Chuyện xảy ra trên con tàu tốc hành Phương Đông - Agatha Christie (32 Chương)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. snowbell

      snowbell Well-Known Member

      Bài viết:
      1,358
      Được thích:
      286
      Chương II: HỎI CUNG NGƯỜI THƯ KÝ

      Poirot có vẻ trầm tư như đeo đuổi, ý nghĩ gì đó.
      - Chúng ta nên hỏi lại Mac Queen, - cuối cùng Poirot .
      - Sao, cuộc điều tra tiến triển đến đâu rồi, - Mac Queen hỏi khi bước vào phòng.
      - đến nổi tệ lắm. Tôi biết danh tánh của Ratchett.
      Hector Mac Queen cúi nhìn về phía trước.
      - Ồ.
      - Ratchett, như nghi ngờ, chỉ là tên giả. Ratchett chính là Cassetti, kẻ chuyên môn bắt cóc trẻ con. Và bị kết án trong vụ bắt cóc và giết bé Daisy Armstrong.

      Mac Queen biểu lộ ngạc nhiên tột độ:
      - Tên khốn kiếp ! - thốt lên.
      - mảy may nghĩ ngờ à ?
      - Thưa ! Nếu tôi biết tôi tự chặt tay hơn là làm việc cho tên đó.
      - có vẻ bị chấn động bởi tên này nhỉ ?
      - Tôi cũng có lý do. Bố tôi là biện lý trong vụ án Armstrong. Vì thế tôi có nhiều dịp thấy bà Armstrong ... người đàn bà đẹp và hiền từ ! đau khổ của bà làm an ủi lòng nhiều người ! Nếu có người nào xứng đáng bị giết đúng Ratchett ... Cassetti. Tên khốn kiếp đó đáng sống.
      - Nếu biết, có thể giết ông ta chút áy náy ?
      - Vâng.

      Mac Queen chợt im và đỏ mặt.
      - Hình như tôi tự buộc tội mình.
      - Tôi có thể nghi ngờ , nếu cái chết của Ratchett làm buồn khổ nhiều đến thế. - Vừa cười Poirot vừa .
      - Tôi thể hối tiếc ông ta được. - Ngừng lúc Mac Queen tiếp - tôi tò mò quá nếu hỏi ông làm cách nào tìm ra danh tánh Cassetti.
      - Bởi mảnh của lá thư trong phòng ông ta ,
      - Nhưng mà ... à tôi muốn , lơ đễnh khi để giấy tờ lung tung.
      - Điều này còn tùy theo góc độ ta đứng. Bổn phận của tôi là phải biết mọi hành vi của những hành khách tàu, nên tôi mong đừng giấu điều gì.

      Mac Queen vui vẻ .
      - Ông cứ thi hành phận của mình, để tôi còn có dịp biện hộ cho mình chứ ?
      - cần thiết hỏi số phòng của nữa vì tôi ngủ với đêm - vừa Poirot vừa cười, - Bây giờ mình ở phòng 6 và 7 toa hạng nhì phải ?
      - Đúng thế.
      - Mac Queen ... cho tôi biết làm gì đêm qua sau khi rời toa tàu.
      - Đơn giản thôi ! tôi, quay về phòng, tôi đọc sách lúc rồi sau đó xuống ... ga Belgrade. Vì lạnh qúa… nên tôi lại lên tàu và chuyện lúc với người phòng bên … sau đó tôi lại chuyện với đại tá Arbuthnot. Hình như lúc tôi chuyện với Arbuthnot ông qua. Sau đó tôi đến phòng Ratchett để ghi chép vài vấn đề (ông ta đọc cho tôi). Tôi về phòng sau khi chúc Ratchett ngủ ngon. Đại tá Arbuthnot lúc đó vẫn đứng ở hành lang và vì phòng của ông ta được dọn thành giường nên tôi rủ ông ấy về phòng để chuyện. Tôi gọi bia và chúng tôi tranh luận về đề tài chính trị. Thường tôi tránh tiếp xúc với người . lạnh lùng của họ làm tôi bực mình. Nhưng tôi lại thích đại tá Arbuthnot.
      - cho tôi biết Arbuthnot rời phòng mình lúc mấy giờ ?
      - Rất dễ ... khoảng hai giờ sáng.
      - có nhận thấy tàu ngừng chạy chưa?
      - Có. Việc này làm chúng tôi ngạc nhiên. Chúng tôi nhìn ra ngoài và trông thấy tuyết dày đặc. Nhưng chúng tôi ngờ được những hậu quả.
      - Chuyện gì xảy ra khi đại tá Arbuthnot rời khỏi phòng ?
      - Ông ta về phòng, còn tôi gọi nhân viên tàu đến làm giường.
      - ở đâu khi nhân viên làm giường ?
      - Tôi ra hành lang đứng hút thuốc.
      - Rồi sau đó ?
      - Sau đó tôi ngủ và ngủ đến tận sáng.
      - có xuống tàu lúc nào ?
      - Arbuthnot và tôi xuống ở ... tên ga đó là gì ấy nhỉ ? .... À, Vincovei. Chúng tôi xuống cho giãn gân cốt. Nhưng trời lạnh quá nên chúng tôi lên tàu ngay.
      - xuống tàu bằng cửa nào ?
      - Bằng cửa lan can, cửa gần phòng tôi nhất.
      - Cảnh cửa gần toa ăn à ?
      - Phải.
      - nhớ thử xem, cánh cửa đó có khóa bằng khóa an toàn ?

      Mac Queen suy nghĩ trước khi trả lời:
      - Có, tôi nhớ ra rồi. thanh sắt như đòn bẫy được kéo xuống. Chắc ông muốn đến cái đó phải ?
      - Phải ! Ổng có kéo nó xuống khi lên tàu ?
      - ! tôi là người cuối cùng lên tàu và tôi nhớ là khóa.
      - Trong khi và đại tá Arbuthnot chuyện trong phòng, cửa hành lang có mở ?
      - Có !.
      - có thể cho tôi biết ai ... ngang qua hành lang từ khi tàu rồi khỏi Vincovei cho đến khi và Arbuthnot chia tay nhau ?

      Mac Queen khẽ nhíu mày :
      - Hình như nhân viên phục vụ có ngang qua lúc. ta đến, từ phía toa ăn và người đàn bà theo hành lang về phía ấy.
      - Bà ta là ai ?
      - Tôi biết. Tôi chú ý lắm. Lúc đó cuộc tranh luận của chúng tôi sôi nổi. Và tôi chỉ thấy cái bóng màu đỏ lướt qua cửa thôi.
      - Chắc bà ta về phía nhà tắm ?
      - Có lẽ thế.
      - có thấy bà ta trở về ?
      - Rất có thể là bà ấy ngược trở lại ? nhưng tôi chú ý đến.
      - Còn câu hỏi nữa. có hút ống điếu Mac Queen ?
      - , tôi hút ống điếu.

      Ngừng lát Poirot :
      - Tạm xong rồi. Tôi muốn gặp hầu phòng của Ratchett. A ! nhân thể, thường hầu phòng du lịch ở toa kutset hạng nhì à ?
      - ta vậy nhưng tôi thường toa hạng nhất, và nếu được phòng thông qua phòng Ratchett. Ông ta để phần nhiều hành lý của ông ta trong phòng tôi và vào bất cứ lúc nào khi ông ta cần tôi. Lần này tất cả phòng hạng nhất có người, trừ phòng RatcheM nên tôi phải ở toa hạng nhì.
      - Tôi hiểu, thôi cảm ơn , Mac Queen !.
      piipp thích bài này.

    2. snowbell

      snowbell Well-Known Member

      Bài viết:
      1,358
      Được thích:
      286
      Chương III: HẦU PHÒNG

      Sau Mac Queen, là người hầu phòng người . Với vẻ mặt lạnh lùng, ta đứng, Poirot mời ta ngồi.
      - là, như người ta , hầu phòng cho ông Ratchett?
      - Thưa vâng.
      - Tên là gì?
      - Edouard Henry Masterman.
      - bao nhiêu tuổi ?
      - 39
      - Địa chỉ của ?
      - 21, đường Fria, Kriard street, Clerkenwell.
      - có biết là chủ bị giết ?
      - Thưa có. khủng khiếp.
      - có thể cho tôi biết trông thấy ông Ratchett còn sống lần cuối cùng lúc mấy giờ ?

      hầu phòng suy nghĩ rồi trả lời.
      - Lúc đó khoảng 9 giờ tối.
      - hãy kể cho tôi cụ thể hơn.
      - Như mọi khi, tôi đến phòng ông Ratchett để xem ông ta có cần gì ?
      - phải làm gì ?
      - Gấp hay máng quần áo. Để răng giả của ông ấy vào ly nước. Xem ông Ratchett có thiếu gì ?
      - có thấy điều gì bình thường trong thái độ ông Ratchett ?
      - Hình như ông ấy hơi lo lắng.
      - Lo lắng à, về vấn đề gì ?
      - Về lá thư mà ông ta vừa đọc xong. Ông ta hỏi xem có phải tôi vừa mới đem vào phòng . Khi tôi trả lời , ông ta bắt đầu gắt gỏng và chê trách tất cả những gì tôi làm.
      - Ông ta có hành động bình thường ?
      - Ổ, thưa ông . Ông ấy ít khi nổi giận lắm.
      - Chỉ có khi nào có lý do quan trọng lắm ông Ratchetr mới tỏ ra ... khó chịu thôi.
      - Ông chủ có hay dùng thuốc ngũ ?

      Bác sĩ Constantine hơi chồm về phía trước khi Poirot hỏi câu này.
      - Ông ta luôn luôn cần đến thuốc ngủ khi du lịch, vì ông thể ngủ được.
      - có biết ông Ratchett thường đùng loại thuốc nào ?
      - Tôi nhãn chai chỉ đề có hang chữ : Thuốc ngủ dùng buổi tối trước khi ngủ.
      - Hôm qua ông chủ có uống ?
      - Thưa có. Tôi đổ thuốc vào cái ly để bàn.
      - Ông ta uống trước mặt à ?
      - Thưa .
      - Chuyện gì xảy ra sau đó?
      - Tôi hỏi xem ông ta còn cần gì nữa và mấy giờ ngày mai phải gọi ông dậy. Ông Ratchett bảo là đừng quấy rầy ông ta trước khi ông bấm chuông gọi.
      - Ông ta có thói quen như thế à?
      - Thưa vâng. Thường buổi sáng. Ông bấm chuông để bảo nhân viên tàu hỏa gọi tôi đến khi ông sắp dậy.
      - Ông ta, dậy sớm hay trễ ?
      - Tùy hứng, ông ta có thể dậy ăn điểm tâm hay chờ đến giờ cơm.
      - ngạc nhiên khi thấy muộn mà ông Ratchett gọi à ?
      - Thưa ông .
      - Ông Ratchett có kẻ thù ?
      - Thưa có, - gã hầu phòng cách bình thản.
      - Sao biết?
      - Tôi nghe ông ta đề cập đến vài bức thư - với ông Mac Queen.
      - có mến ông Ratchett ? Masterman.

      Khuôn mặt gã hầu phòng trở nên lạnh lùng hơn.
      - Câu hỏi của ông làm tôi khó trả lời. Ông Ratchett là ông chủ rất hậu hĩnh.
      - Nhưng mến ông ta phải ?
      - Thú là tôi có cảm tình với người Mỹ.
      - sang Mỹ bao giờ chưa?
      - Thưa ông chưa.
      - có nhớ là dạo báo chí đăng tin vụ Armstrong ?

      Gò má của Masterman ửng hồng.
      - Thưa ông có. Có phải đó là vụ bắt cóc ?
      - có biết là chủ cầm đầu bọn bắt cóc đó ?
      - Thưa . Có lẽ nào? tôi thể tin được.

      Lần đầu tiên giọng của hầu phòng run lên vì xúc động.
      - Tuy nhiên, đó lại là . có thể cho tôi biết tối hôm qua làm gì sau khi rời khỏi phòng ông Ríitchều ? câu hỏi thông thường thôi.
      - Tôi báo cho ông Mac Queen rằng ông Ratchett cần ông ta. Sau đó tôi về phòng để đọc sách.
      - ở phòng nào ?
      - Phòng cuối ở toa hạng nhì, gần toa ăn.
      Poirot cúi xuống xem sơ đồ của toa tàu.
      - ngủ ở kút sét nào ?
      - Kút sét dưới.
      - Số 4 phải ?
      - Vâng .
      - Còn có ai cùng phòng với ?
      - Thưa có, người Ý.
      - ta có tiếng ?
      - loại tiếng hơi lạ. Masterman với giọng hơi khinh miệt. ta sống ở Mỹ - Chicago - theo tôi biết.
      - Hai người có hay chuyện với nhau ?
      - Thưa . Tôi thích đọc sách hơn.

      Poirot mĩm cười. Ông có thể tưởng tượng ra cảnh người Ý to béo nhiều và người lầm lì ít .
      - Tôi có thể được biết đọc quyển gì ?
      - nay tôi đọc quyển : Mắc bẫy ái tình của bà Arabella Richardson.
      - tiểu thuyết hấp dẫn?
      - Tôi thấy đó là quyển đầy thú vị, thưa ông.
      - Tốt, chúng ta tiếp tục. quay về phòng và đọc sách, cho đến lúc nào?
      - Khoảng 10 giờ 30 thưa ông. người Ý muốn ngủ nên nhân viên đến làm giường.
      - Vậy là nằm và ngủ ?
      - Tôi lên giường nhưng ngủ.
      - Vì sao ?
      - Tôi bị đau răng ...
      - Đau lắm à ?
      - Vâng rất đau thưa ông.
      - uống gì đề giảm đau.
      - Tôi lấy ít nước girof [1]. Tôi hơi bớt nhức nhưng vẫn ngủ được. Vì vậy tôi bật đèn đầu giường kút sét. Sau đó tôi lấy lại quyển sách... để cố quên cơn đau răng.
      - ngủ suốt đêm à ?
      - Thưa ông có, tôi thiếp lúc 4 giờ sáng.
      - Còn người bạn đồng hành của .
      - chàng người Ý ấy à ? ồ, vừa nằm xuống là ta ngáy ngay.
      - ta ra khỏi phòng trong đêm sao ?
      - Thưa .
      - Còn ?
      - Tôi cũng , thưa ông.
      - có nghe thấy gì trong đêm ?
      - có gì đáng . Con tàu ngừng lại, tất cả đều yên tĩnh.
      Sau lúc suy nghĩ, Poirot kết luận:
      - Tôi còn câu nào để hỏi nữa. còn gì thêm về thảm kịch nữa à ?
      - Tôi rất tiếc là , thưa ông.
      - Theo , giữa chủ và ông Mac Queen có xích mích ?
      - Thưa ông ... ông Mac Queen là người rất tốt.
      - Trước khi làm với ông Ratchett làm ở đâu ?
      - Cho ngài Thomas Tomlinson ở Grovenor Square.
      - Tại sao lại nghĩ việc ?
      - Ngài Thomas Phi châu và cần đến tôi nữa. Nhưng tôi tin là ngài Thomas cho ông biết về tôi rất kỹ, vì tôi làm cho ngài từ nhiều năm nay.
      - vào làm cho ông Ratchett bao lâu rồi ?
      - Hơn 9 tháng, thưa ông.
      - Cảm ơn . Masterman ạ, có biết ống điếu ?
      - Thưa ông ? Tôi chỉ hút thuốc lá thôi.
      - Cảm ơn , xong rồi đấy.

      Poirot gật đầu chào Masterman - hầu phòng có vẻ chần chừ và :
      - Xin lỗi ông, bà người Mỹ lớn tuổi gần như ngồi lửa. Bà ta muốn biết chuyện gì xảy ra đêm qua.
      - Nếu thế tôi gặp bà ta ngay bây giờ. - Poirot mỉm cười .
      - Ông có muốn tôi mời bà ta đến ? Từ nãy giờ bà ta cứ kêu inh ỏi đòi gặp người đại diện chính quyền. Nhân viên phục vụ tài nào trấn an bà ta được.
      - hãy mời bà ta đến đây hộ tôi. Tôi hỏi bà ấy.

      Chú thích:
      [1] Loại nước làm giảm đau răng

    3. snowbell

      snowbell Well-Known Member

      Bài viết:
      1,358
      Được thích:
      286
      Chương IV: LỜI CHỨNG CỦA BÀ HUBBARD (người Mỹ)

      Bà Hubbard vào toa ăn trong trạng thái dao động mạnh. Bà ta cách khó khăn :
      - Hãy cho tôi biết, ai trong các ông là người đại diện cho chính quyền? tôi có lời khai rất quan trọng và chỉ cho người nào có thẩm quyền thôi. Nếu các ông ... - đến đây bà Hubbard đưa mắt dò xét ba người đàn ông. Poirot nghiêng mình về phía trước và :
      - Bà hãy kể cho tôi mọi chuyện. Nhưng trước tiên, mời bà ngồi.

      Bà Hubbard ngồi sụp xuống cái ghế trước mặt Poirot.
      - Tôi muốn là, đêm qua trong tàu này xảy ra án mạng và ... tên sát nhân trốn trong phòng tôi.
      Bà Hubbard ngừng lại, vẻ quan trọng.
      - Bà có chắc , thưa bà ?
      - Tôi có chắc ấy à ? Buồn cười. Tôi biết tôi gì chứ ! Tôi kể cho ông mọi chi tiết. Tôi vừa mới chợp mắt bỗng nhiên thức dậy. Trong phòng tối om, nhưng tôi cảm thấy có diện của người đàn ông trong phòng tôi. Sợ đến nghẹn cả cổ họng, tôi nghĩ : Lạy Chúạ, người ta sắp giết tôi mất ! thể tả hết cho ông khiếp sợ của tôi. Trong báo thường ra những thảm kịch xảy ra những còn tàu. Tôi tự nhủ : “Dù sao nữa, ta vẫn còn giữ đồ nữ trang”. Đúng thế, tôi dấu chúng trong đôi vớ dài dấu dưới gối, làm như thế cũng thoải mái lắm nhưng thôi cũng được ... trở lại tên sát nhân ... Tôi kể đến đâu rồi nhỉ ?
      - Bà tưởng có người đàn ông trong phòng.
      - A phải rồi. Vậy là tôi nhắm mắt và nghĩ xem tôi phải làm gì. Tôi tự nhủ : Rất may là con mình biết chuyện gì xảy ra cho mình. Chẳng bao lâu tôi lấy lại được bình tĩnh và đưa tay bấm chuông gọi nhân viên toa tàu. Bấm mãi chẳng thấy ai trả lời. Tim tôi gần đứng. Tôi cứ tưởng tượng là bọn cướp giết hết mọi người tàu. Tôi vẫn cứ tiếp tục bấm chuông. nhõm, khi tôi nghe tiếng chân ngoài hành lang. Có tiếng gõ cửa. Tôi hét lên: Vào ! Và đưa tay bật đèn. Ông tin hay tùy ý, nhưng còn ai trong phòng tôi hết.

      Bà Hubbard hạ thấp giọng xuống.
      - Chuyện gì xảy ra sau đó ? - Poirot hỏi.
      - Tôi kể lại cho nhân viên phục vụ chuyện vừa xảy ra. ta chịu tin tôi. Chắc ấy tưởng tôi mơ. Tôi bảo ta tìm dưới ghế. ta rằng người đàn ông thể trốn dưới đó được ... lẽ dĩ nhiên là tên sát nhân rồi. Những câu của ta làm tôi điên tiết lên. Tôi phải là loại người đặt chuyện, thưa ông ... mà hình như tôi chưa được biết tên ông.
      - Poirot, thưa bà. Tôi xin giới thiệu ông Bouc giám đốc của công ty và đây là bác sĩ Constantine.
      - Rất hân hạnh được biết các ngài, - bà Hubbard trả lời cách lơ đễnh.

      Rồi bà lại kể tiếp :
      - Tôi phải thú nhận là tôi lầm. Tôi cứ đinh ninh là người đàn ông phòng bên trốn trong phòng... tội nghiệp ông ấy bị giết. Tôi cầu nhân viên tàu xem lại cửa thông qua phòng bên. Lẽ dĩ nhiên nó khóa. ta khóa lại và khi ấy rồi. Tôi kê thêm vali chặn cửa.
      - Lúc đó. Mấy giờ thưa bà?
      - Tôi , tôi quá xúc động nên để ý đến chuyện đó.
      - Bây giờ ý kiến của bà như thế nào ?
      - Người đàn ông trốn trong phòng tôi là tên sát nhân, điều đó quá rồi.
      - Vậy là bà nghĩ rằng qua phòng bên?
      - Làm sao tôi biết được. Tôi nhắm mắt vì quá sợ.
      - Hay là ra ngoài hành lang?
      - Tôi chẳng biết. Tôi là tôi nhắm mắt mà .
      Bà Hubbard thờ dài não nuột :
      - Chúa ơi, tôi sợ . Nếu con tôi mà biết.
      - Thưa bà, bà có nghĩ rằng, tiếng động mà bà nghe thấy, ở phòng bên ? ... phòng của nạn nhân.
      - , ông ... ông Poirot ạ. ta ở trong phòng tôi ... và tôi đem bằng chứng đến đây cho ông .
      cách đắc ý, bà Hubbard giơ túi sách lên và mở ra.- Bà lần lượt kéo ra 2 khăn tay lớn sạch ... cặp kính gọng đồi mồi, ống aspirin, hủ muối tiêuhóa, hộp đựng kẹo, xâu chìa khóa, hình của đứa bé mặt có gì xuất sắc, sổ ngân phiếu, vài bức thư, năm xâu chuỗi hạt trai giả và cuối cùng vật bằng kim loại ... cái khuy .
      - Ông có thấy cái khuy này ? nó đâu phải của tôi. Tôi nhặt được sáng nay khi thức dậy.

      Khi bà Hubbard đặt cái khuy xuống bàn, ông Bouc cúi xuống và kêu lên :
      - Cái khuy này là áo đồng phục của nhân viên toa kútsét !.
      - Chúng ta có thể tìm ra giải thích thỏa đáng, - Poirot . Quay sang bà Hubbard ông tiếp :
      - Thưa bà cái khuy này có thể bị rơi ra từ áo đồng phục của nhân viên phục vụ khi ta xem xét phòng bà, hay khi ta làm giường tối qua.
      - , ông hãy nghe tôi. Tối qua trước khi ngủ, tôi đặt tạp chí lên cái thùng gỗ gần cửa. Vậy mà sáng nay khi thức dậy, tôi trông thấy cái khuy này tờ tạp chí. Tôi muốn biết ý kiến ông về việc .
      - Thưa bà, tôi gọi cái khuy này là bằng chứng buộc tội.

      Câu trả lời có phần nào trấn an được bà Hubbard.
      - Tôi thể chấp nhận người ta nghi ngờ lời của tôi.
      - Bà vừa cho chúng tôi biết lời khai rất lý thú, - Poirot . - tôi có thể hỏi bà vài câu nữa ?
      - Tôi nghe đây.
      - Làm sao bà giải thích được rằng bà nghĩ đến việc khóa then cài cửa thông qua phòng ông Ratchett, trong khi chính bà thú nhận là sợ ông ta ?
      - Tôi khóa rồi mà. - Bà Hubbard trả lời.
      - Ồ ? thế à ?
      - Phải, đúng ra là như thế này : tôi nhờ bà người Thụy Điển - người rất tử tế - xem bộ cài.
      - Cửa khóa chưa ? Bà bảo là khóa kỹ rồi.
      - Sao bà tự xem ?
      - , tôi lên giường và cái túi xách của tôi treo ở cửa.
      - Bà nhờ bà ta lúc mấy giờ?
      - Xem nào ... giữa 10 giờ rưỡi và 11 giờ kém 15. Bà ta vào hỏi xem tôi có aspirin ? Tôi bảo bà ta lấy ống thuốc trong vali.
      - Lúc đó bà nằm ?
      - Vâng.

      Bỗng nhiên bà Hubbard phá lên cười.
      - Tội nghiệp ! Bà ấy hoảng hốt. Ông thử nghĩ xem, bà ta mở nhầm phòng bên cạnh.
      - Phòng ông Ratchett à ?
      - Phải. Ông phải đồng ý với tôi rằng khi tất cả các cửa đều đóng rất dễ nhầm phòng. Hình như ông Ratchett rất bất bình và những câu được lịch lắm ! Bà ấy rất áy náy về nhầm lẫn này, và : tôi nhầm và xấu hổ .
      - Sau đó bà có nghe thấy tiếng động bên phòng ông Ratchett ? - Poirot hỏi.
      - Cũng hẳn là tiếng động.
      - Bà muốn gì?
      - Có nghĩa là ông ấy ngáy.
      - A, ông ấy ... ngáy.
      - Kinh khủng, ông ấy làm tôi thức gần suốt đêm trước.
      - Sau đó, ông Ratchett còn ngáy sau khi có người lạ mặt qua phòng bà nữa à?
      - Ô, ông Poirot, ông hiểu à, lúc đó Raicheti chết rồi.
      - Ơ nhỉ! - Poirot đáp. - À bà Hubbard này, bà có nhớ vụ Armstrong ?
      - Lẽ dĩ nhiên, và lên khốn kiếp vẫn còn tự do. Thằng đó, nếu mà tôi tóm được .
      - Bà biết , chết ... đêm qua.
      - Sao? có chuyện ấy nữa à?

      Trong cơn xúc động, bà Hubbard nhốm lên khỏi ghế.
      - Phải. Ratchett chính là tên đầu đảng ấy.
      - Ai mà ngờ được? tôi phải viết thư cho con tôi mới được. Tôi chẳng với ông, hôm qua, là tôi, sợ à ? tôi có lý do chính đáng để đề phòng .
      - Bà có biết gia đình Armstrong ? thưa bà.
      - . Gia đình Armstrong chỉ giao thiệp với lại nhóm bạn giới hạn thôi. Nhưng theo mọi người, bà Armstrong là người rất dễ thương, được chồng mến.
      - Bà Hubbard, lời khai của bà có giá trị rất lớn đối với chúng tôi. Bây giờ xin bà cho biết tên, họ của bà.
      - Rất sẵn sàng : Caroline Martha Hubbard.
      - Mời bà viết địa chỉ của bà vào đây.

      ngừng , bà Hubbard làm theo lời Poirot.
      - tôi thể ngờ Cassetti con tàu này ! Mặt của tên này kinh khủng ông Potroi nhỉ ?
      - Vâng thưa bà. A, bà có áo khoác ngoài màu đỏ ?
      - Câu hỏi lạ lùng, , tôi có tôi đem theo hai cái áo khoác ngoài : cái màu hồng hồng bằng len ấm dùng khi tàu thủy, và cái khác màu tím, quà của con tôi. Nhưng tại sao ông lại hỏi tôi việc ấy ?
      - Chuyện như thế này, thưa bà, ngoài mặt áo khoác ngoài bằng soa đỏ đêm qua vào phòng bà hay phòng Ratchett. Như khi nãy bà ... khi tất cả các cửa đều đóng, người ta dễ mở nhầm phòng.
      - Chẳng có người nào mặt áo choàng đỏ vào phòng chúng tôi cả.
      - Nên thế. Chắc vào phòng ông Ratchett.

      Bà Hubbard bĩu môi. Poirot :
      - Bà có nghe giọng người đàn bà bên kia vách ?
      - Làm sao ông đoán được vậy ? Thôi nếu ông muốn biết ... vâng, tôi nghe giọng đàn bà.
      - Vậy mà khi nãy, khi tôi hỏi bà về chuyện này ... bà chỉ đến tiếng ngáy của ông Ratchett
      - đấy. Ông Ratchett ngáy gần suốt đêm.
      - Nhưng có người đàn bà mà. Lúc đó mấy giờ ?
      - Tôi biết . Nhưng tôi thức dậy lúc nào đó và nghe thấy tiếng đàn bà chuyện ở phòng bên.
      - Lúc đó là trước hay sau khi bà nhìn thấy có kẻ lạ mặt lẻn vào phòng .
      - Cũng như khi nãy tôi trả lời ông : làm sao Ratchett có thể chuyện khi chết ?
      - Ồ, xin lỗi bà. Chắc bà thấy tôi hơi ngu phải thưa bà ?
      - Tôi nghĩ là ông cảm thấy thích thú khi làm rối những việc. Con tôi nghĩ gì về chuyện này đây?

      Sau khi Poirot xếp mọi thứ mà bà Hubbard bày bàn vào xắc tay, ông tiễn bà ra cửa. Ông khi bà sắp bước ra:
      - Thưa bà, bà làm rơi khăn tay.
      - Bà Hubbard nhìn mảnh vải mà Poirot đưa ra. :
      - Đâu phải của tôi ông Poirot. Của tôi đây.
      - Ồ, xin lỗi. Tôi tưởng ... vì có chữ “H” thêu ở góc khăn.
      - trùng hợp kỳ lạ. Nhưng những khăn tay của tôi đều thêu C-M-H. Và so với cái khăn mà ông vừa đưa cho tôi những cái khăn của tôi tiện hơn. Cái mẫu vải bé tí này dùng làm gì?
      Cả ba người đàn ông đều tìm ra câu trả lời. Bà Hubbard ra khỏi phòng.

    4. snowbell

      snowbell Well-Known Member

      Bài viết:
      1,358
      Được thích:
      286
      Chương V: LỜI KHAI CỦA BÀ “THỤY ĐIỀN”

      Ông Bouc cầm trong tay cái khuy mà bà Hubbard bỏ lại.
      - Tôi chẳng hiểu gì cả, - ông Bouc . - lẽ Pierre Michel lại đính líu đến vụ này à? ông nghĩ sao ông Poirot.
      - Khuy áo đây có thể lên điều đó. Bây giờ ta hãy nghe lời khai của bà Thụy Điển. Sau đó chúng ta hãy bàn đến lời khai của bà Hubbard.
      Poirot tìm trong những thông hành.
      - Đây : Greta Ohlsson, 49 tuổi.
      - Ông Bouc nhờ người hầu trưởng gọi hộ. Và chẳng bao lâu Greta Ohlsson bước vào. ta nheo cặp mắt cận thị nhìn Poirot. Nhưng ta có vẻ rất bình tĩnh. - Vì ta hiểu và tiếng Pháp nên họ chuyện bằng tiếng Pháp. Poirot đặt những câu hỏi mà ông
      biết câu trả lời : tên, tuổi, địa chỉ. Sau đó Poirot hỏi đến nghề nghiệp Greta.
      - Greta làm ở bệnh viện gần Stamboul. ta có bằng y tá.
      - Chắc dã biết thảm kịch xảy ra hôm qua?
      - Thưa vâng, khủng khiếp ... bà Hubbard là kẻ sát nhân trốn trong phòng bà ấy trước khi phạm pháp.
      - Hình như là người cuối cùng trông thấy nạn nhân còn sống.
      - Có thể lắm. Tôi mở nhầm cửa phòng. Lẽ dĩ nhiên là tôi rất xấu hổ.
      - có trông thấy ông ta ?
      - Có. Ông ta đọc sách. Sau khi xin lỗi tôi đóng cửa lại.
      - Ông ta có gì với ?

      Mặt Greta đỏ lên.
      - Ông ta cười lên và tục ... tôi hiểu nghĩa lắm.

      Poirot sang chuyện khác.
      - Sau đó làm gì ?
      - Tôi vào phòng bà Hubbard để xin bà ấy aspirin.
      - Bà ấy có nhờ xem hộ cửa giữa phòng bà ấy và ông Ratchett có khóa ?
      - Có.
      - Cửa có khóa ?
      - Có, thưa ông.
      - Sau đó ?
      - Sau đó tôi về phòng tôi. uống thuốc và lên nằm ở kút sét.
      - Lúc đó mấy giờ ?
      - Khi tôi leo lên giường là 11 giờ kém 5. Tôi nhìn đồng hồ trước khi lên giây.
      - có ngủ ngay ?
      - , cơn nhức đầu của tôi bớt, nhưng tôi chưa ngủ.
      - Khi ngủ, tàu ngừng chạy chưa?
      - Hình như chưa. Khi tôi thiu thiu tàu bắt đầu rời ga nào đó.
      - Có thể là ga Vincovei.

      Đẩy bức sơ đồ toa đến trước mặt Greta, - Poirot chỉ vào mỗi khung và hỏi.
      - Phòng của đây phải ?
      - Thưa phải.
      - Kút sét dưới hay ?
      - Kút sét dưới, số 10
      - Ai ngủ kutset ?
      - người rất dễ thương đến từ Bagdad.
      - Sau khi tàu rời khỏi ga Vincovei. người có ra khỏi phòng ?
      - . Tôi chắc chắn điều đó .
      - Làm thế nào chắc chắn được. ngủ rồi mà ?
      - Tôi ít ngủ say nên dễ bị thức dậy bởi bất cứ tiếng động nào. Nếu ta bước xuống kutset tôi thức giấc.
      - Còn , có ra khỏi phỏng ?
      - , cho đến sáng nay.
      - có áo khoác ngoài bằng soa đỏ ?
      - Thưa .
      - Còn người ngủ chung phòng, Debenham áo khoác ấy màu gì ?
      - loại kimônô (áo khoác ngoài đồ ngũ của người Nhật) màu hoa cà.
      Poirot hỏi Grate ... bằng giọng thông cảm.
      - Tại sao lại du lịch? nghĩ hè à?
      - Phải, tôi định nghĩ hè ở Thụy Điển … nhưng tôi phải ở tuần với chị tôi ở Lousanne.
      - làm ơn viết tên và địa chỉ của chị vào đây.
      - Rất vui lòng.
      - Greta cầm tờ giấy, bút chì và viết.
      - có biết nước Mỹ Greta?
      - .
      - có nhớ vụ Armstrong ?
      - . Chuyện như thế nào?

      Poirot kể lại vụ bắt cóc và cái chết của đứa bé Armstrong. Greta Ohlsson rất phẫn nộ, cái búi tóc rung lên:
      - của những con quái vật như thể thể chấp nhận được. Tội nghiệp cho bà mẹ ! Tim tôi run lên khi nghĩ đến đau khổ của bà ta.

      Greta Ohlsson ra khỏi phòng, mặt đỏ, mắt rướm lệ.
      Poirot bắt đầu viết lên giấy.
      - Ông viết gì thế ? - ông Bouc hỏi.
      - Tôi kê khai những việc theo thứ tự.

      Viết xong, Poirot đưa tờ giấy cho ông Bouc.
      - 9gl5 : Tàu rời ga Belgrade khoảng 9g 40 : hầu phòng (Masterman) ra khỏi phòng Ratchett, sau khi pha thuốc ngủ.
      - 10g : Mac Queen rời khỏi phòng Ratchett .
      - 10g10 Greta Ohlsson nhìn thấy Ratchett (lần cuối cùng được trông thấy ông ta còn sống). Ratchett còn thức và đọc sách trong giường.
      12gl0 : Con tàn rời ga Vincovei (trễ).
      12g30: Tàu bị kẹt vì tuyết.
      12g37 : Chuông ở phòng Ratchett reo. Nhân viên phục vụ chạy đến. Ratchett trả lời : “ có chuyện gì, tôi nhầm”.
      Khoảng 1g17 : Bà Hubbard tưởng có người đàn ông trong phòng, bấm chuông gọi nhân viên.

      Ông Bouc gật đầu tán thành :
      - Tất cả đều được ghi lại ràng.
      - có điều gì làm ông thắc mắc à?
      - Tôi thấy bảng này ràng và hình như chúng ta có thể kết luận là vụ án xảy ra lúc 1g15. Đồng hồ của nạn nhân ngừng vào giờ đó và lời khai của bà Hubbard cũng chứng tỏ điều đó. Tôi đoán chắc kẻ sát nhân là gã người Ý to lớn vừa từ Mỹ trở về ... từ Chicago ... ông hãy nhớ là người Ý thường sử dụng dao và chỉ đâm lần.
      - vậy.
      - còn nghi ngờ gì nữa. Đây là đáp số của bài toán. Tên người Ý và Cassetti cùng bọn với nhau. Cassetti phản lại đồng bọn. Gã người Ý tìm ra tông tích Cassetti và gởi thư hăm dọa. Sau đó trả thù. Nội vụ đơn giản.

      Poirot gật gù.
      - Tôi nghĩ rằng vụ án đơn giản như thế.
      - Theo tôi chắc chắn những điều tôi vừa là đúng, - ông Bouc .
      - Ông hãy nhớ là gã người Ý ở cùng phòng với người hầu phòng của Ratchett. Masterman (gã hầu phòng) thức khuya vì bị đau răng. Và Masterman thề là gã người Ý hề rời khỏi phòng.
      - Đó là chỗ khó đấy.

      Poirot nheo mắt.
      - cách khác, cơn đau răng của gã hầu phòng làm cho lý luận của ông vững và làm cho chàng người Ý của chúng ta vô tội.
      - Tất cả rồi sáng tỏ thôi. - ông Bouc giọng bao dung.
      Poirot lại lắc đầu và :
      - Tôi tin là vụ án này đơn giản đâu.

    5. snowbell

      snowbell Well-Known Member

      Bài viết:
      1,358
      Được thích:
      286
      Chương VI: LỜI KHAI CỦA CÔNG CHÚA DRAGOMIROFF

      Hãy xem tài xế Pierre Michel trả lời như thế nào về cái khuy này.

      Pierre Michel được gọi lại, tạ nhìn ba người với vẽ ngạc nhiên.

      Ông Bouc hắng giọng :
      - Michel, - ông , - cái khuy áo của được tìm thấy phòng của bà khách người Mỹ. có thể cho chúng tôi biết lý do ?

      Michel đưa tay sờ áo và :
      - Thưa ông, tôi có bị mất cái khuy nào đâu ? Chắc có nhầm lẫn.
      - ạ.
      - Tôi cũng chẳng hiểu gì, thưa ông.

      Michel có vẻ ngạc nhiên, nhưng hề lộ vẻ lo lắng .
      - Dựa vào những dữ kiện, - ông Bouc , - chúng ta có thể xác định được mà sợ lầm, rằng cái khuy áo này rơi từ áo của kẻ lạ mặt vào phòng bà Hubbard đêm qua.
      - Nhưng thưa ông, đâu có ai trong phòng bà ta. Hoàn toàn do trí tưởng tượng thôi.
      - ... Michel. Kẻ giết ông Ratchett qua đó và làm rơi cái khuy.

      Lúc bấy giờ Michel mới chợt hiểu ra việc cái khuy bị rơi, la kêu lên :
      - Láo, hòan toàn láo thưa ông ! ông buộc tội à ? tôi vô tội ! Tại sao tôi phải giết ông ta. người mà tôi hề quen biết.
      - ở đâu khi bà Hubbard nhấn chuông ?
      - Tôi nhắc lại lần nữa là lúc ấy tôi ở toà tàu kia, chuyện với bạn đồng nghiệp.
      - Chúng tôi cho gọi ta đến.
      - Vâng thưa ông, ông hãy cho gọi ta đến .

      Nhân viên toa tàu thứ hai được mời đến. ta xác nhận lời khai của Michel, và rằng lúc đó còn có cả nhân viên của toa tàu Bucarest. Cả ba người chuyện về tàu bị kẹt. Họ chuyện độ 10 phút Michel nghe tiếng chuông gọi. Khi ta mở cánh cửa ăn thông từ toa này sang toa kia cả ba người đều nghe tiếng chuông rất . Michel mau chóng trở về .
      - Như thế ông rằng tôi phải thủ phạm chưa thưa ông ! - Michel. gần như hét.
      - Vậy làm thế nào giải thích được trong phòng bà Hubbard lại có cái khuy này?
      - Tôi chịu thôi, thưa ông. Đối với tôi đó là điều bí . Áo tôi chẳng thiếu cái khuy nào.

      Cả hai nhân viên kia đều như Michel và thêm là họ hề vào phòng bà Hubbard.
      - bình tĩnh lại Michel, - ông Bouc . - Hãy trả lời thêm câu hỏi nữa : Khi đến phòng bà Hubbard có gặp ai ở hành lang ?
      - Thưa .
      - Lạ .
      - Cũng lạ lắm đâu, - Poirot . - Đây chỉ là vấn đề thời gian, đúng ra là phút. Bà Hubbard thức giấc và nhận thấy có kẻ lạ mặt trong phòng. Trong phút hay ba?, vì quá sợ hãi, bà ta nhắm tịt mắt lại. Người đàn ông lạ mặt chuồn ra hành lang. Bà Hubbard bấm chuông gọi nhân viên. Nhưng ta chỉ đến ở tiếng thứ ba hoặc thứ tư thôi. Theo tôi, chừng ấy phút là đủ rồi.
      - Để làm gì ? Để là gì cơ chứ ? Chúng ta đừng quên là có hàng đống tuyết bên cạnh tàu.
      - Chỉ còn có lối thoát cho tên sát nhân của chúng ta : trốn trong phòng vệ sinh hoặc trong phòng của toa tàu.
      - Nhưng thất cả các phòng đều có người.
      - Đúng thế.
      - Ông muốn lç tên sát nhân chỉ việc trở về phòng mình.
      - Đúng thế.
      - Có thể lắm, - Poirot – Trong mười phút Michel vắng mặt, kẻ sát nhân rời phòng, vào phòng Ratchett, giết ông ta, cài cửA, để dây xích an toàn phía trong, qua phòng bà Hubbard rồi sau đó trở về phòng mình cách an toàn trước khi Michel xuất .
      - Đối với tôi, việc xảy ra cách đơn giản như thế. Ông bác sĩ đây cho ông biết những điều ông nghĩ.
      Ông Bouc cho ba nhân viên ra ngoài, rồi :
      - Chúng ta chỉ còn tám hành khách để hỏi nữa thôi Ông Poirot ạ. Năm người ở toa hạng : Công chúa Dragomiroff, vợ chồng công tước Andrenyi, đại tá Arbuhnot và ông Hardman. Ba hành khách ở toa hạng nhì : Debenham, Antonio Foscarelli và hầu phòng, Schmidt.
      - Ông muốn hỏi ai trước ?
      - Ông vẫn đeo đuổi ý định của mình. , chúng ta hãy mời công chúa Dragomiroff . Michel, hãy làm ơn mời bà ta đến d0a6y giúp chúng tôi.
      - Thưa vâng.
      - Hãy với bà ta nếu phiền chúng tôi đến phòng bà ấy, - ông Bouc .
      Công chúa Dragomiroff chịu khó đến toa tàu ăn và sau khi khẽ gật đầu chào, bà ngồi xuống trước. Bà Dragomiroff quả là xấu, nhưng bà ta có cặp mắt tuyệt vời, sâu thẳm nhưng rất sáng như hai viên kim cương. Cặp mắt chứng tỏ đó là người đầy nghị lực và thông minh hơn người.

      Bằng giọng ấm và lịch , công chúa Dragomiroff ngăn chặn ngay những lời xin lỗi khách sáo của ông Bouc.
      - Các ông khỏi phải xin lỗi. vụ án xảy ra tàu, ông phải hỏi cung tất cả hành khách là chuyện bình thường. Về phần tôi, tôi rất vui lòng cho ông biết mọi chi tiết có thể làm sáng tỏ nội vụ.
      - Rất mong bà thông cảm, thưa bà.
      - , tôi chỉ làm tròn trách nhiệm của tôi thôi. Nào, ông muốn biết gì ?
      - Trước hết, tên, địa chỉ của bà. Hay bà thích viết giấy hơn.

      rồi, Poirot đưa tờ giấy và cây bút chì cho công chúa Dragomiroff, nhưng bà từ chối.
      - Ông hãy ghi , Chẳng khó đâu : Natalia Dragomiroff, số 17 đường Kléber, Paris.
      - Bà từ Constantinople đến?
      - Phải, tôi xuống sứ quán Áo cùng với hầu phòng của tôi.
      - Bà vui lòng cho tôi biết sơ qua, bà làm gì lối qua, sau bữa ăn tối?
      - Sẵn sàng, sau khi bảo nhân viên dọn giường trong khi tôi còn ở toa ăn. Sau bữa ăn tôi nằm và đọc sách đến 11g. Tôi tắt đèn, nhưng cơn tê thấp làm tôi mất ngủ. Khoảng 1g kém 15, tôi cho gọi hầu phòng. ta xoa bóp cho tôi, đọc sách đến khi tôi buồn ngủ. Tôi thể lúc nào ấy ra khỏi phòng. Có thể lúc đó là 1g30 hay trễ hơn.
      - Con tàu lúc ấy ngừng lại.
      - Phải.
      - Bà nghe thấy gì à ?
      - .
      - Tên hầu phòng của bà là gì ?
      - Hildegarde Schmidt.
      - ta ở với bà bao lâu rồi ?
      - 15 năm.
      - ta là người thà chứ ?
      - Hoàn toàn thà. Gia đình ta ở Đức cùng vói ông chồng quá cố của tôi.
      - Hình như bà qua Mỹ, thưa bà.

      thay đổi đêé tài làm công chúa Dragomiroff nhíu mày.
      - Phải nhiều lần.
      - Trong khi bà qua đó, bà có quen với gia đình Armstrong ? gia đình bị nạn.
      - Ông đến những người bạn thân của tôi. Bà Dragomiroff giọng run lên vì xúc động.
      - Như thế bà quen đại tá Armatrong ?
      - Ông ta ít, nhưng vợ ông ta, Sonia Armstrong là con đỡ đầu của tôi. Tôi là bạn thân của mẹ ta, nữ diễn viên Linda Arden, kịch sĩ nổi tiếng. ai có thể sánh được với bà ta trong vai Macheth (1)
      - Bà ta chết rồi à ?
      - Chưa, bà ta vẫn còn sống, nhưng hoàn toàn đơn. Vì sức khỏe nên suốt ngày bà phải nằm ở ghế dài.
      - Hình như bà ấy có đứa con khác ?
      - Phải, trẻ hơn bà Armstrong.
      - ta còn sống?
      - Dĩ nhiên.
      - ta ở đâu?
      Công chúa Dragomiroff chăm chú nhìn Poirot.
      - Tại sao ông lại hỏi tôi về những điều này. Nó có lien hệ gì đến câu chuyện của chúng ta, đến vụ án tàu này?
      - Thưa bà có chứ … người đàn ông bị giết tối qua là tên bắt cóc và tên giết con của bà Armstrong.
      - Ối!
      Đôi lông mày của bà Dragomiroff chau mày lại, bà ta nhỏm dậy.
      - Theo tôi, vụ án này quả là ý muốn của thượng đế! Ông hãy thứ lỗi cho thành của tôi.
      - Tôi thong cảm với bç. Nhưng chúng ta hãy trở lại với vần đề của chu&ng ta. Bà chưa trả lời tôi; con thứ hai của bà Linda Arden, em bà Armstrong ở đâu?
      - Tôi hề biết. Tôi hoàn toàn lien hệ với giới trẻ. Hình như ấy lấy người và sang lập nghiệp ở quốc. Tôi nhớ cả tên ta nữa.
      Nhừng lúc; bà Dragomiroff tiếp:
      - Các ông có còn cần hỏi thêm gì nữa ?
      - Còn câu nữa thưa bà … câu hỏi hoàn toàn cá nhân: áo choàng ngoài của bà màu gì?
      thoáng ngạc nhiên, bà Dragomiroff trả lời:
      - Chắc ông phải có lý do để hỏi câu đó. Áo choàng của tôi bằng satanh, xanh da trời.
      - Như thế là xong. Xin cảm ơn bà vui long trả lời những câu hỏi của chúng tôi.

      Công chúa khoát bàn tay đeo đầy nhẫn, đứng lên. Ba người đàn bà cùng đứng lên.

      Trước khi rời khỏi phòng, công chúa Dragomiroff quay lại với Poirot/
      - Xin lỗi ông, ông cho phép tôi được biết quý danh? Nhìn mặt ông quen quen.
      - Hercule Poirot, thưa bà.
      Ngừng lúc bà :
      - Hercule Poirot. Tôi nhớ ra rồi. Đúng là bàn tay định mệnh.
      xong, công chúa Dragomiroff ra khỏi phòng.
      - Ông nghĩ sao ? – ông Bouc hỏi.
      Vẻ mặt đăm chiêu, Poirot trả lời :
      - Tôi tự hỏi, bàn tay định mệnh mà bà ta mang ý nghĩa gì ?


      Chú thích:

      [1] Tên vở kịch nổi tiếng của Shakespeare
      piipp thích bài này.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :