Con Quỷ Truyền Kiếp - Jessie D. Kerruish(Kinh dị)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Jessie D. Kerruish


      Con Quỷ Truyền Kiếp


      Dịch giả: Thế Lữ


      Chương 19


      CON BÒ VÀNG ĐẾN SUSSEX



      chú ý của công chúng đối với những việc bí mật ở Dannow thực là sôi nổi. Tuy nhà viết báo Curtiss tìm cách giữ độc quyền những tin tức đăng, nhưng các nhà báo khác thấy câu chuyện kia rất quan trọng và có nhiều việc ly kì lắm, họ bỏ qua đành. Phần lớn những nhà báo đo lục lại các ngăn tủ, lấy lên những cảo cũ về chuyện ma quái để đăng lên những chỗ tốt nhất tờ báo mình. Những người chưa thành thạo trong nghề tra cứu trong thư viện nào gần nhất về khoa tà thuật, về chuyện viên quái, rồi vội vàng viết thành bài báo dưới ký: nhà thần học trứ danh hoặc nhà linh hồn học xuất sắc.

      Báo Daily Post bỏ xa các bạn đồng nghiệp vì đăng trang nhất bài tường thuật các thảm kịch từ trước đến bây giờ.

      Các phóng viên, bọn người bán đồ cổ, cùng những người tích trữ những kỷ vật đua nhau đổ vào miền Dannow. Những cây nào có người bị nạn nằm dưới gốc là họ đến nậy hết từng mảnh vỏ. Trong làng, người ta gặp thấy những nhà trinh thám công và những người dở hơi đến đó để tìm những kỷ vật dị kỳ và quái gở.

      em nhà Hammond bị bọn người tò mò xông vào tận trong vườn quấy rối. Oliver tiếp được của nhiều tuần báo mười bốn bức thứ xin những bài chàng viết về truyền tục của gia đình chàng. New York đánh sang bức điện, trong đó người ta tặng chàng số tiền kinh ngạc mà chỉ đổi lấy bức ảnh chụp gian phòng bí mật.

      Swanhild và Oliver hôm đó ra tận ga Hassocks đón Lunạ Nàng vừa tới nơi, hai em kể chuyện cho nàng nghe biết mọi việc. Thừa lúc Oliver chuyện với viên sếp gạ Swanhild ghé tai Luna mấy tiếng:

      Chàng thấy thế bảo em :

      - Swan gì, cũng đoán được rồi kìa. Em bảo miss Bartendale rằng vẫn khỏe khoắn, vui vẻ chứ gì? Thế em giấu cả cái việc suốt đêm qua em ngủ trước cửa phòng để canh chứ?

      Chàng dứt câu ấy với nụ cười khoan dung. Luna hỏi:

      - Nhà chuyên trách mở cuộc thẩm vấn ở đâu, ông Hammond nhỉ?

      Chàng đáp:

      - Ở lữ điếm The Hammond s Armorial ở dưới Lower Dannow (Dannow hạ thôn). ra tôi quên khuấy ngay mất cái việc bắt đến đây hôm nay.

      Rồi chàng sầm mặt xuống. Luna trách:

      - Ông này mới hay chứ! Thôi ông! Đừng có nghĩ lẩn thẩn đến những chuyện nản lòng. Ông chỉ nên nghĩ đến điều giúp đỡ tôi là hơn. Oliver.

      - Tôi hối hận rằng có thể vui cười được đến thế. Tội nghiệp cho Kate! Với Warren mới đáng ngại làm sao!

      Quang cảnh Dannow hôm đó cũng khá giống ngày triển lãm xe đạp và xe hơi. Oliver cho xem qua những đường tắt để tránh hai hàng máy ảnh đứng chực sẵn và làm thất vọng ba nhà quay phim.

      Các nhà chuyên trách muốn thu xếp cuộc thẩm vấn có vẻ trịnh trọng. Có tin đồn ra rằng nhà chuyên môn dò mạch suối trứ danh, miss Bartendale, tuyên bố nhiều lạ. Nhưng trong lúc dự cuộc xét hỏi, Luna buông mạng che mặt để tránh quan sát của những con mắt tò mò. Nàng ngồi cạnh Warren (vị hôn phu của Kate). Nét mặt chàng này giữ nguyên vẻ lầm lì từ lúc bắt đầu cho đến khi họ dẫn em nhà Ades vào tra vấn.

      Hội đồng thẩm án(#1) vừa mới khám xét tử thi người bị nạn và trong phòng chứa đựng bầu khí nặng nề. người nào đả động đến kỳ quái phi thường để phân giải những thảm trạng xảy ra. Duy chỉ ông Coroner(#2) , trong mấy lời khai mạc, là hết lời căn dặn xin hội đồng bỏ ngoài tâm trí những lời đồn đại có nghĩa lý gì.

      Mấy vị bác sĩ, hội đồng hỏi đến trước nhất, khai rằng cái chết của kẻ bị nạn gây nên do những thương tích nặng. Người thiếu nữ đáng thương kia ( Kate) lúc nào có thể tỉnh táo để thuật lại những việc xảy ra. Trong cơn mê sảng, ta thường luôn miệng rằng vật lù lù “to bằng cái nhà” xông đến hại tạ Xem các vết thương, người ta thể nào đoán được hung phạm thuộc về giống loại nào. Ông đốc-tơ Newton thoạt tiên nghĩ là con chó của Oliver, nhưng khi mổ khám ông chỉ thấy trong dạ dày con vật ít bánh bích qui mới ăn được ít lâu trước lúc chết.

      Những lời mô tả các vết thương gây nên tìm thấy người bị nạn. Oliver kể lại những điều chàng nhớ được, cố ý nhắc đến có mặt của vật kỳ bí mà chàng cảm thấy trong bóng đêm. Trả lời câu chất vấn của ông chủ trại to béo, chàng quả quyết khai rằng con chó Holder đối với người thiếu nữ vẫn quấn quýt, quý mến, và có lẽ báo hiệu cho biết lúc kẻ hung phạm tiến lại gần. Chàng tiếp:

      - Nhưng về điều này, trí nhớ tôi vẫn còn mơ hồ lắm.

      Will Clapode là người đầu tiên báo tin dữ về Dannow, tả cho mọi người biết cái tiếng rú kỳ dị nghe thấy ban đêm. Rồi đến lượt em nhà Ades. Đối với những người muốn tìm trong thực tế những lẽ giải quyết cái thảm kịch kia bọn tên Ades tức là những chứng tá quan trọng. Warren hai mắt rời hai tên ấy, để hết chăm chú cay nghiệt mà nghe từng câu từng tiếng của chúng khai ra trước hội đồng. Tội nghiệp chàng, mặt chỉ còn da dính với xương; hai mắt trân trân nhìn. Khiến cho em nhà kia đâm ra bối rối.

      Chúng vốn là những tên cục cằn, thô kệch, vụng dại và chậm chạp, khéo dối chút nào. Chúng ngây ngô bịa đặt ra được chuyện vu vơ để giấu giếm cái tội mắc bẫy săn trong rừng cấm, rồi bị hỏi vặn, chúng vướng phải những đường lối chằng chịt toàn những câu đáp mâu thuẫn; đến nỗi ông Coroner bắt chúng phải có bảo đảm mới được tại ngoại. Chúng gây nhưng cảm tưởng rất tai hại của mọi người đối với mình.

      Hỏi xong em nhà Ades, hội đồng hoãn cuộc thẩm vấn đến tuần lễ sau.

      Swanhild và Oliver cùng với khách ở lại nhà hàng đợi cho mọi người lần lượt ra về hết. Luna đứng bên cửa sổ lẳng lặng dò xét bọn nhà Ades quạ Nàng đưa mắt nhìn theo cho tới khi chúng khỏi. Oliver hỏi nàng:

      - cho chúng là thủ phạm chứ?

      - . Nhưng nhà chuyên trách và công chúng ở đây lại nghĩ như tôi, mà tôi lúc này thể minh oan cho chúng được vội. Tôi có ra những việc kỳ bí cũng chẳng lợi được ai, mà những công việc sắp định làm của tôi lại bị sụp đổ mất. Bởi vậy tôi hãy cứ im tiếng , trừ khi bọn nhà Ades bị kết án hẳn hoi…

      Rồi mím môi lại, nàng chịu gì thêm. em nhà Hammond biết rằng có hỏi thêm nữa cũng vô ích.

      Lúc đó, từng lũ người ùa vào xem trong rừng Beacon, yên tâm, vì có đông người và ánh sáng bạch nhật. Luna sực nhớ ra, hỏi Oliver:

      - Ông Hammond, ông có kể cho tôi nghe câu chuyện về cái Gò Sét Thunder s Barrow phải?

      Oliver nhìn Gođard, có ý nhường lời. Gođard đáp:

      - À! Đó chỉ là chuyện cổ tích mơ hồ dính dáng gì với con quái vật hết. Người ta tin rằng con Bò Vàng của Aaron(#3) chôn dưới gò.

      Luna:

      - Ồ! Con Bò Vàng lại ở miền Sussex!

      Oliver:

      - Sao lại ? Người ta thể tưởng xiết được những thứ người ta có thể đào thấy dưới đất miền này đâu!

      Gođard lại :

      - Có nhiều người dám chắc chắn rằng Con Bò Vàng chôn ở sông Tundle ở mạn đường đua ngựa Godwoord, nhưng cái gò ở đây có lẽ đúng chỗ hơn.

      Swanhild:

      - Tôi ngờ Gođard biết rộng đến thế đấy!

      - Tôi lớn hơn những bảy tuổi kia, còn tuổi quá nên chưa biết Dannow ta về cổ thời. Ngày nay, thiên hạ chỉ đến những chuyện tai tiếng đăng các báo hay những cuộc đấu bóng tròn thôi. Nhưng hồi tôi còn bé, tôi từng ngồi hằng giờ mê mải nghe các ông già bà cả kể về chuyện chôn của với những chuyện ma quái bị xiềng xích nơi.

      Luna chợt như người tỉnh dậy ở hồi mơ tưởng trầm ngâm. Nàng hỏi:

      - Nếu cái tượng vàng đó mà chôn dưới Gò Sét thực, sao có ai tìm cách chiếm lấy?

      Gođard khẽ cười:

      - Là vì “Con Người Nghèo Khổ” để ai lấy được. Con Người Nghèo Khổ là tên người ta dùng để gọi ma quỷ ở Sussex này đấy, miss Bartendale ạ. Nhưng tôi chắc những chuyện truyền khẩu này giúp được ích gì.

      - Có lẽ. Tuy vậy, cái chuyện Bò Vàng cũng lạ đó. Con Bò Vàng của Aaron mà lại chôn ở Sussex!… Câu chuyện mới kỳ dị làm sao! À này, đến mai ta lại có cuộc thôi miên nữa đó.

      Chú thích:

      (1-) Hội đồng thẩm án: Gồm những nhà luật pháp và số người kén trong các giai cấp trong tỉnh hoặc khu

      (2-) Coroner: Người chuyên thẩm xét vụ án mạng

      (3-) Aaron: nhân vật tối cổ trong Cựu ước thư





      Jessie D. Kerruish


      Con Quỷ Truyền Kiếp


      Dịch giả: Thế Lữ


      Chương 20


      KHƠI ĐÀO GÒ SÉT



      Việc bí mật ở Dannow vẫn làm sôi nổi dư luận.

      Kẻ bị nạn, sau cuộc thẩm xét, được chôn cất và các báo đều đăng những bức ảnh chụp lúc tang lễ cử hành. Vào khoảng cuối tuần ấy, chú ý của mọi người lên đến độ cùng của nhiệt liệt: kể từ hồi lâu lắm đến nay, nhà thờ Dannow mới phải đóng cửa lần này là . Vì ngôi mộ của cụ Warlockbị những người cướp nhặt kỷ vật làm hư hại, mà dưới đấy bừa bãi những mẫu thuốc lá, những mẩu diêm cháy dở, những mảnh giấy xé và các thứ vụn vặt khác làm chứng rằng bao nhiêu khách tò mò qua chốn này.

      Về phần Swanhild, môi ngày nàng phải qua hai lần hồi hộp dữ là buổi sáng, từ lúc nàng ngủ dậy tới cái phút nàng trông thấy mặt , rồi đến lượt dự cuộc thôi miên nàng phấp phỏng sợ những điều báo thốt lên miệng Oliver do những câu Luna hỏi.

      Nhưng tinh thần Oliver vẫn vững mạnh. Mà sáng nào lúc em gặp nhau, chàng vẫn hề có gì khác lạ, và vẫn có câu : “Này em, bao giờ tôi nhớ được các điều quên tôi bảo cho em biết, nhưng phải hôm nay đâu!” Chỉ khi nào nghĩ đến Kate và lúc ra khỏi nhà bà Yorke và miss Bartendale là chàng rầu rầu mặt xuống. Ngoài ra, những giờ khác dùng để lục lọi khắp lâu đài Dannow để mong tìm thấy những giấy má quan hệ.

      Trong phiên thôi miên ngày Thứ Năm, Luna khiến Oliver tập trung tư tưởng dồn cả vào thanh gươm cổ. Nàng có ý mong chàng nhớ được những chữ khắc cái mảnh vàng long mất, nàng đưa các bức ảnh chụp nhiều câu cổ tự cho chàng đọc, nhưng ích gì.

      Ngày Thư Sáu, Luna thiết lập cuộc thí nghiệm trong căn phòng bí mật. Nàng dần dà dẫn Oliver trở lại thời cụ Warlock và đưa cho chàng cái Bàn Tay Danh Vọng và thanh gươm. Hốt nhiên chàng đến cái miếng đồng long mất, chỉ nó dài được bao nhiêu phân và lại biết được rằng nó cắt theo hình chiếc lá. Luna bàn thêm lời nào, nhưng đôi mắt nàng long lanh, lộ ra chăm chú ráo riết: Swanhild ngầm hiểu sau cái bề ngoài thản nhiên kia vẫn ý chí mạnh tới bực nào. Người thiếu nữ đặt hết lòng tin cậy ở Luna: người thiếu nữ này tạo nên được chung quanh nàng khí vững lòng của công việc và của đời sinh hoạt yên lành. Vắng mặt Luna, nàng lại để tâm nhận thức khủng khiếp đè nặng xuống Dannow với những con cháu cuối cùng trong dòng họ.

      Oliver lại thế. Chàng được hưởng những giờ êm ái nhất trong đời mình. Mọi người gần gũi chàng đều tránh đả động đến Kate, người thiếu nữ thiệt mạng, vả chăng để cả tâm trí vào tình mới nhóm, còn giờ đâu mà ân hận về việc kia. Còn về phần Gođard bao giờ chàng cũng vẫn giữ gìn, ngờ vực. bình yên nhất thời kia, chàng xem ra phải là điềm tốt: đó chẳng qua chỉ là như hồi lặng gió trước cơn phong ba thôi.

      Ngày Thứ Bảy, từ sáng sớm Swanhild với Oliver đến Chelseạ Thấy Swanhild có vẻ sốt sắng nóng nảy. Luna hỏi:

      - Việc gì thế, ?

      Swanhild liền lấy chiếc phong bì hai mảnh giấy dầy, năm, tháng làm cho cũ nát và ố vàng. Nàng :

      - Chúng tôi tìm được mấy mảnh này trong tập tường thuật của Culpeper đây.

      Miss Bartenbdale cố dò dẫm mãi mới đọc nổi được những hàng chữ nhòa mất đến nửa phần:

      “… rằng nhà Hammond là dòng giống những thần trùng hút máu, và nếu người trong dòng họ ấy chết sớm linh hồn lên trời cũng xuống địa ngục, nhưng cứ sống mãi trong mồ cách phi thường…”

      Nàng tiếp:

      - Mảnh giấy này quan trọng lắm đó, miss Hammond ạ.

      Mảnh giấy thứ hai chỉ có hàng chữ:

      “Người bạn quý mến ngài, Nicholas Culpepar”.

      - tìm thấy giấy này ở đâu vậy?

      - Trong lần đệm nhồi ở cái ghế bành cũ. Mép giấy thòi ra ngoài lỗ thủng.

      Oliver cũng :

      - Chúng tôi thấy ba cái ghế bành với cái ghế dài, lần trong đó có nhét đầy những giấy má cũ như thế. Nhưng uổng quá! Mấy cái ghế lại xếp dưới chỗ mái nhà bị nứt, thành thử phần giấy má kia chỉ còn là mớ nát bét. Lần chọn lọc đầu tiên, Gođard với được cái tên ký của Culpeper. Sau em tôi mới tìm thấy mảnh thứ hai.

      Swanhild :

      - Chúng tôi định sau phiên thôi miên tức khắc về nhà tìm nữa.

      Nhưng Oliver ngắt lời:

      - , có về Swan về mình thôi. Vì tôi, tôi còn những công việc khác.

      - Sao, những công việc khác?

      - Phải lạ. Chắc Swan của tôi cũng chẳng lạ gì những lần thôi miên kia rất mệt nhọc cho những người hành chính yếu. Tôi tưởng được nửa ngày nghỉ ngơi giải trí hẳn là có ích cho miss Bartendale cũng như cho tôi. Bởi thế, tôi giữ trước hai chỗ xem buổi biểu diễn Chu-Chin-Chow buổi chiền nay rồi, (chàng ngoảnh lại với Luna) vì vẫn ưa xem loại đó. Tôi biết trước rằng có mời bà Yorke cũng chẳng vì bà còn phải đến chỗ hòa nhạc.

      Luna giở sổ thời giờ hằng ngày ra coi. Bà Yorke lạnh nhạt đáp:

      - Vâng, tôi nhớ ra rằng hôm qua ông hỏi thử tôi trước xem rồi tôi có được rảnh

      Chàng dịu mắt nhìn bà ta và mỉm cười nụ cười đon đả. Bà Yorke cố giữ nét mặt nhìn cháu và thấy nàng cúi đầu hoài. Swanhild có vẻ bực dọc:

      - Thế nào? lấy vé giữ chỗ đặt trước rồi ư?

      - Phải, gọi điện thoại giữ trước rồi. Này Swan ạ, em thử nghĩ lại xem mới được chứ. Chẳng lẽ em cứ coi sóc được suốt đời hay sao! Đành rằng, em làm thế để giữ gìn cho , nhưng chán rồi cũng phải lấy làm khó chịu chớ. Vả lại có miss Bartendale với còn lo gì, rồi đến chiều miss Bartendale đưa ra ga Victoria để về chuyến xe lửa sáu giờ rưỡi kia mà. (Chàng thêm). Ấy là còn phải xem miss Bartendale có nhận lời mời .

      Luna :

      - Xin vui lòng.

      Bà Yorke có vẻ ngạc nhiên và bằng lòng. Còn Swanhild gì hết. Nàng quen thấy bọn đàn ông trong gia đình nàng làm gì cũng theo ý muốn của họ.

      Buổi thôi miên ấy kết thúc nhanh chóng. Oliver lại lần nữa hình thế đồng rơi mất và cho biết thêm rằng những cổ tự xếp thành hàng cong queo.

      Swanhild trở về Dannow có mình.

      Chiều tối, sau khi tan buổi hát, Luna thấy bức thư của Dublin đợi nàng ở nhà.

      Bà Yorke hỏi:

      - Sao cháu lại nhận lời với ông Hammond thế?

      - Cháu muốn tỏ ra xa tránh ông ta.

      - Cháu xa tránh mới phải. Cái người trẻ tuổi ấy tuy bề ngoài cương quyết, nhưng thực ra là hạng người làm thêm bi đát những chuyện thông thường.

      - Cháu biết rồi. Ông ta rất lấy làm buồn cho cái chết của Kate; cái chết ấy vẫn ám ảnh mãi phần tiềm thức của ông ta đó.

      Trong thoáng giây lát, nàng tưởng lại bao nhiêu việc ban chiều: chiếc xe hơi đưa hai người qua khắp thành phố mịt mù, đôi mắt chàng sáng lên trong khi những câu gần như cảm tạ con quái vật khiến hai người gần nhau, rồi vẻ mặt buồn tối vì lòng thương hại của chàng, vì kinh tởm và vì hối hận nữa. Chàng luôn luôn nhắc lại:

      - Ồ! Giá Kate trong việc này…

      Bà Yorke nương , bảo Luna:

      - Rồi thế nào ngày kia cháu cũng phải cho ông ta biết thực mới được.

      - Cháu ngay khi nào thấy những buổi thôi miên cho cháu biết thêm điều gì nữa.

      - Mà, dễ thường tưởng tôi biết ý chàng vẫn ưa tránh mọi người để trò chuyện với đấy hẳn? tưởng miss Hammond có mắt hay sao? nghĩ đến người thế nào cũng phải nghĩ đến em như thế chứ!

      Luna:

      - Thế này này! Các báo hôm nay tìm được vụ án mạng ghê gớm để đăng, nhờ thế ta khỏi bị quấy rầy được trong ít bữa. Cháu muốn nhân cơ hội ấy làm nốt công việc tra cứu ngay từ ngày mai, là ngày chủ nhật.

      - Luna!

      - Cháu đánh điện cho khách hàng của cháu đừng đến London nữa và tìm sẵn bọn thợ đào đất để giúp việc ngày thứ Hai. Là vì cháu định tâm đào tìm cái GÒ Thunder Barrow và lại muốn có mặt ở đó để xem từ lúc đào mảng thứ nhất. cùng với cháu nhé. Mấy người kia thường vẫn nài cháu mời cho được cùng đến Dannow. (Thấy bà Yorke ngạc nhiên, nàng vội tiếp). ! phải là ý định bất thình lình đâu. Nhà bác học ở Dulbin cháu nhờ xem dò được nghĩa những lời cổ tự: cháu tin chắc rằng dưới cái Gò Sét thế nào cũng có gửi manh mối quan trọng lạ lùng, kia.





      Jessie D. Kerruish


      Con Quỷ Truyền Kiếp


      Dịch giả: Thế Lữ


      Chương 21


      ĐẤT THÁNH NGHĨA TRANG



      Sáng thứ Hai, bà Yorke, Luna và con chó Roska chuyến xe lửa thứ nhất tới ga Hassocks. Oliver với Swanhild ở đó đón hai người. Bà Yorke hỏi:

      - Cháu tôi báo tin cho ông với miss Hammond biết trước rồi chứ? Luna tính ra công việc tìm đào cũng phải mất ít ra cả ngày: cháu tôi cứ sợ làm phiền cho em ông.

      Oliver quả quyết :

      - Nếu tìm xét cẩn thận hết ngày cũng chưa xong được. Gođard xem tiếp những giấy má cổ ở nhà. (Chàng lại với Luna). Cái ý định đào Gò Sét thực bất ngờ, miss Bartendale nhỉ.

      Nàng đáp:

      - Là vì tôi muốn thừa dịp tốt chứ có gì đâu.

      Trong mấy ngày vừa qua, tuyết rơi lác đác, rồi đến hồi mứa đá, sau cùng đổ thành trận tọ Sáng hôm đó tiết trời lại êm và hơi ẩm. màn sương mù mỏng trùm phủ dưới lòng thung lũng và lướt bay bên cạnh chiếc xe hơi, xé tơi qua các cành cây trụi lá và điểm thêm vẻ đẹp huyền bí cho con đường về.

      Sanhild cầm lái, Oliver ngồi đằng sau với bà Yorke, chốc chốc lại đưa mình về phía trước để góp chuyện, vì Luna ngồi ngay cạnh em chàng. Bà Yorke thản nhiên: bà chú ý đến lời bàn bạc của mấy người kia chỉ là giữ lễ độ.

      Miss Bartendale hỏi:

      - Ông có tìm được thêm đoạn nào trong tập thư của Culpeper ?

      - Có. Nhưng những đoạn ấy gần bị hư hỏng vì nhiều lần thí nghiệm hóa học. Gođard đem cả về nhà để tìm cách cố dò xem. ấy tài lắm kia.

      - Ở đây bọn tò mò có đến nhiều ?

      Oliver:

      - Hừm! Ngày hôm qua là ngày đáng ghét lạ! Họ tổ chức thành đoàn từ Brigton đến, nhà chúng tôi bị những người ồn ào nhất xông vào. Cũng may, hôm nay xấu trời, ta bị quấy rối nữa.

      Luna đáp:

      - Càng haỵ Người ngoài họ làm bận cho công việc của tạ Ta thử tìm xem những vật cụ Warlock chôn dưới Thunder s Barrow có những gì. (Nàng đưa mắt dò ý mọi người trong lúc ). Theo tục Đan Mạch, vị tổ tiên nhà ông, tức là người con trai cụ Magnus Hammond, táng trong Gò kia cùng với phần lớn những đồ vật mà cụ muốn rời bỏ. Bảy thế kỷ về sau, người con trai nối dõi nhà cụ là Magnus Pháp sư rắp tâm muốn lấy lại những bảo vật đó. Cụ Pháp sư này bèn chế luyện Bàn Tay Danh Vọng rồi khai mộ tổ nhà mình lên và chiếm lấy những của xem ra có đôi chút giá trị. Tôi mong rằng cụ Pháp sư để sót lại trong đó cái vật quý nhất đối với tôi bây giờ, nghĩa là cái mảnh đồng khắc bản cổ tự thứ hai.

      Oliver hỏi:

      - vịn vào những chứng cớ nào mà đoán những điều đó?

      - Thoạt tiên tôi nhận thấy rằng Gò Thunder với Bàn tay có liên lạc với nhau từ hôm mà ông Gođard kể cho ta nghe câu chuyện con Bò Vàng với thằng quỷ canh giữ nó. Cụ Pháp sư là thầy luyện thuốc trường sinh và tìm vàng bằng những lời thần chú: ông cụ chắc có thể dùng Bàn Tay kia trấn áp để làm tê liệt được thằng quỷ giữ của trong mồ.

      Oliver:

      - đoán có lý lắm.

      Swanhild:

      - Tôi cứ vẫn tưởng Gò Thunder là thứ mộ phần thượng cổ dành riêng cho những vị Thầy Cả và có vị thần của họ là Con Người Quái dị coi giữ.

      - Khoa học khảo cổ hễ giải thích được điều gì lại đem gán cho các Thầy Cả ngày xưa. Nhưng ở đây, tên vị thần ta thấy lắm. Thunder là biến thể của tiếng Thor. Vị tổ tiên nhà ông thời xưa là người chưa theo đạo Thiên Chúa, cụ thờ kính thần Thor, và Con Người quái dị là hình tượng của vị thần này, chính cụ Magnus Hammond.

      - Hai bím tóc ấy, phải ?

      - Phải đó. Ông tưởng đến người đàn bà, chính những người Vikings (Bắc Hải khấu) ngày xưa để tóc dài và tết thành bím, còn cái dấu fylfot (chữ thập ngoặc) kia là biểu của thần Thor.

      Oliver chỉ kêu tiếng:

      - Trời!

      Nhưng Swanhild còn vặn:

      - Tôi vẫn chưa thấy liên lạc gì với tổ tiên nhà chúng tôi.

      - Chậc! (Lời trách móc của Oliver). em cứ để cho miss Bartendale nốt có được ?

      Luna:

      - Đây, tôi xin đến câu dịch nghĩa mà ông bác học ở Dulbin dò được ở những chữ cổ tự khắc vào dọc thanh gươm, câu ấy tôi mới nhận được hôm qua: “Tên ta là Helin Biter(#1) . Chủ nhân của ta là con trai Magnus Fairlocks”. Những chữ sau vì mòn quá thể nào đọc được. Tôi mong rằng những chữ khắc mảnh đồng chôn dưới mộ đọc được hơn.

      Oliver lộ ra hết lòng khen phục Luna, Swanhild lại hỏi:

      - Nhưng có tin chắc rằng những chữ kia có giá trị và quan trọng thực ?

      - Tôi tin chắc thế, vì đến đời ông đây mà vẫn nhớ đến kia mà!

      Bấy giờ xe hơi nhằm nẻo Thuder s Barrow mà tiến. đồi cao, gió thổi mạnh, cảnh vật quang đãng; nhưng bên dưới mù mịt, người ta trông thung lũng với những nguồn suối con. Những vệt đá vôi nổi lên khắp chỗ. Hình Người Khổng lồ trong sương, nhờ biến hóa dị kỳ của ánh sáng, trông khác nào bóng ma nhuốm hồng.

      Họ gặp Gođard từ phía làng xóm ra đón họ. Chàng bước lên xe và bảo mọi người:

      - Tôi tìm mãi chỉ bọn ít quá. Hornblower đem cả bản lịch của đến cùng với cái đồng hồ của Đức mà con bắt được hồi rút binh. Bọn họ từ lúc chưa sáng để làm cho sớm xong việc, vì người nào muốn qua rừng sau lúc trời tối.

      Luna hỏi:

      - Ông Covert, ông kiếm được bao nhiêu người?

      - Được bốn người. Hornblower là ; cái chàng báng bổ thần thánh nhất làng, là hai; người làm vườn mới ở cho chúng tôi, là ba, ta trước là hướng đạo sinh; và người thợ cuốc còn trẻ tuổi mới ra khỏi nhà trừng giới, chàng này từ thần đến quỷ chẳng còn biết sợ ai. Tôi hứa trả công thực hậu để dụ họ. Ngoài ra, ta lại còn Wareen, vị hôn phu của Kate; nầu chẳng cần gì hết, muốn bảo sao cũng ừ.

      Oliver hỏi:

      - Việc ta nhờ họ làm họ có biết là việc gì ?

      - Có, tôi bảo cho họ biết cả. Cũng may, bốn người đều khỏe cả. Sức lực tôi đây cũng khá, còn Swanhild cũng quen với công việc cuốc vườn. Thế là được sáu tay cuốc xẻng. Bây giờ Swanhild định liệu thế nào xin bảo chúng tôi.

      Trong khi Swanhild cẩn thận cầm lái xe chạy qua miền thung lũng, Luna giảng giài lại lần nữa cho Gođard nghe. Chàng :

      - Có vài chỗ tôi thấy còn lờ mờ lắm. Nếu cụ Magnus Pháp sư có ý tìm vàng sao cụ chỉ giấu có thanh gươm thôi? Còn việc này nữa: công việc khai cái Gò Sét ăn khớp với những lời di ngôn cuối cùng của ông cụ về chuyện căn phòng bí mật, mà cũng lẽ để ông cụ phải xin ân xá tội bằng những lời tạc tấm bia mộ. Tôi chắc những thầy dòng ngày xưa cho việc xâm phạm lăng mộ là tội ác thể chuộc được.

      Luna đáp:

      - Những điều ông bẻ đó, chính tôi cũng chưa kịp phân giải ra sao. Duy có điều chắc chắn bây giờ là, may lại đến lượt tôi xâm phạm vào ngôi mộ đó. Ồ! Tôi biết, ông Gođard ạ, tôi biết ý ông nghĩ rồi kia: phải có giấy phép hẳn hoi mới được khai mộ, chứ gì?

      Gođard gật đầu, Oliver cương quyết :

      - Đây là tổ ấm của tôi, trong địa hạt của tôi, mà ma quái cũng là của tôi, ai vào đâu được.

      Ít khi chàng dùng cái giọng nghiêm khắc đến thế.

      Đến đầu con đường , mọi người xuống xe bộ về phía Gò Sét. Giữa màu cảnh vật xám mờ, hai mái tóc của Luna và Swanhild in lên điểm sáng.

      Luna lấy cuộc dây gai buộc đầu vào gốc thông, căng thẳng và vạch chung quanh cây đó vòng tròn đường bán kính dài chừng trăm thước; vây lấy bốn cái cây và chỗ trung tâm điểm của mặt Gò.

      Lúc đó bọn thợ của Gođard tìm cũng vừa tới.

      Hornblower đặt chiếc đồng gồ quả quít với bản lịch chỉ dẫn(#2) lên tảng đá rồi cả bọn khởi công đào khoảng đất ở trong cái vòng vạch. Đến trưa họ đào bật được mấy gốc cây con.

      Trong lúc bọn thợ nghỉ tay ăn uống Swanhild với Gođard lấy cuôc xẻng đào tiếp theo. Luna, bà Yorke và Oliver về dùng bữa trưa ở lâu đài Dannow. Lúc trở lại Gò, họ đem cho đôi bạn mấy món đồ ăn lạnh.

      Bây giờ khoảng ba giờ chiều, Hornblower đào ở chỗ mấy cây thông lúc trước, đứng thẳng người lên để hất xẻng đất ra bên. bảo Oliver:

      - Đất chỗ này lạ lắm, ông ạ.

      ra lớp phấn chỗ ấy bị vỡ và bên phủ lượt dầy thứ đất thịt đen thẫm và tốt mầu. Warren xem kỹ lát rồi quả quyết rằng khắp miền này có chỗ nào đất được tốt như thế. ta thêm:

      - Mà đây phải chỗ tụ đất thiên nhiên. Thứ đất này lấy ở khu vườn nào đến hẳn thôi.

      Đứng mép hố, Oliver ngẫm nghĩ hoài. Rồi chàng thấp tiếng :

      - Đây là đất mùn đây.

      Chàng đưa tay sờ bên thái dương, dưới đám tóc gọt là chỗ vết thương còn hơi hơi .

      - Hình như tôi nhận ra được kia… biết tôi trông thấy thứ đất này ở đâu rồi nhỉ… À, phải rồi: ở buổi hạ huyệt! Phải, thứ đất này là đất nghĩa địa đây. Nhưng thứ đất thánh ấy, giống quái quỷ quái nào mang được đến thế?

      Chú thích:

      (1-) Helin Biter: Thanh gươm tự xưng.

      (2-) bản lịch chỉ dẫn: Khí cụ của người Âu châu dùng để dò tìm vài vật dưới đất





      Jessie D. Kerruish


      Con Quỷ Truyền Kiếp


      Dịch giả: Thế Lữ


      Chương 22


      CON BÒ VÀNG VÀ CON LONG XÀ



      Tất cả bọn thợ đều rụt rè, dám làm nốt, trừ có mình Warren. ta hích khuỷu tay rẽ Hornblower sang bên rồi đào nữa. mấy chốc lớp đá phần ra dưới lượt đất thịt phủ nông. Bây giờ những người kia lại bắt tay vào việc.

      Oliver xem chừng bị kích thích dữ. Luna rời mắt xem xét chàng. Nàng bảo:

      - Ông Hammond ạ, ở mãi đây ta đến bị cảm nhiễm lạnh mất. Tôi muốn thăm miền Beacon hơn, và tiện thể xem cái hình Người Khổng lồ.

      Vừa để tâm nghĩ ngợi, Oliver vừa dẫn hai cháu bà Yorke lên chỗ rồi dốc, trụi hết cây cối rằng, đó chân trái Người Khổng lồ gác lên. Bỗng nhiên chàng hỏi Luna:

      - Lúc nãy tại sao tôi lại đến đất nghĩa địa nhỉ? Tôi hiểu tại sao đấy. Dễ thường tôi hóa điên cũng nên.

      - Đâu nào! Ông vẫn bình thường đấy chứ. Có lẽ mấy hôm nay tôi gợi cái ký ức tổ truyền của ông nhiều quá nên bỗng nhiên kỷ niệm lại đến trí ông đó thôi.

      - Thế ai đem chỗ đất kia đến đó?

      - Đối với những người nhập môn thần học đất thiêng là của có phép từ trà. Cụ Pháp sư có lẽ vẫn chuyên tâm tìm tòi những thứ khác hơn là vàng kia!… Trong cái Gò kia hẳn còn giấu bí mật thảm khốc nào đó.

      Ba người lẳng lặng bước lên tận đỉnh đồi, nơi kỳ thú vì còn những dấu vết cổ La Mã với ao ước và dải cây viền bọc bao quanh. Họ tiến lên chỗ phẳng rộng chừng năm mươi bộ: đó là khoảng đầu Người Khổng lồ. Đứng đó trông ra, phong cảnh thực kỳ diệu! Ngay dưới chân họ, ngay phía dưới ụ đất, nóc nhà làng xóm lẫn với vầng lá cây. Đằng xa, từng đoàn mây lóng lánh màu bạc trôi dưới bầu trời xanh rộng mênh mông. con đường vắt vẻo như dải băng trắng chạy dần vào bóng tối xuống chiều.

      Luna lặng ngắm bức phong cảnh ngoạn mục vẻ não lòng đó mãi.

      Oliver nhìn xa về phía khu rừng. Gò Thunder đặt mình trong vòng cung những cây ủ dột. Chàng có thể trông thấy được những huyệt mà bọn thợ đào được và cái điểm sáng chiếc áo nịt mình Swanhild. Chàng ngoảnh , muốn nhìn thấy cảnh quen thuộc kia nữa. Chàng liền gặp đôi mắt Luna, đôi mắt chói lòa, thăm thẳm mênh mông như cõi vô cùng bát ngát.

      Lòng chàng bị đè nén. Chàng cất tiếng :

      - Tôi từng sống những giây phút này rồi! Cũng dưới bầu trời này, cũng thành đá biển kia, cũng mô Gò có bao nhiêu thợ đất… Nhưng bọn thợ xưa kia xây đắp chứ phá ra như bây giờ.

      Luna đáp:

      - Ký ức tổ truyền đấy!

      - Muốn gọi là tên gì cũng được! Nhưng tôi biết rằng cách đây lâu lắm rồi, tôi ở đây, ở đây cũng như bây giờ, bên cạnh người đàn bà có mớ tóc vàng ánh.

      Ngượng vì những lời bồng bột hăng hái quá, chàng bỗng dịu giọng xuống khi câu sau cùng. Rồi, lại trân trân nhìn Luna, chàng lai say xưa tiếp:

      - Ở đây là của tôi hết, cho đến khu rừng của miền ấp này! Địa hạt này dựng nên cho người hưởng hạnh phúc, tổ tiên tôi là cho nhân từ ngàn năm trời này! Các cụ chiến đấu vì nó: vì nó mà hy sinh tính mệnh; cả đến cụ Pháp sư cũng vậy, cụ dự hồi vào chiến tranh Lưỡng Hồng. Cha tôi với tôi cũng hiến mình cho đất nước, đến chính tôi cũng là chiến sĩ rồi! Thế dù đời tôi có bị cái bóng ghê gớm của bọn quái vật kia phủ lên, tôi cũng vẫn có quyền được vui sống!

      Chàng thốt những lời ấy ra với vẻ sợ sệt dị kỳ, đôi mắt màu xanh xám của chàng lóe lên những ánh lửa đỏ.

      Bấy giờ bà Yorke mới cất tiếng . Bà ôn tồn bảo chàng:

      - Mọi người chúng ta, ai cũng có quyền được sung sướng hết, hay cũng được sung sướng theo cái độ mà oan trái tổ tiên ta, tội lỗi của chúng ta, những trường hợp hoàn cảnh và các người quanh ta vẫn để cho ta hưởng.

      - Người quanh ta ử… (Chàng kêu thé lên). Thế ra bà nghĩ đến Kate phải ?

      - Trời ơi! đâu, ông ạ! Luna bảo ông rằng về chuyện ấy ông chẳng có gì phải ân hận tự trách kia mà!

      Chàng lẩm bẩm:

      - Nếu tôi mà chống cự

      Bỗng nghi ngờ, chàng ngưng bặt. Rồi lại :

      - Miss Bartendale! Có phải bảo con quái vật kia có lẽ là quả báo của tội tổ tiên đó chăng, có phải đó là di tích của quá khứ chết?

      Luna buồn rầu đáp:

      - còn gì sinh tồn linh hoạt bằng chết cả. Tôi tưởng tượng thế giới nhân loại ra địa cầu vô cùng to lớn, mà ở khắp mặt có ngàn năm trăm triệu người sống sinh hoạt bên ; còn ở dưới là đoàn lũ u huyền bí của hằng hà sa số người chết. Bọn ấy nay chỉ còn là tro bụi nhưng họ vẫn ấp ghì cả những người sống mà họ sinh đẻ ra đời, họ bao bọc lấy để mà din dủi cho phải theo đến đường chính hay đến đường tà. Phải đó! Tôi như trông thấy được họ, trông thấy cả mộ thế giới bên kia, những ngưởi mà tâm hồn, mà tư tưởng với lời việc làm đều còn trường cửu truyền dõi lại ở chúng ta là bọn người sống.

      Nàng chợt rùng mình lên. Oliver hỏi:

      - Thế ra ta chỉ là những phản ảnh của tổ tiên ta thôi sao?

      - phải thế đâu, ông Hammond ạ. Cái bản lĩnh riêng, tức là thứ ánh sáng mà Trời phú riêng cho mọi người chúng ta kia, khiến cho ta có thể chống cưỡng lại được di truyền mà vượt hẳn lên. Nếu tôi cầm chắc được rằng Thunder s Barrow giấu chìa khóa, cái bí quyết thế lực ma quái ám ảnh các con cháu nối dõi cụ Magnus., tôi chẳng khai bới gò Thunder làm gì.

      Oliver đáp cách vô tâm:

      - Cái đó cố nhiên.

      Rồi bỗng nhiên chàng :

      - Miss Bartendale ạ, cho rằng cụ thủy tổ nhà Hammond, cái người Đan Mạch tên là Magnus ấy, cho rằng tàn sát cả gia đình người vợ là Edith, phải . Nếu tưởng thế tôi dám chắc lầm đó.

      - Vậy ư? Tôi tôi thể tưởng tượng được rằng tay hải khấu lại xin cưới người đàn bà hồng mau mà biết hại phụ huynh của người ấy trước.

      - Sao vậy? Người đàn ông kia vì tình mà có thể quý mến họ hàng người đàn bà được chứ?

      - Tôi càng thể tưởng rằng tay ngược Bắc Âu lại bỏ cuộc đời tung hoành của mình để được lòng người đàn bà.

      Thế mà hai bên tâm đầu ý hợp được đấy. Mà cũng chỉ trong dăm bảy ngày là đủ cho họ hiểu nhau, chỉ từ ngày thứ hai tuần trước đến thứ hai tuần sau thôi. Tôi biết chắc như thế đó.

      Màu da trắng xanh của Luna bỗng thành ửng đỏ Oliver vội vàng nhìn . Chàng tiếp:

      - Tôi ăn như đứa trẻ vậy, nhỉ. Tôi biết đối với tôi nghĩ thế nào… Tôi trong mấy ngày gần đây, sao mà tôi sung sướng thế! Cứ được như thế mãi chẳng đẹp đẽ quá sao? Tôi biết tình thế ác nghiệt của đời, cũng như cụ Magnus hiểu hết tình đời bữa cụ trầm ngâm ở đây trước vị thần của giống Đan Mạch. Hẳn cho tôi là người điên rồ nhỉ, phải miss Bartendale?

      Luna ngập ngừng lát rồi mới cố tĩnh sẵng tiếng đáp:

      - Ông Hammond ạ, ông vừa mới đau dậy. Tính tình ông dễ bị xúc động mà tôi lại gợi những ký ức của tổ tiên ông trong tâm trí, làm ông bị kích động thêm…

      Giữa lúc đó, ba người trông thấy Swanhild vừa leo ra khỏi cái hố. Swanhild lớn tiếng gọi:

      - Xuống đây mau lên! Chúng tôi tìm thấy con Bò Vàng rồi!

      Luna ngạc nhiên hỏi:

      - Thế nào? Tìm thấy con Bò Vàng?

      Bọn đàn ông đừng quây lại mép hố sâu và rộng. Gođard hì hục cố lấy lên khỏi đáy vật nặng, lớn bằng người và trông chẳng ra hình thù gì. Toàn thể đều màu, lác đác có mấy điểm vàng ở những chỗ bị cạo sứt.

      Warren nậy ra miếng, xát mạnh lên áo để làm rơi ra lượt đất bám ngoài. Cái miếng ấy to và dầy bằng cái nắp hộp đựng mũ. Có những đinh rỉ xanh dóng ở hai đầu.

      Hốt nhiên, ai bảo ai mà cả bọn thợ cùng lặng người nhìn thấy chân trời đỏ hồng lửa mặt trời lặn. Rồi Hornblower tách ra khỏi bọn để tra bản lịch và xem những dấu chỉ chiếc đồng hồ của ta.

      Warren bàn:

      - Có lẽ đây là tượng thần chăng?

      Gođard:

      - Gỗ thông bọc vàng đây mà, bọc vàng lá đồng lại bằng những đinh đồng.

      Oliver nhảy xuống huyệt xem và ngay:

      - phải Bò Vàng mà tượng thần cũng phải nốt.

      Rồi ngửng nhìn lên qua lớp cây thông cái thân hình vừng núi Beacon nổi đen nền trời bầm tím, chàng thấp tiếng tiếp:

      - Vậy là cái gì được? Gỗ thông vẫn riêng dùng để tạc tượng thần kia mà? Với lại… À mà! Gỗ có phủ sơn và thép vàng, đây! vật vươn lên… Phải rồi! (Chàng bát ngát mê man, reo lớn tiếng). hình mũi hải thuyền! (#1) phải, hình tượng ở đầu chiếc chiến thuyền cổ. Ta đứng phía sân tàu chiếc tàu buồm của tổ tiên ta đó, em Swanhild ạ! Chỉ đôi thước đất nữa là đến nơi rồi. Em có nhớ ra . nhớ: chính con tàu này cụ Magnus ngược sông Adur đó. Rồi về sau, khi ông cụ mất, người ta táng ông cụ cùng với cả chiếc tàu. Chỗ thành tàu phía trước kia kìa. Còn chỗ này… (chàng đạo mạo trỏ xuống hai bên pho tượng nằm dưới đất) chính cụ Magnus ở chỗ này, ở phía dưới sân tàu của cụ đó. Cái miếng đồng màu xanh và hình lá chính ở dưới chân cụ.

      Luna cũng cất tiếng :

      - chiếc tàu lấy làm quan tài, với hình tượng mũi tàu! Ồ! Sao tôi nghĩ tới điều đó nhỉ?

      Trong lúc Oliver mãi , Hornblower mặc áo cùng với các thợ đất; bấy giờ trở vào và bảo:

      - Thưa ông Hammond, nửa giờ nữa mặt trời lặn. Chúng tôi xin về đây.

      Vẻ ngây ngô lo sợ từng nét mặt mỗi người trong bọn họ. đến thế nào với họ cũng ích gì.

      Luna hỏi:

      - Thế này làm thế nào mà đào xong được? Mà xong ngay bây giờ nửa phóng viên nhà báo ở London nghe tin đồn, thế nào sáng mai cũng kéo cả đến đây.

      Oliver:

      - Ba người mà cùng làm giờ có thể xong được.

      Swanhild lại cầm thuổng và bảo:

      - Nếu vậy về nhà , em cùng với Gođard đào nốt cũng được.

      Oliver:

      - . Tôi ở lại kia. Chưa đến đêm tối tôi chưa có gì phải lo sợ, miss Bartendale bảo thế đấy.

      Luna thêm:

      - Mà dẫu ban đêm nữa, khi có tôi đó ông cũng chẳng phải lo sợ gì. Tôi có cách báo trước cho ông tránh.

      Gođard lấy làm lạ hỏi:

      - Thế sao bảo cho chúng tôi biết cách ấy với?

      Nàng phân giải:

      - Là vì có những phép phải luyện tập quen tay dùng đến mới nguy hiểm.

      Bà Yorke bảo chung mọi người:

      - Tôi cuốc đất lúc cũng chẳng sao. Tôi muốn có mặt đây trong lúc quan trọng hơn là về nghỉ. Nhưng muốn đào tìm đến nơi đến chốn hẳn phải có thêm những khí cụ nữa.

      Miss Bartendale và Oliver liền quyết định cùng về lâu đài Dannow tìm những đồ chưa có. Oliver xin hứa lúc qua rừng theo con đường có cây lá um tùm.


      Chú thích:

      (1-) Hình mũi hải thuyền: Thuyền bể cổ thời Âu châu thường có những hình người hoặc vài giống thú tạc ở đằng mũi

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Jessie D. Kerruish

      Con Quỷ Truyền Kiếp

      Dịch giả: Thế Lữ

      Chương 23

      TRONG CĂN PHÒNG BÍ MẬT… ĐÊM NAY


      Lúc hai người ở Dannow trở lại cạnh khu rừng trời chưa tối hẳn. Dẫy thành đá biển sừng sững xa trông thấy cách dị thường dưới mầu trời bất định, phơn phớt vàng úa ở phía sau Thunder s Barrow. khuôn trắng rụt rè ló ra phía làng xóm, vài cửa sổ kính ở đó phản chiếu thứ sáng mầu đồng. Sương mù tan hết, để lại khí rét khan.
      có gió thổi hoài từ bờ bể về đây, thứ gió luồng mạnh làm uốn mình cây cối, im lặng thực hoàn toàn. Oliver với Luna đương bước lối quang bóng lá bỗng nghe thấy tiếng kêu thé lên.
      Oliver bảo:
      - Tiếng thỏ đấy. Lại có thằng khốn nạn đặt bẫy trong rừng rồi!
      Đôi mắt chàng long lanh tia lửa giận. Luna :
      - Gần đây thôi! Roska! Vào với tao!
      Oliver nắm cổ tay nàng giữ lại.
      - Tôi việc gì đâu, ông đừng sợ.
      Nàng vừa thế tiếng kêu tội nghiệp nữa đưa ra. Chàng lớn tiếng bảo Luna lại:
      - đừng vào!
      Nhưng nàng đáp, cứ chạy lên, con Roska theo liền gót. Chàng vừa lưỡng lự vừa bước nệm lá khô và trông thấy nàng thấp thoáng đằng xa tìm lục các bụi cây theo tiếng kêu của con vật. Chàng cất tiếng gọi, nhưng gió thổi át .
      khí được mùi nhựa thông, trong đầu óc chàng thanh niên, hình như quay cuồng, khiến chàng sôi nổi hẳn, và trái tim bị vấp động. luồng nhiệt độ chạy tràn lan khắp thân thể to lớn của chàng. Chàng thấy hớn hở trong người, rành rẽ cách huyền dịu chàng cảm biết tất cả các bộ bắp thịt hòa đối với mình, chàng nhận thấy rằng chân mình dầy xéo lớp dải lá thông, chàng tưởng thấy được nguồn máu chạy trong gân mạch. Hơn nữa, chàng hưởng cảm giác say xưa là từng sống những khoảnh khắc như thế. Tất cả mọi cái chàng đều quen thuộc hết, những cây thông kia, thứ bóng rừng mập mờ tối ấy, và cả chính chàng đây nữa, chàng khác nào vị thần tiên trai trẻ rượt theo người thiếu phụ chạy trốn trước mặt mình. Chàng quên hẳn con quái vật với cuộc săn đuổi bấy giờ. Lòng sợ hãi còn, lòng thương hại cũng mất và nếu nghĩ chút đến tên chàng chàng cũng biết gọi là gì. Lúc này chàng chỉ còn là chàng trai được mặc sức tự do, oai vệ giữa khoảng rừng u trong đó lang thang người đàn bà có mớ tóc vàng ánh. Phải, bao nhiêu đó từng diễn ra thuở trước, mà cái giây phút bấy giờ thu gồm tất cả hạnh phúc của trần gian, hạnh phúc thêm quý giá hoàn toàn vì chàng chưa tới chỗ tột cùng, tới cái điểm chỉ cách chàng có bươc tiến.
      bóng đen thoáng qua gần chàng. Chàng tiến đến với Luna lúc đó lom khom quý ở đầu ngõ toàn thông đứng. Roska ngồi cạnh chủ như bóng ma tối đen.
      Luna giơ cho chàng xem cái bẫy trống . Nàng bảo:
      Tôi nghiệp, nhưng con vật chỉ bị gẫy què có chân. Đối với con vật bị què, sống cũng vẫn còn đáng quý.
      Mắt nàng gặp mắt Oliver. Nàng liền đứng lên. Chàng cử động chút nào, sợ phá huỷ mất cái cảm giác tuyệt dịu mà chàng được hưởng. Trong giây lâu, đôi bên cứ nhìn nhau như thế mãi. Sau cùng Luna cố tình ngoảnh và liệng cái bẫy ra xạ Thế là phút thần tiên biến mất.
      Bỗng nhiên, Oliver lẩm bẩm:
      - Rừng thông đây?… Trời rét và có sao… (chàng thét lên) chạy ! Trốn ! Con quái vật đến đấy!
      Chàng cảm thấy tử khí, cùng với ghê tởm lấn tới tâm hồn; hình như có vật gì hư ảo quay vòng quanh chàng, hình bóng chạm thấy được và có sức đè ám nặng nề, đau xót quá đỗi mà lại vừa động đến được giác quan phàm trần của chàng. có định tâm, bất ngờ chàng hét lên tiếng, vang bên tai chàng như tiếng hầm hè cáu giận cất lên ở miệng kẻ kia:
      - Hây sa…a a!…
      Chàng nâng bổng Luna lên trong cánh tay còn mạnh của chàng, ngoắt quay mình rồi nhằm đường cắm cổ chạy. Con chó êm lặng theo sau.
      Bây giờ Luna lấy trong túi ra ngọn đèn bấm nàng đem theo sẵn để soi dưới huyệt lúc trước, dọi ánh sáng vào các vừng và xuống mặt đất rồi sau cùng chĩa lên mặt Oliver.
      - Chẳng có chi ở đây hết. (Nàng bình tĩnh )
      Câu ấy làm tan hẳn cái ma lực kinh khủng vừa rồi. Oliver chỉ còn thấy quanh mình những cây cối lù đen cánh tay mình ôm chặt người đàn bà, với trước mặt mình, con chó chạy. Tuy vậy, lúc ra khỏi rừng chàng mới thực yên tâm. Chàng bằng vẻ đắc thắng dữ dội với Luna:
      - Tôi thoát khỏi tay nó rồi!
      Nàng đáp gọn câu:
      - Tôi bắt nó phải chịu phép đó.
      Chàng cãi:
      - Chính tôi, tôi thắng được nó đấy. Trời cho tôi đủ sức đánh bại nó để cứu đấy.
      Luna lo ngại, khẽ kêu lên:
      - , tôi mới thực có phép khuất phục được nó kia.
      Chàng đắc ý phá lên cười, rồi đành nhận:
      - Thế cứ bảo là cả hai người cùng đánh nó thua vậy.
      Bỗng Luna bảo:
      - Ông để tôi đứng xuống đất thôi.
      ra cả hai đều nghĩ đến cái dáng điệu kỳ dị của mình. Đối với Oliver, trong khi cái phần minh mẫn của chàng cãi vả với Luna, cái phần thấy rất tự nhiên việc ôm sát lấy nàng ở trước cảnh trời cao rộng. Chùm sao – những điểm sáng dịu, hình bóng của những ngôi sao lấp lánh ngàn năm về trước, là hồi chàng từng ôm người đàn bà trong tay và từng hưởng vị hạnh phúc say sưa tới đau đớn. mà những quả cây thủy tùng kia ở ngay gần đó, phải chăng là cặp môi đỏ thắm của Luna, hay là cái miệng của nàng chỉ là hình nhắc lại những quỷ thủy tùng chín đỏ cây ngàn năm thuở trước?
      Câu lúc nãy của người thiếu phụ đánh thức Oliver tỉnh các giấc mơ màng vừa mờ ảo vừa rệt: vang bóng phai lợt của thời trong đó tổ tiên chàng tự mình chiếm đoạt lấy người bạn trăm năm.
      Chàng đặt Luna xuống đất, có lấy lời xin lỗi hay phân trần nào. cảm động kì dị còn vương trong trí chàng. Rồi những hình ảnh của tâm tưởng biến dần dần, chàng trở lại sáng suốt.
      Luna hỏi:
      - Này ông kêu lên câu gì vậy?
      - Tôi cũng chẳng biết nữa, tôi cứ tự nhiên kêu lên thôi. Hay là tôi chợt nhớ lại được câu thần chú có thể xua đuổi con quái vật, nhỉ?
      - phải. Tôi nhận ra tiếng kêu ấy, mà tôi lại biết cả nghĩa tiếng ấy rồi. Nếu ta tìm thấy được câu cổ tự nào miếng đồng thứ hai … nào ta , ông.
      Hai người lại thẳng đường trước mà . Oliver mỉm cười. Cái thời kỳ giao thiệp của nhà chủ đối với bà thầy nay mãn rồi: bây giờ đôi bên cư xử với nhau được như ý chàng mong ước. Chàng chẳng cần phải , Luna cũng còn là gì cái tình quyến luyến mà nàng gây ra trong lòng chàng: nàng đọc thấy tình cảm đó ở đôi mắt người trai trẻ. Chàng ngẩn nhìn khu rừng tối và lại mỉm cười. Chàng sung sướng vì gặp con quái vật và thắng được nó. Nó là giống gì mặc dầu, con quái vật kia cũng hại được nàng, mà đến chàng nó cũng làm gì được khi mà hai người cứ ở gần nhau.
      Luna dò hết những ý nghĩ kia mặt chàng. Trong giây lát nàng toan đem cả thực ngay cho chàng biết để đánh đổ những mộng tưởng hão huyền kia và để cắt cho lòng nàng cái ách nặng nề vẫn đè nén. Nàng nên chống cự với chiều hướng của lòng mình đối với chàng ngay từ lúc chưa quá mới phải. Nhưng hết với chàng những điều mà nàng biết tức là tự tay phá hủy mất bao đường dây che chở mà tài năng và thông minh của nàng chằng mắc ở quanh bản mệnh Oliver Hammond.
      Nàng sẵng tiếng :
      - Con quái vật thể làm gì tôi nổi đâu. Nhưng ông phải nhớ rằng ông hứa tránh mặt nó.
      Chàng cãi:
      - ở gần có xông pha liều lĩnh bao giờ. Này, miss Bartendale ạ, tôi thấy cảm tưởng ngộ nghĩnh lạ: tôi thấy hình như tôi vừa là tôi lại vừa là những người sống những đời tôi. Điều đó tuy có hại cho sức khỏe của tôi đôi chút thực, nhưng thực là chứng bệnh dễ chịu.
      Luna bị dầy vò bởi cuộc chiến đấu trong thâm tâm, nàng gượng gạo đáp:
      - Khi nào ông biết thực ông còn có chút bệnh nào gì nữa hết.
      Hai người hết con đường. Swanhild chạy lên đón họ. Nàng reo to:
      - Chúng tôi đào tới mặt sàn tàu rồi đấy!
      Cạnh mép huyệt, Warren ngồi nghỉ đống vừa đá vừa các thứ gỗ đất, gỗ, xúc ở dưới mồ lên. Gođard gõ cái xẻng ở tay xuống khoảng mặt gỗ đen sạm và :
      - Mục nát lắm rồi! Vôi đổ dưới này làm ruỗng mất cả. Bây giờ chừng phải nậy bật mặt gỗ lên, phải ?
      Trước khi quyết định hẳn, Luna rờn rợn khắp người. Lập những giả thuyết trong suy luận là chuyện, mà khai quật người chết, dù là bao thế kỷ trước, lại là chuyện khác. Warren muốn xuống nhưng Oliver ngăn lại. Chàng đoán biết những ý nghĩ trong trí miss Bartendale.
      Nghiêm giọng, chàng :
      - việc gì phải động đến giấc ngủ của cụ Magnus. Cứ để tôi xuống xem.
      Chàng nhảy xuống mặt sân tàu rồi xem xét hồi rất kỹ lưỡng, chàng bảo:
      - Mũ đội đầu ông cụ Ở ngay chỗ đứng đó, Gođard ạ. Hai mớ tóc tết bím ở phía dưới chỗ tôi, còn mảnh đồng mà ta cần tìm ở dưới chân ông cụ, vậy chắc hẳn ở vào khoảng này đây. Cứ chỗ này mà đào, nhưng phải cẩn thận đấy!
      Nửa giờ sau – lúc ấy mặt trăng chưa lên hẳn - Warren với Gođard theo lời Oliver chỉ, lấy lên được chiếc giầy da nát, cái mớ tóc vàng cài ở lỗ khuỵ Chiếc giầy như lớp mỏng bụi vàng trước kia khẩu xương của ông cụ; họ đem lại vùi xuống chỗ cũ. Tìm nữa, họ lấy được ba mảnh đồng, đem ghép lại thành cái miếng đồng mà Luna đặt bao hy vọng lên.
      khí khô ráo trong đó giữ được khỏi hoen ố, nhưng mấy mảnh đồng bị vôi ăn mòn. Oliver và Luna dùng bao tay bằng da chùi nhẵn cái mảnh lớn nhất nhưng hư hỏng sao vớt lại được nữa: những chữ cổ tự bị xóa hết mọi nét rồi.
      Trong lúc Gođard với Warren tạm đậy cửa mộ lại để hôm sau bưng nốt, Luna với em Oliver xem xét mấy mảnh đồng. lúc lâu, Swanhild khẽ rùng mình và hỏi:
      - Thế nào?
      Luna lưỡng lự rồi đáp:
      - được việc gì nữa rồi.
      Oliver:
      - còn cách nào nữa sao?
      - . Về mặt này thế là hết nước, xin đành chịu. Nhưng tôi dùng cách khác vậy, dùng cách tôi rất ghét dùng.
      Giọng nàng được vẻ buồn chán kỳ dị.
      Nàng bực dọc ngoắt và trở ra chỗ xe hơi với Swanhild. Cảnh đồng núi đẫm trong màu sương lam mờ. khu rừng đầy khí. Con Người Quái gở hình như phá lên trận cười mênh mông.
      Swanhild lấy chăn khoác cho Luna và đánh bạo hỏi câu mà nàng rất nóng biết:
      - Miss Bartendale ạ, cái cách mà lúc nãy là cách nào vậy?
      Luna:
      - Tôi muốn bắt con quái vật phải xuất đầu lộ diện đêm nay trong căn phòng bí mật, rồi tôi nguyên do nó ở đâu mà ra.
      - có phép làm được thế kia ư?
      Câu hỏi của nàng khẽ thốt lên và mắt nàng sợ sệt đưa về phía rừng, tưởng đâu con quái vật sẵn sàng đáp lại được. Luna :
      - Phải, tôi có phép làm được, mà cũng được xem.
      - Thế tôi trông thấy con quái vật sao?
      - Nhưng nó làm gì hại đến được đâu, vì tôi trị được nó. chết vì gặp nó đâu, song từ lúc đó trở cuộc đời của còn giống như từ trước đến nay nữa. Muốn cứu thoát , cần phải biết thực. Vậy có sợ ?
      - Sợ, nhưng tôi cũng cứ đến. Vả lại, sau điều chúng tôi thấy trong hồi chiến tranh
      - Chưa có điều ghê gớm nào làm bớt được cái điều mà tôi cho biết đâu. Mà đừng có gì qua với hai ông kia đó, việc này chỉ ta biết với nhau thôi.
      Swanhild hứa giữ miệng. Xét cho cùng trông thấy con quái vật cũng ghê gớm quá đến thế, khi biết trước giờ nào thấy, và thấy ở chỗ nào!
      Nàng thấp tiếng nhắc lại:
      - Trong phòng bí mật, đêm nay…
      Hốt nhiên Luna khẽ nhắc im: phía sau hai người, Gođard tiến đến. Chàng kiếu bữa cơm tối mà em Oliver mời, và xin thẳng về nhà.
      Cái việc xông xáo ngôi mộ vừa rồi khiến mấy người giá lạnh, cho cả Luna xem chừng cũng phải sờn lòng. Vả lại chàng còn nóng muốn được cặm cụi ngay trong việc xem xét những giấy má cũ. ai kịp hỏi han đến công việc của chàng, vậy mà chàng dò đọc được ba đoạn đó có tên Warlock và nhiều điều có thể dẫn lối cho công cuộc điều tra chung. bản giấy má đó, người được mục kích việc xưa thuật lại những rủi ro của cụ Warlock trong khi cụ đào tìm trong ngôi mộ. Gođard muốn chép hết tập cảo rồi mới cho mọi người biết, nhưng vì cả ngày làm việc giữa trời chàng nhọc mệt quá, chàng đành thôi.
      Tuy thế, tin chắc rằng dù chưa đầy đủ những điều tìm ra kia cũng làm bớt được việc cho Luna, chàng mới nhất định để chậm hơn, đưa ngay cho Luna biết: chàng liền lại lên lầu Dannow. Thực ra, trong thâm tâm chàng cũng có áy náy muốn được gặp Swanhild, mà ban nãy, lúc bước lên xe, chàng bắt gặp thấy có cử chỉ khác lạ.
      Gođard theo lối tắt qua rừng rồi dọc theo bờ hào phía tây khu ấp. Lầu Dannow cũng theo phần nhiều nhà cửa miền Sussex, ngoảnh mặt ra phía Bắc: thành thử chàng phải quanh vòng. Những vừng cây lá lẫn sắc với vòm trời trong màu xám mờ phân biệt được. Duy chỉ có cái hình kỳ quái ngàn năm là sừng sững nổi lên đỉnh đồi.
      tới chỗ cầu hào, Gođard đứng dừng lại kinh ngạc; chàng thấy trong phòng bí mật có ánh sáng! Thế là ngay lúc ấy cử chỉ Swanhild thầm với Luna lúc trước lại đến trí chàng. Chàng thấy được ý nghĩa câu của nàng: “trong phòng bí mật, đêm nay…”.
      Câu ấy quay lên trong đầu óc chàng trong khi chàng lại đưa chân bước. Thiếu chút nữa, vì đãng trí chàng bị ngã xuống đám nước tù váng dưới hào; chàng víu chặt lấy cành thông mà chàng vừa kịp nắm được. đầu chàng, cách chừng hơn chục thước , là cái lỗ cửa sổ căn phòng kín. luồng sáng kỳ dị mờ mờ xanh màu bí mật, tự đó soi ra. Nếu trong ấy có người tại sao họ để trống, đóng cánh gỗ lại?
      nỗi lo sợ suy nghĩ làm sôi nổi cuống quýt lòng chàng nặng tình. Sau bức tường này có những chuyện gì đây? Chàng cũng chẳng nghĩ đâu đến lối tọc mạch lịch của mình nữa: nếu có những điều thảm khốc sắp xảy ra chỉ có mình chàng là có thể ngăn được thôi. Vậy , mặc thây cả lễ độ! Chàng vắt áo phủ ngoài lên thành cầu rồi trở lại dưới cửa sổ. Chàng bám lấy những cây leo, có những thân già to như dây chão và trèo lên dọc tường, chàng luồn lách trong cành lá như con rắn, mặc cho gió thổi từng cơn lay lắc mạnh. Trèo tới gần cửa sổ, chàng níu lấy những song sắt và đứng vững chân lên chỗ đường gạch xây nhô mặt tường.
      Từ chỗ nấp đó, chàng chỉ thấy được lần song sắt bên trong. Những tiếng – tiếng của Luna – đưa tới tai chàng. Chàng từng nhận thấy cái mãnh lực huyền bí của giọng kia. Đêm nay giọng đưa lên, sắc nhọn, nhàng, thầm hoặc đanh thép. Bỗng nhiên ánh sáng vụt tắt.
      - Ngươi ở trong rừng thông đây. Sao long lanh. Trời giá rét. Có sao sáng, có gió lạnh, có mùi thông… Ngươi thể qua những nét vạch dưới đất. Bên ngoài nét vạch ấy có nhân mạng làm vật hy sinh cho ngươi. Ta có quyền lực để chiêu hồn ngươi về đây hỡi Hammond muôn kiếp! Giữa rừng thông, trong giá rét dươi ánh sao sáng, ta truyền cho ngươi về, hỡi linh hồn thoát thể! Nhân danh quý thần Ases, nhân danh Odin cha cả muôn loài, nhân danh Vingi Thor, nhân danh Asa Lok, hỡi Hammond linh hồn thoát thể! Hãy mặc lấy lốt cũ mà về!
      Thứ văn chầu siêu phàm và buồn buồn điệu kia ngừng lại. Trong những giây phút im lặng ấy, gió vù vù thổi mạnh bên tai Gođard. Rồi, thốt nhiên, át cả tiếng bão táp, tiếng rú kinh khủng vang lên làm rựng tóc gáy người thanh niên. Tiếng rú quái gở tiếp nối thành tràng tiếng, the thé lại gầm gừ, lại vang chìm rồi nổ ròn, khi như hơi thú, khi như giọng người, vừa ngạo nghễ vừa chán chường, vừa reo mừng vừa cay đắng. Bao nhiêu căm hờn, bao nhiêu dậm dật, tất cả bao nhiêu dục vọng bỉ ổi của linh hồn hư hỏng vì tà khúc đều thốt ra trong tiếng rú phi thường kia.
      Gođard hiểu ngay: chàng vừa nghe thấy tiếng con quái vật. Nó rống đến ba lượt. Rồi tiếng khác nức nở đưa lên. Đó là tiếng Swanhild, nàng kêu van:
      - Luna! Trời ơi!…
      Những tiếng gầm rống lại nổi lên. Swanhild giọng chua xót lại cất tiếng:
      - Luna, Luna! Tôi còn sức nào chịu được như thế nữa đâu!
      Ánh sáng lại bật lên, tức khắc tiếng gầm im bặt.
      Kinh dị hết sức, Gođard vẫn bám mãi ở lưng chừng đám cây leo. Cánh cửa gỗ bên trong đóng lại rồi và Luna hẳn lại tiếp theo việc thí nghiệm nguy hiểm. Thế ra cái gương cụ Warlock để nàng thấy điều tai hại nào ư? Mà Swanhild lại ở trong kia, ở ngay mép bờ hoảng hốt – Xưa nay Swanhild dù ở trong cảnh rủi ro oan khổ nào nhất, có hề kêu khóc hay khiếp nhược như thế bao giờ đâu!
      Cái tai nạn nàng mắc phải kia đem trả lại chí quả quyết và lòng can đảm cho chàng: chàng phải mau mau giằng kéo nàng ra khỏi căn phòng kín mới được! Chàng thể vào đó do đường lối trong nhà vì Swanhild vẫn quen khóa cửa lại, trừ cánh cửa văn phòng. Còn những lượt song kia thể lay chuyển được. Trông thấy những gợn dưới mặt nước hào đen ngòm. Gođard chợt nghĩ đến cái căn hầm có bể trữ nước. Chàng từng đùa nghịch trong lầu nhiều lần với Reggie và Oliver, nên biết được các đường ngang lối ngách. Chàng nhớ ra rằng các hào đều ăn thông với bể trữ bên trong do mạch nước hẹp vừa đủ cho người mảnh dẻ để lách qua.
      Thực là vất vả! Ngay giữa ban ngày mà trước kia ba cậu con trai phải dắt đỡ nhau mới cố mà qua được bước ấy. Nhưng cái ý tưởng cấp cứu Swanhild thêm sức cho chàng. Hai lần Gođard hụt taỵ Phải lặn đến lượt thứ ba chàng mới nắm được chỗ sù sì trong kẽ đá. Sức nước chảy mạnh đến nỗi ấn đầu chàng vào giữa vai mà buồng phổi hình như muốn vỡ. Mặc dầu, chàng vẫn cứ lách trong cái mạch hẹp mà tiến dần. Bỗng sức đè nán bớt . Gắng hơi cuối cùng nữa để cưỡng với cái sức hút nó miết chàng vào trong thành bể, thế là chàng nhô được lên khỏi mặt nước.
      Trông chung quanh im ắng và tối mò, vệt sáng xẻ mặt trần hầm và cho Gođard biết chàng đoán sai: cửa phòng bí mật còn mở. Nhảy hai bước, chàng đến cái đường ngạch trước cửa phòng.
      Chàng đứng lặng hồi, trống ngực đập mạnh. Lát nữa chàng khám phá những điều gì đây? Cái im lặng như chết kia khiến chàng lo sợ; chàng tiến bước và mạnh bạo vào phòng.




      Jessie D. Kerruish

      Con Quỷ Truyền Kiếp

      Dịch giả: Thế Lữ

      Chương 24

      BAO NHIÊU CHUYỆN, CHỈ Ở TRONG TIẾNG THÔI


      Swanhild ngồi có mình. Thoại nhìn, chàng tưởng nàng chết mất rồi. phân tách khác thường của ý thức do khi gặp những xúc động mạnh gây nên, khiến chàng lấy làm lạ sao mình bình tĩnh được đến thế.
      Cái bàn của cụ Pháp sư kéo dẹp vào góc ở phía dưới chân thang. Ngọn đèn soi ba bề bốn bên trong căn phòng và nhất là chỗ Swanhild chống khuỷu tay lên bàn, mặt úp vùi trong hai cánh tay khoanh lại. Bụi rác cùng những tảng đá đều đầy dồn về rẻo chân tường và khảong mặt đất dọn quang hình vạch phấn vẽ thành ngôi sao năm cạnh gọi là hình ngũ giác. Ở giữa nằm chiếc ghế dựa đổ. Chung quanh đặt cái Bàn Tay Danh Vọng, thanh gươm gẫy và những mảnh nậyt ra ở cái tượng mũi tàu.
      Trong giây đồng hồ, Gođard ghi hận được đủ bằng thứ ấy. Bậc thang kêu cọt kẹt dưới bước nặng nhọc của chàng. Swanhild ngẩng đầu lên rồi đứng dậy. Thong thả, chàng bước lại gần nàng. Người thiếu nữ cất tiếng :
      - Gođard! Em biết mà! Em chắc thế nào cũng đến, giữa cái lúc… Ồ! Mà!… (Giọng nàng nghe thiểu não quá) mà sao đến từ trước đây mười phút?
      Nàng ấp hai bàn tay che lấy m,ặt: lkhuây lkhỏa chàng đem tới chốc lát lúc mới vào, nay biến rồi, nhường chỗ lại cho lòng kinh tởm. Gođard nắm lấy cổ tay Swanhild:
      - Thôi, ta ra ! Tôi biết lúc nãy con quái vật ở trong này, có cả miss Bartendale nữa.
      - Phải rồi. Nó huiện về đấy, Gođard ạ. Nhưng làm thế nào vào được đây thế? Mà sao quần áo ướt thế này?
      - Tôi lội qua hào. Nhưng các chuey65n vừa rồi là thế nào?
      Nàng dần dần định được vị trí:
      - Em vừa trông thấy con quái vật. Em khiếp sợ quá, nhưng có miss Bartendale đó lo nguy hiểm gì, hay là nguy đến thân thể.
      - Là vì lúc đó nó ở trong hình ngũ giác phải ?
      Chàng cũng giữ lại bình tĩnh. Bao nhiêu điều chàng nghe biết về cái hình vẽ linh nghiệm trở đến trí nhớ chàng: giống ma quái nào vượt qua được những nét vẽ.
      Swanhild lo ngại hỏi chàng:
      - Thế biết được những điều gì rồi?
      - Tôi mới biết những cái nghe thấy lúc cánh cửa sổ chưa đóng lại. Sau lúc ấy tôi tìm cách vào đây với Swanhild.
      Nàng âu yếm nhìn chàng:
      - Thế ư? Gođard!
      Rồi bỗng gương mặt sầm buồn, nàng nhắc lại:
      - Sớm mười phút trước nghe thấy gì khác nữa chứ?
      - . Nhưng còn Swanhild Swanhild thấy những gì?
      - Tôi thể cho biết được.
      Nàng giữ được bình tĩnh nữa và sụt sùi khóc:
      - Khổ quá thôi! Trời kia cho Oliver được sống làm gì, để phải đến bước ấy? Thà trời cứ để cho ấy chết vinh hiển ở mặt trận có hơn !
      - Đừng! Swan! Em thế nhưng em đâu lại nghĩ thế!
      - Em nghĩ như thế đấy, thế có khổ ! Bây giờ em biết cụ Pháp sư và ông em tại sao lại quyên sinh sau khi…
      - Swanhild!
      Chàng hấp tấp chạy sang phía bàn bên kia, giữ người thiếu nữ trong tay mình, sợ nàng đến mất trí. Nàng vội ngay, vừa tránh xa chàng, đôi mắt long ra vì kinh hoảng:
      - ! Gođard, đừng sợ gì hết. Phần em, lại thế được nữa. Luna báo trước cho em biết, nhưng em phải thấy thực em mới tin. Đến bây giờ thôi, còn gì giữ em ở đời này nữa.
      - Còn chứ. Bổn phận của cộ còn phải trông nom cho người, người ấy cũng phải biết thực.
      Để cả tâm trí áy áy về Swanhild, Gođard quên mất người thiếu phụ. Trong thân áo chùng rộng màu xám buông những nếp trang nghiêm, nàng khoan thai tiến lại trông chẳng khác đạo sĩ của những lễ giáo cổ mất .
      Chàng càu nhàu giọng thiếu phần nhã nhặn:
      - Ấy thế mà chính tôi, tôi xui người ta mời bà đến đây!
      Luna mỉm cười lạnh ngắt, đáp lại:
      - Rồi ngày kia ông hiểu rằng vì thế mà ông làm ơn cho họ đến chừng nào.
      - Swanhild vừa phải phen nguy hiểm ghê gớm đấy thôi!
      - Chẳng có nguy hiểm nào hết! Tôi chỉ tìm cách khôn khéo cẩn thận hết sức bảo cho ấy biết những điều cần phải biết đó thôi.
      - Thế cũng bảo cho tôi biết với, có được ?
      - , bây giờ thể được. Nhưng sao ông lại có thể cho rằng tôi lấy làm vui trong những việc kia, mới được chứ?
      Câu ấy của nàng đầy chua chát và mỉa mai. Swanhild quàng lấy hai vai mảnh dẻ của Luna và trách chàng:
      - Gođrad, đừng nên làm phiền lòng Luna mới phải. Luna còn đau khổ hơn tôi nữa kia.
      Luna gỡ vai rồi qua cái hình ngũ giác, lượm lấy cái Bàn Tay Danh Vọng và hỏi Gođard theo giọng tự nhiên lúc bình thường:
      - Sao ông lai vào được đây thế, ông Covert?
      Swanhild hộ chàng:
      - ấy nghe thấy tiếng tôi kêu lên, rồi lội qua hào mà đến. Ồ, giá ấy đến sớm được mười phút…
      Luna gật đầu:
      - cố nhiên là hay hơn.
      Nàng gói cái bàn tay vào cái túi vải rồi bỏ nó vào phiến đá rỗng lòng. Gođard chăm chú nhìn theo các cử chỉ của nàng. Bỗng chàng :
      - Miss Bartendale ạ, lần đầu tiên vào trong phòng này, mới gần động chạm đến cái bàn tay kia cũng rùng mình kinh tởm. Thế mà bây giờ chính tay lại cầm lấy nó mà vẫn thấy gì, cũng nên nhận rằng điều đó lạ lùng .
      Nàng đỏ mặt đến tận chân tóc, rồi mới đáp:
      - Đó là bí quyết nữa của tôi. Ông cho là lần trước tôi giả vờ cảm động như thế, chứ gì?
      Sewanhild cũng phải gắt lên:
      - Gođard! mà còn ngờ vực Luna nữa tôi nhìn mặt (#1) nữa đó.
      Luna:
      - Ông Covert ạ, rồi sau này ông hiểu tại sao tôi có những thái độ đó. Phải vậy chăng, Swanhild?
      - Tôi cũng bảo ấy như thế rồi. Chị mà chưa thành công hay chưa thất bại hoàn toàn, chỉ có mình tôi là được biết việc phải giữ kín. Gođard ạ, dù thấy thế nào mặc lòng, cũng nên tin rằng ai gặp phải gì rủi ro hết, như thế có chịu ?
      Chàng do dự đáp:
      - Để thử hỏi ý kiến Oliver xem .
      Nhưng Luan cực lực can:
      - ! cớ gì được hỏi. Ông ấy được biết tý gì hết, đến lúc tiện hay.
      Swanhild căn dặn thêm:
      - Nếu mà ngỏ cho Oliver bất cứ điều nào phải ân hận suốt đời đó. Chỉ trong vài ba hôm nữa là cùng, chúng tôi cho cả hai biết thực.
      Gođard vẫn chưa chịu hẳn:
      - Đành rằng các muốn bảo gì Oliver để khỏi làm rối trí ấy, ừ cũng được. Nhưng tại sao lại giấu giếm cả tôi? Swanhild cũng thừa biết rằng hơi chút gì lo sợ về phần em là cũng làm cho tôi phát điên lên được kia mà.
      Luna lại :
      - Chúng tôi thể cho ông biết gì hết. Nhưng từ nay chúng tôi bao giờ lại vào căn phòng này, bao giờ lại phụ con quái vật lên mà có ông với cả ông Hammond nữa. Chúng tôi tìm lấy cái nguy hiểm đâu, ông nên tin cho như vậy, mà hôm nay, chúng tôi chỉ làm những điều dừng được đó thôi.
      Gođard vẫn mực; chàng khẽ :
      - thực bí mật lạ lùng!
      - Tôi cần phải như vậy đó. Bao nhiêu việc xảy ra kia chỉ phân giải trong câu mà thôi, có lẽ chỉ trong tiếng .
      Bất giác nàng đưa thoáng mắt nhìn lên những chữ khắc phiến đá. Gođard bắt chợt được, vội hỏi ngay:
      - Có phải là tiếng cổ ngữ ?
      Nàng mỉm cười, bí mật:
      - Có lẽ…
      Chàng hỏi nữa:
      - Tự tôi liệu có tìm ra tiếng ấy được ?
      Câu ấy làm Swanhild kêu lên tiếng ngạc nhiên. Nhưng Luna cũng rời đôi mắt thấu suốt nhìn chàng. Nàng hạ giọng đáp:
      - Tùy ông đấy, ông tìm, tôi cũng thể giữ ông nổi.
      - Nhưng chắc tôi có phần nào tìm ra được ?
      - Điều đó tôi ngờ lắm. Tuy thế, bao nhiêu luận đề của bài tính đố ông biết đủ rồi đó. Vậy bây giờ ông hứa gì với ông Hammond rồi chứ?
      Chàng đăm đăm nhìn Luna, ngờ vực gì những ý định của nàng, nhưng lại e rằng cái câu “bao nhiêu việc chỉ khám phá trong tiếng” kia là mưu mẹo đánh lừa chàng. Thế mà lúc đưa mắt nhìn mặt phiến đá khắc chữ quả là cử chỉ thực, tự ngăn kịp, và thực kỳ dị Ở người thường vẫn thản nhiên được như nàng.
      - Gođard, chết nỗi, chúng tôi quên rằng bị ướt đẫm cả thế kia kìa!
      - hề gì hết!
      Chàng sẵng tiếng đáp lại, bực mình vì thấy những việc vừa quan trọng như thế mà nàng lại để tâm đên cái điều nhặt này. Nhưng chàng lại hối hận ngay và :
      - Các đừng giận tôi nhé.
      Luna hỏi:
      - Thế nào ông Covert? Ông có ưng thuận nghe theo chúng tôi , ông dứt lời cho chúng tôi biết .
      Swanhild cũng :
      - Gođard của em ạ, ai việc gì đâu mà sợ, việc gì đến ai hết, chỉ trừ có Oliver thôi, trừ có Oliver đáng thương và hiền lành của ta thôi. Chỉ có ấy mới bị con quái vật hãm hại, mà nếu miss Bartendale thành công được
      Nàng thành tiếng nữa.
      Luna lạnh lùng hỏi:
      - Thế ta đồng ý với nhau rồi chứ?
      - Vâng, cái đó cố nhiên rồi.
      Chàng yên trí rằng tai nạn tránh khỏi được lúc nãy và tự cho rằng mình biết được nhiều điều hơn, chứ như miss Bartendale tưởng.
      lối chung giữa lầu, Swanhild đứng lại bảo chàng:
      - vào với Oliver ! Oliver ở trong gian Holbein, chuyện với bà Yorke đấy. Rồi thay quần áo .
      - , tôi muốn gặp ai lúc này hết. Tôi ra lối cửa sau rồi về nhà đây.
      Đối với chàng, bây giờ, mọi đều có vẻ huyền hồ khó tin cả. Nhưng những tiếng rú của con quái vật lại vẫn vẳng bên tai chàng. Chàng ôn tồn bảo Swanhild:
      - chắc ở lời hứa của em đấy, Swanhild ạ. Thôi, muốn để quá lỡ bị cảm, thêm mối lo nữa cho em.
      Nàng hỏi:
      - À quên, lúc nãy định lên lại đây để làm gì thế?
      Chàng muốn dài lời, chỉ đáp:
      - định đem phần những điều dò xét được đến. Em mệt lắm rồi em ạ.
      Luna:
      - ấy biết mình hết sức ngay từ lúc ông vào rồi kia! Thôi, ông Covert, xin ông về ! Tôi van ông đó.
      Chính nàng xem ra cũng suy nhược. Gođard dùng dằng thêm nữa, chàng ra về ngaỵ Swanhild theo chàng ra tới sân. Nàng tha thiết :
      - nên vững tâm tin Luna và em. Rồi Luna phân giải cho nghe, hiểu hết. Nhưng em muốn để về mà
      - nghe rằng vẫn vững tâm tin em chứ gì? tin em lắm, em ạ.
      - Bây giờ về mau mau lên!
      Nàng trở vào rồi chàng về phía cầu hào lấy chiếc áo choàng còn để đó. Những ý nghĩ trong đầu chàng được rệt. Chàng chỉ biết chắc được rằng Swanhild việc gì nữa và chìa khóa bí mật ở trong tiếng khắc phiến đá kia.
      Chú thích:
      (1-) tôi nhìn mặt : nguyên văn “tôi thù đó”




      Jessie D. Kerruish

      Con Quỷ Truyền Kiếp

      Dịch giả: Thế Lữ

      Chương 25

      BÍM TÓC ĐÁNH LỪA


      Về đến nhà rồi, Gođard vừa thay quần áo khô xong và ngồi trong phòng sách dưới ánh đèn thân mật, là chàng đâm ra nghĩ ngợi và ngạc nhiên với nghi hoặc hoài, chỉ có tiếng gầm quái gở với tiếng kêu khóc tuyệt vọng của Swanhild mà chàng còn nhớ cho chàng tin rằng lúc nãy phải là chuyện chiêm bao.
      Cả thái độ cư xử của chàng cũng thấy thể hiểu được. Đáng lẽ chàng bảo ngay cho Oliver biết và bắt buộc hai người đàn bà đem việc giữ kín ra với chàng mới phải chứ? Đáng lẽ chàng có trăm ngàn điều làm mà chàng bỏ qua.
      Đến lúc chàng bình tĩnh dẹp được bối rối suy xét, nhận ra rằng thái độ của chàng như thế là phải. Swanhild và Luna việc gì, hai người hứa với chàng làm lại việc kia mình nữa, vậy chàng phải yên lòng mà tin lời hai người.
      Chàng lại nghĩ: ở trần gian này liệu có giống nào rú lên được những tiếng mà chàng nghe thấy chăng? Những truyền ngôn cũ lại đến trí chàng: nào ông tổ truyền kiếp, nào giống vật nửa người nửa thú cách ít lâu lại thác sinh trong dòng họ nhà Hammond và bị nhốt vào căn phòng kín, nào những người chết, sống lại, thành những giống trùng hút máu người… Chính miss Bartendale cũng đến thực đáng ghê sợ xa những chuyện phao đồn kia lắm. Còn về việc vong hồn hiển chàng là người rất thiết thực, hề tin.
      điều khiến chàng để tâm là Luna với con quái vật đều ra khỏi phòng trong cái giờ chàng phải qua cái ngạch nước thông dưới trường. Con quái vật biến hay sao? Cái tiếng “xuất ngoại tinh chất” lướt đến ý nghĩ chàng. Miss Bartendale liệu có phải dùng đến cách này để làm xuất vật hư ảo chăng? Chàng nghe tiếng Luna trong lúc có tiếng rú: hay lúc ấy nàng ra ngoài phòng rồi?
      Sau nữa, chàng lại biết thế nào mà đoán về cái câu Swanhild reo lên: “Gía đến sớm được 10 phút nhỉ!” Mà Luna cũng đồng ý mong mỏi này.
      Bấy nhiêu điều có vẻ trái ngược nhau. Nhưng rút lại chỉ có điều sau này, chàng thấy quan hệ hơn cả: hai người đàn bà liệu có được vô trong lâu đài Dannow ? nhầm lẫn của miss Bartendale hay bất cứ rủi ro nào cũng vẫn có thể xảy ra được.
      Gođard gọi điện cho Oliver xin lỗi làm phiền chàng và hỏi chàng về những công việc ngày hôm sau. Trong lúc chuyện, Gođard cho len vào câu hỏi mà chàng vẫn băn khoăn nghĩ ngợi mãi, Oliver cho chàng biết rằng Swanhild với Luna mệt nhoài vì cả ngày làm việc vất vả. Sau bữa cơm tối, trong chàng ngồi chuyện với bà Yorke, em chàng rủ Luna vào nhà kho, rồi lúc trở ra nàng mặt mày xanh như sắp ngất.
      Gođard lấy làm lạ. Người thiếu nữ bị khuynh động dữ dội và hoảng loạn của nàng đủ để cho chàng hiểu cái lẽ quyên sinh của những người trông thấy con quái vật. Nhưng thế, sao nàng lại tiếc ra rằng Gođard được gặp thấy nó? Dù sao, trong vài ba hôm nữa chàng biết . Vài ba hôm nữa! Từ nay tới đó biết bao nhiêu chuyện có thể xảy ra được! Cả cái tiếng mà miss Bartendale nhắc đến cũng khiến chàng nghĩ ngợi hoài: có phải nàng tưởng đến cái tiếng thiếu mất ở đầu câu thứ ba trong bài hát chăng ?
      Gođard định tâm tìm trong tự điển tất cả các tiếng sáu chữ bắt đầu bằng chữ C, G, O, Q và chữ cuối cùng là L hay là Z. chàng chắc hẳn buồn ngủ được và tức khắc khởi công tìm. Nhưng chàng là gã trai trẻ, người khỏe mạnh, phải lo lắng về phần Swanhild lắm nữa, mà quyển tự điển còn gì làm đờ đẫn người hơn. Dần dần, đầu chàng gục lên tập sách dầy. Chờ mãi đến sáng ngày, nghe thấy con chó cào mãi cửa phòng sách, chàng mới thức dậy.
      Trống ngực đập , chàng tức khắc gọi điện thoại đến lâu đài Dannow. Tiếng bình tĩnh ràng của Oliver cho chàng biết có gì đáng ngại hết, duy có Swanhild là thấy bối rối cách lạ lùng. Bốn người ở đằng ấy lại khởi công lục lọi các bản cảo cũ và chàng rủ Gođard đến giúp taỵ Nhưng Gođard chối từ, chàng muốn soát lại vài điều trước khi đem những điều chàng dò tìm được cho mọi người biết.
      Được những tin vững tâm kia, sau lúc tắm gội và ăn điểm tâm rồi, chàng thấy khoan khoái, phấn khởi: chàng áy náy như trước nữa,. Miss Bartendale mà bình tĩnh được đến thế trong căn phòng kín cả trong lúc cầm cái bàn tay ướp kho, tất hẳn là vì nàng có thể trấn áp được những tà lực hung ác đó. Nhưng cứ phải ngồi mà chờ đợi những điều người ta cho chàng biết thể giải thích lấy mình.
      Qúa trưa, gặp đoạn khó khăn khá lớn bắt chàng ngừng lại., Gođard dạo bên ngoài lát và gặp Swanhikd cũng muốn hưởng lúc trời quang. Nàng giật mình khi chàng tiến gần lại. Swanhild gượng gạo hỏi:
      - Hullo(#1) , Gođard!
      Giọng đổi khác của nàng nhận thấy cũng dễ dù ở trong tiếng chào vồn vã. Trông nàng như già , nhọc nhằn hết cả hơi sức.
      - Ồ, Swanhild! may mắn chưa! chắc hai ta cùng muốn chuyện trò với nhau lúc trước khi gặp mặt bọn kia.
      - Em… ấy, … À tưởng…
      Nàng liếc mắt, dám nhìn thẳng chàng:
      - Em nghĩ rằng ta tránh gặp nhau trong ít lâu hơn.
      - Được, cái đó xin tùy em. Có lẽ như thế tốt hơn thực.
      - Gođard! (Nàng vừa vừa âu yếm cầm lấy tay chàng). bao giờ cũng hiểu lòng em!
      có gì khác thường trong vẻ người của nàng, duy chỉ thấy đôi mắt quầng thâm, trong đó lộ ra thất vọng ghê gớm. Song mới từ hôm trước đến hôm nay mà nàng già hẳn đến mười năm trời!
      Chàng xót thương bảo nàng:
      - Em ạ, hiểu em là vì em. Nhưng chắc rằng cái điều miss Bartendale, giữ kín là nguy hiểm.
      - bao giờ xảy ra việc gì được, nếu Oliver cứ giữ đúng lời hứa tránh xa khu rừng và căn phòng kín.
      - Nhưng cứ cấm đoán như thế suốt đời được sao!
      - Đàng thế. Dẫu sao Luna với em đợi vài ba hôm nữa , còn nhất định điều gì cho ấy biết vội. Về phần , cũng đừng gì hết nhé!
      - Được, nghe rồi. Nhưng em cũng nên biết áy náy đến chừng nào!
      Nàng ngượng ngùng nhìn bạn:
      - Gođard ơi, về việc nhân duyên của đôi ta em muốn cho biết trước điều này: nếu có ai bị buộc vào tội ám sát Kate, nếu Oliver với em phải thực,
      Nàng ngưng bặt, đuối nhược quá, đôi mắt chứa đầy vẻ kinh hoảng. Chàng tái hẳn người , đón hỏi:
      - em trả lại lời giao ước cho sao? Thế ra cớ kia ghê gớm đến thế kia ư?
      - Vâng ghê tởm hết sức! Các báo gây thành vụ vỡ lở nhục nhã vô cùng!
      - Thôi, em đừng nữa. Về phần em, muốn em phải theo cuộc sum vầy vội vã, nhưng nếu tình thế bắt buộc xin phép giá thú đặc biệt. muốn có quyền được công nhiên chia sẻ nỗi lo buồn với em: lại cho rằng Luna mà bỏ Oliver giữa đường thực là hèn lắm.
      Swanhild ngửng phắt đầu lên:
      - Gođard, em cấm được thế đấy! Hai người ấy thể còn mong gì với nhau được nữa.
      - Sao vậy? Đôi bên vẫn mến nhau kia mà…
      - Từ đêm vừa rồi tình thế đổi khác hẳn.
      Chàng khẽ :
      - Trừ có em với .
      Hai người bỏ đường rộng tới chỗ có bóng cây tọ Swanhild gieo người ngồi lên thân cây để úp mặt vào hai bàn taỵ Gođard đến ngồi bên cạnh nàng. lúc lâu, nhờ có âu yếm thầm lặng kia phấn khởi lòng, nàng mới :
      - Giá em mà có thể được hết mọi điều với cũng cam.
      - Thôi, nhắc đến chuyện đó nữa. đố em biết em tìm được gì rồi nào.
      Nàng khẽ reo lên:
      - Lập cảo của Culpeper!
      Chàng lắc đầu:
      - Phải, nhưng ta nên mừng vội. Bản thuật lại việc cụ Pháp sư khai ngôi mộ cổ với các việc do đó mà xảy ra, nhưng bản ấy cho thấy tia sáng nào về con quái vật cả.
      - Thế Luna đúng đấy. , ta về chuyện này cho chị ấy biết !
      - đến cũng để việc ấy. Nhưng chỉ sợ rằng chúng ta lại bị những “bím tóc vàng ánh” kia đánh lừa thôi.
      Chú thích:
      (1-) Hullo: Tiếng chào hỏi thân mật lúc gặp nhau.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Jessie D. Kerruish


      Con Quỷ Truyền Kiếp


      Dịch giả: Thế Lữ


      Chương 26


      ĐẦU MỐI CÁC MANH MỐI: 1520 _ 1651



      Vào tới gian Holbein, trong đó Oliver, bà Yorke với cháu của bà chuyện, việc thứ nhất của Gođard là đưa mắt nhìn bức chân dung của Warlock treo tường.

      Luna vẫn giữ thái độ thường ngày; dịu dàng và vô tư lự. Tuy thế, chàng cũng nhận thấy vết nhăn sâu vừa xuất ăn ngang vùng trán nàng.

      Oliver bảo chàng:

      - Buổi sáng nay chúng tôi tìm được cái gì đáng để ý cả, Swan chắc cũng chẳng chuyện cho biết rồi.

      Gođard:

      - Tôi may mắn hơn đôi chút. Tôi dò được bài thuật dài (chàng ngoảnh với Luna) mà có lẽ thấy có nghĩa kín: đó là bài kể thuật lại việc cụ Magnus khai ngôi mộ.

      Ồ! Thế à?

      Bà Yorke với Oliver đồng thanh kêu lên, trong khi đôi mắt của miss Bartendale lóng lánh sáng. Nàng :

      - Hay lắm đó. Ông đem tập cảo tới đó phải ?

      - Tôi chắp, dán từng đoạn ở nguyên bản lên tờ giấy bóng, nhưng khó đọc lắm. Vì thế tôi mới biên thành bản tóm tắt để đọc cho nghe. Rồi sau dò xét ở nguyên bản cũng được.

      Oliver cố gắng hết sức, đem kéo ghế quây quần lấy chung quanh chàng. Gođard :

      - Culpeper thoạt tiên trình bày cái việc nó khiến ông ta để công tra xét. Hình như nhà quý phái ở Dannow, là Sir Gilbert Hammond, đêm kia cùng người con trai tuổi nhất, từ Dannow hạ thôn trở về nhà. Nhưng chỉ có trong hai con ngựa trở về lâu đài cổ và bị cào xéo rất kinh khủng, mà lưng có người cưỡi. Tức người ta chia các ngả tìm và thấy trong khu rừng cậu Hammond, cậu con trai mười ba tuổi nằm chết và bị ăn mất nhiều chỗ ở mình. Thi thể Sir Gilbert Hammond với xác con ngựa nằm ở đường cái, ngay chỗ núi Beacon thoải xuống. Theo các điều nhận thấy biết rằng người ngựa đều bị hại vì chống nhau với con quái vật, vì cạnh sườn con ngựa bị cào nát. Ông Culpeper mới đến Dannow xem vì có lời mời của bạn ông là Reginald, con trưởng cụ Gilbert; Reginald hồi ấy có tư tưởng bảo hoàng nên phải nơi, dám ra mặt. Đây, tôi đọc cho mấy người nghe những đoạn rút ở “bức thư của Nicholas Culpeper, viết ở nhà hàng Sư Tử đỏ, Spitafield Lenden, gửi cho ông Reginald Hammond, địa chỉ, ngày tháng mười hai năm 1651. dòng đầu thư bị cụt mất, đây tôi đọc những hàng tiếp theo:

      “… câu chuyện người ta kể lại rằng họ Hammond là dòng giống trùng hút máu. Và nếu người trong chi họ chết non thuở sinh thời y đúng tuần cữ, hút được máu người sống nhiều chừng nào là y có thể sống mãi trong mộ được lâu chừng nấy. Đó là những lời mọi người kể lại ngụ ý chỉ đại huynh của ngài là ông Oliver,(#1) bỏ mình trong trận Wecester và an táng ở đấy hai tháng về trước.

      “Tôi khởi cuộc điều tra vào hồi trăng tròn, xét rằng như thế hợp ích cho công việc. Tôi chủ tâm ghi lấy đúng những ngày nào giờ nào con quái vật xuất từ xưa đến ngày nay, để có thể nhờ phương pháp thần bí của khoa chiêm tinh mà tìm ra được phép linh nghiệm ngõ hầu đời gìn giữ được ngài, hỡi Reginald quý hữu, rồi những ngài chủ nhân sau này của đất Dannow khỏi gặp những tà ma, vong linh, hồn, tinh quỷ quái và các linh hồn khác”

      Gođard phải ngừng lại để thở. Chàng giảng giải:

      - Đến chỗ này có khoảng lớn bị rách mất. Mà cái đoạn mở đầu vừa rồi tôi cũng được nghĩa lắm.

      Luna…

      - đấy chứ. Culpeper là nhà chiêm tinh học có tiếng, ông trông ở khoa học ấy để định được căn nguyên con quái vật, cũng như tôi vẫn nhờ đến khoa khảo cổ học và thôi miên học ấy mà. Ông đọc tiếp .

      - Từ đoạn này, tôi chép thành lối văn mới cho tiện.

      “Tôi điều tra các trường hợp khi cụ tổ ba đời nhà ông gặp thầy con quái vật. Theo những cảo cũ nhà ông cụ gặp nó ngày mười tháng Mười năm 1556. Ông cụ thân sinh ra cụ gặp nó từ ngày tám tháng hai năm 1526, còn giờ nào thấy đến, ở lần trước cũng như lần sau. Sau khi được nghe câu của thân mẫu ông cho biết mọi điều, tôi hỏi các người lân cận nhà ông ở Dannow, ở Danny và ở Newtimber và sau cùng tôi biết rằng ở Steying vẫn còn sống người tên là Jos Blount, lão khoe rằng ngày còn trẻ quen thân với John Slinfold là con đồng của Magnus Pháp Người tên là Blount này, làm nghề thầy lang, vẫn nhất định bao giờ chịu gì về những điều Slinfold kể lại với lão. Nhưng tôi cũng cứ đến Steying tìm lão và được Mr. Willian Blount, người đàn ông trạc tuổi tôi, đón tiếp nhã nhặn, Willian Blount cũng làm nghề thầy lang.

      Willian dẫn tôi đến nhà cụ tổ ba đời của ông ta, cụ già sọm, bé choắt, nhưng đôi mắt còn giữ được vẻ tinh trẻ trung lạ thường. Người cháu tên tôi với cái mục đích tôi đến thăm cho ông cụ biết, rồi ra.

      - Chính phải đó, ông Culpeper ạ (đó là lời ông cụ Jos Blount bảo tôi) chính tôi học tập ở nhà ông John Slinfold trước đây chín mươi năm rồi đó. Đến lễ Dâng (mồng hai tháng Hai) sang năm tôi đúng trăm linh chín tuổi, con trai tôi lại chết già từ ngày lễ Saint Martin rồi.

      Tôi :

      - Cụ Blount ạ, tôi chỉ sợ làm phiền vô ích. Vì cái việc tôi muốn biết đây lâu quá mất rồi.

      - , ông đừng tưởng thế. Đời người như vở kích khéo đóng mà người ta chỉ nhớ có đoạn mở đầu với lúc hạ màn thôi. Đến nay lão vẫn nhớ được cái mùi kẹo ngậm với bánh bột hạnh nhân hồi còn bé vậy mà lão ăn những gì hôm qua lão quên mất rồi! Lão có thể kể lại cho ông nghe đúng từng lời mà ông Slinfold với lão năm 1559. Hồi ấy Slinfold bắt được lão đọc trộm cuốn sách Ảo thuật, ông ấy nổi giận và cấm lão được đọc nữa. Ông ấy bảo lão thế này… “Từ bảo thạch tràng sinh người ta bị lôi kéo dần đến tà thuật, tôi có thể lấy ngay cái gương mẫu của ông cố chủ tôi là Sir Magnus Hammond kể cho coi. Sir Magnus là vị quý tộc can đảm và đức hạnh làm danh dự cho nước và xứ Sussex; vậy mà tên của người chỉ vì những dại dột của người mà thành nguyên do bao nhiêu khủng khiếp cho con cháu về sau”. Lão năn nỉ ông Slinfold kể chuyện cho lão nghe. Ông ta kể:

      “Sir Magnus chè rượu, bao giờ nhìn người đàn bà nào khác ngoài vợ mình, ngài coi rẻ vinh hoa, phú quí. Làm tướng có ra trận, ngài chiến đấu oanh liệt ở Beswerth. Vua Harry Richmond ý rất muốn với ngài thủ chứa trong triều nhưng Sir Magnus ưa sống ở Dannow hơn và chuyên tâm đọc sách khảo cứu.

      “Hồi ấy tôi mồ côi, nên Sir Magnus đem tôi về nuôi nấng, rồi trong bao năm trời tôi làm con đồng đọc những trang triệu hung cát trong thiên lý kinh cho ngài. Ban đầu, công việc của ngài thực vô hại: ngài chỉ tìm đá luyện trường sinh cho vua Harry thôi, riêng phần ngài, ngài mong tìm được trường sinh dược tửu. Suốt năm suốt tháng ngài sống giữa những dược cao, bình cất, những gà nuôi bằng rắn độc và cho uống dấm, với bao nhiêu cái dị kỳ. Khi tôi ở với ngài nữa hình như ngài chuyên học hắc thuật và cúng tế ma quỷ cũng như giáo chủ Retz bên Pháp, nhưng ta có gì làm bằng. Tôi biết là biết những việc ngài làm trong mộ các đạo sĩ Chủ tế ngày xưa kia!

      “Theo lời đồn từ xưa, trong mồ này có kho củalớn, kẻ bảo là có Bò Vàng của Aaron, kẻ bảo là những bình tế lễ của các Đao sĩ. Khi Sir Magnus gọi tôi, đến bàn việc ngài muốn khai mồ tôi có nhắc ngài nhớ rằng con quỷ giữ ở trong mồ xưa nay vẫn để ai phạm được tới. Nhưng Sir Magnus liền cười mà bảo tôi rằng: “- Này Jack, ta tìm được bao nhiêu vàng ở trong đó đều cho mi hết để đền công mị Phần ta, ta chỉ tìm cái bảo bối với câu bùa để khiến những tâm linh lên hay biến theo ý muốn của ta thôi”. Rồi hai mắt lóng lánh lên, ngài lại : “Thế nào ta cũng thành công Jack ạ, mà ta dùng những quỷ thần ấy cách khôn ngoan hơn thầy Faust nữa(#2) kia! Ta sai khiến họ lấy dâng ta luyện thạch bảo bối và thuốc trường sinh. Đến lúc ấy vị đế vương nào là sẵn lòng đem hết của cải để đổi lấy phép bất tử. Mà ta làm hoàng đế cả thế giới. Rồi biết đâu đấy, độ vài ba thế kỷ nữa, đến năm 1800 chẳng hạn hay sang năm 1900, những sứ thần các nước chư hầu có lẽ đến bái chúc ta trong những căn phòng hèn hạ Ở lâu đài Dannow này. Thế rồi họ ban tước lộc biết bao nhiêu mà

      Gođard ngừng lại lần nữa và bao nhiêu con mắt đều bất giác nhìn về bức chân dung của Magnus. Oliver tấm tắc :

      - Sống muôn đời… Làm chúa tể Trái Đất! Có quyền kiểm sát thế gian và quỷ thần! Ồ! Chỉ vì lòng ham muốn đáng sợ kia xúi giục ông cụ khai tìm trong ngôi mộ!

      Luna gắt đáp:

      - Phải! Thế rồi ông cụ phải đến nước van xin hậu thế cầu nguyện cho linh hồn mình. Ông đọc nữa , ông Corvert.

      - “Nhưng dám bẩm cụ lớn (tôi dịu lời thưa với Sir Magnus thế) làm thế nào mà cụ lớn lại biết rằng câu thần chú ấy giấu ở trong Thunder s Barrow? Được, để ta giảng giải cho mi biết. Nhờ có cuộc đời hãm mình trong kham khổ, cụ tu, cụ tổ nhà ta, luyện được phép giam giữ con quái vật trong mồ. Vì thế, từ ngày cụ mất, con quái vật còn quấy nhiễu dòng họ nhà ta nữa. linh vật lâu đời như nó và cái quyền hư nó làm cách nào mà xích lại được nếu nhờ có phép yểm thế của Salomon là đấng cai quản được các thần linh về bên chính cũng như bên tà? Vì thế ta mới muốn tìm trong mộ những dấu hiệu và cái câu thần chú giữ ở đó.

      - Nhưng lỡ đánh xổng con quái vật sao?

      - sợ, vì ta thay đổi động chạm đến vật gì trong đó. Ta chỉ vẽ lấy bức họa rất cẩn thận để đem về nhà bình tĩnh dò xét thôi.

      - Tôi chưa chịu ngay, hỏi thêm nữa.

      - Bẩm, trước kia người ta cũng tìm tòi trong mồ nhiều lần rồi. Con quỷ kia để người ta thấy có gì trong ấy hết.

      - Sir Magnus cười:

      - Ta có những thứ bảo vệ giỏi hơn các tiền bối của ta: ta mang theo bàn tay danh vọng.

      - Thế ra là tà thuật rồi sao?

      - Jack! Ta là chủ nhân, ta chịu trách nhiệm về mọi .

      “Đến đêm, Sir Magnus đến chỗ cột hành hình dựng ở núi người khổng lồ và cắt bàn tay của Will Stredwick là người bị xử giảo ba hôm trước vì tội giết người…”

      Gođard :

      - Đoạn này ngừng lại chỗ này, còn đoạn sau bắt đầu ở giữa câu:

      “… và ở đầu những ngón tay thầy trò chúng tôi gắn những mồi nến làm bằng mỡ nấu ở cái xác của Will. Xong đâu đấy, thầy trò chúng tôi đến Thunder s Barrow đêm đầu tháng Hai, mang theo cái bàn tay, cái xẻng và cái cuốc. Ông chủ tôi nhận lấy việc xách đèn và vác bao lớn đầy những đất làm phép lấy ở nghĩa trang. Mỗi người đeo vòng kết bằng cỏ hái ngày lễ Saint Jean để ma quỷ sợ, với những nhánh tỏi giắt ở thắt lưng. Con chó săn lớn của Sir Magnus cũng theo. Tới mộ, thầy trò chúng tôi rải đất thành ra bên rồi Sir Magnus lấy túi gươm vạch xuống đó hình sao ngũ giác. Ngài bảo tôi rằng đứng trong những vạch ấy ta lo tai nạn gì. Nhổ bật được mấy thân cây thấy đến lần đá phấn, rồi đến phiến đá lát. Ngài thấy mặt đá có ấn hiệu của Salomon nên lại để vào nguyên chỗ rồi lại đào thêm. Giữa lúc đó, những mồi nến cháy gắn bàn tay danh vọng tất cả, làm thầy trò chúng tôi phải ngừng taỵ Hai người đến gần sáng mới trở về nhà để nghỉ ngơi và đúc những mồi nến khác.

      “Đêm thứ ba, gió thổi mạnh. Thời tiết đóng giá và trời lấp lánh đầy sao. Phải đào lỗ hỏm ở trong vạch huyệt để cho ngọn lửa khỏi bị tắt. Vào khoảng nửa đêm hai thầy trò chúng tôi đào thấy hình tượng lớn mà thoạt trông tưởng ngay là Bò Vàng…”.

      Oliver vỗ tay :

      - Ồ! Miss Bartendale! thực đoán được hết tất cả!

      Bà Yorke bảo:

      - Ông Covert, ông đọc nốt . Cái nhà ông cụ người cổ kia, cũng lạ lùng lắm đó.

      Chú thích:

      (1-) Oliver: Trùng tên với Oliver, Swanhild bây giờ

      (2-) Thầy Faust: nhân vật kỳ dị, người Đức, bán linh hồn cho quỷ Mephisteles để đổi lấy phú quí và hạnh phúc, kể cho Jack Slinfold, vị thủ tướng bất tử của đức Magnus Hammond, hoàng đế bất tử của Trái đất, của Cuộc đời và Thời Gian vĩnh viễn.





      Jessie D. Kerruish


      Con Quỷ Truyền Kiếp


      Dịch giả: Thế Lữ


      Chương 27


      ĐẦU MỐI NHỮNG MANH MỐI: 1651 _ 19…



      “Rồi sau thầy trò chúng tôi đào thấy mặt ván, Sir Magnus thấy có dấu hiệu gì đó mới sai tôi bẩy ván lên. Tôi kinh sợ lắm nhưng Sir Magnus cho tôi vững tâm rằng việc gì mà sợ, vì con chó tỏ vẻ gì là lo sợ cả.

      “Ngài tìm khe ván ghép, lách mũi cuốc vào đó rồi hết sức ấn xuống. Để có rộng chỗ, ngài bảo tôi lên khỏi huyệt. Mấy mồi lửa nến được kín gió nên cháy thẳng ngọn, trong khi ấy gió bao vây quấn lấy người tôi dồn lăn những tiếng cành gẫy và bụi cây xào xạc. Sau cùng Sir Magnus nậy lên được tấm ván. hơi gió tù hãm hôi thối ở dưới hố xông ùa lên khiến tôi quay đầu và làm tắt những mồi nến.

      “Tôi mê mẩn tâm thần mất lát. Bỗng nhiên tiếng hét lên của Sir Magnus làm tôi tỉnh lại:

      - Nó đến đấy! Nó đến đấy! Cút ngay, Satan nhân danh Cha và Con Thánh Thần! Phải coi cừng đấy, Jack! Đứng vào chỗ đất thánh kia, mau!

      “Tiếng thét lớn của ngài đưa từ dưới huyệt lên, the thé chẳng kém gì tiếng kêu của đàn bà. Con chó bắt đầu rền rít. Thốt nhiên thoát ra thứ tiếng kêu phải là cười, phải là khóc, phải tiếng người, phải là thú, hay tiếng quỷ quái mà là có đủ thứ các thứ tiếng kia. Thoắt bước, tôi nhảy vào giữa chỗ đất phép, nắm lấy quai đèn và đứng lặng ở đó, mấy nhánh tỏi lăm lẳm trong taỵ Tiếng gầm quái gở kia vẫn từ dưới huyệt đưa lên, lẫn với tiếng con chó cứ rít. Rồi tôi thấy Sir Magnus lên khỏi huyệt trước tia sáng của ngọn đèn., ngài quay mình lại vung cái gậy lớn cứ nhè nhè phía sau mà phang. Ngài đứng được lúc quỵ xuống, ngã gục đám đất thánh, ngay bên cạnh tôi, tôi lại vạch hình ngũ giác nữa quanh hai thầy trò tôi; trong khi ấy ngài thở cho lại sức. Rồi hai thầy trò mỗi người ngồi cạnh phía đèn, ánh sáng chiếu lên hai bộ mặt kỳ dị và kinh khiếp. Sir Magnus nước mắt tầm tã, quần áo rách mướp, máu me nhễ nhại, bàn tay với cánh tay đầy những vết thương. Ngài hầm hầm lẩm bẩm :

      - Nó chạy mất rồi! Ta biết nó hình thù thế nào, cũng biết nó đến như thế nào. Chỉ thấy như gì tiến lại gần ngay khi mồi nến vụt tắt, rồi trong vừng tối tăm hung đỏ, ta cứ như người nhắm mắt mà chống cự, cào cấu vung lên. Thế rồi ta trông thấy ánh sáng đèn.

      - Bẩm, thế còn con chó sao?

      - nó cũng chống cự như ta.

      “Tôi nhìn ra thấy con chó tội nghiệp ấy nằm ở phíc trước mặt tôi; nó chết rồi, mình bị xé nát trông rất kinh sợ. Đầu con chó gần như bị rứt đứt. Thấy cảnh tượng ấy, Sir Magnus thở ngắn than dài mãi rằng con chó bị hại chỉ vì trung thành với chủ. Ngài kéo con vật lại chỗ hai người chúng tôi để thi thể của nó bị phạm đến nữa. Rồi ngài lại vẽ lại cái hình ngũ giác mà nét vạch hơi bị xóa nhòa…”

      - Hay đấy! (Lời Oliver) cử chỉ kia đủ để chứng rằng Magnus chưa hẳn quá hư hỏng. Phải thế , miss Bartendale?

      Luna nhìn chàng vẻ lạnh lùng. Swanhild cau mày. Gođard lại đọc tiếp:

      - Bẩm, bây giờ ta làm gì ạ? (Tôi vừa hỏi vừa soi mói nhìn vừng đêm đen tối trong đó kẻ thù có lẽ ngồi rình)

      - Đợi cho trời sáng.

      Ngài trả lời rồi đưa ngọn đèn cẩn thận chiếu sáng chung quanh. Đèn vẫn sáng mãi đến lúc giải trời ban mai lờ mờ sau vừng cây cối. Thầy trò tôi tưởng chừng như ngồi đó chờ đợi cả đời người. Ngài bảo tôi:

      - Jack ạ, thầy trò ta vào huyệt xem xét xem có những gì . Cái vật xổng mất đêm vừa rồi thể tác hại được khi có ánh sáng ban ngày nữa. Nội hôm nay ta phải xong việc mới được.

      “Thầy trò chúng tôi khai ngôi mộ ra xem: dưới tấm ván, bộ xương nằm an giấc trong bộ áo giáp, đầu quay về hướng tây. Bộ giáp bằng da gò có đeo những khuy bằng sắt hay bằng sừng đập dẹt. Sir Magnus lúc đánh nhau với con quái vật dẫm gẫy xương đùi và rải rác ra chung quanh những mảnh giáp chân và đôi giầy. Phía bộ giáp có cái mũ trụ bằng đồng dát vàng, trong mũ thò ra hai bím tóc lớn màu hung nâu. cái khiên tròn mang dấu thập tự của tướng hiệu đậy lên bím tóc tay trái, thanh gươm lớn và to bản, hoen rỉ hết, đặt chéo đè lên bím tóc tay phải. Ngang đùi, cái búa chiến; giữa hai chân, cái cán tay gươm mạ vàng và chạm trổ, với miếng đồng lớn đúc theo hình chiếc lá gẫy làm ba đoạn.

      Sir Magnus mơ màng khẽ :

      - Ta biết rằng ngày xưa thời các vị quí tộc vẫn mang bím tóc. Tiếc thay! Con quái vật từ nay xổng, mà tai hại gây nên mất rồi! Vậy ta có thể mang được thanh kiếm vàng rất đẹp này về, vì có những chữ khắc đó xem chừng ta biết quạ Phải đó là nhờ vong linh vị tổ tiên của ta ở đây mách bảo ta chăng? Mà ta biết chắc chắn rằng ta đứng sàn chiếc hải thuyền, ta lai biết rằng cái hình tượng kia là thứ hình ở đầu mũi. Jack ạ, tại sao ta lại biết được những điều ấy nhỉ?

      Oliver vội ngắt lời:

      - Tôi cũng biết như thế.

      Luna bảo chàng:

      - Những ký ức tổ truyền ở ông cũng là những ký ức ở cụ Pháp sư đó.

      Gođard :

      - Bản đại lược của tôi đến đây là hết. Đoạn tiếp theo, tôi chỉ dò xét qua loa thôi. Sir Magnus với Slinfold về sau lấy đất nghĩa trang phủ lên bộ xương khô rồi trả lên mặt ván sau khi đậy lại nguyên chỗ, rồi sau cùng lấp kín huyệt lại. Cụ Warlock cam quyết với người thợ giúp cụ rằng cụ trông thấy con quái vật lúc nào, mà nhờ có điều ấy, cụ mới khỏi chết. Ngay sau việc này, Slinfold mất hẳn cái khiếu xem thiên lý kinh và xin vào học nghề ở nhà thầy lang. chắc rằng cụ Pháp sư lấy con trai cụ làm con đồng và trong phiên phụ đồng con quái vật thình lình đến. Lòng hối hận để nó xổng đẩy Sir Magnus đến quyên sinh. Bản cảo từ đây trở thể nào đọc được nữa, thành thử ta biết Cukpeper kết luận ra sao. Đáng bực mình thực (vừa chàng vừa xếp lại tập giấy)vì ông Culpeper này cũng chẳng cho ta biết được điều gì lạ lắm.

      Luna đáp:

      - , ông lầm. Những tài liệu được việc cho ông Culpeper ba trăm năm về trước lại rất có ích cho tôi ngày nay đó. Thôi, bây giờ tối rồi, chắc những bọn tò mò còn gò nữa. Vậy ai muốn đến Thunder s Barrow tìm cho tôi phiến đá có khắc những cổ tự nào?

      Gođard hỏi:

      - Thế nào? Lấy đem về…

      - Phải, lấy phiến đá mà lúc tìm thấy cụ Pháp sư bỏ quạ Ông nhớ những lời cụ sao?

      - Ông cụ rằng cái dấu Salomon phiến đá…

      Nhưng vừa thế Gođard ngừng bặt: chàng chợt hiểu hết ý nghĩa của câu vừa rồi.

      - Ừ nhỉ, tại sao ông cụ ngay là phiến đá nhẵn mặt, mà lại thế nhỉ?

      - Ấy đó! Là vì tuy có cái dấu yểm phép nhưng mặt đá có khắc chữ. Phiến đá hẳn có trong khoảng ta tìm tòi. Ông với Swanhild có thể tìm thấy dễ lắm; còn ông Hammond giúp hai người mang về.

      Mọi người liền lên xe hơi cùng với hai cái xẻng và giờ sau phiến đá đặt nằm mặt cỏ gò. Phiến đá bề dài cũng bằng tấm bia mộ thường, nhưng dầy gấp đôi và bề ngang chỉ bằng nửa. Luna đem theo hai cái chổi quét sơn và bản sao chép những chữ cổ thanh gươm. Nàng quỳ xuống, chải sạch đất ở những chữ đục sâu mặt phiến đá. Rồi nàng bắt đầu ra hiệu cho Swanhild và đưa mắt cho nàng ra vẻ đắc thắng. Những chữ khắc kia thấy đúng in như những chữ đốc gươm.

      Oliver hỏi:

      - Có phải chính là cái vẫn ước ao tìm được đó ?

      - Tôi chưa thể gì chắc chắn bây giờ được, ông Hammond ạ. Phiến đá này ta thể giao cho sở hỏa xa được. Vậy tôi lấy máy ảnh chụp rồi gửi bản cho giáo sư Meikellin theo chuyến xe lửa thứ nhất vào sáng mai.

      Oliver trách:

      - Ô! Nhưng mà hứa ở lại đến chiều mai kia mà!

      Nàng cười.

      Thấy Gođard có vẻ hoài nghi, nàng hỏi:

      - Ông thấy tôi cho việc tìm ra được phiến đá này quan trọng sao? gắng công nào là vô ích hết, ông ạ. (Nàng thêm, vì thấy đôi mắt Swanhild lóng lánh vẻ mừng rỡ) nhưng ta cũng nên coi chừng, chớ nên hy vọng sớm quá. Ta còn có cả ngàn năm bí mật nữa để khám phá cho ra.

      Đêm hôm đó, Gođard lại tìm trong tự điển đủ các tiếng bắt đầu có những chữ C, G, O, Q, và S, thầm mong rằng lần trước bỏ sót mất cái tiếng ở câu vè. Nhưng công toi. Mà câu chuyện do Slinfold thuật lại càng làm cho chàng biết đường nào mà suy nghĩ nữa.





      Jessie D. Kerruish


      Con Quỷ Truyền Kiếp


      Dịch giả: Thế Lữ


      Chương 28


      VẪN CÁI CHUYỆN TÌM CHỮ: ? ? ? HAMMOND



      Sáng hôm sau Luna và bà Yorke ra ga từ sớm. Gođard đưa họ đến Hassock rồi ở lại chuyện với Oliver và Swanhild đến hết ngày. Cái tin đồn về việc khai thác ngôi mộ ại quyến thêm làn sóng: những phóng viên nhà báo và những người hiếu lại ùa đến ám Dannow.

      Oliver đưa ra cho bạn bức ảnh chụp những câu vè khắc trong căn phòng kín. Gođard vừa xem đến thấy mình được đền công lại cố gắng ban đêm: chàng tưởng nhớ lại lúc Luna xem xét những câu khắc đá. Nàng đọc tới giữa chừng câu: “Under satrs sans…” ngừng ngay lại. Cái tiếng “sans” Pháp Lan này chàng vẫn thường thấy dùng trong ngữ hồi trung cổ, cũng như bao nhiêu tiếng mượn ở Pháp ngữ khác. Vậy cái tiếng mất ở đầu câu vè kia có phải cũng là tiếng Pháp chăng?

      Chàng về nhà tra tìm trong quyển tự điển dùng hồi học, nhưng ăn thua gì, chàng mới rắp tâm hôm sau London mua quyển khác đầy đủ hơn, lại có cả những tiếng cổ ngữ.

      Ngày thứ năm, bọn phóng viên lại đổ đến nhiều thêm. Trưa hôm ấy, bức điện tín của Luna đánh về: chữ phiến đá đêm vừa rồi dò được, nàng muốn mời cả nhà chiều nay đến nhà nàng ở London để dự buổi thôi miên nữa.

      Gođard để ý ngay đến đổi khác ở Luna trong hai hôm nay: đường nhăn lớn ăn sâu ngang trán nàng, và hai tay nàng luôn luôn run rẩy. Xem chừng nàng khó tự chủ được tâm thần, cả đến bà Yorke – bà ra chiều muốn có những buổi thôi miên – hình như cũng được bình tĩnh.

      Miss Bartendale chịu cho xem bản dịch những chữ cổ tự. Nàng chỉ giở ra hai tờ giấy đánh máy và bảo Oliver:

      - Lúc nào ông bị giấc thôi miên, ông Covert đọc cho ông nghe tờ và ghi lấy những tiếng nào hoặc câu nào mà ông nhận ra. Lúc tỉnh dậy, ta cùng thử làm theo cách ấy với tờ giấy thứ hai rồi ta đem hai lần trả lời của ông ra so sánh.

      - Thế sao đọc lấy?

      - Vì lỡ vô tình dằn giọng ở tiếng có thể là dấu chỉ dẫn cho ông biết trước mất. Chúng tôi lại ra cả, để mình ông lại với ông Covert để tránh truyền giao tư tưởng bất cứ của người nào trong lúc vô tâm, vì bà tôi và Swanhild đều biết chuyện như tôi cả.

      Bây giờ Luna chỉ đưa tay qua cái cũng khiến Oliver bị thôi miên được. Ở lại mình với chàng, Gođrad lấy thế làm khó chịu hết sức. Vừa xong việc, chàng gọi ngay bọn đàn bà vào.

      Tay run, mắt lấp lánh, Luna xem xét những câu hỏi. Nàng đưa liếc mắt đầy ngụ ý cho Swanhild lúc đó đứng đọc sau vai mình. Nàng khẽ :

      - Cũng khá đó chứ!

      Rồi đánh thức Oliver dậy. Nàng bảo chàng:

      - Ông Hammond, ông đọc mảnh giấy này trong lúc chúng tôi xếp đặt chỗ ngồi.

      Mọi người ngồi quây quần lai trước lò sưởi, Oliver đọc những câu hỏi :

      - Những cái sau này ông có biết là gì : Salvator, Rosa, Rattoska, Hvareno, Vishnu Siranguan… (chàng lẩm bẩm tiếp) lạ chưa! Những tên hỗn độn kì dị quá!

      Luna:

      - Là vì tôi để những tên chính lẫn vào những tên vu vơ đó.

      - Tôi hiểu ra rồi: muốn xem tôi có phân biệt được những tên nào là tên đúng , chứ gì? Thế đây: Salvator Rosa là nghệ sĩ Vishnu là vị thần Ấn Độ. Những tên khác tôi biết. À mà có, có tên tôi quen biết lâu, biên ở dưới những cái tên ấy, là :-Odin.

      - Odin nhắc ông nhớ đến chuyện gì?

      - Tôi tưởng tượng thấy tôi ngồi bên chân giường Swanhild hồi chúng tôi mới lên sởi vừa khỏi và đọc những truyện cổ tích Bắc Âu cho em tôi nghe.

      Chàng lại nhận thêm được mấy tên cổ điển nữa và giải thích vài tên:

      - Thor là vị thần khác của xứ Bắc Âu, Baldur cũng vậy. Teste David cum Sybilla là bài hát mà tôi thuộc lời, nhưng điệu thế này:

      Chàng đâp tay lên đùi đánh nhịp điệu Dies Iroe(#1).

      Ngẫm nghĩ lát, chàng lại :

      - Assir Lok cũng giống như Loki: tôi chắc đó là thằng gian tặc trong truyện cổ tích tôi đọc hồi lên sởi. Sigmund là tên trong bản tuồng Wagner, Miolner tôi nhớ lờ mờ thôi…

      Chàng xem hết tờ giấy. Luna bảo cho chàng biết:

      - Ông vừa tìm ra được năm tiếng đáng chú ý đó. Lúc nãy, trong giấc thôi miên, ông nhận được năm tiếng khác: Rattotskar, Ygdrasil, Jormunđgander, Einheirar và Fimbulveter.

      - Nhưng tôi biết gì về những tên ấy.

      - Những tên ấy là do ký ức tổ truyền của ông nhắc cho ông ra đó. Những tên ấy đều là tên trong điển chế tôn giáo cổ miền Bắc Âu đó. Dòng dõi nhà ông mới theo đạo Cơ Đốc được nghìn năm trở lại đây, nhưng trước kia, hàng bao nhiêu thế kỷ, tổ tiên nhà ông còn thờ những thần thánh khác. Nhưng hoài niệm phảng phất về các điều tin tưởng của các cụ vẫn còn sót lại trong trí não ông và vẫn có thể nổi lên khi ông bị thôi miên đó.

      Nàng xem lại những chỗ Gođard ghi giấy.

      - Ông chỉ nhớ lờ mờ rằng Sigmund là vị hùng oai vệ, nhưng ông mô tả Odin như vị chúa cả muôn vật; Thor ông coi là vị chủ nhân cái búa thần Miolner. Baldur là thần Mùa xuân, Lok là quái, Ygdrasil là cây thiêng. Einheirars là những hùng hiển thánh, Yormundgander nhắc tưởng đến vật dài và tròn, còn Fimbulveter là cuộc tranh đấu cùng tận.

      Oliver ngẩn người ra vì ngạc nhiên. Chàng :

      - Ồ! Thế ư? Nhưng tôi bảo rằng tôi hề biết những chuyện đó kia mà!

      Luna giảng giải vắn tắt cho chàng hiểu rằng Jormunđgander là con rắn lớn giữ nước bể lại chung quanh trái đất. Dưới bóng cây ô-liu thần, hồn bọn Einheirars ăn mừng để đợi cuộc tranh đấu vô cùng tận. Họ qua cầu Vồng hay Băng kiều để giúp sức Odin và các thần khác thắng được lũ quỷ Helmein. Nàng tiếp:

      - Ta lên xa quá những việc tra xét nay nhỉ, có phải ? Nhưng rồi ông thấy cái đoạn đường trường từ con quái vật truyền kiếp nhà ông đến cái ngày Phán đoán sau cùng của dân Đan Mạch cổ, phải là xa cách đến thế đâu.

      Khi trở về nhà, Gođard lại cắm cúi vào việc tra quyển tự điển chữ Pháp. Gần nửa đêm chàng mới thấy được cái tiếng chàng có ý tìm và đến gần sáng chàng vẫn mải mê xem xét các ý nghĩa của tiếng ấy. vài nghĩa giải thích chàng hiểu tới được, nhưng cái nghĩa ghê gớm phũ phàng rệt. Luna phải: chỉ sáu chữ cái là đủ cắt nghĩa được hết mọi điều, là đủ cho biết vì sao cụ Reginald Hammond và cụ Pháp sư quyên sinh, vì sao mà những người khác phải chết vì buồn phiền và vì sao mà Swanhild thể với chàng điều nào được.

      Hàng mấy ngàn năm cách biệt Oliver và Swanhild với tay hải khấu torng mồ mà hai ngày trước đây họ quấy rối giấc an nghỉ vĩnh viễn. Cái mảnh đồng kia lại hình như chứng minh rằng thời dĩ vãng ấy bắt đầu từ thời đại kim khí. biết bao nhiêu thế hệ của dòng họ Hammond kế tiếp nhau và vẫn đời đời bị con quái vật truyền kiếp theo dõi.

      Theo dõi truyền kiếp! Nhờ trời, chỉ có Oliver phải chịu tai ương đó thôi. Nhưng nếu cuộc điều tra các nhà chuyên trách lập ở cái quán trong làng kia mà buộc tội lầm hai em tên đánh bẫy nọ cái nhục nhã kỳ quái của nghìn đời kia tất phơi bày khắp các mặt báo. Trước mặt cả toàn cầu.

      Chú thích:

      (1-) Nhịp điệu Dies Iroe: điệu hát lễ cầu cho linh hồn kẻ vừa chết.





      Jessie D. Kerruish


      Con Quỷ Truyền Kiếp


      Dịch giả: Thế Lữ


      Chương 29


      HỒN THỜI ĐẠI GHI ĐIỂM



      Hôm ấy thứ sáu: Gođard dậy sớm. Sau hai ngày sụt sùi mưa, buổi sáng đó trời tạnh ráo và gió thổi mạnh. Giá băng đóng lại các miền cao, có ánh mặt trời chiếu .

      Càng bước gần tới lâu đài chàng thấy cái thực kinh khiếp như càng thêm hà khắc. ý muốn chợt đến dun dủi bước chàng vào xem bức hình nổi trong nhà thờ. Thiếu chút nữa chàng vấp phải Oliver: cử chỉ đầu tiên của chàng là trốn chạy, chàng lùi ngay lại trước thân linh hoạt của cái tiếng ghê gớm mà từ nãy chàng biết rồi.

      - Ồ này! Gođ! (lời Oliver). Sao giật thót mình lên như thế! khí nhà thờ làm dễ hoảng lắm nhỉ.

      Gođard lảng chuyện:

      - Tôi định vào xem bức hình…

      Chàng tìm được câu nào khác. Chàng sợ giữ kín được vì cái cử chỉ tự chủ được vừa rồi, hoặc sợ thể chịu nổi đôi mắt nhìn thẳng thắn của bạn. Trong thoáng chàng tưởng lại cái chàng nhã nhặn mà mình vẫn quen biết xưa nay, cái chàng bao giờ cũng đáng mến. Sao chiến tranh để chàng còn sống lại làm gì!

      Oliver hỏi:

      - có tìm ra điều gì mới nữa ?

      - .

      Miss Bartendale nhận được thư trả lời những điều ấy hỏi: ấy ngờ sớm được đến thế và mời Swanhild đến Chelsea từ sáng sớm. Hai người tối nay cùng về đây với bà Yorke để thiết lập buổi phụ đồng trong phòng bí mật. ấy muốn rằng cũng dự vào buổi đó. Vậy ăn cơm tối với chúng tôi nhé.

      - Xin vui lòng.

      - Tôi phải đến Steying có việc đây, độ bốn giờ tôi trở về qua nhà rủ cùng nhé.

      - Càng hay.

      Lúc đó chiếc xe chở khách chạy qua phủ lên hai người trong vừng mây bụi trắng và khói dầu xăng. Những tiến chỉ dẫn oi ói đưa đến tai hai người. Người lái xe lắng nhắng hét:

      - Kia kìa, chính trong khu rừng các ngài trông thấy kia đó! ta ăn thịt con bé tội nghiệp đâu. Các ngài đọc báo Daily Post với lời khai của mấy ông bác sĩ sao? Thực đáng thương quá! Tôi tôi cứ nghĩ bụng: hai người làm gì trong ấy, giữa lúc đêmkhuya…

      Những câu sau nghe . Oliver hầm hầm mắng:

      - Đồ ngu!

      Chiều hôm ấy, trời rét thêm lên. Từng khối mây lớn phủ từng , dồn lai bởi những hơi gió buốt da thịt. Mới sáu giờ mà trời gần tối sẫm. Miền thung lũng lẫn biến trong sương mù, còn khu rừng, úa đỏ và um đen, trông có vẻ nộ nạt hơn bao giờ hết. Lúc chui vào xe hơi của Oliver đến rủ, Gođard lo ngay ngáy gặp đêm thuận tiện cho con quái vật về.

      Ngồi xe đường Dannow, hai người im tiếng. Tới chỗ quặt thẳng đến trước lâu đài, Oliver bỗng :

      - Ta về muộn quá, mấy người đàn bà hẳn về trước tạ ( thấy tiếng trả lời, chàng hỏi) kìa, Gođ! Ngủ đấy à?

      trầm ngâm trong suy nghĩ, Gođard giật mình: chàng vừa nghĩ bụng rằng thực lại còn kinh khủng hơn hết cả bao nhiêu chuyện hoang đường đặt ra về con quái vật.

      - Ê! Này! Ai kìa! (Oliver lớn tiếng hỏi).

      Người chàng vừa trông thấy là Will Cadorole, lúc ấy trở về nhà, lưng cúi gò xuống ghi đông xe đạp. Mặt tái xanh vẻ khiếp sợ, ta đạp hối hả tay giữ lấy mũ đầu. Oliver hãm xe lại. he hé lên mách Oliver:

      - Ông Hammond ơi! Họ giết chết bà ta mất, thực thế nếu có ai can thiệp ngaỵ Ở trong rừng ấy ông ạ. Chính tôi nghe thấy bà ta kêu…

      Oliver:

      - Thế nào? cái gì?

      - Người đàn bà vào rừng với cái ông vẫn chụp ảnh đăng nhật báo ấy! Bọn họ nhiều người cùng ngồi chiếc xe hơi lớn. Tôi theo hút họ mãi, nhưng bà ta kêu lên dữ quá, tôi đành phải quay ngay về.

      bị ngắt hơi, ngừng lại. Oliver hỏi:

      - đừng cuống lên thế. vừa bảo rằng người đàn bà sắp bị hại, phải ?

      - Thưa ông vâng. Đứng đây cũng trông thấy được ánh đèn xe hơi của họ.

      Ở chỗ ấy hàng dậu cây ăn khuất khu rừng, Oliver với Gođard xe nhảy xuống rồi chạy đến chỗ trống. Bên kia miền thung lũng, ở cuối đường ngang, họ thấy ánh lửa đỏ ở ven rừng. Oliver cáu kỉnh vừa bước lên xe vừa :

      - Giờ này ai còn việc gì được vào trong rừng hết.

      Gođard giữ tay chàng lại:

      - đừng vào! phải nhớ lời hứa mới được.

      Oliver sẵng tiếng đáp:

      - người đàn bà bị nạn phải có người cứu giúp mới được. Miss Bartendale cũng đồng ý với tôi.

      Gođard cũng trèo lên xe:

      - Thế cứ ở đây. Để tôi cho.

      - ạ. Việc ấy chỉ liên quan đến tôi thôi.

      - Oliver! hiểu! Chỉ có là có thể gặp tai nạn được… Chỉ có…

      Chàng ngưng bặt, thấy Will đứng bên đường tò mò nghe chuyện. Xe mở máy, Gođard vội kêu lên:

      - Đừng ! Trời ơi, đừng !

      Chàng ôm chặt lấy người Oliver, nhưng bạn chàng đẩy được dễ dàng như gỡ đứa trẻ, Gođard bị hất xuống bên kia mép đường, ngã lăn xuống chân bờ dậu. Chàng khó nhọc gỡ được những gai góc chằng chịt thấy ánh đèn sau xe biến xa vào bên ngoài phía xóm làng. nửa lời, chàng chộp lấy cái xe đạp của Will, nhảy lên rồi cắm cổ đạp. Nhưng ánh đèn chàng đuổi theo mỗi lúc thêm , rồi biến hẳn lúc chiếc xe rẽ vào đường dãy phố chính, đến chỗ rẽ ngang cứ tự nhiên rẽ về nẻo, rồi xông bừa vào đám sương thung lũng mịt mù. Trước mắt chàng nhảy chập chờn những chữ mà chàng tìm ra được.

      Gođard xe đạp nhảy xuống phía sau chiếc xe hơi của Oluver lúc đó đỗ cạnh chiếc xe lớn năm chỗ ngồi, rồi đưa mắt nhìn thoáng chung quanh. Chàng trông thấy lấp ló ngọn lửa trong khoảng u của cây lá và nghe thấy gió đưa vang lại thứ giọng đàn bà. Vâng theo ý tưởng mơ hồ chàng lấy khoác lên vai tấm chăn của Oliver để lại xe, rồi bước về phía ánh lửa chiếu ra hình như từ khoảng rừng quang rộng. Trong khi tiến lên, chàng nhận thấy có những câu chen lẫn với những tiếng than vãn và tiếng kêu giật giọng. Hốt nhiên chàng đứng dừng lại để tránh vật gì bò phía trước chàng. Chàng nhận ra bạn chàng lúc đó sau bụi cây.

      - Oliver! May quá!

      - À Gođard đấy ư?

      - Thôi, về với tôi ! cũng biết rằng nên ở đây mới phải.

      Oliver càu nhàu:

      - Chính bọn kia mới được ở trong này. Chính cái thằng quấy rầy giọng Oxford đầu bù lối nghệ sĩ kia, cái thằng quỷ quái mà miss Bartendale

      Chàng uất lên vì cơn giận cố nén. Gođard năn nỉ:

      - hứa với ấy rằng vào rừng ban đêm rồi. Thôi về , để mình tôi đối phó với họ.

      - , ạ, đây là đất của tôi.

      thứ cung điệu chầu hát đưa đến tai chàng. Gođard kiễng chân lên nhìn: cái đèn xe hơi đặt thân cây để soi vào người Curtiss, phóng viên tờ báo Post đứng dựa lưng vào gốc cây, tay cầm sổ và bút chì, mắt nhìn cây thông sét đánh. Cái hôm cây bị những người tích kỷ vật đục khoét vơ vét hết nhẵn. người đàn bà đứng ngay giữa hõm, chung quanh có ba người đàn bà nữa cầm tay nhau quây thành vòng. Cả bọn đàn bà cùng cất tiếng cầu: “Hỡi ánh sáng tốt lành hãy dẫn đường chúng ta!” Oliver bảo bạn:

      - ra chỉ là buổi phụ đồng. Cứ nghe mà xem.

      Người đàn bà trong hốc cây liền lên giọng trầm trầm nghe ghê rợn:

      - Hỡi vong hồn Katherine Stringer, hồn có đây chăng?

      Im lát rồi người đàn bà trong bọn the thé kêu: đó là hồn lên tiếng, hồn lấy giọng mũi bắt chước giọng của người bị nạn và rền rĩ:

      - Katherine Stringer ở chốn này.

      Oliver lớn tiếng :

      - buông tôi ra, tôi muốn nghe thêm nữa. Thằng láo ấy lại dám đến tận chỗ Kate bị giết mà lôi thôi à! Đàn bà hay chẳng đàn bà, cũng cần nhã nhặn với họ nữa.

      Chàng từ chỗ nhảy xổ ra. Gođard ra theo nghĩ ngợi. Chàng khổ tâm hết sức, cảm thấy tai họa sắp đến, nhưng lại sợ can ngăn vụng chỉ khiến cho nó đến mau thêm. Chưa hiểu thấu đầy đủ được các điều, chàng chẳng biết xử ra sao. Chàng đành phải đợi xem và thầm mong thế lực bất ngờ nào đến làm cho con quái vật phải gờm sợ.

      Oliver tiến vào khoảng ánh sáng đèn và đứng lại trước mặt Curtiss. Chàng sừng sộ hỏi:

      - Ông làm gì ở đây?

      Người phóng viên ngạc nhiên quá, chưa tìm được lời phân giải, chỉ đáp:

      - Làm phóng .

      Vừa Curtiss vừa lùi lại cái bóng hiển bất thình lình kia. Oliver lại :

      - Đây là đất nhà tôi, ông biết ?

      Rồi túm lấy da cổ chàng trong nắm tay dữ tợn, Oliver lắc rất mạnh người phóng viên. hồn lúc đó há miệng ngừng bặt nửa chừng câu, còn những người đàn bà khác đờ người ra vì kinh dị. Họ cùng kêu lên:

      - Con quái vật đấy!

      Oliver ôn tồn bảo ngay:

      - phải đâu, các bà ạ, tôi phải là con quái vật, mà chỉ là chủ nhân của khu rừng này thôi. Xin các bà làm ơn ra khỏi rừng này cho.

      Chàng buông Curtiss ra để cúi nhặt cái khăn quàng của người đàn bà đánh rơi và nhã nhặn đưa cho người ấy. Chàng mỉm cười bảo người đàn bà:

      - Con đường rặng thông kia là lối ngắn nhất để các bà trở về chỗ đỗ xe đó.

      Curtiss chững chạc :

      - Tôi rất lấy làm ân hận vì phiền ông, ông Hammond ạ, nhưng tôi thể hiểu được tại sao ông đối xử với tôi cách thô bạo thế! Chúng tôi đến đây chỉ cốt khám phá ra bí mật của những việc xảy ra ở đây thôi, mà bà Robinson đây, ông hẳn cũng biết tiếng bà…

      Oliver ghìm giọng bục tức, ngắt lời:

      - Ông bước ngay ! Đừng để tôi phải nổi giận. Cũng chỉ vì có các bà kia ở đây nên tôi mới tha cho ông trận đấy!

      Gođard cũng vào:

      - Phải đấy, ông ạ, tôi van ông, ông ! Ông biết được ông nhúng tay vào việc nguy hiểm đến bực nào đâu, mà rồi có xảy ra chuyện gì đều là tại ông cả đấy.

      Curtiss vẫn cứng:

      - Xin lỗi ông. Tự tôi, tôi nghĩ ra việc xét nghiệm này làm gì, đây là tôi chỉ theo lệnh của nhà báo phải làm thôi.

      Oliver càu nhàu:

      - Này, ông đừng có cãi cọ lôi thôi, chỉ thêm trái lè ra thôi!

      Chàng đặt cái đèn chiếu vào tận tay người phóng viên: thế là chàng liền hết bướng. Người hồn cũng vừa kéo tay Curtiss rồi cùng mọi người lảng xạ Gođard luôn tay khoác cánh tay bạn, định dìu chàng theo bọn kia, nhưng Oliver :

      - Khoan . Để họ khỏi hãy hay.

      Mặc dầu trời rét, Gođard cũng toát mồ hôi lo sợ, lòng bị dầy vò khổ sở bởi hiểu biết bỡ ngỡ của mình.

      - Chả nhẽ ta cứ đứng mãi đây cho đến lúc bọn ngốc kia ra khỏi rừng sao?

      Oliver mỉm cười trong ánh sáng cuối cùng của ngọn đèn xe và đáp:

      - Tôi muốn lại phải mắng vào mặt họ trận nữa. Kìa sao lại run lên thế này?

      Ánh sáng khuất hẳn, hai người chìm trong vừng bóng tối dày đặc. Gođard nghe ngóng lát rồi lại kêu:

      - Trời ơi, tôi van ! Đừng ở đây nữa! Tôi, tôi thấy kinh sợ quá.

      - nào có việc gì đâu mà sợ! Mà sao lại khoác tấm chăn kia thế?

      - Tôi… À, cứ khoác bừa, thế thôi. ạ, tôi thực đấy, tôi sợ lắm.

      - khéo cái thằng cha Gođard này! Lại Swanhild giao cho phải coi giữ tôi, chứ gì? Nhưng tôi bảo rằng việc gì hết kia mà. Chỉ có tôi là gặp nạn được thôi, mà tôi cũng biết nhiều điều kia!

      Gođard kinh dị hỏi:

      - biết con qúai vật là ai rồi ư?

      - , nhưng tôi biết phải lời gì để xua đuổi được con quái vật, cái ký ức tổ truyền của tôi mách tôi điều ấy. Vậy nếu nó đến phải hét lên Heysaa!… Heysaa!… Tại sao mà… Gì thế này… (chàng quát lên), Gođard nó đến đấy!!!

      Lời chàng rú lên ở tiếng sau rốt.

      Chạy ! Trốn ngay , chạy, chạy mau lên, Gođard. bảo nó đến đấy mà!…, Heysaa… a… a!!!

      Tiếng thét thoạt cất bằng giọng người, sau phá lên chuyển thành tiếng trống quái gở dị kỳ mà Gođard nghe thấy đưa ra từ trong phòng bí mật.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Jessie D. Kerruish

      Con Quỷ Truyền Kiếp

      Dịch giả: Thế Lữ

      Chương 30

      CỨU GOĐARD


      Chiếc xe bọn Luna về tới lâu đài giữa lúc Will ra tới đường cái.
      Swanhild hỏi lão Walton thưa rằng cậu Hammond chưa về. Bất giác nàng đưa mắt nhìn bao quanh: sao trời lấp láy, gió thổi lạnh và khan – đêm thuận tiện cho con quái vật. Luna đoán được ý nàng, khe khẽ :
      - Ông ấy hứa với ta rồi, lo gì.
      Bà Yorke lên phòng riêng của bà, Luna đứng trong đại sảnh để ngắm kỷ vật săn bắn mà Swanhild cho nàng thấy cái đẹp. Bỗng chuông điện thoại kêu ran. Hai người giật mình. Swanhild vội vàng đến trả lời. Nàng lại nghe những câu đúng như hai tuần lễ trước.
      Tiếng Will hỏi:
      - Allo! Lâu đài Dannow phải . gọi hộ miss Hammond, mau lên!
      - Tôi đây. Việc gì thế?
      - Con quái vật đấy, thưa Miss. Mà ông Hammond ở trong rừng, trong ấy có người bị giết. Tôi nghe thấy tiếng kêu… Tôi liền chạy về và kể đầu đuôi cho ông Hammond biết. Ông Hammond gạt ông Covert rồi mình.
      - Còn ông Covert sau đó làm gì ?
      - Ông Covert lấy xe đạp của tôi đuổi theo xe hơi. Lúc trước ông Covert toan giữ ông Hammond cho vào rừng nhưng ông đẩy ông ấy vào bờ rào.
      - Được mở cổng ngoài ấy ra.
      Nàng chạy đến nhà xe. May quá, Stredwick chưa cất chiếc Mercédès vào, mà xăng vừa đổ đầy sẵn. Nàng ra lệnh:
      - Đánh xe đến cửa ngay tức khắc cho tôi.
      Nàng trở về thấy Luna mặt tái ngắt, nhưng rất bình tĩnh. Duy chỉ có đôi mày cau lại và đôi mắt lóng lánh tỏ ra tinh thần nàng căng.
      Luna hỏi:
      - Liệu ta có thể theo kịp ông Covert ?
      Swanhild đáp:
      - Ta tắt phải qua lối “borstal” mới được.
      - Họ cũng có những ba người… (nhưng Luna chữa lại). À ! Tôi quên rằng người đàn bà ở trong ấy; thế nào cũng phải đến cho kịp mới được. Lối “borstal” là thế nào?
      Trong khi , hai người vô tình cùng cài cúc áo măng tô lại. Swanhild đáp:
      - Đó là đường ven đồi dẫn đến khu rừng. Lối này khó được chắc chắn Reggie độ trước bị lăn xuống cả người lẫn xe, nhưng tôi cứ , rồi có bị gãy cổ ra nữa cũng cần. Theo đường cái mong gì kịp Gođard được. Theo lối này là tôi bị chết, hai là năm phút nữa đến.
      Lão Walton vẫn bước theo Luna, lúc đó :
      - Nhưng thưa miss Bartendale, mấy trận mưa vừa rồi làm nước dưới suối dâng to, thế cầu hẳn được.
      đáp, nàng chạy ra ngay cửa xe, vì xe hơi ghé đến ngoài thềm.
      Chiếc Mercédès như nhảy vượt qua cái cầu treo rồi rầm rầm leo lên đường cái. Chạy đó lát, rồi xe rẽ vào khoảng đường cỏ rộng lớn, có lối ăn thành đường mờ trắng vắt quạ Hình núi Beacon nổi lên trước mặt hai người. Phía dưới cảnh thôn quê phủ sương nằm soài trong bóng tối mù mịt. Mây bay từng lúc che khuất ánh sao. Luna ngồi trong góc xe, hít hơi vào như con chó săn. Swanhild mắt dán lên cái vệt sáng mờ của con đường hết sức chăm chú và người giá ngắt. Đường bỗng thêm dốc xuống làm thiếu nữ chao đầu vào kính chắn gió. Nàng ngã người về phía sau, dò cái vệt đường bắt ven theo chỗ lên dốc phía tay phải. Tiếng nàng quát trong máy ầm ầm để bảo Luna:
      - nhận chỗ cái cầu đấy!
      bạn nàng nghển người lên, tay bíu lấy chỗ ngồi cho khỏi ngã. Nàng trông thấy cách đó độ có khoảng nước sủi ngầu cắt đứt quãng đường. Ngay lúc đó, cái tiếng rống kinh tởm của con quái vật vang đến tai hai người lần thứ nhất.
      Swanhild nóng nảy hỏi:
      - Đến cầu, hả? Có bị ngập ?
      - Tôi chỉ thấy như có nước cuồn cuộn với chỗ ngắt quãng giữa nguồn suối, thế thôi.
      Swanhild bảo:
      - Ngồi xuống. Tôi cố vượt. Ta đến ngụp xuống nước nữa là cùng.
      Đường dốc thoải hơn. Nàng cho xe gần sát hẳn mặt cỏ, tăng thêm tốc lực và lạng nhanh tay lái sang bên phải khi chiếc đèn xe lao xuống nước với tiếng kêu bưng. bánh xe thụt, rồi lại nhô, rồi, vừa hộc vừa phì, chiếc xe qua cái cầu trông thấy. Chỉ có thân xe là ở mặt nước. lúc, xe đứng hẳn lại và như chỉ chực lùi. Rồi sau, khác nào con ngựa lấy đà xe rướn lên và tới bờ bên kia trong những tiếng gầm rú. Chiếc cầu kêu lắc rắc sau xe tưởng như gãy đổ.
      Bây giờ gần tới rừng rồi.
      Hai người đàn bà nghe thấy loạt tiếng kỳ quái.
      Luna bỗng kêu:
      - Ô kìa! Có chiếc xe hơi chạy biến về phía làng kìa. hiểu sao lại…
      Nàng ngừng lại, kinh dị, trong lúc chiếc Mercédès đỗ ngay sau xe hơi của Oliver.
      Từ khu rừng chốc chốc lại đưa ra những tiếng rống quái gở. Luna, cằm ngược lên, cố tìm xem những tiếng ấy ở đâu mà đến, rồi, cái đèn bấm trong tay, nàng bước vào. Swanhild theo sau. Nàng lên như người mơ ngủ, lần theo những lối gốc cây bụi rậm quanh cọ Tiếng kêu mỗi lúc nghe thêm. Khi hai người bước tới chỗ rừng quang tiếng gầm ma quái dữ dội kia lại vang lên, lẫn với tiếng kêu của Gođard.
      Luna chĩa ngọn đèn thẳng trước mặt và bước lên bước: bầu im lặng như chết ám khắp khu rừng.




      Jessie D. Kerruish

      Con Quỷ Truyền Kiếp

      Dịch giả: Thế Lữ

      Chương 31

      CON QUỶ XỔNG XÍCH


      Ngay từ lúc Oliver cất tiếng rống đầu tiên. Gođard lùi lại bước. Mắt quen tối. Chàng nhận được các cử chỉ của bạn chàng, Oliver chồm hỗm ngồi, bộ điệu hung hăng, khiến chàng nhớ ngay đến những câu của Kate trong lúc mê sảng: “Cái gì trông y như cái nhà vậy”. Mắt Oliver sáng lên cách dị kỳ.
      Hai người cứ thế dò xét nhau hồi, Gođard đờ người nhúc nhích. Hai con mắt trân trân kia sau lóe lên, đỏ lừ lừ. Ngay lúc đó chàng kín đáo nhích ngang sang bước rồi vung sang phía trước cái chăn dạ, hai tay nắm chắc lấy hai góc. Tức khắc cái chăn bị xé rách bươm, trong lúc tiếng gầm rống lại nổi và cái thân hình to hơn lăn xả đến chàng.
      Gođard lại tránh sang bên cạnh bước nữa, vừa kịp giờ quấn mảnh chăn quanh cánh tay giả của mình. Hai con mắt đổ lửa dồn mãi lại. Chàng che chở cổ họng mình bằng cánh tay mạnh, còn tay gỗ đưa ra phía trước giữa lúc chàng bị vấp mạnh thể cưỡng được đẩy ngã bẹp về phía sau.
      Nằm ngửa dưới đất, chàng đem hết sức tuyệt vọng chống lại, lòng vẫn biết rằng như thế chỉ làm chậm lại được lúc sau cùng của bước rủi rọ Chàng cứ đưa hoài cánh tay lắp của chàng vào hai hàm răng nghiến ngấu kia cứ nhè cổ họng chàng mà húc và sau cùng nó cũng tìm được cánh tay mạnh của chàng mà ngoạm và dầy xé cách ghê gớm. Hết sức bình sinh, Gođard lấy bàn chân đạp, lấy đầu gối đẩy, cố đẩy ra cái thân hình ngồi đè lên chàng. Cái chăn, dù rách mướp, lúc ấy cũng được việc, nhưng sau cùng những ngón tay thèm khát tìm được chỗ: áo của chàng bị giằng xé, rồi những móng sắc lẩn vào ngực chàng mà cào bới, trong lúc tiếng rống đắc thắng vang dậy làm rung động mặt đất dưới đầu chàng. Ráng sức cuối cùng chàng gỡ được cánh tay bị thương ra. Tiếng rống chợt ngưng bặt ngay và trong lúc im lìm – quả tin Gođard tưởng chỉ chực vỡ – chàng nghe răng rắc tiếng cánh tay gỗ chàng gẫy trong sức nghiến của hai hàm răng khỏe dị thường. luồng ánh sáng làm chàng lóa mắt. Chàng nhắm mắt lại và ngất lịm .
      Nhưng chàng tỉnh lại ngaỵ Từ cánh tay còn nguyên xuống cằm chàng những giọt nước nóng. Cánh tay giả bị gãy và nghiến nát, chỉ giữ lại được nhờ có những mảnh chăn rách buông thõng xuống tận ngực chàng. Nhìn lên, chàng thấy trước mặt chàng cái nét trắng muốt hàm răng của Oliver với biến hóa quái quỷ mặt bạn.
      Oliver lúc ấy vẫn quỳ khom, hai bàn tay úp xuống đất, mười ngón máu me quào sâu. Luna tay áp trán con người tội nghiệp ấy cố lôi chàng ra phía sau. thấy chuyển, nàng bèn lấy đèn bấm soi luồng sáng lên bộ mặt con quái vật.
      đời nào Gođard quên được cái hình ảnh lúc bấy giờ.
      Bạn chàng khác nào bị quỷ nhập tràng và hóa thành giống hằn học và độc dữ. Mớ tóc dựng ngược lên, hai tai vểnh dài ra và kéo về sau đầu, môi biến thành cái mõm hung ác. Mồm Oliver ngầu những máu và nhớt dãi, căn rộng và nhách toạc đến tận mang tai. Hai hàm nổi lên răng nhe ra chỉ chực cắn, còn phần mặt co ngắn và quắt hẹp lại, chỉ thấy có đôi mắt đỏ lừ. Trông chàng y như con chó sói quái dị có thêm sức khỏe của người trai tráng và uy lực của giống quỷ quái và hùa vào với hung ác bản nhiên.
      Thế rồi mặt Oliver dần dần đổi nét. Hai mắt biến hết ánh lửa và chứa đầy vẻ kinh hoàng. Hàm răng thu cả vào vừng trán, và hai tai trở lại như thường và mái tóc lại giữ nguyên nếp cũ. biến đổi ấy chỉ trong giây phút là hoàn thành.
      Swanhild theo sau. Luna khi bước tới chỗ ba người dáng người Oliver lại được như thường ngày rồi mặc dầu miệng chàng và ngón tay chàng bê bết những máu. Tuy vậy chàng vẫn còn lại vẻ đờ đẫn kinh hoàng.
      Swanhild quỳ gối xuống bên mình Gođard:
      Oliver chậm chạp đứng lên, mắt rời khỏi mắt Luna chăm chú nhìn đầu tóc mình. Chàng đến cạnh người bạn trai và giọng thành tiếng:
      - Tôi… tôi hóa điên rồi! , tôi mê đâu, tôi giết mất Gođard rồi!
      - đâu, ạ (Gođard to có ý cho bạn vững tâm). ! Tôi chỉ bị đánh đo ván thôi.
      Swanhild ôm lấy nàng, ép chàng buông thấp hai bàn tay nắm chặt xuống.
      - , điên đâu ạ, mà rồi cũng bao giờ hóa điên hết.
      Nàng áp mình khăng khít lấy và kiễng chân lên để hôn má. Máu dính bên má nàng. Oliver nhìn nàng đôi mắt sầm tối. Chàng :
      - Swan, máu bết mặt em đây này.
      Chàng gỡ cánh tay mình ra, ngắm nghía những ngón đỏ lòm, đưa lên miệng xem và bỏ ra tay lại càng nhuốm thêm máu. Chàng lẩm bẩm:
      - là tôi hóa điên, hai là tôi mơ ngủ. Tôi thấy con quái vật nó đến, nó ám quanh người tôi, nó nhập vào tôi. Rồi tôi muốn giết chết Gođard ạ, giết và cắn cổ mà xé. Ồ, làm phúc bảo cho tôi biết là tôi hóa điên rồi, !
      Gođard thân mật vừa cầm lắc tay chàng vừa .
      - Cái đó chẳng có gì đáng quan tâm hết. phải chịu trách nhiệm nào, mà việc kia rồi xảy ra nữa đâu.
      Oliver ngạc nhiên:
      - Nhưng sao biết? Mà biết được những gì rồi? Trước xảy ra rồi sao?
      - Xảy ra đến mươi mười lăm lần, rồi mà ai đáng khép tội cả. đừng nghĩ đến chuyện ấy nữa mà cũng đừng làm to chuyện ra làm gì.
      Oliver đưa tay lên trán và nhìn Lunạ lát chàng yên lặng .
      - mấy nỗi nữa tôi đến hóa điên mất thôi.
      Luna đến bên chàng, nhìn thẳng vào mặt chàng rồi chậm rãi:
      - Ông Hammond, tôi tưởng cứ cho ông biết hết còn hơn. Ông điên đâu, mặc dầu ông xông đến bắt ông Gođard như sài lang đói, đúng như ông hại Kate Stringer cách đây mười lăm hôm…
      Swanhild ngắt lời van:
      - Ồ! Luna!
      Nhưng Luna vẫn chuyển lòng. Nàng cứ :
      - Cứ tất cả ngay thế này lại hay hơn và đỡ khổ cho ông ấy hơn. Con quái vật kia bao giờ có hết. Nó chỉ là vật do trí não ông tạo nên đó thôi.
      Swanhild vẫn ôm nàng trong vòng tay và Gođard vẫn nắm bàn tay bạn. lời gì bây giờ vẫn đều vô ích. Chỉ nên làm thế nào cho Oliver hiểu rằng tình cảm của mọi người đối với chàng hề đổi thay.
      Tiếng nàng thuật sĩ lại cất lên, dõng dạc như tiếng của định mệnh:
      - Ông là nạn nhân của chứng bệnh điên ma sói đó, ông Hammond ạ. Đó là chứng điên thất thường nó xui khiến người mắc bệnh tưởng mình là chó sói và hành động như chó sói thực. Bệnh đó thường hay lan truyền rất mau, như bệnh thiên thời. Trong dòng họ Ông bệnh đó là bệnh gia truyền và bệnh nổi phát lên khi nào người bệnh ở giữa rừng thông, đêm trời rét và sao sáng và chỉ có trọi người nữa bên cạnh.
      Gođard khẽ reo lên:
      - À ra thế! chính điều ấy là điều tôi biết đó.
      Oliver đăm đăm suy nghĩ, chàng lẩm bẩm:
      - Tôi tưởng mình là chó sói… ừ, bây giờ tôi nhớ ra rồi. Người ta gọi những hạng này là Wehrwolves, có phải ?
      Luna đáp:
      - Đó là theo tiếng Đức. Theo tiếng cổ ngữ Ăngle đó là Turnskins, mà theo tiếng Pháp là loups-garoụ Cổ ngữ Pháp gọi là “garoul”: đúng như những chữ khắc phiến đá ở phòng bí mật đó.
      Oliver êm lặng :
      - Giờ tôi bắt đầu hiểu ra rồi. Thế các người biết việc này từ bao giờ?
      Swanhild:
      - Từ hôm thứ Hai.
      Gođard:
      - Từ đêm vừa rồi.
      Luna thú thực:
      - Tôi tôi đoán biết được hết từ khi xem thấy bức hình nổi trong nhà thờ, kia.
      Oliver:
      - Vậy ra, ngay từ hôm mới đến đây sao?
      Chàng hỏi câu đó cách bình tĩnh lắm và như thế càng làm cho gớm ghiếc thêm vẻ hỗn loạn kệnh cỡm bộ mặt bết máu của chàng cùng với cái vết toạc lớn do Gođard để lại đó trông lúc vùng vẫy để thoát thân.
      Chàng tiếp:
      - Ngay từ hôm đó, biết rằng tôi vẫn có những cơn điên muốn giết người, biết rằng tổ tiên nhà tôi là những giống ăn thịt đồng loại, biết rằng nếu tôi có con sau này con cái cũng như tôi, biết cả như thế rồi chứ gì. biết rằng tôi tàn hại và gần ăn thịt người đàn bà ngay ở đây…
      - Mà tôi cũng biết rằng đó là việc làm vô tâm gây nên chỉ do tội lỗi của người trong tổ tiên nhà ông bà ngàn năm về trước.
      - tìm cớ che tội ác cho tôi như thế thực tế quá… Hừm! Giờ tôi thấy được mỗi lần xảy ra như thế nào rồi kia: chính ông thân sinh ra cha tôi giết chết người đàn bà mà ông đưa vào rừng; còn cụ Pháp sư ngày trước bắt đầu ăn thịt đứa con ông cụ. Tôi, tôi quen dần dần với những điều thảm khốc này, tôi chắc thế… Thôi, ở đây lạnh lắm, ta về thôi. Phải gọi diện cho bác sĩ và chữa ngay cánh tay của , Gođard ạ.
      Chàng rồi bước vào đường thông. Swanhild chạy theo và luồn tay dưới tay chàng. Oliver nhìn em lúc lâu; chàng tiếng :
      - ra hai người biết từ tuần lễ nay rồi. Dẫu sao, cũng là người cuối cùng trong dòng họ.
      đáp. Nàng ôm sát chặt lấy người chàng.
      Luna với Gođard, mỗi người ngọn đèn, bước theo sau họ.




      Jessie D. Kerruish

      Con Quỷ Truyền Kiếp

      Dịch giả: Thế Lữ

      Chương 32

      VẪN KHUYẾT VÒNG


      - Hãy chờ lát ! Phải tìm duyên cớ cho những vết thương của ta để có ai hỏi đem ra mà mới được. Swanhild, em lấy cái xe đạp kia mà quăng mạnh xuống đường, ở đầu xe hơi này. Mọi người hiểu ra cái kế của tôi đấy chứ? Tôi bị tai nạn mà! Xe tôi đâm phải xe hơi của Oliver, vì thế mới có cái cánh tay bị gẫy này và những vết máu này mặt. Cứ thế, nghe chưa?
      Swanhild làm theo lời chàng.
      - Oliver ngồi chiếc xe Mercédès với Swanhild nhé. Còn miss Bartendale lái cái xe Maxwell, được ?
      Trong khi hai chiếc xe qua miền thung lũng, Gođard cho Luna nghe những điều mình biết. Ngồi chiếc xe khác, Oliver lẳng lặng nhìn mặt hai bàn tay máu me của chàng úp đùi. Đến chỗ đường rẽ, Swanhild đưa tay nắm chặt tay . Chàng ngoảnh nhìn em, đôi mắt tha thiết và :
      - Bây giờ mọi việc đều rệt cả. Điều cần thiết nhất là em đối với trước thế nào sau vẫn thế.
      Nàng đáp:
      - Mà cả mọi người cũng vậy, ai thay đổi đâu, ạ.
      Chàng mỉm nụ cười chán chường:
      - thế nào lại thế được, Swan ạ. Thà cứ đành tâm chịu lấy điều đó từ bây giờ còn hơn.
      đường làng, từng đám người hình như ở cùng chỗ nào vừa trở về. Tâm trí còn bận về các mối lo riêng, bọn Oliver nhận thấy có gì khác thường hết.
      Ở lâu đài Dannow, từ ngoài sân cho tới đại sảnh mọi người nhốn nháo cả lên. Khắp mặt gia nhân xúm lại quanh bà Yorkẹ Bà mực nài Sredwick làm thế nào cho bà có được cái xe để tìm cháu .
      Trông thấy bọn kia về cả nhà đều im tiếng. Oliver cất tiếng tự nhiên để đánh lừa bọn đầy tớ:
      - Mọi hoàn hảo cả, bà Yorkẹ Chỉ có mấy người đồng đến phu hồn trong rừng thông, Gođard với tôi đuổi họ ra thành thử ngã bị thương chút đỉnh thôi. Nếu có cần phải mời bác sĩ hay có bất cứ chuyện gì độ mươi phút nữa em cứ trong phòng Holbein mà tìm nhé.
      Luna đưa mắt cho mấy người hiểu ý. Nàng :
      - Cứ để mặc mình ông ấy hơn.
      Sau đó lúc, nàng theo vào phòng Holbein. Oliver đứng dựa bên lò sưởi đó chỉ thắp ngọn đèn. Khuôn mặt chàng hình như phẳng dẹt và mờ xám - kiểu kì dị đối lại khuôn mặt cụ Warlock treo phía đầu chàng. Mặt chàng bây giờ đờ đẫn mất hết mọi nét linh hoạt. Hẳn trước kia, ông cụ Pháp sư cũng vẻ y như thế mà nhìn trân trân bà vợ mình khiếp sợ điếng người trong căn phòng bí mật. Oliver cố tình lấy giọng bình tĩnh hỏi nàng:
      - Thế nào?
      - Thương tích ông Covert chẳng có gì là nặng hết. Swanhild cùng với tôi băng buộc cho ông ấy sắp xong rồi. Mời bác sĩ vô ích.
      - vào an ủi tôi đóphải ? Luna ơi, lòng tôi mơ ước thế nào rồi đó? Thế mà nay tôi biết ra cái cớ này…
      Chàng gần như khóc, hai tay đưa ra.
      Nàng toan cầm lấy tay chàng rút ngay lại, lẩm bẩm:
      - Tay tôi đầy những máu.
      - Nhưng lương tâm ông vẫn trong trắng!
      Nàng lớn tiếng, chực nắm lấy tay chàng lần nữa nhưng Oliver giấu ra sau lưng. Nàng thôi ngay và đặt tay nàng lên hai vai chàng, giọng chua xót:
      - Oliver của em! Em cũng đau khổ chẳng kém gì đâu.
      Nét mặt se lại, đôi mắt chan chứa nỗi lo âu, nàng bỗng nhiên giống như con trẻ sắp sụt sùi khóc. Oliver chỉ nghĩ đến điều: là an ủi vỗ về nàng. Nhưng chính cái lúc chàng đưa tay toan dìu nàng sát mình cái ý niệm về kia đâm vào lòng chàng nhát. Cánh tay muốn ôm khăng khít ngừng ngay lại để gỡ hai bàn tay kia ra khỏi vai chàng.
      Chàng dịu dàng :
      - Tôi biết. Tôi biết rằng mặc dầu bao nhiêu điều biết , vẫn chung với tôi mộng ước. Nhưng từ khi tôi hiểu các chuyện, cái mộng đó thể nào thành được nữa và tôi tưởng nên tránh xa tôi hơn.
      Nàng lùi lại, trấn tĩnh được như trước rồi yên lặng đến ngồi cạnh lò sưởi. Chàng cũng ngồi xuống đối diện với nàng và chuyện với nàng bằng giọng đều đều.
      Oliver:
      - Kể cũng lạ thực: tôi cứ thấy tôi rất bình tĩnh thôi. Cũng gần như khi ở ngoài trận ấy: sau phen tai họa lớn người ta mụ hẳn , có sức phản động nào cả. Tôi sống trong giấc mộng đẹp trong cái khoảng thời gian từ cái thực cảnh gớm ghiếc của phen tàn sát lớn lao cho đến lúc thực các chứng điên gia truyền này.
      Luna:
      - phải là chứng điên! Nhưng là thứ hoang tưởng đó!
      - Muốn gọi là gì cũng vẫn thế.
      - Nhưng hoang tưởng cả đến trí não rất lành mạnh cũng có khi mắc được.
      - Có lẽ. Nhưng thứ hoang tưởng này lại đưa người ta đến tội giết người kia! Thế mà tôi là mấu chốt để cho dứt tuyệt được. Tôi là cái vòng cuối cùng của sợi dây chuyền đó.
      Nàng lặng im.
      - Vậy mà Luna biết cả trong lúc tôi vẫn mù tịt biết gì!
      - Là vì tôi vẫn mong ngăn ngừa được, để cho lần nào chứng bệnh phát ra. Tôi vẫn tin chắc ở lời hứa.
      - Tôi nghĩ việc gì phải tự trách mình rằng sai lời. Nào ai biết trước câu chuyện xảy ra đến thế được?
      - Mà tình thế lúc đó như vậy, nếu giữ lời hứa mà can thiệp mới thực là điều tôi phải lấy làm lạ.
      Chàng khẽ :
      - Hai ta tâm đầu ý hợp đến thế đấy! Mà như thế mới càng thêm cay độc!
      Chàng nhìn lên bức chân dung cụ Pháp sư, giọng bỗng thành cay đắng:
      - Bất công thực! Về phần ông cụ, ít ra ông cụ cũng được hưởng hạnh phúc rồi, có gia đình con cái để mà dấu! Trời! Thà đừng sinh ra tôi làm gì còn hơn!
      Luna úp mặt giấu trong taỵ Chàng mạnh mẽ tiếp:
      - Dẫu sao, tôi cũng làm trọn bổn phận của tôi. Ồ! Giá bổn phận ấy cứ dễ dàng như trong hồi chiến tranh thôi nhỉ. Đằng này còn phải chịu mất em kia! Kìa, em khóc đó sao?
      Giọng chàng ân cần âu yếm. Nàng đáp. Lời qua mấy ngón tay che:
      - đâu. Mà dẫu cho em có khóc nữa, cũng chỉ vì lòng em cảm tạ trời cho em được lòng người như .
      - Tình thế bắt phải như thế, chứ chẳng có gì đáng khen. Cố nhiên là vẫn cứ để mình sống, sống để mà chống giữ lấy cái danh dự nhà cho đến ngày dòng dõi cùng với tiêu diệt hẳn.
      Chàng bỗng ngừng lại, kinh ngạc:
      - Trời ạ! Tôi quên bẵng mất bọn đánh bẫy trong rừng cấm đấy. Nếu bọn ấy bị bắt
      Miss Bartendale ngẩng lên nhìn chàng.
      - Nếu tôi bắt buộc phải ra trước công chúng thu hết cái nhục nhã của tổ tiên và của chính tôi thực là tai họa đến nước! Thực là ngàn năm nhơ nhuốc.
      Chàng hết, vùi mặt vào lòng bàn taỵ Rồi chàng thấp giọng tiếp:
      - Có em, tôi đương đầu được với hết mọi điều…
      Nàng quỳ xuống trước mặt chàng:
      - Oliver, thế này khổ quá. , em là của , còn chi chia rẽ đôi ta ra được hết! Số trời định cho ta sống với nhau rồi mà trời thể bắt ta chịu hình phạt vì quá khứ xấu xa tội lỗi được đâu.
      - Nhưng em ạ, tương lai lại chịu quả báo của ta…
      - Cần chi phải nghĩ đến tương lai? Tổ tiên của cũng từng khinh thường cái nghiệp chướng nó ám mãi các cụ đó sao?
      - Là vì các cụ biết mới thế. Còn ta mà cứ thế ta lại chủ tâm mà làm ngơ: đốii với con cái ta, ta phải mang trách nhiệm rất nặng.
      - Vâng, thế sao? Ta chỉ sống được có lần.
      - giờ, em hy sinh cả tâm hồn em cùng với mọi của báu khác ở đời để cho được hạnh phúc, nhưng đành nhận hy sinh kia được vì lòng quá em rồi.
      Nàng ngả đầu ra phía sau và :
      - Tôi lại biết người tôi lại có tấm lòng cao quý hơn tôi: như thế lại góp thêm phần đau khổ tôi phải chịu.
      Chàng buồn rầu đáp:
      - phải là người siêu việt được như em tưởng đâu. Đáng lẽ phải giấu kín lòng em mới phải.
      Nàng ra vẻ đắc thắng:
      - Nhưng em đoán biết được kia! Em có ý hứa kết duyên với nếu em tìm thấy cái vòng nó khuyết mất trong chuỗi dây chuyền luận đoán của em. Em vẫn mong tìm được phương pháp trừ sức quỷ ám kia cho .
      - Thế à? cũng nghe có những nhà giải phẫu có những phương chữa rất thần diệu, trả lại ký ức cho những người mắc bệnh quên và ban thông minh cho những người ngu đần mà chỉ có việc giải phẫu chút ở óc là được.
      Nàng bật buồn cười:
      - Đó là những chuyện ngớ ngẩn báo chí tuốt! chứng bệnh tâm thần có thể chữa được nếu người ta tìm ra được nguyên nhân. Nguyên nhân bệnh của ngài em chắc tìm ra được rồi đó! Ồ, nhưng xin ngài đừng có mừng vội. Đó chỉ là điều phỏng đoán ấy mà sai ngài là người sau cùng của dòng dõi Hammond. Nhưng nếu điều ấy mà đúng, ngài với em sánh vai nhau mà đường đời đó ngài ạ.
      Bên ngoài có ai bước tới, Oliver vội vàng đỡ Luna đứng lên. Swanhild vào, theo sau là Gođard, tay quấn băng và cánh tay áo rỗng thõng buông xuống và sau cùng, bà Yorke, Swanhild gọi:
      - Oliver! Bọn nhàAdes vừa bị bắt trước đây giờ. Vì thế lúc ta ở bên rừng về mọi người trong làng mới đổ ra cả ngoài phố. Will ấy bảo là bọn Ades bị khép vào tội giết chết Kate.
      Oliver ngoảnh về phía Luna, mỉm nụ cười thất vọng:
      - Thế là đứt: cái nhơ nhuốc của họ Hammond sắp đến lúc phải công khai.




      Jessie D. Kerruish

      Con Quỷ Truyền Kiếp

      Dịch giả: Thế Lữ

      Chương 33

      TỪ TUỔI ĐỒNG ĐẾN NGÀY PHÁN XÉT


      Mấy người sững sờ nhìn nhau. Sau cùng Oliver :
      - Tôi phải gọi điện thoại cho nhà chức trách mới được. nên để cho bọn kia phải chịu tù ngục như thế.
      - ! Luna khăng khăng . Hãy nghĩ cho kỹ rồi hãy quyết định, để cho họ phải giam vài giờ cũng chẳng có hại gì.
      Oliver với Swanhild cùng :
      - Thế nhưng vợ con người ta…
      Luna đáp:
      - Này nhé: thử nghĩ lại mà coi họ phải chịu như thế kể cũng đáng kia đó. Ba giờ nữa Swanhild đến thăm người nhà họ và cho họ vững tâm. Lấy lý mà xét họ bị bắt như thế chính là tại tôi đó, trong việc này tôi đem nghề nghiệp với tên tuổi của tôi ra mà thử thách đó.
      Oliver băn khoăn hỏi:
      - Sao vậy?
      - vắn tắt thế này: đáng lẽ chính tôi phải ngồi ghế bị cáo mới phải.
      - Ồ! Luna!
      Bà Yorke chua chát phân giải hộ nàng:
      - Qủa thực như vậy đó. Đáng lẽ Luna phải thú thực cái duyên cớ nó xui khiến mình phải phi tang mấy vật làm chứng và để cho những người vô tội bị ngờ oan thế mà ngay từ hôm đầu Luna tìm được mọi chứng cớ.
      Oliver ngạc nhiên nhìn người thiếu phụ. Nàng ôn tồn :
      - Chính đó. Trong mõm con chó có mảnh khăn phu là của ông với những thương tích con chó có dính những sợi râu của ông, nếu thấy những thứ đó bất cứ người nào của sở liêm phóng cũng có thể đoán được ông là thủ phạm ngaỵ Tôi mới đánh cắp những tang chứng đó và liệng qua cửa sổ xe lửa rồi.
      Sắc mặt nàng bừng lên và đôi mắt nàng lấp lánh ánh sao nhìn mọi người vẻ khiêu khích. Nàng lại :
      - Nếu tôi tìm được cách cố bịt , để cho cớ vỡ lở, tôi bao giờ hết hối hận và nếu tôi xao lãng bỏ lỡ mất cái cơ hội mong có thể chữa khỏi được ông tôi đến hóa điên mất. Vậy tôi phải có hạn ba giờ kia để làm xong cuộc thí nghiệm sau cùng.
      Oliver hỏi:
      - Cuộc thí nghiệm sau cùng?
      - Phải, mà làm trong căn phòng kín. Những cố tật lưu truyền kia có căn nguyên và duyên cớ. Có khi chỉ có trời mới làm mất được những cố tật kia do phép lạ. Lại có khi trời để cho người trong hạng người có khiếu riêng làm được phép diệu kì đó. Tôi đây mong có thể trừ được con quái vật cho ông.
      - Nếu thế, xin làm phúc thí nghiệm ngay tức khắc .
      Luna giữ thái độ bình tĩnh như trước. Cái công việc khó khăn nàng sắp phải làm nốt kia cần phải có đủ hết đảm lực ở nàng.
      - Tôi hãy qua cho ông biết đại thể cái , rồi sau sửa soạn buổi thí nghiệm. Đại khái lai lịch con quái vật dòng họ Hammond kể từ thời đại tuổi đồng cho đến ngày tận thế theo tín ngưỡng dân Bắc Âu như thế này.
      Lúc đó Oliver ngồi trong bóng tối, bên phải lò sưởi, và đối diện miss Bartendalẹ Swanhild ngồi bên cạnh và cầm tay chàng. Bà Yorke và Gođard vừa quây thành vòng.
      Luna:
      - Về hồi cuối tuổi đồng trong lịch sử Bắc Âu nghĩa là vào khoảng bảy trăm năm trước Tây lịch Sigmund Volsung, vị tổ tiên của ông, là bực vua chúa rất có quyền thế. Người chỉ có em tên là Signỵ Nàng bị con chó sói cắn chết mặc dầu Sigmund đem hết sức bình sinh ra chống cự để cứu nàng. Trong cuộc vật lộn ấy người sinh cuồng dại, phần vì phiền não, phần vì đau đớn, tâm lực giữ được. Người đâm ra nguyền rủa vị thần thánh vẫn tôn thờ. Người nguyền rủa rằng đến ngày Phán xét tuổi đồng sau này, khi các đấng hùng sống lại để cùng thần Ases chiến đấu với những hung thần các loài quái, mình Sigmund biến thành chó sói mà đứng về phía quân thù. câu nguyền rủa như thế ta khó lòng mà lượng được quả báo đến chừng nào chỉ biết về thời đó phép giải tội chưa có và khi cụ Sigmund hồi tâm lại người bị ám ảnh hoài bởi những lời người thốt ra. Việc thảm khốc kia xảy ra trong khu rừng thông đêm đông sao điểm vằng vặc. Về sau, bao nhiêu năm qua rồi, bỗng tình cờ đêm người ở trong rừng thông với người con trai của người. liên tưởng diễn ra trong trí, người nghĩ ngay là thần Odin giáng họa xuống cho mình; thế là người nổi cơn điên ma sói. Con trai cụ về sau, phần do di truyền, phần do ám thịt, cũng chết vì chứng điên đó, rồi lại đến lượt những con cháu còn mang trong tiềm thức dấu vết những mối kích động dữ dội của ông chạ Bao giờ cơn điên cũng nổi lên trong những trường hợp trùng nhau: với người trong rừng thông, đêm có sao và có rét.
      Swanhidl :
      - Những điều nhớ lại khi ngửi thấy mùi hắc ín cũng thuộc vào tượng này đấy nhỉ.
      Luna:
      - Chính vậy đó. Khi nhắc tới chuyện Covert, tôi gây ra được những kỷ niệm ấy biết ngay là mình lầm đường… cụ Sigmund chắc thế nào cũng đem việc mình thỉnh giáo các thầy cả trong đạo mình và chắc bọn họ quyết với cụ rằng câu nguyền rủa kia đời đời trói buộc vào dòng dõi nhà cụ. người trong bọn con trai cũng tên là Hammond có thanh gươm đồng tuyệt quý. Thanh gươm ấy, cha truyền con nối cho nhau giữ rồi thuộc về cái người làm hải tặc sang cướp phá bên . Hồi bấy giờ người ta dùng khí giới bằng sắt, nhưng Magnus tha thiết với thanh gươm lắm, đến đỗi sai làm thêm mảnh vàng khắc lên đó và để chôn theo với mình. ngôi mộ có đặt phiến đá ghi tên họ mình và tổ tiên mình; về sau phiến đá ấy người ta chôn xuống đất, coi như kỷ niệm thiêng liêng của những đạo sĩ đời thượng cổ.
      “Lời thề độc hóa làm chó sói kia vẫn cứ theo ám ảnh hoài những con cháu nối dõi cụ Magnus, mà họ biết nguyên dọ Bệnh ma sói, là bệnh rất thường về đời trung cổ, làm cho người ta ghê sợ như ngày nay.
      Oliver:
      - Hãy khoan, thế chứng bệnh kia truyền ra các chi họ bọn con cháu Magnus sao?
      - . Người ta công nhận rằng con quái vật chỉ theo dõi những chủ nhân trại ấp này thôi. Người nào trong chi này cũng vô tình mà chờ đợi con quái vật hiển , mà tổ tiên nhà ông với những chủ ý tốt nhất đời lập ra thói tục tồi tệ nhất: các cụ đặt ra bài hát kể những điều kiện cần thiết cho con quái vật hình.
      - Sao lại thế?
      - Vì có những cây thông mọc gần cửa sổ. Cánh cửa mở để ánh sao sáng bên ngoài soi vào, các điều kiện gồm có đủ cả, thế là người chủ động thể thoát được cơn điên, con cháu sinh ra những sẵn tật di truyền huyết thống, mà người ta còn dàn xếp cho họ nổi diên lên. Điều đó rất quan trọng. Những người hành biết cách làm tắt cơn bằng cách chiếu ra luồng ánh sáng.
      - Oliver nghĩ ra ý:
      - Tại sao tổ tiên tôi lại nhổ hết mọi cây thông trong ấy thế nhỉ?
      Luna cười:
      - Tránh địa hat mình lại gặp bất cứ ở đâu cũng có. Cụ tu tìm cả được cách cho mọi người tưởng rằng cụ giam xích nó trong mồ Thunder. Số trời cũng giúp cụ vì bao nhiêu người tế lễ tục lưu truyền kia đều chết trong hồi phân tranh Lưỡng Hồng. Ấp Dannow vào tay người dòng họ Hammond biết gì về những việc làm trong phòng bí mật, người ấy lại tin rằng con quái vật bị nhốt trong mồ. Điều tin tưởng ấy hợp với điều tin tưởng , giá cứ thế chỉ mấy đời nữa dòng họ Hammond khỏi dứt được cái ác bệnh nếu có cụ Magnus Pháp Lúc trông thấy trước mắt cái tượng mũi thuyền ký ức cổ truyền của ông cụ thức dậy trong tâm não Oliver, thế rồi khi ngọn nến tắt kích thích não cân của ông cụ làm cho cơn điên dễ nổi lên, làm cho hoảng hốt lúc đó. Và từ đó biết rằng chính mình gây ra vạ. Về sau, lấy ngay con trai ông cụ làm người giúp việc thí nghiệm, ông cụ giết con chết trong hồi lên cơn điên, bà vợ giữa lúc tàn sát kia, cầm đèn bước vào: bà chết ngay tại trận, còn cụ hồi tỉnh dần, và đủ bình tĩnh để giấu giếm mọi việc. Sức ám ảnh theo dõi mãi con cháu cụ sau này. thực thể nào tả ra được vì lần nào người tá độc nhất trông cơn điên cũng đều bị giết cả.
      Oliver trầm tiếng :
      - Bây giờ tôi hiểu tại sao con Holder lại báo hiệu gì để mách tôi… Tội nghiệp con chó, giá nó chạy trốn có hơn . Trời, thực là ghê tởm! Nhưng mà sao hôm ấy tôi lại bị chỗ sưng u đầu thế nhỉ?
      - Ông tất bị ngã lúc quật con chó vào thân cây, mà chính việc đó tạm giữ được cho ông quyên sinh đó. Nhưng lúc nãy, khi tôi tới nơi, ông bắt đầu lờ mờ hiểu ra những việc xảy ra những phút trước.
      Gođard vừa cười vừa :
      - làm hỏng cả cái cánh tay chắp rất đẹp của tôi rồi đấy. Giờ tôi xin thú thực rằng lúc đó tôi bối rối quá, vì tôi chưa biết làm cách nào để tránh cho nổi cơn điên. Tôi chắc rằng miss Bartendale đoán biết cả.
      Luna mỉm cười Oliver:
      - Cho đến bây giờ tôi vẫn còn bàng hoàng với tất cả những điều “đoán biết” đó.
      Hết

    5. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :