CUỘC TÌNH CUỐI CỦA CHÀNG CẢNH SÁT - Jerry Cotton(Trinh thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Jerry Cotton


      CUỘC TÌNH CUỐI CỦA CHÀNG CẢNH SÁT



      Chương 5




      Blinky’ Lou Stearns, ‘Dumbo’ Keith Munson và Rex Youngblood, tên lái chiếc xe Gangster, cả ba câm như hến. Nhưng dù sao tôi cũng xin được lệnh bắt giam chúng nó, vì các chuyên gia đạn đạo chứng minh rằng có ít nhất trong những viên đạn xuyên vào xe Jaguar của tôi được bắn ra từ khẩu súng lục của Dumbo Munson.

      lệnh bắt giam của gã vậy là có ghi lý do tìm cách giết người. Ở lệnh bắt giam của hai tên còn lại là lý do trợ giúp giết người, tòng phạm, tàng trữ vũ khí trái phép và tìm cách giam giữ người trái phép, được tiến hành chống lại sĩ quan đặc nhiệm Phil Decker.

      Cả ba thằng con trai đều có danh sách tiền án nặng ký. Rex Youngblood và Keith Munson ngoài ra vẫn còn trong thời gian thụ án treo.

      Tập hồ sơ của Lou Stearns dẫn chúng tôi quay trở lại tới thời gian nhập lính của gã. Khác với Pat Labonte, kẻ bao giờ bị chính thức tuyên án, Stearns phải ngồi tù ba năm vì tội ăn cắp vũ khí trong nhà tù quân Leavenworth, trước khi gã quay trở lại thành phố quê hương New York. Ở đây, đầu tiên gã làm tay đấm đá thuê vài năm, sau đó làm cận vệ cho tay trùm Don Gino Borgo, cho tới khi gã Don kia chết cái chết rất trái tự nhiên. Lúc đó Lou Stearns lại có sếp và lại bảo đảm hè phố mà dân tộc Mafia có tổ chức chặt chẽ đem lại cho thuộc hạ.

      Gã tìm cách tạo dựng băng riêng. Gã tụ tập những thanh niên vô gia cư và có tiền án từ những Getto của người da đen và từ khu Spanish Harlems, xúi bọn họ cướp của và tấn công ra cả những thị trấn ngoại ô hiền lành. Nhưng Lou Stearns phải kẻ có tài lãnh đạo. Khi đơn vị đặc trách được thành lập với nhiệm vụ đập nát băng đảng của gã Lou nhanh chóng bị tóm cổ và bị xử khá nặng.

      im lặng lì lợm của gã bây giờ cho biết rằng gã lại đứng trong chở che của băng đảng quyền thế, được tổ chức chặt chẽ.

      Trong khi gắng sức bắt chuyện với Stearns, Munson và Youghblood, tôi cũng để mắt xem cả ba bọn chúng có đứa nào mặc món trang phục làm bằng vải len màu xanh dương hay .

      có. là quá đơn giản và cũng quá đẹp đẽ để có thể trở thành thực.



      • •

      Khi tôi quay trở lại văn phòng mảnh giấy ghi thông tin điện thoại nằm chờ sẵn. Mike Kellin gọi tới. nhắn là chờ tôi ở quán Bernie cho tới hai giờ chiều. Sát sạt hai giờ tôi mới hối hả lao được vào phòng ăn của quán Bernie. Nhìn thấy cái vẫy tay của Kellin, tôi bước đến bên bàn . Trước mặt tách cà phê. Lần này có rượu Whisky, chỉ sau ánh mắt kiểm tra thoáng qua tôi biết như vậy.

      - Hôm nay tôi mời , - . – Món sò nướng ngon lắm. Tôi ăn tới hai suất để làm mếch lòng bồi bàn.

      Tôi cười. bồi bàn tên là Eva, và tôi quen khá thân với .

      - Chào Jerry, - vui vẻ . da đen béo tròn và bây giờ cũng vui vẻ. Ít nhất là với tôi. – Hôm nay ta ăn gì nào? Bọn tôi có thịt xông khói hấp nóng, cả món tôm nướng cũng tốt.

      - Món sò hấp sao? – Tôi hỏi.

      Eve nhăn mặt. – , Jerry, sò đó đến từ hôm qua.

      Tôi cười phá lên. - Tốt, cho tôi món thịt xông khói. Sau đó tôi uống cà phê. – Eve rút . Giờ đến lượt Kellin xị mặt xuống. - Đừng phiền lòng quá, Mike!- Tôi . - Bọn sò tươi lâu mà.

      mời tôi thuốc lá và châm lửa cho tôi.

      - Có chuyện gì mới ? – Tôi hỏi.

      Tôi muốn ngay lập tức bỏ bom bằng cái tin rùng rợn rằng chính thức có kẻ muốn kết liễu đời . Kinh nghiệm bản thân cho tôi hiểu tâm trạng của người biết mình nằm trong danh sách đen của kẻ khác.

      - Tôi muốn ăn mất ngon, - Kellin .

      - Thôi đừng để ý đến chuyện ăn uống! – Tôi vui vẻ.

      - tùy . Greenfield vừa xạc cho tôi trận. Thiếu chút nữa là tôi quyết định bỏ chỗ đó.

      - Tôi biết, - tôi , - ý tôi muốn là tôi biết của tôi. Ông ta làm mình làm mẩy dữ lắm. – Tôi mỉm cười.

      - Thế sếp của sau đó có cáu kỉnh với bọn như ủy viên công tố quận ?

      - Tôi biết Hubert Greenfield cáu kỉnh tới mức nào, - tôi né tránh.

      - Ông ta cầu tôi ngưng mọi mối quan hệ với và với cảnh sát liên bang, - Kellin .

      Eve mang thức ăn lại. Tôi dập thuốc. Kellin đốt cho mình điếu mới. nhìn tôi trân trân.

      - Tôi thèm nghe lấy nửa lời, - tuyên bố, nhấn mạnh từng chữ.

      - Chắc cũng cáu kỉnh rồi, phải ? – Tôi hơi có phần nhồm nhoàm vì tôi vừa đưa miếng lớn vào trong miệng. quý ông lịch khi ăn, tôi biết thế. Nhưng nếu Kellin hút thuốc trong khi tôi ăn, chắc tôi cũng được phép vừa ăn vừa . Suy cho cùng, lời tuyên bố nổi loạn của Kellin cũng có đôi phần bất ngờ. Nhưng những câu chữ sau đó của còn gây bất ngờ hơn nữa.

      - Tôi biết là Rank bị giết chết. Và Greenfield có dính dáng tới chuyện đó!

      Miếng ăn nghẽn ngang cổ họng. Cố gắng lắm tôi mới nuốt được nó xuống.

      - Có chuyện gì thế? – Kellin hỏi. – đừng làm ra vẻ ngạc nhiên chứ! Ngay từ phút đầu tính đến khả năng này!

      - vừa đưa ra hai lời khẳng định. Hãy bắt đầu giải thích .

      - Sáng hôm qua Greenfield xem trước mặt tôi danh sách các biên bản nghe điện thoại mới được gởi tới, - Kellin . - Những thứ vô ý nghĩa được loại ra từ thời đầu chiến dịch ông ta đưa cho tôi. Nhưng ông ta gạt sang bên tờ giấy và rằng chuyện ngày giờ quan trọng nữa. ngắn gọn, ông ta loại ra tờ.

      - Chuyện đó khiến yên tâm, và xoay ra nó.

      - Đúng thế. Tôi xuống gặp bộ phận kỹ thuật. Tôi khẳng định rằng những bản sao mà tôi nhận được có phần thiếu , và người ta đưa cho tôi bản mới. – Kellin thọc tay vào túi áo veston và lôi ra tờ giấy gập .

      mở nó ra rồi đẩy sang phía tôi.

      Tôi lướt qua những dữ liệu được ghi phần đầu biên bản. Số của máy điện thoại bị nghe lén, số của giấy phép, tên của quan tòa ký bên dưới giấy phép nghe lén.

      Máy này là máy của Elmar Rank, và cuộc chuyện này được ghi lại vào tối ngày hôm qua, lúc 7 giờ 12 phút. Nếu như phỏng đoán của chúng tôi đúng, lúc đó tên giết người có mặt trong nhà. Từ chỗ nấp, chắc gã nghe thấy Rank chuyện với cậu con trai Desmond, người mà ông ta gọi là Teddy. Chắc tên sát nhân nhận được lệnh giết Rank muộn, để cái chết của ông ta bị phát quá sớm, và khiến người ta nghi ngờ cuộc đụng độ giữa Kellin và kẻ nhận lệnh giết người.

      Rank: Hallo, Teddy, các con sống ra sao?

      Desmond: Tốt lắm, ba. Bob hôm nay nghe nhạc với vài người bạn.

      Rank: chắc cũng có vài bạn nữ phải ?

      Desmond: Ba cứ luôn nghĩ đến chuyện đấy, ba!

      Rank: Ba cũng có thời trẻ trung. Các con cứ thoải mái vui chơi, miễn đừng có xao lãng chuyện học hành!

      Desmond: Ba đừng lo! Chắc chắn là đâu. Mọi thứ ở đây rất tuyệt, con đấy.

      Rank: Thế ba rất vui, Teddy, rất vui đấy. Nghe này, ba gọi đến vì chuyện này… ngày mai ba gửi tiền cho bọn con. Có thể 500, rồi sau đó lại đều đặn…

      Desmond: Ba ơi, bọn con rất cám ơn ba, cái đó ba biết. Nhưng ba phải cố gắng quá sức vì bọn con đâu!

      Rank: Đừng chuyện ngớ ngẩn, Teddy! Ba rất thích làm được chuyện gì đó cho bọn con. Ba rất tự hào về các con, và ba làm tất cả những gì có thể.

      Desmond: Con hiểu ba làm thế nào mà xoay ra nhiều tiền thế. Con thấy ba rất tuyệt, nhưng bọn con tự sức lo được mà. Bọn con sống phải như lũ con cháu nhà Rockefeller, nhưng cũng rất ổn. Mỗi tuần con làm ba ca đêm trong siêu thị. Qua đó con mua được thực phẩm cho hai em với giá rẻ hơn. Hai tháng nữa, khi con phải tập trung học để chuẩn bị thi, Bob nhảy vào làm thay con. Ba thấy đấy, mọi việc rất ổn mà!

      Rank: Thế ba sống và làm việc để làm gì? Ba thích làm như vậy mà. Chào Bob hộ ba! Cuối tuần ba gọi lại.

      (Kết thúc cuộc gọi vào lúc 19 giờ 17 phút)

      Tôi đẩy miếng giấy trở về phía Kellin.

      Trong người tôi nôn nao. Tôi ném dĩa xuống đĩa ăn và châm cho mình điếu thuốc.

      Eve, bồi bàn béo tròn, lạch bạch đến nơi và nhìn tôi đầy trách móc.

      - Sao thế, Jerry? gặp chuyện buồn hả? Chắc phải do món thịt xông khói của chúng tôi.

      - Tôi xin lỗi, Eve, - tôi lẩm bẩm. – Làm ơn mang cà-phê lại cho tôi!

      Kellin : - người đàn ông chỉ tiếng sau đó tự treo cổ có chuyện bằng giọng đó với con trai của ông ta ?

      - , - tôi trả lời. – Tôi tưởng tượng được.

      - Nó là bằng chứng, đúng ?

      - Nó có thể là trong các bằng chứng, nếu có thể dẫn tới vụ xét xử, - tôi thận trọng .

      - có tin là Greenfield có liên quan đến vụ này?

      Tôi nghi ngờ lúc lắc đầu. – Có thể ông ta chỉ đọc lướt qua tờ giấy và nắm được ý nghĩa của nó. cuộc chuyện cá nhân…

      - Trời đất, Jerry, bản thân cũng đâu có tin như thế! Chả lẽ sợ “thú dữ”?

      - Giờ đến lượt chuyện ngớ ngẩn. hãy tận dụng dữ liệu này ! là người đào ra nó, phải tôi!

      - Tôi đưa nó cho bộ phận nội chính. Nhưng rồi sau đó là chuyện gì? Sau đó Greenfield đóng kín cửa. Và mọi chuyện kết thúc.

      - Có thể. Thế giữ nó lại!

      - Và Elmar Rank được chôn như người tự tử. Jerry, tôi cũng còn chút lương tâm!

      - Còn những bằng chứng khác cho biết Rank bị giết, - tôi nhàng giải thích, rồi tôi kể về những sợi len màu xanh dương trong kẽ móng tay của Rank. - Bạn đồng nghiệp Phil Decker của tôi quan tâm đến vụ này. Nếu muốn, Phil có thể mách cho các bạn đồng nghiệp biết về cú điện thoại được ghi . Sau đó chính ban trọng án ra mặt đòi bản sao của biên bản ghi điện thoại, đòi trực tiếp từ bộ phận kỹ thuật bên . thấy giải pháp này thế nào?

      Kellin cân nhắc lúc rồi gật đầu. - Tốt. Chỉ được phép cho Greenfield biết là tôi có biết chuyện gì đó. – Kellin lại châm điều thuốc mới. – Jerry, sao tôi thấy trong người lạ lắm. hiểu ?

      - Tôi hiểu chứ.

      - Ai muốn gạt tôi ra khỏi đường ? Greenfield chăng?

      - Nếu đó là Greenfield, điều mà chúng ta nghi ngờ, phải tới hôm qua ông ta mới định như vậy đâu. Và chắc chắn trở thành yếu tố khó chịu đối với những hãng lừa đảo kia từ khi còn ngồi trong sở cảnh sát. Vì thế mà Greenfield cho mang lại gần ông ta, để ông ta dễ bề kiểm soát , và phía đối diện luôn có khả năng xoay xở chống đối. rồi chứ?

      - . Và vì vậy mà công việc của tôi trong thời gian cuối này chẳng hề tiến được chút nào. – Kellin thú nhận. – Nhưng kẻ nào cho giết tôi? Greenfield?

      - Chắc ông ta xa đến thế đâu. Tôi tưởng tượng được ra chuyện đó. Kẻ ban mệnh lệnh là những gã đàn ông giật dây. Chắc thậm chí còn là gã duy nhất. Chắc phải có ý nào đó, Mike!

      - Bọn giật dây ngồi ở Las Vegas. Ở đây chỉ có bọn tay chân cấp dưới thôi.

      - Và bọn sát thủ nữa chứ. Trời ạ, Kellin, chắc chỉ ngồi sau bàn viết và nghiên cứu bản vẽ hay danh sách vật liệu!

      - Trước đây khoảng tám tháng có kỹ sư xây dựng bị đánh thành tàn phế. ấy chỉ huy công việc cải tạo dây chuyền chuyển hàng ở sân bay La Guardia. ấy hé răng nửa lời, kể cả trước đó lẫn sau đó. Chúng tôi đoán rằng ấy từ chối chấp nhận vật liệu xây dựng kém chất lượng, thứ mà người ta muốn ấn vào tay ấy. Hồi đó, các bạn đồng nghiệp ở khu Queens điều tra vì tội tìm cách giết người. Nhưng khi họ sa vào ngõ cụt vụ việc được chuyển theo lệnh của công tố đoàn thành tội xâm phạm cơ thể trầm trọng, và công việc điều tra được trao cho cảnh sát khu vực số 114. Thanh tra Gunnerman quan tâm đến vụ án thời gian, nhưng thành công. Gunnerman là bạn thân của tôi. Gunnerman có những đường dây rất tốt dẫn đến cánh mật thám và cả các tay lưu manh mọi cỡ. ấy tin chắc rằng đằng sau vụ tấn công đó có bàn tay của Dom Riccardi. Nhưng đừng hỏi tôi về bằng chứng!

      Domenico Riccardi! Trời đất ạ, gã đàn ông đó bây giờ chắc chắn phải 70 tuổi rồi! Sau tất cả những gì mà tôi được biết, Riccardi lui về nghỉ hưu từ lâu, và chỉ sống bằng tiền để dành. Đám tay chân của Ricardi, toàn bộ rất trung thành với chủ, cũng lo lắng đầy đủ cho tuổi già của mình. Giờ bọn chúng làm chủ các Restaurant, các quán bán Pizza, các doanh nghiệp taxi, xưởng giặt hoặc các cơ sở cọ rửa nhà.

      Tôi còn nhớ rất , trước đây 10 năm chúng tôi dốc sức chiến đấu chống lại số tay cầm đầu trong nhóm đó. Trong đa phần trường hợp, chúng tôi cũng đưa được đối tượng vào tù. Chắc lũ bọn họ bây giờ được thả ra ngoài hết rồi. Liệu Riccardi lại lần nữa thò tay vào chuyện nóng? Hoặc trong những tay chân cũ của gã ta? Bản thân Domenico Riccardi chắc chắn có quá đủ tiền để sống vô tư cho tới ngày cuối cùng. Đúng nào?

      - chờ , Mike, tôi phải gọi điện.

      Ai có thể cho tôi những lời mách bảo về tay cựu trùm gangster tốt hơn lời mách bảo của bạn già Neville? Giống như mọi khi, Neville giờ này vẫn ngồi trong phòng lưu trữ hồ sơ của . phòng lưu trữ hoàn toàn do bàn tay tạo dựng lên, mặc dù nó còn chứa những tập giấy và hộp phiếu như thuở trước. Bất chấp tuổi tác, Neville cuối cùng làm thân được với kỹ thuật xử lý thông tin đại, mặc dù ngoài miệng bao giờ bỏ lỡ cơ hội để ca ngợi thời huy hoàng xưa cũ, thời người ta dấu súng Mpi dưới ghế ôtô săn bọn Gangster.

      - Chào Neville, - tôi - Tôi hy vọng là tôi quấy rầy bữa trưa của .

      - Ăn trưa vào giờ này hả, nhóc? – già Neville hầm hè. – 3 giờ kém 15 rồi đấy! Thuở trước vào giờ này...

      - Neville! – Tôi dịu dàng ngắt lời . – Tôi có ở đây cái tên chắc chắn khiến tim nhảy lên vì vui sướng. Dom Riccardi!

      - Riccardi, cái thằng con hoang già khụ! Nó vẫn chưa chết hả?

      - Nếu nó chết là phải người đầu tiên biết tin chứ, - tôi nịnh nọt.- tin đồn. Liệu có khả năng Riccardi hoạt động trở lại ?

      - Tại sao nó lại ngu thế được? – Neville hỏi.

      - Cha, cái đó tôi cũng tự hỏi mình đây. Liệu có khả năng tiền tiết kiệm của gã cạn rồi chăng? Hay là gã nợ ai món nợ ân tình?

      - Ngớ ngẩn. Ở những đường phố nơi đây ít nhất cũng phải có tới cả ngàn con người nợ gã món ân tình. đâu, , Jerry. Riccardi đầu tư tiền của gã chắc chắn như trong hầm chống bom nguyên tử. Tại Las Vegas.

      Click, click, những mối liên quan chợt bùng lên trong não tôi.

      - Neville, đường về Las Vegas, có thể nhanh chóng sử dụng nó chứ?

      - Nhanh chóng hả? Thế tôi phải hỏi cái gì? – Neville nghi ngờ vặn vẹo.

      Người ta quả thể mong chờ câu trả lời, khi chưa biết câu hỏi.

      - Vâng, , liệu người ở Nevada có biết điều gì về gã . – Tôi chơi bài tinh ranh.

      A ha. Giờ tôi biết rất . Tôi có bạn đồng nghiệp. Cùng tuổi với tôi, Jerry. ấy về hưu và sống ở Las Vegas. Tôi gọi cho ấy.

      Lòng tôi thoáng hối hận về việc đẩy bạn Neville già nua vào cuộc.

      Neville cười. - Giờ cậu tưởng gã già điên rồi, thú nhận !

      - đâu, Neville! – Tôi phản đối, chắc giọng nghe được thuyết phục cho lắm.

      - bạn đồng nghiệp của tôi. ấy hoặc là bạn đồng nghiệp của cậu, Jerry! ấy vẫn còn làm việc. Tư vấn cho cơ sở bảo an tư nhân. Cơ sở bảo an này chiếm được lòng tin của cả các sòng bạc lẫn của sở cảnh sát. Giờ cậu gì hả?

      - Nghe hay quá , - tôi thú nhận.

      - Gọi lại cho tôi, - Neville và đặt máy.

      Tôi quay trở lại với Kellin. Để làm mếch lòng Eve, đặt tiếp cà phê và bánh táo.

      - Riccardi có giữ quan hệ đến Las Vegas, - tôi . – Gã ta đầu tư tiền ở đó. chút nữa thôi tôi nhận được vài tin, Mike.

      - Ước gì mà có được cái máy điện thoại của , - Kellin thở dài.

      - Máy của chúng tôi mở cả ngày lẫn đêm, kể cả cho các bạn đồng nghiệp, - tôi .

      Kellin u ám nhìn trân trân ra phía trước. - Khốn nạn, tôi cứ luôn luôn phải nghĩ tới chuyện đó, cái chuyện có đứa muốn giết tôi! Tôi có thể làm gì? Người ta đâu có thể tối ngày đưa mắt dò quanh tìm sát thủ! Cứ mãi như thế người ta điên mất! Người ta có khả năng kháng cự!

      - Mike, phải gắng giữ bình tĩnh. Và cân nhắc kỹ. Bọn gangster dám tổ chức cuộc tấn công trực tiếp vào đâu.

      - Sao tin chắc như vậy?

      - Hãy nhớ lại buổi tối hôm qua! Đối thủ của tạo ra cảnh kịch với người tự tử, người ta muốn cho ai nhận thấy là ở đây có kẻ chủ tâm giết cảnh sát viên.

      - Nhưng điều đó thay đổi là có kẻ muốn giết tôi! Điều đó hề thay đổi tình thế của tôi, Jerry!

      - Nếu chúng ta muốn cương quyết, Mike, tôi đành phải khuyên xin nghỉ phép. Hãy rút lui vào khách sạn, hãy trốn vào góc tối.

      - có chuyện đó! Tôi là cảnh sát viên!

      - Chỉ cảnh sát viên còn sống mới là cảnh sát viên tốt. Chính ra điều đó: có khả năng kháng cự.

      - Tôi lẩn trốn. Tôi tiếp tục làm việc của tôi. Khi ban trọng án và các bác sĩ pháp y ở khu Queens chính thức xác nhận là Rank bị giết chết, lúc đó tôi mở mồm ra và cho mọi người hiểu tại sao Rank phải chết và rằng những thằng khốn nạn đó thực ra muốn giết tôi! Lúc bấy giờ Greenfield phải tỏ ra thận trọng, đúng nào?

      - Với Greenfield đúng. Ít nhất điều đó cũng tăng cơ hội của về phương diện bắt đối phương trì hoãn ra tay. Hoặc là phía đối diện, như , phải nghĩ ra điều gì hoàn toàn mới mẻ. thứ mà chúng ta ngờ tới.

      - Ôi trời, tôi biết tôi phải làm hay là được phép làm gì. Nhưng mà được rồi, Jerry, đó và vấn đề của tôi. giúp tôi quá nhiều rồi.

      - Tôi bám vụ này. Nhưng đừng cho Greenfield biết!

      - đời nào!

      Tôi chỏ tay vào tờ biên bản vẫn nằm mặt bàn.

      - Hãy chuyện với hai con trai của Rank! Theo như biên bản này, họ biết và chắc chắn ông ta đưa cho họ lá thư nào có đề “Hãy đưa thư này cho cảnh sát khi ba qua đời”. Nhưng có thể hai chàng trai đó nhận ra vài chi tiết nào đó. Ít nhất Terry Rank cũng có vẻ thắc mắc, cha ta làm cách nào mà luôn xoay được ra tiền để gửi cho con trai.

      - Hai chàng trai đó chiếm vị trí rất cao trong danh sách của tôi, - Kellin .

      Chúng tôi uống thêm tách cà phê nữa và hút với nhau điếu thuốc lá. Tôi chỉ vào mảng băng dính sau tay Kellin và hỏi: - bạn sao?

      Kellin nhăn mặt. – ấy ngất, mà cũng hoảng hốt.

      - Đó là điểm hay của các bạn khi so sánh với các bà vợ, - tôi nhận xét.

      - Chúng tôi chuyện về . Cora rằng tôi nên mời đến nhà dùng bữa. Cuối tuần này có kế hoạch gì chưa, Jerry? Cora nấu ngon lắm.

      Michael Kellin dè dặt nhìn tôi. Vẻ kiêu ngạo mà tỏa ra trong cuộc gặp gỡ đầu tiên của hai chúng tôi hầu như biến mất hẳn.

      - Vậy là nghĩ .

      - Với lời mời hả? Dĩ nhiên!

      - Ý tôi muốn chuyện với Cora.

      - Tôi tin rằng ai trong chúng ta cũng khao khát cái gì đó vững chãi, lâu bền. – Kellin thoáng cười. – Giờ tôi trầm tĩnh hơn. Chắc lý do nằm ở đó. Hay đó có phải là nỗi sợ hãi tuổi tác? Sợ hãi đơn? Nhưng mà đừng lo, tôi hâm đâu, tôi chưa gặp trục trặc gì. Tối thứ bảy nhé?

      - Được, Mike, tôi sẵn lòng.

      - mang vợ đến nhé!

      - Tôi chưa lấy vợ. Nhưng tôi cùng với người. Sharon cũng rất dễ thương. Chắc hai người phụ nữ làm quen với nhau rất nhanh. Giờ tôi phải .

      - À, đến chuyện – xe Jaguar của ra sao rồi?

      - Tới lúc nào đó tôi mang nó đến xưởng. Có thể tuần sau. tôi dùng xe công.

      Tôi tiễn Kellin đến bên chiếc Mercury màu nâu sáng của . Nó đỗ trong garager ngầm. Bất giác, tôi đưa mắt nhìn quanh chăm chú hơn mọi khi.

      , tôi quả muốn ở trong tình cảnh thời của Mike Kellin.



      • •

      Đúng lúc Cora Dixon muốn rời căn hộ điện thoại réo. Người phụ nữ chần chừ thoáng. Thế rồi nỗi tò mò nữ tính chiến thắng. vung tay ném chiếc túi du lịch xuống sảnh ngoài rồi chạy vào phòng ngủ, nơi để máy điện thoại. Thường Cora thích gọi điện trong tư thế nằm ngang giường, nhưng giờ đứng lại. phải vội mới kịp tới chỗ hẹn. Có phần hụt hơi và hấp tấp, xưng danh.

      - Cora em , - giọng đàn ông lên tiếng. – May mà gặp em...

      - Em đến bên cửa rồi. Có chuyện gì ?

      - rất vui vì được gặp em buổi tối hôm nay...

      - Chẳng lẽ muốn ... – Làn môi Cora chợt thành mỏng dính.

      - gặp chuyện đột xuất. Chúng ta hoãn lại chỉ tới tối mai thôi. Được ?

      - Chẳng được gì hết. Tôi để cho người khác đẩy tới đẩy lui tôi như đẩy con búp bê trong cửa sổ! Ngày mai tôi có hẹn với Mike.

      - Gọi điện cho nó ! Ngay bây giờ. Gọi nó về chỗ em!

      Cora nhìn hình ảnh mình trong khuôn kính lớn bọc ngoài tủ quần áo. Gương mặt thon với mái tóc thẫm màu được buộc gọn ra sau gáy. mặc bộ áo liền quần màu vàng sáng, với những cái túi đắp nổi rất lớn, mẫu thời trang của Florio giả kiểu bảo hộ lao động của dân thợ cơ khí. Nhưng tay thợ cơ khí nào cũng lồi mắt ra khỏi tròng khi nhìn thấy mặc áo liền quần mà thiếu hẳn phần áo bên trong như thế này. Nhất là khi chuyển động như bây giờ, khi đánh bên hông về phía trước, gập chân lại và tỳ gối lên giường.

      - Tôi nghĩ tới chuyện đó đâu, - Cora .

      - Nếu cho tôi leo cây, tôi tìm trò vui chỗ khác.

      - làm chuyện gì hết! - Người gọi tới sẵng giọng.- gọi cho Kellin và bảo nó đến chỗ !

      - Cái gã lải nhải này làm tôi ngán đến tận cổ rồi! Có trời mới biết ta còn tưởng tượng ra những chuyện gì nữa! Tối hôm qua ta lại kể mãi về cái tay bạn Jerry Cotton. ta chỉ chịu im khi tôi đồng ý mời tay kia đến ăn tối.

      - Ai kia? Cotton?

      - Chứ còn ai nữa? Mike đằng nào cũng đến đây thường xuyên rồi. Giờ ta thậm chí còn có cả chìa khóa, nhờ vào cái lời mách bảo tử tế của đấy. Tôi còn phải cho ta những gì nữa đây?

      - Chẳng cần cho nhiều nữa đâu, Cora em , - người đàn ông bằng giọng đột ngột lạnh đến mức khiến Cora rùng mình. - Bữa ăn tối đó xảy ra vào ngày nào?

      - Vào cuối tuần, Mike cho em biết hơn.

      - Cho tới đó còn vài ngày nữa, - người gọi tới . – Kellin còn kể gì nữa ?

      - ta đâu có bao giờ chịu hé mồm về công việc. chọn lầm người rồi. Gửi ta ra sa mạc , cho tìm đầu đạn hạt nhân hay cái gì tương tự!

      - rất tiếc, em cưng, nhưng em phải hy sinh thân thể xinh đẹp của em thêm lần nữa. phải tống Kellin khuất mắt vài tiếng đồng hồ. Gọi nó tới chỗ em . Gọi nó ! Ngay lập tức. Nó trong phòng làm việc

      - Em tham gia trò chơi của ... hứa là em được tự do...

      - Em tự do, còn sớm hơn là em tưởng, bé ngoan. Nhưng chỉ với điều kiện em quên thỏa thuận của chúng ta...

      - Em quên điều gì cả, Hughie , quên điều gì cả...

      - Em quên Los Angeles, Cora bé ngoan, và quên ai là người đưa m ra khỏi chỗ đó. có thể tin tưởng em chứ?

      - Vâng, vâng, - Cora và đặt máy. ta đứng lúc lâu, quan sát mình trong gương, cho tới khi nhận thấy hình ảnh bắt đầu mời nhòa. Trời bên ngoài dần tối. ta bật điện lên rồi lại cầm ống nghe điện thoại. ta chọn số và cầu được nối với thanh tra Kellin. Mike tới máy ngay lập tức.

      - Chào , Mike, - ta trầm giọng thở vào ống nghe. – Mike, em nhớ quá...

      Người đàn bà vừa vừa nhếch môi cười giễu cợt với hình mình trong gương. ta biết rất , bọn đàn ông ai thoát khỏi sức quyến rũ trong cái giọng trầm rung này.

      - Có chuyện gì thế, Cora? – Mike hỏi, giọng mềm nhũn.

      - Em lo cho quá. Cơn sợ hãi nổi lên rất đột ngột. Em run rẩy toàn thân đây này. đến chỗ em ! Ngay lập tức!

      - có việc phải sang Queens chút. có hẹn ở đó.

      - Hoãn cú hẹn đó lại ! Em xin ! Tới đây chỉ tiếng thôi!

      - Dĩ nhiên, Cora, tới ngay.

      Cora ném đầu ra sau gáy và cười thành tiếng. Chầm chậm, ta kéo khóa phéc-mơ-tuya phía trước bộ áo liền quần. Vòng ngực ra, rồi đến khoảng bụng thon chắc.

      Đột ngột, Cora ngưng lại. ta vừa nghe thấy tiếng động. tiếng lách cách bên cửa. ta xoay giật về. Ban nãy, khi vừa mở thanh chắn to và nặng phía trong cửa nghe chuông điện thoại reo. Người đàn bà chạy quanh chiếc giường rộng, ra phòng khách.

      Đến bên khuôn cửa dẫn sang căn sảnh ngoài, ta đờ người ra.

      Ở đó có người đàn ông.

      Đầu tiên ta chỉ nhìn thấy dáng người ta, nhận ra ta ngay lập tức.

      - Brad, - sau đó ta thầm thành tiếng. – Brad... ở đâu tới đây?

      - Thẳng từ Los Angeles tới. Người ta ném tôi ra ngoài. Người ta ném tôi ra khỏi nhà tù! Chắc nghĩ tới chuyện đó, phải , đồ lừa đảo thối tha? chỉ nghĩ đến việc trốn và để cho con chó ngu chết dần chết mòn trong tù.

      Brad nhìn trân trân vào khoảng da trắng trong khoảng hở của bộ áo liền quần được mở khóa. Cora lùi về bước khi gã đàn ông bước lên.

      - Làm sao vào được đây? – ta hỏi.

      Gã giơ chìa khóa lên và cười. – Ngày xưa chọn bạn bè kỹ hơn bây giờ, - gã . Gã đút chìa khóa vào túi áo bành-tô. Khi bàn tay đó lại rút ra khỏi túi, nó cầm đôi găng tay mỏng và gã đàn ông bắt đầu găng vào.

      Cora đột ngột hiểu ra là ta bỏ qua điều gì đó, rằng ta trở thành nạn nhân của trò chơi mà ta thậm chí hiểu luật, bởi ta thậm chí chẳng biết nổi tên của trò chơi này.

      ta xoay phắt khi Brad bước bước nữa về phía . Gã đàn ông đá phải cái túi thể thao và thoáng lảo đảo. Cora chạy vào đến phòng ngủ. Cánh cửa khóa được. ta ném mình lên giường, trườn về phía mép giường bên kia và giật ống nghe điện thoại.

      có thể gọi cho ai? Mike? Hughie? Ai để lộ nơi trú của cho Brad biết và đưa chìa khóa cho gã ta?

      phải gọi cho Mike. Ban nãy vừa mới nhớ số máy đó. Giờ cảm nhận trống rỗng khủng khiếp trong đầu.

      Cảnh cửa phòng ngủ đập mạnh vào tường khi Brad vào trong. Brad trèo thẳng lên giường. Giày gã để lại những tấm hằn rất sâu tấm chăn phủ mịn màng làm bằng nhung nilon.

      Cora thét lên chói chang khi gã nhào xuống như con chim ăn thịt vồ mồi. Gã đấm thẳng vào mặt , và tiếng thét của tắt lịm.

      - Đáng tiếc, bé ngoan, - gã . - Lẽ ra ta có thể sung sướng với nhau, nếu em con điếm đối trá khốn nạn như thế...

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Jerry Cotton


      CUỘC TÌNH CUỐI CỦA CHÀNG CẢNH SÁT



      Chương 6




      Kỳ lạ , - Phil Decker , - cái cách mà con người ta phản ứng khi có ai cận kề bên họ tự tử hoặc khi họ phải cho rằng ta tự tử.

      - Trong chuyện này bao giờ cũng phảng phất những cảm giác tội lỗi ngấm ngầm, - tôi đoán chừng. - Hoặc người ta nhớ lại những thiếu sót mắc phải đối với người chết.

      - Có thể. – Phil nheo mắt nhìn vào ánh đèn và tinh nghịch xoay xoay cây bút chì trong tay. – Hai cậu con trai nhà ông Rank ít nhất cũng tỏ ra nhõm kể từ khi biết chắc chắn là cha họ bị giết.

      - Họ là những người như thế nào?

      - Mình nghĩ họ thuộc dạng người bảo thủ. Trong nghĩa tốt của từ này. Nghiêm chỉnh, chăm chỉ, có chí tiến thủ, nhưng cay cú háo danh bằng mọi giá. Cả hai chung chiếc ô tô và sống chung trong căn hộ ở Cambridge. Mặc dù họ biết là cha họ thể có nổi những món tiền lớn như thế, nhưng vì người cha cứ gửi đến và thúc ép, nên hộ nhận tiền. Họ nghĩ rằng ông ta biết đầu tư cách khôn ngoan những khoản tiền tiết kiệm từ thời gian trước.

      - Họ ở đây có lâu ?

      - Ít nhất là tới đám tang. Bây giờ họ ở trong khách sạn, vì ủy viên công tố chỉ cho phép bỏ dấu niêm phong nhà khi các chuyên gia điều tra dấu vết tìm ra phương cách đột nhập của thủ phạm. Giờ họ biết gã vào nhà như thế nào. Có con đường bộ rất hẹp nằm giữa hai dãy nhà. Bên hàng rào phía sau nhà người ta tìm thấy vài sợi len, có cùng cấu trúc với những mảnh sợi tìm thấy trong kẽ móng tay của ông rank. điều chắc chắn là tất cả các ổ khóa và tất cả các móc chắn cửa sổ đều nguyên vẹn. Nếu ông Rank để mở khuôn cửa sổ trong phòng ngủ phía garage các chuyên gia dĩ nhiên còn phải tìm lâu hơn nữa mà cũng chẳng thấy gì. Mình có lý thuyết khác.

      - Cụ thể ra sao?

      đeo lên mái nhà, dỡ ra vài viên ngói và chui theo đường trần nhà xuống dưới, qua phòng ngủ, rồi lại theo đường mái garage thoát ra ngoài, leo lên mái nhà chính đậy những viên ngói kia trở lại chỗ cũ. Sau đó gã qua mái garage lọt trở lại phòng ngủ, nấp vào góc trong nhà, chờ ông Rank về nhà và chờ thời điểm thích hợp. – Phil lắc đầu. - kiểu cách hèn hạ... Trời đất, nếu quả đúng có Greenfield nhúng tay trong trò chơi này mình phải vào phòng vệ sinh mà nôn ra mất.

      Tôi kể cho Phil nghe về cuộc chuyện của mình với Kellin, và Phil mách cho các bạn đồng nghiệp trong ban trọng án khu Queens biết về cuộn băng ghi cuộc chuyện qua điện thoại. Tôi đốt cho mình điếu thuốc và nhìn theo làn khói nhanh lẹ được hút về phía ống thông khí.

      - Còn cậu cứ ngồi ở đấy và chả làm gì cả! – Phil giận dữ .

      - Mình chờ, - tôi đáp. – Đó là chuyện khác hẳn. Sếp của bọn mình chuyện với ban nội vụ trong lực lượng cảnh sát thành phố. Họ tỏ ra rất thận trọng khi thấy câu chuyện xoay quanh ủy viên công tố.

      Ban nội vụ của cảnh sát thành phố luôn được mời vào cuộc khi có những lời buộc tội chống lại thành viên trong lực lượng cảnh sát hoặc các cơ quan khác thuộc bình diện thành phố.

      - Nhưng ít nhất ban nội vụ cũng điều tra lỗ rò rỉ trong khu công tố đoàn.

      - Và họ cứ điều tra rồi điều tra tiếp, và nếu họ ta ra thành mây khói họ còn điều tra cho đến Ngày Tận Thế, - Phil cay đắng. - Tại sao bọn mình vào trận chống lại gã? Hoàn toàn trực diện!

      - Cậu muốn làm điều đó ra sao? Bám theo gã sao? Cậu tin rằng gã dẫn bọn mình đến khúc rừng có chôn tiền hối lộ? – Tôi giơ tay móc ống nghe điện thoại lên, vì chuông vừa reo. – Cotton đây.

      Ở phía đầu dây bên kia là Neville. - Đội quân những ông già về hưu lại lần nữa thắng cuộc, - nhân viên lưu trữ văn thư Neville vui vẻ tuyên bố. – bạn tôi và người đồng chí già của cậu vừa gọi điện tới. Cậu có biết là khi nghỉ hưu tôi xuống Las Vegas ?

      - hả? – Tôi cười. – bao giờ về hưu hết, Neville. Quên chuyện đó !

      - bạn tôi cứ mỗi năm khỏe ra. Mặt trời ấm nóng và khí khô ráo ở bên dưới đó rất hợp với ấy.

      - Chắc chắn là nhớ đến chết những trận mưa ở đây, những con tàu điện ngầm, cái đám rừng bê-tông và cái lối sống hấp tấp hốt hoảng ở này, nhớ và hao mòn vì đau buồn, Neville, - tôi .

      - Rồi cậu mở mắt ra, Jerry! – Neville chắc nịch.- Chắc chắn là như thế! ngày kia tôi bỏ ra . Nhưng mà thôi, ta vào chuyện chính! Tôi có tin cho cậu đây. bạn già của tôi có biết cơ sở có tiền đầu tư của Riccardi. Đó là nhóm tài phiệt nắm trong tay hai sòng bạc, bốn khách sạn và vài doanh nghiệp phụ khác. Trước đây thời gian ngắn, nhóm tài phiệt đó xoay qua cổ phiếu hóa. Đó là cái mánh rất được ưa thích, người ta dùng nó để tước tiền của những kẻ thể công khai nhận phần đầu tư của mình. vụ tịch thu tài sản.

      - Neville cười khúc khích.

      - Vậy ra bọn chúng đơn giản bỏ vào túi phần tiền của những kẻ đầu tư? – Tôi thể tin nổi.

      - Chính thế đấy! Dĩ nhiên là chỉ của những kẻ hết quyền lực. Những tay trùm gangster về hưu dạng như Riccardi. Gã ta đâu có thể lộ mặt tới đó mà đòi cổ phần. Lúc đó Sở Tài chính ngay lập tức nhảy lên đầu gã và gã ta có thể sống những ngày cuối trong tù.

      - Vậy ra bây giờ gã ta nghèo như con chuột trong nhà thờ, nếu gã đút tiền vào những nơi khác nữa?

      - Tôi ra như vậy đâu, - Neville thận trọng. – Theo những gì bạn tôi được biết gã trai tên là Sonny Galano nắm xấp cổ phiếu của Riccardi. dạng quản trị ủy thác, ấy nghe như vậy. Trong sáu tháng gần đây, Riccardi đến chỗ gã Galano kia ba lần tất cả. Cậu có biết gã Galano kia là ai , Jerry?

      - .

      - Cậu phải dành thời gian ra mà đọc các trang báo kinh tế , chứ phải lúc nào cũng chỉ chăm chăm xem tin báo tử và truyện tranh hoạt hình. Sonny Galano trong vòng sáu năm qua tiến lên thành con sư tử lớn nhất trong ngành xây dựng của toàn nước Mỹ. Nó mua các hãng xây dựng giống như người khác mua giày vậy.

      - Và cái đó được viết trong phần báo kinh tế?

      - Ừ , ràng như thế đâu, - Neville nhường bước. – Galano tạo dựng nên mạng lưới cổ đông chằng chịt rối rắm đến mức ai nhìn thấu. Chính thức mà , gã chỉ nắm trong tay duy nhất phòng làm việc với chiếc điện thoại và máy viết chữ đường xa, còn tất cả những thứ khác đều chạy theo đúng quy luật của những ông bố già thuở trước, có giấy tờ và bằng tiền mặt.

      Vòng tròn có vẻ khép lại. Galano bóp Riccardi ngộp thở bằng cách cầm trong tay tập cổ phiếu của tay trùm gangster già nua, kẻ sống nhờ vào cổ tức từ chỗ cổ phiếu đó. Qua cách này, gã có thể ép cho tay cựu trùm gangster làm việc cho gã. Suy cho cùng Riccardi vẫn còn nắm trong tay những mối quan hệ và đường dây nối đến những nhóm quân cũ, những nhóm quân có thể được kích hoạt trở lại. Hôm trước Neville vừa gì với tôi nhỉ? Ở đường phố New York có đến cả hàng ngàn con người còn nợ Dom Riccardk món nợ ân tình.

      - Neville, bọn tôi bao giờ thiếu nổi , - tôi trước khi đặt máy.

      - Cậu định làm gì? – Phil hỏi.

      - Mình nắn gáy trong những tay chân cấp cao của Dom Riccardi thuở trước, - tôi . – Mình chỉ chưa quyết định là nắn gáy đứa nào.

      - Lucky Falcone, - Phil bộc phát kêu lên.



      • •

      Michael Kellin bước vào sảnh và đóng cửa căn hộ lại. Chiếc túi thể thao của Cora đứng giữa đường . Kellin nhăn trán. bước qua chiếc túi, tiến vào phòng khách. Trong phòng nào cũng bật đèn.

      - Cora! – gọi. – Cora, em ở đâu?

      Lúc đó nghe thấy tiếng nước chảy. Mỉm cười, mở cánh cửa dẫn sang phòng ngủ.

      - Cora!

      bộ áo liền quần màu vàng nằm giường. Hai ống quần dang rộng. Kellin nuốt khan. bước tới bên cửa dẫn vào buồng tắm. Tiếng nước réo của vòi tắm bây giờ nghe rất lớn. gõ cửa và gọi tên Cora, tránh cho giật mình. Rồi mở cửa ra.

      Hơi nước phả vào mặt . khí nóng rẫy.

      Có cái gì trong người thít chặt lại. Nóng quá, nghĩ. người nào chịu được. giơ tay giật tấm màn che bồn tắm sang bên. nhìn thấy gì, bởi hơi nước ở đây còn dày hơn nữa. bị bỏng nhưng ngón tay khi sờ dọc tường. Mãi rồi cũng tìm thấy cái quay tay pha nước bỏng như lửa. gạt nó xuống dưới, đóng ống dẫn nước. Từ từ, tầm nhìn hơn.

      nằm trong bồn tắm với nửa người văn vẹo cách kỳ dị. chân vắt qua thành bồn. Bàn chân bị kẹp vào dưới ống dẫn nước của toilet. trần truồng. Mái tóc dài bung ra, và dòng nước chảy vặn nó theo hình trôn ốc quanh lỗ thoát. Chắc là trong cơn thịnh nộ điên khùng, tên giết người tha cả gương mặt xinh đẹp của .

      nới rộng cà vạt và há mồm thở, cảm nhận dạ dày lộn ngược lên.

      bụm tay bịt miệng. Rồi lảo đảo sang khuôn bếp. nôn vào bồn rửa. vặn cho nước chảy cuốn tất cả chỗ đó . biết làm gì. Cơn sốc nằm rất sâu. Còn sâu hơn ngày hôm qua, khi giết chết người đàn ông. chập chững bước bước lại trong căn hộ, rồi ra ngoài và theo thang máy xuống dưới đại sảnh. đờ đẫn về phía cửa dẫn ra ngoài. Khi Randy, người gác cửa, cất tiếng gọi, giật nẩy người lên.

      - Sao ông lại về ngay thế, ông Kellin? Có chuyện ổn sao?

      Kellin như vừa tỉnh dậy từ giấc mơ. Gương mặt thân thiện của Randy lộ vẻ âu lo.

      - Tôi muốn gọi điện.

      Randy chỉ vào hai máy điện thoại công cộng trả bằng tiền xu nằm ở mặt sau bức tường che căn phòng treo hộp thư. - Nếu ông có tiền xu, ông có thể gọi từ máy tôi.

      - cần, cám ơn. - Với những cử chỉ run rẩy, Kellin tìm đồng xu trong túi. Randy dợm bước quay vào cabin của ta.

      - Randy, nghe này!

      - Sao kia? - Người gác xoay về. Khẩu súng lục bên cạnh ta gây ấn tượng quá lớn so với người đàn ông thấp dễ mến.

      - Suốt thời gian qua ở dưới này chứ?

      - Vâng, thưa ông, dĩ nhiên. Ca của tôi bắt đầu lúc bốn giờ. Tại sao?

      - Dixon có khách tới thăm ?

      Randy nhăn trán. – , đâu.

      - chắc ?

      - Chắc chứ! Ông thấy đấy, ai vào nổi đây nếu phải người trong nhà. Mà tôi chỉ cho phép khách thăm bước vào sau khi báo rằng điện thoại lên cho chủ nhà và khi người thuê nhà đó ràng là tôi được phép cho vị khách đó vào trong.

      lời, Kellin xoay người , bước về phía hai chiếc điện thoại.



      • •

      Tìm hồi trong niên giám điện thoại khu Richmond, cuối cùng tôi cũng kiếm ra cái tên Lucius Falcon. Rất có thể Lucius ‘Lucky’ Falcone Mỹ hóa tên họ mình.

      - Đường Grymes Hill, Richmond, - tôi với Phil.

      - khu sang trọng đấy, - Phil . – Cậu nghĩ có phải ta ?

      - Mình gọi điện đây, ngay thôi. – Tôi chọn số rồi lắng nghe. Khi giọng phụ nữ lên tiếng với chữ “Hallo” đầy thân thiện, tôi hỏi tìm gặp ông Falcon.

      - Ô, ông Falcon vẫn còn trong xưởng. Có thể ông muốn chuyện với bà Falcon chăng?

      - Đây là chuyện làm ăn, thưa . có thể cho tôi biết số máy của xưởng được ?

      Tôi ghi hàng số lên tờ giấy rồi nhấn điện thoại. Hàng số bắt đầu bằng con số 5. Vậy là nó thuộc khu Gramercy hoặc Murray Hill. Tôi chọn số rồi chờ.

      Lần này chuông reo tương đối lâu ống nghe mới được nhấc lên.

      - Xưởng in Camrod, xin chào quí ngài.

      - Chào ông, tôi muốn chuyện với ông Falcon.

      - Ông Falcon mời khách hàng dùng bữa tối, thưa ông.

      - Ông có thể cho tôi biết họ đâu ? Tôi phải chuyện gấp với ông ấy.

      - , thưa ông, tôi biết. Trong xưởng này cũng đến giờ nghỉ rồi, thưa ông. Tôi rất tiếc.

      - Nhưng ông chưa nghỉ việc, ông...

      - Tôi tên là Ensulo, thưa ông. Khu gói hàng và khu gửi hàng luôn làm việc đến 11 giờ đêm. Ông Falcon thỉnh thoảng còn quay trở lại lần nữa, giữa 10 và 11 giờ. Có lẽ ông nên thử lại lần nữa vào khoảng thời gian đó.

      - Vâng, cám ơn ông Ensulo.

      Tôi giở niên giám điện thoại, tra địa chỉ. - Xưởng in Camrod, số 287 Đại Lộ Số 4. Luky ra leo lên tới xưởng in, người vợ, ngôi nhà ở khu Grymes Hill và giúp việc. Rồi ta rất ngạc nhiên khi nhìn thấy mình.

      - Nếu đó chính là ta.

      - Đồ bi quan! Còn giờ sao? Cậu nghỉ hả?

      - Mình đấy à? Nghỉ hả? Suốt ngày hôm nay mình chạy dọc chạy ngang phụ việc cho cậu! Bao giờ mình có thời gian để viết báo cáo về vụ của mình đây?

      - Thôi được rồi. Đừng bực! Mình phụ tay!

      - Thế mới phải chứ. – Phil hăm hở lao ngay vào phân chia tập hồ sơ bàn mình. Đúng lúc giơ tay định bê sang cho tôi đống lớn giấy tờ điện thoại đổ chuông. – Mình cuộc 10 đô-la là bây giờ cậu lại lẻn cho mà xem! – Phil cáu kỉnh.

      Tôi rút tờ 10 đô-la ra khỏi túi và ném lên mặt bàn của . Sau đó tôi tóm lấy ống nghe điện thoại và xưng danh. Phil cũng ném 10 đô-la lên bàn.

      - Hallo, Jerry...

      Ngay lập tức tôi nhận ra giọng Mike Kellin.

      - Có chuyện gì thế, Mike?

      - Jerry, tôi ... xin làm ơn đến đây cho!

      - Mike, chuyện gì thế? ở đâu?

      - Tôi ở… Trời ơi, Jerry, ấy chết rồi!

      - Cora hả? Kellin! Nghiến răng lại! vừa về Cora phải !

      - Vâng, vâng. ấy chết rồi.

      - ở chỗ ấy?

      - Vâng, tôi chờ ở đây.

      - Được, Mike, tôi đến ngay.

      Tôi ném ống nghe xuống giá và chạy thẳng ra cửa. – Jerry! – Phil gọi với theo và giơ đồng 10 đô-la lên. – Trò cá cuộc vừa rồi công bằng.

      - Cha, cậu thắng.



      • •

      Tôi tìm được chỗ đậu trống và phi xồng xộc chiếc xe công vào chỗ đó. Khi nhìn thấy những đám người to mò dồn về và đám nhiều loại xe cảnh sát, lòng tôi khỏi ngạc nhiên. Bởi tôi tin lấy giây là Cora chết cái chết tự nhiên.

      Kellin chờ tôi ở ngoài cửa. Hai tay đút trong túi áo veston. run toàn thân, mặt hõm sâu.

      Kellin xoay người và ra hiệu cho người gác. Người này mở cửa. Kellin trước tôi về phía thang máy.

      - Dừng lại, Mike! – Tôi bằng giọng ra lệnh.

      - Đầu tiên tôi muốn biết chuyện gì chờ tôi đó.

      - ấy chết rồi.

      - Chỉ thế thôi à?

      - Bị đánh chết!

      - Bị đánh chết! Trời đất, thế ban trọng án đâu?

      - Tôi muốn có đầu tiên ở đây. Chuyện này chống lại tôi.

      - Trời ạ, điên rồi hả? gọi cho tôi hồi nào? Tôi phóng xe rất nhanh, nhưng ít nhất cũng nửa tiếng rồi! Ít nhất đấy! tìm thấy ấy lúc nào?

      - Lúc đó gần 7 giờ. Sau đó chuyện gì xảy ra tôi nhớ nữa. Tôi cảm nhận thấy gì.

      Tôi đưa mắt nhìn quanh. Rồi tôi chỏ vào hai chiếc máy điện thoại. - Gọi cho ban trọng án ngay! Nhanh lên, gọi ! – Kellin đứng động đậy, hai cánh tay buông thõng.

      - Trước khi gọi điện thoại cho họ, tôi lên ấy đâu. Kellin, là cảnh sát viên! muốn kéo tôi vào chuyện gì đây? - Lẽ ra tôi phải xoay mình và bỏ mới phải. Nhưng tôi cũng thấy là Kellin bối rối cùng cực, hầu như mất lý trí. Tôi đẩy đến bên máy điện thoại, ấn ống nghe vào tay và bấm hộ số 911, số điện khẩn của cảnh sát.

      Kellin báo cáo tạm đủ dữ liệu. Tôi cầm lấy cánh tay rồi dẫn ra phía thang máy. Người gác nhìn theo hai chúng tôi bằng ánh mắt lạ lùng.

      - nghe tôi đây! – Tôi gọi về phía ta. -Cảnh sát đến ngay. cho họ lên này! – Tôi nhìn Kellin. – Tôi thậm chí chưa biết ấy tên gì.

      - Dixon. Cora Dixon.

      - gửi họ vào căn hộ của Dixon!

      Lên , ở tầng thứ tám, Kellin dừng bước lại cánh cửa. hầu như đút nổi chìa khóa vào ổ vì hai tay run quá. Tôi gỡ chìa khóa ra khỏi tay .

      - lấy chìa khóa này ở đâu ra? – Tôi vừa hỏi vừa mở cửa.

      - Cora vừa đưa nó cho tôi hôm qua.

      Trong căn hộ phòng nào cũng sáng đèn. khí ẩm ướt. Kellin dừng lại ở sảnh ngoài.

      - Nào, động đậy lên! – Tôi gầm vào mặt .

      - Cotton, dù tin hay là , tôi chưa bao giờ… chưa bao giờ nhìn thấy thứ như thế!

      - Ngoại trừ ngày hôm qua.

      - Nhưng gã đó tôi quen. Với Cora, là chuyện khác.

      - ấy đâu?

      - Trong nhà tắm. phải qua phòng ngủ.

      Tôi xuyên qua căn hộ, chú ý chạm vào bất cứ thứ gì. Khuôn cửa sổ và mảng gương lớn bọc ngoài tủ đựng quần áo mờ hơi nước. Tôi ném cái nhìn vào buồng tắm.

      bức tranh quả chẳng hay ho. Tôi nhìn xuống cái thực thể xưng phồng, nhìn gương mặt bị tàn phá, viên cảnh sát hình luôn ngay lập tức nẩy nỗi nghi ngờ là có kẻ muốn che giấu hay gây khó khăn cho việc nhận diện.

      - Kellin! lại đây! – Tôi cục cằn quát.

      đến và đứng sau lưng tôi.

      - có tin chắc đây là Cora Dixon.

      - Có.

      - nhận ra ta qua điểm nào?

      - Tôi thân với ấy mà.

      - Tôi cần đặc điểm khách quan.

      Kellin nghĩ lúc. – ấy có vết chàm. - Giọng nghe thê thảm cùng cực.

      - Ở đâu?

      - Ở đùi bên phải, phía trong, - khó nhọc thốt từng lời.

      Tôi cúi xuống bên xác chết. Có vết chàm . Cora Dixon khi còn sống là người phụ nữ đẹp đến dễ sợ, tôi nghĩ thầm. Tôi xoay về phía Kellin.

      - Mike, sắp tới tình huống rất căng đối với . Người ta hỏi liệu có phải chính làm điều đó.

      Đờ đẫn, đáp trả ánh mắt của tôi. Nhưng tất cả những tay giết người đều làm nổi điều này.

      - trả lời sao?

      - Jerry, điên rồi.

      - Đó phải là câu trả lời, Mike.

      - Tôi giết ấy! ấy chết rồi! ấy gọi điện gọi tôi lại đây. Cú điện thoại được ghi vào sổ văn phòng.

      - Nó chứng minh điều gì cả, Mike. Chúng ta cần phải biết vụ giết người này nhằm vào mục đích nào. Có phải nó nhắm tới ? Tắt công tắc ? Hoặc nó nhắm tới Cora? Mike, phải soát lại từng ngày, từng giờ và từng phút trong khoảng thời gian ở chung với ấy. quen ấy thế nào, trong hoàn cảnh nào. Và tất cả những gì biết về ấy.

      Kellin gật đầu. Chúng tôi ra hành lang của tầng nhà, nơi thanh tra thiếu úy Carl Hobson cùng nhóm đầu tiên của ban trọng án Bắc Manhattan bước tới. Hobson bắt tay tôi và Kellin, người vừa làm quen trong buổi tối hôm trước.

      Vì chiến trường bây giờ thuộc về ban trọng án, nên tôi thể giúp nhiều cho họ. Vậy là tôi ra về, sau khi nhắc nhở và tin chắc là Hobson quan tâm đến Kellin.

      Tôi có việc phải làm.



      • •

      Đậu chiếc xe công bên Phố Số 23, tôi bộ đoạn đường ngắn đến Đại Lộ Số 4. Vào quán rượu , tôi uống cốc bia và cân nhắc. Giờ quá 10 giờ tối, và tôi quyết định tắt ngang qua con phố.

      Xưởng in Camrod chiếm tầng trệt và lầu của ngôi nhà bốn tầng xây bằng gạch trần với những khuôn cửa sổ cao và rộng, cánh cửa được chia ra làm nhiều ô . cánh cửa cuốn được kéo cao. Trước đoạn dốc dẫn lên nhà xe tải chờ sẵn. công nhân điều khiển xe nâng nho , chuyển những gói ấn phẩm lớn lên khoang đựng hàng.

      Tôi nhảy lên đoạn dốc và gật đầu với người đàn ông điều khiển xe nâng. có làn da thẫm màu và đôi mắt nâu to tròn.

      - Ông Ensulo phải ạ? – Tôi hỏi, và khi người đàn ông ngạc nhiên gật đầu, tôi : - Ban nãy tôi gọi tới đây. Ông Falcon giờ có ở đây ?

      - Ông ấy ở khu gói hàng, thưa ông. Ở phía sau kia, mé bên trái, cửa mở đấy.

      Trong khu gói hàng có khoảng bảy, tám phụ nữ gói ghém những sập ấn phẩm quảng cáo còn phải được phân phát trong đêm nay. Đứng bên chiếc bàn người đàn ông to béo. Cặp kính đồi mồi có gọng rất dày tụt xuống chỏm mũi nần nẫn thịt. Vầng trán nhăn tít lại khi ta cố gắng ghi những dãy số vào giấy giao hàng.

      - Lucky Falcon, - tôi khi lại đủ gần.

      ta giật đầu lên rồi xoay phắt về. ta đẩy cặp kính lên cao và sắc mắt nhìn tôi, nhận ra tôi ngay.

      - Cuộc sống yên tĩnh này thích hợp với , Lucky, - tôi . - Lần cuối chúng ta gặp nhau, hơn bây giờ tới 10 ký lô.

      - Cotton? Phải ông chứ, Cotton?

      - Đúng, Lucky.

      - Ông muốn gì?

      - Người ta đâu có thể quên được khách hàng cũ. Tôi bao giờ cũng rất vui mừng khi nhìn thấy người thành công.

      - Được, ông nhìn thấy những gì ông muốn nhìn. Giờ ông lại cho!

      - lấy vợ, tôi nghe thế. Lâu chưa?

      - Bốn năm.

      - Vợ vốn mang họ Camrod.

      - Có gì phản đối ?

      - thời là thành viên của câu lạc bộ nhạc đồng quê Grymes Hill, có chân trong ban đại diện khu phố, ngồi trong ban hành chính nhà trẻ…

      - Nếu đúng như thế sao? Ở ngoài đó chúng tôi có câu lạc bộ thuyền buồm. Tôi để người khác làm hỏng đời mình, Cotton. Ông , mà bất cứ kẻ nào khác cũng ! Bụng tôi giờ phệ ra đấy, nhưng máu chiến đấu vẫn y như cũ. Tôi đếm đủ lịch. Bây giờ tôi có quyền của tôi.

      - Tôi chẳng muốn điều gì ở cả. – Tôi nhấn mạnh từ tôi.

      - Thế tại sao ông tới đây?

      - Gần đây có nghe ai đến Dom Riccardi ?

      - Có. Tôi ném nó ra ngoài.

      Tôi gật đầu. Tôi đoán như vậy. Lucky Falcone là trong số rất ít những người nợ nần gì Riccardi. Trước đây 10 năm, Lucky là gã trai có ngoại hình rất quyến rũ và con của Dom Riccardi. ấy cũng Lucky. Riccardi cho người xé đôi cặp nam nữ trước khi họ thân nhau.

      Ông ta cử ba cận vệ và hai bà bảo mẫu kèm con về Italia, rồi gả ấy cho tay nam tước thất thế và nghèo túng. Chắc chắn Falcone tìm cách giết ông trùm của mình, nếu chúng tôi kịp thời tống ta vào lỗ vì loạt các tội phạm trầm trọng khác.

      Falcone căm thù Riccardi. Nhưng nếu bị ép buộc, ta bao giờ tự nguyện cộng tác với FBI. ta thà bôi dâu súng lục thêm lần nữa và ra đứng chắn đường Riccardi. Mặt đối mặt.

      - Cánh Las Vegas lừa Riccardi, - tôi , và hài lòng nhận thấy vẻ quan tâm lóe lên trong mắt Falcone. – Cánh Las Vegas bây giờ nắm Riccardi trong tay. Gã phải làm những gì gì bọn kia cầu. Nếu thành người nghèo túng. Đây là trò chơi lớn. Những người đàn ông dạng như rất có thể nhanh chóng bị cuốn xuống đáy đấy.

      - Tôi biết ông chuyện gì, ông Cotton. Ông ! Tôi còn phải làm việc.

      - Được thôi, Lucky, vậy ngày mai tôi đến Grymes Hill. Ví dụ vào lúc chín giờ sáng nhé? cần phải mời tôi ăn điểm tâm đâu. - Mười năm trước đây, vẻ căm thù điên cuồng lên trong con mắt Falcone lúc này có lẽ khiến tôi kinh hãi và trở nên cảnh giác. Ngày hôm nay, nó hầu như chẳng khiến tôi bận tâm. Falcone bây giờ có rất nhiều thứ để mất, ta để nghĩ đến chuyện hại tôi.

      - Ông muốn gì, Cotton? Nhổ nó ra ! Và để gia đình tôi được yên! Đó là điểm nhạy cảm của tôi, Cotton, tôi công nhận như vậy, và tôi thề rằng…

      - Giờ đừng có phóng đại, Lucky. Trong cuộc chơi mà tôi vừa nhắc tới có bốn người chết. - ra là tám người, nếu tôi kể thêm cả những công nhân gặp tai nạn tại ngã tư Major-Deegan. - Người chết bao giờ cũng tạo nên những điểm rất nhạy cảm trong tôi. Lucky. Lúc bấy giờ tôi biết nể ai nữa đâu.

      Falcone ném cây bút bi xuống bàn, gỡ kính và tựa người vào tường. – Tôi thể giúp ông, Cotton, vì tôi biết điều gì.

      - Riccardi muốn làm gì?

      Falcone chần chừ. – Tôi thèm nghe lời của gã ta, - rồi ta . – Gã cũng muốn những thứ như mọi khi thôi. Phục vụ chỗ này chút, chỗ kia chút. Lúc cái xe, lần tôi lại phải cầm đầu nhóm quân. Giống như ngày trước. Đe dọa ai đó…

      - Đánh đập, Giết người.

      - Tôi chưa bao giờ giết ai.

      Đối với lời khẳng định này, tôi có những nỗi nghi ngờ chính đáng của mình. Nhưng tôi quyết định xét thêm yếu tố đó.

      - Riccardi bây giờ làm chuyện bẩn tay hộ bọn Vegas. Ngoài Labonte chắc gã ta phải có tay sát thủ nữa, giờ được đẩy vào trận. Tôi tìm tay sát thủ đó.

      - Thế lẽ ra ông được giết Pat Labonte. – Falcone căng môi trong nụ cười thâm độc. – Nhưng mà ông nắm Lou Stearns, tôi có nghe kể như thế. - Vẫn còn cười, ta nhìn tôi. ta biết chính xác là Stearns bao giờ mở mồm ra.

      - Chắc thể nào quen Pat Labonte, nếu quả có ý lánh xa các trò náo nhiệt.

      - , tôi quen nó. – Falcone châm điếu thuốc. ta mời tôi. Chầm chậm, ta thở khói ra, trong khi ánh mắt như trầm ngâm ngược vào trong.

      Tôi để cho ta yên. Falcone vật lộn để đến quyết định. Tôi để cho ta có thời gian cân nhắc. Chưa bao giờ ta đưa ra cho cảnh sát lời mách bạo. Nhưng bản thân ta chắc phải nhận thấy là giờ ta ngồi trong thế kẹt. Tôi có thể dễ dàng quét phăng cái mặt tiền đứng đắn đáng kính mà ta vất vả bao công mới dựng nên, chỉ cần tôi tới Grymes Hill tìm ta và sục sạo trong khu vực đó.

      Bởi suy cho cùng, tôi hoàn toàn có cớ để xăm xoi lý do vắng mặt của Falcone. Cho tới nay, tôi chỉ mới được nghe chính t khẳng định rằng ta còn làm việc chung với Riccardi nữa. Mặt khác, ta cũng phải sợ rằng Riccardi buông tha và tới lúc nào đó sử dụng sức ép lớn hơn, đòi Falcone phục vụ.

      - Tôi bao giờ ra mặt công nhận những thông tin này, - cuối cùng ta . – bao giờ, ông hiểu ?

      - Chừng nào bản thân dính vào chuyện, có thể đặt điều kiện đó, - tôi khẳng định.

      - Ông hãy thử quan tâm đến người thân của Pat Labonte, - Falcone . ta lại đeo kính lên và vẫy trong những công nhân của bộ phận gửi hàng lại bên, ấn vài tờ giấy được điền đủ vào tay kia và giải thích vài lời.

      Người thân của Labonte? Sáng hôm nay tôi xem xét kỹ tập hồ sơ của Labonte, với hy vọng va phải những cái tên khác, có thể dẫn chúng tôi xa hơn.

      Trong hồ sơ hề nhắc đến gia đình của Labonte. Gã có vợ. Trong thời gian cuối này, gã sống trong nhà trọ tại Phố Số 66 khu Tây, sống mình. Khi khám xét đồ đạc, các thành viên của ban trọng án hề tìm thấy lời mách bảo chỏ đến người thân của gã. Labonte người xứ Baltimore, và theo đúng quy định, người ta báo tin đến lực lượng cảnh sát nơi đó. Nếu Patrizio Labonte có người thân sống ở Baltimore, chắc chắn cảnh sát tìm ra họ và báo tin về cái chết của Labonte. Cho tới nay chưa có ai lên tiếng, dù là cha mẹ hay chị em.

      - Còn gì nữa hả? – Lucky sừng sộ với tôi khi người công nhân đủ xa. Ở phía đầu của đường dốc, có tiếng môtơ được bật lên. Falcone nhìn tôi trân trân. Thế rồi ta giơ hai tay lên trời. – Thôi được rồi, được rồi, Cottton. Pat phải vô tình mà về New York đâu. trai của nó lôi nó về đây. trai của Pat lớn hơn nó tới 10 tuổi, và thỉnh thoảng lại làm việc cho Dom Riccardi. Dĩ nhiên là gã ta cũng rút lui khỏi trò làm ăn từ lâu rồi. theo những gì tôi được biết, gã khu vườn ở South Orantge, bên New Jersey. Nhưng tôi nghĩ cũng có khả năng Riccardi thuyết phục được gã ta làm thêm cho lão vụ. Hoặc là cũng có thể hai.

      vụ. Điều đó có nghĩa là trai của Pat Labonte là sát thủ. tên giết người chuyên nghiệp, kẻ chưa bao giờ bị điều tra, bởi chưa bao giờ bị nghi ngờ. nhưng tại sao trong hồ sơ của Labonte lại lời mách bảo về tay đó?

      Gã tên là Mario, - Lucky Falcone sủa lên. – tôi biết họ gã. Tôi chỉ biết đó là người cùng cha khác mẹ của Pat. tất cả chỉ có thế thôi, cotton.

      Cảm ơn, Lucky, - tôi . vừa ghi sổ được món ở chỗ tôi.

      Falcone lại cuối xuống với tập giấy giao hàng.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Jerry Cotton


      CUỘC TÌNH CUỐI CỦA CHÀNG CẢNH SÁT



      Chương 7




      Hầu như mỗi khi chuông điện thoại reo khi tôi có mặt ở nhà là hồi chuông đó bao giờ cũng giật tôi ra khỏi giấc ngủ rất ngon hoặc nó tóm phải tôi đúng lúc tôi đứng trong bồn tắm. Buổi sáng hôm đó cũng vậy, lúc 7 giờ 55 phút.

      Tôi tắt nước, quấn mình vào chiếc khăn tắm dày rồi chập chững bước đến bên máy. – Hello? – Tôi hỏi.

      - Cậu nghe tin thời chưa? – Phil hỏi ngay lập tức.

      - Chưa. Mình tắm. Vào giờ này cũng có tin thời . Nhưng mình dám cuộc là cậu muốn cho mình nghe tin mới.

      - Ủy viên công tố vừa đòi cho bắt giam Kellin, và ngài chánh án chắc ký thôi. Bây giờ cậu gì?

      Mặc dù hầu như đoán trước được điều đó, cái tin mới này vẫn giáng vào tôi nặng nề như cú sốc.

      - Kể , - tôi . – Nhưng mà kể nhanh lên. Nước đọng lại dưới chân mình thành vũng rồi.

      - ta bị buộc tội giết chết , - Phil .

      - Cái đó mình cũng nghĩ tới. Tại sao ta phải giết ta mới được chứ? ấy mê ta lắm!

      - Bác sĩ tâm thần của cảnh sát ám chỉ đến động cơ. Ông ta cho rằng viên đạn giết chết Labonte làm tín hiệu giải tỏa làn sóng hiếu chiến bị kìm nén bấy lâu nay, nó có thể dẫn tới hành động bạo lực vô lý. triệu chứng đặc trưng cho dạng hành động đó, theo bác sĩ tâm lý, là trạng thái đờ đẫn của Kellin sau khi ra tay.

      - Đơn giản đến mức tuyệt vời, đúng ? Người ta cần giết ấy, người ta tuyên bố ấy là đồ điên và có hại cho xã hội, và thế là ấy biến mất.

      - Nếu có, đó chỉ là động cơ, - Phil điềm đạm tiếp. - Rất có thể còn động cơ nữa, mình đến ngay. Đầu tiên mình muốn điểm lại cho cậu tất cả các tang chứng gián tiếp. ấy có lý do vắng mặt...

      - Đó là tang chứng gián tiếp mỏng manh. Tên giết người vặn nước nóng để nhiệt độ của xác chết cho phép người ta rút ra kết luận.

      - Nếu cậu luôn mồm ngắt lời mình như thế mình được vào dữ liệu chính từ lâu rồi, - Phil . – Nhân chứng quan trọng nhất là người gác nhà. ta thề rằng có người lạ nào vào được trong nhà và đến thăm bạn của Kellin. ta được coi là tuyệt đối đáng tin cậy. Ngay cả khi ta ngủ gục trong cabin hoặc lẻn xuống tầng hầm uống ngụm rượu , cũng ai vào được trong nhà. Nhân viên của Hobson hỏi han tất cả những người thuê nhà mà họ gặp được. ai cho người lạ vào trong. Và nhà có cửa khác, Jerry. có garage ngầm, và những cầu thang cứu hỏa hề được sử dụng kể từ lần thanh tra gần đây nhất của lực lượng phòng hỏa. Gã chỉ có thể đậu bằng máy bay trực thăng lên mái nhà thôi.

      Tôi biết, lời khai của gã gác cửa là hầu như ai có thể lay lắc nổi. – Nhưng chính ta cho Kellin vào trong nhà. ta hề gọi điện cho Dixon và báo trước là Kellin lên đó.

      - Đáng tiếc là . Kể từ ngày hôm kia, Kellin có chìa khóa riêng của ấy. Những ai có chìa khóa, cũng đồng thời cầm trong tay thứ như là vé vào cửa. Hãng bất động sản chủ nhà đưa cho mỗi người thuê nhà của họ hai chìa khóa cho cửa ra vào chính và hai chìa khóa cho cửa vào căn hộ. Họ khai là có nhiều chìa khóa hơn. Chiếc chìa khóa kia được tìm thấy trong túi bộ áo liền quần của Dixon. Người gác cửa nhìn thấy Kellin bước vào đại sảnh sau lúc 7 giờ 30. Kellin lên bằng thang máy. Sau khoảng chừng 20 phút, Kellin xuống dưới. ta gây ấn tượng hoàn toàn đờ đẫn. Người gác cửa cho rằng Kellin tìm cách bỏ trốn. Chỉ sau khi người gác cửa hỏi ta, Kellin mới gọi điện cho cậu.

      Về chuyện bỏ trốn, chắc là luật sư bào chữa đủ sức tấn công lại lời khai đó, nhưng vẫn còn lại quá đủ. Nhìn tổng thể, khó có thể đục phá hay lung lay những dữ liệu đó ở bất cứ điểm nào.

      - Trong thời gian đó có những người khác xuống dưới ?

      - có người lạ, Jerry, - Phil im lặng thoáng. Khi thấy tôi lên tiếng, tiếp.

      - Nhưng bây giờ mới đến điều tệ hại nhất. Người chết hoàn toàn chẳng phải Cora Dixon.

      - Vậy đúng là ... – tôi .

      - Nhưng chẳng phải thứ mà cậu nghĩ đâu, Jerry. Đó là người phụ nữ mà Kellin cứ tưởng là Cora Dixon xứ Flagstaff. Nhưng ban trọng án gọi điện cho cảnh sát trưởng Flagstaff, và chỉ tiếng đồng hồ sau ta gọi điện trở lại, khẳng định chắc chắn là Cora Dixon kia còn sống và rất khỏe mạnh.

      Nếu người chết phải là Cora Dixon, vậy ta là ai? Giờ tôi mới hiểu Phil muốn ám chỉ điều gì ngay từ đầu, khi là có thể còn động cơ nữa cho hành động. Kellin rất có thể phát ra Cora là ai. Yếu tố bất ngờ có thể thúc cho tính hiếu chiến bị dồn nén bùng nổ, thứ mà bác sĩ tâm lý tới.

      Ôi cha, tình hình quả rất u ám đối với Mike Kellin, rất rất u ám.

      Mặc dù vậy tôi vẫn tin là đập chết người phụ nữ đó. Kể cả trong cơn cuồng nộ bất lường.

      Đối thủ của lần này nghĩ ra chuyện hoàn toàn mới...

      - Ủy viên công tố có tuyên bố họp báo vào lúc 10 giờ. Cậu có tới đó ?

      - Mình đến đó làm gì? Chỉ phí thời gian. – Tôi giải thích với bạn tôi dự định của mình, rồi cầu : - Cậu bám theo ! Bọn mình cần cái tên đích thực của người chết. Mà phải nhanh.

      - Mình làm hết sức.

      - Cậu có biết ta sống trong căn hộ đó bao lâu rồi ?

      - Mình có ghi lại. Đây rồi. Ba tuần. , tổng số chính xác bốn tuần.

      - Hãy gắng tìm cho ra liệu trước đó ta có ở nơi nào khác tại New York . Nếu ta mới tới Manhattan từ bốn tuần nay và ta đến bằng máy bay, có thể lúc đó ta sử dụng cái tên Dixon. Hãy hỏi các hãng hàng ! Và gửi lời mô tả nhận dạng cũng như dấu vân tay của ta về Flagstaff cũng như tới Washington!

      - thành vấn đề. Hobson cũng làm chuyện đó.

      - Thế hãy chuyện với đám người ở văn phòng giới thiệu nhà đất! Hỏi họ xem cái Cora Dixon đó có tự thân đến thuê căn hộ, liệu ta có mình khi ký hợp đồng. Sau đó đòi họ trao cho cậu danh sách tất cả những người thuê nhà ở đó! Kiểm tra lại tất cả những người chuyển vào hay chuyển ra khỏi ngôi nhà đó trong vòng sáu tuần lễ qua, à mà , tám tuần lễ vừa qua.

      - Cậu tìm người quên nộp chìa khóa hay sao? – Đâu có thể giải quyết vấn đề dễ dàng như thế được. Có những cơ sở bất động sản đổi khóa mỗi lần có người thuê nhà chuyển . Khi chiếc chìa khóa được trao trả hoặc bị mất, ổ khóa cũng được thay ngay lập tức.

      - Cứ làm những gì mình , - tôi với hơi chút bực bội, vì tôi ướt và bắt đầu thấy rét. – Và cậu cũng nên quan tâm đến cả những căn hộ dù có người thuê, nhưng được sử dụng thường xuyên.

      - Mình đây. Cũng may mà cái nhà đó chỉ có 120 căn hộ.

      - xưa nay cậu vốn là tay may mắn mà. – Tôi và đặt máy.



      • •

      Mùi hương và màu sắc khiến khách thăm muốn đê mê. Đằng sau những mảng tường kính rất rộng là vô vàn những cụm phong lan nở hoa trong khí nóng ẩm miền xích đạo.

      Tôi quan sát những loài hoa xa lạ đua nhau khoe màu sắc và đường nét dưới thứ ánh sáng nhân tạo được điều chỉnh cho thích hợp tốt nhất với phát triển của chúng. Ở đây ràng người có kiến thức chuyên ngành và lòng đam mê tạo dựng nên thiên đường nho .

      Mario Aldina đơn giản chỉ là người thợ làm vườn như Lucky Falcone . Hoa phong lan của Mario Aldina nổi danh khắp xa gần. Trước khi lên đường sang New Jersey, tôi bỏ công thu thập thông tin. Aldina cung cấp hàng cho những cửa hiệu hoa đắt tiền nhất từ Atlantic City tới Manhattan. Mỗi tuần hai lần, gã tự tay lái chiếc xe có gắn mad1y điều hòa nhiệt độ đến chợ hoa Manhattan bên Phố Số 28 và Đại Lộ Số 6, nơi cung cấp hàng đêm của những người bán sỉ.

      Tôi biết được đôi điều về Mario Aldina. Gã ta 46 tuổi, cha gã bỏ mạng trước đây 40 năm trong trận đọ súng giữa hai băng đảng gangster cạnh tranh. Mẹ gã lấy chồng lần thứ hai, người có tên là Ernest Labonte. người do chính “gia tộc” cũ của cha Mario chọn lựa. Ernest Labonte chết trong nhà tù tiểu bang Maryland. ai đó có thể nhanh chóng cho tôi biết bà mẹ giờ ở đâu.

      Kể từ 10 phút nay, tôi biết điều đó ...

      Sau khi được chỉ hướng, tôi nhanh chóng nắm được khá nhiều thông tin về gia đình của gã trai cùng cha khác mẹ của kẻ chết. Tôi cũng được biết rằng suốt quãng đời cho tới nay Mario Aldina chưa hề gặp khó khăn với cảnh sát, ngoại trừ những lỗi lầm nho trong giao thông. Nhân thân của gã có thể coi là hoàn toàn sạch .

      Nhưng ai biết gã lấy đâu ra tiền để tạo dựng nên trang trại trồng hoa phong lan bên rìa khu South Orange. Người ta là gã tạo dựng từng bước , từ lên lớn. Đầu tiên gã chỉ trồng hoa như thú vui. Gã xây ngôi nhà kính đầu tiên hồi nào? Chắc khoảng 10, 12 năm về trước. Giờ có tới tá nhà kính duỗi dài bên dưới bầu trời thu dịu dàng.

      Tôi giữa những hộp gỗ chứa những thông bông hoa đẹp nhất. Ngay trong phòng tiếp khách ở phía trước là bà mẹ Labonte, rất già và hầu như mù. Bà ta ngồi đằng sau bàn. khí ấm và ẩm thấp rất tốt cho những khúc xương già nua. Khi tôi bước vào trong và cầu được xem hoa mẫu, bà ta nghiêng đầu sang bên và trân trân nhìn tôi từ hai con mắt đục lờ.

      Như thể bản năng vừa cho bà ta biết điều gì đó.

      - Hoa đẹp lắm, đúng ? - giọng trầm trầm cất lên đằng sau tôi.

      Tôi giật mình, mặc dù tôi hề nghe thấy tiếng bước chân người đàn ông đó. Chỉ có duy nhất vệt nắng phản chiếu li ti tấm kính nằm nghiêng thầm cảnh báo trước.

      Tôi chầm chậm xoay về. Tôi nhìn vào gương mặt có những đường nét rất sắc sảo của người đàn ông có làn da thẫm màu và mái tóc xoăn màu đen. Ông ta mặc chiếc áo tạp dề màu xám, che thân hình mảnh dẻ săn chắc.

      - Rất đẹp, - tôi đồng tình.

      - Ông là người hoa phong lan? Hay là nhà buôn? Hoặc cả hai?

      - Tôi thích tất cả những gì đẹp đẽ, - tôi . – Có phải ngày hôm qua là ngày họp chợ của ông ở New York?

      Mario Aldina rung động lấy sợi lông mi. – Đêm phải. Và phần sáng sớm.

      - Vậy ông cũng biết là vào buổi tối hôm trước đó em trai ông bị bắn chết.

      - Tôi có đọc chuyện đó. Ông là ai? - Giọng Aldina nghe nông, vô cảm. Chỉ có hai cánh mũi phập phồng cho biết bối rối bên trong.

      - Tôi là Jerry Cotton, FBI, - tôi .

      - Có phải ông là người...

      - bạn đồng nghiệp. Mechael Kellin. Chắc ông đọc báo.

      - Đúng, nhưng tôi quan tâm đến em trai tôi.

      - hả? Mặc dù chính ông đưa ta về New York?

      - Ai điều đó? - Giọng Aldina bây giờ nghe có phần mất bình tĩnh.

      Tôi nhún vai. – tôi nghe chỗ này chỗ kia. Nhưng chắc chắn ông chia tay với em trai ông rồi. Chắc là ông cư xử đúng, bởi vì ta là tội phạm. ta chủ tâm thực vụ giết người có chủ đích. Giết cảnh sát viên.

      - Tôi có đọc đó là chuyện nhầm lẫn.

      - Cái gì là chuyện nhầm lẫn?

      - Rằng chuyện viên cảnh sát đó là nhầm người.

      - , ông Aldina, đó phải chuyện nhầm lẫn, bởi vì người mà ông muốn tới là Elmar Rank, vào thời điểm đó ông ta chết rồi. Tên giết người để lại dấu vết.

      Hai chúng tôi nhìn nhau. Ánh mắt vặn xoắn vào nhau.

      - Tôi thậm chí còn nghi rằng, - tôi tiếp tục, - chính kẻ giết Rank lừa em trai ông vào tròng.

      - Tại sao? Cái đó tôi hiểu.

      - Tôi nghĩ có khả năng em trai ông hoàn toàn biết gã chĩa súng vào ai. Nếu gã biết đó là cảnh sát viên, chắc chắn gã nhận làm thuê. Ông nghĩ sao?

      - Làm sao mà tôi biết được chuyện đó? Chúng tôi sống trong hai thế giới khác nhau.

      - Chỉ cách nhau có tiếng đồng hồ ô tô thôi. Tôi hỏi Riccardi xem ai đưa em trai ông đến gặp gã.

      - Riccardi là ai?

      Tôi cười chế giễu. – Cho tới cách đây 10 năm, ông ta là con thú dữ. Giờ ông ta là con số . Người ta lừa ông ta và nẫng mất toàn bộ số tiền của ông ta, giờ ông ta cuốn bạn bè xưa cùng sa vào thảm họa.

      Aldina bình tĩnh lại. Gã im lặng, mà vẫn gây ấn tượnhg ngượng ngùng hay để lộ điều gì khác. Tôi chầm chầm quay trở lại phía cửa ra.

      - Mẹ ông có biết là Pat chết rồi ?

      - Bà ấy biết.

      - Có phải vì thế mà ông tới đây? Để nhục mạ tôi? Hay là ông muốn tiết kiệm cho nhà nước khoản tiền đám tang? Cái đó ông có thể làm qua điện thoại.

      - Tôi muốn làm quen với ông, ông Aldina. Rất có thể chúng ta còn gặp lại nhau.

      - Về phía tôi chắc chắn .

      - Cái đó tôi tin, tin từng lời là đằng khác, ông Aldina. À mà suýt chút nữa tôi quên – tôi muốn gửi tới ông lời chia buồn sâu sắc về cái chết của người em trai cùng cha khác mẹ!

      Khuôn mặt Mario Aldina nhăn lại thành cái mặt nạ của căm thù. Dù chỉ thoáng qua thôi, nhưng khiến tôi rởn người.



      • •

      - Cuộc họp báo thế nào? – Tôi hỏi Phil?

      Tôi hầu như hiểu được câu hỏi trả lời của . Tôi đứng trong quán cà phê ở Pulaski Skyway và ép chặt ống nghe vào tai. Đằng sau con đường dẫn vào bếp máy rửa bát kêu ầm ầm, và những người đầu bếp cùng cánh bồi bàn sa vào trận chiến ngôn từ ồn ã.

      - Lệnh bắt giam vẫn còn, nhưng quan tòa tạm hoãn, Kellin tạm thời bị cho nghỉ việc. ấy bây giờ được tự do. cần tiền chuộc, nhưng thay vào đó là loạt các quy định.

      - Vậy ra quan tòa coi những bằng chứng đó là chưa mang tính quyết định, - tôi đầy hy vọng.

      - Có thể, - Phil đồng tình. – Nhưng nếu ông ấy biết những gì mà mình vừa biết được...

      - Cái gì? – Tôi thét lên.

      Mình vừa đưa dấu vân tay của bạn chết của Kellin về Washington. ta được ghi danh ở đó. ta bị truy nã trong mối liên quan tới cái chết của chồng ta, người tên là David G. Hayes, người bị giết cách đây sáu tuần tại Los Angeles. Tên của ta là Donna Hayes, họ cha sinh mẹ đẻ là van Pelt. Đầu tiên ta bị tống giam được người tình của ta, gã tên là Brad Nelford, và gã này thú nhận giết chết David Hayes, lời buộc tội Donna được chuyển thành tội xúi giục giết người. Cho khoản tiền chuộc rất lớn, ta được thả ra ngoài. Ngay lập tức ta trốn . Người ta bảo món tiền chuộc đó là do người tình cũ khác đưa ra. nàng Donna xinh đẹp có quá khứ đầy ắp kiện. Trong cái thời huy hoàng trẻ trung, ta nhảy thoát y tại Las Vegas. Bây giờ cậu gì?

      Tất cả các dấu vết đều dẫn từ Las Vegas về New York. có kẻ sử dụng điếm để tiện vu vạ trong giây phút thích hợp cho người đàn ông ngang bướng. Mọi dữ liệu đều rất thích hợp với nhau.

      - Nhưng Brad Nelford còn ngồi tù chứ? – Tôi hỏi lại.

      - . Gã đột ngột đổi luật sư và rút lại lời nhận tội của mình. Vĩ nữ nhân chứng buộc tội duy nhất, tức là nàng Donna xinh đẹp, còn diện nữa, nên buổi tối ngày hôm kia gã được thả ra khỏi nhà tù. Luật sư mới của gã bây giờ là tay luật sư gangster nổi tiếng. Món tiền chuộc cho thân chủ được gã trả bằng tiền mặt.

      - Và bây giờ đến Nelford cũng trốn rồi, - tôi đoán.

      - Này, làm sao mà cậu đoán được? – Phil chế giễu. – Mình vừa mới nhận được bức ảnh của gã qua đường truyền dữ liệu. Mình cũng cho đòi cả ảnh của nàng

      Donna xinh đẹp. Mình hy vọng, làm như thế là vừa ý cậu, bởi vì người ta thể mang ảnh của Donna chết mà trình khắp nơi.

      - sáng kiến hay, - tôi . - Cậu nghĩ sao, Brad nelford ở New York chăng?

      - Có thể lắm. Gã giết chết Elmar Rank, gã có bằng chứng vắng mặt tốt nhất thế giới, - tôi . – Lúc đó gã vẫn còn ngồi trong nhà ngục điều tra.

      Tôi nghĩ đến Mario Aldina. Tôi đặt toàn bộ quân bài vào gã. Thế rồi bây giờ, như từ cái mũ của ảo thuật gia, bất thình lình xuất ứng cử viên mới.

      ứng cử viên khác? Hay là ứng cử viên thứ hai?

      - Ai đến chuyện ông Rank đâu! – Phil hăm hở . – hiểu sao mình tin là vụ giết ả Donna xinh đẹp được lên kế hoạch trước. Nó mới chỉ trở thành cần thiết khi vụ giả giết nhầm Kellin thất bại. Lúc bấy giờ có kẻ dán người vào máy telephone và rung chuông báo động, mà là rung chuông rất nhanh. Mình là muốn biết, Riccadi làm thế nào mà hẩy được nàng Donna vào tay Kellin.

      - Vụ đó phải do Riccardi, - tôi chầm chậm.- Có đường dây khác, đường dây trực tiếp chạy đầu Riccardi.

      - Mà ngoài ra, - Phil . – Các bạn đồng nghiệp ở khu Queens khẳng định lý thuyết của mình là đúng! Kẻ giết ông Rank trèo qua mái nhà để xe! Họ tìm thấy dấu vết ở đó. Và tìm thấy thêm cả vài sợi len màu xanh dương mái nhà. Thế còn cuộc trò chuyện của cậu với Aldina ra sao?

      - Rất khó . Phải chờ chút mới biết liệu mình có gây được chút hiệu ứng nào . Giờ mình muốn đến thăm Riccardi và Greenfield.

      - Trời đất, Jerry, nếu cậu muốn nắm áo Greenfield, cậu phải có cái gì đó chắc chắn trong tay !

      - Mình cũng muốn bị bỏng tay đâu. Trước khi chuyện với ông ta, mình chuyện thêm lần nữa với Kellin. Cậu có sắp xếp được ?

      - Mình cũng muốn hỏi ấy vài câu đây. Bao giờ cậu về tới đây?

      - Khoản năm giờ. Cho mình biết địa điểm.

      - Được thôi. Nhưng mà cẩn thận đấy!

      - Cho tới lúc đó mình làm việc với Dom Riccardi, - tôi . Trong khuôn bếp của quán cà phê có ai đó vừa đập cặp khay nướng bánh làm bằng nhôm xuống nền đất.

      - Ai kia? – Phil thét lên.

      - Riccardi. Riccardi! – Tôi gầm trở lại.

      Lần này tôi quá to, vì cái tiếng loảng xoảng kia bất chợt ngưng lại. Bất giác, tôi giật mình nhìn quanh. Nhưng chẳng ai nhận thấy tôi vừa ra cái tên của tay trùm gangster ngày xưa thét ra lửa, kẻ từ ngôi nhà dưỡng lão quay trở lại đường phố và thêm lần nữa đem theo cái chết.

      Demenico Riccardi ngồi trong ban công của tòa biệt thự cao, người quấn chăn, giơ gương mặt già nua hướng về phía vầng mặt trời mùa thu nhợt nhạt.

      Riccardi bức tranh trải ra trước mặt mình, từ tầm cao của căn hộ sang trọng này. Những mái nhà bằng kính của tòa nhà Liên Hiệp Quốc óng ánh màu xanh lục như thành của bể cá khổng lồ. Làn nước của dòng East River lóng lánh lạnh lùng như băng giá. Nếu đưa ánh mắt dõi dọc theo những khoảng hở của các đại lộ về hướng Nam, Riccardi nhiều khi có thể nhìn thấy cả khu Staten Island.

      Ngày trước, khi chưa bị những tòa tháp óng ánh màu bạc của Trung Tâm Thương Mại Quốc Tế che mất tầm nhìn, người ngồi ở đây thậm chí có thể nhìn thấy cả bức tượng Thần Tự Do. Dù là rất , nhưng hình ảnh đó chưa bao giờ ra khỏi trí não Riccardi, kể từ khi nhìn thấy bức tượng đó lần đầu tiên, cách đây 60 năm, từ boong con tàu chở dân nhập cư. Ngày đó cha ông ta cầm trong tay ông ta, và hai cha con bồi hồi đứng ngắm biểu tượng của tự do và tinh thần hành động.

      Người đàn ông quay về khi đằng sau ông ta vang lên tiếng bước chân khe khẽ. Đó là Sal, người bước ra ban công và đặt máy điện thoại lên đùi Riccardi. Sal Bartoli, giờ cũng 50 tuổi, hề rời Riccardi nửa bước kể từ 30 năm nay.

      - Las Vegas, thưa ông Riccardi, - Sal . tiếng động, người hầu thân tín lại rút lui.

      Dom Riccardi rút cánh tay ra khỏi lần chăn đắp, cầm lấy ống nghe điện thoại. Làm da phủ giống như lớp giấy dó khúc xương tay gầy guộc.

      - Hallo, - người đàn ông khe khẽ, giọng nông.

      - Ông khỏe , Dom? - giọng xa xôi hỏi thăm.

      - Phải , Sonny?

      - Dĩ nhiên rồi, Dom. Trong tuần tới, ủy ban xây dựng cho đấu thầu hợp đồng của đoạn đường thứ hai thuộc xa lộ Bay-Ridge. Theo những nguồn thông tin tin cẩn của tôi người thắng cuộc trong vụ này liên doanh của ba hãng nằm trong quyền kiểm soát của tôi. Như thế có nghĩ là có việc phải làm, Dom! Trong những ngày tới, tôi nhận được tên của các thanh tra được cơ quan kiểm soát ngành xây dựng chỉ định. Ta phải kéo họ đứng về phía ta.

      Tôi tham gia, - Riccardi .

      Sonny Galano cười. – Thôi nào, Dom, bọn ta là cặp bài trùng ăn ý mà.

      - thằng lưu manh cò con khốn nạn, Galano. Vào thời trước, người của tôi treo lên bằng hai ngón tay cái, cho tới khi bê-tông cứng lại dưới chân ….

      - Tôi gửi chuyển thư. Sáng sớm ngày mai ta đến chỗ ông. Với năm ngàn. Tạm thế cũng đủ rồi.

      - Tôi muốn nhận của bố thí, Galano. Tôi rút tất cả người của tôi về. Chuyện kết thúc rồi. Để đám chính trị gia hay những thứ người khác của thử làm việc bẩn thỉu !

      - Ông đâu có thể đột nhiên xuống tàu, Dom!

      Tôi có thể, Galano. Và còn điều nữa, đồ ăn mày bẩn thỉu. Từ bây giờ nên cẩn thận! ngày nọ tôi gửi người liên lạc đến chỗ . phải hôm nay hay ngày mai, nhưng nhanh thôi. biết là tôi có người liên lạc rất tốt.

      Sonny Galano cười vô tư. – Ông đâu còn tiền để thuê sát thủ, Dom.

      - bao giờ biết là lòng chung thủy, nghĩa tình và tình bạn có ý nghĩa gì. Tôi biến ta thành người giàu có. ta biết ta nợ tôi những gì.

      - Đây thể là kết luận cuối cùng của ông được, Dom! Ông nghe này! Ta hãy bàn bạc về chuyện đó!

      - Muộn rồi, Galano.

      - Tự tôi đến.Với toàn bộ số cổ phiếu.

      Dom Riccardi chần chừ. Ánh mắt của ông ta vuốt về hướng Nam. Chưa bao giờ ông ta thấy Manhattan đẹp như bây giờ. Tòa biệt thự cao này, Sal, y tá và vị bác sĩ, vài cận vệ, chiếc xe hạng sang và ngôi nhà ven biển ở Long Island, tất cả tốn chừng 200 ngàn đô – la mỗi năm. Nếu bây giờ có rút ra toàn bộ số tiền còn rút được, ông ta cũng chỉ nhận được tròn 150 ngàn. Tất cả những thứ khác bị nạn lạm phát ngốn sạch. Ông ta đặt tất cả niềm tin vào đồng đô – la và mất tất cả. Chỉ còn lại phần đầu tư ở Las Vegas, mà số tiền đó lại bị con chó cong đuôi đểu giả như Galano lấy mất.

      150 ngàn đô – la. Chẳng đủ cho năm tồi tệ. Người đàn ông già nua hoàn toàn có ý định bỏ tòa biệt thự cao này mà vào sống trong nhà dưỡng lão. Hoặc là còn tệ hơn nữa; sống bám vào con ở Italia. Thà chết còn hơn. Suy nghĩ đến cái chết từ lâu còn khiến cho ông ta sợ hãi. thằng lưu manh nhãi ranh như Sonny Galano chắc chắn thể tưởng tượng ra chuyện đó.

      - Bây giờ sao rồi, Dom? Ta tiếp tục thương thuyết nhé? Tôi đến chỗ ông. Trưa ngày mai nhé? Tôi mang cổ phiếu theo. Ta tạm thời như thế này, ngày mai nửa, còn nửa sau khi dự án Bay – Ridge được thực .

      Dom Riccardi thoáng nhắm mắt. Người đàn ông hiểu ra rằng Galano rồi tiếp tục nhũng nhẵng bắt ông chờ đợi như thằng tống tiền cỏn con nhờn nhụa.

      - mang cho tôi số cổ phiếu! Sau đó chúng ta chuyện. – Dom Riccardi đặt máy.

      Sal bước ra ban công rồi cầm máy điện thoại lên. – Ông Cotton muốn chuyện với ngài, ông Riccardi. Ông ấy đợi bên dưới sảnh.

      - Cotton? Cotton? Tôi có quen ?

      - Ông ấy là sĩ quan đặc nhiệm.

      - ta đến mình sao? – Riccardi hỏi. Khi Sal gật đầu, người đàn ông ra lệnh: - Gửi ta lên đây và ở gần bên tôi.



      • •

      Dom Riccardi lùn khá nhiều kể từ lần gặp cuối, nhưng vẻ cứng rắn và nét tinh ranh hề giảm sút, tôi nhận ngay ra điều đó.

      Tại sao tôi lại đến gặp gã? Tôi có trong tay bất cứ thứ gì chống lại gã, và tôi cũng xoay ra được bất cứ thứ gì. Nhưng nhiều lần tôi hích được cho kiện nổ ra, sau khi trực diện đến khuấy đảo những kẻ tham gia và thẳng cho chúng biết là tôi bám theo chúng, rằng tôi nghi ngờ điều gì đó.

      Thỉnh thoảng, những kẻ trong cuộc trở nên thận trọng hơn.

      lần khác, chúng lại coi hành động của tôi là lời khiêu khích và ra tay phản ứng tùy theo tính khí bản thân, nhiều khi phản ứng với bạo lực. nhiều lần tôi dùng cách này đẩy cho tốc độ vụ án tăng lên. Phía đối diện phạm sai lầm khi chúng bất ngờ bị đẩy đến những hành động lên kế hoạch trước.

      - Tôi biết người ta chơi trò đểu giả đến mức nào với ông, ông Riccardi, - tôi sau vài câu chào hỏi vô nghĩa. – Tìm ra chuyện đó chẳng khó đâu.

      gương mặt quắt queo, những nếp nhăn lại chuyển động khi người đàn ông già nua mỉm cười. – biết gì , biết tại sao bao giờ đưa được vào lỗ, Mr. Cotton? biết hả? Vì tôi chưa lần trong đời bị mắt lòe. Vì thế.

      - Nhưng thay vào đó ông mắc bẫy tên lừa đảo, ông Riccardi. Tình hình bây giờ thay đổi. Ngày hôm nay bọn lưu manh làm việc với cuốn sách luật trong tay và bàn phím máy tính trong tay kia. Và chỉ những khi bắt buộc phải mó tay vào những chuyện bẩn thỉu, người ta mới kiếm vài gã ngốc thức thời.

      - Tôi cũng chẳng bao giờ để người khác khiêu khích mình, - Riccardi thân thiện mỉm cười. – Nhưng dù sao cũng khiến cho tôi tò mò đấy.

      - Tôi chỉ muốn khuyên ông xuống tàu , ông Riccardi. Ông nhìn thấy lại được xấp cổ phiếu của ông đâu. Chắc là ông cũng như thế, ông vốn là con cáo già.

      Hai làn môi của người đàn ông đối diện với tôi đột ngột đổi màu xám như giấy. Đúng thế, tôi bắn trúng hồng tâm, nhờ tin tức từ người bạn tuyệt vời xứ Las Vegas của bạn già Neville.

      - Trong chừng mực nhất định, tôi đến gặp ông hôm nay trong tư cách cá nhân, ông Riccardi, - tôi tiếp, tự tin hơn chút, bởi tôi cảm giác mình bước đất chắc. – Tôi có quyền đưa ra lời đề nghị hoặc hứa hẹn điều gì với ông. Nhưng tôi sẵn sàng đóng vai người môi giới cho ông, nếu ông muốn điều gì với ủy viên công tố liên bang. Vì lý do tuổi tác, tôi đoán thế, chắc bao giờ người ta đưa ông vào tù nữa đâu. Mà chúng tôi cũng nhắm tới ông, chúng tôi nhắm tới gã đàn ông ở Las Vegas.

      Cặp môi người đàn ông bây giờ bớt nhợt nhạt, và những nếp nhăn gương mặt quắt queo kia lại chuyển động. – Ngày trước dùng chính cách này để thúc ép đám người của tôi, đúng ? tìm cách khích cho họ chống lại tôi, hứa hẹn với họ là phải ngồi tù, hứa hẹn với họ tồn tại mới mẻ và chắc chắn. Toàn trò dớ dẩn. Người của tôi luôn luôn trung thành với tôi. Hôm nay vẫn thế.

      Ông ta đúng. Chỉ riêng Lucky Falcone buông ra vài lời bóng gió. Mà chẳng phải bởi ta căm thù người đàn ông cao tuổi này, mà bởi ta bây giờ có quá nhiều thứ để mà mất.

      - Ông biết là ở Las Vegas có gã đàn ông, gã ta chẳn thèm quan tâm liệu các công trình xây dựng ở đây có bị sụp đổ và đè chết người! Hậu quả chỉ xuất sau quãng thời gian dài. Riccardi, Ông cũng là người New York! Chẳng lẽ ông cứ ngồi yên nhìn bọn Las Vegas cướp bóc thành phố này và thậm chí đóng góp vào hủy diệt nó? – Tôi trỏ tay qua khoảng gian phía bên ngoài lan can về phía Nam, nơi những tòa nhà chọc trời của khu Downtown vươn cao dưới bầu trời mùa thu trong sáng. – Đây cũng là thành phố của ông!

      - Thành phố điên khùng này rồi tự hủy diệt nó, - Riccardi lẩm bẩm. – Nhưng mà có lý. Nếu về New York, tôi là kẻ đa cảm. Mặc dầu vậy, bao giờ có thể đẩy tôi đến chuyện với ủy viên công tố liêng bang. Trong bất cứ trường hợp nào, , ông Cotton, , tôi rất tiếc.

      Lời khuyên bố mang màu sắc chung cuộc. Tôi biết thế. Từ hai con mắt trống rỗng, người đàn ông già nua nhìn ngang qua mặt tôi. Đúng lúc tôi muốn xoay người và bước , ông gật đầu gọi tôi lại gần.

      - Ông đưa tôi vào trong! – Ông ta ra lệnh.

      Cái ghế ông ta ngồi có bánh xe. Sal, cận vệ của Riccardi, mở cánh cửa kéo.

      Thế rồi tay trùm gangster già nua ra điều bất ngờ:

      - có lý... Người ta lừa dối, người ta muốn lấy hết của tôi, nhưng kẻ nào có thể lừa đảo người như Domenico Riccardi rồi tiếp tục làm ăn mà bị trừng phạt. Tôi già rồi, nhưng tôi chưa thối rữa. Rất có thể tôi cho cơ hội, bạn trẻ, có thể. Nếu sáng mai tôi gọi cho , phải tới đây ngay, đặt câu hỏi nào. Giờ , ...



      • •

      Khi hai chuỗi ảnh cảnh sát ghi hình Donna Hayes, tên khai sinh là Donna Van Pelt, bí danh là Cora Dixon, cùng tay người tình cũ Brad Nelford của ta xuất màn hình của máy nhận ảnh đường dài, Phil ngay lập tức chuyển chúng vào phòng thí nghiệm, cầu nhân bản và đưa hai tá ảnh vào cuộc điều tra. Các cảnh sát viên, các thanh tra và các sĩ quan đặc nhiệm mang ảnh nay hỏi tất cả những người có khả năng nắm thông tin trong các hãng hàng , các khách sạn và tất cả những nơi nào hứa hẹn.

      Dĩ nhiên, phần quan trọng nhất được Phil dành cho bản thân mình. Đầu tiên, đến Gotham Apartment Service, chính cái cơ sở bất động sản cho thuê những căn hộ ở Phố Số 79 khu Đông. Phil hẹn trước với nhân viên tên là O’ Malley. Cái tên O’Malley được viết trong bản hợp đồng thuê nhà mà ban trọng án tìm thấy trong căn hộ của Cora Dixon, tức Donna Hayes. O’Malley hứa giúp đỡ Phil trong mọi phương diện và tập hợp danh sách tất cả những người thuê nhà chuyển vào hay chuyển ra trong tám tuần vừa qua.

      O’Malley là chàng trai còn trẻ, nét mặt thân thiện nhưng nhợt nhạt. Mất bình tĩnh, ta cứ đưa tay sờ nắn cặp kính đeo trong khi đưa Phil vào phòng khách.

      - Tôi có thể mời ông uống được gì ? Cà phê?

      - , cám ơn, ông O’Malley, tôi muốn chúng ta vào việc ngay.

      O’Malley gật đầu và mở ra cặp hồ sơ. – Đây là bản sao các hợp đồng thuê nhà mà ông cầu tôi lọc ra, ông Decker, - . - Tổng số có 34 hợp đồng. Nhưng để bảo vệ quyền lợi cho hãng chúng tôi, Gotham Apartment Service, cũng như để bảo vệ quyền lợi cho những người thuê nhà, chắc tôi có thể cầu ông đảm bảo tính kín đáo khi điều tra.

      - Dĩ nhiên, ông O’Malley. – Phil và đút tập hồ sơ vào cặp mình. Sau đó, đặt ảnh Donna Hayes lên bàn. Những tấm ảnh này mới được chụp cách đây chừng bốn tuần, và mặc dù được chuyển qua đường số hóa, trông chúng vẫn rất nét.

      - Đây có phải là người đàn bà xưng danh Cora Dixon và mướn căn hộ ở tầng tám? – Phil hỏi.

      cho câu hỏi của mình chỉ là động tác bắt buộc theo thủ tục, chẳng mấy hứa hẹn. O’Malley cúi người xuống bên những tấm ảnh, đưa tay sửa kính, rồi ngồi thẳng lên và bối rối nhìn Phil.

      - , thưa ông, tôi chưa bao giờ nhìn thấy người đàn bà này, - quả quyết. – Tôi xin lỗi!

      - cần phải xin lỗi đâu, - Phil đáp như tự động, khẽ nghiến răng. Vụ án này ràng chậm nhưng mà chắc trở thành trò chơi hóa trang thể giải đáp. O’Malley khăng khăng bảo vệ lời khai của . Cả khi Phil đặt lên bàn ảnh của Brad Nelford, chàng nhân viên cũng khẳng định chưa bao giờ nhìn thấy người đó trong đời.

      Còn lời miêu tả của O’Malley về người phụ nữ ký bản hợp đồng thuê nhà kia lại rất mù mờ, chung chung. Điều này nhất thiết chứng tỏ O’Malley thiếu khả năng quan sát, mà đúng hơn là kết quả của tinh ranh mà phía đối diện lộ trong mọi bước hành động.

      Phil ghi lại rằng người đàn bà đó có mái tóc thẫm màu, để xõa, rằng chị ta khoảng ngoài 30 tuổi và ăn mặc tương đối bảo thủ. À phải, chị ta có đeo kính nữa. Đấy là tất cả những gì mà nhân viên của hãng Gotham nhớ được. hình ảnh phụ nữ hết sức bình thường, có thể nhầm lẫn với hàng trăm ngàn người khác...

      - Người đàn bà đó khai tên tuổi ra sao? – Phil hỏi.

      O’Malley đỏ mặt. – Tôi e ngại có câu hỏi này, - ta đau buồn thú nhận. – ta đặt lên bàn tấm thẻ lái xe miền Arizona. Thẻ lái xe xứ Arizone có dán ảnh, chắc là ông cũng biết. ta cũng có cầm trong tay thẻ tín dụng có tên Cora Dixon. Nhưng ta ta muốn trả tiền nhà bằng séc.

      - Vậy ra ta điền vào tấm séc? – Phil hỏi, đầy hy vọng.

      - , thưa ông, cho tháng đầu ấy muốn trả bằng tiền mặt, vì ấy tiện thể ở chỗ tôi. Tôi thấy có lý do gì để khăng khăng bắt ấy trả bằng séc hoặc bằng thẻ tín dụng, thưa ông.

      - Thế còn tiền nhà cho tháng này, - Phil hỏi.

      O’Malley đỏ mặt lần nữa. – Nó chưa được trả, thưa ông. Hôm nay mới là ngày mồng 8. Chúng tôi chỉ gửi giấy cảnh báo vào khoảng giữa ngày mồng 9 và ngày 11 trong mỗi tháng.

      Vậy là thể mong đợi gì hơn ở đây. Phil được biết là trong trò chơi này có người phụ nữ thứ ba. Vậy người chết trong căn hộ bên Phố Số 79 là ai? Người duy nhất có thể trả lời câu hỏi này cách trôi chảy có lẽ chỉ là Brad Nelford. Và Phil thầm nghĩ trong bụng, cũng biết cần phải bắt đầu từ đâu nếu muốn tìm gã đàn ông đó.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Jerry Cotton


      CUỘC TÌNH CUỐI CỦA CHÀNG CẢNH SÁT



      Chương 8




      Brad Nelford giật mình khỏi giấc ngủ chập chờn khi chuông điện thoại kêu. Gã vẫn chưa làm quen được với căn hộ xa lạ này. Gã kéo mành mành xuống, vì khó ngủ nêế có ánh nắng hắt vào trong. Chỉ thời gian ngồi ở nhà ngục điều tra vừa rồi mới bắt được gã quen với chuyện ngủ dưới đèn điện.

      Gã lăn người ra khỏi chiếc ghế sofa và bước nền thảm trải rất dày, rất mềm mại. Toàn bộ căn hộ này sao được trang trí theo kiểu ẩm ướt, ấm áp. Giống như cái tổ uyên đương ngấm ngầm, ngay từ đầu gã nghĩ như vậy.

      Gã cầm ống nghe lên, hoàn toàn ý thức là gã đeo găng tay. Gã được phép để ở lại đây dấu tay nào.

      - Hallo? – Gã hỏi thận trọng.

      - thấy trong người thế nào, Ndlford? - Giọng phía bên kia hỏi thăm.

      Nelford tin chắc là gã chưa bao giờ nghe thấy giọng người này. Đó phải gã đàn ông xứ Las Vegas đẩy gã tìm dấu vết Donna.

      - Tôi thấy trong người thế nào hả? Giống như con chuột biết chắc chắn là con mèo chở ngoài lỗ.

      - có lý do gì để phải lo lắng như thế đâu, Ndlford, - Kẻ gọi tới sẵng giọng. – Tôi đâu thể đoán trước được bước phát triển này, đúng ?

      - Trời đất ơi, ông nghe chứ! ta là thanh tra! ta có súng!

      - Súng ta phải nộp rồi. Và ta hề biết là có người muốn lấy mạng ta. Ngoài ra, ta quen chiến đấu.

      - Thế làm sao mà tôi có thể… có thể…

      - Giết ta?

      - Đúng, làm cách nào? Bằng tay trần chắc? Mà là thanh tra? Tôi đâu có súng, và tôi biết phải xoay làm sao ra khẩu súng trong cái thành phố khốn nạn này!

      - có nhìn thấy lò sưởi ? Có nhìn thấy tấm đậy bên .

      Nelford đưa mắt nhìn quanh. Lò sưởi to rộng, và người ta thể nhìn thấy tấm đậy bằng sắt đúc. – Có, - gã .

      - Rất dễ đẩy tấm đậy đó lên. Bên dưới có hộc rỗng. Trong hộc rỗng có chiếc két sắt . Két sắt bị khóa. Trong đó tìm thấy khẩu súng lục. biết sử dụng súng chứ?

      - Dĩ nhiên.

      - Hãy rút súng ra và đặt vào đó chìa khóa căn hộ cùng chìa khóa cửa nhà! cần tới chúng nữa. Khi Kellin bị xử lý xong, tiếng đồng hồ sau đó nhận được bì thư bên quầy thông tin của hãng Hàng Quốc Tế tại sda6n bay Kennedy, dưới yên Bradley. Trong bì thư tìm thấy hộ chiếu và đủ tiền. Bây giờ thế nào, Ndlford?

      Gã biết rằng gã thua cuộc, mất hết. Họ nắm gã trong tay. Gã chẳng có tiền mà cũng có giấy tờ, và bởi gã quen bất kỳ người nào trong đám họ, họ có thể lật mặt gã bất cứ lúc nào. Gã đàn ông cắn chặt xuống môi. Gã muốn giết người nữa.

      biết chồng của Donna vì bị con đàn bà đó bỏ bùa mê, bị nó thúc cho phát điên lên. Sau đó gã giết Donna, vì ả bỏ rơi gã và muốn hủy diệt gã. Chính ả biến gã thành con thú hoang.

      Gã cố nén tiếng thở dài khi nghĩ lại cảnh gã kéo con đàn bà đó vào phòng tắm rồi ra tay đánh đập trong cơn thịnh nộ bệnh hoạn…

      - Tôi biết liệu tôi có tìm được ta , - gã nghe thấy bản thân mình lên tiếng. Qua đó gã phát tín hiệu, cho biết gã sẵn sàng nhượng bộ.

      Nhưng ra gã đâu có muốn…

      - Tôi thấy rồi, là người khôn ngoan, Nelford. nghe cho kỹ đây, mọi chuyện rất đơn giản…



      • •

      Đúng lúc tôi ngồi vào xe ngọn đèn của dàn máy điện đàm bắt đầu nhấp nháy. Tôi xưng danh bằng mã số.

      - Kênh 4, - Phil ngắn.

      Tôi chuyển kênh. - Cậu có kết quả gì ? – Tôi hỏi.

      - Mình nghĩ là có. Chúng ta gặp nhau như hẹn trước vào lúc năm giờ. Mình muốn đưa địa chỉ này qua điện đàm. Hoặc gọi cho trung tâm trực , hoặc gọi trực tiếp cho bạn của chúng ta!

      - .

      - Có thể mình đến muộn chút. Trung tâm biết hoạt động của mình.

      - Hiểu, hết. – Tôi lại bước xuống xe và quay trở lại phần đại sảnh của ngôi nhà có biệt thự cao của Dom Riccardi ở tầng sát mái. Bên dưới đại sảnh có tới hai tá máy điện thoại công cộng. Tôi gọi cho trung tâm trực FBI và gặp được George Baker.

      - Phil có để lại tin cho mình, - tôi .

      - Đúng thế. Các cậu gặp nhau vào lúc năm giờ trong căn hộ của Michael Kellin ở Phố Số 7, khu Đông, sát quảng trường Tompkins.

      - Tốt, Phil bây giờ ở đâu?

      - Số 388 Phố Số 79, khu Đông. Hỏi chuyện người gác cửa.

      Vậy ra Phil muốn cho Randy xem ảnh Donna Hayes và Brad Ndlford.

      Tôi nhìn xuống đồng hồ. Bây giờ là 4 giờ kém 9 phút. Thời gian quá ngắn, chẳng bõ công cho tôi quay trở lại văn phòng. Những gì tôi định làm ở đó, có thể nhở George Baker thực .

      - Mình chuyện với Aldina và Riccardi, - tôi . – Mình muốn Aldina từ bây giờ trở phải được canh chừng suốt ngày đêm.

      George Baker thở dài. – Cho việc này mình cần ít nhất ba nhóm mỗi ca! Lấy đâu ra người đây hả?

      - Rồi cậu xoay xở được mà, - tôi quả quyết. - Giờ mình ngay đến quảng trường Tompkins đây.

      - Ghi nhận. Xong việc nghỉ ngơi lấy chút !



      • •

      Randy Edwards, người gác của ngôi nhà 388 Phố Số 79 khu Đông, nhanh nhảu chạy ra ngoài khi Phil cho chiếc xe công vụ dừng bánh và bước xuống xe.

      - Ông được đỗ ở đây! – ta kêu lên.

      Phil chìa thẻ. – Ta vào trong chút chứ?

      - Kể từ khi vụ việc với Dixon xảy ra, tôi còn được yên lấy phút, - Randy than thở. - Mời ông!

      ta mở cửa ngoài ra rồi mở đến cửa trong, dẫn Phil vào căn phòng , được dùng làm cabin gác. bàn điều khiển có để hai máy điện thoại cùng nhiều hàng số và hàng đèn li ti, trong những hàng đèn đó chỉ vị trí thời của thang máy.

      Đầu tiên, Phil chỉ cho ta xem ảnh của Donna Hayes, tức Cora Dixon. – biết người phụ nữ này ? – quan sát chăm chú gương mặt người gác cửa.

      - Đó là Dixon. ràng là như thế, thưa ông.

      Phil biết liệu có nên cảm thấy nhàng hay sau khi được O’Malley cho biết về tồn tại của người đàn bà thứ ba. Tên sát nhân hủy hoại gương mặt của nạn nhân đến hầu như thể nhận ra, chắc chắn điều này phải có lý do. Có thể là căm hận và cơn thịnh nộ điên khùng. Hoặc thủ phạm hy vọng trì hoãn được khoảng thời gian , bằng cách ngáng trở tiến trình nhận diện. Cả hai khả năng này đểu trỏ tới Brad Ndlford. Nhưng động cơ chính của gã là việc loại trừ nữ nhân chứng buộc tội duy nhất, người có thể đưa gã vào nhà tù. Giờ Nelford chắc chắn trốn . Hoặc gã kịp kiếm cho mình lý do vắng mặt.

      Phil đặt xấp ảnh Nelford lên bàn.

      - bao giờ nhìn thấy người đàn ông này chưa?

      Randy Edwards chỉ cần nhìn những tấm ảnh thoáng.

      - Có chứ, dĩ nhiên. Quý ông này sống trong nhà này. – Randy ngẩng lên, và bởi Phil thể che giấu được ngạc nhiên của mình, người gác thêm vào, hơi có chút thiếu tự tin: - Tôi tin là thế, thưa ông.

      - Chính xác là gì? ta sống ở đây? Hay ta sống ở đây?

      - Tôi biết tên tất cả những người thuê nhà, thưa ông, thậm chí kể cả nét mặt cũng . Có những người thuê nhà sống thường xuyên ở đây. Ví dụ chúng tôi có người bán hàng xứ Milwaukee, cứ hai tuần ta mới về New York. Đối với ta thuê căn hộ ở đây rẻ tiền hơn là…

      - Được rồi, ông Edwards. Vậy ra ông biết người đàn ông này tên thế nào. Tôi đoán là ông cũng biết ta sống ở căn hộ nào. Lần cuối ông nhìn thấy ta là lúc nào?

      - Cách đây 15 phút…

      Bất giác, Phil đưa mắt nhìn quanh, thang máy vừa đậu xuống đại sảnh và có ba người đàn ông trẻ tuổi bước ra ngoài.

      - Ông ấy bỏ rồi, thưa ông. Ông ấy thậm chí cầm theo cả túi du lịch.

      Xui quá, Phil nghĩ thầm. 15 phút đồng hồ cho tay giết người.

      - Giờ ta bắt đầu lại từ đầu. Ông nhìn thấy người đàn ông này lần đầu tiên là vào lúc nào? Ông có chuyện với ta ? ta có xe ô tô ?

      - , thưa ông, Ông ấy taxi. Tôi nhìn thấy ông lần đầu tiên vào buổi trưa ngày hôm qua. Ông ấy thẳng vào trong đại sảnh này. Ông ấy dĩ nhiên có chìa khóa và ngay lập tức bước về phía thang máy. Vì tôi chưa nhìn thấy ông ấy bao giờ, nên tôi chạy ra khỏi phòng. Tôi chỉ chào ông ấy thôi, vì muốn ra mặt hỏi han thô lỗ, ông hiểu ? Có thể ông ấy sống ở đây lâu rồi và tôi chưa gặp vì ông ấy đến và vào những lúc tôi trực. Nhưng mà ông ấy chỉ chào lại câu và thêm chút nào. Lúc đó tôi nhìn lên bảng điện.

      Brandy Edwards chỉ vào hàng đèn , mỗi ngọn đèn tượng trưng cho tầng nhà. – Ông ấy lên tầng sáu. Ban nãy trước khi ông ấy xuống, tôi cũng nhìn thấy thang máy đầu tiên được gọi lên tầng sáu.

      Phil để danh sách bản sao các hợp đồng thuê nhà trong xe. chạy ra ngoài và cầm cặp hồ sơ vào. Cùng với Randy Edward, soát lại từng hợp đồng.

      Trong tầng sáu có 9 căn hộ, tất cả đều có người thuê. Hai trong số đó vừa được thuê trong vòng 8 tuần gần đây. căn được thuê cách đây hai tuần, căn cách đây 7 tuần. Tên người thuê nhà chẳng gợi cho Edward nhớ tới điều gì.

      - Ông có nhìn thấy ta vào ngày hôm qua hay hôm nay lần nữa ? Dĩ nhiên là trừ lần vừa rồi?

      - , - Randy trả lời chắc chắn.

      Ra gã đàn ông đó tìm cách lọt vào căn hộ khác, và ngồi ở đó chờ cơ hội. Sau khi phạm tội, gã lại trốn vào trong đó. Khi các thành viên ban trọng án từ căn hộ này sàng căn hộ khác để hỏi han những người thuê nhà, gã để yên cho họ bấm chuông mà mở cửa.

      Phil phải trao đổi thêm với Hobson. Nhưng chuyện này có thể xếp lại sau. Việc quan trọng hơn cả là cầu truy nã Brad Nelford. Rất có thể gã đường đến sân bay. Hoặc đến bến xe buýt. Nhờ vào tấm ảnh của cảnh sát Los Angeles, giờ họ cơ hội để tóm gã trai. gã vẫn còn cảm thấy an toàn, bởi báo chí và đài truyền hình chưa hề để lộ tiếng rằng cảnh sát nhận diện được người bị giết.

      - Tôi gọi điện được ? – Phil hỏi.

      - Được chứ. Đây, ông sử dụng máy này! Vừa chọn số của trung tâm trực FBI, Phil vừa hỏi Randy: - Ông có gọi hộ Taxi cho người đàn ông đó ?

      - . Ngay ở góc phố kia có bến đậu taxi. Chỉ cần vẫy tay là xe lại. Ông ta chẳng nhở và gì tôi cả.

      - Tại bến đỗ đằng kia luôn là nhóm taxi cố định chứ?

      - Vào ban ngày đa phần là cùng nhóm. Tôi có quen số người. – Randy cười. – Có cần tôi nghe ngóng ?

      Phil mỉm cười. – , cám ơn. - Rất có thể Nelford đường . Rất có thể bạn đồng nghiệp quá sốt sắng gọi cho gã qua máy điện đàm, cho gã biết là FBI muốn chuyện với gã.

      Qua điện thoại, Phil cầu trung tâm ra lệnh truy nã Nelford. – Mình gọi lại ngay và báo chi tiết cụ thể, - với George Baker.

      - Được, mình cho chiến dịch bắt đầu ngay, - George đáp.

      Phil tới bến đỗ taxi, trong bến giờ chỉ còn hai xe. chìa thẻ và hỏi hai người lái xem họ có nhìn thấy bạn đồng nghiệp của họ nhận người khách từ ngôi nhà nằm chênh chếch bên kia phố. Cả hai người lái taxi, người da trắng béo phị và người da đen trẻ tuổi hơn, đưa mắt nhìn nhau.

      - Cách đây khoảng 20 phút, ông thế phải ? - Người béo phị nhún vai. – Lúc đó tôi chưa có ở đây.

      - Còn ông? – Phil nhìn người da màu. Chiếc taxi của ta đứng ở vị trí đầu.

      - Có thể tôi nhìn thấy người. Lúc đó tôi vừa tới đây. Nhưng tôi biết đó là ai. Tôi biết cái xe taxi đó. Nó thuộc nhóm bọn tôi ở đây. Có thể ông nên hỏi Đại úy Velasquez. Lúc đó ta cũng đứng ở đây. Đại úy biết mặt tất cả những tay lái taxi trong vùng.

      - Ông có thể gọi cho ấy qua máy điện đàm ?

      - Để tôi làm, - người béo phị sốt sắng nhận lời, vì da màu vừa nhận khách. Người đàn ông tên là Engelbert Hansen.

      Hansen tìm cách gọi điện cho Đại úy. Chuyện dễ dàng, vì hai người thuộc hai hãng taxi khác nhau. Nhưng lúc, Hansen cười rộng miệng.

      - Nếu ông vào trong quán rượu kia, thưa ông, Đại úy gọi điện cho ông. Được ?

      - Cám ơn nhiều, - Phil và cất bước. Bây giờ là 4 giờ 30. Nếu muốn đến quảng trường Tompkins đúng giờ, sắp phải lên xe rồi.

      Đúng lúc bước tới cũng là lúc chuông điện thoại treo bên cửa ra vào đổ chuông. Phil cầm ống nghe lên.

      - Ông có phải là viên sĩ quan đặc nhiệm? - Đại úy velasquez hỏi.

      - Tôi đây, ông Velasquez. Trước đây khoảng chừng 20 hoặc 25 phút, ông có nhìn thấy bạn đồng nghiệp trong bến đỗ taxi ở đây nhận vị khách từ Phố Số 79?

      - gã tóc đỏ với cái mặt ác ác?

      - Tóc đỏ đúng. Nhưng mà mặt góc cạnh đúng hơn. Nhưng tôi đoán là hai chúng ta cùng ý.

      - Tôi có nhìn thấy. Chris Storey chở gã ta. Nhưng ông đừng hỏi tôi là chở đâu. Chris lái xe cho Garage Brown’s. Số của doanh nghiệp này có trong niên giám.

      - Cám ơn, - Phil . – Ông vừa giúp tôi nhiều lắm. – tìm số của Garage Brown’s và gặp được người trực điện thoại có giọng rất hốt hoảng ở đầu dây bên kia, người đầu tiên thể tin nổi là ta phải chuyện với viên sĩ quan đặc nhiệm và khăng khăng đòi gọi điện cho văn phòng FBI. Vất vả lắm Phil mới thuyết phục được người đàn ông nghe cho hết lời đề nghị của , trước khi gọi điện tới văn phòng.

      - Các ông vẫn giữ liên hệ với những người lái taxi qua điện đàm, đúng ?

      - Dĩ nhiên là chúng tôi giữ liên hệ.

      - Những người lái có báo cáo về trung tâm khi nhận khách?

      - Thỉnh thoảng họ mới làm điều đó. Ví dụ như ban đêm, khi họ trong những khu phố vắng. Giờ này .

      - Ông có người lái tên là Chris Storey?

      - Dĩ nhiên là chúng tôi có. Ông muốn gì ở ta?

      - Ông có thể dùng điện đàm cầu ta gọi về chỗ ông, nếu thời ta chở khách?

      - Dĩ nhiên là tôi có thể… nhưng mà tôi biết…

      - Ông đừng cho ta biết là FBI muốn chuyện với ta. Chuyện này quan trọng, ông hiểu ? Hãy cầu ta gọi đến văn phòng FBI và hỏi sĩ quan đặc nhiệm George Baker. Liệu ông có thể làm được điều đó ?

      - Tôi cứ nghĩ ông tên là Decker?

      - Dĩ nhiên là tôi tên thế, - Phil nhại lại người đàn ông, ca1iti1nh thận trọng của ta ra rất đáng khen, mặc dù vậy bây giờ nó khiến Phil muốn nổi điên. Dấu vết Brad Nelford thời vẫn còn nóng, và cứ mỗi phút trôi qua là nó lại nguội thêm chút. – Làm ơn vội lên cho! – thúc hối. – Nhưng ông đứng gì qua điện đàm cả!

      - Tôi hiểu rồi. Chris chở tay khách nặng ký.

      - Tôi thấy rồi, ông đoán ra mọi việc nhanh lắm, - Phil . dập máy xuống rồi thả nó ra ngay lập tức và gọi về trung tâm FBI. Chào George! Sắp tới đây chàng trai tên là Chris Storey gọi tới. Storey là lái xe taxi. Trước đây khoảng 20 phút ta nhận tay Brad Nelford lên xe tại Phố Số 79 khu Đông. Hãy thúc người lái xe ra ta đưa vị khách đó xuống đâu, rồi sau đó chuyền thông tin sang cho chiến dịch truy nã!

      - Được, - George . – Mình đoán là bây giờ cậu đến quảng trường Tomhkins ngay.

      - Dĩ nhiên là mình làm điều đó, - Phil . đặt máy, chạy ra ngoài tới chiếc xe công vụ và ngay lập tức lăn bánh về hướng nam.

      Khi còn cách đích chẳng mấy xa máy điện đàm lên tiếng. Giọng George Baker ra nghe vẫn bình thường như mọi khi. Chỉ những ai thân với lâu như Phil mới có thể nhận ra nét thúc hối.

      - Gọi cho mình qua điện thoại! – George Baker .

      Phil lúc đó đứng trong hàng chờ dài ngoằng ngoẵng trước đèn giao thông bên Đại Lộ Số . Cách đấy vài bước chân có cabin điện thoại công cộng đứng bên điểm đậu xe buýt. Phil ập ngọn đèn cảnh sát cùng chân hút của nó lên nóc ô tô rồi bạo liệt thúc cái xe chồm lên vỉa hè. Chỉ vài tích tắc sau chuyện với George Baker qua đường dây.

      - Người lái taxi vừa gọi tới, - George . – ta đưa vị khách đó xuống quảng trường Tompkins.



      • •

      Michael Kellin vẫn để nguyên lần xích bảo an bên trong khi mở hé cửa ra. – Ô, ra là , Jerry. Mời vào đây! – tháo xích sắt.

      - Tôi đến hơi sớm chút, - tôi . – Tôi hy vọng làm phiền . Phil Decker có thể đến muộn hơn.

      - Tôi rất mừng là đến đây, - Kellin , giọng của người vừa trút được gánh nặng. – ngồi xuống ! Tôi chỉ pha cà phê chút thôi. Hay muốn uống thứ gì khác?

      - Cà-phê là ổn rồi, - tôi và tìm chỗ ngồi bên cửa sổ. Căn hộ được bày biện theo hướng nhấn mạnh tính đàn ông, có những đồ trang trí rườm rà bình thường. Dưới nền phòng đặt vài tấm thảm bằng lông thú. tường treo những tấm ảnh phóng to, tôi biết đây là Kellin tự chụp. Đa phần ảnh chụp máy bay và người nhảy dù. vài bức ảnh chắc mới được chụp gần đây. Chúng chỉ ra chàng Kellin tấm ván trượt sóng, giữa mặt biển nổi bão. Vậy là lại vừa có thêm nỗi ham mê mới, kể từ đợt công tác trước của hai chúng tôi.

      Khi có tiếng chuông reo bên cửa, tôi nhìn xuyên qua khoảng tường hở về phía căn bếp, nơi Kellin loay hoay với nước sôi.

      - Chắc là Phil Decker, - . – làm ơn mở cửa cho ấy vào nhé?

      Mặc dù có thoáng chút ngạc nhiên sao Phil lại có thể đến nhanh tới thế, nhưng tôi cũng chẳng suy nghĩ nhiều. Chắc là gặp được gác Randy và quay xe trở về Midtown ngay lập tức.

      Tôi đứng dậy, bước ra phía cửa. Tôi cũng đoán là Phil lên thẳng này, giống như tôi. Vậy là tôi mở cửa căn hộ.

      Tôi nhìn vào gương mặt lạ, phải mặt Phil. Thế rồi từ khoảng sáng mờ mờ của hành lang có nắm đấm lao vọt tới. Tôi chỉ kịp giật đầu sang trái vài centimet. Như thế chưa đủ. Những khúc xương rất cứng đâm sượt quanh cằm tôi và như muốn dứt tai tôi ra. Thế rồi mép cửa đập thẳng vào đầu tôi, và tôi lảo đảo va vào tường.

      Ngay trong tích tắc sau đó kẻ lạ mặt nhao vào căn hộ của Kellin. Cửa sập vào ổ. Tôi cảm nhận cánh tay xiết ngang cổ họng và nòng súng lục thúc mạnh vào thái dương tôi.

      - Tôi rất tiếc, bạn, tiếc đấy. Nhưng Donna mang lại may mắn cho cả hai chúng ta… Quên nó

      Quên nó ! lời dối lừa trắng trợn. Bởi chính trong phút đó, Brad Nelford kéo cần khóa của khẩu súng lục ra phía sau.



      • •

      Phil có cảm giác lạnh đến từng đầu ngón tay. Tai chợt ù khi hiểu ra ý nghĩa của thông tin mà George Baker vừa chuyển tới.

      Brad Nelford về phía quảng trường Tompkins. là gã muốn tới thăm ai, và cũng là gã thêm vào vệt đẫm máu của gã dấu chân đẫm máu nữa.

      Bởi Chris Storey, người lái xe taxi, đưa vị khách của ta xuống đúng góc công viên bên Phố Số 7. Chỉ vài bước chân thôi là đến ngôi nhà nơi Michael Kellin sống.

      - Mình gửi nhóm đến, - George Baker , người dĩ nhiên cũng rút ra kết luận như Phil.

      - Tốt, -Phil . – Nhưng mình vào trước.

      - Phil …

      - Đừng nữa, khốn kiếp! Thằng đó chần chừ chút nào đâu. Chần chừ làm gì? Kellin có vũ khí và hoàn toàn ngờ đến điều gì. Jerry hoặc có mặt rồi, hoặc tới mà hề đề phòng gì cả. Người duy nhất có thể làm được chút gì bây giờ là tôi!

      - Mình có thể gọi cho Kellin dưới cái cớ nào đó.

      - Dưới cớ nào?

      - Bất kỳ thứ gì. câu hỏi để thẫm tra. Mình có thể tự xưng là bạn hay là phóng viên. Chỉ nhằm mục đích khuấy đảo tên sát thủ, cầm tay nó lại Nhưng đó là quyết định của cậu.

      - Được. Hãy xưng là nhân viên của cơ quan ấy và rằng có ngay người mang thư tới.

      Phil ném ống nghe xuống giá. Rồi co cẳng chạy hết tốc lực, để xe đứng tại chỗ. Từ đây cho tới góc phố Số 7 bên quảng trường Tompkins chỉ có duy nhất dãy nhà. Dù có bật cả đèn đỏ lẫn còi hú lên, ô tô cũng thể đưa tiến nhanh hơn chạy bộ.



      • •

      Tiếng Click sắc sói khi khóa an toàn được giật về vang lên to trong tai tôi. Nhưng thể để kẻ khác găm viên chì vào não bộ tôi dễ dàng tới thế. Thời gian quá gấp. Tên sát thủ có vẻ cương quyết chịu sa vào bất kỳ cuộc tranh luận nào.

      Tôi gắng buông người rơi xuống, nhưng cánh tay của gã kia siết ngang cần cổ tôi như vành đai sắt. Bàn tay phải của tôi lúc đó đặt báng súng, nhưng cơ thể Nelford áp sát phía sau và tôi xoay người được. Những gì được viết lại ở đây gây ấn tượng như những cân nhắc lâu dài, trong chỉ là những suy nghĩ xuyên qua não bộ nhanh như chớp.

      thể buông người rơi xuống.

      La hét cũng được ích gì, vì gã trai kia xiết cho tôi muốn ngộp thở.

      Chỉ còn lại khuỷu tay.

      Tôi thúc khuỷu tay về phía sau và đồng thời cong gập lưng xuống. Người Nelford dài hơn tôi tưởng. Chân gã vẫn bám đất. Nhưng dù sao tôi cũng nghe thấy hơi thở rít ngang tai mình. Tôi vừa làm gã đau.

      Nhưng đầu nòng súng lục chỉ rời ra khỏi thái dương tôi thoáng.

      Giờ nó lại thúc vào chỗ cũ.

      Chính trong lúc đó, chuông điện thoại reo lên.

      Nó kêu tương đối to. Kellin là người ngủ say, có lần kể cho tôi nghe như thế. Vì thế mà đặt nấc chuông to hơn người khác.

      Tiếng chuông kêu có lẽ chẳng đủ sức đánh lạc hướng tên sát thủ khỏi mục đích của gã. Nhưng mà Kellin, người hoàn toàn chưa biết tới kiện bên cánh cửa, từ trong bếp gọi vọng ra lớn: - Để tôi nhấc máy, Jerry!

      Tôi cảm nhận gã đàn ông sau lưng tôi hơi đờ người ra vì bất ngờ.

      Bởi gã xiết chặt cần cổ và qua đó ngăn cho tôi trụt người xuống, nên tôi tung cú đá hậu mạnh hết sức mình.

      cú đá trời giáng, được sinh ra từ cơn tự vệ thuần túy.

      Cảm giác đau đột ngột khiến tên giết người đờ đẫn mất phần giây đồng hồ. Tôi thúc khuỷu tay lần nữa vào bụng . Giờ tôi có thể buông người thụt xuống.

      Từng tế bào cơ thể tôi như cảm nhận được tiếng nổ khi Nelford cong ngón tay theo phản xạ và lửa cùng đạn chì vọt ra từ nòng súng. Viên đạn cùng khối thuốc nổ bị cháy khiến tóc tôi kêu lách tách. Viên đạn đập vào mảng kim loại đứng chênh chếch, biến dạng, trở thành mảng xuyên ngang vào khuôn giá gỗ để mở, đập nát loạt cốc cổ vô giá, vốn do người tình cũ tặng cho Michael Kellin.

      Kellin, người vừa bước từ trong bếp ra với bình cà phê nóng trong tay, xoay phắt về. Chuông điện thoại vẫn reo.

      Tôi đập mình xuống nền phòng. Tư thế của tôi bây giờ chẳng lấy gì làm hào hùng, nhưng tôi vẫn sống.

      Brad Nelford nhảy qua người tôi về phía Kellin. Gã giơ súng. Kellin phản xạ tuyệt vời. ném ngay bình cà phê vào tên sát nhân.

      Chuyển động đó phải được gọi là tuyệt vời từ hướng nhìn của Kellin, vì bình cà phê bằng thủy tinh đập đúng vào đầu Nelford. Nhưng rồi nó rơi xuống đất. Lúc đó nó mới võ ra, và cà-phê nóng rẫy bắn tóe ra bốn hướng. Tôi chỉ kịp đưa hai cánh tay lên che đầu thứ nước bỏng rẫy xuyên qua lần áo veston.

      Hai tiếng súng trầm đục trong căn phòng thúc cho tôi nhảy dậy. Nelford bắn về phía Kellin, lúc này lao là là bay trở lại căn bếp, tìm nơi nấp.

      Nelford nhảy theo. Chắc gã tin xử lý xong tôi, bởi tôi thỉu xuống nền đất trong cánh tay đúng vào thời điểm gã bóp cò.

      tiếng động, tôi đứng dậy. Chỉ sau bước dài tôi đến sát lưng Nelford. Tôi nhìn thấy gã giơ súng lên ngắm vào Kellin, lúc này còn chỗ trú nữa. Chỉ còn khả năng phanh cấp tốc. Nelford cảm nhận có mặt của tôi. Nhưng khi gã xoay về quá muộn, tôi kịp giảm bớt lực của bàn tay đập xuống.

      Báng súng lục của tôi đập trúng thái dương gã. Brad Nelford gục xuống như con bò mộng bị chặt ngang chân. Tôi đá vào khẩu súng vừa rơi khỏi tay gã. Khẩu súng tròng trành trượt về phía Kellin, nhặt nó lên.

      Chuông điện thoại vẫn tiếp tục reo. Vì nó ở trong vòng tay với của tôi, nên tôi nhấc ống nghe lên.

      - Ông Kellin, - giọng vang lên trong ống nghe, - tôi gọi tới theo lệnh của ủy viên công tố…

      Tôi nhăn trán. Rồi tôi : - George, đồ lưu manh cáo già nhà cậu, cậu giở trò giả nghề giả nghiệp từ bao giờ thế hả?

      - Jerry? Jerry, phải cậu ? Cậu được ?

      - Được chứ!

      - Nghe ngày! Brad Nelford vừa cho xe đưa tới quảng trường Tompkins. Có thể gã muốn giết Kellin. Phil cũng đường…

      - Im nào! – Tôi cắt lời bạn tôi, người hối hả chuyển thông tin. - Lẽ ra cậu phải gọi sớm hơn hai phút mới phải.

      - Như thế có nghĩa là gì? – George hỏi.

      - Nelford nằm dưới chân bọn mình đây. Mike Kellin quan tâm tới gã và có thể ngay liệu gã có cần bác sĩ hay .

      Kellin nhìn tôi. - Bị rách da, nhưng vết thương sâu, gã tỉnh lại thôi. Tôi nghĩ là bác sĩ có thể chạy chữa cho gã sau, lúc vào phòng giam.

      - Cậu nghe chưa, George? Bọn mình đưa nó vào lỗ.

      - Bao giờ các cậu cũng tiến trước mình nửa bước. À mà phải, suýt nữa mình quên tin tốt – Phil tới ngay đấy.

      - Cái đó cậu rồi.

      - Thế hả? Mình thậm chí còn cử cả nhóm tác chiến lên đường rồi.

      - Gọi họ trở lại , và ra lệnh ngưng truy nã Nelford. Người dân trả thuế cám ơn cậu vì phong cách tiết kiệm đấy. Mình gọi lại sau.

      Kellin dựng thân hình của gã Brad Nelford còn đờ đẫn lên cao rồi khuân gã vào chiếc ghế bành. Tôi ném còng tay của mình về phía rồi ra cửa, vì chuông vừa reo.

      Khi cơn sốc sau vụ đánh úp của Nelford có phần dịu xuống, tôi đành lòng bỏ lỡ trò vui.

      - Ai thế? – Tôi giả giọng hỏi qua cánh cửa đóng kín.

      - Tên tôi là Decker! – Phil lớn. – Tôi là người đưa thư của văn phòng ủy viên công tố. Tôi phải đưa lá thư cho ông.

      Tôi mở cửa và cười với Phil, đứng bên ngoài trong tư thế rất căng thẳng, sẵn sàng nhao vào cuộc vật lộn.

      Tôi bước sang bên, cho Phil nhìn thấy cái thân người lả xuống trong ghế bành.

      Phil thở phì ra. - Cậu chả bao giờ để lại cho người khác chút gì, - than vãn.




      Jerry Cotton


      CUỘC TÌNH CUỐI CỦA CHÀNG CẢNH SÁT

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 9




      Chúng tôi còn kịp nghỉ ngơi chút. Kellin băng bó sơ sài cho Nelford và đun bình cà phê mới. Thậm chí bàn có cả bánh Sandwich. Tôi dán xuống sau tai mình tiếng băng mới. Cái áo veston thấm đẫm cà phê của tôi được treo tay ghế. Tôi quan sát Brad Nelford, gã bây giờ ngồi chồm hổm trong ghế bành và nức nở biết ngượng.

      Khi gã tỉnh lại, tôi cho gã biết về quyền lợi của gã. Tôi nhắc cho gã biết là gã bị nghi giết chết Donna Hayes và bị bắt giam. Rồi tôi mời gã khả năng được đưa ngay lập tức vào nhà tù điều tra của liêng bang, để cho bác sĩ nơi đó khám xét kỹ lưỡng hơn.

      Mike Kellin chăm sóc đôi chút cho vết thương đầu tên sát thủ, nhưng Nelford tỏ ý đồng tình với mọi đề nghị mà chúng tôi đưa ra.

      Kể từ đó, gã cứ ngồi nức nở mình mãi thôi.

      Gã nhắc nhắc lại biết bao nhiêu lần câu thề thốt rằng gã muốn giết ai. Gã muốn giết chồng của Donna. Gã muốn đánh chết Donna. Và Kellin, người gã hề quen biết, gã lại càng muốn giết.

      Gã đàn ông bây giờ quả tấn tuồng thảm thiết.

      Dĩ nhiên, chúng tôi tận dụng cơ hội để lọc ra mọi thứ thông tin mà gã biết, sau khi gã khẳng định là gã cầu phải có luật sư.

      Gã kể về chuyến viếng thăm bất ngờ của tay luật sư Frank Sorino, kẻ đưa gã ra nhà tù điều tra chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ với món tiền chuộc lớn. Sorino thúc hối rằng gã chỉ được an toàn nếu Donna bao giờ còn ló mặt ra. Sau hồi chần chừ giả bộ, gã luật sư sau đó để lộ cho gã biết địa điểm dừng chân thời của Donna cùng cái tên giả của ta và trao cho gã vé máy bay về New York cùng sấp tiền.

      - Và hề hỏi tiền đó ở đâu mà ra? – Mike Kellin hỏi với vẻ ngạc nhiên

      - Có, dĩ nhiên tôi muốn biết. Ông ta , tôi có bạn bè ở Las Vegas, nhưng họ muốn lộ danh.

      Brad Nelford quả có quan hệ với Las Vegas. Nelford tự xưng là diễn viên, chắc chắn đó là lời phóng đại. Gã có thời gian làm công nhân cho trường quay ở Hollywood, và tham gia trong vài bộ phim trong tư cách diễn viên quần chúng, sau đó thậm chí trong tư cách người đóng thế trong những pha mạo hiểm. Vì có cơ hội nhận được những vai diễn ra hồn mặc dù có học chút ít về diễn xuất và thanh nhạc, sau đó gã bỏ về Las Vegas. Người ở đó cũng coi gã là diễn viên tài năng, vậy là gã hát và làm trò trong những bar rượu hạng ba. Chính trong thời gian đó gã gặp lại tại Los Angeles.

      Nelford cố gắng tìm từ ngữ, nhưng biết phải miêu tả mối liên quan ra sao.

      - Vậy là bay về New York, - Phil giúp .

      - Vâng, vâng.

      - dừng chân trong căn hộ khác, - Phil . – Làm thế nào có được căn hộ đó?

      - Cái đó là do Sorino sắp xếp, - Nelford lý nhí, hầu như hiểu nổi.

      - Sao kia? Gã bay cùng hả?

      - , . Ngay sau khi máy bay hạ cánh tại New York, tôi được loa gọi tên. Có cú điện thoại chờ sẵn.

      - Có phải đó là cú điện thoại địa phương?

      - . Chúng tôi bị trung tâm nối máy ngắt hai lần.

      - Tiếp tục! – Phil thúc hối.

      - Người đàn ông đó là tôi tìm thấy bì thư bên quầy của Hãng Hàng Quốc Tế, trong bì thư có chứa ba chìa khóa. Sau đó ông ta dặn dò tôi rất kỹ, chìa khóa đó dành cho ngôi nhà nào và những căn hộ nào.

      - ra , mấy chiếc chìa khóa đó là của những ổ khóa nào? – Phil hỏi, tay đút vào cặp rút ra danh sách.

      - Ông biết rồi còn gì, - Nelford lý nhí.

      - Chúng tôi muốn nghe . chính xác.

      - chìa khóa cho cửa vào nhà số 388 Phố Số 79 khu Đông, căn hộ của Cora, và chiếc chìa khóa thứ ba cho căn hộ 6E.

      Phil nhìn trong danh sách. – Căn hộ này được Muriel Hull thuê từ ba năm nay. Ở đây có dữ liệu chi tiết hơn.

      - Căn hộ đó có người ở thường trực, - Nelford trầm giọng .

      Sau khi trao đổi bằng ánh mắt với Kellin, tôi gọi cho George Baker và cầu tìm thông tin về Muriel Hull. George hứa gọi trở lại, tôi đặt máy.

      Brad Nelford bình tĩnh lại chút. Chúng tôi hỏi gã làm thế nào mà gã nẩy ra sáng kiến muốn giết chết Mike Kellin. Gã kể về kẻ gọi điện tới, nhưng đó phải là kẻ gọi tới phi trường và chuyện với gã ở đó.

      Cái đó tôi cũng tin lấy giây đồng hồ. Bởi Mike Kellin phải là vấn đề của gã đàn ông Las Vegas. Nếu có chăng nữa, cũng chỉ là vấn đề hạng hai.

      Tôi xem xét khẩu súng mà Nelford tìm thấy trong hốc giấu ngầm tại căn hộ kia. Đó là khẩu Ruger P38 còn mới. Chúng tôi lần ngược con đường của món vũ khí này. Nhưng tôi tin chắc là con đường đó dẫn vào ngõ cụt.

      Mike Kellin rót cà phê. Bàn tay Nelford còn run bần bật như ban nãy nữa. Tôi tháo còng cho bàn tay trái, để gã uống được đôi chút. Bàn tay phải bị tôi còng vào lưng ghế. Phil và tôi trao đổi thông tin. Rồi chúng tôi hỏi Kellin về những chi tiết còn thiếu. Nhất là ấy quen Cora Donna bằng cách nào, bao giờ và có thể là qua ai?

      Giống như tất cả những người , có thể miêu tả lại cuộc gặp gỡ đầu tới từng chi tiết nhất. Nhưng vì chúng tôi chẳng mấy quan tâm đến khía cạnh lãng mạng, nên chỉ nêu những dữ liệu chính.

      - Tôi là thành viên của câu lạc bộ lái máy bay thể thao tại Freeport, khu Long island. Tôi cũng làm chủ phần của chiếc máy bay ở đó. Cách đây đúng bốn tuần, chúng tôi mở tiệc kỷ niệm hàng năm trong mùa thu. Lúc đó ấy…

      - ấy là thành viên sao?

      - , dĩ nhiên là . Lúc đó ấy mới đến New York được vài ngày. ấy đến dự tiệc cùng nhiếp ảnh gia. Ít nhất ấy cũng khẳng định như thế. Và vì ấy thích bữa tiệc đó, nên ấy ở lại tham dự.

      - Dĩ nhiên là quen nhiếp ảnh gia đó. Và cũng thấy kỳ lạ trước việc đó lại sán lại gần ?

      Kellin duỗi cằm về phía trước. – . Tại sao ngày đó tôi phải nghi ngờ mới được chứ? Trong bữa tiệc có khoảng hai, ba phóng viên nhiếp ảnh của các tờ báo địa phương. Tôi mang về cho câu lạc bộ phần lớn những chiến thắng và huy chương. Suốt thời gian đó người ta thay nhau chụp ảnh tôi. Rồi đám nhà báo kéo , và Cora ở lại. Cora, chắc bây giờ tôi phải sửa lại là Donna, kể với tôi rằng ấy quan tâm đến thời trang và nhiếp ảnh, và muốn làm việc độc lập trong hai ngành đó. Chuyện có ấy quen các nhiếp ảnh gia cũng là điều dễ hiểu!

      - Được, - tôi , bởi tôi chờ đợi điều gì khác. – Greenfield có vô tình là thành viên trong câu lạc bộ đó ?

      -

      - Ông ta có biết là buổi tối hôm đó có mặt ở chỗ đó ?

      - Có. Trong thời gian đó tôi phải trực và luôn phải báo trước mỗi khi đâu khác.

      Greenfield, Greenfield!

      Chuông điện thoại réo lên. Kellin cầm ống nghe và đưa nó sang cho tôi. Đầu dây bên kia là George Baker.

      - Trong kho ngân hàng dữ liệu có thông tin nào về Muriel Hull. Tên ta có đứng trong ngôi nhà số 388, Phố Số 79 khu Đông trong niêm giám điện thoại. Nhưng cũng chỉ có thế thôi. Mình gọi điện đến hãng điện thoại hỏi xem số máy đó được trả tiền theo đường nào. Tiền được chuyển qua bưu điện. Người gửi tiền Muriel Hull.

      Tôi cám ơn rồi đặt máy. Trầm ngâm, tôi tiếp tục ngắm nghía cái máy điện thoại. Máy điện thoại này có cặp tai nghe cùng. Tôi nghĩ đến kẻ lạ mặt gọi điện cho Nelford, và nghĩ đến chuyện tôi muốn tới thăm Greenfield. Rất có thể giờ vẫn còn kịp cho chúng tôi thúc bách ngài ủy viên công tố thêm chút. Tôi hỏi số của Kellin, cầu và Phil im lặng rồi ra hiệu cho Nelford chụp tai nghe cùng lên đầu. Rồi tôi gọi số.

      Đầu tiên, tôi va phải thái độ cấm cảu của Laura Oliphant. Chỉ sau khi tôi sắc giọng đòi hỏi, ta mới với ông Greenfield được miêu tả là bận bịu ngoài sức tưởng tượng.

      - Vâng, ông Cotton, - cái giọng the thé của Greenfield vang lên. – Tôi có thể thống nhất được với sếp của là các tiếp tục can thiệp vào chuyện riêng của tôi nữa.

      - Có vài việc thuộc diện liên bang, có phần nào liên quan đến khu vực của ông, và tôi nghĩ chỉ cần cuộc chuyện ngắn cũng có thể mang lại kết luận ràng, thưa ông, - tôi . Rồi tôi ném ra khúc xương, khúc xương mà chắc chắn ông ta phải ngoạm lấy, dù ông ta có là con chó cong đuôi hay là . – Có vài dấu vết ràng dẫn về hướng Las Vegas, và ràng nằm trong lĩnh vực điều tra của FBI. Tôi chẳng hiểu tại sao Kellin ngày trước lại để ý đến những dấu vết này.

      Greenfield im lặng thoáng. Chắc ông ta muốn gây ấn tượng là ông ta lật lật trong quyển lịch của mình. Rồi ông ta hỏi: - Bao giờ muốn tới đây?

      - Tốt nhất là ngay lập tức. Điều đó có nghĩa là nửa tiếng nữa.

      - chờ , vậy tôi phải hoãn cuộc hẹn khác. Đến 6 giờ 30 tốt hơn.

      Đối với tôi như thế cũng thuận lợi, vì qua đó tôi có nhiều thời gian hơn cho vài động tác chuẩn bị. Tôi chấp nhận thời điểm rồi đặt máy. Trong suốt cuộc chuyện, tôi gắng chủ ý nhìn Brad Nelford. Khi bây giờ xoay về, tôi nhận được câu trả lời.

      Nelford gật đầu. – Chính là ông ta, - gã khẽ.

      - Greenfield! – Kellin nghiến răng, - Đồ chó đểu! Ra chính gã đẩy tay này, - trỏ về phía Nelford, - giết Cora và tôi! Phải gã làm điều đó ?

      - Đầu tiên, chắc người ta chỉ định đẩy người đàn bà đó tới bên để chuẩn bị sẵn sợi dây thòng lọng, phòng dùng đến trong thời điểm thích hợp.

      Suy cho cùng, ta bị bắt giam vì tội giết người rồi sau đó bị truy nã về tội xúi giục giết người. Người ta có thể hủy hoại uy tín của bất cứ lúc nào. Nhưng sau đó tiến quá nhanh, và người ta quyết định chọn giải pháp mạnh tay hơn, cụ thể là vụ tấn công ở khách sạn Atlantis. Khi vụ đó thất bại, người ta thể ngay lập tức tổ chức vụ thứ hai. Bọn người ở Las Vegas sau đó cùng Greenfield nghĩ ra câu chuyện phức tạp với Nelford và Donna. Ngay cả khi nỗi nghi ngờ chống lại , Mike, thể đứng vững, muộn nhất là đến ngày mai tất cả mọi người cũng chính thức được biết là che giấu cho người đàn bà bị truy nã.

      Đó là những dòng suy nghĩ điên khùng, xuất phát từ nỗi tuyệt vọng. Nhưng mọi dữ liệu đều rất khớp với nhau.

      Tôi tiếp:

      - Nhưng rồi sau đó Greenfield biết là chúng ta hiểu sát thủ là kẻ nào và thậm chí còn truy nã . Ở vị trí của mình, gã thừa sức biết tên những kẻ bị truy nã. Gã biết Nelford ở đâu, gã có thể ép tay này lên đường thêm lần nữa và giết người thêm lẩn nữa. Nếu Nelford bắn chết được , trông nó giống cuộc báo thù. Dù người ta có tóm được chăng nữa, cũng chẳng ai tin lời khai của Nelford về những người lạ mặt dùng điện thoại điều khiển gã giết người. Rất có thể rồi đến thời điểm thích hợp, phía bên kia cho người loại trừ . Chắc là qua vụ tai nạn được dàn dựng. Và những hồ sơ về vụ án Donna và David Hayes cũng như vụ án Mike Kellin được khóa lại.

      Phil lắc đầu. – Mình hoàn toàn nhìn thấy bằng chứng nào đủ sức đứng vững trước tòa.

      - Mình cũng chưa thấy, - tôi dịu giọng đáp. – Nhưng mà dù sao, cũng là điểm tốt nếu người ta biết chính xác đối thủ của mình là ai, đúng ? - quá hiển nhiên, còn thêm thắt gì được. Phil im lặng.

      Dĩ nhiên, bản thân tôi cũng nhận ra những vấn đề mà chúng tôi phải đối mặt khi muốn chứng minh tham gia trầm trọng, kể cả việc xúi giục giết người. Tôi vẫn chưa quên Mario Aldina, kẻ mà tôi nghi là thủ phạm giết chết Elmar Rank.

      Chúng tôi chỉ có thể dẫn bọn đàn ông đó ra tòa, nếu chúng tôi đẩy được bọn chúng tới bước đường cùng, thúc cho chúng hành động thiếu cân nhắc trong tuyệt vọng, hay còn tốt hơn nữa là tóm quả tang chúng tại trường.

      Những khả năng giờ còn quẩn quanh trong óc não tôi vừa ngoắt ngoéo mà vừa chắc chắn.

      Tôi xoay sang phía Nelford: - Ra kể chìa khóa của căn hộ 6E và 8C vào chỗ dấu ngầm bên lò sưởi. Người ta ra lệnh cho để lại dấu vết nào trong căn hộ. Vì thế mà thậm chí găng tay suốt thời gian đó. Tôi đoán rằng người thuê nhà có thể sợ là bọn tôi tìm được ra dấu vết của họ khi chúng tôi bắt đầu tìm kiếm ở đó. Ý sao, Nelford?

      - Cái đó tôi biết. Trong căn hộ có đồ vật gì riêng tư. Chỉ có vài két rượu sâm banh và thức ăn trong tủ lạnh.

      Chắc chắn là trong căn hộ đó bây giờ đầy rẫy dấu vân tay của người sử dụng. Vì thế mà kẻ thuê nhà thể mạo hiểm để bị nhận diện, nếu người ta suy ra mối liên quan giữa gã và tay giết người. Bởi kẻ thuê căn hộ 6E, dù là đàn ông hay đàn bà, cũng chính là kẻ thuê căn hộ cho Donna Hayse và cho làm thêm chìa khóa.

      - Phil, hãy gọi gọi O’Malley và cầu ta gửi chìa khóa chính lại chỗ gác nhà Randy Edwards.

      - Cậu muốn…

      - Chắc chắn bây giờ mình đáng được nghỉ ngơi chút rồi. Mà nghỉ ngơi trong căn hộ bí hiểm của nàng bí hiểm có tên là Muriel Hull cũng hay như ở những nơi khác thôi. M.H.., như nữ điệp viên nổi tiếng Mata Hari. – xong, tôi cười. Nhưng Phil cười. – Thôi nào, làm gì mà ra mặt nghiêm trọng thế. Chắc chúng nó ngay lập tức gửi thêm sát thủ nữa đâu! Bọn mình giữ liên lạc thường xuyên.

      - Chắc chắn rồi. Còn mình được hưởng cái vinh dự đưa người này ra chỗ khác hả? – Phil chỉ về Phía Brad Nelford.

      - Gọi cho George , bảo cho người đến đón gã! Nhưng mà lo lắng sao để hôm nay gã được tiếp khách. Nãy giờ gã biết quá nhiều rồi.

      Chúng tôi còn cách nào khác, bởi chúng tôi còn thời gian để kiếm nơi bàn bạc kín đáo hơn.



      • •

      Đúng 6 giờ 30, tôi bước vào căn phòng trước văn phòng của ủy viên công tố Greenfield. Laura Oliphant lạnh lùng cầu tôi chờ chút, ông Greenfield cuộc chuyện rất quan trọng qua điện thoại. Vậy là tôi ngồi lên chiếc ghế cứng quèo và có cơ hội để quan sát bà Oliphant, nàng có cái giọng the thé được Mike Kellin gọi là phù thủy.

      Laura Oliphant trẻ hơn là tôi tưởng, có thể chỉ ngoài 30, cùng nhất là 35. ta đeo cặp kính có mắt kính hình ô-van, còn nhấn mạnh hơn nữa cái vẻ ngoài công sở tẻ nhạt. Nếu thân hình ta có đường nét hấp dẫn nào chúng đều được ta giấu kín bên dưới tà váy len lù đù, vô vị.

      Đột ngột, cánh cửa dẫn sang phòng làm việc của Greenfield mở ra, và công tố ủy viên bước thẳng về phía tôi. Ông ta chìa cả hai bàn tay ra và mỉm cười như chính trị gia tiến đến bước cuối cùng trong cuộc chiến tranh cử. nụ cười mở rộng và trung thực, nhưng có vẻ hơi gắng sức.

      - Ông Cotton! Tôi nghe kể rất nhiều về ông, nhưng chưa bao giờ được hưởng thú vui làm việc cùng với ông, mời ông vào đây! Ông muốn uống gì ? Cà phê? Trà? Hay cái gì mạnh hơn?

      - Cám ơn, tôi uống gì cả.

      Greenfield trở về phía chiếc ghế bành bọc da.

      Tôi ngồi xuống, ông ta ngồi đối diện với tôi. chiếc bàn thấp có để xì gà và thuốc lá. Tôi rút điếu thuốc lá khi Greenfield mời.

      - Tôi chủ đích chống lại ông khi liên lạc với sếp của các ông và than phiền về ông cũng như đồng nghiệp của ông. Đây là chuyện rạch ròi về lãnh vực hoạt động. Nếu người ta vạch ranh giới ràng ngay từ đầu, người ta thể làm việc cách hiệu quả.

      - Với đồng ý và phê duyệt của cấp , tôi quan tâm đến nhiều khía cạnh của các vụ án mà Kellin xử lý, - tôi thẳng vào chuyện chính, bỏ qua tất cả những lời dẫn đầu của Greenfield. – Tôi phải , tôi rất ngạc nhiên. Tôi rất nhanh chóng va phải số tên người. Như qua điện thoại, tôi ngạc nhiên hiểu tại sao Kellin phát ra chúng. Có thể lý do nằm ở chỗ ấy có được các bộ máy thông tin như của chúng tôi, và vụ ám sát hụt chắc chắn đẩy mọi việc tiến nhanh hơn.

      - Tôi vẫn chưa nhìn ra lý do khiến cảnh sát liên bang phải quan tâm đến những vụ đó, ông Cotton, - Greenfield vui vẻ .

      - Chúng tôi nghi thủ phạm giết chết Elmar Rank là tay sát thủ chuyên nghiệp xứ New Jersey. Tay sát thủ này có quan hệ với người đàn ông tên là Domenica Riccardi bây giờ lại hoạt động tích cực trở lại, cụ thể là cộng tác với số nhân vật từ Las Vegas, bọn người muốn cuỗm những món tiền rất lớn của thành New York. Mối quan hệ Riccardi với Las Vegas chưa được chúng tôi chứng minh chắc chắn, nhưng chúng tôi tiến bước. Chúng tôi là cảnh sát liên bang. – Tôi nhắc nhở ông ta, bằng giọng cũng rất vui vẻ và thân thiện.

      - Tất cả chỉ có thế thôi sao? – Greenfield ngạc nhiên hỏi.

      - Chưa, chưa hết. Cora Dixon bị giết chết, vốn là bạn của Kellin, tên là Donna Hayes. Trước khi lấy David Hayes, ta nhảy thoát y và biểu diễn tại Las Vegas. Kẻ giết ta, tay có tên là Brad Nelford, cũng có những mối quan hệ với Las Vegas. Bọn gangster xứ Las Vegas dụ gã lên New York để giết chết Donna Hayes và khoác tội giết người đó vào cổ Kellin.

      - Tôi có nghe gã ta bị truy nã, - Greenfield vẫn bình thản.

      - Chúng tôi tóm được gã rồi, - tôi .

      Dĩ nhiên, vừa tôi vừa quan sát Greenfield rất chăm chú, nhưng lộ cho đối phương được biết. Gã đàn ông kiểm chế bản thân rất tốt. Gã hề để lộ kể cả nét giật nhất gương mặt, cho biệt liệu thông điệp vừa rồi có làm gã đau hay .

      - Gã ta muốn giết Kellin. Ông thử tưởng tượng xem! Rất may mà lúc đó tôi có mặt trong căn hộ của Kellin. Vì thế mà chúng tôi có thể khuất phục được gã. Gã bị thương.

      - Kellin?

      - , Nelford. Tới sáng mai người ta mới có thể hỏi cung gã được. Nhưng dù sao chúng tôi chuyện được với gã vài ba câu. Tôi đoán rằng gã biết chẳng nhiều. Gã hề quen biết những người thúc gã giết Donna Hayes và Mike Kellin. Nhưng ông thử tưởng tượng xem, gã sống trong căn hộ cùng tòa nhà với nạn nhân.

      Greenfield lắc đầu, ra vẻ ngạc nhiên rất đạt.

      - Gã muốn công khai cho chúng tôi biết căn hộ đó là căn hộ nào. Nhưng thể nào chúng tôi tìm ra. Chắc là khó khăn lắm đâu. Và khi tìm đến đúng căn hộ rồi, chúng tôi cũng nhận diện được người thuê nó. Bởi chắc chắn con người đó có lần bị những người khác nhìn thấy. Những người gác cửa vốn là những người tinh mắt. Ngoài ra thể nào ở đó cũng có dấu vân tay.

      - Chắc chắn thế. Nhưng ông muốn làm cách nào mà tìm ra nó?

      - Ô, việc rất đơn giản mà. Nelford nhận được lệnh để lại chìa khóa trong căn hộ đó. Nhưng gã làm. Gã muốn quay trở lại lần nữa. Gã còn để lại túi du lịch của gã trong căn hộ. Ít nhất chúng tôi cũng đoán như vậy. Tôi nghĩ, đến sáng sớm ngày mai là chúng tôi có thể xin được giấy phép của tòa án, và dùng chiếc chìa khóa đó thử từng căn hộ trong ngôi nhà, ở tất cả những nơi khi bấm chuông có người lên tiếng. – Tôi mỉm cười. - Rất ngu, cái nhà đó ghi số vào chìa khóa.

      Greenfield cũng mỉm cười. - Người ta đúng là thể có được cả ông lẫn bà cùng lúc, - gã đưa vào câu phương ngôn chẳng mấy thông minh. - Nếu có thể giúp đỡ ông, ông Cotton, tôi rất sẵn lòng. từ lâu tôi nghi rằng các doanh nghiệp xây dựng lừa đảo ở đây có quan hệ tới các tiểu bang khác. Nhưng tôi cố ý tìm cách đào cho tới tận gốc rễ cái ác ở đây. Nhờ vào hoạt động của Kellin, chúng tôi vài thành công. Dù chỉ là những thành công , nhưng cũng còn hơn . Sau này chúng tôi tiếp tục lần theo những sợi chỉ đó...

      - Những sợi chỉ về Las Vegas, - tôi khô khan.

      - Đúng, cho tới tận Las Vegas. Nhưng theo như tôi hiểu lời ông vừa , ông vẫn còn chưa nắm được trong tay những bằng chứng cần thiết.

      - trong những lý do cho chuyện này là bởi vì trong văn phòng của ông có lỗ rò rỉ, ông Greenfield.

      Hai con mắt màu xám biến thành hai tảng băng lạnh giá. - Nếu ông với ban nội vụ, chắc ông phải biết rất là người ta điều tra theo hướng đó, nhưng vẫn chưa có những điểm tựa cụ thể. Rất có thể Kellin tưởng tượng ra chuyện .

      - Có thể, - tôi đồng tình. – Nhưng chúng tôi tiến rất nhanh. Suy cho cùng, chúng tôi thúc được số người tới bước cùng đường.

      Greenfield phẩy ta ra vẻ khinh thị. – Đó là những kẻ tay chân cấp dưới, những kẻ chẳng biết gì.

      - Cứ mỗi đứa lại dẫn chúng tôi tìm đến đứa khác. Chúng tôi có thể chứng minh đó là tay chân của Riccardi. Nếu chúng tôi có thể bẻ gãy được Riccardi, gã đàn ông xứ Las Vegas đứng trắng tay, vô phương kháng cự. ra tôi rất lạc quan, thưa ông, - tôi mỉm cười ấm áp với gã ta.

      Hai con mắt màu xám của Greenfield xăm xoi tôi cách lạnh lùng. Người đàn ông này lạnh như tiền. Đột ngột, tôi tin là mình đủ sức dụ được gã vào bẫy. Bởi gã đâu có phải sợ gì? Người ta đâu có thể chứng minh được điều gì?

      phải thế, tôi cân nhắc, có lẽ chúng tôi chứng minh được điều hơn là tôi nghĩ và nhiều hơn là gã ý thức ra. Nếu gã hoặc bạn của gã thuê căn hộ kia, phạm sai lầm nặng nề khi cho tên sát nhân sử dụng nó. Chắc là cánh Las Vegas ép gã phải đưa căn hộ đó ra. Gã sử dụng nó làm tổ uyên ương. Greenfield có vợ. Và bởi gã rất có chí tiến thủ trong chính trường, nên chắc chắn gã phải bày được ra trước công luận cuộc sống gia đình ấm cúng, hoàn hảo. Gã thể xuất trước công luận cùng bạn . Tôi nẩy suy nghĩ rằng có lẽ cả bản thân gã cũng có thể bị thúc ép…

      - Ông chờ đợi điều gì ở tôi? – Greenfield hỏi và cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi.

      - Nếu ông quyết định cộng tác cùng với chúng tôi, ta có thể nhanh chóng cắt mọi mối quan hệ từ đây xuống Las Vegas, - tôi .

      - Tôi có thể làm được gì?

      - Bằng cách bị kín mọi thứ ở đây. Trong hay hai ngày trời. – Tôi nhìn vào gương mặt vô cảm của Greenfield.

      - Tôi phải hiểu điều đó ra sao?

      - Tôi nắm quy trình làm việc trong văn phòng của ông. Nhưng tôi có thể tưởng tượng rằng chừng nào Kellin còn chưa quay trở lại làm việc, ông có thể tạm thời giữ im tất cả các hồ sơ, chặn lại các bước công việc. khi gã đàn ông ở Las Vegas nhận được thông tin nữa và chúng tôi có thể xiết vòng vây quanh Riccardi tới mức độ nhất định, gã ở Las Vegas nhanh chóng lộ ra điểm yếu. Gã có việc nóng ở đây, ông Greenfield. Trong tuần sau, thành phố ký những hợp đồng quan trọng…

      - Tôi hiểu, ông Cotton. Ông có thể tin vào tôi.



      • •

      Đúng 2 giờ sáng, khí lưu cữu trong căn hộ khiến tôi mỏi mệt.

      là lần thứ 20 tôi gắng gượng đứng dậy từ chiếc ghế bành thấp bè cọc vải hoa sặc sỡ và lại lại vài bước chân. Giờ tôi quen từng góc trong căn hộ. Nelford chắc chắn có lý khi đoán đây là tổ uyên ương.

      Căn hộ là phòng khách và phòng ngủ kết hợp. Món đồ gỗ lớn nhất ở đây là chiếc giường hình tròn.

      Trong ánh sáng của ngọn đèn pin được che bớt, tôi tìm thấy chỗ giấu ngầm bên lò sưởi và tìm tất cả những khả năng hộc giấu khác, có thể chứa chấp bằng chứng về kẻ thuê nhà. Nhưng thành công. Chỉ những chiếc chìa khóa mà Nelford đặt trong két sắt theo lệnh của kẻ gọi tới là vẫn còn đây. Giờ chúng kêu lanh canh khe khẽ trong túi tôi.

      Tôi vươn tay vươn chân. Giá bây giờ được đốt điếu thuốc lá. Nhưng tôi biết tôi thể cho phép mình hưởng thụ niềm vui con con đó. Nếu kẻ lạ mặt khi xuất ngay lập tức phát ra tượng lạ và bỏ .

      Trong phòng tối hẳn. Qua những kẽ hở mành mành có chút ánh sáng của những vòm cung đèn cao áp Đại Lộ Số hắt vào trong. Tôi bước đến bên cửa sổ và nhìn ra ngoài.

      Dòng giao thông ngưng. Chỉ thỉnh thoảng lắm mới thấy chiếc xe buýt đơn lẻ xọc xạch chạy qua, hay chiếc taxi phóng vù vù dọc đại lộ.

      Máy bộ đàm trong túi kêu rọt rẹt. Tôi kéo nó ra, đưa lên miệng và ấn vào phím .

      - Sao? – Tôi hỏi.

      - Mình cứ tưởng cậu ngủ, - Phil .

      - Giá mà ngủ được. – Tôi kiễng đầu ngón chân, nhưng vẫn nhận ra vòm mái của chiếc xe Mercury có Phil ngồi bên trong, đậu cách cửa vào chỉ vài bước.

      - Vừa có người đàn ông bước vào nhà. Giờ mình xuống xe và chuyện Randy.

      Tôi bước đến bên cửa và ép tai vào tấm gỗ. Tôi chỉ nghe thấy tiếng rì rào như trong những lần áp tai trước đó. Lần Phil lên tiếng gần đây nhất cách đây 15 phút. Lúc đó có người phụ nữ taxi mình tới đây. ta tự tay mở cửa nhà. Phil chuyện với Randy sau khi người phụ nữ đó bước vào thang máy. Randy biết người phụ nữ đó. Dựa vào dãy đèn bàn điều khiển, ta có thể theo dõi và biết ta thang máy lên tầng 11.

      Giờ đến lượt người đàn ông xuất . tầng 6 này vẫn chưa có gì động đậy.

      Sau chút, máy bộ đàm lại lên tiếng.

      - Báo động sai, - Phil . – Randy biết mặt người đàn ông đó. Cậu có thể tiếp tục ngủ.

      - Tình hình ở South Organge ra sao? – Tôi hỏi. Vào khoảng giữ đêm Mario Aldina bắt đầu chuyển những bông hoa phong lan của gã lên chiếc xe có dàn điều hòa nhiệt độ. Vậy là gã muốn tham dự chợ hoa nửa đêm ở Manhattan. Hoặc gã còn muốn thực cả những vụ làm ăn khác?

      - Gã lăn bánh cách đây vài phút, - Phil báo cáo. – Gã mình. Gã có tay phụ tá.

      Chắc đây là chuyện hết sức bình thường. Nhưng sao tôi đột ngột có cảm giác là tất cả mọi thứ có thể diễn tiến hoàn toàn khác với kế hoạch của chúng tôi.

      - Bảo họ bám sát! – Tôi thào vào máy.

      - , - Phil khẳng định. – Mình có cần phải mang cho cậu tách cà phê…

      Tôi ấn vào phím , cắt ngang lời đề nghị tử tế của Phil. Bởi bên cửa vừa thoáng có tiếng cào rất .

      Với bước nhảy câm nín, tôi lao ra phía sau chiếc giường, áp sát mình xuống nền. Có phải Phil bị kẻ khác qua mặt? Hay để sót mất ai?

      Tôi nằm sấp. Nếu chuyển động, tôi thể rút khẩu Smith & Wesson mà cũng thể sờ đến đèn pin. Mà tôi lại được phép chuyển động, bởi cửa vừa được mở ra.

      vệt ánh sáng rất hắt xuống nền phòng. Cái vệt tối của dáng người lướt qua khoảng tường rồi biến mất khi cửa lại được đóng vào. Tiếng chân người rất khẽ nền thảm dày mềm, chuyển động xuyên qua căn phòng. Nếu bây giờ muốn nhìn về phía lò sưởi, tôi chỉ cần ngẩng đầu lên. Dù kẻ sử dụng chiếc giường tròn rộng quá khổ này có là ai chăng nữa, ta hay ta rất muốn thụ hưởng thứ hơi nóng địa dàng của làn lửa lách cách trong lò sưởi.

      Phía trước lò sưởi có để chiếc túi du lịch. Chính tôi mang nó lại đây. Trong túi đựng vài bộ quần áo của tôi. Brad Nelford trong đâu có để túi du lịch của gã ở lại đây. Tôi phát ra túi của gã khi rời căn hộ của Mike Kellin. Nelford để túi ngay trước cửa, để có cả hai bàn tay rảnh cho vụ giết người. ..

      thận trọng, tôi ngẩng đầu lên. Tôi nhìn thấy dáng người cao mảnh, mặc áo bành-tô dài. Giờ ta cúi đầu xuống. Tôi nghe thấy tiếng ổ khóa bật ra, nhưng đúng vào lúc tôi muốn nhỏm lên và kết thúc tiết mục ảo thuật dáng người kia lại đứng thẳng dậy. Nhanh như chớp, tôi rụt đầu xuống.

      Cây đèn đứng ở phía bên kia chiếc giường rộng thênh thang được bật lên. Thế rồi chiếc áo bành-tô bay lên giường. Ngay sau đó, có tiếng Click của máy điện thoại. Vành chọn số kêu rù rì.

      - Làm ơn nối tôi với số 721, - giọng phụ nữ . Rồi sau đó, mềm mại hẳn: - Hallo, Hugh. Đúng, cái túi ở đây.

      Tôi từng gặp giọng này, nhưng the thé chói chang hơn bây giờ rất nhiều.

      - Vâng, em ở đây, cho tới khi các cảnh sát viên đến. – Hugh, đừng lo, vâng, em làm được! Em thay ổ khóa khác, đúng như . – Bây giờ làm gì? có về nhà ? – , em hiểu rồi. Chẳng bõ công. – Em nghe lời mà! Em cũng đâu có lời nào khi quan hệ với con người đó? Trong nhà này nữa hả? Vâng, vâng, để giữ ta đúng đường. - Lẽ ra phải bỏ công giữ em đúng đường mới đúng hơn! – Xin lỗi, Hugh, em xin lỗi, nhưng mà em . – Cám ơn. Ngủ ngon nhé!

      Khi ống nghe điện thoại được đặt lên giá, tôi đứng thẳng dậy. còn cách nào khác, tôi phải đẩy ta vào cú sốc.

      - Chào bà Oliphant, - tôi .

      Người phụ nữ xoay giật về. Tóc ta bây giờ bỏ xõa, cặp kính được tháo ra. Trông ta giống lời miêu tả của O’Malley về người đàn bà thuê căn hộ dành cho cái gọi là Cora Dixon.

      Bà Oliphant há mồm ra. Rồi sau đó ta bắt đầu la lên chói chát như cây còi. Tôi nhảy qua giường và tóm lấy ta. Lay lắc mãi mà có tác dụng gì, tôi tát thẳng vào mặt ta hai lần. Tiếng la hét câm bặt, và ta thỉu xuống. Tôi để ta ngã xuống giường. Chỉ sau khi tin chắc là ta mang súng bên mình, tôi mới rút máy bộ đàm ra.

      - Ổn rồi, - tôi nhanh. – Lên ngay!

      vài phút sau, khi Phil bước vào căn hộ tôi gắng đổ chút sâm- banh ướp đá vào miệng Oliphant.

      - Cho phép tôi giới thiệu, đây là bạn đồng nghiệp Phil Decker của tôi. Còn đây là bà Laura Oliphant, bàn tay phải của ngài ủy viên công tố.

      Tôi giải thích cho ta biết là ta bị bắt, và đọc đoạn văn quy định cho ta biết quyền lợi của mình. Rồi tôi hỏi liệu ta sẵn sàng khai ra.

      ta sẵn sàng. Dĩ nhiên là . Greenfield đào tạo ta thành chuyên viên lành nghề.

      - Bà vừa gọi điện cho ông Greenfield, - tôi nhẫn nại thử lần cuối. – Ông ta bây giờ ngồi bình tĩnh trong khách sạn, trong khi bà nhảy vào lửa để cứu đồ cho ông ta. Tôi dám cuộc rằng gã lạnh lùng để bà lao vào mũi giáo, nếu qua đó có thể cứu được mạng mình. Nhưng tôi cũng được phép cam đoan với bà rằng gã làm được điều đó đâu. Greenfield là tay tội phạm, bà Oliphant. Gã phải chỉ kéo riêng vào cuộc.

      - ấy làm khác được, - người phụ nữ lẩm bẩm. – ấy bị lừa. Người ta hứa ủng hộ cho ấy ra tranh cử chức chủ tịch công tố đoàn tiểu bang New York. Nhưng rồi sau đó họ bày đặt sao để trông như thể ấy nhận tiền tư! Bắt đầu như thế, rồi từ đó trở chúng nó nắm ấy trong tay!

      - Chúng nó là ai?

      Oliphant im lặng. Tôi thúc bách ta nữa. Giờ chúng tôi tóm được Greenfield, và gã còn đường chối cãi.

      - Đưa bà ta , - tôi quyết định.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :