèo mà ông ta nhắc đến có nghĩa là gì ?” Tôi hỏi.

      “Bác chắc, nhưng bác sợ rằng họ tìm kiếm để thỏa thuận với Daedalus. Nếu nhà phát minh già nua ấy vẫn chưa chết, nếu ông ấy vẫn chưa bị điên sau hằng thiên niên kỉ ở trong Mê Cung... thì Kronos có thể tìm cách bắt bất kì ai làm theo ý mình.”

      phải bất kì ai đâu,” tôi cam đoan.

      Bác Chiron ́ nở một nụ cười. “, có lẽ phải bất kì ai. Nhưng, Percy, cháu phải cẩn thận. Ta lo rằng Kronos có thể tìm Daedalus vì một lý do khác, chỉ là vì đường qua mê cung đâu.”

      “Ông ta muốn gì nữa?”

      “Cái mà Annabeth và bác bàn bạc. Cháu có nhớ những gì cháu nói với bác về lần đầu tiên đến con tàu Công Chúa Andromeda, lần đầu tiên trông thấy chiếc quan tài bằng vàng ?”

      Tôi gật đầu. “Luke nói về việc làm cho Kronos hồi sinh, mỗi mảnh nhỏ của cơ thể ông ta xuất hiện trong quan tài mỗi khi có một người mới gia nhập vào đội quân của ông ta.”

      “Và Luke đã nói chúng sẽ làm gì khi Kronos hồi sinh hoàn toàn?”

      Tôi lạnh toát sống lưng. “Hắn nói chúng sẽ tạo cho Kronos một cơ thể mới, xứng đáng với lò rèn của thần Hephaestus.”

      “Thật vậy,” bác Chiron nói. “Daedalus là nhà phát minh vĩ đại nhất thế giới. Ông ta đã sáng tạo ra Mê Cung, nhưng còn rất nhiều thứ khác. Người máy, những ̃ máy biết suy nghĩ... Nếu Kronos muốn Daedalus tạo cho ông ta một hình dạng mới thì sẽ thế nào đây?”

      Đó là một ý nghĩ dễ chịu chút nào.

      “Chúng ta phải tìm ra Daedalus trước,” tôi nói, “và thuyết phục ông ấy làm việc đó.”

      Bác Chiron nhìn chăm chăm vào rừng. “Có một điều nữa ta hiểu... chuyện về linh hồn cuối cùng gia nhập đội quân Kronos ấy. Điều đó chẳng báo trước điều gì tốt lành cả.”

      Tôi im lặng với cảm giác tội lỗi. Tôi đã quyết ̣nh nói cho bác Chiron sự thật rằng Nico là con của thần Hades. Tuy nhiên việc chúng đề cập đến những linh hồn... Nếu Kronos biết về Nico thì sao nhỉ? Nếu hắn ta biến cậu ấy thành kẻ xấu thì sao? Những ý nghĩ này suýt nữa làm tôi nói cho bác Chiron biết về Nico, nhưng tôi đã làm thế. Trước hết, tôi chắc bác Chiron có thể làm được gì với sự thật này. Sau nữa, tôi phải tự mình tìm ra Nico. Tôi phải giải thích cho cậu ta, phải làm cho cậu ta lắng nghe.

      “Cháu biết,” cuối cùng tôi nói. “Nhưng, ừm, có một số điều mà Juniper vừa nói cho cháu, có thể bác nên biết.” Tôi nói về chuyện nữ thần cây đã trông thấy Quintus loanh quanh những tảng đá như thế nào.

      Bác Chiron nghiến chặt răng. “Điều đó làm ta ngạc nhiên.”

      “Điều đó chắc... ý bác là bác biết rõ sao?”

      “Percy, khi Quintus xuất hiện và đề nghị được làm việc cho trại... hừm, bác ngốc đến mức mảy may nghi ngờ.”

      “Vậy tại sao bác nhận ông ta vào trại?”

      “Bởi đôi khi có ai đó ta tin tưởng ở bên cạnh lại tốt hơn, để ta có thể để mắt đến. Hắn ta có thể đúng như những gì hắn nói: một á thần tìm kiếm cho mình một ngôi nhà. Chắc chắn là hắn chưa làm việc gì công khai khiến bác nghi ngờ lòng trung thành của hắn. Nhưng tin bác , bác sẽ để mắt...”

      Annabeth chậm chạp bước đến, có lẽ do tò mò tại sao chúng tôi nói chuyện lâu đến vậy.

      “Percy, cậu sẵn sàn

      Tôi gật đầu. Tôi cho tay vào túi nơi cất chiếc còi băng mà Quintus đã tặng cho tôi. Tôi nhìn xuống và thấy Quintus chăm chú quan sát tôi. Ông ta giơ tay lên chào tạm biệt.

      Gián điệp của chúng ta báo tin đã thành công, Luke đã nói vậy. Cùng ngày chúng tôi quyết ̣nh tiến hành cuộc tìm kiếm, Luke đã biết về điều này.

      “Bảo trọng,” bác Chiron nói. “Và săn thành công.”

      “Bác cũng vậy,” tôi nói.

      Chúng tôi đến chỗ những tảng đá nơi Tyson và Grover chờ. Tôi nhìn chằm chằm vào vết nứt – lối vào đã ̣nh nuốt chửng chúng tôi.

      “Nào,” Grover nói đầy sợ hãi, “tạm biệt ánh sáng mặt trời.”

      “Chào những tảng đá,” Tyson đồng ý.

      Và cùng nhau, cả bốn chúng tôi xuống nơi đầy bóng tối.

    2. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      VI


      Chúng tôi được hơn ba mươi mét thì bị lạc hoàn toàn.

      Đường hầm giống cái mà Annabeth và tôi đã ngã xuống trước đó. Bây giờ nó tròn như một cái ́ng được xây bằng gạch đỏ, cứ cách hơn ba mét lại có một ô cửa sổ có chấn song bằng sắt. Tò mò, tôi soi đèn pin vào một trong những cái ô cửa, nhưng thấy gì cả. Nó thông với một màn đen vô tận. Tôi nghĩ tôi đã nghe được nhiều giọng nói ở phía bên kia, nhưng đó có thể chỉ là gió lạnh.

      Annabeth ́ gắng hết sức để dẫn đường cho chúng tôi. ấy nảy ra ý kiến rằng chúng tôi nên bám theo bờ tường bên trái.

      “Nếu chúng ta đặt một tay lên tường bên trái và men theo nó,” ấy nói, “chúng ta có thể tìm lối ra bằng cách ngược lại.”

      Thật may, ngay khi ấy vừa nói điều này, bức tường bên trái biến mất. Chúng tôi thấy mình đứng trong một căn phòng hình tròn với tám đường hầm dẫn ra ngoài, và chẳng biết bằng cách nào mà chúng tôi đã vào được đây.

      “Ừm, chúng ta đã vào đây bằng đường nào vậy?” Grover nói một cách lo lắng.

      “Quay lại thôi,” Annabeth nói.

      Mỗi chúng tôi quay lại theo một lối khác nhau. Thật buồn cười. Chẳng trong số chúng tôi có thể quả quyết lối nào dẫn về trại.

      “Tường bên trái thật xấu xa,” Tyson nói. “Lối nào bây giờ?”

      Annabeth lướt ánh đèn pin qua ̉ng vòm của tám đường hầm. Với chừng mực tôi có thể nói, chúng giống y hệt nhau. “Lối đó,” Annabeth nói.

      “Sao cậu biết?” Tôi hỏi.

      “Lập luận suy diễn.”

      “Vậy... cậu chỉ đoán?”

      “Cứ tiếp xem nào,” Annabeth nói.

      Đường hầm Annabeth chọn nhanh chóng thu hẹp lại.

      Các bức tường chuyển sang xi-măng màu xám, và trần thấp đến mức chúng tôi phải gập người lại, còn Tyson buộc

      phải bò.

      Chứng thở gấp của Grover là thanh lớn nhất trong mê cung. “Tớ chịu được nữa,” cậu ấy thì thầm. “Chúng ta đến nơi chưa?”

      “Chúng ta mới xuống đây được khoảng năm phút,” Annabeth nói với Grover.

      “Nhiều hơn năm phút rồi,” Grover khẳng ̣nh. “Và tại sao thần Pan lại xuống đây nhỉ? Nơi này trái ngược hoàn toàn với tự nhiên.”

      Chúng tôi tiếp tục lê chân tiến về phía trước. Ngay khi tôi chắc mẩm rằng đường hầm sẽ trở nên hẹp đến nỗi có thể ép chúng tôi thành nước, nó lại thông ra một căn phòng rất lớn. Tôi chiếu đèn pin lên tường và thốt lên “Oa!”

      Toàn bộ căn phòng được lát đá khảm. Các bức tranh bám đầy bụi và đã phai màu, nhưng tôi vẫn có thể nhận ra màu của chúng – đỏ, xanh lá cây, xanh da trời và có cả vàng thật. trụ ngạch có hình các vị thần ̉nh Olympus trong một bữa tiệc. Cha tôi, thần Poseidon dùng cây đinh ba đưa nho cho thần Dionysus để ông ấy biến chúng thành rượu vang. Thần Zeus vui vẻ uống rượu với các thần rừng, và thần Hermes bay lượn với với đôi sandal có cánh. Các bức tranh rất đẹp, nhưng được chính xác lắm. Tôi đã trông thấy các vị thần. Thần Dionysus đẹp trai đến thế, và mũi của thần Hermes cũng to như vậy.

      Ở giữa căn phòng là một đài phun nước ba tầng. Có vẻ như nó đã chứa nước trong một thời gian dài.

      “Đây là nơi nào?” Tôi lẩm bẩm. “Trông nó

      “Chúng được những người La Mã tạo nên,” Annabeth nói. “Những bức khảm trai đó khoảng hai ngàn năm tuổi.”

      “Làm sao chúng có thể là đồ của người La Mã được?” Tôi giỏi lịch sử ̉ đại, nhưng tôi dám chắc là đế quốc La Mã thể trải dài đến tận Long Island được.

      “Mê Cung là một công trình chắp vá,” Annabeth nói. “Tớ đã nói với cậu, nó luôn mở rộng và thêm nhiều bộ phận. Nó là công trình kiến trúc duy nhất có khả năng tự lớn lên.”

      “Cậu nói nghe như nó sống vậy.”

      Một tiếng rên rỉ vọng lại từ đường hầm phía trước chúng tôi.

      “Xin đừng nói đến việc nó còn sống,” Grover nhăn nhó. “Xin các cậu đấy?”

      “Được rồi,” Annabeth nói. “ thẳng nào.”

      “Thẳng tới nơi có thanh xấu đó sao?” Ngay cả Tyson cũng có vẻ lo lắng.

      “Ừ,” Annabeth nói. “Các công trình kiến trúc càng lúc càng ̉ xưa hơn. Đó là một dấu hiệu tốt. Xưởng của Daedalus sẽ nằm ở nơi ̉ nhất.”

      Nghe có lý đấy. Nhưng chẳng bao lâu sau, mê cung lại đùa giỡn chúng tôi – chúng tôi được hơn mười lăm mét và đường hầm trở lại chất liệu xi măng với ống đồng chạy dọc hai bên. tường là là các chữ graffiti được phun sơn. Một biển báo neon có dòng chữ: MOZ RULZ.

      “Tớ nghĩ đây phải là La Mã,” tôi nói với tinh thần giúp đỡ.

      Annabeth hít một hơi thật sâu, và tiếp về phía trước.

      Cứ cách một vài mét, các đường hầm lại thay đổi và phân nhánh. Sàn nhà bên dưới chân chúng tôi thay đổi từ xi măng đến bùn, sang gạch rồi quay lại. Chẳng thể dự đoán được gì. Chúng tôi rơi vào một hầm rượu – một lô chai lọ đầy bụi những chiếc giá gỗ – cứ như chúng tôi qua tầng hầm nhà ai đó vậy, chỉ có điều có lối ra ở phía , mà là những tầng hầm dẫn tiếp.

      Sau đó, trần nhà chuyển sang ván gỗ, và tôi có thể nghe thấy nhiều giọng nói ở phía và tiếng bước chân, như chúng tôi dưới một quán rượu nào vậy. Nghe thấy tiếng người thật yên tâm, nhưng một lần nữa, chúng tôi thể đến gần họ. Chúng tôi mắc kẹt ở dưới này lối ra. Sau đó chúng tôi thấy bộ xương đầu tiên.

      Bộ xương khoác y phục trắng, giống như một loại đồng phục nào đó. Bên cạnh là một thùng gỗ lớn chứa các chai thủy tinh.

      “Một người giao sữa,” Annabeth nói.

      “Gì cơ?” Tôi hỏi.

      “Họ từng giao sữa.”

      “Ừ, tớ hiểu họ làm gì, nhưng... đó là khi mẹ tớ còn là một đứa trẻ, kiểu như một triệu năm trước vậy. ta làm gì ở đây?”

      “Một số người tình cờ lạc vào đây,” Annabeth nói. “Một số thăm dò có mục ́ch và bao giờ quay trở lại. Từ rất lâu rồi, những người Crete thậm chí còn đưa người xuống dưới này như vật hiến tế.”

      Grover nuốt xuống. “ ta đã ở đây lâu lắm rồi.” Cậu ấy chỉ vào những chiếc chai phủ bụi trắng bên cạnh bộ xương. Các ngón tay của bộ xương cào vào bờ tường, giống như ta đã ́ tìm đường ra cho đến chết.

      “Chỉ là xương thôi mà,” Tyson nói. “Đừng lo, bạn dê. Người giao sữa này đã chết rồi.”

      “Tớ bận tâm về người giao sữa,” Grover nói. “Ý tớ là mùi. Những con quái vật. Cậu ngửi thấy sao?”

      Tyson gật đầu. “Rất nhiều quái vật. Nhưng dưới lòng đất lúc nào cũng có mùi như vậy. Những con quái vật và xác chết của người giao sữa.”

      “Ồ, hay đấy,” Grover rên rỉ. “Tớ cứ tưởng là mình nhầm.”

      “Chúng ta phải sâu hơn và mê cung,” Annabeth nói. “Phải có một lối dẫn đến tâm của nó.”

      ấy dẫn chúng tôi về bên phải, sau đó là trái, qua một hành lang bằng thép gỉ giống như một kiểu ống thông gió, và chúng tôi quay trở lại căn phòng La Mã lát khảm có đài phun nước. Và lần này thì chỉ có chúng tôi.

      Điều đầu tiên tôi chú ý là những khuôn mặt của hắn. Cả hai khuôn mặt, chúng nhô ra từ hai bên đầu, và mắt hắn nhìn qua hai vai, vì vậy đầu hắn to hơn bình thường, giống như đầu của con cá mập đầu búa. Nhìn thẳng vào hắn, tất cả những gì tôi trông thấy là hai tai chồng lên nhau và những lọn tóc mai trông như hình phản chiếu qua gương.

      Hắn ăn mặc trông như một người gác ̉ng ở thành phố New York: một áo khoác ngoài màu đen, giày bóng lộn, và một cái mũ chóp cao hiểu sao có thể nằm yên cái đầu rộng gấp đôi bình thường.

      “Thế nào, Annabeth?” khuôn mặt bên trái nói. “Nhanh lên nào!”

      “Đừng để ý đến hắn,” khuôn mặt bên phải nói. “Hắn rất thô lỗ. Bên này, thưa .”

      Annabeth há miệng kinh ngạc. “Ừ... Tôi ...”

      Tyson nhíu mày. “Cái gã nực cười đó có hai mặt kìa.”

      “Gã nực cười đó cũng có tai đấy, ngươi biết !” khuôn mặt bên trái hậm hực. “Bên này, thưa .”

      , ,” khuôn mặt bên phải nói. “Bên này. Nói chuyện với tôi, làm ơn.”

      Gã hai mặt xem Annabeth là người thích hợp nhất để nói chuyện xét từ góc nhìn của gã. Mỗi khi nhìn vào mặt hắn, người ta chỉ có thể nói chuyện được với một trong hai khuôn mặt. Và đột nhiên tôi nhận ra điều hắn cầu – hắn muốn Annabeth lựa chọn.

      Đằng sau hắn là hai lối ra bị chặn bởi hai cánh cửa gỗ với hai cái khóa bằng sắt to đùng. Lần đầu tiên khi chúng tôi vào căn phòng, chúng có ở đó. Gã gác cửa với hai khuôn mặt giữ một chìa khóa bằng bạc và chơi trò tung từ tay này sang tay kia. Tôi băn khoăn liệu đây có phải là một căn phòng hoàn toàn khác , nhưng trụ gạch với tranh vẽ các vị thần trông hoàn toàn giống nhau.

      Phía sau chúng tôi, ô cửa dẫn vào đã biến mất và được thay thế bằng nhiều miếng đá lát khảm hơn. Chúng tôi thể thoát ra bằng con đường đã đưa chúng tôi vào đây.

      “Các lối ra đã bị đóng rồi,” Annabeth nói.

      “Đúng rồi!” Khuôn mặt bên trái nói.

      “Chúng dẫn đâu?” ấy hỏi

      “Một lối có lẽ dẫn đến nơi muốn đến,” khuôn mặt bên phải nói giọng đầy khích lệ. “Lối còn lại đương nhiên dẫn đến cái chết.”

      “Tôi – tôi biết ông là ai,” Annabeth nói.

      “Ồ, thông minh đấy!” Khuôn mặt bên trái cười nhạo. “Nhưng có biết nên chọn lối nào ? Ta đứng đây cả ngày đâu.”

      “Sao ông cứ muốn phá rối tôi thế?” Annabeth hỏi.

      Khuôn mặt bên phải cười. “ là người chịu trách nhiệm, gái. Tất cả các quyết ̣nh đều đặt lên vai . Đó chẳng phải là những gì mong muốn sao?”

      “Tôi...”

      “Chúng tôi biết , Annabeth,” khuôn mặt bên trái nói. “Chúng tôi biết hàng ngày phải đấu tranh với những gì. Chúng tôi hiểu sự do dự của . Sớm muộn gì sẽ phải đưa ra sự lựa chọn. Và sự lựa chọn đó có thể lấy mạng sống của .”

      Tôi biết họ nói về điều gì, nhưng nghe có vẻ đơn thuần là sự lựa chọn giữa hai cánh cửa.

      Khuôn mặt Annabeth thất sắc. “... tôi ...”

      “Hãy để ấy được yên,” tôi nói. “Nhưng mà ông là ai vậy?”

      “Tôi là người bạn tốt nhất của cậu,” khuôn mặt bên phải nói.

      “Ta là kẻ thù đáng sợ nhất của ngươi,” khuôn mặt bên trái nói.

      “Ta là Janus(6),” hai khuôn mặt đồng thanh. “Thần giữ cửa. Khởi đầu. Kết thúc. Lựa chọn.”

      “Ta sẽ nói chuyện với cậu sớm thôi, Perseus Jackson,” khuôn mặt bên phải nói. “Nhưng bây giờ là lượt Annabeth,” Hắn cười đến nỗi đứng vững. “Vui thật!”

      “Câm miệng!” khuôn mặt bên trái nói. “Việc này nghiêm túc đấy. Một lựa chọn sai lầm có thể hủy hoại cả cuộc đời ngươi. Nó có thể giết chết ngươi và tất cả bạn bè ngươi. Nhưng phải căng thẳng đâu, Annabeth. Hãy chọn !”

      Đột nhiên tôi rùng mình nhớ đến một câu trong Lời Sấm Truyền: sự kháng cự cuối cùng của đứa con nữ thần Athena...

      “Đừng làm điều đó,” tôi nói.

      “Ta e ta phải làm điều đó,” khuôn mặt bên phải nói đầy phấn khởi.

      Annabeth liếm môi. “Tôi... tôi chọn...”

      Trước khi Annabeth kịp chỉ vào một cánh cửa thì một ánh sáng chói lòa tràn ngập căn phòng.

      Janus đưa tay lên hai bên đầu để che mắt mình lại. Khi luồng sáng vụt tắt, một người phụ nữ đã đứng ở đài phun nước.

      Ng đó cao lớn và duyên dáng với mái tóc màu sôcôla, được tết đuôi sam cùng những sợi ruy-băng bằng vàng. Bà ta mặc một chiếc váy màu trắng đơn giản, nhưng khi di chuyển, những sợi vải tỏa ánh sáng giống như màu của dầu mặt nước.

      “Janus,” bà ta nói, “Chúng ta lại gây rắc rối ư?”

      “Kh-, thưa quý bà!” Khuôn mặt bên phải của Janus lắp bắp.

      “Đúng vậy!” Khuôn mặt bên trái nói.

      “Im miệng!” Khuôn mặt bên phải nói.

      “Làm ơn nhắc lại?” Người phụ nữ hỏi.

      phải nói bà, thưa quý bà! Tôi chỉ nói với chính mình.”

      “Ta hiểu,” người phụ nữ nói. “Ngươi biết rất rõ là ngươi đã đến quá sớm mà. Thời điểm của gái này chưa đến. Vì vậy ta cho ngươi một lựa chọn: để những người hùng này lại với ta, hoặc ta sẽ biến ngươi thành một cánh cửa và đập vỡ ngươi ra đấy.”

      “Loại cửa nào vậy?” Khuôn mặt bên trái hỏi.

      “Câm miệng!” Khuôn mặt bên phải nói.

      “Vì cửa kiểu Pháp rất đẹp,” khuôn mặt bên trái tư lự. “Có được nhiều ánh sáng tự nhiên.”

      “Câm ngay!” khuôn mặt bên phải thét lên. “ phải nói bà, thưa quý bà! Tất nhiên tôi sẽ . Tôi chỉ đùa một chút thôi mà. Làm công việc tôi vẫn làm. Đưa ra những lựa chọn.”

      “Gây ra sự hoang mang,” người phụ nữ chữa lại. “Nào, bây giờ thì !”

      Khuôn mặt bên trái lẩm bẩm, “Đồ phá đám,” sau đó hắn nhấc chiếc chìa khóa bạc lên, tra vào khí, và biến mất.

      Người phụ nữ quay lại phía chúng tôi, và tôi sợ điếng người. Mắt bà ta sáng lên đầy quyền lực. Hãy để những người hùng này lại cho ta. Câu này nghe được hay cho lắm. Trong một giây, tôi lại ước gì chúng tôi đã tận dụng cơ hội với Janus. Nhưng sau đó người phụ nữ mỉm cười.

      “Chắc hẳn các cậu đói rồi,” bà ta nói. “Ngồi xuống và nói chuyện với ta nào.”

      Bà ta vẫy tay, và đài phun nước kiểu La Mã ̉ bắt đầu chảy. Những tia nước trong mát phun vào trung. Một chiếc bàn bằng đá cẩm thạch xuất hiện, chất đầy các ̃a lớn bánh sandwich và những bình nước chanh.

      “Bà... bà là ai?” Tôi hỏi.

      “Ta là Hera.” Người phụ nữ mỉm cười. “Nữ hoàng của bầu trời.”

      Tôi từng trông thấy nữ thần Hera ở hội nghị các thần, nhưng tôi chú ý cho lắm. Lúc đó tôi được vây quanh bởi một nhóm các thần khác, những người tranh cãi liệu có nên lấy mạng tôi hay .

      Tôi nghĩ bà ấy trông bình thường đến thế. Tất nhiên, các vị thần thường cao khoảng hơn sáu mét khi họ ở ̉nh Olympus, và điều đó khiến họ trông chẳng bình thường chút nào. Nhưng giờ đây, nữ thần Hera trông như một bà mẹ bình thường.

      Nữ thần Hera mời bánh sandwich và rót nước chanh cho chúng tôi.

      “Grover quý,” bà ta nói. “Hãy dùng khăn ăn. Đừng ăn nó.”

      “Vâng, thưa bà,” Grover nói.

      “Tyson, cậu gầy đấy. Có muốn thêm một chiếc bánh sandwich bơ đậu phộng nữa ?”

      Tyson nén một tiếng ợ. “Có, quý bà xinh đẹp.”

      “Nữ hoàng Hera,” Annabeth nói. “Con thể tin nổi. Người làm gì trong Mê Cung vậy?”

      Nữ thần Hera mỉm cười. Bà ta búng nhẹ một ngón tay và tóc của Annabeth được chải mượt. Mọi bụi bặm và vết bẩn biến mất khỏi khuôn mặt ấy.

      “Đương nhiên là ta đến thăm các con,” nữ thần nói.

      Grover và tôi nhìn nhau lo lắng. Thông thường khi các vị thần đến tìm bạn, đó phải do lòng tốt gì cả. Chỉ là vì họ muốn một điều gì đó.

      Tuy vậy, sự lo lắng cũng cản tôi nuốt trọn mấy cái sandwich gà tây và pho-mát Thụy Sĩ cùng khoai tây chiên và nước chanh. Tôi biết là mình lại đói đến thế. Tyson ăn sandwich bơ đậu phộng, hết cái này đến cái khác, và Grover thì thích nước chanh, cậu ấy nhai một chiếc ́c nhựa như một cây kem ốc quế vậy.

      “Con nghĩ...” Annabeth ấp úng nói. “À, con nghĩ rằng Người lại thích những hùng.”

      Nữ thần Hera cười một cách bao dung. “Vì cái vụ cãi nhau vặt vãnh giữa ta và Hercules sao? Thực tình, ta bị nghĩ xấu rất nhiều chỉ vì một sự bất hò

      phải Người đã ́ giết Hercules rất nhiều lần sao?” Annabeth hỏi.

      Nữ thần Hera xua tay phủ nhận. “Chuyện đã qua lâu lắm rồi mà, con gái. Ngoài ra, Hercules còn là một trong những đứa con của chồng quý của ta với người phụ nữ khác. Sức chịu đựng của ta được như trước nữa, ta phải công nhận điều đó. Nhưng từ đó ta và Zeus đã có những buổi bàn bạc trao đổi về hôn nhân rất thành công. Chúng ta đã trút hết bầu tâm sự và hiểu nhau hơn – đặc biệt là sau vụ việc xô xát nho nhỏ cuối cùng đó.”

      “Ý bà là khi thần Zeus sinh ra Thalia phải ạ?” Tôi đoán, và ngay lập tức ước rằng tôi đã làm thế. Ngay khi tôi nói tên bạn mình, đứa con lai của thần Zeus, nữ thần Hera quay sang nhìn tôi đầy lạnh nhạt.

      “Percy Jackson, phải nhỉ? Một trong... những đứa con của Poseidon.” Tôi có cảm giác bà ta nghĩ đến một từ khác khi nhắc đến “những đứa con”. “Ta nhớ rằng mình đã ‘bỏ phiếu’ cho cậu được sống vào hồi Đông Chí. Ta hy vọng ta đã lựa chọn đúng.”

      Nữ thần Hera quay lại nở một nụ cười thật ấm áp với Annabeth. “Dù sao nữa, ta đương nhiên có ý đồ gì xấu, con gái ạ. Ta đánh giá cao sự khó khăn của cuộc tìm kiếm này. Đặc biệt khi phải đối phó với những kẻ gây rối như Janus”.

      Mắt Annabeth trùng xuống. “Tại sao hắn lại ở đó? Hắn làm con phát điên.”

      “Hắn đã ́ làm vậy,” Hera đồng ý. “Con phải hiểu rằng, những tiểu thần như Janus luôn tức tối vì vai trò nhỏ của họ trong vũ trụ này. Một vài, ta sợ là, có rất ít tình với ̉nh Olympus, và rất dễ bị thuyết phục chạy sang phe của cha ta.”

      “Cha của bà ư?” Tôi nói. “Ồ, phải rồi nhỉ.”

      Tôi quên rằng Kronos là cha của nữ thần Hera, cùng với thần Zeus và thần Poseidon, và tất cả các vị thần già nhất của ̉nh Olympus. Nói vậy thì Kronos cũng là ông nội của tôi nhỉ, nhưng ý nghĩ này quá kỳ cục nên tôi gạt ngay nó ra khỏi đầu.

      “Chúng ta phải để ý các tiểu thần,” nữ thần Hera nói. “Janus. Hecate. Morpheus(7). Ngoài miệng thì chúng nói là phục vụ cho ̉nh Olympus, tuy nhiên...”

      “Đó là nơi thần Dionysus đến,” tôi nhớ lại. “Thần Dionysus kìm hãm các tiểu thần.”

      “Thực vậy.” Nữ thần Hera nhìn những miếng đá lát khảm về các vị thần ̉nh Olympus. “Các ngươi thấy đấy, khi có khó khăn, thì đến cả các vị thần cũng mất lòng tin. Họ bắt đầu đặt niềm tin vào những điều sai lầm, những điều vụn vặt. Họ ngừng việc nhìn vào toàn cảnh và trở nên ích kỉ. Nhưng ta là nữ thần của hôn nhân. Ta đã quen với việc nhẫn nại. Chúng ta phải vượt qua việc cãi nhau ầm ĩ, những lộn xộn và giữ vững niềm tin. Chúng ta phải luôn kiên trì với mục ́ch của mình.”

      “Mục ́ch của Người là gì?” Annabeth hỏi.

      Nữ thần Hera mỉm cười. “Dĩ nhiên là giữ cho gia ̀nh ta, các vị thần ̉nh Olympus, gắn bó với nhau. Vào thời điểm này, cách tốt nhất ta có thể làm điều đó là giúp các ngươi. Ta e là Zeus cho ta can thiệp sâu. Nhưng mỗi một thế kỷ hoặc chừng đó, đối với một cuộc tìm kiếm mà ta thực sự quan tâm đến, Zeus cho phép ta ban một điều ước.”

      “Một điều ước?”

      “Trước khi các ngươi đưa ra điều ước của mình, hãy để ta cho các ngươi một vài lời khuyên, đây là điều ta có thể tự do thực hiện. Ta biết các ngươi tìm Daedalus. Mê Cung của hắn đối với ta cũng huyền bí chẳng khác gì các ngươi. Nhưng nếu muốn biết số phận của ông ta, ta sẽ đến lò rèn tìm con trai Hephaestus của ta. Daedalus là một nhà phát minh vĩ đại, một người trần khá hợp với Hephaestus. Chưa bao giờ có một người trần nào mà Hephaestus ngưỡng mộ hơn thế. Nếu có ai đó vẫn còn liên lạc với Daedalus và có thể nói cho các ngươi về số phận của ông ta, thì đó chính là Hephaestus.”

      “Nhưng làm thế nào chúng con đến đó được?” Annabeth hỏi. “Đó là điều con mong muốn. Con muốn tìm ra cách qua Mê Cung.”

      Hera trông có vẻ thất vọng. “Thế đấy. Con ước một điều mà con đã có rồi.”

      “Con hiểu.”

      “Phương tiện đã nằm ngay trong tay con.” Hera nhìn tôi. “Percy biết câu trả lời đấy.”

      “Tôi ư?”

      “Nhưng như thế là công bằng,” Annabeth nói. “Người nói cho chúng con biết đó là gì!”

      Nữ thần Hera lắc đầu. “Việc có được một thứ gì đó và việc có đủ trí khôn để dùng nó... đó là hai việc hoàn toàn khác nhau. Ta chắc rằng mẹ Athena của con cũng đồng ý điều này.”

      Cả căn phòng rung ầm ầm như có sấm từ đằng xa. Nữ thần Hera đứng dậy. “Đó là gợi ý của ta đấy. Zeus hết kiên nhẫn rồi. Hãy suy nghĩ về những điều ta vừa nói, Annabeth. Hãy tìm Hephaestus. Con sẽ phải qua một nông trại, ta nghĩ thế. Nhưng hãy tiếp. Và sử dụng tất cả các phương tiện sẵn có, dù chúng có bình thường đến thế nào chăng nữa.”

      Bà ta chỉ tay vào hai cánh cửa và chúng biến mất, để lộ ra hai hành lang mở giống nhau và tối đen như mực. “Một điều cuối cùng, Annabeth. Ta đã hoãn lại ngày con phải lựa chọn, chứ phải là hủy bỏ. Thời khắc đó sắp đến rồi, như Janus đã nói, con sẽ phải quyết ̣nh. Tạm biệt!”

      Bà ta vẫy tay và biến thành một làn khói trắng. Thức ăn cũng vậy, ngay cả chiếc bánh Tyson nhai rào rạo biến thành làn sương tan trong miệng cậu ấy. Đài phun nước chảy nhỏ lại rồi dừng hẳn. Những bức tường lát đá khảm mờ và chuyển về trạng thái bám đầy bụi và phai màu như cũ. Căn phòng còn là nơi ai đó muốn dã ngoại nữa.

      Annabeth dậm chân. “Giúp đỡ cái kiểu gì vậy? ‘Này, ăn bánh sandwich . Ước . Ôi, ta chả giúp được đâu!’ Pốp! Biến mất.”

      “Pốp, biến mất,” Tyson buồn bã tán thành khi nhìn vào cái ̃a trống trơn.

      “Thôi nào,” Grover thở dài, “bà ta nói Percy biết câu trả lời. Chắc chắn điều này có nghĩa gì đó.”

      Mọi người quay sang nhìn tôi.

      “Nhưng tớ biết,” tôi nói. “Tớ còn chẳng hiểu bà ấy nói về cái gì nữa.”

      Annabeth thở dài. “Được rồi. Vậy chúng ta cứ tiếp .”

      đường nào chứ?” Tôi hỏi. Tôi thực sự muốn hỏi tại sao nữ thần Hera lại nói như vậy – về lựa chọn mà Annabeth cần phải thực hiện. Grover và Tyson đều căng thẳng. Họ đứng lên cùng một lúc giống như đã được tập dượt từ trước vậy. “Bên trái,” cả hai đồng thanh nói.

      Annabeth nhíu mày. “Làm sao các cậu chắc chắn thế?”

      “Bởi vì có một cái gì đó tiến lại từ bên phải,” Grover nói.

      “Một thứ gì đó rất lớn,” Tyson đồng ý. “Và rất vội.”

      “Bên trái à? Nghe cũng hấp dẫn đấy,” tôi quyết ̣nh. Và chúng tôi cùng nhau lao vào hành lang tối tăm

    3. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      VII


      Tin tốt: đường hầm bên trái thẳng tắp, có lối ra ở hai bên hay chỗ rẽ nào. Tin xấu: nó là ngõ cụt. Sau khi chạy nước rút được gần một trăm mét, chúng tôi gặp phải một tảng đá cuội khổng lồ bít hoàn toàn lối . Đằng sau, tiếng chân lê bước và hơi thở nặng nhọc vọng lại từ cuối hành lang. Một thứ gì đó – chắc chắn phải con người – đuổi theo chúng tôi.

      “Tyson,” tôi nói, “em có thể...”

      “Được!” Tyson dùng vai đẩy ầm ầm vào tảng đá mạnh đến nỗi cả đường hầm rung chuyển. Bụi rơi xuống từ trần nhà bằng đá.

      “Nhanh lên!” Grover nói. “Đừng làm sập trần nhà, nhưng mà nhanh lên!”

      Cuối cùng thì hòn đá cùng nhường lối cho chúng tôi sau một tiếng rít kinh hoàng. Tyson đẩy nó vào một căn phòng nhỏ. Chúng tôi lao vào đằng sau nó.

      “Đóng lối lại!” Annabeth nói.

      Tất cả chúng tôi đều sang phía bên kia tảng đá và bắt đầu đẩy. Thứ đuổi theo chúng tôi kêu gào lên đầy tức giận khi chúng tôi đẩy tảng đá về chỗ cũ và bít chặt hành lang.

      “Chúng ta đã chặn được nó,” tôi nói.

      “Hay là bẫy chính chúng ta,” Grover thốt lên.

      Tôi quay lại. Chúng tôi dứng trong một căn phòng xi măng chưa đầy sáu mét vuông, và bức tường đối diện có đầy những thanh chắn bằng kim loại. Chúng tôi đã thẳng vào một xà lim.

      “Cái quái quỷ gì thế này?” Annabeth giật mạnh mấy chấn song. Chúng thèm nhúc nhích. Qua các thanh chắn này, chúng tôi có thể thấy hàng dài các xà lim quanh một khoảng sân tối – chí ít có ba tầng cửa sắt và ba lối hẹp bằng kim loại.

      “Một nhà tù,” tôi nói. “Có thể Tyson có thể phá...”

      “Suỵt,” Grover nói. “Hãy nghe mà xem.”

      Ở đâu đó đầu chúng tôi có tiếng khóc vọng lại. Còn có một tiếng động khác nữa – tiếng ai đó cáu giận lẩm bẩm điều gì đó mà tôi nghe rõ. Những từ ngữ rất lạ, nghe như tiếng đá trong cái vại vậy.

      “Thứ ngôn ngữ gì vậy?” Tôi thì thầm.

      Mắt Tyson mở to. “ thể nào.”

      Cậu ấy nắm lấy hai chấn song và bẻ cong chúng, tạo ra một khoảng trống rộng đến nỗi một người khổng lồ cũng có thể lách qua.

      “Đợi đã!” Grover gọi.

      Nhưng Tyson ̣nh đợi. Chúng tôi chạy theo cậu ấy. Nhà tù rất tối, chỉ có vài ánh đèn huỳnh quang lờ mờ lập lòe ở phía .

      “Tớ biết nơi này,” Annabeth nói với tôi. “Đây là Alcatraz.(8-)

      “Ý cậu là hòn đảo gần San Francisco?”

      Annabeth gật đầu. “Trường tớ từng có một chuyến thực tế ở đây. Nó giống như một bảo tàng ấy.”

      Dường như việc chúng tôi có thể vọt ra khỏi Mê Cung và ở đầu kia của đất nước là thể, nhưng Annabeth đã sống ở San Francisco cả năm trời, theo dõi Núi Tamalpais ở phía bên kia vịnh. ấy chắc chắn biết mình nói gì.

      “Dừng lại,” Grover cảnh báo chúng tôi.

      Nhưng Tyson tiếp tục tới. Grover ôm lấy cánh tay Tyson và dùng hết sức kéo cậu ấy lại. “Dừng lại, Tyson!” Grover thì thầm, “Cậu trông thấy gì à?”

      Tôi nhìn theo hướng Grover chỉ và dạ dày tôi quặn lên từng cơn. ban công tầng hai, phía bên kia sân là một con quái vật còn kinh khủng hơn bất cứ con quái vật nào tôi đã từng gặp trước đây.

      Trông nó giống như một nhân mã, với cơ thể của một người phụ nữ tính từ phần eo trở lên. Nhưng thay vì phần dưới giống ngựa thì đó là thân của một con rồng – nó dài ít nhất là sáu mét, đen và đầy vẩy với những móng vuốt khổng lồ và một cái đuôi đầy gai. Những cái chân của bà ta trông như bị những thân nho quấn quanh, nhưng rồi tôi nhận ra chúng là những con rắn, hàng trăm con rắn vipe phóng ra, như thể chúng tìm kiếm một cái gì đó để cắn xé. Tóc của bà ta cũng được làm bằng rắn chẳng khác gì của mụ Medusa. Điều kỳ lạ nhất là quanh eo của bà ta, nơi giao nhau giữa cơ thể người và rồng, da bà ta nổi bọt và biến đổi, thỉnh thoảng lại xuất hiện đầu của một con vật – một con sói, một con gấu, một con sư tử hung dữ, như thể bà ta đeo một cái thắt lưng làm bằng những sinh vật và chúng thì liên tục thay đổi. Tôi có cảm giác mình nhìn thấy cái gì đó mới hình thành một nửa, một con quái vật ở hình hài ̉ xưa,hi cơ thể nó được ̣nh hình đầy đủ.

      “Chính là bà ta,” Tyson rên rỉ.

      “Cúi xuống!” Grover nói.

      Chúng tôi thu mình trong bóng tối, nhưng con quái vật chẳng mảy may chú ý đến chúng tôi. Có vẻ bà ta nói chuyện với ai đó trong xà lim tầng hai. Đó là nơi tiếng khóc phát ra. Người phụ nữ mình rồng nói điều gì đó bằng thứ ngôn ngữ kỳ lạ.

      “Bà ta nói gì vậy?” Tôi nói khẽ. “Đấy là ngôn ngữ gì thế?”

      “Ngôn ngữ ̉ xưa.” Tyson rùng mình. “Thứ ngôn ngữ mà Đất Mẹ vẫn nói với các Titan... và những đứa con khác của bà ấy. Từ trước thời các vị thần.”

      “Em hiểu nó sao?” Tôi hỏi. “Em dịch được chứ?”

      Tyson nhắm mắt lại và bắt đầu nói bằng giọng bực tức khó chịu của người phụ nữ kia. “Ngươi sẽ làm việc cho ông chủ hoặc là bị trừng phạt.”

      Annabeth rùng mình. “Tớ rất ghét mỗi khi cậu ấy làm như vậy.”

      Giống như tất cả các Cyclops khác, Tyson có khả năng phi thường về nghe và khả năng bắt chước giọng nói của mọi người. Cậu ấy gần như ở trạng thái xuất thần mỗi khi nói giọng của người khác.

      “Tôi sẽ làm đâu,” Tyson nói bằng một giọng trầm trầm và bị tổn thương.

      Rồi cậu ta lại chuyển sang giọng con quái vật: “Vậy ta sẽ rất vui mừng được thấy ngươi phải chịu đau đớn, Briares.” Tyson loạng choạng khi cậu ấy nói ra cái tên đó. Trước đây tôi chưa bao giờ thấy cậu ấy mất bình tĩnh khi giả giọng người khác, nhưng lần này cậu ấy như bị nghẹt thở. Sau đó Tyson tiếp tục bằng giọng của con quái vật. “Nếu ngươi nghĩ lần tống giam đầu tiên của mình là thể chịu nổi, thì ngươi hẳn chưa cảm nhận được sự đau khổ thực sự đâu. Hãy nghĩ cho kỹ điều này cho đến khi ta quay lại.”

      Bà ta bước một cách nặng nề về phía cầu thang, những con rắn vipe rít lên quanh chân mụ trông như chiếc váy làm bằng cỏ. Mụ dang rộng đôi cánh mà trước đó tôi để ý – đôi cánh dơi khổng lồ đã gập lại lưng rồng. Mụ nhảy xuống khỏi lối hẹp và bay qua sân. Chúng tôi lại nép mình xuống thấp hơn trong bóng tối. Một cơn gió nóng có mùi lưu huỳnh táp vào mặt tôi khi con quái vật bay ngang qua. Và rồi mụ ta biến mất ở một góc rẽ.

      “Kiinh khủng quá,” Grover nói. “Tớ chưa bao giờ thấy con quái vật nào có mùi đậm đặc như vậy.”

      “Đó là cơn ác mộng tồi tệ nhất của các Cyclops,” Tyson lẩm bẩm. “Kampê.”

      “Ai cơ?” Tôi hỏi.

      Tyson nuốt nước bọt. “Bất cứ Cyclops nào cũng đều biết bà ta. Những câu chuyện về bà ta làm bọn em sợ phát khiếp ngay từ khi còn nhỏ. Bà ta là cai ngục của bọn em trong những năm tháng tồi tệ trước đây.”

      Annabeth gật đầu. “Tớ nhớ rồi. Khi các thần Titan còn trị vì, họ đã giam giữ những người con đầu tiên của Gaea(9) và Ouranos(10) – các Cyclops và các Hekatonkheire.

      “Heka-gì cơ?” Tôi hỏi.

      “Những Người Trăm Tay ấy,” Annabeth nói. Họ được gọi như vậy bởi vì... ờ... họ có một trăm bàn tay. Họ là của các Cyclops.”

      “Họ rất mạnh,” Tyson nói. “Rất đáng nể! Cao chạm trời. Khỏe đến nỗi có thể phá tan những ngọn núi!”

      “Tuyệt,” tôi nói. “Trừ trường hợp em là một ngọn núi.”

      “Kampê là cai ngục. Bà ta là thuộc hạ của Kronos. Bà ta giam giữ những người em của em ở Tartarus, luôn hành hạ bọn em, cho đến khi thần Zeus đến. Ông ấy đã giết chết Kampê rồi giải thoát các Cyclops và những Người Trăm Tay để giúp ông ấy chống lại các thần Titan trong trận chiến vĩ đại.”

      “Và giờ thì Kampê đã trở lại,” tôi chêm vào.

      “Quá tệ,” Tyson kết luận.

      “Vậy ai ở trong xà lim kia?” Tôi hỏi. “Em vừa nhắc đến một cái tên...”

      “Briares!” Tyson ngẩng đầu lên. “ ấy là một Người Trăm Tay. Họ cao chạm trời và...”

      “Ờ,” tôi nói. “Và họ có thể phá núi!”

      Tôi nhìn lên nhà tù phía chúng tôi và thắc mắc tại sao một người cao chạm trời lại có thể ngồi vừa trong một xà lim bé tí ti như vậy, và tại sao ta lại khóc.

      “Tớ nghĩ chúng ta nên kiểm tra xem sao,” Annabeth nói, “trước khi Kampê quay lại.”

      Khi chúng tôi tiến đến gần xà lim, tiếng khóc càng lớn hơn. Khi đầu tiên tôi nhìn thấy người bị nhốt bên trong, tôi chắc về những gì mình nhìn thấy. Đó là một chàng có kích cỡ của một người bình thường với làn da xanh xao, như màu sữa. ta mặc một chiếc khố trông như cái tã lót to. Chân ta to quá khổ so với cơ thể, các đầu móng chân bẩn và nứt nẻ, mỗi bàn chân có đến tám ngón. Nhưng phần phía cơ thể của ta mới lạ lùng. ta khiến cho Janus trở nên hoàn toàn bình thường. Ngực ta mọc ra biết bao nhiêu tay mà kể, thành các hàng bao quanh cơ thể ta. Những cánh tay trông như tay của người thường, chỉ là có quá nhiều tay, và chúng quấn vào nhau, nên ngực ta trông như một cái nĩa đầy spaghetti mà ai đó vừa mới xoắn lại. Một vài cánh tay ôm lấy mặt khi ta khóc.

      “Hoặc là bầu trời bây giờ còn cao như trước kia,” tôi lẩm nhẩm, “hoặc là ta nhỏ lại.”

      Tyson để ý lắm đến lời tôi nói. Cậu ấy quỳ xuống.

      Briares!” Tyson gọi.

      Tiếng khóc ngừng lại.

      “Người trăm tay vĩ đại!” Tyson nói. “Hãy giúp chúng em!”

      Briares nhìn lên. Mặt ta dài và buồn bã với chiếc mũi khoằm và những chiếc răng sâu. Mắt ta có màu nâu sẫm – ý tôi là mắt ta chỉ có một màu nâu mà có lòng trắng hay con ngươi gì hết, giống như đôi mắt được làm từ đất sét.

      “Chạy khi em còn có thể, Cyclops,” Briares nói đầy đau khổ. “ thậm chí còn giúp được chính mình nữa là!”

      là người trăm tay cơ mà!” Tyson khăng khăng. “ có thể làm bất kì điều gì!”

      Briares lau mũi bằng năm hay sáu bàn tay gì đó. Một vài bàn tay khác nghịch những mảnh kim loại và gỗ nhỏ xíu từ một chiếc giường gãy, giống như Tyson thường chơi với các bộ phận của máy móc. Thật ngạc nhiên khi nhìn thấy điều đó. Mỗi bàn tay dường như đều có trí óc riêng. Chúng tạo ra một con thuyền đồ chơi bằng gỗ, và sau đó tháo rời ra với tốc độ tương đương. Một số bàn tay khác cào vào nền xi măng vì lý do thể hiểu được nào đó. Vài bàn tay khác chơi trò oẳn tù tì. Vài bàn tay khác nữa tạo rối bóng hình con vịt và chó lên tường.

      thể,” Briares rên rỉ. “Kampê đã quay lại! Các thần Titan sẽ trỗi dậy và ném chúng ta trở lại Tartarus.”

      “Hãy mang khuôn mặt dũng cảm nào!” Tyson nói.

      Lập tức khuôn mặt Briares biến thành một cái gì đó khác hẳn. Vẫn là đôi mắt màu nâu, nhưng có những nét khác hoàn toàn. Mũi ta hếch lên, lông mày uốn hình vòng cung và một nụ cười kỳ lạ, giống như ta ́ tỏ vẻ dũng cảm vậy. Nhưng ngay sau đó khuôn mặt ta trở lại trạng thái ban đầu.

      tốt,” Briares nói. “Vẻ mặt sợ hãi của cứ quay trở lại.”

      “Làm sao làm được như thế?” Tôi hỏi.

      Annabeth huých khuỷu tay vào tôi. “Đừng thô lỗ như thế. Những người trăm tay có năm mươi khuôn mặt khác nhau”.

      “Vậy chắc là khó mà có một bức ảnh để cho vào kỉ yếu của trường,” tôi nói.

      Tyson vẫn thuyết phục. “Sẽ ổn cả thôi, Briares! Bọn em sẽ giúp ! cho em xin chữ kí nhé?”

      Briares khụt khịt. “Cậu có mang theo một trăm cái bút ?”

      “Nào mọi người,” Grover ngắt lời, “Chúng ta phải ra khỏi đây. Kampê sẽ quay lại. Sớm muộn gì mụ ta cũng sẽ đánh hơi thấy chúng ta thôi.”

      “Hãy phá các chấn song ,” giọng Annabeth cất lên.

      “Phải!” Tyson cười với vẻ tự hào. “ Briares có thể làm điều đó. ấy rất khỏe. Thậm chí còn khỏe hơn cả các Cyclops. Hãy xem!”

      Briares thút thít. Khoảng một chục cái tay của ta bắt đầu chơi trò đập tay, nhưng chẳng có cái trong số chúng ́ gắng phá các chấn song cả.

      “Nếu ta khỏe đến thế, sao lại chịu mắc kẹt ở nơi này?” Tôi hỏi.

      Annabeth lại nhéo vào mạng sườn tôi. “ ta sợ,” ấy thì thầm. “Kampê đã nhốt ta ở Tartarus hàng ngàn năm. Nếu là cậu, cậu có sợ ?”

      chàng trăm tay lại che mặt một lần nữa.

      Briares,” Tyson hỏi. “Có... có chuyện gì vậy? Hãy cho bọn em thấy sức mạnh của vĩ đại của !”

      “Tyson,” Annabeth nói, “tớ nghĩ cậu nên bẻ gãy những chấn song này thì hơn.”

      Nụ cười của Tyson dần tắt.

      “Tớ sẽ bẻ gãy những chấn song này,” cậu ấy nhắc lại. Cậu ấy nắm lấy cửa xà lim và giật ra khỏi bản lề như thể nó được làm bằng đất sét dẻo.

      nào, Briares,” Annabeth nói. “Chúng ta hãy thoát khỏi đây!”

      Annabeth chìa tay ra. Trong một giây, khuôn mặt Briares chuyển sang vẻ mặt đầy hy vọng. Một vài cánh tay với ra, nhưng khoảng gấp đôi số cánh tay đó kéo chúng lại.

      thể,” Briares nói. “Bà ta sẽ trừng phạt .”

      “Sẽ ổn thôi,” Annabeth hứa. “ đã chiến đấu với các thần khổng lồ Titan trước đây, và đã chiến thắng, còn nhớ ?”

      vẫn nhớ trận chiến đó.” Khuôn mặt Briares lại biến đổi, mày nhăn cả lại và môi trề ra. Đó là khuôn mặt ủ ê, tôi đoán vậy. “Sấm sét rung chuyển cả đất trời. Bọn đã ném rất nhiều đá. Các thần Titan và lũ quái vật suýt nữa đã thắng. Nhưng giờ chúng lấy lại sức mạnh, Kampê nói vậy.”

      “Đừng nghe bà ta,” tôi nói. “ thôi!”

      Briares nhúc nhích. Tôi biết Grover nói đúng. Chúng tôi có nhiều thời gian vì Kampê sắp quay trở lại. Nhưng tôi thể để ta lại ở đó được. Tyson sẽ khóc trong nhiều tuần mất.

      “Chơi oẳn tù tì nhé,” tôi thốt lên. “Nếu tôi thắng, sẽ với chúng tôi. Nếu tôi thua, chúng tôi sẽ để ở lại trong nhà ngục này.”

      Annabeth nhìn tôi như tôi bị thần kinh vậy.

      Khuôn mặt của Briares lại chuyển sang nghi ngờ. “Tôi luôn thắng trong trò chơi oẳn tù tì.”

      “Vậy thì chơi nào!” Tôi đấm vào lòng bàn tay ba lần.

      Briares làm tương tự với một trăm bàn tay của mình, nghe như một đội quân diễu hành ba bước lên phía trước. ta ra một loạt búa, một đống kéo và đủ giấy để làm cả một hạm đội máy bay.

      “Tôi đã bảo trước rồi nhé,” ta buồn bã nói. “Tôi luôn...” Khuôn mặt Briares chuyển sang bối rối. “Cậu ra cái gì thế?”

      “Một khẩu súng,” tôi nói và đưa cho Briares xem khẩu súng bằng ngón tay tôi. Đây là trò láu cá mà Paul Blofis đã áp dụng với tôi, nhưng tôi ̣nh nói cho Briares về điều đó. “Một khẩu súng có thể đánh bại tất cả.”

      “Như thế là công bằng.”

      đã nói bất cứ điều gì về công bằng. Kampê cũng sẽ công bằng nếu chúng ta chần chừ ở đây. Bà ta sẽ quy cho tội bẻ gãy các chấn song. Giờ thì thôi!”

      Briares khụt khịt. “Các á thần là những tên lừa đảo.” Nhưng rồi ta cũng từ từ đứng dậy và theo chúng tôi ra khỏi phòng giam.

      Tôi bắt đầu thấy hy vọng. Tất cả những gì chúng tôi phải làm là xuống dưới và tìm lối vào Mê Cung. Nhưng ngay sau đó Tyson khựng lại như bị đóng băng.

      Ngay ở tầng trệt bên dưới, Kampê gầm gừ nhìn chúng tôi.

      lối khác,” tôi nói.

      Chúng tôi lao về phía cuối lối . Lần này Briares khá vui vẻ khi cùng chúng tôi. Thực ra ta chạy tót lên phía trước, hàng trăm cánh tay vung vẩy trong sự hoảng loạn.

      Tôi nghe thấy tiếng đôi cánh khổng lồ của Kampê đập phía sau. Mụ ta rít lên và gầm gừ bằng thứ ̉ ngữ của mụ, nhưng tôi cần phiên dịch cũng hiểu được mụ ̣nh giết chúng tôi.

      Chúng tôi leo xuống cầu thang, xuyên qua một hành lang, băng qua một trạm gác – sang một khu nhà tù khác.

      “Bên trái,” Annabeth nói. “Tớ nhớ điều này là nhờ chuyến du lịch.”

      Chúng tôi vọt ra ngoài và thấy mình đứng trong sân nhà tù, bao quanh là các trạm gác và dây thép gai. Sau khi đã ở bên trong quá lâu, ánh sáng ban ngày dường như làm tôi chói mắt. Khách du lịch dạo xung quanh và chụp ảnh. Cơn gió dường như thổi bay cái lạnh ra khỏi đảo. Ở phía nam, San Francisco sáng lấp lánh một màu trắng mờ ảo và tuyệt đẹp, nhưng ở phía bắc, phía núi Tamalpais, những đám mây khổng lồ mang theo cơn bão xoay vần. Cả bầu trời trông như một con quay màu đen xoay tròn từ ngọn núi nơi Atlas bị giam giữ, và cũng là nơi cung điện của các thần Titan núi Othrys được xây mới. thể tin được là các du khách chẳng biết gì về một cơn bão siêu nhiên ùn ùn kéo đến, họ thảnh thơi như có điều gì đáng ngại.

      “Thậm chí còn tệ hơn,” Annabeth nhìn về hướng Bắc nói. “Những cơn bão quanh năm lúc nào cũng kinh khủng, nhưng...”

      “Chạy tiếp ,” Briares hét lên. “Mụ ta ở đằng sau đấy!”

      Chúng tôi chạy đến đầu bên kia của sân và chạy xa khu nhà tù hết sức có thể.

      “Kampê quá lớn để lọt qua,” tôi nói trong hy vọng.

      Và sau đó bức tường nổ tung.

      Các du khách la hét khi Kampê xuất hiện từ bụi và gạch vỡ, đôi cánh của mụ ta trải rộng hết cái sân. Mụ cầm hai thanh kiếm – hai thanh mã tấu bằng đồng dài tỏa ánh có màu hơi xanh kì quái. Ngay cả khi đứng ở bên kia sân, chúng tôi vẫn ngửi thấy mùi chua bốc ra từ làn hơi nước nóng.

      “Có độc!” Grover la lên. “Đừng để những thứ đó chạm vào người nếu ...”

      “Nếu sẽ chết hả?” Tôi đoán.

      “À... ừ, sau khi cậu dần teo lại thành tro bụi.”

      “Vậy phải tránh xa các thanh kiếm ra,” tôi quả quyết.

      Briares, hãy chiến đấu !” Tyson giục. “Hãy trở về kích cỡ thật của !”

      Thay vì làm như Tyson nói, Briares hình như còn co lại bé hơn. mặt ta là khuôn mặt ‘hoàn toàn sợ hãi’.

      Kampê lao rầm rầm về phía chúng tôi đôi chân rồng, hàng trăm con rắn trườn quanh người mụ ta.

      Trong một giây, tôi đã nghĩ đến việc rút thanh Thủy Triều ra và đối đầu với mụ, nhưng rồi tôi chùn lại. Rồi Annabeth cũng nói điều mà tôi suy nghĩ: “Chạy thôi.”

      Tranh luận kết thúc. thể chiến đấu với một thứ như thế này. Chúng tôi chạy qua sân rồi qua ̉ng nhà tù, con quái vật vẫn đuổi sát phía sau. Mọi người xung quanh la hét và chạy. Tiếng còi báo động bắt đầu kêu inh ỏi.

      Chúng tôi đến cầu tàu ngay khi một con tàu du lịch trả khách. Nhóm khách du lịch sững sờ khi trông thấy chúng tôi chạy bổ đến, theo sau là một đám đông khách du lịch khác cũng hoảng sợ, và... Tôi biết họ đã trông thấy gì qua Màn Sương Mù, nhưng hẳn là tốt lắm.

      thuyền ư?” Grover hỏi.

      “Quá chậm,” Tyson nói. “Quay lại mê cung. Cách duy nhất.”

      “Chúng ta cần ai đó đánh lạc hướng Kampê,” Annabeth nói.

      Tyson nhổ một ̣t đèn lên khỏi mặt đất. “Em sẽ đánh lạc hướng Kampê. Mọi người chạy trước .”

      sẽ giúp em,” tôi nói.

      ” Tyson nói. “ . Chất độc có thể làm đau Cyclops. Rất đau. Nhưng thể giết chết được.”

      “Em chắc chứ?”

      . Em sẽ gặp lại mọi người bên trong.”

      Tôi ghét cái ý tưởng này. Trước đây, suýt nữa tôi đã để mất Tyson một lần, và tôi bao giờ muốn liều như thế nữa. Nhưng còn thời gian để tranh cãi, và tôi cũng nghĩ được cách nào tốt hơn. Annabeth, Grover và tôi mỗi người nắm một tay Briares và kéo ta , trong khi Tyson gầm lên, hạ thấp cây ̣t đèn và tấn công Kampê như một hiệp sĩ đơn thương độc mã.

      Kampê liếc nhìn Briares, nhưng Tyson làm mụ phải chú ý ngay khi giáng cho mụ một đòn vào ngực, đẩy mụ bật ngược vào tường. Mụ hét lên và chém tứ phía với hai thanh kiếm, chém cây ̣t đèn của Tyson ra thành từng mảnh. Chất độc nhỏ thành vũng xung quanh mụ, kêu xèo xèo nền xi măng.

      Tyson nhảy lùi lại khi khi tóc của Kampê quật vào và kêu rít lên, tất cả những con rắn vipe quanh chân mụ thè lưỡi ra mọi hướng. Một con sư tử nhảy ra khỏi thắt lưng của mụ và gầm lên.

      Khi chúng tôi chạy bổ vào khu nhà tù, điều cuối cùng tôi trông thấy là Tyson nhấc một quầy kem Dippin’ Dots lên và ném vào Kampê. Kem và chất độc tung tóe khắp nơi, những con rắn nhỏ tóc Kampê đều dính phải hỗn hợp kem và mứt hoa quả. Chúng tôi chạy hộc tốc quay lại sân nhà tù.

      làm được,” Briares hổn hển nói.

      “Tyson liều mình để cứu đấy!” Tôi hét lên với Briares. “ sẽ làm được.”

      Khi chúng tôi đến cửa khu nhà tù, tôi nghe một tiếng gầm đầy giận dữ. Tôi ngoái lại nhìn và thấy Tyson chạy hết tốc lực về phía chúng tôi, Kampê theo sát đằng sau. Người mụ ta bám đầy kem và áo phông. Một trong những cái đầu gấu ở vùng eo của bà ta đeo một cặp kính râm Alcatraz gọng khoằm bằng nhựa.

      “Nhanh lên!” Annabeth giục giã, như thể tôi cần phải được nói cho điều đó vậy.

      Cuối cùng chúng tôi cũng tìm thấy phòng giam mà chúng tôi đã vào, nhưng bức tường đằng sau nó thì hoàn toàn nhẵn thín – có dấu hiệu của một tảng đá cuội hay cái gì khác.

      “Hãy tìm dấu hiệu !” Annabeth nói.

      “Đây rồi!” Grover chạm vào một vệt xước nhỏ, và nó trở thành tượng Delta . Dấu hiệu của Daedalus tỏa ánh sáng xanh, và cánh cửa đá kêu ken két rồi mở ra.

      Quá chậm. Tyson chạy băng qua khu nhà giam, những lưỡi kiếm của Kampê chém tới tấp đằng sau lưng cậu ấy, chém loạn xạ lên các chấn song của phòng giam và các bức tường đá.

      Tôi đẩy Briares vào bên trong mê cung, sau đó là Annabeth và Grover.

      “Em làm được mà!” Tôi nói với Tyson. Nhưng ngay lập tức tôi nhận ra đó là điều thể. Kampê giành lợi thế. Mụ ta vung kiếm lên. Tôi cần một cái gì đó khiến mụ ta sao lãng – một thứ gì đó thật lớn. Tôi đập vào cái đồng hồ đeo tay và nó xoắn lại thành một cái khiên đồng. Một cách liều lĩnh, tôi ném nó vào mặt con quái vật.

      BỐP! Tấm khiên trúng vào mặt khiến mụ ta loạng choạng đủ để Tyson vụt qua tôi vào mê cung. Tôi theo ngay sau lưng cậu ấy.

      Kampê tấn công, nhưng đã quá muộn. Cánh cửa đá đóng lại và ma thuật của nó nhốt chúng tôi ở bên trong. Tôi có thể cảm thấy cả đường hầm rung lên khi Kampê húc vào nó và gầm lên giận dữ. Tuy nhiên chúng tôi nán lại để chơi trò gõ cửa với mụ ta. Chúng tôi phóng nhanh vào trong bóng tối, và lần đầu tiên (cũng là lần cuối) tôi thấy vui vì được quay trở lại Mê Cung.

    4. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      VIII


      Cuối cùng chúng tôi dừng lại ở một phòng đầy thác nước. Sàn nhà là một cái hố lớn bao quanh bởi một lối bộ bằng đá trơn. bốn bức tường xung quanh chúng tôi, nước tuôn ra từ những đường ống kh̉ng lồ. Nước chảy xuống cái hố mà ngay cả khi soi đèn vào tôi cũng nhìn thấy đáy đâu cả.

      Briares ngồi sụp xuống dựa vào bức tường. Khoảng một chục bàn tay của ta múc nước lên và rửa mặt. “Cái hố này nối thẳng đến Tartarus,” ta lẩm bẩm, “Có lẽ tôi nên nhảy xuống đó để tránh phiền toái cho mọi người.”

      “Đừng nói như thế,” Anabeth nói với ta. “ có thể trở về trại với chúng tôi. có thể giúp chúng tôi chuẩn bị. biết rõ việc chiến đấu với các thần Titan hơn bất cứ ai mà.”

      “Tôi có gì để giúp các bạn cả, tôi đã mất tất cả.” Briares nói.

      “Còn những người em của ?” Tyson hỏi. “Hai người họ vẫn đứng vững như núi! em sẽ mang đến với họ.”

      Sắc mặt Briares trở nên buồn bã hơn: khuôn mặt đau buồn của ta. “Họ còn nữa. Họ đã tan biến .”

      Các thác nước chảy ầm ầm. Tyson nhìn chằm chằm vào cái hố và nước mắt cậu rơi xuống.

      “Chính xác thì muốn nói gì khi nói, họ đã tan biến ? ” Tôi hỏi. “Tôi tưởng quái vật chết, giống như các vị thần chứ.”

      “Percy,” Grover nói một cách yếu ớt, “ngay cả sự trường sinh cũng có giới hạn. Đôi khi... đôi khi các con quái vật bị lãng quên và mất hết nghị lực để sống.”

      Nhìn Grover, tôi băn khoăn có phải cậu ấy nghĩ đến thần Pan. Tôi nhớ đến một vài điều mà Medusa có lần đã nói với chúng tôi: các chị em của bà ta, hai nữ thần tóc rắn khác, đã chết và để lại bà ta một mình như thế nào. Sau đó, vào năm ngoái, thần Appollo cũng nói đến việc vị thần già nua Helios biến mất và để lại cho ông nhiệm vụ của thần mặt trời như thế nào. Tôi chưa bao giờ suy nghĩ nhiều về điều này, nhưng giờ đây, nhìn Briares, tôi mới cảm nhận được sự kinh khủng khi phải sống tới hàng nghìn tuổi trong cảnh lạnh lẽo, đơn.

      “Tôi phải ,” Briares nói.

      “Đội quân của Kronos sẽ chiếm trại, bọn em cần được giúp đỡ.” Tyson nói.

      Briares cúi đầu xuống. “ thể, Cyclops ạ.”

      rất mạnh mà.”

      còn như vậy nữa rồi.” Briares đứng lên.

      “Này,” tôi lôi một tay Briares và kéo ta sang một bên, nơi tiếng ầm ầm của thác nước át giọng nói của chúng tôi. “Briares, bọn em cần . thấy Tyson rất tin tưởng sao. Cậu ấy đã liều mạng vì .”

      Tôi nói cho Briares mọi chuyện – kế hoạch xâm chiếm của Luke, lối vào Mê Cung ở trại, xưởng của Daedalus và chiếc quan tài bằng vàng của Kronos.

      Briares chỉ lắc đầu. “ thể, á thần ạ. Tay chỉ có một cây súng ngón tay để thắng trong trò chơi này.” Và để minh chứng, ta làm một trăm khẩu súng bằng ngón tay.

      “Có lẽ đó chính là lý do vì sao quái vật lại tan biến ,” tôi nói. “Có lẽ phải phụ thuộc vào việc người thường tin vào những gì. Mà có lẽ là do bọn đã tự mình bỏ cuộc mà thôi.

      Đôi mắt toàn một màu nâu của Briares nhìn tôi. Khuôn mặt ta chuyển sang một sắc thái mà tôi có thể nhận ra – sự xấu hổ. Sau đó ta quay người lại và lê bước chậm chạp về phía cuối hành lang cho đến ta hoàn toàn chìm trong bóng tối.

      Tyson khóc nức nở.

      “Mọi việc sẽ ổn cả thôi,” Grover ngần ngại vỗ nhẹ vào vai Tyson, có lẽ Grover đã lấy hết can đảm để làm điều này.

      Tyson hắt xì. “ ổn tẹo nào, bạn dê. Briares là người hùng trong tớ.”

      Tôi muốn giúp Tyson cảm thấy khá hơn, nhưng tôi chắc nên nói gì.

      Cuối cùng, Annabeth đứng lên và khoác ba lô lên vai. “ thôi nào mọi người. Cái hố này khiến tớ thấy căng thẳng. Hãy tìm một nơi thích hợp hơn để cắm trại qua đêm nay.”

      ***


      Chúng tôi dừng lại ở một hành lang làm bằng những tảng đá cẩm thạch khổng lồ. Trông nó giống như một phần của một ngôi mộ Hy Lạp, với những giá đuốc bằng đồng được gắn vào tường. Chắc hẳn đây là phần lâu đời hơn của mê cung, và Annabeth quả quyết đây là một dấu hiệu tốt.

      “Chúng ta hẳn phải ở rất gần xưởng của Daedalus rồi,” ấy nói. “Nghỉ ngơi nào mọi người. Chúng ta sẽ tiếp tục vào buổi sáng.”

      “Làm sao chúng ta biết được khi nào trời sáng?” Grover hỏi.

      “Cứ nghỉ ngơi ,” Annabeth khăng khăng.

      Grover chẳng cần được nhắc tới hai lần. Cậu ấy kéo ra một đống rơm từ ba lô, ăn một ít, rồi dùng chỗ còn lại làm gối, và ngay lập tức ngáy khò khò. Tyson khó ngủ hơn. Cậu ấy mày mò với những mẩu kim loại vụn trong túi dụng cụ một lúc, nhưng cho dù cậu ấy có làm gì chăng nữa, cậu ấy chẳng vui vẻ gì với nó. Chốc chốc cậu lại gỡ chúng ra.

      xin lỗi đã làm mất tấm khiên,” tôi nói với Tyson. “Em đã rất vất vả để sửa nó.”

      Tyson nhìn lên. Mắt cậu ấy đỏ ngầu vì khóc. “Đừng lo, trai. đã cứu em. Đáng lẽ đã phải làm thế nếu Briares chịu giúp.”

      “Chỉ vì ta sợ thôi mà,” tôi nói. “ chắc ta sẽ vượt qua được thôi.”

      ấy còn mạnh mẽ nữa,” Tyson nói. “ ấy còn quan trọng nữa.”

      Tyson thở dài sườn sượt và nhắm mắt lại. Những mảnh kim loại rời rạc rơi khỏi tay cậu ấy, và Tyson bắt đầu ngáy.

      Tôi cũng ́ gắng ngủ nhưng được. Việc bị một mụ rồng khổng lồ truy đuổi cùng các thanh kiếm có độc khiến tôi khó mà thoải mái được. Tôi vớ lấy túi ngủ của mình và lôi nó ra chỗ Annabeth ngồi canh gác.

      Tôi ngồi xuống cạnh ấy.

      “Cậu nên ngủ ,” Annabeth nói.

      ngủ được. Cậu ổn chứ?”

      “Chắc chắn rồi. Ngày đầu tiên dẫn đầu cuộc tìm kiếm. Thật tuyệt.”

      “Chúng ta sẽ đến được đó,” tôi nói. “Chúng ta sẽ tìm thấy xưởng của Daedalus trước Luke.”

      Annabeth đẩy những sợi tóc ra khỏi mặt mình. Có một vết bẩn cằm ấy, và tôi tưởng tượng ra hình ảnh ấy khi còn nhỏ, lang thang khắp đất nước với Thalia và Luke. Một lần ấy đã cứu họ khỏi nhà của một tên Cyclops độc ác khi chỉ mới bảy tuổi. Ngay cả khi ấy trông có vẻ sợ hãi, như hiện tại, tôi biết ấy rất dũng cảm.

      “Tớ chỉ ước cuộc tìm kiếm hợp lý hơn một chút,” ấy than thở. “Ý tớ là, chúng ta nhưng lại biết nơi chúng ta đến. Làm thế nào chúng ta có thể bộ từ New York đến California chỉ trong một ngày nhỉ?”

      “Trong mê cung gian đâu giống như ở ngoài.”

      “Tớ biết, tớ biết. Chỉ là...” Annabeth nhìn tôi ngần ngại. “Percy, tớ đã tự đánh lừa bản thân mình. Tất cả kế hoạch và sách vở đã đọc chẳng giúp được gì, tớ chẳng biết chúng ta đâu nữa.”

      “Cậu làm rất tốt mà. Hơn nữa, chúng ta sẽ bao giờ biết chúng ta làm gì. Mọi việc luôn tốt đẹp mà. Cậu nhớ đảo Circe chứ?”

      Annabeth cười ha hả. “Cậu đã là một con chuột lang dễ thương.”

      “Và cả Waterland nữa, cậu làm thế nào khiến chúng ta khỏi miệng ́ng ở đó?”

      “Tớ làm cho chúng ta bị ném ra khỏi miệng ́ng? Đó hoàn toàn là lỗi của cậu!”

      “Thấy chưa? Mọi việc

      Annabeth cười, một nụ cười khiến tôi rất vui mỗi khi nhìn thấy nó, nhưng nụ cười nhanh chóng vụt tắt.

      “Percy này, ý của nữ thần Hera là gì khi bà ấy nói rằng cậu biết đường qua mê cung?”

      “Tớ biết,” tôi thú nhận. “Thật đấy.”

      “Nếu cậu biết cậu sẽ nói cho tớ chứ?”

      “Chắc chắn rồi. Có lẽ...”

      “Có lẽ gì cơ?”

      “Có lẽ nếu cậu nói cho tớ dòng cuối cùng của Lời Sấm Truyền, điều này sẽ có ích gì chăng.”

      “Annabeth rùng mình. “ phải ở đây. phải ở trong bóng tối.”

      “Còn sự lựa chọn mà Janus nói đến thì sao? Nữ thần Hera đã nói...”

      “Ngừng lại,” Annabeth ngắt lời, rồi hít một hơi trong run rẩy. “Tớ xin lỗi, Percy. Tớ thấy căng thẳng quá. Nhưng tớ ... Tớ phải suy nghĩ về điều đó.”

      Chúng tôi ngồi trong im lặng, lắng nghe những tiếng kèn kẹt và rên rỉ trong mê cung, tiếng vọng của đá chạm vào nhau khi những đường hầm thay đổi, lớn dần lên và mở rộng. Bóng tối khiến tôi nghĩ đến những hình ảnh tôi đã nhìn thấy về Nico di Angelo, và đột nhiên tôi nhận ra một điều gì đó.

      “Nico ở một nơi nào đó dưới này,” tôi nói. “Đó là cách cậu nhóc biến mất khỏi trại. Cậu ta đã tìm ra Mê Cung. Rồi cậu ấy đã khám phá ra được một con đường có thể dẫn cậu ấy xuống sâu hơn – đến ̣a Ngục. Nhưng bây giờ cậu ta đã quay lại mê cung. Cậu ta đuổi theo tớ.”

      Annabeth im lặng một hồi. “Percy, tớ hy vọng cậu nhầm. Nhưng nếu cậu nói đúng...” ấy nhìn chằm vào ánh đèn pin tỏa bóng tròn mờ bờ tường đá. Tôi có cảm giác ấy nghĩ đến Lời Sấm Truyền của mình. Tôi chưa bao giờ thấy Annabeth mệt mỏi hơn thế.

      “Tớ sẽ gác trước nhé?” Tôi nói. “Tớ sẽ đánh thức cậu nếu có chuyện gì xảy ra.”

      Trông Annabeth có vẻ muốn phản đối, nhưng ấy chỉ gật đầu, nằm xuống túi ngủ và nhắm mắt lại.

      Khi tới lượt tôi được ngủ, tôi mơ thấy mình quay trở lại với nhà tù trong mê cung của người đàn ông già.

      Giờ thì trông nó giống như một cái xưởng hơn. Những cái bàn để đầy những dụng cụ đo lường. Một cái lò rèn cháy đỏ rực ở một góc. Cậu bé mà tôi nhìn thấy trong giấc mơ lần trước kéo bễ, nhưng giờ cậu ta đã cao hơn, và trạc tuổi tôi. Một cái ống khói kỳ dị được gắn vào ống khói của lò rèn, giữ lại tất cả khói và nhiệt, sau đó truyền chúng qua một cái ống dẫn xuống nền nhà, bên cạnh một cái nắp ́ng lớn bằng đồng.

      Lúc này là ban ngày. Bầu trời đầu xanh ngắt, nhưng những bức tường trong mê cung đổ bóng xuống khắp xưởng. Sau khi đã ở trong đường hầm quá lâu, tôi thấy vô cùng ngạc nhiên vì một phần của đường hầm có thể thông với gian bên ngoài. Điều đó khiến mê cung còn kinh khủng hơn nhiều.

      Người đàn ông già trông vô cùng ốm yếu. Ông ấy gầy trơ xương, bàn tay gân guốc và đỏ lên vì làm việc quá độ. Mái tóc trắng rủ xuống che phủ cả mắt của ông, và chiếc áo tunic đầy dầu mỡ. Ông ấy cúi lom khom bàn và làm việc với một mảnh kim loại dài chắp vá – trông giống như mẫu vải áo giáp làm từ những vòng kim loại đan vào nhau. Ông nhặt một vòng kim loại mảnh dẻ bằng đồng lên và đặt vào đúng chỗ của nó.

      “Xong,” ông nói như thông báo. “Nó đã được làm xong.”

      Ông cầm sản phẩm lên. Nó đẹp đến nỗi làm tôi giật mình – một đôi cánh kim loại được tạo từ hàng ngàn chiếc lông vũ bằng đồng khóa lại với nhau. Có hai đôi như vậy. Một đôi vẫn nằm bàn. Daedalus trải rộng bộ cánh, và nó trải dài đến sáu mét. Tôi biết nó sẽ chẳng bao giờ bay được. Nó quá nặng, và sẽ đời nào cất cánh khỏi mặt đất được. Nhưng tay nghề của ông ấy thật đáng kinh ngạc. Những chiếc lông vũ bằng đồng bắt ánh sáng và tỏa ra ba mươi luồng ánh sáng màu vàng khác nhau.

      Cậu bé bỏ ống thổi xuống mà chạy đến xem. Cậu ta cười vui sướng, mặc dù cậu nhễ nhại mồ hôi và đầy bụi bẩn. “Cha! Cha đúng là một thiên tài!”

      Người đàn ông già mỉm cười. “Hãy nói câu gì mà ta biết ấy chứ, Icarus. Giờ thì nhanh lên. Phải mất ít nhất một tiếng mới gắn được nó lên đấy. Lại đây nào.”

      “Cha trước ,” Icarus nói.

      Ông già đồng ý, nhưng Icarus vẫn cứ khăng khăng: “Cha tạo ra chúng mà. Cho nên cha phải được vinh dự đeo nó trước.”

      Cậu bé gắn bộ áo giáp da vào ngực cha cậu, trông giống như thiết bị leo núi, với những dây đai kéo từ hai vai đến ̉ tay. Sau đó cậu bắt đầu buộc chúng vào đôi cánh, sử dụng một dụng cụ bằng kim loại trông như chiếc súng bắn keo nóng khổng lồ.

      “Hỗn hợp sáp này chỉ có thể dính được trong một vài giờ,” Daedalus nói với vẻ lo lắng khi cậu con trai làm việc. “Chúng ta phải để nó khô trước. Và chúng ta phải tránh bay quá cao hoặc quá thấp. Biển sẽ làm ướt mối nối bằng sáp...”

      “Và sức nóng của mặt trời sẽ làm chúng tan chảy,” cậu bé nói chen vào. “Đúng, thưa cha. Chúng ta đã nói điều này hàng triệu lần rồi mà!”

      “Cẩn thận cũng thừa đâu con.”

      “Con hoàn toàn tin tưởng vào những phát minh của cha! Chưa có ai đời này thông minh bằng cha.”

      Mắt người đàn ông già sáng lên. Rõ ràng là ông ấy con trai mình hơn bất cứ thứ gì đời. “Giờ cha sẽ đeo cánh cho con và cũng để đôi cánh của cha được khô nữa. Đến đây nào!”

      Mọi việc chậm chạp diễn ra. Bàn tay của người đàn ông già lóng ngóng với những sợi dây. Ông ấy phải ́ gắng lắm mới giữ được cho đôi cánh ở đúng vị trí để gắn chúng lại. Đôi cánh kim loại của chính ông dường như cũng đè nặng ông xuống, làm ông vướng víu khi ông ́ làm việc.

      “Chậm chạp quá,” người đàn ông già lẩm bẩm. “Cha chậm chạp quá.”

      “Cứ từ từ thôi cha,” cậu bé nói. “Bọn lính canh chưa tới...”

      BÙM!

      Các cánh cửa ra vào của xưởng rung chuyển. Daedalus đã dùng một thanh giằng gỗ để chắn ở bên trong, nhưng các bản lề của chúng vẫn rung lên bần bật.

      “Nhanh lên cha!” Icarus nói.

      BÙM! BÙM!

      Một cái gì đó rất nặng thúc vào cánh cửa. Cây chống vẫn giữ lại, nhưng một vết nứt xuất hiện ở cánh cửa bên trái.

      Daedalus hối hả làm tiếp. Một giọt sáp nóng nhỏ vào vai Icarus. Cậu bé nhăn nhó nhưng kêu lên. Khi chiếc cánh bên trái đã được ́nh vào quai, Daedalus chuyển sang cánh bên phải.

      “Chúng ta cần có thêm thời gian,” Daedalus lẩm bẩm. “Chúng đến sớm quá! Chúng ta cần thêm thời gian để mối nứng lại.”

      “Sẽ ổn thôi,” Icarus nói trong khi cha cậu làm nốt cánh bên phải. “Giúp con mở nắp ́ng...”

      RẦM! Cánh cửa vỡ tung thành từng mảnh và phần đầu bọc đồng của thanh gỗ phá cửa hiện ra qua lỗ thủng. Những cái rìu phá tung cánh cửa và hai tên lính được trang bị vũ khí bước vào phòng, theo sau là vị vua với vương miện bằng vàng và bộ râu nhọn có dáng ngọn mác.

      “Nào, nào,” vị vua nói với nụ cười hung ác. “ ̣nh đâu à?”

      Daedalus và con trai đứng như trời trồng, với đôi cánh bằng kim loại sáng lóa lưng họ.

      “Chúng ta rời khỏi đây, Minos,” người đàn ông già nói.

      Vua Minos cười khùng khục. “Ta rất tò mò muốn xem ngươi tiến bộ như thế nào với công trình nhỏ bé này trước khi ta bóp nát hy vọng của ngươi. Phải nói là ta rất ấn tượng đấy.”

      Vị vua nhìn những cái cánh với vẻ mặt đầy ngưỡng mộ. “Trông các ngươi như những con gà kim loại ấy,” ông ta nói. “Có lẽ chúng ta nên vặt hết lông và dùng các ngươi làm món súp.”

      Những tên lính canh ngu ngốc cũng bắt chước cười theo.

      “Những con gà kim loại,” một gã lặp lại. “Súp.”

      “Câm mồm,” vị vua nói. Rồi sau đó ông ta quay sang Daedalus. “Ngươi để con gái ta chạy trốn, lão già. Ngươi làm cho vợ ta phát điên. Ngươi giết con quái vật của ta và biến ta thành trò cười cho bọn dân ̣a Trung Hải. Ngươi sẽ bao giờ thoát khỏi tay ta đâu!”

      Icarus vớ khẩu súng bắn sáp và phụt vào vị vua, hắn giật mình lùi lại. Mấy tên lính canh lao lên, nhưng mỗi tên đều bị bắn sáp nóng vào mặt.

      “Lỗ thông khí!” Icarus hét to với cha.

      “Bắt lấy chúng!” Vua Minos ra lệnh.

      Người đàn ông già và cậu con trai cùng nhau mở nắp ́ng, và một ̣t hơi nóng phụt lên mặt đất. Vị vua đứng nhìn, đầy ngờ vực, khi thấy nhà phát minh và con trai ông bay lên trung cùng với đôi cánh bằng đồng lưng nhờ dòng khí nóng.

      “Bắn chúng!” vị vua hét lên, nhưng lính của hắn chẳng ai mang theo cung tên cả. Một gã ném mạnh thanh kiếm của mình lên trong tuyệt vọng, nhưng Daedalus và Icarus đã ra ngoài tầm với. Họ bay một ng phía mê cung và cung điện của nhà vua, sau đó bay qua thành phố của Knossos và vượt qua bờ biển đầy đá của Crete.

      Icarus cười lớn. “Tự do rồi, cha ơi! Cha đã làm được.”

      Cậu bé xoải cánh hết mức có thể và để gió đẩy mình .

      “Chờ đã!” Daedalus gọi. “Cẩn thận đấy!”

      Nhưng Icarus đã bay ra ngoài biển lớn, thẳng tiến về phía bắc và cười sung sướng vì sự may mắn của họ. Cậu bé bay lên và dọa một con chim đại bàng khiến nó chệch đường bay, rồi lao thẳng xuống mặt biển như thể cậu sinh ra để bay, ngừng động tác bổ nhào đó ở những giây cuối cùng. Đôi xăng đan của cậu lướt các con sóng.

      “Dừng lại!” Daedalus gọi với theo. Nhưng gió đã thổi bạt cả tiếng nói của ông. Con trai ông say trong tự do của cậu.

      Người đàn ông già ́ gắng đuổi theo, bay vụng về đằng sau cậu bé.

      Họ đã bay cách đảo Crete hàng dặm và ra tít ngoài khơi, thì Icarus ngoái đầu lại và nhìn thấy nét mặt lo lắng của cha mình.

      Icarus mỉm cười. “Đừng lo cha ơi! Cha là một thiên tài! Con tin tưởng những gì do tay cha làm ra...”

      Chiếc lông kim loại đầu tiên lỏng ra, rơi khỏi chiếc cánh và bay . Rồi một chiếc khác. Icarus loạng choạng giữa trung. Đột nhiên những chiếc lông bằng đồng đồng loạt rơi ra, và bay xa khỏi cậu như một đàn chim bay hoảng sợ.

      “Icarus!” người cha hét lên. “Hãy lượn ! Dang rộng cánh ra. Giữ cho cơ thể con bất động càng tốt!”

      Nhưng Icarus vung vẫy hai tay mình trong nỗ lực tuyệt vọng kiểm soát đôi cánh.

      Cánh bên trái là cánh đầu tiên bị xé toạc khỏi những sợi dây đai và rơi xuống nước.

      “Cha ơi!” Icarus la lên. Và rồi cậu rơi xuống, đôi cánh bị xé toạc dần dần cho đến khi cơ thể cậu chỉ còn sót lại một đống dây dợ và một chiếc áo tunic trắng, hai tay cậu sải rộng trong một nỗ lực bay lượn đầy vô vọng.

      Tôi giật mình tỉnh dậy với cảm giác như thể tôi rơi xuống. Hành lang vẫn tối tăm. Trong tiếng rên rỉ xa xa của Mê Cung, tôi nghĩ tôi có thể nghe thấy tiếng kêu khóc thống thiết của Daedalus, vì Icarus là niềm vui duy nhất của ông đã rơi thẳng xuống mặt biển, sáu mươi

      Trong mê cung chúng tôi thể biết khi nào là buổi sáng, nhưng khi mọi người thức dậy và ăn một bữa sáng ngon lành với những thanh ngũ ́c và các hộp nước hoa quả, chúng tôi lại tiếp tục cuộc hành trình. Tôi nói gì về giấc mơ của mình. Có một điều gì đó về giấc mơ khiến tôi hoảng sợ, và tôi nghĩ rằng những người khác cần biết về nó.

      Những đường hầm bằng đá cũ chuyển thành một nơi được sạch sẽ lắm với các thanh dầm bằng gỗ tuyết tùng, như một mỏ vàng hoặc cái gì đó tương tự. Annabeth bắt đầu bối rối.

      đúng,” ấy nói. “Đáng lẽ nó vẫn phải là đá chứ.”

      Chúng tôi vào một cái hang đầy thạch nhũ rủ xuống thấp từ trần hang. Ở giữa nền hang là một cái hố hình chữ nhật, trông như một ngôi mộ.

      Grover run rẩy. “Ở đây có mùi như là mùi ̣a Ngục ấy.”

      Sau đó tôi thấy một vật gì đó phát sáng ở miệng hố – một miếng giấy nhôm. Tôi chiếu đèn pin vào cái hố và thấy một chiếc bánh hamburger pho mát bị ăn dở nổi lềnh bềnh trong đống bùn có màu mâu carbonat.

      “Nico,” tôi nói. “Cậu ta lại gọi hồn người chết.”

      Tyson rên rỉ. “Những con ma ở đây. Em thích chúng.”

      “Chúng ta phải tìm ra cậu ta.” Tôi biết tại sao, nhưng đứng bên miệng hố này khiến tôi có cảm giác cấp bách. Nico ở gần đây. Tôi cảm thấy được điều này. Tôi thể để cậu ta lang thang dưới này một mình cùng với người chết. Và tôi bắt đầu chạy.

      “Percy!” Annabeth gọi theo.

      Tôi cúi người chạy nhanh vào một đường hầm và trông thấy ánh sáng ở phía trước. Khi Annabeth, Tyson và Grover đuổi kịp tôi, tôi chỉ đứng nhìn trân trân vào ánh sáng ban ngày chiếu qua một loạt thanh xà đầu tôi. Chúng tôi đứng dưới một tấm lưới thép làm bằng những ống kim loại. Tôi có thể nhìn thấy cây và bầu trời xanh trong ở phía .

      “Chúng ta ở đâu đây?” Tôi tự hỏi.

      Sau đó một cái bóng phủ khắp cái lưới và một con bò cúi xuống nhìn chằm chằm vào tôi. Nó trông như một con bò bình thường trừ màu lông rất lạ – màu đỏ tươi như một quả đào. Tôi chưa bao giờ biết bò lại có mà

      Con bò rống lên, ngập ngừng đặt một cái móng lên tấm lưới, sau đó bỏ .

      “Đây là tấm lưới ngăn gia súc,” Grover nói.

      “Cái gì cơ?” tôi hỏi.

      “Người ta đặt nó ở cửa nông trại vì thế những con bò thể ra ngoài. Chúng được các tấm lưới này.”

      “Sao cậu biết điều đó?”

      Grover gắt lên đầy phẫn nộ. “Tin tớ , nếu cậu có móng guốc, cậu sẽ biết về cái này. Chúng rất đáng ghét!”

      Tôi quay sang Annabeth. “Chẳng phải nữ thần Hera đã nói gì đó về một nông trại sao? Chúng ta cần kiểm tra xem sao. Nico có thể ở đó.”

      Annabeth ngần ngại. “Được rồi, nhưng chúng ta thoát ra bằng cách nào bây giờ?”

      Tyson giải quyết vấn đề này bằng cách đập hai tay vào tấm lưới ngăn gia súc. Nó bật ra và văng đâu mất. Chúng tôi nghe thấy một tiếng KENG! và tiếng “Ụm bò!” do giật mình. Mặt Tyson đỏ lên.

      “Xin lỗi, bò!” cậu ấy kêu lên.

      Sau đó Tyson nâng chúng tôi lên khỏi đường hầm.

      Thật ra thì chúng tôi hiện ở trong nông trại. Những quả đồi trải rộng tới đường chân trời, điểm xuyết một vài cây sồi, xương rồng và đá cuội. Một hàng rào dây thép gai từ ̉ng chạy theo hai hướng. Những con bò màu đào nhởn nhơ gặm cỏ xung quanh.

      “Gia súc đỏ,” Annabeth nói. “Gia súc của mặt trời.”

      “Chúng là bò thần của thần Apollo.”

      “Bò thần ư?”

      “Chính xác. Nhưng chúng làm gì...”

      “Đợi đã,” Grover nói. “Nghe !”

      Đầu tiên mọi thứ đều yên ắng... nhưng sau đó tôi nghe thấy tiếng chó sủa từ đằng xa. thanh đó ngày càng trở nên lớn hơn. Rồi có tiếng sột soạt trong bụi cây, và hai con chó nhảy ra. Nhưng đó phải là hai con chó – nó là một con chó hai đầu. Trông nó như một con chó săn thỏ với thân hình dài, cong và có một màu nâu mượt mà, nhưng ̉ nó mọc ra hai cái đầu, và cả hai cái đều gầm gừ, hằm hè và nhìn chung là vui vẻ gì k chúng tôi.

      “Con chó của Janus xấu xa!” Tyson kêu lên.

      “Gâu!” Grover nói với nó và giơ một tay lên chào.

      Con chó hai đầu nhe răng ra với Grover. Tôi đoán nó chẳng thấy gì ấn tượng về việc Grover có thể nói chuyện với động vật. Sau đó chủ của con chó ì ạch ra khỏi rừng, và tôi nhận ra con chó chỉ là phần nhỏ nhất trong những gì chúng tôi sắp phải đối mặt.

      ta là một tay cao bồi to lớn với mái tóc bạc hoàn toàn, đội một cái mũ rơm dành cho cao bồi, và râu cũng màu trắng nốt, kiểu như Thần Thời Gian, nếu Thần Thời Gian biến thành một chàng da trắng nghèo nàn và say thuốc. ta mặc quần jeans và một cái áo phông có hàng chữ Đừng lôi thôi với Texas và một cái áo khoác denim tay để lộ cơ bắp. bắp tay bên phải có một hình xăm hai thanh kiếm bắt chéo. ta cầm một cây dùi cui có kích thước bằng đầu tên lửa hạt nhân, với những chiếc gai nhọn dài 15cm ở đầu.

      “Nằm xuống, Orthus,” ta nói với con chó.

      Con chó gầm gừ với chúng tôi một lần nữa như để tỏ thái độ rõ ràng, sau đó vòng tròn quanh chân ông chủ. Người đàn ông nhìn lên nhìn xuống trong khi vẫn lăm lăm cây dùi cui trong tay.

      “Chúng ta có gì đây nhỉ?” ta hỏi. “Ăn trộm gia súc ư?”

      “Chỉ là du khách thôi,” Annabeth trả lời. “Chúng tôi làm nhiệm vụ.”

      Mắt ta nheo lại. “Các con lai à?”

      Tôi bắt đầu nói, “Sao biết...”

      Annabeth chạm vào cánh tay tôi. “Tôi là Annabeth, con gái nữ thần Athena. Đây là Percy, con thần Poseidon, thần rừng Grover và Tyson...”

      “Cyclops,” người đàn ông kết thúc câu nói của Annabeth. “Đúng vậy, ta có thể thấy được điều đó.” ta quắc mắt nhìn tôi. “Ta biết các ngươi là con lai bởi ta cũng thế, nhóc con. Ta là Eurytion, người chăn bò ở trang trại này. Ta là con trai thần Ares. Các ngươi cũng qua Mê Cung như người kia, ta cho là thế.”

      “Người kia?” Tôi hỏi. “Ý là Nico di Angelo?”

      “Chúng ta nhìn thấy rất nhiều khách đến từ Mê Cung,” Eurytion nói một cách mơ hồ. “Và mấy ai có thể rời khỏi đây.”

      “Òa,” tôi nói. “Tôi thấy mình được chào đón nồng hậu đấy chứ.”

      chàng chăn bò liếc ra phía sau lưng mình như có ai theo dõi. Sau đó ta hạ giọng. “Ta chỉ nói một lần này thôi, các á thần. Quay lại mê cung ngay. Trước khi quá muộn.”

      “Chúng tôi đâu cả,” Annabeth khăng khăng. “Cho đến khi chúng tôi trông thấy á thần kia. Làm ơn!”

      Eurytion làu bàu. “Vậy đã cho ta sự lựa chọn nào khác. Ta phải đưa các ngươi đến gặp ông chủ.”

      Tôi có cảm giác chúng tôi là con tin hay cái gì tương tự. Eurytion bên cạnh chúng tôi với cây dùi cui vai. Con chó hai đầu Orthus gầm gừ suốt, ngửi chân Grover và thỉnh thoảng lại bắn nhanh vào các bụi cây để đuổi theo con gì đó, nhưng Eurytion ít nhiều vẫn kiểm soát nó.

      Chúng tôi xuôi xuống một con đường đất mà dường như cứ kéo dài vô tận. Nhiệt độ lên gần 39 độ C, đúng là một cú sốc sau San Francisco. Hơi nóng bốc lên từ mặt đất. Côn trùng kêu rì rầm cây. Chưa được bao xa thì tôi đã đổ mồ hôi như tắm. Ruồi bâu xung quanh chúng tôi. đường, cứ thỉnh thoảng chúng tôi lại thấy một bãi quây đầy bò đỏ và những con vật còn kỳ lạ hơn thế. Chúng tôi đã băng qua một bãi quây được bao bọc bằng amiăng. Bên trong là một đàn ngựa phun lửa. Cỏ khô trong máng của chúng bốc cháy. Đất bốc khói quanh chân chúng, những con ngựa có vẻ được thuần hóa. Một con ngựa giống nhìn tôi và hí lên, những ̣t lửa đỏ rực cuồn cuộn từ mũi nó phun ra. Tôi băn khoăn liệu như vậy nó có đau xoang mũi nhỉ.

      “Chúng được nuôi làm gì vậy?” tôi hỏi.

      Eurytion cau có. “Chúng tôi nuôi cho nhiều khách hàng khác nhau. Thần Apollo, thần Diomedes, và... những người khác nữa.”

      “Là ai ạ?”

      hỏi nữa.”

      Cuối cùng chúng tôi cũng ra khỏi rừng. Ở một ngọn đồi bên chúng tôi là một ngôi nhà trệt lớn – được làm từ đá trắng, gỗ và các cửa sổ lớn.

      “Trông như một công trình của Frank Lloyd Wright(11)ấy!” Annabeth thốt lên.

      Tôi đoán ấy nói về một thứ gì đó liên quan đến kiến trúc. Với tôi, nó giống một nơi có thể gây rắc rối cho một vài á thần hơn. Chúng tôi bắt đầu leo lên đồi.

      được phá cảnh báo khi chúng tôi leo bậc thềm dẫn đến mái hiên trước. “ đánh nhau. sử dụng vũ khí. Và được bình luận về vẻ ngoài của ông chủ.”

      “Tại sao?” tôi hỏi. “Trông ông ta như thế nào?”

      Trước khi Eurytion kịp trả lời, một giọng nói lạ cất lên, “Chào mừng đến Nông trại BA G.”

      Người đàn ông đứng ở mái hiên có một cái đầu bình thường, thật là nhẹ cả người. Mặt ông ta dãi dầu mưa nắng và rám nắng do nhiều năm ở dưới ánh nắng mặt trời. Ông ta có mái tóc đen bóng và bộ ria con kiến đen như những nhân vật phản diện trong các bộ phim xưa. Ông ta mỉm cười với chúng tôi, nhưng đó phải là nụ cười thân thiện; mà là một nụ cười thích thú, kiểu như Ồ trời, lại có thêm nhiều người nữa để tra tấn đây!

      Mặc dù vậy, tôi mất nhiều thời gian suy nghĩ, bởi ngay sau đó tôi chú ý đến cơ thể ông ta... , là những cơ thể của ông ta. Ông ta có ba cơ thể. Các bạn có thể nghĩ rằng tôi đã quen với những cơ thể kì lạ sau khi gặp Janus và Briares, nhưng người đàn ông này có đến ba cơ thể hoàn chỉnh. ̉ ông ta gắn với ngực ở giữa một cách bình thường, nhưng ông ta có thêm hai bộ ngực nữa, nối vào hai vai, cách phần ngực giữa chỉ một vài phân. Tay trái của ông ta mọc ra từ ngực trái, và tay phải từ ngực phải, như vậy ông ta có hai tay nhưng tới bốn nách, nếu điều đó mang lại một ý nghĩa nào đó. Cả ba bộ ngực đều nối với một thân mình đồ sộ, hai chân bình thường nhưng rất lực lưỡng, và ông ta mặc một chiếc quần jeans hiệu Levis cỡ lớn nhất tôi từng thấy. Mỗi bộ ngực mặc một cái áo phông khác nhau – xanh lá cây, vàng, đỏ – trông như đèn hiệu giao thông. Tôi băn khoăn về cách ông ta mặc áo cho bộ ngực ở giữa, bởi có cánh tay nào mọc ra từ đó cả.

      chàng chăn bò Eurytion huých vào tôi. “Hãy chào ngài Geryon .”

      “Xin chào,” tôi nói. “Ngực đẹp đấy – woa, nông trại! Ông có một nông trại thật tuyệt!”

      Trước khi người đàn ông có ba cơ thể kịp trả lời, Nico di Angelo bước ra từ cửa kính ra mái hiên. “Geryon, ta sẽ đợi...”

      Nico sững lại khi nhìn thấy chúng tôi. Sau đó cậu ta rút kiếm ra. Lưỡi kiếm giống như cái tôi đã nhìn thấy trong giấc mơ: ngắn, sắc, và đen như bóng đêm.

      Geryon hầm hè khi nhìn thấy thanh kiếm. “Cất nó , cậu di Angelo. Tôi sẽ để các vị khách của mình chém giết lẫn nhau“Nhưng đó là...”

      “Percy Jackson,” Geryon nói. “Annabeth Chase. Và hai người bạn quái vật của họ. Ta biết.”

      “Những người bạn quái vật ư?” Grover lặp lại đầy phẫn nộ.

      “Ông kia mặc ba chiếc áo phông,” Tyson nói, như thể cậu ấy chỉ vừa mới nhận ra điều này.

      “Chúng đã để chị gái tôi chết!” Giọng của Nico run lên vì giận dữ. “Chúng đến đây để giết tôi!”

      “Nico, bọn đến đây để giết em.” Tôi đưa hai tay lên. “Những gì đã xảy ra với Bianca là...”

      được gọi tên chị ấy! Ngươi thậm chí xứng đáng để nói về chị ấy!”

      “Chờ một phút.” Annabeth chỉ vào Geryon. “Sao ông biết tên chúng tôi?”

      Người đàn ông có ba cơ thể nháy mắt. “Việc của ta là cần phải biết rõ mọi việc, bé ạ. Thỉnh thoảng lại có một số người xuất hiện thình lình ở nông trại. Mọi người đều cần một cái gì đó từ lão Geryon này. Giờ thì, cậu di Angelo, cất thanh kiếm xấu xí đó trước khi ta gọi Eurytion tước nó khỏi tay cậu.”

      Eurytion thở dài, nhưng vẫn nâng cây dùi cui đầy gai lên. Dưới chân ta, con Orthus cất tiếng gầm gừ.

      Nico do dự. Trông cậu ta gầy và xanh hơn so với cậu ấy trong bức thông điệp Iris. Tôi băn khoăn liệu cậu ta có ăn uống gì suốt tuần qua hay . Bộ quần áo đen bám đầy bụi từ việc lại trong Mê Cung, và đôi mắt đen đầy rẫy sự hận thù. Cậu ta còn quá trẻ để trông có vẻ giận dữ đến vậy. Tôi vẫn nhớ hình ảnh của đứa trẻ vui vẻ chơi với những quân bài ma thuật.

      Cậu nhóc miễn cưỡng tra kiếm vào vỏ. “Percy, nếu ngươi dám lại gần ta, ta sẽ gọi người giúp đỡ. Ngươi sẽ muốn gặp những người giúp đỡ ta đâu, ta hứa đấy.”

      tin mà,” tôi nói.

      Geryon vỗ vào vai Nico. “Đấy, ổn cả rồi. nào, mọi người. Tôi muốn mọi người thăm một vòng quanh nông trại.”

      Geryon có chiếc xe điện – giống một trong số những chiếc tàu tí hon đưa bạn vòng quanh vườn thú. Nó được sơn màu đen và trắng với họa tiết da bò. Người lái xe có một cặp sừng dài gắn capo, và tiếng còi xe nghe như tiếng chuông đeo ở ̉ bò vậy. Tôi nghĩ có thể đây là cách ông ta hành hạ mọi người. Ông ta làm người ta xấu hổ đến chết khi dạo quanh một chiếc xe có hình dáng một con bò.

      Nico ngồi tụt lại ở ghế sau cùng, để có thể canh chừng chúng tôi. Eurytion bò vào ngồi bên cạnh cậu ta với chiếc dùi cui đầy gai và kéo cái mũ cao bồi qua mắt như thể tranh thủ chợp mắt một lát. Con Orthus nhảy vào đằng trước ngồi cạnh Geryon và hai cái đầu bắt đầu cùng nhau sủa một cách vui vẻ.

      Annabeth, Tyson, Grover và tôi ngồi vào hai hàng ghế giữa.

      “Chúng tôi là một doanh nghiệp khổng lồ!” Geryon khoe khoang khi chiếc xe hình con bò lắc lư tiến về trước. “Phần lớn là ngựa và gia súc, nhưng còn có tất cả các loài kỳ dị khác nữa.”

      Chúng tôi băng qua một ngọn đồi, và Annabeth há hốc miệng kinh ngạc, “Hippalektryon ư? Tôi tưởng chúng đã tuyệt chủng rồi!”

      Dưới chân đồi là một bãi cỏ được rào chắn, bên trong có khoảng một chục con vật kì lạ nhất mà tôi từng thấy. Phần đầu của chúng là ngựa và phần sau là gà trống. Chân sau của chúng là những móng vuốt màu vàng khổng lồ. Chúng có lông đuôi và cánh màu đỏ. Tôi trông thấy hai con đánh nhau để tranh giành một đống hạt. Chúng đứng bằng chân sau, hí lên và đập cánh vào nhau đến khi con nhỏ hơn chịu thua chạy với đôi chân sau hơi khập khiễng.

      “Kê mã bé nhỏ,” Tyson thốt lên đầy ngạc nhiên. “Chúng có đẻ trứng ?”

      “Mỗi năm một lần!” Geryon cười toét miệng trong gương chiếu hậu. “Người ta rất thích lấy trứng này làm món ốp lết đấy!”

      “Kinh khủng!” Annabeth kêu lên. “Hẳn là chúng sắp bị tuyệt chủng!”

      Geryon vẫy tay. “Vàng là vàng chứ bé. Và bé cũng chưa nếm thử món ốp lết mà.”

      “Nhưng điều đó đúng,” Grover lẩm bẩm, nhưng Geryon tiếp tục thuyết trình chuyến .

      “Giờ thì ở đằng kia,” ông ta nói, “chúng ta có những con ngựa phun lửa, có lẽ mọi người đã nhìn thấy đường vào trang trại. Đương nhiên, chúng được nhân giống để dùng trong chiến tranh.”

      “Chiến tranh nào?” Tôi hỏi.

      Geryon cười toét miệng một cách quỷ quyệt. “À, bất cứ cuộc chiến tranh nào xảy ra. Và ở đằng xa kia, tất nhiên là những con bò đỏ quý giá.”

      Phải rồi, hàng trăm con bò màu đào gặm cỏ ở sườn đồi.

      “Nhiều quá,” Grover nói.

      “Đúng vậy, ừm, thần Apollo quá bận để chăm lo cho chúng,” Geryon giải thích, “vì thế ngài ấy đã trao việc đó cho chúng tôi. Chúng tôi nuôi dưỡng cho chúng thật mạnh khỏe vì người ta cũng có nhu cầu.”

      “Về điều gì?”

      Geryon nhướn mày. “Tất nhiên là thịt! Quân đội cần ăn thịt.”

      “Ông giết những con bò thiêng của thần mặt trời để làm món thịt cho món bánh hamburger sao?” Grover nói. “Như vậy là phạm vào các điều luật ̉.”

      “Đừng tức giận như vậy, thần rừng. Chúng chỉ là động vật thôi mà.”

      “Chỉ là động vật!”

      “Phải, và nếu Apollo quan tâm, hẳn là ông ta đã lên tiếng rồi.”

      “Nếu ông ta biết được điều đó,” tôi lẩm bẩm.

      Nico chồm người lên phía trước. “Tôi quan tâm đến những điều này, Geryon. Chúng ta có chuyện cần bàn, và phải là những thứ này.”

      “Còn sớm mà, cậu di Angelo. Nhìn ra đằng này này: một vài trò chơi tuyệt vời của ta.”

      Cánh đồng tiếp theo được bọc dây thép gai, nơi những con bọ cạp khổng lồ bò lổm ngổm cả một vùng rộng lớn.

      “Nông Trại Ba G,” tôi nói, và đột nhiên nhớ đến một điều gì đó. “Dấu hiệu của ông có những cái thùng ở trại. Quintus đã lấy những con bọ cạp từ chỗ ông.”

      “Quintus...” Geryon suy tư. “Tóc bạc, ngắn, vạm vỡ, kiếm sĩ?”

      “Phải rồi.”

      “Chưa bao giờ nghe về ông ta,” Geryon nói. “Nào, bây giờ là những chuồng ngựa quý giá của ta! Các bạn phải thấy chúng!”

      Tôi cần trông thấy chúng, bởi ngay khi chúng tôi đến gần trong khoảng cách gần ba trăm mét, tôi đã ngửi thấy mùi của chúng. Gần bờ của một con sông màu xanh lục là một bãi quây ngựa có kích cỡ một sân bóng. Các chuồng ngựa nằm về một bên. Khoảng một trăm con ngựa ăn một đống phân chuồng – và khi tôi nói là phân chuồng, ý tôi là phân ngựa. Đó là thứ đáng ghê tởm nhất mà tôi từng thấy, giống như một một cơn bão phân vừa qua và để lại một lượng hơn một mét những thứ bẩn thỉu này chỉ trong một đêm. Những con ngựa thực sự gớm guốc khi lội qua đó, và những cái chuồng ngựa cũng tệ kém. Bạn thể tin được nó bốc mùi nồng nặc như thế nào – còn kinh hơn những con thuyền chở rác Sông Đông.

      Ngay cả Nico cũng nôn khan. “Cái gì đấy?”

      “Chuồng ngựa của ta!” Geryon nói. “À, thực ra chúng thuộc về Aegeas, nhưng chúng ta trông chừng chúng và được trả một khoản phí nhỏ hàng tháng. Chúng đáng sao?”

      “Chúng thật tởm lợm!” Annabeth nói.

      “Nhiều phân quá,” Tyson nhìn và nói.

      “Sao các người có thể nuôi gia súc kiểu như thế này?” Grover kêu lên.

      “Các cậu làm ta phát cáu đấy,” Geryon nói. “Chúng là ngựa ăn thịt, hiểu ? Chúng thích sống như thế này!”

      “Hơn nữa, ngài quá keo kiệt nên muốn thuê người rửa chuồng cho chúng,” Eurytion lẩm bẩm bên dưới cái mũ của ta.

      “Im ngay!” Geryon gắt lên. “Được rồi, có lẽ những chuồng ngựa thế này hơi khó rửa sạch. Có lẽ chúng cũng khiến ta buồn nôn khi gió thổi ngược chiều. Nhưng thế thì có sao? Khách hàng của ta vẫn trả ta hậu hĩnh.”

      “Khách hàng nào?” Tôi hỏi.

      “Ồ, cậu sẽ ngạc nhiên khi biết có bao nhiêu người muốn trả tiền để có một con ngựa ăn thịt. Chúng là những cái máy nghiền rác tuyệt vời. Một cách hay để dọa nạt kẻ thù. Rất tuyệt trong các bữa sinh nhật! Chúng được thuê thường xuyên đấy.”

      “Ông đúng là quỷ dữ,” Annabeth kết luận.

      Geryon cho dừng chiếc xe bò lại và quay sang nhìn Annabeth. “Cái gì đã nói lên điều đó? Là ba cơ thể ư?”

      “Ông phải thả những con vật này ra,” Grover nói. “Làm thế này là đúng!”

      “Và những khách hàng mà ông khoe khoang,” Annabeth nói. “Ông làm việc cho Kronos đúng ? Ông cung cấp cho quân đội của Kronos ngựa, thịt, và bất kỳ cái gì họ cần.”

      Geryon nhún vai. Điều này thật kì dị bởi ông ta có đến ba đôi vai. Trông như ông ta tự mình làm những đợt sóng. “Ta làm việc cho người nào có tiền, quý ạ. Ta là một thương nhân. Và ta bán cho họ bất kì cái gì ta có để bán.”

      Ông ta trèo ra khỏi chiếc xe và bộ đến chỗ chuồng ngựa như để hít thở khí trong lành. Đáng lẽ đó đã là một khung cảnh đẹp, với dòng sông, những quả đồi, cây xanh, nếu có bãi lầy phân ngựa kia.

      Nico ra khỏi phía sau xe và nhào đến chỗ Geryon. Tay chăn bò Eurytion thực sự buồn ngủ như vẻ ngoài. Hắn nhấc cây dùi cui lên và theo sau Nico.

      “Tôi đến đây có việc, Geryon,” Nico nói. “Và ông chưa trả lời tôi.”

      “Ừm,” Geryon ngắm nghía tỉ mỉ một cây xương rồng. Cánh tay trái của ông ta với ra và gãi ngực giữa. “Phải, chúng ta sẽ thỏa thuận, được rồi.”

      “Con ma của tôi nói rằng ông có thể giúp. Hắn nói ông có thể dẫn chúng tôi đến linh hồn chúng tôi cần.”

      “Đợi một chút,” tôi nói. “Tôi tưởng tôi là linh hồn cậu cần.”

      Nico nhìn tôi như một kẻ tâm thần. “Ngươi? Tại sao ta lại cần ngươi? Linh hồn của Bianca đáng giá gấp ngàn lần linh hồn của ngươi! Giờ thì, Geryon, ông có giúp tôi được hay ?”

      “Ồ, ta nghĩ là ta có thể,” tên chủ nông trại nói. “Nhân đây, con ma bạn cậu, nó đâu rồi?”

      Nico tỏ vẻ khó chịu. “Hắn ta thể hiện hình dưới ánh sáng ban ngày. Điều đó rất khó. Nhưng hắn chỉ ở quanh đây thôi.”

      Geryon cười. “Ta chắc là vậy. Minos thích biến mất khi mọi việc trở nên... khó khăn.”

      “Minos?” Tôi nhớ lại người đàn ông tôi trông thấy trong giấc mơ, với một chiếc vương miện vàng, râu nhọn, và ánh mắt độc ác. “Ý cậu là ông vua tàn bạo đó ư? Đó là con ma đã cho cậu lời khuyên à?”

      phải việc của ngươi, Percy!” Nico quay lại phía Geryon. “Và ý ông là gì khi nói mọi việc khó khăn hơn?”

      Người đàn ông có ba cơ thể thở dài. “À, cậu thấy đấy, Nico – ta gọi cậu là Nico được chứ?”

      .”

      “Cậu thấy đấy, Nico, Luke Castellan đã treo thưởng rất nhiều tiền để lấy mạng các á thần. Đặc biệt là các á thần có sức mạnh. Và ta chắc rằng khi hắn ta biết được bí mật nh của cậu, rằng cậu thật sự là ai, thì hắn ta sẽ trả rất, rất hậu hĩnh đấy.”

      Nico rút kiếm ra, nhưng Eurytion đập nó rơi khỏi tay cậu ta. Trước khi tôi kịp đứng lên, con Orthus vồ lấy ngực tôi và gầm gừ, hai cái đầu của nó chỉ cách mặt tôi có vài phân.

      “Nếu là các cậu, tôi sẽ ngồi nguyên trong xe,” Geryon cảnh cáo. “Nếu con Orthus sẽ xé toạc họng của Jackson ra đấy. Giờ thì, Eurytion, phiền cậu vui lòng, giam Nico lại.”

      Gã chăn bò nhổ nước bọt xuống bãi cỏ. “Tôi phải làm như vậy sao?”

      “Đúng vậy, thằng ngốc ạ!”

      Eurytion trông có vẻ chán chường, nhưng ta quàng một bàn tay lớn qua người Nico và nhấc bổng cậu ta lên như một tên đô vật.

      “Nhặt cả thanh kiếm lên nữa,” Geryon nói với vẻ ghê tởm. “Chẳng có thứ gì khiến ta ghét hơn là thép lấy từ sông Styx.”

      Eurytion nhặt thanh kiếm lên, cẩn thận để chạm vào lưỡi của nó.

      “Giờ thì,” Geryon hồ hởi, “chúng ta đã kết thúc chuyến thăm nông trại. Bây giờ sẽ quay về nhà nghỉ, ăn trưa và gửi một thông điệp Iris đến những người bạn trong đội quân Titan của chúng ta.”

      “Ông là quỷ sứ!” Annabeth kêu lên.

      Geryon cười với ấy. “Đừng lo, gái trẻ quý ạ. Một khi ta giao ra di Angelo, và đám bạn mình có thể . Ta can thiệp vào các cuộc tìm kiếm. Hơn nữa, ta được trả hậu hĩnh để mọi người qua đây an toàn, nhưng ta e là giao dịch đó kèm theo phần cậu Angelo.”

      “Ai trả tiền cho ông?” Annabeth nói. “Ý ông là gì?”

      có gì hết, gái ạ. Chúng ta thôi chứ?”

      “Đợi đã!” Tôi nói, và con Orthus thì gầm ghè. Tôi ngồi bất động để tránh việc nó sẽ xé toạc ̉ họng tôi. “Geryon, ông nói ông là một thương nhân. Cùng tôi giao kèo nhé!”

      Geryon nheo mắt. “Giao kèo gì cơ? Cậu có vàng ?”

      “Tôi có thứ còn tốt hơn. Hàng đổi hàng.”

      “Nhưng cậu Jackson, cậu có gì cả.”

      “Ngài có thể bảo cậu ta quét dọn chuồng ngựa.” Eurytion gợi ý một cách “hồn

      “Tôi sẽ làm việc này!” tôi nói. “Nếu tôi thất bại, ông được tất cả chúng tôi. Ông có thể bán chúng tôi cho Luke lấy vàng.”

      “Cứ cho là lũ ngựa sẽ ăn thịt cậu,” Geryon nhìn quanh.

      “Dù thế nào ông cũng đã có những người bạn của tôi rồi,” tôi nói. “Nhưng nếu tôi thành công, ông phải thả tất cả chúng tôi, kể cả Nico.”

      !” Nico hét lên. “Ta cần ngươi làm ơn làm phước, Percy. Ta cần ngươi giúp!”

      Geryon cười khùng khục. “Percy Jackson, những chuồng ngựa kia được cọ rửa hàng ngàn năm nay rồi... mặc dù đúng là ta có thể có bán được nhiều gian hơn trong chuồng ngựa nếu tất cả đống phân kia được dọn .”

      “Vậy ông có gì để mất nào?”

      Lão chủ trang trại ngập ngừng. “Được rồi, ta chấp nhận lời đề nghị của cậu, nhưng cậu phải làm xong trước khi mặt trời lặn. Nếu cậu thất bại, bạn cậu sẽ bị bán, và ta sẽ trở nên giàu có.”

      “Xong!”

      Ông ta gật đầu. “Ta sẽ mang các bạn cậu về nhà nghỉ. Chúng ta sẽ đợi ở đó.”

      Eurytion ném cho tôi một cái nhìn hài hước. Đó có thể là sự cảm thông. Hắn huýt sáo, và con Orthus nhảy khỏi người tôi rồi leo lên đùi Annabeth. ấy la lên oai oái. Tôi biết Tyson và Grover sẽ chẳng dám làm gì chừng nào Annabeth còn là con tin.

      Tôi ra khỏi xe và khóa mắt với ấy một lúc.

      “Tớ hy vọng cậu biết mình sẽ làm gì,” ấy nói khẽ.

      “Tớ cũng hy vọng như thế.”

      Geryon ngồi sau vô lăng. Eurytion lôi Nico vào ghế sau.

      “Trước khi mặt trời lặn,” Geryon nhắc lại với tôi. “ được muộn hơn.”

      Ông ta cười với tôi một lần nữa, bấm chiếc còi có điệu như tiếng chuông lục lạc ̉ bò và chiếc xe bò rầm rầm chạy xuống khỏi con đường mòn.

    5. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      IX


      Tôi mất hy vọng khi nhìn thấy răng của lũ ngựa.

      Khi tới sát hàng o hơn, tôi túm áo sơ mi che lên mũi để chặn bớt mùi hôi thối. Một con ngựa đực lội qua vũng lầy và hướng về tôi, hí lên những tiếng giận dữ. Nó nhe răng ra, hàm răng y như răng gấu.

      Tôi ́ thầm nói chuyện với nó. Tôi có thể nói chuyện với hầu hết mọi con ngựa.

      Chào, tôi nói. Tôi chuẩn bị dọn chuồng cho các cậu. Điều đó tuyệt đấy chứ?

      Đúng vậy! Con ngựa nói. Vào đây ! Tao sẽ ăn mày! Á thần có vẻ ngon đấy!

      Nhưng tôi là con trai của thần Poseidon, tôi phản đối. Ông ấy tạo ra loài ngựa đấy.

      Thông thường thì câu nói đó sẽ giúp tôi được đối xử như VIP trong thế giới loài ngựa, nhưng lần này thì .

      Đúng rồi! Con ngựa hào hứng đồng tình. Poseidon cũng cứ vào đây! Chúng tao sẽ ăn cả hai! Hải sản!

      Hải sản! Những con ngựa khác phụ họa theo khi chúng lội qua cánh đồng. Tiếng ruồi vo vo khắp nơi, và nhiệt độ lúc này làm cho mùi bốc lên chẳng dễ chịu chút nào. Tôi loáng thoáng có vài ý tưởng để thực hiện nhiệm vụ này, vì tôi nhớ Hercules đã thực hiện nó như thế nào. ta đã đào một cái kênh cho sông chảy vào rửa sạch chuồng ngựa và thoát nước cũng theo đường đó. Tôi nghĩ tôi cũng có thể điều khiển được nước. Nhưng tôi thể tới gần lũ ngựa mà bị chúng chén, đó mới là vấn đề. Và dòng sông thì lại thấp hơn cái chuồng ngựa, xa hơn nhiều so với tưởng tượng của tôi, gần nửa dặm. Vấn đề với đống phân ngựa có vẻ đơn giản. Tôi nhặt một cái xẻng gỉ sét lên và thử xúc một ít đất ở chỗ gần hàng rào. Tuyệt. Chỉ cần xúc khoảng bốn tỉ lần nữa là xong!

      Mặt trời lặn dần. Tôi chỉ còn nhiều nhất là vài giờ nữa. Và tôi quyết ̣nh dòng sông là niềm hy vọng duy nhất của tôi. Ít nhất thì suy nghĩ cạnh bờ sông cũng dễ hơn là đứng đây mà nghĩ. Tôi bắt đầu xuống chân đồi.

      Khi tới bờ sông, tôi thấy một gái đứng đợi tôi. ấy mặc quần jeans và áo phông màu xanh lá. Mái tóc nâu dài của được bện với một loại cỏ mọc bờ sông. Mặt gái toát lên vẻ lạnh lùng. ta đứng khoanh hai tay trước ngực.

      “Ồ, , cậu được làm thế,” gái nói.

      Tôi nhìn ta chăm chú. “ là nữ thủy thần sao?”

      ta tròn mắt. “Đương nhiên rồi!

      “Nhưng nói tiếng . Lại chẳng ở dưới nước gì cả.”

      “Sao? Cậu nghĩ là tôi có thể biến thành con người nếu muốn à?”

      Tôi chưa bao giờ nghĩ đến chuyện đó. Đại loại là tôi cảm thấy thật ngớ ngẩn, nhưng vì lúc ở Trại Con Lai tôi đã gặp vô số thủy thần, và họ chẳng làm gì khác ngoài việc cười khúc khích và vẫy tay chào tôi từ dưới đáy hồ chứa xuồng.

      “Nghe này,” tôi nói, “tôi chỉ tới đây để cầu...”

      “Tôi biết cậu là ai,” gái nói. “Và tôi biết cậu cần gì. Và câu trả lời là ! Tôi sẽ cho phép cậu dùng dòng sông của tôi để tẩy rửa cái chuồng dơ dáy đó một lần nữa.”

      “Nhưng...”

      “Thôi , cậu bé đại dương. Tuýp người thần-đại dương như cậu luôn nghĩ mình quan trọng hơn mấy dòng sông bé xíu kia rấtttttttt nhiều lần đúng ? Vậy để tôi nói với cậu nghe nhé, thủy thần này sẽ lùi bước chỉ vì cha cậu là thần Poseidon đâu. Đây là lãnh ̣a của nước ngọt, thưa cậu chủ. Gần đây nhất có một gã cầu tôi chuyện này – à, ta trông đẹp trai hơn cậu nhiều, ta đã thuyết phục được tôi, và đó là sai lầm lớn nhất mà tôi mắc phải! Cậu có biết đống phân ngựa đó đã khiến hệ sinh thái của tôi trở thành thế nào ? Cậu thấy tôi có giống một cái cây tưới bằng nước ́ng ? Cá của tôi sẽ chết. Tôi sẽ bao giờ làm cho đống phân đó biến khỏi các loài thực vật của tôi. Tôi sẽ ốm triền miên hết năm này qua năm khác. , CẢM ƠN!”

      Cách nói của ta làm tôi nhớ đến người bạn của tôi, Rachel Elizabeth Dare – kiểu như thể ta dùng từ ngữ đấm vào mặt tôi vậy. Tôi thể trách thủy thần ấy. Giờ nghĩ đến việc đó, đúng là tôi cũng sẽ phát điên nếu ai đó đổ hai tấn phân vào nhà mình. Tuy nhiên...

      “Các bạn tôi gặp nguy hiểm,” tôi bảo ta.

      “Ừ, điều đó thật tệ! Nhưng đấy phải việc của tôi. Và cậu cũng được hủy hoại dòng sông của tôi.”

      ta trông như thể sẵn sàng đánh nhau vậy. Hai tay nắm thành nắm đấm, nhưng hình như tôi nghe thấy có gì run run trong giọng nói của ta. Đột nhiên tôi nhận ra rằng mặc dù giận dữ, ta sợ tôi. Có lẽ ta nghĩ tôi sắp sửa đánh ta để giành quyền kiểm soát dòng sông, và ta sợ rằng mình sẽ thất bạ

      Suy nghĩ đó khiến tôi rất buồn. Tôi cảm giác mình như một kẻ chuyên bắt nạt, con trai của thần Poseidon bắt nạt khắp nơi vậy.

      Tôi ngồi lên gốc của một cái cây bị đốn. “Được rồi, thắng.”

      Nữ thủy thần nhìn tôi đầy kinh ngạc. “Thật ?”

      “Tôi ̣nh chiến đấu với . Đây là dòng sông của .”

      gái buông lỏng hai vai. “Ôi, tốt rồi, ý tôi là... tốt cho cậu!”

      “Nhưng các bạn tôi và tôi sẽ bị bán cho Titans nếu tôi cọ sạch những cái chuồng ngựa đó trước khi mặt trời lặn. Và tôi biết phải làm thế nào.”

      Dòng sông chảy róc rách một cách vui mừng. Một con rắn trườn trong nước và rúc đầu xuống dưới. Cuối cùng, nữ thủy thần thở dài.

      “Tôi sẽ nói cho cậu một bí mật, con trai thần biển ạ. Hãy vốc một ít đất lên.”

      “Sao cơ?”

      “Cậu nghe thấy rồi đấy.”

      Tôi cúi xuống và vốc một nắm đất Texas lên. Nó có màu đen, khô và xen lẫn những viên đá nhỏ xíu màu trắng... , cái gì đó phải là đá.

      “Đó là vỏ sò,” nữ thủy thần nói. “Vỏ sò hóa đá. Hàng triệu năm trước, còn trước cả thời các vị thần, khi chỉ có Gaia và Ouranos trị vì, vùng đất này nằm bên dưới nước. Nó là một phần của đại dương.”

      Đột nhiên tôi hiểu ra những gì ấy muốn nói. Trong tay tôi là những mảnh vụn của loài nhím biển ngày xưa, vỏ của loài động vật thân mềm. Ngay cả đá vôi cũng có dấu vết của vỏ sò đó.

      “Được rồi,” tôi nói. “Vậy điều đó thì giúp được gì cho tôi?”

      “Cậu cũng chẳng khác tôi là mấy, á thần. Ngay cả khi tôi lên khỏi mặt nước thì nước vẫn ở trong cơ thể tôi. Đó là nguồn sống của tôi.” gái bước lùi lại, đặt chân xuống nước và mỉm cười. “Tôi hy vọng cậu sẽ tìm được cách cứu các bạn của mình.”

      Và cùng lúc ta hóa thành nước, biến vào dòng sông.

      Mặt trời đã chạm đến ̉nh đồi khi tôi quay về với mấy cái chuồng ngựa. Chắc hẳn đã có ai đó qua và cho lũ ngựa ăn, vì chúng xâu vào cắn xé những cái xác động vật khổng lồ. Tôi biết đó là thịt của những con gì, và tôi cũng chẳng muốn biết. Nếu một điều gì đó có thể khiến cho chuồng ngựa trở nên kinh tởm hơn, thì đó chính là việc năm mươi con ngựa xâu xé những tảng thịt tươi.

      Hải sản! một con ngựa nghĩ vậy khi nó trông thấy tôi. Vào đây! Chúng tao vẫn còn đói.

      Tôi phải làm gì bây giờ? Tôi thể dùng nước sông. Và sự thật là nơi này từng chìm dưới mực nước biển một triệu năm trước cũng chẳng giúp gì được tôi lúc này. Tôi nhìn cái vỏ sò nhỏ đã vôi hóa trong tay, sau đó nhìn núi phân khổng lồ đó.

      Nản lòng, tôi ném cái vỏ sò vào cái đống phân đó. Khi ̣nh quay lưng về phía những con ngựa thì tôi nghe thấy một thanh.

      PHÌIIIIIII! Như là tiếng một quả bóng bị thủng và xì hơi vậy.

      Tôi nhìn xuống nơi tôi đã ném cái vỏ sò. Một tia nước nhỏ xíu phun ra từ chỗ đống phân.

      thể nào,” tôi lẩm bẩm.

      Hơi ngại ngần, tôi bước về phía hàng rào. “Lớn lên nào,” tôi nói với tia nước.

      PỌP!

      Nước bắn lên cao gần đến một mét và tiếp tục sủi bọt. Điều này là thể, nhưng nó đã xảy ra. Một vài con ngựa tới kiểm tra tình hình. Một con tới đưa mồm vào dòng nước, nhưng nó giật lùi lại.

      Eo! Nó nói. Mặn quá!

      Đó là nước biển ở giữa một nông trại miền Texas này. Tôi đào một xẻng đất nữa lên và nhặt những vỏ sò hóa thạch ra. Tôi thực sự hiểu mình làm gì, nhưng tôi chạy dọc theo chiều dài của chuồng ngựa, vứt những cái vỏ sò vào đống phân cao ngất. Bất cứ nơi nào vỏ sò rơi xuống, một dòng nước mặn lại xuất hiện.

      Dừng lại! Những con ngựa la lên. Thịt tốt! Tắm xấu!

      Rồi tôi nhận ra nước chảy ra ngoài chuồng hay chảy xuống dốc như thông thường. Nó chỉ sủi bọt lăn tăn và chìm xuống lòng đất, đem theo những chất thải bẩn thỉu. Đống phân ngựa bị phân hủy trong nước biển, để lại lớp đất ướt bình thường trước đây.

      “Nữa !” Tôi hét lên.

      Tôi cảm thấy có cái gì nhói lên trong ruột, và những dòng nước tung ra như một trạm rửa xe lớn nhất thế giới vậy. Nước muối tung lên cao tới năm, sáu mét. Lũ ngựa như phát điên, chạy tới chạy lui khi mạch nước phun chúng ở khắp các hướng. Núi phân ngựa tan dần như băng tan vậy.

      Cảm giác nhoi nhói càng lúc càng mạnh hơn, thậm chí còn hơi đau nữa, nhưng được nhìn những dòng nước biển đó khiến tôi thích thú vô cùng. Chính tôi đã làm ra nó. Tôi đã đem cả đại dương đến với sườn đồi này.

      Dừng lại, chúa tể! Một con ngựa kêu lên. Xin hãy dừng lại!

      Giờ thì nước đã lênh láng khắp nơi. Những con ngựa ướt sũng, một số con hoảng hốt và trượt ngã đống bùn. Đống phế thải đã hoàn toàn biến mất, cả tấn phân tan biến vào lòng đất, và giờ thì những dòng nước tập hợp lại, chảy ra khỏi chuồng và tạo thành hàng trăm dòng nước nhỏ đổ ra sông.

      “Dừng lại,” tôi ra lệnh cho nước.

      Chẳng có chuyện gì xảy ra. Ruột tôi bắt đầu đau. Nếu tôi nhanh ngăn được mạch nước phun, nước mặn sẽ đổ ra sông và làm tổn thương lũ cá và thực vật sống dưới đó.

      “Dừng lại!” Tôi tập trung hết sức mạnh để ngắt sức mạnh của nước biển.

      Đột nhiên những mạch nước chấm dứt. Tôi quỳ sụp xuống và kiệt sức. Trước mặt tôi là một chuồng ngựa sạch sẽ và sáng bóng, một đồng cỏ đầy bùn mặn ướt đẫm, và năm mươi con ngựa được cọ rửa kỹ càng đến nỗi bộ lông chúng ánh lên. Ngay cả những mảnh thịt vụn mắc ở răng chúng cũng bị rửa trôi luôn.

      Chúng tôi sẽ ăn cậu! Lũ ngựa van nài. Cầu xin đấy, chúa tể! muốn tắm nước muối lần nữa đâu!

      “Với một điều kiện,” tôi nói. “Từ giờ trở các ngươi chỉ được ăn thức ăn mà quản lý đem cho. phải ăn thịt người. Nếu tao sẽ quay lại với nhiều vỏ sò hơn đấy!”

      Lũ ngựa hí vang và hứa với tôi hết điều này đến điều khác, rằng từ giờ trở chúng sẽ là những con ngựa ăn thịt ngoan ngoãn, nhưng tôi có hứng thú ở lại để chuyện phiếm. Mặt trời lặn. Tôi quay lưng và chạy hết tốc độ về phía nhà trại.

      Tôi đã ngửi thấy mùi thịt nướng trước khi kịp bước vào nhà, và điều đó làm tôi điên tiết hơn bao giờ hết, bởi tôi món thịt nướng.

      Phần hiên nhà đã được bày biện sẵn cho buổi tiệc. Băng giấy màu và bong bóng được trang trí lên rào chắn. Geryon lật những những miếng thịt dùng trong món hamburger một cái lò nướng lớn làm từ thùng đựng dầu. Eurytion thì thơ thẩn chỗ bàn ăn, dùng dao cắt móng tay. Con chó hai đầu ngửi ngửi chỗ xương sườn và thịt nằm vỉ nướng. Và rồi tôi nhìn thấy các bạn của mình: Tyson, Grover, Annabeth, và Nico, tất cả đều bị ném vào một góc, chân tay bị trói lại như gia súc chờ người ta đóng dấu, và miệng thì bị nhét găng.

      “Thả họ ra!” Tôi gào lên trong khi vẫn thở ra hơi vì phải chạy lên dốc.

      “Tôi đã dọn sạch chuồng ngựa rồi!”

      Geryon quay sang. mỗi phần ngực của hắn là một cái tạp dề, mỗi một cái có một chữ, vì thế ta có thể đọc được dòng chữ: HÔN – BẾP – TRƯỞNG khi nối ba chữ đó lại với nhau. “Thật à, bây giờ à? Làm sao ngươi có thể làm được điều đó?”

      Tôi nóng ruột vô cùng, nhưng vẫn kể lại cho hắn nghe.

      Hắn gật gù hài lòng. “Rất chân thật. Nhưng nếu ngươi hạ độc con nhóc thủy thần phiền nhiễu đó thì còn tốt hơn nhiều, nhưng thôi sao.”

      “Thả các bạn tôi ra,” tôi nói. “Chúng ta đã giao kèo rồi còn gì.”

      “À, ta nghĩ về điều đó đây. Vấn đề là, nếu để bọn chúng , ta sẽ được trả tiền.”

      “Nhưng ông đã hứa rồi!”

      Geryon tặc tặc lưỡi. “Nhưng ngươi có bắt ta thề với Sông Styx đâu? hề đúng ? Vậy lời hứa chẳng có giá trị. Khi ngươi thỏa thuận làm ăn, nhóc con ạ, ngươi phải luôn có một lời thề trói buộc ”

      Tôi rút kiếm ra. Con Orthus gầm gừ. Một cái đầu của nó cúi sát xuống tai của Grover và nhe nanh ra.

      “Eurytion,” Geryon nói, “thằng nhóc này bắt đầu làm ta bực mình rồi. Giết hắn .”

      Eurytion quan sát tôi. Thật chẳng thích thú gì khi một mình phải đối mặt với ta và cái dùi cui đầy gai khổng lồ kia.

      “Ông tự mà giết cậu ta,” Eurytion nói.

      Geryon rướn mày. “Cái gì cơ?”

      “Ông nghe thấy,” Eurytion gầm gừ. “Ông suốt ngày bắt ta làm những việc bẩn thỉu. Ông cứ muốn đánh nhau mà chẳng cần có lý do gì, ta chán ngán phải sống chết vì ông lắm rồi. Nếu ông muốn đánh bọn trẻ, tự mình làm .”

      Đó là điểm -giống–thần-Ares nhất mà tôi từng nghe từ miệng một trong số những người con trai của ông ta.

      Geryon thả con dao bay xuống. “Ngươi dám nghe lời ta ư? Ta phải sa thải ngươi ngay lập tức!”

      “Và ai sẽ chăm sóc lũ gia súc cho ngươi? Orthus, lại đây.”

      Con chó ngay lập tức gầm gừ bên cạnh Grover nữa mà quay sang ngồi cạnh chân người chăn bò.

      “Tốt thôi!” Geryon càu nhàu. “Ta sẽ xử ngươi sau khi kết liễu thằng nhóc này!”

      Ông ta nhặt hai con dao lạng thịt lên và ném về phía tôi. Tôi làm lệch hướng một con dao bằng kiếm của mình. Con dao còn lại cắm vào cái bàn picnic, chỉ cách tay Eurytion có vài phân.

      Tôi chuyển sang tấn công. Geryon tránh được đòn thứ nhất của tôi bằng một chiếc kẹp nóng đỏ rực và dùng xiên nướng thịt đâm vào mặt tôi. Tôi tránh được đòn và đâm thẳng vào giữa ngực ông ta.

      “Ahhh!” Ông ta quỳ gục xuống. Tôi chờ đợi cho ông ta tan ra, giống như hầu hết những con quái vật khác. Nhưng thay vào đó, ông ta chỉ nhăn nhó và bắt đầu đứng dậy. Vết thương cái tạp dề đầu bếp của ông ta bắt đầu liền lại.

      “Khá đấy, nhóc con ạ,” ông ta nói. “Vấn đề là, ta có ba trái tim. Một hệ thống hỗ trợ tuyệt vời.”

      Ông ta lật ngược lò nướng và than văng ra khắp nơi. Một viên rơi sát mặt Annabeth khiến ấy ú ớ hét lên. Tyson gồng người lên phá xích, nhưng ngay cả sức mạnh của cậu ấy cũng chẳng thể khiến nó suy suyển. Tôi cần kết thúc trận chiến này trước khi các bạn tôi bị thương.

      Tôi đâm mạnh vào ngực trái Geryon, nhưng ông ta chỉ cười ha hả. Tôi đâm vào bụng bên phải. Nhưng cũng chẳng có ích gì. Tôi cảm giác như thể mình đâm kiếm vào một con gấu teddy theo những biểu hiện của ông ta.

      Ba trái tim. Một hệ thống hỗ trợ hoàn hảo. Mỗi lần chỉ đâm trúng một tim thì hoàn toàn vô tác dụng...

      Tôi chạy vào nhà.

      “Đồ hèn!” Ông ta kêu lên. “Quay lại đây để nhận cái chết

      Tường phòng khách được trang trí với một mớ chiến lợi phẩm săn trông gớm ghiếc – những cái đầu rồng và hươu nai nhồi, một kệ súng, một giá kiếm và một cái cung cùng một ống đựng tên.

      Geryon ném cái xiên nướng của ông ta, và nó cắm phập vào tường ngay bên cạnh đầu tôi. Ông ta rút hai thanh kiếm từ giá trưng bày. “Đầu ngươi sẽ được đặt ở ngay đây, Jackson ạ! Bên cạnh con gấu xám Bắc Mỹ này!”

      Tôi có một ý tưởng điên rồ. Tôi thả thanh Thủy Triều xuống và lấy cây cung ra khỏi tường.

      Tôi là gã bắn cung tồi nhất thế giới. Tôi thể bắn trúng các vạch ngoài khi luyện tập ở trại, chứ đừng nói gì đến điểm hồng tâm. Nhưng tôi còn lựa chọn nào khác. Tôi thể thắng trận này với kiếm. Tôi cầu nguyện tới nữ thần Artemis và thần Apollo, cặp cung thủ sinh đôi, hy vọng họ sẽ mủi lòng thương hại giúp tôi lần này. Xin các vị đấy. Một lần thôi. Làm ơn.

      Tôi lấy một mũi tên.

      Geryon cười ha hả. “Đồ ngu! Một mũi tên cũng chẳng lợi hại hơn một lưỡi kiếm là bao nhiêu.”

      Ông ta đưa cao các thanh kiếm của mình lên và tấn công. Tôi tránh sang một bên. Trước khi hắn kịp tấn công trở lại, tôi bắn một mũi tên vào sườn bên ngực phải của hắn. Tôi nghe thấy tiếng THỤP, THỤP, THỤP khi mũi tên đâm ngọt ngang qua ngực hắn, bay ra ở sườn ngực bên trái và đâm thẳng vào trán của cái đầu gấu chiến lợi phẩm tường.

      Geryon đánh rơi cả hai thanh kiếm. Ông ta quay lại và nhìn tôi trừng trừng. “Ngươi thể bắn được. Bọn họ nói cho ta biết ngươi thể...”

      Mặt ông ta biến thành một khối xanh lét kinh tởm. Ông ta quỳ sụp xuống và bắt đầu tan vào trong cát, cho đến khi tất cả những gì còn lại chỉ là ba cái tạp dề và một đôi bốt cao bồi quá khổ.

      Tôi cởi trói cho các bạn. Eurytion cũng chẳng buồn ngăn cản tôi. Sau đó, tôi đốt lò nướng và ném thức ăn vào ngọn lửa để làm ́ng vật cảm ơn nữ thần Artemis và thần Apollo.

      “Cảm ơn các vị,” tôi nói. “Tôi nợ các Ngài một lần.”

      Bầu trời đùng đùng sấm sét đằng xa, vậy nên tôi chắc là mùi của mấy cái bánh hamburger này cũng tạm được.

      “Tuyệt quá Percy!”

      “Giờ chúng ta trói gã chăn bò này lại được chưa?” Nico hỏi.

      “Đúng đấy!” Grover đồng ý. “Con chó đó suýt nữa giết chết tớ!”

      Tôi nhìn Eurytion, người vẫn ngồi ung dung ở bàn ăn. Con Orthus đặt cả hai cái đầu của nó lên đùi ta.

      “Geryon sẽ mất bao lâu để hóa thân lần nữa?” tôi hỏi ta.

      Eurytion nhún vai. “Một trăm năm? Hắn thuộc dạng hóa thân nhanh đâu, tạ ơn các vị thần. Cậu vừa giúp ta một việc tốt đấy.”

      nói đã từng chết vì hắn,” tôi nhớ lại. “Chuyện đó là thế nào?”

      “Ta đã làm việc cho cái tên khốn này hàng ngàn năm nay. Ban đầu là một á thần bình thường, nhưng ta đã lựa chọn để trở thành bất tử khi cha ta gợi ý. Một sai lầm nghiêm trọng nhất mà ta mắc phải. Giờ thì ta bị tắc lại ở đây với cái trại gia súc này. Ta thể đâu khác, thể từ bỏ. Ta chỉ biết trông nom lũ bò và tham gia những trận chiến của Geryon. Chúng ta như bị buộc với nhau ấy.”

      có thể thay đổi mọi việc mà,” tôi nói.

      Eurytion nheo nheo mắt. “Bằng cách nào?”

      “Hãy đối xử tốt với lũ động vật. Chăm sóc chúng. Đừng bán chúng làm thức ăn. Và đừng giao du với các thần Titan nữa.”

      Eurytion nghĩ ngợi về những lời tôi vừa nói. “Được thôi.”

      “Hãy làm cho gia súc theo , và chúng sẽ giúp . Khi Geryon trở về, có lẽ lần này ông ta sẽ phải làm việc cho biết chừng.”

      Eurytion cười toe toét. “Giờ ta có nó là lẽ sống rồi.”

      ngăn cản chúng tôi ra chứ?”

      , .”

      Annabeth xoa hai ̉ tay thâm tím. ấy vẫn nhìn Eurytion đầy nghi hoặc. “Ông chủ nói có ai đó đã trả tiền cho sự an toàn của chúng tôi khi qua đây. Đó là ai vậy?”

      chàng chăn bò nhún vai. “Chắc hắn ta chỉ nói thế để lừa các cậu thôi.”

      “Thế còn các thần Titan?” tôi hỏi. “ đã gửi thông điệp Iris về Nico cho

      “Chưa. Geryon chờ đến sau bữa tiệc thịt nướng. Họ biết gì về cậu ta đâu.”

      Nico nhìn tôi trừng trừng. Tôi chẳng biết phải làm gì với cậu nhóc nữa. Tôi e rằng Nico sẽ đồng ý với chúng tôi. Mặt khác tôi cũng thể cậu ta lang thang một thân một mình được.

      “Em có thể ở đây đến khi bọn hoàn thành nhiệm vụ,” tôi nói với thằng bé. “Sẽ an toàn hơn.”

      “An toàn ư?” Nico nói. “ đâu có quan tâm tôi an toàn hay ? còn để chị tôi phải chết cơ mà!”

      “Nico,” Annabeth lên tiếng, “đó phải là lỗi của Percy. Và Geryon nói dối về chuyện Kronos muốn bắt cậu. Nếu hắn biết cậu là ai, hắn sẽ bằng mọi giá đưa cậu về phe hắn.”

      “Tôi chẳng về phe nào cả. Và tôi cũng sợ!”

      “Cậu nên sợ,” Annabeth nói. “Chị của cậu sẽ muốn...”

      “Nếu chị quan tâm đến chị tôi thì chị đã giúp tôi mang chị ấy trở lại rồi!”

      “Việc đổi linh hồn lấy linh hồn ấy à?” tôi nói.

      “Đúng thế!”

      “Nhưng nếu cậu cần linh hồn của tôi...”

      “Tôi giải thích với !” Cậu bé chớp mắt, những giọt nước mắt lăn xuống. “Và tôi sẽ đưa chị ấy trở về.”

      “Bianca sẽ muốn trở lại đâu,” tôi nói. “ phải như thế.”

      chẳng hiểu gì về chị ấy cả!” cậu ta gào lên. “Làm sao biết được chị ấy muốn gì?”

      Tôi nhìn chăm chăm vào ngọn lửa trong cái lò nướng. Tôi nghĩ về những dòng trong lời tiên tri của Annabeth: Ngươi sẽ đứng lên hoặc ngã xuống dưới bàn tay của ma vương. Chắc đó phải là Minos, và tôi phải thuyết phục Nico nghe theo lời hắn. “Thế thì hãy hỏi Bianca.”

      Bầu trời bỗng dường như trở nên xám xịt.

      “Tôi đã ́ gắng rồi,” Nico nói với vẻ đau khổ. “Chị ấy trả lời.”

      “Thử lại , có cảm giác ấy sẽ trả lời nếu ở đây.”

      “Tại sao lại thế?”

      “Bởi vì ấy vẫn gửi thông điệp Iris cho ,” tôi nói, và bỗng nhiên có cảm giác tự tin hơn. “ ấy đã ́ cảnh báo những gì xảy ra với em, để có thể bảo vệ em.”

      Nico lắc đầu. “ thể như thế được.”

      “Có một cách để biết sự thật. Em nói em sợ.” Tôi quay sang phía Eurytion. “Bọn em cần một cái hố, kiểu như một hầm mộ ấy. Và nước và thức ăn.”

      “Percy,” Annabeth cảnh báo. “Tớ nghĩ đây là một ý kiến...”

      “Được rồi,” Nico nói. “Tôi sẽ thử.”

      Eurytion cào cào lên bộ râu của mình. “Có một cái hố được đào ở phía sau nhà để làm hố rác tự hoại. Chúng ta có thể dùng nó. Cậu bé Cyclops, hãy giúp ta lấy cái thùng đá trong bếp, hy vọng là bọn ma thích uống bia tươi.”

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :