1. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Chiến Dịch Trái Tim

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      Chương 5


      Ba tháng sau…

      “THÚ THỰC TÔI hiểu sao lại thế,” Gabriel lên tiếng, “nhưng có vẻ tôi vừa tậu được vợ.”

      cứ đùa.” Caleb bồn chồn sải những bước dài băng qua thư phòng để đến đứng phía bên kia bàn giấy. “Này ông họ, đây là ý tưởng về câu chuyện đùa của ấy ư?”

      “Tôi nghĩ cậu hiểu tôi quá để biết là tôi bao giờ đùa khi đề cập đến chủ đề vợ tương lai của mình rồi kia mà.”

      Nãy giờ Gabriel vẫn tì người ngả về phía trước, hai bàn tay chống lên mặt bàn, chăm chú đọc mẩu tin. Chàng đứng thẳng lên xoay ngược tờ báo để Caleb có thể đọc được mẩu thông cáo nho .

      Caleb cầm tờ báo lên đọc lớn thành tiếng.

                  TRIỂN LÃM ẢNH TẠI PHỐ NOCTON


      Vào tối thứ Năm rất đông khán giả tập trung đông nghịt các đại sảnh triển lãm ảnh phố Nocton. Những bức ảnh được trưng bày tại đây đa phần là tác phẩm của các nhiếp ảnh gia tinh tế và ấn tượng bậc nhất của nghệ thuật nhiếp ảnh. Rất nhiều phân hạng truyền thông được thể , bao gồm ảnh phong cảnh, ảnh tĩnh vật, ảnh kiến trúc và ảnh chân dung.

      Tất cả các tác phẩm đều mang vẻ đẹp và sức cuốn hút kỳ diệu, hoàn toàn xứng đáng được vinh danh là Nghệ thuật cao cấp. Tuy nhiên, theo ý kiến đánh giá của các nhà phê bình, tác phẩm thu hút nhất là bộ bốn bức ảnh đầu tiên được liệt kê trong bộ ảnh mang tiêu đề Mộng.

      Mặc dù được đưa ra triển lãm trong hạng mục ảnh kiến trúc, những bức ảnh này nổi bật vì chúng kết hợp giữa ảnh chân dung, ảnh kiến trúc lẫn chất siêu linh mà chỉ có thể được miêu tả là lung linh huyền ảo. trong những bức ảnh này đoạt giải nhất cách xứng đáng.

      Phu nhân Jones, nhiếp ảnh gia chủ nhân của bức ảnh đoạt giải, cũng có mặt trong số người đến dự. Phu nhân là gương mặt khá mới mẻ trong làng nhiếp ảnh ở Luân Đôn, nhưng lại gặt hái được nhiều thành công vang dội. Danh sách khách hàng của mệnh phụ này bao gồm cả vài người thuộc những nhân vật tiếng tăm nhất trong xã hội thượng lưu.

      Quả phụ trang nhã vận trang phục đậm sắc màu tang tóc nhất, theo như thói quen của mình. Bộ váy sang trọng màu đen làm tôn lên mái tóc nâu sậm óng ả cùng đôi mắt màu hổ phách của . ra, theo như những người diện tại đây nhận xét, nhiếp ảnh gia này trông ấn tượng chẳng kém những bức ảnh của mình.

      Lòng chung thủy cảm động mà phu nhân Jones dành để tưởng nhớ đến người chồng quá cố của mình, người bỏ mạng bi thảm khi đôi vợ chồng hưởng tuần trăng mật tại vùng Viễn Tây, là điều mọi người trong giới nhiếp ảnh đều biết . Quả phụ tuyên bố rành rằng, sau khi mất tình vĩ đại của đời mình, bao giờ đương trở lại. Mọi nỗi chú tâm, mọi giác quan và tình cảm của giờ đây được sử dụng để hoàn thiện các tác phẩm nghệ thuật của mình cho lợi ích lớn lao của giới am hiểu và sưu tầm nghệ thuật.

      “Quỷ ,” Caleb ngước mắt lên khỏi mục báo. Nét mặt vốn khắc nghiệt của giờ càng thêm đanh lại. “ tin là đây cũng chính là thợ nhiếp ảnh mà thuê để chụp ảnh cho bộ sưu tập tại trụ sở Hội ?”

      Gabriel băng qua thư phòng đến dừng ngay trước những khung cửa sổ mái vòm kiểu Ý. Chàng chắp hai tay ra sau lưng và chăm chú ngắm nhìn khu vườn sũng nước mưa. “Cũng có thể chỉ là trùng hợp.”

      “Tôi biết nghĩ thế nào về chuyện trùng hợp rồi.”

      “Tôi phải thực tế chứ. Có bao nhiêu cơ may rằng chỉ ba tháng sau khi Milton được thuê đến chụp ảnh cho bộ sưu tập tại trụ sở Hội, phụ nữ khác có cùng màu mắt lẫn màu tóc lại tự mình dựng nên tên tuổi trong ngành nhiếp ảnh ở Luân Đôn cơ chứ? Tôi biết rằng Milton ấy rất hứng khởi với món tiền công nhận được từ Hội đồng Trị . Tôi cũng nhận ra là ấy có dự định sử dụng món tiền ấy, những dự định lớn lao, mặc dù ấy gì cho tôi biết.”

      thể đoan chắc đấy là cùng thợ nhiếp ảnh.”

      Gabriel ngoảnh đầu lại nhìn vào tờ báo. “Cậu đọc những lời bình luận rồi đấy thôi. nhà phê bình cho rằng tác phẩm của ấy gây ấn tượng mạnh mẽ và có sức cuốn hút. Ông ta còn bảo bức ảnh có chất siêu linh. Điều ấy mô tả rất chính xác những bức ảnh của Milton đấy. ấy là nhiếp ảnh gia tài tình lắm, Caleb ạ. Rồi lại còn cả vụ tên tuổi nữa chứ.”

      “Nếu đúng là như thế chuyện gì khiến ta đổi sang họ Jones vậy?”

      Có lẽ nàng mang đứa con của mình chăng, Gabriel thầm nghĩ.

      Ý nghĩ ấy làm chàng chao đảo, làm dấy lên lòng chiếm hữu và khơi nguồn cho những bản năng muốn bao bọc mà cho đến trước giây phút ấy chàng chưa hề biết là mình có được.

      kèm với khả năng ấy là nhận thức khác khiến chàng thấy vô cùng chột dạ. Nếu như Venetia phải sử dụng tên của chàng để cho bào thai bị rẻ rúng, hẳn nàng sợ hãi vô cùng.

      Chàng quyết định thổ lộ khả năng này cho Caleb biết.

      “Tôi chỉ có thể cho rằng ấy quyết định tốt hơn là nên giả danh làm quả phụ để phát triển nghiệp,” thay vì thế chàng đáp. “Cậu cũng biết phụ nữ đứng ra kinh doanh hay tự mưu sinh khó khăn đến thế nào rồi. Nếu đấy là độc thân, xinh đẹp lại càng gay go hơn nữa ấy chứ.”

      Thoảng chút im lặng ngắn ngủi sau lưng chàng. Gabriel quay lại, bắt gặp Caleb quan sát mình với vẻ đăm chiêu ra mặt.

      Milton ấy hấp dẫn lắm à?” Caleb điềm nhiên hỏi.

      Gabriel nhướng mày. “Hết mực cuốn hút.”

      “Tôi hiểu rồi,” Caleb đáp. “ vẫn chưa trả lời cho câu hỏi của tôi. nghĩ tại sao ta lại chọn họ là Jones khi định giả danh làm quả phụ vậy?”

      “Chắc là tiện thôi mà.”

      “Tiện ấy à,” Caleb lặp lại.

      “Tôi cho là hẳn ấy đọc thấy cáo phó đăng vài tờ tin tức sau chuỗi kiện xảy ra tại trụ sở Hội ấy rồi,” Gabriel giải thích. “ ràng ấy kết luận rằng tôi chẳng còn cần đến cái họ Jones ấy nữa để ấy mượn luôn cho rồi.”

      Caleb nhìn xuống tờ báo. “Trong tình huống thế này may rồi.”

      “Còn hơn là may nữa ấy chứ.” Gabriel quay mình khỏi cửa sổ. “Có khả năng còn là thảm họa nữa cơ. Ít nhất việc này khiến cho tất cả những dự tính được phác thảo chi tiết của chúng ta xáo xào lên cả.”

      “Nhưng dù sao , cũng hẳn là các kế hoạch của chúng ta được tiến hành suôn sẻ gì cho cam,” Caleb chỉ ra. “Chúng ta chưa lần ra được bất cứ manh mối nào của vụ trộm cả.”

      “Quả , đường dây manh mối đúng tắt ngủm,” Gabriel đồng tình. dòng năng lượng lờ mờ nhột nhạt dấy lên trong chàng. “Nhưng tôi nghĩ đến điều này sắp thay đổi rồi đây.”

      Caleb khẽ nheo mắt. “Liệu có thể mình đối phó với chuyện này được vậy?”

      “Tôi thấy chẳng còn lựa chọn nào khác.”

      “Nếu có thể chờ khoảng tháng nữa có lẽ tôi giúp được đấy.”

      Gabriel lắc đầu. “Chuyện này thể chờ được. Giờ khi Venetia dính líu vào rồi lại càng . Cậu có những nhiệm vụ của riêng cậu. Cả hai chúng ta đều hiểu cặn kẽ rằng những nhiệm vụ ấy cũng quan trọng kém gì chuyện này.”

      “Quả vậy, tôi e là đúng thế .”

      Gabriel dợm bước tiến ra phía cửa. “Rạng sáng mai tôi khởi hành đến Luân Đôn. biết quả phụ buồn khổ của tôi gì đây khi ấy phát ra đức lang quân quá cố của mình vẫn sống sờ sờ như thế này.”

                  Chương 6


      GÌ SÁNH BẰNG việc bị người chồng khuất bóng đội mồ sống lại trở về hủy hoại buổi sáng mùa xuân tươi đẹp.

      Venetia chết sững nhìn trân trối vào dòng tít lớn tờ Người đưa tin bay.

                  PHU QUÂN CỦA NHIẾP ẢNH GIA DANH TIẾNG, TỪNG ĐƯỢC CHO LÀ CHẾT, NAY LẠI QUAY TRỞ VỀ


                  Gilbert Otford ghi


      Thông tín viên này rất hân hoan được làm người đầu tiên đưa tin về việc ngài Gabriel Jones, người được đoan chắc là bỏ mạng trong chuyến trăng mật tại vùng Viễn Tây, bình an quay trở lại Luân Đôn.

      Các độc giả hẳn lấy làm phấn khích khi biết được rằng ngài Jones này ai khác hơn chính là phu quân của nữ nhiếp ảnh gia Venetia Jones lừng danh trong giới thượng lưu.

      Ngài Jones trao đổi ngắn gọn cùng thông tín viên bình phàm của quý vị ngay sau khi an toàn quay về thành phố đáng của chúng ta. Ngài giải thích rằng, vì phải trải qua chứng mất trí nhớ trầm trọng sau vụ tai nạn đáng tiếc ở vùng Viễn Tây ấy, ngài lang thang hàng nhiều tháng trời. Trong khoảng thời gian đó ngài thể khai báo danh tính mình cho chính quyền địa phương. Nhưng giờ đây, trí nhớ lẫn sức khỏe hoàn toàn hồi phục, ngài Jones tuyên bố bằng thái độ hăm hở nhiệt thành nhất rằng ngài rất nóng lòng muốn được đoàn tụ cùng tân nương dấu của mình.

      Phu nhân Jones lừng danh, người khiến cho giới am tường nghệ thuật nhiếp ảnh phải chú ý, gần năm nay luôn đắm mình trong nỗi muộn phiền góa bụa. Lòng trung thành tận hiến để tưởng nhớ đến phu quân mà phu nhân Jones tin là khuất của mình làm xúc động bao con tim của các khách hàng lẫn những ai ngưỡng mộ tác phẩm nghệ thuật của .

      khó mà tưởng tượng nổi niềm vui mừng hạnh phúc làm bừng sáng trái tim của phu nhân lớn lao đến mức nào khi phát ra rằng phu quân cùa mình vẫn còn sống và quay về với mình.

      “Đây sai lầm nghiêm trọng,” Venetia kinh hãi thều thào.

      Dì Beatrice phết bơ lên lát bánh mì nướng chợt khựng lại. “Có chuyện gì vậy cháu? Trông như thể cháu vừa mới gặp ma vậy.”

      Venetia rùng mình. “Xin dì đừng dùng đến từ ấy.”

      “Từ nào cơ?” Amelia hỏi vặn.

      “Ma,” Venetia đáp.

      Edward nhóp nhép bỗng ngưng lại ngay. “Chị nhìn thấy ma sao, chị Venetia?”

      “Này Edward, đừng có vừa ăn vừa chứ,” dì Beatrice lơ đãng mắng.

      Edward nghiêm túc nuốt hết miếng bánh mì nướng phết bơ cuối cùng. “Tả về con ma xem nào chị Venetia. Nó có trong suốt ? Chị có thể nhìn xuyên qua nó thế? Hay là nó có hình dạng rắn chắc, như người thực thụ vậy?”

      “Chị nhìn thấy ma đâu, Edward,” Venetia nghiêm giọng . Nàng ý thức rất ràng mình phải đập tan cái ý nghĩ này ngay lập tức nếu vẫn còn chút hy vọng kiềm chế lòng hiếu kỳ giới hạn của em trai mình. “Chỉ là tờ báo buổi sáng có chút nhầm lẫn thôi. Nhầm lẫn trong báo chí như chuyện cơm bữa ấy mà.”

      Mà chỉ là thế thôi, nàng thầm nghĩ, nhầm lẫn kinh khủng. Nhưng làm sao chuyện như thế lại có thể xảy ra được chứ?

      Amelia quan sát nàng, chờ đợi. “Trong báo viết gì khiến chị bận tâm quá thế?”

      Venetia do dự. “Đề cập đến chuyến quay trở về vừa đây của ngài Gabriel Jones nào đó.”

      Amelia, dì Beatrice lẫn Edward đều sững sờ, há hốc miệng nhìn nàng.

      “Cái quỷ gì thế?” dì Beatrice gắng gượng thốt lên, sắc mặt chuyển sang xanh tái.

      Amelia trông hết sức lo lắng. “Trời đất, chị có chắc là đúng tên đấy?”

      Venetia chuyển tờ báo qua bàn. “Em tự mà đọc lấy.”

      Amelia giật phắt tờ báo khỏi tay chị.

      “Coi nào.” Edward nhảy xuống khỏi ghế để đến đứng nhìn qua vai Amelia.

      Cả hai cùng chăm chú nghiên cứu tờ báo.

      “Ôi trời,” Amelia kêu lên. “Ôi trời ơi. Chuyện này đúng là ghê quá mất.”

      Edward có vẻ thất vọng tràn trề. “Chẳng thấy gì về ma cả. Chỉ thấy là ngài Gabriel Jones, người được cho là chết, ra lại còn sống. Như thế có phải ông này là ma đâu nào.”

      “Đúng vậy,” Venetia với tay lấy bình cà phê. “ phải ông ấy là ma.” Thế mới đau, nàng thầm thêm. tình huống liên quan đến ma quỷ hẳn còn dễ đối phó hơn nhiều.

      “Mà kỳ lạ , phải nào?” Edward tiếp tục trầm ngâm. “Báo chí ngài Jones này chết tại vùng Viễn Tây. Giống y như câu chuyện chúng ta tạo về ông Jones của chúng ta ấy.”

      “Ừ, kỳ đấy.” Venetia vừa vừa nắm chặt bình cà phê.

      Dì Beatrice với tay lấy tờ báo. “Nào, cho ta xem với nào.”

      Amelia lẳng lặng trao cho dì tờ báo.

      Venetia quan sát bà dì đọc mẩu tin ngắn gọn đáng sợ cho biết ngài Gabriel Jones sống nhăn, hít thở, nhiệt thành hăm hở, vừa mới quay trở lại Luân Đôn.

      “Thiên địa thánh thần ôi,” dì Beatrice than sau khi đọc xong. Bà trả tờ báo lại cho Venetia. là chẳng thể nghĩ ra thêm được lời nào nữa, bà lặp lại. “Thiên địa thánh thần ôi.”

      “Chắc là lầm lẫn gì đó thôi,” Amelia miễn cưỡng . “Hay có lẽ là trùng hợp kỳ quái nào đấy cũng nên.”

      “Có thể là lầm lẫn đấy,” Venetia thừa nhận. “Nhưng chắc chắn phải là trùng hợp đâu. Cả giới thượng lưu này đều biết chị thành góa phụ như thế nào rồi mà.”

      “Cháu có nghĩ rằng, tình cờ đến khó tin sao đấy, mà đây đích thị là chàng Jones ấy ?” dì Beatrice bồn chồn hỏi.

      Mọi người đều quay sang nhìn bà dì. Cảm giác hoảng sợ chất chồng của Venetia càng thêm dữ dội.

      “Nếu đây là ngài Jones thực thụ,” bà Beatrice nhận xét, “ ta có khả năng thấy rất bực bội khi phát ra cháu mạo danh vợ góa của ta.” Bà ngừng lại, cau mày. “Coi chừng bình cà phê kìa cháu.”

      Venetia nhìn xuống thấy mình vừa mới rót tràn ra khỏi tách. Cà phê trà ra khỏi miệng tách nhểu xuống đĩa đựng. Nàng cẩn thận đặt bình cà phê sang bên.

      “Chẳng cần phải suy nghĩ sâu xa gì cũng thấy nếu như chuyện lâu nay chị giả vờ làm vợ góa của người đàn ông chưa từng là chồng thực của mình bị vỡ lở tai tiếng đến thế nào,” Amelia bảo. “ còn tệ hơn cả khi chúng ta phát ra về cha mình. Ít ra chuyện về cha tụi mình còn có thể giữ kín được. Nhưng còn tình huống này nếu lộ ra tạo nên tin giật gân kinh hoàng mặt báo đấy.”

      “Công việc kinh doanh bị hủy hoại,” dì Beatrice sầu thảm . “Chúng ta lại phải ngập chìm trong đói nghèo mất thôi. Venetia này, cháu và Amelia buộc phải làm gia sư cho nhà người ta đấy.”

      “Thôi ngay nào.” Venetia giơ tay lên ngăn mọi người. “Đừng có ai suy diễn xa xôi hơn nữa nhé. Bất luận người đàn ông này là ai, ta thể nào là ngài Jones thực được.”

      “Sao lại ?” Edward lên tiếng hỏi với kiểu lập luận có thể lường trước được. “Biết đâu mẩu báo ngài Jones thiệt mạng khi cứu lấy cổ vật trong vụ cháy nhà ấy là sai sao.”

      Cơn choáng váng ban đầu dần dịu bớt. Venetia cảm thấy mình có thể suy nghĩ thấu đáo trở lại.

      “Lý do chị biết chắc đây phải là ngài Jones thực thụ,” nàng lý giải, “là bởi vì trong quãng thời gian ở cùng ông ấy tại trụ sở Hội Arcane, chị biết ông ấy là người thích xa lánh đời. Vì Chúa, ông ta thậm chí còn thuộc hội kín mà các hội viên đều bị ám ảnh với việc giữ bí mật cơ mà.”

      “Mấy cái kiểu lập dị của ta liên quan gì đến chuyện này chứ?” dì Beatrice ngơ ngác hỏi lại.

      Venetia tựa người vào lưng ghế, lòng thấy thỏa mãn với cách lý giải của riêng mình. “Dì tin cháu , cuộc tán gẫu với cánh báo chí, nhất là với phóng viên của tờ tin lá cải như tờ Người đưa tin bay này đây, là chuyện ngài Jones chẳng khi nào muốn làm đâu. , quý ông mà cháu gặp tại trụ sở Hội Arcane tìm mọi cách để tránh những cuộc gặp gỡ kiểu như thế. Này nhé, ông ấy còn cho cháu chụp ảnh mình nữa cơ mà.”

      Amelia bĩu môi. “Nếu vậy chúng ta phải kết luận rằng có ai đó quyết định giả mạo làm ngài Jones của chúng ta. Câu hỏi là tại sao thế?”

      Dì Beatrice cau mày. “Có lẽ trong những đối thủ của cháu dựng nên câu chuyện này vì nghĩ rằng nó tạo nên tin giật gân đáng xấu hổ có thể gây tổn hại đến công việc kinh doanh.”

      Amelia nhanh nhảu gật đầu. “Mọi người đều biết là thành công của chị được các thành viên trong giới nhiếp ảnh của thành phố Luân Đôn này tiếp nhận hào hứng cho lắm. Đây là nghề mang tính cạnh tranh rất cao và luôn có những kẻ hề do dự muốn giảm thiểu sức cạnh tranh ấy.”

      “Đơn cử như cái gã tiểu nhân khó chịu tên là Burton ấy.” dì Beatrice đanh giọng.

      “Phải rồi,” Venetia đồng tình.

      Dì Beatrice nhướng mắt nhìn qua gọng kính. “Cháu biết , giờ nghĩ lại, ta loại trừ khả năng chính Harold Burton tung câu chuyện vô sỉ ấy ra cho báo chí chỉ để dấy lên chuyện đồn thổi về cháu thôi.”

      “Dì Beatrice phải đấy,” Amelia hưởng ứng. “Gã Burton ấy là kẻ đáng sợ. Cứ mỗi khi nghĩ đến những bức ảnh mà gã ta để lại ngoài cửa nhà mình, em lại muốn bóp cổ gã đến chết thôi.”

      “Em cũng thế,” Edward hùng hổ.

      “Chúng ta đâu có biết chắc chính ông Burton là người bỏ lại những bức ảnh ấy,” Venetia lên tiếng. “Mặc dù chị cũng phải thừa nhận là trong những bức ảnh ấy có mang dấu ấn đặc trưng của ông ta. Dù sao ông ta cũng là nhiếp ảnh gia có nghề, và ông ta có phong cách khá độc đáo.”

      “Tên đê tiện đáng khinh,” dì Beatrice lẩm bẩm.

      “Vâng,” Venetia bảo. “Nhưng hiểu sao cháu vẫn nghĩ rằng ông ta có những vụ việc như thế này.”

      “Vậy cháu nghĩ chuyện gì xảy ra nào?” dì Beatrice hỏi.

      Venetia khẽ nhịp nhịp mấy ngón tay xuống mặt bàn. “Theo cháu thấy, bất luận là kẻ nào mạo danh ngài Jones có thể nghĩ đến việc tống tiền.”

      Tống tiền ư?” dì Beatrice kinh hoàng nhìn trân trân vào nàng.

      “Vậy chúng ta phải làm gì đây chứ?” Amelia hỏi.

      “Tống tiền là gì vậy ạ?” Edward vừa hỏi vừa nhìn dò la qua gương mặt mỗi người. “Có phải kiểu như tiền được tống ra ngoài ?” [1]

      [1] Nguyên văn: blackmail là tống tiền, do Edward hiểu nên nghĩ rằng blackmail lá thư (mail) màu đen (black).

      “Chẳng liên quan gì đến tống với đạp đâu,” dì Beatrice đáp gọn. “Ít nhất là chẳng liên quan trực tiếp. Đừng lo, ta giải thích sau.” Bà quay lại Venetia. “Chúng ta có đủ tiền để trả cho kẻ tống tiền đâu. Chúng ta đầu tư tất cả vào căn nhà và phòng trưng bày rồi. Nếu đây là vụ tống tiền chúng ta tiêu tùng mất thôi.”

      Đúng là thế , Venetia thầm nghĩ. Họ sử dụng đến từng xu cuối cùng trong món tiền trả trước kếch xù mà Hội Arcane thanh toán cho nàng để thuê lấy căn nhà phố nho tại ngõ Sutton này và sửa sang bài trí phòng trưng bày phố Bracebridge.

      Venetia nhấp thêm ngụm cà phê, hy vọng nảy ra được gì đó.

      “Cháu chợt ngộ ra rằng có lẽ đây là trong những tình huống mà người ta phải đối đầu bằng chiêu gậy ông đập lưng ông thôi,” cuối cùng nàng lên tiếng. “Có lẽ cháu nên đích thân đến gặp tòa báo.”

      “Chị điên rồi chắc,” Amelia thất kinh thốt lên. “Mục đich của chúng ta là dập tắt tin đồn, chứ phải châm dầu vào lửa.”

      Venetia nhìn qua tờ báo lần nữa, ghi nhớ tên của tay phóng viên viết mẩu tin đáng tởm này. “Thế nhỡ chị phải thông báo cho ông Gilbert Otford này biết rằng có kẻ mạo danh đưa ra vố lừa tệ hại nhằm vào quả phụ chung thủy sao nhỉ?”

      Dì Beatrice chớp chớp mắt hai lần rồi bỗng nhiên hóa ra suy tư hẳn. “Này cháu, đấy là ý kiến khá xuất sắc đấy, Venetia à. Ai có thể phản bác lại cháu chứ? , cháu là vợ góa của Gabriel Jones cơ mà. Cháu biết ta hơn tất thảy mọi người. Trừ phi kẻ lừa đảo ấy có thể chứng thực được danh tính của mình, bằng công chúng đứng về phía cháu thôi.”

      Amelia nghiền ngẫm ý này trong chốc lát. “Có lẽ dì phải. Nếu được xử lý đúng cách, điều tiếng này có thể lại hóa thành lợi thế cho chúng ta biết chừng. Cháu có thể nhìn thấy trước khả năng dấy lên mối quan tâm và đồng cảm lớn lao của quần chúng dành cho chị Venetia. Này nhé, riêng tính hiếu kỳ thôi cũng mang nhiều khách hàng tiềm năng đến hiệu ảnh đấy. Mọi người ai cũng thích tin tức giận gân mà.”




      Venetia chầm chậm mỉm cười khi kế hoạch tạo hình. “Biết đâu lại có ích.”

      Tiếng chuông cửa văng vẳng từ ngoài sảnh trước. Đáp lại là tiếng bước chân của bác Trench.

      “Ai lại ghé đến vào giờ này chứ nhỉ?” dì Beatrice thắc mắc. “Thư từ gửi đến rồi kia mà.”

      Vóc người thấp đậm của bác Trench xuất lối cửa vào phòng ăn. Gương mặt to bè của bác ta đỏ ứng khác thường vì phấn khích.

      “Có quý ngài đợi ở ngoài cửa đấy ạ,” bác thông báo. “Ông ta xưng tên mình là Jones. cầu được gặp vợ mình, mọi người có tin nổi chứ. Ông ta bảo tên vợ mình là Venetia Jones. Tôi chẳng biết phải làm gì cả. Điều duy nhất tôi có thể nghĩ ra là bảo với ông ta tôi vào xem phu nhân có nhà hay .”

      Venetia chết lặng. “Tay này mới cả gan làm sao. Tôi thể tin lại dám dẫn xác đến ngay trước cửa nhà chúng ta như thế này.”

      “Thiên địa thánh thần ôi,” Amelia thào. “Chúng ta có nên gọi cảnh sát đến ?”

      Cảnh sát à?” Vẻ mặt đỏ lựng vì phấn khích của bác Trench chuyển sang cảnh giác. “Này này, khi tôi đồng ý nhận lấy việc làm này thấy có đề cập gì đến những khách viếng thăm nguy hiểm đâu nhé.”

      “Bình tĩnh lại nào bác Trench,” Venetia vội . “Tôi chắc là cần thiết phải cho vời viên cảnh sát nào đến đâu. Bác hãy mời quý ngài kia vào thư phòng nào. Tôi ra gặp ngay.”

      “Vâng thưa .” Bác Trench quày quả bỏ .

      Amelia chờ cho đến khi bà quản gia hẳn rồi mới chúi đầu tới trước thầm. “Chắc chị định ra đối mặt với kẻ tống tiền kia chứ, chị Venetia?”

      “Làm sao cháu lại có thể tính đến chuyện như thế chứ?” dì Beatrice cật vấn.

      “Chúng ta phải tìm hiểu cặn kẽ xem chúng ta phải đương đầu với chuyện gì,” Venetia đáp, cố gắng cho giọng mình toát lên chút thị uy điềm tĩnh. “Hiểu kẻ thù bao giờ cũng rất quan trọng.”

      “Nếu vậy , mọi người cùng chị ra gặp người đàn ông kia,” Amelia tuyên bố, dợm đứng lên khỏi ghế.

      “Dĩ nhiên rồi,” dì Beatrice đồng ý.

      “Em cũng theo để bảo vệ chị, chị Venetia à,” Edward .

      “Cháu nghĩ tốt nhất là cả ba người nên chờ tại đây khi cháu ra thẩm tra người khách của chúng ta,” Venetia cản.

      “Cháu thể ra đấy mình được,” dì Beatrice nài nỉ.

      “Cháu là người mang rắc rối này đến cho chúng ta khi chọn sử dụng tên của ngài Jones,” Venetia dẹp khăn ăn qua bên và đứng dậy. “Vậy nên đây là nhiệm vụ của cháu, phải tìm cho ra phương án giải quyết. Với lại, kẻ mạo danh này chắc chắn để lộ ra nhiều dự tính thực của hơn nếu nghĩ chỉ phải đối phó với người.”

      “Đúng là thế ,” dì Beatrice thừa nhận. “Theo kinh nghiệm của ta, người đàn ông khi thấy mình mình ở cạnh phụ nữ chung thường có khuynh hướng tin rằng ta giữ thế thượng phong.”

      Edward cau mày. “Sao lại như thế vậy dì Beatrice?”

      “Ta chẳng nữa,” dì Beatrice đáp ráo hoảnh. “Ta nghĩ chắc là do bọn đàn ông thường có kích cỡ vóc dáng to lớn hơn chăng. Dường như có rất ít kẻ chịu hiểu rằng chính trí thông minh, chứ phải là cơ bắp, mới là quan trọng nhất.”

      “Vấn đề là,” Amelia lo lắng , “riêng người đàn ông này có thể đe dọa đến tính mạng chị đấy, Venetia à. Và trong tình huống như thế đúng là kích cỡ có quan trọng đấy.”

      “Chị cho là ta có thể làm tổn hại đến chị đâu,”Venetia bảo. Nàng giũ giũ phần chân váy màu đen. “Dù có là ai là kế hoạch của có là gì nữa, dường như chẳng có khả năng nào là sát hại chị trong chính ngôi nhà này cả.”

      “Điều gì khiến chị đoan chắc như thế chứ?” Edward tò mò hỏi.

      “À, vì lẽ, ra tay như thế chẳng mang lại lợi lộc gì.” Venetia vênh mặt lên. “Chẳng ai có thể thu được tiền tống tiền từ phụ nữ chết cả.” Nàng vòng quanh bàn để tiến ra phía cửa. “Vả lại, còn có quá nhiều nhân chứng chứng kiến tội ác của nữa chứ.”

      “Đúng thế ,” dì Beatrice miễn cưỡng đồng tình.

      “Nhưng mà này, chị phải hứa là la lên nếu cảm thấy sắp ra tay làm hại chị đấy nhé,” Amelia dặn dò.

      “Em lấy con dao trong nhà bếp, để phòng hờ thôi,” Edward vừa vừa chạy bổ về phía cánh cửa xoay ngăn cách phòng ăn với nhà bếp.

      “Này Edward, cháu được lấy con dao nào đâu đấy”, dì Beatrice gọi với theo cậu bé.

      Venetia thở dài. “Cháu tin là chẳng đến nỗi phải đụng đến dao đâu”.

      Nàng nhanh chân bước dọc theo sảnh, bao nỗi giận dữ, hãi sợ lẫn quyết tâm dập dồn trong lòng. Nàng chưa bao giờ cần đến kẻ tống tiền, Venetia tự nhủ. Làm như lúc này nàng chưa có đủ thứ vấn đề phải đối phó bằng. thời những bức ảnh nặc danh ớn lạnh được gửi tới nàng vẫn làm cho nàng chóng mặt mỗi đêm rồi đấy thôi.

      Nàng dừng bước trước cánh cửa thư phòng đóng kín. Bác Trench bồn chồn quanh quẩn gần đấy.

      “Tôi dẫn ông ta vào phòng rồi đấy, thưa .”

      “Cảm ơn bác Trench.”

      Bà quản gia mở cửa cho nàng.

      Venetia hít hơi sâu, tập trung tư tưởng lẫn phần trí óc trong nàng cho phép nàng nhìn thấy những gì nằm ngoài tầm quan sát của con người, đoạn nàng lướt vào phòng sách.

    2. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      Chương 7


      TRONG THẾ GIỚI NHƯ THƯỚC PHIM BẢN mà nàng di chuyển này, nàng nhìn thấy thần khí của người đàn ông ấy còn hơn cả gương mặt ta.

      Nàng đứng khựng lại, sững sờ.

      Vùng thần khí ấy là độc nhất vô nhị và thể của ai khác ngoài Gabriel Jones.

      Tự chủ, mãnh liệt và mạnh mẽ, luồng năng lượng thâm trầm huyền bí lan tỏa quanh nàng.

      “Là phu nhân Jones đây rồi, nhỉ,” Gabriel lên tiếng. Chàng đứng gần cửa sổ, mặt trong vùng bóng tối.

      giọng của chàng khiến Venetia vuột mất sức tập trung lơi dần của mình. Nàng chớp chớp mắt. Thế giới xung quanh đảo ngược trở về trạng thái hình bóng sắc màu bình thường.

      “Ngài còn sống,” nàng thào.

      “Phải, quả ta vẫn còn sống,” Gabriel đáp. “Có thể thấy tin này là cú sốc khó chịu đối với nàng. Thứ lỗi cho ta nhé, nhưng lòng mà , ta phải thừa nhận rằng mình cảm thấy hơi chút nhõm trước tình huống này đấy.”

      Toàn bộ tâm trí nàng hối thúc nàng quăng mình vào vòng tay chàng, để vuốt ve và hít hà hương thân thể chàng; để đắm mình hân hoan vào nhận thức huy hoàng rằng thực chàng vẫn còn sống. Nhưng tầm cỡ vĩ đại của điều thảm họa lù lù ra đấy khiến nàng tê liệt.

      Venetia nuốt khan. “Mẩu cáo phó báo…”

      “Chứa đựng vài chi tiết sai lầm. Đừng bao giờ tin vào những gì mình đọc được báo nhé, phu nhân Jones.”

      “Trời đất ôi.” Vận dụng hết sức mạnh ý chí để trấn tĩnh lại, Venetia cố gượng đến bên bàn giấy. Nàng ngồi phịch xuống ghế. thể cất mắt khỏi chàng. Chàng còn sống. “Tôi phải thưa với ngài rằng, tôi rất lấy làm vui mừng khi thấy ngài sức khỏe được dồi dào.”

      “Đa tạ.” Chàng vẫn đứng ngay tại đấy, bóng hình chàng nổi bật nền cửa sổ. “Xin thứ lỗi, thưa phu nhân, nhưng ta nghĩ rằng, trong tình huống này, ta buộc phải hỏi rằng nàng có… ổn ?”

      Nàng chớp mắt. “Dĩ nhiên, ổn chứ. Tôi cũng rất khỏe, cảm ơn.”

      “Thế à.”

      Liệu có phải nàng vừa nghe thấy vẻ thất vọng trong giọng chàng thế?

      “Ngài mong thấy tôi ổn sao?” nàng bối rối hỏi lại.

      “Ta lo là có thể có chút hệ lụy từ lần tác hợp trước kia giữa chúng ta,” chàng nghiêm túc .

      Mãi đến lúc này nàng mới ngộ ra chắc chàng băn khoăn biết có phải nàng có thai hay . Venetia bỗng thấy người nóng bừng lên rồi lại chuyển sang lạnh toát.

      “Tôi cứ tưởng ngài băn khoăn vì sao tôi lại mượn tên của ngài chứ,” nàng lẩm bẩm.

      “Ta có thể hoàn toàn hiểu được vì sao nàng lại quyết định ra làm ăn dưới danh nghĩa góa phụ. Đấy là quyết định ngoan, căn cứ vào thái độ của giới thượng lưu dành cho những người phụ nữ chồng. Nhưng quả , ta thừa nhận là có chút tò mò liên quan chính xác đến việc sao nàng lại chọn dùng họ của ta. Có phải đấy chỉ do tiện thể chọn bừa hay chăng?”

      phải.”

      “Có phải là do nàng nghĩ rằng Jones là cái họ quá thông dụng nên chẳng ai để tâm đến mối liên hệ chăng?”

      hẳn là thế.” Nàng siết chặt cây bút trong tay phải. “ ra tôi lựa chọn theo cảm tính thôi.”

      Hàng chân mày rậm đen của chàng nhướng lên. “ vậy sao? Nhưng ta tưởng nàng ám chỉ rằng cần thiết phải che giấu bất cứ điều gì mang tính riêng tư cơ mà?”

      “Chính do quyết định của ngài thuê tôi chụp lại bộ sưu tập tại trụ sở Hội Arcane. Món tiền công dư dả mà tôi nhận được từ dự án đó cho phép chúng tôi mở hiệu ảnh ngay tại Luân Đôn này. Vì thế tôi nghĩ rằng đặt theo tên ngài cách tưởng kính xác đáng.”

      cách tưởng kính.”

      cách tưởng kính rất chi là, rất chi là riêng tư,” nàng nhấn mạnh. “Ngoài những người trong gia đình ai có thể biết được điều này.”

      “Ta hiểu rồi. Thực tình ta tài nào nhớ nổi trước giờ có ai thấy đáng phải tôn kính ta chỉ vì được nhận món tiền thanh toán trước hay chưa.”

      Giọng thâm trầm, bí , rền vang của chàng làm dấy lên luồng ý thức lạnh sống lưng nàng. Nghe ra chàng được vui vẻ.

      Nàng đặt bút xuống bàn thấm, ngồi rướn người tới trước và khoanh hai tay lại. “Thưa ngài Jones, xin hãy tin rằng tôi thực lòng lấy làm tiếc về toàn bộ chuyện này. Tôi hoàn toàn ý thức được rằng mình tuyệt đối có quyền chiếm đoạt họ của ngài.”

      “Trong hoàn cảnh này chiếm đoạt từ khá thú vị đấy.”

      “Tuy nhiên,” nàng sấn số, “tôi phải ra rằng vấn đề rắc rối này ngay từ đầu hẳn bao giờ xảy ra nếu ngài biết kiềm chế tham dự vào cuộc phỏng vấn có phần chi tiết ấy với tay phóng viên tờ Người đưa tin bay.”

      “Tay Otford ấy à?”

      “Cho phép tôi hỏi vì sao ngài lại chuyện với ông ta thế? Nếu ngài giữ im lặng, hẳn chúng ta có thể mạo nhận chuyện này mà chẳng ai biết đấy là đâu. Cả thế giới này có biết bao là Jones cơ chứ. chẳng ai tìm được mối liên hệ nào giữa hai người chúng ta.”

      may ta e là thể trông chờ vào giả tạo như thế được.”

      “Đừng có nực cười như thế.” Nàng khoanh tay nữa mà dang rộng hai tay. “Nếu ngài trao đổi với cánh báo chí chẳng ai mảy may để ý đến trùng tên cả. Rủi thay, ngài quả quyết tuyên bố với tay phóng viên ấy rằng ngài nôn nóng với lòng hăm hở nhiệt thành được đoàn tụ với phu nhân của ngài, là nhiếp ảnh gia cơ đấy.”

      Gabriel gục gặc. “Phải, ta tin là mình như thế.”

      khí phải nhé, thưa ngài, nhưng tôi phải hỏi ngài rằng tại sao, nhân danh mọi điều tỉnh táo lẫn hợp tình hợp lý, mà ngài lại làm chuyện ngu si, u mê và đần độn đến vậy? tình, ngài suy nghĩ gì thế?”

      Gabriel ngắm nàng đỗi. Đoạn chàng băng qua căn phòng đến đứng ngay đối diện nàng, đứng choán bàn giấy theo cách khiến người khác thấy bất an.

      “Ta suy nghĩ, thưa phu nhân Jones, rằng nàng khiến cho cuộc đời ta thêm vô vàn phức tạp, và trong quá trình ấy nàng cũng có khả năng bị đặt vào mối nguy hiểm chết người. Đấy là điều ta suy nghĩ.”

      Venetia vội dựa người ra sau. “Tôi hiểu.”

      “Là từ phức tạp hay từ nguy hiểm khiến nàng đầu hàng thế?”

      Hai má nàng đỏ bừng. “Tôi hoàn toàn hiểu được nghĩa của từ phức tạp, nhất là căn cứ vào ngữ cảnh này.”

      “Tốt. Vậy là chúng ta có tiến triển rồi đây.”

      Nàng cau mày. “Chuyện bản thân tôi trong vòng nguy hiểm là có ý gì thế?”

      “Khía cạnh này cũng rất là phức tạp đấy.”

      Venetia ép hai bàn tay run rẩy của mình xuống bàn thấm mực. “Có lẽ phiền ngài giải thích ý mình , thưa ngài.”




      Gabriel thở phù, quay lưng bước trở lại về phía cửa sổ. “Ta cố, mặc dù chuyện này cần chút thời gian.”

      “Theo tôi ngài nên thẳng vào trọng tâm vấn đề .”

      Chàng dừng bước đưa mắt nhìn ra khu vườn bé . “Nàng có nhớ cái đêm mà nàng phải rời khỏi trụ sở Hội Arcane qua đường hầm bí mật ?”

      “Chắc hẳn tôi khó lòng mà quên được vụ việc ấy.” ý nghĩ lóe lên trong nàng. “Mà nhắc đến mới nhớ, vì giờ đây ràng ngài còn sống, thế xác của ai được tìm thấy trong bảo tàng ấy vậy? Cái xác được bà quản gia và tay xà ích nhận diện là của Gabriel Jones ấy.”

      ta là trong những kẻ đột nhập băng qua khu rừng mà nàng nhìn thấy đêm hôm đó. Đáng tiếc tên còn lại trốn thoát, mặc dù cũng thể chuồn cùng với món cổ vật mà và tên tòng phạm định đến thó. Món cổ vật ấy rất nặng, nàng cũng biết rồi. Hẳn phải cần đến hai người mới mang được.”

      “Mẩu tin báo có đề cập rằng trong bảo tàng xảy ra tai nạn,” nàng đánh bạo tiếp. “Liên quan gì đấy đến món đồ cổ bằng đá nặng rơi xuống nạn nhân xấu số, theo tôi nhớ là thế.”

      “Phải, ta tin rằng cái chết ấy được báo cáo là vậy.”

      “Tôi hiểu. Tại sao gia đình Willard lại nhận diện kẻ đột nhập thiệt mạng là ngài cơ chứ?”

      “Những gia nhân trong trụ sở Hội Arcane được đào tạo rất kỹ,” Gabriel đáp mà chẳng tỏ vẻ gì. “Và cũng được trả công rất hậu nữa.”

      Đám gia nhân ấy láo, nàng tự nhủ. cơn rùng mình buốt giá chạy rần rật dọc sống lưng nàng. Nàng cảm thấy như mình lội vào vùng nước rất sâu, rất nguy hiểm. Nàng thực muốn biết thêm bất cứ bí mật nào của Hội Arcane nữa. Nhưng theo kinh nghiệm của bản thân nàng, việc vui vẻ làm ngơ trước vấn đề có khả năng biến thành rắc rối cũng mang lại đủ loại hệ lụy hay ho gì.

      “Liệu tôi có thể kết luận rằng chẳng có vụ hỏa hoạn nào và cũng chẳng có món cổ vật nào bị tiêu hủy cả?” nàng hỏi.

      có ngọn lửa nào và các cổ vật đều trong tình trạng tốt đẹp, mặc dù nhiều món phải chuyển vào Hầm Lớn để bảm đảm an toàn.”

      “Vậy ngài hy vọng đạt được gì khi phao tin cho báo chí biết rằng ngài là người bị thiệt mạng thế?” Venetia hỏi.

      “Dự định là để câu chút thời gian và làm cho kẻ thủ ác sai hai người đến trụ sở Hội ấy phải rối trí. Đây là chiến lược xưa như trái đất.”

      “Còn tôi cứ tưởng truy tìm kẻ thủ ác là việc của cảnh sát chứ.”

      Gabriel quay đầu lại nở nụ cười bí hiểm với nàng. “Chắc hẳn nàng biết khá kiểu cách lập dị của Hội Arcane để hiểu rằng các hội viên chẳng hề muốn đám cảnh sát dính mũi vào chuyện của Hội. Truy tìm kẻ thủ ác là nhiệm vụ của ta.”

      “Tại sao Hội lại chọn ngài để giúp họ tiến hành cuộc điều tra như thế?” nàng tỏ vẻ nghi hoặc.

      Khóe miệng chàng cong thành nụ cười vô cảm. “Nàng có thể là ta được thừa hưởng rắc rối ấy.”

      “Tôi hiểu.”

      “Tin ta , phu nhân Jones, ta ý thức được rất việc đó. Rủi thay, nhằm làm cho nàng nhận thức toàn diện về mối nguy mà nàng có thể phải đối mặt, ta phải kể cho nàng biết vài điều bí mật được phong kín nhất của Hội Arcane.”

      lòng nhé, thưa ngài, thà là ngài đừng kể còn hơn.”

      “Hai ta chẳng ai được phép lựa chọn cả. Nhất là giờ đây khi nàng tự chọn gọi mình là phu nhân Jones lại càng .” Chàng quan sát nàng bằng cặp mắt của thầy phù thủy. “Dầu gì chúng ta cũng làm vợ chồng. Giữa chúng ta nên có bất cứ điều bí mật nào.”

      Venetia cảm thấy như thể toàn bộ khí trong phổi mình bị ép hết ra ngoài. Nàng phải mất vài giây sau mới lấy lại bình tĩnh mà thốt nên lời.

      “Đây phải là lúc để ngài vận dụng tính khôi hài ràng là đúng chỗ của ngài đâu, thưa ngài. Tôi muốn nghe lời giải thích và muốn được nghe ngay lúc này. Tôi đáng được nghe.”

      “Được thôi. Như , ta ít nhiều phải thừa hưởng lại rắc rối.”

      “Sao lại như thế được?”

      Chàng bắt đầu lòng vòng trong phòng, dừng lại trước trong hai bức ảnh được đóng khung treo tường. Trước tiên chàng săm soi bức ảnh người phụ nữ tóc sẫm màu rồi quay sang tấm chân dung người đàn ông vạm vỡ, bệ vệ.

      “Cha nàng đây ư?” Gabriel hỏi.

      “Vâng. Cha mẹ tôi mất trong vụ tai nạn tàu hỏa cách đây năm rưỡi. Tôi chụp mất bức ảnh này lâu trước khi cả hai thiệt mạng.”

      “Xin thành chia buồn.”

      “Cảm ơn.” Nàng ngừng lại đầy ngụ ý. “Ngài gì ấy nhỉ?”

      Gabriel bước tiếp. “Ta bảo với nàng rằng ta theo đuổi kẻ phái người đột nhập vào trụ sở Hội Arcane.”

      “Vâng.”

      “Ta lại cho nàng biết những kẻ ấy đến đấy để đánh cắp món gì.”

      “Chắc là trong những món cổ vật giá trị thôi, tôi đoán vậy.”

      Chàng dừng bước, quay người lại nhìn nàng. “Khía cạnh hết sức kỳ quặc của chuyện này là món đồ mà bọn chúng cố đánh cắp lại được coi là có giá trị cả trong nghiên cứu khoa học lẫn tiền bạc của cải. Đấy là chiếc hòm sắt nặng trịch hai trăm năm tuổi. Có lẽ nàng còn nhớ đấy. Nắp hòm có bọc tấm vàng kim loại được chạm khắc hoa văn gồm các lá thảo dược và đoạn văn bằng tiếng Latin.”

      Nàng lọc qua hồi tưởng của mình về những món vật ghê sợ trong bộ sưu tập của Hội mà mình chụp ảnh. khó để nhớ ra chiếc hòm sắt.

      “Tôi nhớ ra rồi,” nàng . “Ngài bảo rằng chiếc hòm được cho là có giá trị gì đặc biệt, thế còn tấm vàng lợp nắp hòm sao?”

      Gabriel nhún vai. “Chỉ là tấm mỏng tang thôi mà.”

      Venetia hắng giọng. “Bỏ quá cho tôi nhé, ngài Jones, nhưng những thứ như thế có liên quan đấy. Dù sao vàng vẫn là vàng. Có lẽ với những kẻ trộm nghèo đói chiếc hòm ấy lại có giá trị nhiều hơn là đối với ngài hay những thành viên khác trong Hội.”

      “Nếu dự định của tên trộm chỉ là kiếm thêm tiền hẳn lấy những món cổ vật hơn, có cẩn đá quý rồi, chứ chẳng phải là chiếc hòm nặng đến mức phải cần đến hai người mới nhấc nổi.”

      “Tôi hiểu ý ngài rồi,” nàng chậm rãi . “Như vậy , có lẽ tên trộm cho rằng bên trong chiếc hòm ấy lại có thứ gì mang giá trị to lớn.”

      “Chiếc hòm ấy rỗng , lại khóa, bởi vì vật trước kia được chứa bên trong ấy bị đánh cắp từ nhiều tháng trước rồi.”

      “Xin thứ lỗi, ngài Jones à, nhưng dường như là Hội gặp phải vấn đề nghiêm trọng trong việc canh giữ những món đồ cổ của mình đấy.”

      “Phải thú là dạo gần đây bất cứ vụ nào ta dính vào đều như vậy.”

      Nàng cố tình phớt lờ lời nhận xét kỳ lạ ấy. “Thế trước đây vật gì được cất trong chiếc hòm sắt ấy vậy?”

      cuốn sổ.”

      “Chỉ có thế thôi ư?”

      “Tin ta , ta cũng mù mờ như nàng vậy,” chàng đáp. “Để ta giải thích nào. Chiếc hòm và cuốn sổ được cất trong ấy là phần trong những món cổ vật từ phòng luyện kim bí mật được nhà giả kim khét tiếng xây dựng vào nửa cuối thế kỷ. Nhà giả kim này qua đời ngay trong căn phòng bí mật của mình. Địa điểm của phòng luyện kim ấy bị thất lạc suốt hai trăm năm. Cuối cùng rồi phòng luyện kim ấy cũng được tìm ra và khai quật.”

      “Nó được tìm ra như thế nào?” nàng hỏi.

      “Hai thành viên trong Hội giải mã thành công vài lá thư được viết bẳng mật mã mà nhà giả kim ấy viết ngay trước khi ông ta biến mất vào trong phòng luyện kim của mình lần cuối. Trong các lá thư ấy có chứa những manh mối và gợi ý dần dà được khớp lại với nhau.”

      “Hai thành viên của Hội mà ngài vừa đến ấy,” nàng bảo. “Phải họ là người khai quật phòng luyện kim ấy lên ?”

      “Phải.”

      trong hai người đó là ngài, đúng nào?” nàng dò đoán.

      Chàng lòng vòng quanh nữa mà nhìn nàng. “Phải. Người còn lại là em họ của ta. Bọn ta hào hứng tiến hành dự án này vì nhà giả kim ấy là tổ tiên của dòng họ. Tình cờ ông ta cũng chính là người sáng lập ra Hội Arcane.”

      “Tôi hiểu rồi. Xin ngài cứ kể tiếp.”

      “Nhà giả kim ấy tin rằng mình sở hữu vài khả năng tâm linh ngoại cảm. Ông ta mất rất nhiều năm để điều chế phương thuốc nhằm nâng cao những khả năng ấy. Đúng ra là, ông ta mê muội với công cuộc nghiên cứu của mình. Trong vài lá thư cuối cùng ông ta còn ám chỉ rằng mình tiến gần đến việc hoàn tác phương thuốc của mình.” Gabriel khẽ động đậy cánh tay. “Em họ của ta và ta đồ rằng đó chính là thứ được ghi chép trong cuốn sổ bị đánh cắp khỏi chiếc hòm kia.”

      “Trời ạ, chỉ cần có chút hiểu biết thôi có ai lại điên rồ đến mức tin rằng nhà giả kim từ hai trăm năm trước có thể thực phát minh ra được phương thuốc để nâng cao các khả năng tâm linh ngoại cảm cơ chứ.”

      “Ta biết nữa,” Gabriel đáp. “Nhưng ta có thể cho nàng biết điều này. Dù có là ai, vẫn rất sẵn lòng giết người để có được cái phương thuốc khốn nạn ấy đấy.”

      Thêm cơn rùng mình làm buốt cóng sống lưng nàng. “ có người bị sát hại vì cuốn sổ cũ ấy rồi ư?”

      nhân công giúp đóng kiện các cổ vật của phòng luyện kim ấy ràng bị mua chuộc để lấy cuốn sổ ra khỏi hòm và giao lại cho ai đấy. Xác của nhân công này sau đó được tìm thấy trong con hẻm. ta bị đâm chết.”

      Venetia nuốt khan. “Kinh quá.”

      “Ta cùng người em họ bỏ ra ít thời gian cố tìm cho ra kẻ mua chuộc tay nhân công và giết hại ta nhưng đầu mối ngay lập tức bị cắt đứt,” Gabriel kể tiếp. “Thế rồi, ba tháng trước hai gã đàn ông đó lại đến trụ sở Hội Arcane cố đánh cắp cho được chiếc hòm sắt.”

      “Tôi hiểu. Nếu tên trộm sở hữu được cuốn sổ của nhà giả kim, tại sao lại chấp nhận rủi ro phái người đến trụ sở Hội để đánh cắp chiếc hòm chứa nó làm gì nữa?”

      “Đó, thưa phu nhân Jones, quả là câu hỏi xuất chúng,” Gabriel đáp. “Là câu hỏi mà mãi đến nay ta vẫn chưa tìm ra lời giải đáp.”

      “Có vẻ như ở đây còn rất nhiều câu hỏi chưa có lời đáp đấy, thưa ngài.”

      “Đúng là vậy . Và ta e rằng nếu ta chóng tìm cho ra lời đáp, lại có kẻ khác bỏ mạng.”

                  Chương 8


      THÔNG TIN NÀY tác động mạnh lên gương mặt sống động, biểu cảm của nàng. ràng Venetia hoảng kinh lên rồi. Gabriel tiếc là phải khiến nàng sợ, nhưng đấy cũng là vì lợi ích của nàng thôi. Chàng phải làm cho nàng hiểu rằng tình hình cực kì nguy hiểm.

      Đôi mày nàng nhíu lại, “Em họ của ngài đâu rồi, cái người phụ giúp ngài trong cuộc khai quật ấy?”

      “Caleb được triệu về từ đường để giải quyết số việc gia đình quan trọng. Ta e là chỉ còn mình ta hoàn thành sứ mạng truy tim cho ra cả cuốn sổ lẫn kẻ đánh cắp nó.”

      Venetia hắng giọng. “ khí phải chứ, thưa ngài, nhưng trước nay ngài từng có kinh nghiệm trong việc như thế này chưa vậy?”

      “Cũng nhiều nhặn gì. Những việc như thế này xảy ra quá thường xuyên tại trụ sở Hội. Ta được đào tạo để làm học giả và nhà khảo cứu, chứ phải làm thám tử.”

      Nàng thở dài. “Tôi hiểu.”

      mãn nguyện làm sao khi được ở gần nàng, Gabriel tự nhủ. Nàng trông còn kiều hấp dẫn hơn hình ảnh chàng vẫn gặp trong giấc mơ suốt mấy tháng qua. Bộ váy đen được cắt may hợp mốt mà nàng mặc chắc chắn là để dựng nên hàng rào cấm cản mọi gần gũi thân mật nào, nhưng trong trí óc chàng bộ váy ấy lại tạo ra hiệu ứng xuân tình đến kinh động.

      Phần thân áo bó chẽn được cắt theo khuôn cổ vuông viền lấy vun ngực nàng duyên dáng. vừa vặn khít khao ấy làm tôn lên những đường cong nuột nà, lôi cuốn từ eo và hông nàng. Phần chân váy được đính ngược lên, thấp thoáng để lộ phần cổ chân. Chiếc khung váy phồng thanh nhã điểm tô thêm nét khêu gợi kín đáo.

      Gabriel nhận ra rằng, dù sở hữu cảm quan nhạy bén của nghệ sĩ nhiếp ảnh, nhưng nàng lại vô cùng ý thức được vẻ quyến rũ, gợi tình khiêu khích mà nàng phơi bày ra khi khoác vào mình những sắc màu của bóng đêm.

      Có lẽ số tên đàn ông bị vẻ kiên định đầy nữ tính mà nàng phát tỏa ra ngoài ấy làm cho chùn bước, chàng thầm nghĩ. Nhưng chính những nét ấy cũng như hình ảnh cái cổ chân nhắn thon thả kia lại khiến chàng rạo rực xuân tình.

      “Công cuộc truy tìm tên trộm của ngài tiến triển đến đâu rồi?” nàng hỏi.

      Trong việc này ràng nàng rất hồ nghi khả năng của chàng rồi, Gabriel tự nhủ.

      “Tiếc là giờ đây so với đêm mà tên trộm định đánh cắp chiếc hòm khỏi trụ sở Hội ta vẫn chẳng tiến gần được hơn đến giải pháp là mấy,” chàng thú .

      Venetia khép hờ mi. “Tôi e là thế đấy.”

      “Trong ba tháng qua tôi cùng cậu em họ điều tra theo hướng giả thuyết rằng ý định trộm cắp kia được thực bởi thành viên giấu mặt của Hội Arcane. Nhưng giờ đây ta bắt đầu thấy hoài nghi cả đến suy luận cơ bản đó. Rủi thay, nếu có dính dáng đến kẻ ở ngoài Hội, ta phải đối phó với nhóm nghi phạm đông hơn nhiều.”

      “Nhưng thể lớn lắm đâu. Tôi nghĩ rằng có nhiều người thậm chí biết về nhà giả kim của các ngài, chứ đừng đến chuyện biết rằng phòng luyện kim của ông ta được tìm thấy và khai quật. Mà số người chịu bỏ ra dù chỉ xu để lấy cuốn sổ hai trăm năm tuổi ấy còn ít hơn nữa ấy chứ.”

      “Ta chỉ hy vọng là nàng đúng.” Gabriel nhìn chăm chú vào mắt nàng, lòng những muốn nàng hiểu được tính chất nghiêm trọng của tình hình. “Venetia này, ta phải rằng ta vui vẻ chút nào khi biết nàng phải dính dáng đến chuyện này.”

      “Bản thân tôi cũng thích thú gì với thông tin ấy cả. Rồi ngài thấy, tôi còn có công việc kinh doanh phải theo đuổi nữa, ngài Jones ạ. Tôi thể để mình bị vướng vào vụ tai tiếng liên quan đến thuật giả kim, đến án mạng lẫn người chồng khuất lại chọn cách tệ hại là chui lên khỏi mồ. Tôi có thể bị hủy hoại. Mà nếu tôi bị hủy hoại, cả gia đình tôi cũng thế. Ngài có hiểu lời tôi thưa ngài?”

      “Có. Ta cam đoan rằng ta nỗ lực hết sức bảo vệ danh tiếng của nàng cho đến khi vấn đề này được giải quyết, nhưng đừng cầu ta rời khỏi nàng hay căn nhà này. Nguy hiểm lắm rồi đấy.”

      “Chính xác là, tại sao tôi lại bị nguy hiểm chứ?” nàng chất vấn, điên tiết lắm rồi.

      “Bởi vì nàng chọn cách xuất trong xã hội thượng lưu với tư cách là người vợ góa của Gabriel Jones.”

      “Nếu ngài năng gì với tay phóng viên ấy…”

      “Venetia này, ta chuyện với tay phóng viên ấy vì ta phải hành động nhanh chóng. Khi ý thức được nàng vừa gây ra chuyện gì, ta còn lựa chọn nào khác ngoài cách ra tay ngay lập tức để bảo vệ nàng.”

      “Khỏi ai mới được chứ?” nàng hỏi lại.

      “Khỏi ké đánh cắp phương thuốc và cố trộm luôn chiếc hòm sắt.”

      “Kẻ ấy quan tâm đến tôi làm gì?”

      “Bởi vì,” Gabriel cẩn trọng từng chữ, “ nếu biết đến nàng và liên kết nàng với ta, rất có khả năng nghi ngờ rằng mọi chuyện chỉ có thế. Chắc chắn bắt đầu thắc mắc liệu có còn bị săn đuổi hay .”

      Chân mày nàng nhíu lại duyên dáng. “Bị săn đuổi ư? kiểu lựa chọn từ ngữ kỳ lạ.”

      Gabriel thấy hàm mình nghiến lại. “Từ ngữ quan trọng. Ý của ta là chúng ta phải nghĩ rằng sớm muộn gì rồi nàng cũng lôi kéo chú ý của kẻ thủ ác. Chỉ là vấn đề thời gian thôi. Quá nhiều manh mối.”

      muốn gì ở tôi chứ? Tôi chỉ là nhiếp ảnh gia thôi mà.”

      nhiếp ảnh gia chụp lại ảnh cho những cổ vật tại trụ sở Hội Arcane,” Gabriel thong thả thêm. “Nhiếp ảnh gia tự cho là kết hôn với ta.”

      Hai mắt Venetia mở lớn. “Tôi vẫn hiểu.”

      Nhưng nàng thực dần hiểu ra rồi đấy, Gabriel thầm nhủ. Chàng có thể thấy được điều ấy trong mắt nàng.

      “Kẻ thủ ác muốn có được hòm sắt vì lý do nào đó,” chàng tiếp. “ biết rằng sau vụ đánh chiếc hòm tại trụ sở Hội bất thành, giờ đây chắc là hòm được giữ an toàn trong Hầm Lớn. phải nhận thấy rằng ngay lúc này thể mó tay vào nó được. Nhưng cũng biết rằng có khả năng còn tồn tại tấm ảnh của chiếc hòm ấy.”

      Venetia đằng hắng. “Tôi hiểu rồi.”

      khi xác định được nàng chính là nhiếp ảnh gia chụp ảnh cho các cổ vật, cũng kết luận rằng nàng giữ những tấm phim bản. Đa số các nhiếp ảnh gia, như nàng từng bảo, thường giữ lại bản các tác phẩm của mình.”

      “Trời đất ơi.”

      “Giờ nàng thấy vì sao nàng nằm trong vòng nguy hiểm chưa vậy, phu nhân Jones?”

      “Thấy rồi,” Nàng siết chặt cây bút. “Nhưng ngài định tính thế nào?”

      “Nếu tên trộm quyết định lén lút theo sát gót nàng, như ta trù liệu, rất có khả năng quanh quẩn đâu đó gần nàng, cố xác định xem liệu nàng có thực là vợ góa của ta hay liệu ta có còn sống hay chăng?”

      “Sao ngài có thể biết được chứ?”

      “Nếu là đấy là việc ta làm.”

      Hai mắt Venetia mở lớn.




      Chàng phớt lờ vẻ kinh ngạc của nàng. “Dù gì nữa, nếu cách lý luận của ta là đúng, biết đâu ta lại có thể nhận diện được kẻ thủ ác trước khi kịp gây thêm trò tai quái nào khác.”

      “Rồi ngài làm gì đây, thưa ngài? Cho người đến đứng canh gác ngoài cửa trước lẫn cửa sau chăng? Thẩm vấn từng khách hàng muốn đến chụp ảnh chân dung chăng? Trời ạ, ràng ngài có thể thấy được rằng những hành động như thế đưa đường dẫn lối cho đủ kiểu suy diễn lẫn đồn đại hoang đường nhất. Cơ bản là tôi thể kham nổi kiểu tai tiếng ấy đâu.”

      “Ta dự định sử dụng phương pháp tinh tế hơn nhiều.”

      “Ngài gọi cái kiểu thông báo với cảnh báo về chuyến trở về đầy choáng váng lẫn lòng hăm hở nhiệt thành khi sắp được đoàn tụ cùng tân nương là ví dụ cho phương thức tinh tế đó sao?”

      “Ta phải nhắc nàng nhớ rằng chính nàng là người dồn cả hai chúng ta vào tình huống này đấy.”

      “À há. Đừng có cố mà đổ vẩy chuyện này cho tôi nhé ngài. Làm sao mà tôi biết được rằng ngài giả mạo cái chết của chính mình cơ chứ?” Venetia đứng phắt dậy, đối mặt với chàng bên kia bàn. “Ngài có khi nào buồn gửi cho tôi dù chỉ là lá thư hay bức điện tín để tôi biết rằng ngài vẫn còn sống tốt và khỏe mạnh , hử?”

      Gabriel chợt ngộ ra rằng nàng phẫn nộ.

      “Venetia…”

      “Ngài nghĩ tôi cảm thấy như thế nào khi nhặt tờ báo lên đọc được mẩu tin rằng ngài chết ấy?”

      “Ta muốn nàng phải dính vào chuyện này,” chàng điềm tĩnh đáp. “Ta liên lạc với nàng vì ta nghĩ như thế an toàn hơn cho nàng.”

      Venetia ưỡn thẳng lưng. “Lý do nhạt thếch.”

      Gabriel bắt đầu cảm thấy mất bình tĩnh. “Nàng mới chính là người tuyên bố muốn ai biết đến cái đêm chúng ta bên nhau tại trụ sở Hội Arcane kia mà. Kế hoạch của nàng, theo như ta nhớ, là muốn có cuộc tình đêm rồi bao giờ quay đầu nhìn lại.”

      Miệng nàng mím chặt. Nàng ngồi sụp xuống ghế. “Chuyện này mới trái khoáy làm sao. Tôi thể tin được là chúng ta cãi nhau về việc ngài vẫn còn sống.”

      Gabriel lưỡng lự, thận trọng đề phòng tâm trạng của nàng. “Ta hiểu là nàng bị sốc.”

      Venetia khoanh tay lại nhìn lên chàng. “Chính xác , ngài muốn điều gì ở tôi vậy, ngài Jones?”

      “Cứ diễn tiếp vai trò mà nàng tự dựng nên ấy. Giới thiệu cho cả thế giới biết ta là chồng của nàng.”

      Venetia nín bặt. Nàng chỉ ngồi đấy, quan sát chàng như thể chàng phát điên.

      “Đây là kế hoạch đơn giản, dễ dàng,” chàng trấn an nàng. “Chẳng có gì phức tạp cả. Báo chí loan tin ta vừa thực chuyến trở về khó tin. Nàng chỉ cần ủng hộ câu chuyện đó thôi. Với tư cách là chồng nàng, ta ở trong vị thế cực kỳ thuận lợi những chỉ để bảo vệ cho nàng mà còn có thể săn lùng tên trộm có khả năng lởn vởn gần nàng.”

      “Điều này có gì phức tạp cả.” Nàng nhăn mặt. “ cho tôi biết xem nào, thưa ngài, làm thế nào người lại có thể giả vờ như mình đức ông chồng còn sống khi mà người đó vật vã hết sức để bảo đảm với cả thế giới rằng ông chồng ấy chết vậy?”

      “Đơn giản vô cùng. Ta đến ở đây cùng nàng và gia đình. chẳng có ai đặt nghi vấn về việc chúng ta sống chung đâu.”

      Venetia chớp chớp mắt. “Ngài định chuyển đến ở trong nhà này ư?”

      “Tin hay tùy, nhưng thực tế là có những kẻ cho rằng chuyện này bất thường, choáng váng, nếu nàng cứ mực bắt chồng mình phải cư ngụ ở nơi khác trong thành phố.”

      Nàng đỏ mặt. “À, phài, trong tình huống này, tôi thấy có thể làm được gì khác. Ngài thể dọn đến đây được đâu thưa ngài.”

      “Suy nghĩ hợp lý chút , phu nhân Jones. Nàng biết là thế nào mà, ngôi nhà của người đàn ông cũng là pháo đài của ta vân vân và vân vân. Cả xã hội thấy ghê tởm nếu nàng bắt ta sống ở nơi nào khác.”

      “Ngôi nhà này chẳng giống pháo đài nào đâu,” nàng đáp. “Đúng ra chừng này người chúng tôi quá đông đúc rồi. Phòng ngủ nào cũng đều có người ở.”

      “Thế còn gia nhân sao? Bọn họ ngủ ở đâu?”

      “Gia nhân duy nhất, bà quản gia, là bác Trench. Bác ấy có phòng ở ngay bên ngoài phòng bếp. Ngài thể bảo tôi bắt bác ấy rời khỏi căn phòng đó được. Bác ấy xin thôi việc ngay tắp lự. Ngài có biết khó khăn đến dường nào mới tìm được quản gia giỏi vậy?”

      “Hẳn phải có chỗ nào để ta có thể ngủ lại. Ta cam đoan với nàng, ta phải người kén chọn. Ta dành phần lớn cuộc đời lấy trời làm màn, lấy chiếu làm đất. Ta quen với việc sinh sống kham khổ rồi.”

      Nàng nhìn chàng chăm chăm đỗi.

      “Thôi, có phòng còn chưa có ai ở,” rốt cuộc nàng cũng .

      “Ta chắc chắn rằng phòng ấy tốt thôi.” Chàng nhìn ra cửa. “Còn bây giờ, có lẽ nàng nên giới thiệu ta cho những thành viên trong gia đình nàng. Ta tin họ đứng sẵn ngoài sảnh kia rồi. Chắc chắn là họ rất nóng lòng muốn biết chuyện gì diễn ra trong này đấy.”

      Venetia cau mày. “Làm sao ngài biết họ ở ngoài kia? Mà thôi bỏ .”

      Nàng đứng dậy, vòng qua bàn băng ngang phòng. Nàng vừa mở cửa ra, Gabriel nhìn thấy những gương mặt lo lắng châu vào nhau. Này là bà quản gia, người phụ nữ lớn tuổi mang vẻ già chưa chồng, thiếu nữ xinh đẹp tầm mười sáu tuổi và cậu bé con chừng chín mười tuổi.

      “Đây là ngài Jones,” Venetia cất lời. “Ngài ấy ở cùng chúng ta thời gian.”

      Đám người trong sảnh nhìn chằm chằm vào Gabriel với vẻ mặt từ kinh ngạc đến tò mò.

      “Đây là dì tôi, dì Sawyer,” Venetia giới thiệu. “Em tôi, Amelia; em trai tôi, Edward; và quản gia của chúng tôi, bác Trench.”

      “Xin chào quý bà quý .” Gabriel lễ độ cúi chào. Đoạn chàng mỉm cười với Edward, cậu bé nắm chặt con dao nhà bếp bằng cả hai tay với vẻ ác ý. “À, có cậu bé muốn lấy mạng ta đây.”

    3. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      Chương 9


      “CHỊ ĐỂ ẤY ở rầm thượng à?” Amelia đặt khay chứa các dụng cụ chỉnh sửa ảnh xuống. “Nhưng ấy là chồng chị cơ mà.”

      “Hình như có chút hiểu lầm nghiêm trọng trong chuyện này rồi.” Venetia chộp lấy mép chiếc giá đỡ lớn bằng kim loại căng tấm phông có hình khu vườn kiểu Ý. “Ngài Jones phải là chồng chị.”

      “Vâng, dĩ nhiên rồi, em biết chứ,” Amelia nôn nóng đáp. “Vấn đề là, mọi người đáng ra buộc phải tin rằng ấy là chồng chị.”

      “Chuyện đến nước này,” Venetia vừa vừa kéo tấm phông vào vị trí đằng sau ghế của người làm mẫu ảnh, “có phải lỗi của chị đâu.”

      “Là chị nghĩ thế thôi, nếu chị có hỏi em,” Amelia lui cui lựa chọn giữa đống đồ dùng cho sân khấu. “Hàng xóm láng giềng rồi nghĩ sao nếu họ phát ra chị giấu Jones vào rầm thượng nào?”

      “Làm như chị được tha hồ lựa chọn bằng.” Venetia rời mép giá đỡ phông và bước lùi lại để thẩm định thành quả. “Chắc chắn chị nhường phòng ngủ của mình để mà lên ở rầm thượng rồi. Mà chị cũng để cho em hay Edward hay dì Beatrice phải chuyển lên ấy. Làm thế sao được.”

      “Em nghĩ rằng trong chuyện này ngài Jones lại muốn chị làm phiền đến bất cứ người nào trong nhà đâu,” Amelia bảo. bé lựa từ mới đạo cụ sân khấu ra chiếc lọ theo phong cách Ý. “ ấy trông có vẻ rất đàng hoàng bặt thiệp.”

      “Chỉ khi nào ta thích thôi,” Venetia tức tối lẩm bẩm.

      Nàng vẫn còn cảm thấy thứ cảm giác lẫn lộn giữa căng thẳng giận dữ và bất an hoảng sợ neo đậu trong lòng mình theo sau niềm hân hoan lúc đầu khi biết được rằng Gabriel vẫn còn sống. Nàng chẳng mất bao lâu để nhận ra rằng phải chàng đến tìm nàng vì chàng muốn ở cạnh nàng thêm nữa. Ồ, hề, nàng nghĩ, chàng ta ghé vào trước cửa nhà nàng sáng hôm ấy chỉ vì chàng ta tin rằng nàng xía vào cái kế hoạch bắt trộm của chàng.

      Theo như Gabriel muốn lần hợp tác này giữa hai người họ đơn thuần là công việc, là chiến lược mà thôi. Nàng được phép quên điều này. Nàng để cho chàng làm tan nát con tim mình thêm lần nữa.

      Amelia trở nên đăm chiêu. “Em nghĩ rằng nên để cho bất cứ người hàng xóm nào biết được rằng chồng chị sống rầm thượng. thế có nghĩa là bọn họ làm vòng quanh nhà mình đâu.”

      “Tất nhiên là rồi.” Venetia băng qua phòng chụp, chiếc máy ảnh của nàng đặt ngay ngắn ở đó chân máy. Nàng xem thử toàn cảnh chụp trông như thế nào,

      Nhờ vào tài hội họa của dì Beatrice, bức phông khu vườn kiểu Ý trông đến là , đến cả bức tượng thần Hermes kinh điển lẫn những tàn tích thê diễm của ngôi đền La Mã. Thêm thắt đôi chút như là chiếc lọ chẳng hạn, hiệu ứng thành hoàn hảo.

      Tiền thuê hiệu ảnh có vị trí lân cận với ngõ Sutton này cao hơn tiền thuê ngôi nhà nơi cả gia đình sinh sống vì hiệu ảnh nằm con phố sầm uất hơn nhiều. Venetia và mọi người trong nhà đều nhất trí rằng thế cũng đáng tiền. Vị trí đắc địa là yếu tố quyết định để tạo dựng nên hình ảnh kiểu cách mà họ muốn giới thiệu với toàn thế giới.

      Cơ ngơi họ chọn vốn là ngôi nhà phố hai tầng be bé xinh xinh. Người chủ sửa đổi ngôi nhà thành chỗ đủ cho hai cơ sở kinh doanh. Tầng , được lên qua lối tách biệt, lúc này vẫn còn bỏ trống.

      Venetia, dì Beatrice và Amelia chọn sử dụng những gian trước của tầng trệt làm nơi trưng bày để bán hàng. Các bức tường treo đầy những mẫu ảnh của Venetia để khách hàng có thể xem xét chọn mua.

      Phòng tối rửa ảnh, nhà kho và phòng thay đồ dành cho khách hàng chiếm hết phần nhà còn lại.

      Riêng phòng chụp ảnh ban đầu là nhà kính . Mái nhà lẫn các bức tường đều bằng kính cho phép ánh sáng tự nhiên được ngập tràn vào phòng trong những ngày đẹp trời. Khi buộc phải chụp ảnh chân dung vào những ngày sương mù u ám, Venetia sử dụng đèn khí ga và đốt các dải bột cháy để gia cố cho lượng ánh sáng nghèo nàn.

      Gần đây nàng tính đến chuyện đầu tư mua chiếc máy phát điện chạy bằng ga nho để mình có thể thử nghiệm với loại ánh điện mới mẻ này. Mãi cho đến giờ nàng vẫn chẳng thấy ấn tượng gì với kiểu ánh sáng yếu ớt phát ra từ những bóng đèn xíu ấy, tuy vậy, mấy món ấy mới đắt tiền làm sao.

      Còn lúc này, nàng vẫn cho rằng mình may mắn khi tìm được căn nhà với phòng có tường bằng kính.

      Nhiều đồng nghiệp của nàng buộc phải làm việc trong những hiệu ảnh tối tăm được sửa lại, những phòng khách hay những khoảng gian thiếu ánh sáng mà trong những ngày xấu trời thể làm ăn gì được.

      Vì tuyệt vọng, nhiều nhiếp ảnh gia đành sử dụng thuốc pháo hoa được làm từ ma giê trộn với số nguyên liệu khác.. Tuy nhiên, giống như kiểu cháy sáng bình ổn có được khi đốt dải bột cháy ma giê nguyên chất, loại thuốc pháo hoa pha tạp kia nguy hiểm biết đâu mà lường. Các tập san về nghệ thuật nhiếp ảnh thường đăng đầy những thông báo về các vụ nhà cửa bị sập, thương tích nghiêm trọng và cả tử vong vì sử dụng loại pháo sáng ấy.

      Ngày hôm ấy có hai cuộc hẹn chụp ảnh. Cả hai khách hàng đều là những mệnh phụ giàu có được phu nhân Chilcott, khách hàng vừa ý khác giới thiệu đến. Mặc cho buổi sáng đấy có xảy ra chuyện động trời, Venetia vẫn quyết tâm làm khách hài lòng. Danh tiếng là nhiếp ảnh gia thời thượng của nàng được dấy lên như vũ bão. gì đảm bảo cho tương lai kinh doanh chắc chắn bằng lời giới thiệu từ người quảng giao trong giới thượng lưu.

      “Phòng thay đồ của quý bà sẵn sàng chưa vậy?” Venetia hỏi.

      “Rồi ạ.” Amelia mang lọ hoa qua phòng đến đặt xuống bên cạnh ghế ngồi. “Sang nay Maud lau dọn sạch .”

      Phòng thay đồ của quý bà đòi hỏi khoản đầu tư chóng mặt, những chiếc bàn ốp đá cẩm thạch, những rèm trướng bằng nhung, thảm trải sàn lẫn gương soi đều rất đáng tiền. Venetia biết rằng nhiều khách hàng của mình đặt chỗ chụp chân dung là do nghe lời rỉ tai về căn phòng bé quý giá ấy.

      biết ngài Jones mất bao lâu để truy ra kẻ thủ ác mà ấy tìm,” Amelia trầm ngâm.

      “Nếu để ta tự làm, chị e là mất cả đời đấy,” Venetia đáp. “ ta thừa nhận là có rất ít kinh nghiệm trong việc này. ta cũng rằng cho đến giờ vẫn chưa gặt hái được gì, mặc dù truy tìm tên trộm từ ba tháng nay. Có vẻ như chị phải giúp ta tay thôi.”

      Đầu Amelia ngẩng lên. “Chị phụ giúp ấy điều tra ư?”

      “Phải.” Venetia khẽ chỉnh lại chân máy. “Nếu chị mà giúp, chúng ta bao giờ rũ bỏ ta được. Ta đâu thể nào để ta sống rầm thượng mãi được.”

      “Thế ngài Jones có biết chị dự định giúp ấy tìm ra kẻ nguy hiểm kia ?”

      “Chị chưa cho ta biết các kế hoạch của mình đâu,” Venetia đáp. “Với hết chuyện này đến chuyện khác trong ngày hôm nay, bọn chị chưa có dịp bàn bạc kỹ lưỡng về vấn đề này. Để đến tối rồi chị cho ta hay, sau khi buổi triển lãm kết thúc. ta cứ nằng nặc muốn cùng chị đến dự cho bằng được.”

      Amelia nhìn sang nàng. “E hèm.”

      “Gì nữa thế?”

      “Phải thú là em chỉ mới biết ngài Jones thôi,” Amelia bảo. “Nhưng em nhận thấy có lẽ ấy sốt sắng lắng nghe lời khuyên hay chỉ dẫn gì đâu.”

      ta phải cố chịu thôi.” Venetia dịch trong những chiếc lọng vào vị trí. “Chính ta chọn dọn vào nhà chúng ta cơ mà. Nếu muốn sống cùng chúng ta, ta buộc phải nghe theo ý kiến của chị.”

      đến buổi triển lãm ảnh tối nay,” Amelia , “em cho là rất đông người đến đấy. Mọi người vô cùng tò mò về chuyến trở về phi thường của ngài Jones quá cố.”

      “Chị biết lắm chứ,” Venetia đáp.

      “Còn về váy áo của chị sao? Cả tủ áo của chị tuyền màu đen vì đáng lý ra chị phải là góa phụ. Chị làm gì có bất cứ chiếc váy hợp mốt nào mang màu sắc khác cơ chứ.”

      “Chị vận trang phục mà chị định dành cho tối nay.” Venetia lại chỉnh sửa tí chút vị trí chiếc lọng. “Là chiếc váy đen có viền những nụ hồng bằng xa tanh đen ngay cổ áo.”

      đức lang quân mất dạng lâu ngày nay quay trở về ngụ rầm thượng và người vợ góa của chàng tiếp tục mặc màu đen.” Amelia lắc đầu. “Nếu chị mà hỏi em ấy à, dường như trông khá là kỳ quặc đấy.”

      “Ngài Jones cũng khá kỳ quặc đấy thôi.” Venetia đối lại.

      Amelia khiến nàng ngạc nhiên bằng nụ cười rạng rỡ. “Có những con người, nếu được biết đến những khả năng dị thường của chị, chị à, đảm bảo họ nghĩ chị mới là người rất kỳ quặc ấy.”

      Venetia siết chặt chân máy lần cuối. “Ít ra chị còn biết phép tắc thông thường và cách cư xử hợp lý để che giấu kỳ quặc của chị khỏi xã hội văn minh.”

                  Chương 10


      “TÔI MONG RẰNG NGÀI thấy bị xúc phạm, thưa ngài.” Bác Trench, vừa hổn hà hổn hển do phải leo thang lên đến tận nóc căn nhà, vừa mở cửa vào rầm thượng. “Tôi chắc là lý do duy nhất khiến phu nhân Jones buộc ngài ở trong căn phòng xíu hãi hùng này là do ấy được tỉnh táo cho lắm. khi trấn tĩnh lại phu nhân đổi ý ngay thôi mà.”

      nhận xét thú vị đấy, bác Trench,” Gabriel đáp. Chàng cùng Edward, chuyển chiếc hòm hành lý vào trong gian bé, chật hẹp. “Mới lúc nãy chuyện với phu nhân Jones trong thư phòng, tôi thấy phu nhân vẫn giống y như trong trí nhớ của tôi, hoàn toàn tự chủ.” Chàng nhìn sang Edward, đứng ở đầu kia chiếc hòm. “Ta đặt nó xuống đây nào.”

      “Vâng ạ,” Edward đáp. Cậu cẩn thận hạ phần đầu hòm phía bên mình xuống sàn, là rất vui vì được nhờ phụ giúp việc của đàn ông.

      Bác Trench kéo mở bức rèm phai màu cánh cửa sổ duy nhất. “Tôi chắc là hệ thần kinh của phu nhân Jones bị chuyến trở về của ngài làm cho choáng váng đấy, thưa ngài. Theo những gì tôi biết, phu nhân chỉ vừa bước vào kỳ trăng mật ngài bị tước mất khỏi tay ấy rồi. Những chuyện như thế thường tác động rất sâu sắc đến cảm xúc vốn rất mong manh của phụ nữ. Xin ngài cứ cho phu nhân chút thời gian để thích nghi.”

      “Tôi rất cảm kích lời khuyên của bác đấy, bác Trench.” Gabriel phủi bụi ở tay rồi gật đầu với Edward. “Cảm ơn em phụ giúp nhé.”

      có gì đâu ạ.” Edward lẽn bẽn hân hoan. “ đừng ngại chuyện phải ở rầm thượng này nhé. có chuột hay mạng nhện gì đâu. Hôm nào trời mưa em thường lên đây chơi nên biết mà.”

      “Em làm thấy yên lòng rồi đấy.” Gabriel mắc chiếc áo khoác dài màu xám của mình lên móc.

      Bác Trench khịt mũi. “Tất nhiên là có mạng nhện với chuột rồi, và cả sau này cũng có đâu chừng nào tôi còn chịu trách nhiệm giữ cho cái nhà này sạch .”

      “Tôi hoàn toàn tin tưởng bác đấy, bác Trench,” Gabriel bảo.

      “Cảm ơn ngài.” Bác chống hai bàn tay to bè quen lao động lên hông và xem xét chiếc giường hẹp. Đoạn bác chuyển hướng sang Gabriel, đưa mắt nhìn chàng lượt từ đầu tới chân để ước lượng. “Tôi lo chuyện này rồi đây.”

      “Lo chuyện gì thế bác?”

      “Chiếc giường kia quá so với ngài đấy, thưa ngài. Ngài nằm được thoải mái chút nào đâu.”

      “Lúc này thế cũng được rồi mà bác Trench.”

      Bác ta thở dài đánh sượt như bất mãn. “Tôi nghĩ mấy người thuê trước để cho quản gia ngủ trong phòng này đây. Để người quán xuyến nhà cửa ngụ tận này phải chút nào.”

      “Em thích phòng này.” Edward đến cửa sổ và vẫy tay chỉ sang dãy mái nhà có thể nhìn thấy được qua kính cửa. “Từ đây có thể nhìn mãi ra tận công viên ấy. Vào những ngày gió trời có nhiều diều lắm, và thỉnh thoảng ban đêm còn có cả pháo hoa nữa.”

      Gabriel dang rộng hai tay mỉm cười với bác Trench. “Bác nghe thấy lời đáng tin nhất rồi đấy, bác Trench. ràng đây là căn phòng tốt nhất trong cả ngôi nhà này rồi.”

      Bác Trench lắc đầu. “ phù hợp chút nào, nhưng cũng chẳng làm gì hơn được, thôi giờ chúng ta tạm gác chuyện này lại vậy. Này nhé, điểm tâm thường được dọn ra vào đúng tám giờ sáng để phu nhân Jones có thể bắt tay làm việc sớm ngoài hiệu ảnh. ấy thích tận dụng ánh sáng buổi sớm cho những tác phẩm của mình. Buổi tối chúng ta dùng bữa vào lúc bảy giờ, để cậu Edward có thể ăn cùng mọi người. Thời gian biểu như thế có tiện cho ngài , thưa ngài?”

      “Như thế cũng tốt rồi, bác Trench ạ.” Chàng chẳng buồn liệu đến phản ứng của Venetia nếu chàng có thay đổi chuyện gì trong nề nếp sinh hoạt hằng ngày của gia đình này, ví dụ như là thời gian dùng bữa chẳng hạn.

      “Tốt thôi.” Bác Trench dợm bước ra cửa. “Cứ bảo tôi nếu ngài có cần gì.”

      “Cảm ơn bác, bác Trench.”

      Bác quản gia bỏ , bỏ lại Gabriel mình với Edward.

      Khi cánh cửa đóng lại, Edward khẽ , “Em biết phải là rể của em, chị Venetia giải thích với em hết rồi.”

      “Thế sao?”

      Edward vội gật đầu. “Chị ấy bảo rằng chúng em chơi trò giả vờ khi ở đây.”

      “Em có thấy ngại ?”

      hề ạ,” Edward đáp. “Có ở đây vui lắm.”

      ?”

      “Vâng. biết đấy, em giúp chị Venetia rũ bỏ mà. Bây giờ khi thực có mặt ở đây, cứ như thể là trở thành vậy.”

      nghĩ hiểu được chủ ý rồi đấy.” Gabriel khom người xuống để mở khóa hòm. “Thế em phát kiến ra phần nào trong tiểu sử đời vậy?”

      “Em bịa ra phần rơi khỏi mỏm đá ở vùng Viễn Tây rồi bị dòng sông cuồn cuộn cuốn ,” Edward vừa kể vừa ưỡn thẳng lưng vẻ tự hào. “ có thích ?”

      “Thông minh lắm.”

      “Cảm ơn ạ. Chị Venetia muốn kể là bị băng đảng giang hồ bắn chết trong vụ cướp tàu hỏa cơ.”

      “Hay nhỉ. xem nào, chết như người hùng thực thụ của miền Viễn Tây, chiến đấu cho đến khi súng hết đạn chứ?”

      Edward cau mày. “Em nhớ là có súng.”

      “Vậy chị em định phái đối mặt với đám giang hồ mà được trang bị vũ khí gì ư?” Gabriel mở hòm ra. “Hẳn là chị em muốn đảm bảo là trở lại rồi.”




      “Em nghĩ câu chuyện ấy cũng tuyệt lắm chứ, nhưng dì Beatrice lại bảo với chị ấy rằng câu chuyện này nghe quá rùng rợn đối với những người trong xã hội văn minh. Thế rồi chị Venetia lại nảy ra ý tưởng rằng bị đàn ngựa hoang giẫm cho chết.”

      “Nghe mới hãi làm sao. Điều gi cứu ra khỏi số phận ấy thế?” Gabriel hỏi.

      “Chị Amelia bảo rằng vì và chị Venetia đáng lẽ là hưởng tuần trăng mật, nên phải được chết theo kiểu lãng mạn hơn.”

      “Và chính lúc đó em nghĩ ra chuyện bị té khỏi mỏm đá phải nào?”

      “Phải ạ. Em rất mừng vì thích chuyện ấy.”

      “Câu chuyện này cực kỳ thông minh đấy.” Gabriel với tay vào hòm lấy ra bộ bao da đựng đồ cạo râu. “Nếu như bị đám giang hồ bắn chết hay bị ngựa hoang dẫm chết hẳn rất khó mà giải thích cho diện của trong nhà lúc này đây.”

      Edward lật đật băng qua căn phòng bé xíu để săm soi những món đồ trong hòm. “Em biết là chúng em hẳn rồi cũng nghĩ ra được cách giải thích nào đó. Bọn em khi nào cũng làm được mà.”

      Gabriel đứng dậy đặt bộ đồ cạo râu lên bồn rửa mặt. Chàng quay lại trầm ngâm nhìn Edward. Hẳn là dễ dàng chút nào để cậu bé con, mặc cho có thông minh đến mức nào nữa, duy trì câu chuyện hư cấu của chị mình là góa phụ.

      “Dường như em có vẻ là chuyên gia chơi trò giả vờ nhỉ?” Gabriel nhận xét.

      “Em là vậy mà.”

      “Chắc em có thể mách cho biết vài mánh khóe để chơi trò ấy chứ.”

      “Được chứ ạ.” Edward cất mắt khỏi việc nghiên cứu các món đồ trong hòm. “Nhưng đôi khi cũng khó lắm. phải cẩn thận khi có người chung quanh, nhất là bác Trench. Bác ấy được biết các bí mật của bọn em đâu.”

      Theo kinh nghiệm của mình, Gabriel ngẫm nghĩ, thường thể nào ngăn đám gia nhân biết được các bí mật của gia đình. ngạc nhiên làm sao khi Venetia và những người khác lại có thể đạt được kỳ công này suốt ba tháng sinh sống ở Luân Đôn. Chàng nghĩ rằng họ có thể duy trì câu chuyện này mãi được.

      cực kỳ cẩn thận,” chàng hứa.

      Chàng lại cho tay vào hòm lấy ra chồng áo sơ mi gấp ngăn nắp. Phải thụp xuống để tránh trần nhà vừa thấp vừa thoai thoải, chàng đặt chồng áo vào trong tủ áo cũ kỹ xiêu vẹo.

      Edward dõi theo từng cử chỉ của chàng, vẻ phấn khích, “Có khi hôm nào đấy quá bận rộn hai em mình ra công viên thả diều nhé”.

      Gabriel nhìn cậu bé. “Em gì cơ?”

      “Em vợ với rể đều thế mà, phải ạ?” Edward bắt đầu tỏ ra lo lắng.

      Gabriel chồng tay lên trần nhà xiên xiên. “Lần cuối cùng em ra công viên là khi nào thế?”

      “Đôi khi em ra công viên với dì Beatrice hay chị Venetia hoặc chị Amelia nhưng em chưa khi nào được thả diều cả. Có lần cậu hỏi em có muốn chơi cùng các bạn ấy nhưng dì Beatrice bảo em được phép.”

      “Tại sao ?”

      “Em được phép trò chuyện nhiều với người ta, nhất là với những đứa trẻ khác.” Edward xịu mặt. “Mọi người ai cũng sợ là em quên béng và kể vài bí mật cho ai đó.”

      Cứ mỗi lần dùng đến từ bí mật là cậu bé Edward lại sử dụng ở số nhiều. Thằng bé này nắm giữ bao nhiêu chuyện bí mật đây chứ?

      “Mấy tháng qua hẳn phải vất vả lắm mới có thể giả vờ rằng chị em là góa phụ nhỉ.” Gabriel thăm dò.

      Cậu Edward này?” Tiếng bác Trench từ dưới chân cầu thang rầm thượng vọng lên. “Dì của cậu phái tôi đến báo với cậu rằng cậu được phép làm phiền ngài Jones đâu đấy. Xuống bếp nào. Tôi cắt cho cậu miếng bánh mật nhé.”

      Edward đảo mắt chán nản nhưng rồi cũng ngoan ngoãn, nếu muốn là tiu nghỉu, ra cửa. Ra đến cửa cậu dừng bước quay lại Gabriel.

      , giả vờ rằng chị Venetia là góa phụ cũng khó lắm đâu,” cậu bé bảo. “ thấy đấy, chị ấy mặc đồ đen suốt ngày ấy mà.”

      Gabriel gật đầu. “ có thể hiểu làm sao mà trang phục của chị em lại có thể tạo thành lời giải thích thường trực rồi.”

      “Em nghĩ mọi người lo nhất là về cái bí mật kia cơ,” Edward giải thích. “Bí mật về cha ấy.”

      Dứt lời cậu bé quay mình biến mất sau cánh cửa.

      Gabriel đứng đó đỗi, tay vẫn cầm nơ cổ áo, lắng nghe tiếng bước chân Edward xuống cầu thang.

      Quả , đây đứng là căn nhà của những điều bí mật đây, chàng tự nhủ. Nhưng mà này, có nhà nào lại chứa đôi ba bí mật cơ chứ?

      Chương 11


      THÊM HAI CON CÁ NỮA vừa chết.

      Chúng nổi lều bều mặt nước, phần bụng xám ngoét lấp lánh sắc bạc xỉn xỉn dưới ánh sáng của ngọn đèn khí ga.

      Bể cá mới này quả là lớn hơn hẳn nếu so với những cái trước kia. Sâu và rộng bằng ba bồn tắm đặt sát nhau, bể cá này được tạo thành từ gỗ và kính cùng khung nâng bằng kim loại cứng cáp. Phần trước của bể lắp kính. đám tảo nước sâu được trồng để cung cấp thức ăn lẫn nơi nấp tự nhiên cho con mồi lẫn kẻ săn mồi.

      Kẻ sát nhân cầm lưới lên để vợt con cá chết ra. Cần phải khám nghiệm các xác chết để loại trừ nguyên do từ tật bệnh hay những lý do tự nhiên khác, nhưng quan sát từ bên ngoài cho thấy, là các loài tảo mới kia cung cấp đủ ôxy. Hai ngày qua có đến nửa số cá trong bể này chết.

      Việc tái sinh thế giới những vật thu theo thuyết Darwin có vẻ phức tạp hơn những gì người ta hằng tưởng nhiều. Các quy luật tự nhiên dường như ràng và đơn giản làm sao nếu ta xem xét chúng từ mặt lý thuyết, nhưng trong thực tiễn lại có quá nhiều biến số. Nhiệt độ, thời tiết, bệnh tật, nguồn cung thực phẩm, thậm chí khi người ta đối mặt với thực tại cả yếu tố ngẫu nhiên lẫn may rủi cũng tham gia vào.

      Nhưng bất luận là có các biến số, những quy luật vẫn thể thay đổi được. Và vượt lên các quy luật khác là quy luật vĩ đại hơn tất thảy: kẻ mạnh nhất là kẻ sống sót.

      Kẻ sát nhân đặc biệt thỏa mãn với hệ quả tất yếu: kẻ mạnh nhất là kẻ xứng đáng được sống sót và sinh sôi.

      Dĩ nhiên, thiên nhiên đảm bảo rằng con mồi cũng có được vài phương tiện bảo vệ. Dù sao vẫn cần thiết phải duy trì cân bằng. Mọi dã thú săn mồi về đâu khi còn con mồi nào cơ chứ?

      Nhưng tuyệt nhiên thể có bất cứ nghi ngờ gì về việc nhóm nào được các nguồn lực tàn nhẫn, khắc nghiệt của chọn lọc tự nhiên chỉ định và tinh luyện để làm loài thống trị.

      thú vị khi ý thức được ràng thiên nhiên quy định phải có con mồi lẫn kẻ săn mồi. Tự bản thân điều ấy minh chứng rằng kẻ mạnh có toàn quyền - ra, có nghĩa vụ, có vận mệnh – thống trị và kiểm soát kẻ yếu. Để lộ lòng trắc hay thể từ tâm là hành động chối bỏ trật tự tự nhiên.

      Kẻ mạnh nhất cũng có nghĩa vụ lưu truyền những đặc điểm mạnh mẽ mà chúng được phú cho. Phải tìm bạn phối ngẫu thích hợp, con cái khỏe mạnh cũng sở hữu những đặc trưng ưu việt, đó là điều bắt buộc.

      Lựa chọn bạn phối ngẫu đầu tiên của thành ra lựa chọn đáng thất vọng, kẻ sát nhân hồi tưởng. Nhưng giờ đây biết khá ràng rằng lựa chọn khác thích hợp hơn có sẵn đấy: phụ nữ dường như chắc chắn cũng được ban cho những tài năng độc nhất vô nhị để làm mẹ các con của .

      Các truyền thống lâu đời trong Hội Arcane thành viên nào cũng biết . biết Gabriel Jones chọn con cái chút quan trọng nào như con nhiếp ảnh gia đấy – người phụ nữ tiền tài quan hệ xã hội – trừ phi bản thân ả sở hữu những sức mạnh tâm linh.

      Kẻ sát nhân đặt con cá chết lên bàn khám nghiệm rồi với lấy con dao.

      Những đôi mắt vô hồn, chẳng chút tính người chòng chọc nhìn từ trong những lồng kính đầy ắp dương xỉ sắp dọc các bức tường quanh phòng.

      Các giống côn trùng, loài bò sát và thế giới thủy sinh cung cấp những ví dụ điển hình về sức mạnh to lớn của chọn lọc tự nhiên trong hình thức nguyên thủy nhất, kẻ sát nhân thầm nghĩ. Trong những cộng đồng đó hề có tình thương, xúc cảm, quan hệ huyết thống, đam mê hay chính trị gì. Đời sống được giản lược đến chỉ còn những thành tố cơ bản nhất. Giết hay bị giết.

      bắt tay vào xử lý con cá. Những thí nghiệm thất bại bao giờ cũng đáng ghét nhưng phải là có chút lợi ích nào.

    4. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

                  Chương 12


      NGHI NGỜ GÌ NỮA, tối nay Christopher Farley nợ ngài nhiều lắm đấy, ngài Jones ạ.” Adam Harrow uể oải xay xoay ly sâm banh trong bàn tay đeo găng. “Nhưng mà này, tôi biết chắc là dù diện của ngài tối nay khách khứa hẳn cũng rất đông nhờ vào vẻ trác tuyệt của các bức ảnh do phu nhân của ngài chụp đấy. Dù sao nữa, tôi lòng ngờ rằng chính tin tức về trở về ngoạn mục của ngài góp phần rất lớn vào việc gia tăng lượng khách.”

      Gabriel rời mắt khỏi bức ảnh được đóng khung quay sang ngắm nhìn chàng thanh niên mảnh dẻ, hào hoa có phần uể oải vừa mới đến bên cạnh.

      Lúc vừa đến sảnh triển lãm Venetia giới thiệu Harrow với chàng. Sau đó nàng bị cuốn bởi đám đông nào là đồng nghiệp, nào là người ái mộ và những kẻ chỉ đơn thuần là hiếu kỳ. Giờ đây nàng thu hút chú ý ở đầu kia căn phòng. Gabriel nhận thấy ngay từ sớm rằng tối nay chàng phải đứng trơ mình thôi. Buổi triển lãm ngoài mặt là hoạt động xã hội nhưng đằng sau những cuộc chuyện trò hăng say về nghệ thuật nhiếp ảnh lẫn những chuyện tầm phào gần đây, vợ của chàng còn phải làm ăn kinh doanh nữa.

      May mắn sao Harrow tỏ ra là người bạn gẫu thú vị. Giọng ta thấp trầm và nhã nhặn. Ở ta toát lên vẻ bình thản, vui tươi đặc trưng của quý ông sành sỏi đến ngọn ngành mọi thứ, từ các hội quán và nhân tình cho đến nghệ thuật lẫn rượu vang. Chiếc quần âu và áo sơ mi cổ bẻ của ta thuộc kiểu tân thời bậc nhất. Mái tóc nâu nhạt được vuốt ngược từ trán ra sau và bóng loáng nhờ sử dụng lượng sáp chải tóc vừa phải.

      Những đường nét gương mặt của Harrow được tạo tác bởi tinh tế, gần như mỏng manh. Những nét ấy khiến Gabriel nhớ đến trong những vị hiệp sĩ tuấn mỹ thoát tục trong bức họa của Burne-Jones. Nhớ đến tên của vị họa sĩ, Gabriel lần nữa nhận ra cái tên Jones mới phổ biến làm sao. Chẳng trách Venetia lại quả quyết rằng chẳng có ai chú ý đến chuyện lại thêm nhà Jones nữa xuất ở Luân Đôn.

      vậy tôi hiểu rằng Farley là người chịu trách nhiệm tổ chức buổi triển lãm này chăng?” Gabriel hỏi.

      “Đúng vậy.” Harrow nhấp ngụm sâm banh rồi hạ ly xuống. “Ông ấy là người có tiền của và trở thành kiểu mạnh thường quân cho cộng đồng nhiếp ảnh. Ông ấy có tiếng là rất phóng tay với những ai mới vào nghề. Thậm chí ông ấy còn cho duy trì phòng tối đầy đủ dụng cụ ngay tại cơ ngơi này cho những nhiếp ảnh gia có khả năng tự trang bị dụng cụ và hóa chất.”

      “Vậy à.”

      “Farley luôn tận tụy cống hiến cho quan điểm nhiếp ảnh xứng đáng được xem là loại hình nghệ thuật thực thụ.” Harrow nhướng cong bên chân mày thanh tú. “Tiếc là, quan điểm ấy vẫn còn gây rất nhiều tranh cãi trong các giới khác nhau.”

      “Nhưng nếu nhìn qua đám đông ở đây tối nay ai biết cả,” Gabriel bảo.

      Sảnh triển lãm sáng rực ánh đèn chật cứng những vị khách quần là áo lượt. Khách khứa thong thả dạo quanh phòng, ly sâm banh hay cốc nước chanh tay, ra vẻ ngắm nghía kỹ lưỡng các bức ảnh treo tường.

      Các bức ảnh trong cuộc triển lãm này là tác phẩm của số nhiếp ảnh gia khác nhau và ảnh được sắp xếp theo các hạng mục: Cảnh đồng quê, Chân dung, Kiến trúc, Lăng tẩm ở Luân Đôn, và Chủ đề mỹ thuật. Venetia đóng góp ở cả hai hạng mục Chân dung và Lăng tẩm.

      Gabriel nhận thấy Harrow có thể là nguồn thông tin hữu dụng. Nếu tên trộm muốn thâm nhập vào giới kinh doanh của Venetia, có thể tối nay ở đây.

      “Tôi rất lấy làm biết ơn nếu giúp tôi biết thêm danh tính của vài người diện tại đây tối hôm nay.” Gabriel . “Dường như phu nhân của tôi giao thiệp với khá nhiều nhân vật cao quý.”

      Harrow liếc sang chàng vẻ dò đoán và rồi nhún vai. “Sẵn lòng thôi. Tất nhiên, tôi biết tất cả mọi người, nhưng tôi có thể chỉ ra những kẻ tham vọng.” hất cằm về phía cặp trung niên nổi bật. “Đức ngài Netherhampton cùng phu nhân. Họ tự cho mình là những người am hiểu nghệ thuật. Việc họ có mặt tại đây tối nay khiến cho buổi triển lãm này đặc biệt lắm rồi.”

      “Tôi hiểu,” Gabriel đáp.

      Harrow cười nhếch. “Tôi nghe phu nhân Nethrhampton từng là diễn viên. Mọi người trong giới thượng lưu dễ dàng quên gốc gác của bà ta vì lẽ giờ đây bà ta kết hôn cùng đức ngài Netherhampton.”

      “Tôi chắc hẳn những ngón nghề diễn xuất là loại hình huấn luyện tuyệt vời để tiến chân vào thế giới thượng lưu đấy.”

      Harrow bật cười. “ là thế còn gì. ra, đây là thế giới đầy mặt nạ cùng bề ngoài giả dối, phải nào?” hất cằm về phía phụ nữ khác. “Người đàn bà ăn diện màu hồng quá lố ở bên kia phòng là phu nhân Chilcott. Hai năm trước chồng bà ta qua đời, để lại cho bà ta cả gia tài. Bà ta là trong những khách hàng đầu tiên của phu nhân ngài đấy, và kể từ đó giới thiệu nhiều người bạn của mình cho ấy.”

      “Tôi phải ghi nhớ để hết sức lịch với người phụ nữ này nếu có được giới thiệu.”

      Harrow liếc mắt đầy vẻ đánh giá qua đám đông rồi dừng lại. “Ngài có thấy quý ông lớn tuổi chống gậy kia ? Người trông như thể bất cứ lúc nào cũng ngã xuống đến nơi ấy? Đấy là đức ngài Ackland.”

      Gabriel chuyển hướng nhìn sang người đàn ông lưng còng, tóc muối tiêu, râu ria xồm xoàm cùng phụ nữ hấp dẫn mê hồn và trẻ tuổi hơn nhiều. Ngoài cây gậy ra, ông Ackland còn bấu víu vào cánh tay theo cách cho thấy là ông ta cần cánh tay ấy để trợ lực. Cặp đôi này chiêm ngưỡng bức ảnh trong hạng mục Chân dung.

      “Tôi thấy ông ta rồi,” Gabriel đáp.

      “Ackland về nghỉ dưỡng tại vùng đồng quê từ lâu. có con cái thừa tự gì. Gia tài ông ta để lại cho mấy người bà con xa nào đó, tôi nghĩ thế.”

      “Trừ phi quý xinh đẹp đỡ ông ta đứng kia có thể thuyết phục ông ta cưới mình chứ gì? Gabriel hỏi.

      “Người ta đồn là thế, dĩ nhiên rồi. Họ bảo Ackland dần dần nghễnh ngãng và sức khỏe lại rất kém nhưng hình như ông ta được lôi về từ cửa từ nhờ vào sinh vật đáng đứng bên cạnh kia.”

      ngoạn mục làm sao khi thấy người phụ nữ xinh đẹp có thể làm được gì cho người đàn ông khi các bác sĩ của ông ta từ bỏ mọi hy vọng nhỉ,” Gabriel nhận xét.

      “Quả . Quý bà có quyền năng chữa trị đáng ngạc nhiên ấy là bà Rosalind Fleming.”

      giọng của Harrow có chút thay đổi, Gabriel nhận thấy thế. Nốt thích thú có phần kín đáo chế giễu biến mất. Thay vào đó là giọng mỉa mai lạnh lùng, khinh khi ra mặt.

      “Chuyện gì xảy ra với ông Fleming vậy?” Gabriel hỏi.

      câu hỏi xuất sắc,” Harrow đáp. “Người đàn bà kia, lẽ đương nhiên, là góa phụ.”

      Gabriel cũng tự mình đưa mắt dò xét khắp phòng, người thợ săn trong chàng phải tìm kiếm con mồi mà là đối thủ - những người khác trông như thể có lẽ là kẻ săn mồi dưới bề ngoài lịch thiệp.

      “Thế còn người đàn ông đứng mình gần chậu cọ cảnh sao?” chàng hỏi. “Ông ta có vẻ là định đến đây để giao lưu trò chuyện.”

      Người đàn ông bên cạnh cây cọ dường như đứng chiếm lĩnh khoảng xa lánh, riêng biệt trong căn phòng. Gabriel biết kẻ nào to gan lắm mới dám xâm phạm đến khoảng đó.

      Harrow liếc sang hướng ấy, thoáng cau mày. “Đấy là Willows. Tôi thể cho ngài biết được gì nhiều về người này. Xuất trong giới khoảng vài tháng trước. Ông ta sưu tập tranh ảnh và đồ cổ. Người này rất kín kẽ nhưng ràng là có trong tay cả gia tài. Tôi tin rằng ông ta mua vài tấm ảnh của phu nhân Jones để về trưng ở bảo tàng riêng.”

      kết hôn chứ?”

      ,” Harrow đáp. “Ít ra là chúng tôi nghĩ thế.”

      Gabriel thắc mắc về cụm từ chúng tôi này nhưng bản năng chàng mách bảo nên dò hỏi làm gì.

      Chàng thầm ghi nhớ cái tên này và tiếp tục quan sát căn phòng, tìm kiếm kẻ cũng toát lên vẻ lãnh đạm, tiềm mối nguy hiểm tương tự.

      Trong nhiều phút tiếp theo chàng đưa vào danh sách của mình thêm ba cái tên trong khi Harrow tiếp tục bình phẩm. Chàng đặc biệt chú ý đến những người mà Harrow bảo có sưu tầm ảnh của Venetia.




      “Xin chúc mừng khối kiến thức về những chuyện ngồi lê đôi mách trong giới thượng lưu của ,” chàng bảo khi Harrow rốt cuộc cũng thôi nữa.

      “Đến hội quán người ta cứ nghe luôn ấy mà.” Harrow nhấp thêm ngụm sâm banh. “Ngài cũng biết là thế nào rồi đấy.”

      “Tôi xa thành phố cũng khá lâu,” Gabriel nhắn nhở. “E là tôi cũng khá lạc hậu rồi.”

      Như thế cũng đúng đấy chứ, chàng thầm nghĩ. Hầu như trong gia đình nhà Jones xa lánh đời ấy ai có hứng thú gì với xã hội thượng lưu cả. Việc ấy giờ rất có lợi cho chàng vì chàng có thể quẩn quanh trong thế giới thượng lưu ấy mà ít phải găp rủi ro bị nhận diện.

      “À vâng, dĩ nhiên rồi,” Harrow đáp. “Rồi còn thêm chứng quên trầm trọng mà ngài phải kinh qua sau vụ tai nạn nữa chứ. Hẳn chứng bệnh ấy chẳng giúp ích được gì cho trí nhớ của ngài rồi.”

      Gabriel nhận ra mình hỏi han hơi quá đà. Harrow bắt đầu thấy tò mò. Thế ổn.

      “Chẳng giúp gì được ,” chàng thừa nhận.

      “Lần đầu tiên ngài nhớ ra phu nhân của mình là khi nào thế?” Harrow hỏi.

      “Tôi nghĩ ký ức tôi quay trở lại vào buổi sáng khi tôi ngồi dùng điểm tâm trong khách sạn San Francisco,” Gabriel vừa đáp vừa tưởng tượng. “Thỉnh thoảng tôi chợt ngộ ra thấy vợ mình ở bên rót trà cho. Tôi thấy hình như phải có người là vợ mình ở đâu đấy. Tôi bắt đầu băn khoăn liệu mình để lạc ấy ở đâu chăng. Và rồi mọi chuyện ùa về với tôi chỉ trong nháy mắt.”

      Harrow nhướng hết cả mày. “Hẳn phải bị choảng nặng vào đầu người đàn ông mới quên được phu nhân Jones.”

      “Quả ,” Gabriel đáp. “Ngã đâm đầu xuống vực đem lại hiệu ứng tương tự thôi mà, tiếc là thế đấy.”

      Chàng nhìn qua đầu kia căn phòng, Venetia đứng giữa đám đông chật ních. Bức Thiếu nữ đương mộng, bức ảnh mới nhất trong loạt ảnh Mộng, được treo tường sau lưng nàng.

      Tấm ảnh là bức tranh u sầu, mờ phai nhân ảnh của thiếu nữ nằm ngủ, vận toàn màu trắng, bồng bềnh, mơ hồ. Khi nãy Gabriel nhìn kỹ bức ảnh này và nhận ra Amelia chính là người mẫu. dãi ruy băng giải nhất được đính đong đưa cạnh bức ảnh.

      Harrow nhìn theo hướng chàng. “Tôi thể để ý thấy phu nhân Jones vẫn còn vận đồ đen, mặc dù ngài quay về nhân thế.”

      ấy bảo ấy có quần áo màu sắc khác,” Gabriel bảo. “Chẳng còn thời gian mua bộ váy mới cho kịp kiện tối nay.”

      “Chắc hẳn phu nhân rất nóng lòng muốn thay thế toàn bộ những trang phục mang màu tang tóc ấy bằng những món sặc sỡ hơn nhiều nhỉ.”

      Gabriel phớt lờ lời nhận xét ấy mà lại câu nào. Chàng có linh cảm rằng Venetia lao thẳng đến chỗ thợ may để ăn mừng chuyến quay về của chàng đâu.

      Đúng lúc ấy người đàn ông trong đám đông vây quanh Venetia hơi rướn người tới sát nàng hơn để to điều gì đấy vào tai nàng, nàng liền mỉm cười.

      Gabriel bỗng trào dâng niềm thôi thúc muốn được băng qua bên kia phòng, tóm lấy cổ gã đàn ông kia mà quăng ra đường.

      Harrow liếc sang chàng. “Hẳn ngài vô cùng thất vọng khi biết phu nhân Jones có kế hoạch cho buổi tối hôm nay.”

      sao cơ?” Gabriel hờ hững hỏi lại, chàng vẫn còn chăm chú vào gã đàn ông tì xán vào Venetia.

      “Tôi tin rằng có người chồng nào bị chia cắt khỏi tân nương của mình thời gian đằng đẵng đến vậy lại mong muốn ngay đêm đầu tiên trở về nhà phải è cổ chịu đựng cuộc triển lãm ảnh.”

      Harrow quay ngược tình thế đây mà, Gabriel thầm nghĩ. Chàng thanh niên này giờ đây mới là người đặt câu hỏi.

      “Cũng may cho tôi, ảnh của vợ tôi đẹp đến điếng người,” Gabriel đáp.

      “Đúng . Tiếc là với những ảnh khác trưng bày tại đây tối nay thể như vậy được.” Harrow quay lại với bức ảnh treo tường. “Tác phẩm của phu nhân Jones áp đặt quyền lực siêu hình nào đó với người xem, phải nào? Các bức ảnh của ấy buộc người ta phải nhìn sâu hơn vào bối cảnh.”

      Gabriel chăm chú ngắm nhìn bức ảnh mà Harrow thưởng lãm. Bức này được đăng vào hạng mục Kiến trúc. như những bức khác treo cạnh, trong tấm ảnh này còn có hình dáng con người. – lại là Amelia, chiếc mũ của bé bị nắm chặt trong bên tay đeo găng đứng trước lối vào mái vòm bằng đá của ngôi nhà thờ cổ. Toàn cảnh gợi lên hiệu ứng đến là ám ảnh.

      “Như thể chúng ta nhìn thấy đây là bóng ma quyết định cho chúng ta thấy được diện của mình,” Harrow quan sát. “ làm cho chất gothic ma quái của công trình kiến trúc kia càng thêm nổi bật, ngài có đồng ý chăng?”

      “Phải, đúng thế ,” Gabriel đáp và rời mắt khỏi bức ảnh để trông theo Willows hướng về phía cửa trước.

      “Phu nhân Jones lồng vào trong tất cả ảnh của mình cảm giác gì đấy thể xác định được,” Harrow vẫn thao thao. “Ngài biết đấy, tôi nhìn tác phẩm của ấy cả trăm lần mà vẫn thể tìm ra được khía cạnh nào mê hoặc mình như thế. Tôi từng có lần hỏi phu nhân làm cách nào ấy có thể tạo ra những hiệu ứng cảm xúc sâu lắng với người xem đến vậy.”

      Willows biến mất. Gabriel quay lại với Harrow.

      “Thế ấy sao?” chàng hỏi.

      “Chỉ bảo rằng có liên quan gì đấy đến việc căn chỉnh ánh sáng,” Harrow đáp.

      câu trả lời hợp lý.” Gabriel nhún vai. “Nghệ thuật nhiếp ảnh là nghệ thuật chụp lại được ánh sáng lẫn hình bóng rồi lưu giữ chúng mặt giấy thôi mà.”

      Khuôn miệng thanh tú của Harrow cong lên như chế giễu. “Tay nhiếp ảnh nào cũng bảo với ngài như thế, mà tôi phải thừa nhận lời ấy cũng có nhiều phần . Tôi hiểu rằng căn chỉnh ánh sáng là việc hết sức khó khăn phức tạp, đòi hỏi phải có trực giác lẫn con mắt thẩm mỹ. Nhưng với tác phẩm của phu nhân Jones tôi buộc phải tin rằng còn có liên quan đến cả thiên khiếu nữa.”

      “Thiên khiếu kiểu như thế nào?” Gabriel hỏi, đột nhiên thấy hứng thú.

      Harrow chỉ về phía bức ảnh có ma mị. “Cứ như thể ban đầu ấy nhìn ra điều gì đó rất độc đáo trong các chủ thể của mình, điều gì đó hoàn toàn . Rồi ấy vận dụng tất cả các khía cạnh cả về khoa học lẫn nghệ thuật trong việc chụp ảnh để thể tính chất ấy trong bức ảnh thành phẩm.”

      Gabriel nhìn lại lần nữa bức ảnh Amelia đứng trước lối vào nhà thờ.

      “Ảnh của ấy chụp về những điều bí mật,” chàng bảo.

      Harrow lén nhìn chàng. “Ngài bảo sao?”

      Gabriel ngẫm nghĩ về các bức ảnh mà Venetia chụp tại trụ sở Hội Arcane – về cách nàng chụp được những phần bí trong từng cổ vật, cùng lúc đó ghi lại từng chi tiết thành ảnh.

      “Những bức ảnh của phu nhân tôi vừa phơi bày nhưng cũng vừa che giấu,” chàng bảo. kinh ngạc làm sao những chữ phu nhân tôi lại dễ dàng thoát ra miệng chàng đến vậy. “Đấy là điều lôi cuốn mắt nhìn. Con người ta, suy cho cùng, luôn thấy kích thích cao độ với những điều họ bị cấm được biết.”

      “A, phải nhỉ, tất nhiên rồi,” Harrow khẽ reo. “ cám dỗ của trái cấm. Chẳng có gì thú vị bằng bí mật được niêm kín, phải nào?”

      “Chính thế.”

      Harrow nghiêng đầu ra chiều suy tư. “Đúng là thế rồi, chính nó. Lẽ ra tôi phải nghĩ ra điều này sớm hơn mới phải. Phu nhân của ngài chụp lại những điều bí mật.”

      Gabriel nhìn qua bức ảnh thêm lần nữa rồi nhún vai. “Tôi nghĩ điều này vẫn rành rành ra đấy rồi ấy chứ.”

      “Ngược lại là khác. Ngài chỉ cần đọc vài bài nhận xét được các nhà báo phê bình viết ra thấy rằng ngôn từ hết lần này đến lần khác đều thất bại trong việc mô tả sức hấp dẫn của các bức ảnh do phu nhân chụp. Thực tế , phu nhân bị chỉ trích tơi bời mặt báo chỉ bởi các chủ đề của ấy được ràng rành mạch.”

      ấy bị chỉ trích ư?”

      Harrow bật cười. “Ngài nghe ra bực bội nhỉ. Thôi ngài cũng nên giữ gìn thời gian và sức lực cho chuyện khác . Nơi nào có nghệ thuật theo sau đấy luôn là đám phê bình. Bản chất nó thế rồi.” ta liếc ngang qua căn phòng. “Kìa, cạnh bàn tiệc buffet là ví dụ của giống loài ấy đấy.”

      Gabriel nhìn theo hướng ấy. “À phải, ông Otford của tờ Người đưa tin bay. Chúng tôi gặp nhau rồi.”

      “Đúng vậy, ông ta viết nên câu chuyện truyền cảm về cuộc trở về ngoạn mục của ngài tờ tin tức buổi sáng, phải nào? Tôi tin chắc ngài đọc được bài phê bình cầu kỳ của ông ta về tác phẩm của phu nhân Jones trong ấn phẩm sáng mai đấy.”

      “Tôi rất mong được đọc những nhận xét của ông ta đây.” Gabriel bảo.

      “Xùy.” khinh tởm của Harrow ra mặt. “Ngài đừng phí thời gian làm gì. Tôi bảo đảm rằng ngón tay út của ngài còn hiểu biết sâu sắc hơn toàn bộ khối não của tên này đấy. thẳng ra, tôi dám bạo gan rằng ngài sở hữu cảm quan nghệ thuật còn phong phú hơn đa số những tay sưu tầm mà tôi biết.” ta ngừng lát. “ Đấy là chưa kể còn so với đại đa số các đức ông chồng nữa kia.”

      “Cảm ơn, nhưng sao tôi vẫn có cảm giác chưa hiểu hết được ý .”

      “Ý của tôi, thưa ngài, là đa phần các quý ông trong vị trí của ngài đây, vừa mới trở về nhà rồi phát ra vợ mình tự thân gây dựng nên cơ sở kinh doanh, chẳng lấy gì làm vui lòng cho lắm đâu.”

      Đúng vậy , Gabriel thầm nhủ. Venetia, dì Beatrice và Amelia rất mạo hiểm với hiệu ảnh của mình. Trong năm mươi năm qua thế giới thay đổi khá nhiều nhưng có những chuyện đổi thay chậm hơn những chuyện khác. Vẫn còn quá ít ngành nghề chuyên môn mở ra cho phụ nữ. Điều hành kinh doanh được cho là việc phù hợp đối với được nuôi lớn trong giới thượng lưu khả kính. Và ràng nghi ngờ gì rằng Venetia và gia đình của nàng xuất thân từ giới ấy.

      “Vợ tôi là nghệ sĩ,” chàng .

      Harrow cứng người. “Nào, cần phải đe dọa tôi đâu ngài ạ. có ý xúc phạm gì đâu, tôi xin đảm bảo. Tôi là kẻ hết lòng ngưỡng mộ nghệ thuật của phu nhân ngài.”

      Gabriel im lặng nhấm nháp sâm banh.

      “Mong ngài tin rằng tôi hoàn toàn chân thành, thưa ngài.” Harrow lại thận trọng tiến đến gần hơn. “Thực ra , tôi bất ngờ với suy nghĩ tại của ngài thôi. có mấy người chồng cấp tiến được như ngài đâu.”

      “Tôi quả thích xem mình là người đàn ông đại mà,” Gabriel đáp.

    5. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      Chương 13


      VENETIA NHÁC THẤY Harold Bruton lần nữa khi nàng xin phép rời khỏi nhóm nghệ sĩ nhiếp ảnh nghiệp dư vây quanh mình.

      Nàng cố gắng theo kịp dấu xuyên qua đám đông. Chẳng dễ dàng gì. Nàng lạc mất dấu lúc nhưng rồi lại nhìn thấy. đứng ở đầu kia phòng triển lãm, gần cánh cửa hông.

      Nàng thấy lén lút liếc quanh hai ba lần rồi vội vã chuồn ra khỏi cửa.

      ngươi làm thế được đâu, Venetia nhủ bụng. Lần này ngươi thể thoát khỏi tay ta đâu, tên đê tiện đáng ghét kia.

      Nàng túm gấu váy đen lên cố gắng hết mức kín đáo tiến đến cánh cửa mà Burton vừa mới khuất dạng.

      Agatha Chilcott chắn ngang lối nàng. Bà ta quấn màu hồng từ đầu tới chân. Những nếp gấp nặng nề chân váy màu hồng nhiều tầng thắt ngược ra sau co rũ xuống từ khung váy to đến mức có thể nhét vào đấy cả bình hoa. Chuỗi hạt bằng đá màu hồng to sụ khỏa lấp phần ngực bao la được đường cổ áo phơi bày.

      Cuộn tóc được thắt tết cầu kỳ chễm chệ đỉnh đầu bà Agatha lại mang sắc nâu đậm hơn hẳn phần tóc còn lại ngả bạc. Cuộn tóc giả kia được ghim cứng chặt xuống đầu bà bằng mớ kim ghim tóc đính đá quý.

      Agatha vừa giàu có vừa quan hệ rộng lại lầm thời gian rồi. Bà ta giết thời gian bằng việc thu thập rồi phát tán những mẩu tin ngồi lê đôi mách giật gân nhất trôi nổi quanh giới thượng lưu của Luân Đôn.

      Venetia cảm thấy biết ơn bà ta lắm lắm. Agatha từng là trong những khách hàng đầu tiên của nàng. Vị phu nhân này ấn tượng quá đỗi với bức chân dung Venetia chụp bà theo kiểu Cleopatra đến nỗi liền hồ hởi giới thiệu nàng cho bạn bè.

      “Ồ phu nhân Jones quý, tôi đọc thấy mẩu tin đáng kinh ngạc đến chuyến quay về của phu quân tờ tin tức sáng nay.” Bà Agatha đến dừng ngay trước mặt Venetia, chắn hết cả lối của nàng, “Hẳn phải choáng ngợp với bao nhiêu là cảm xúc khi biết được ngài Jones vẫn còn sống.”

      chuyện ngạc nhiên đến thảng thốt, đúng là thế ạ.” Venetia vừa đáp, vừa cố lịch len mình vòng qua bà Agatha.

      “Tôi mới ngạc nhiên vui mừng làm sao khi thấy có thể dự buổi triển lãm tối nay,” Bà Agatha tiếp với vẻ quan tâm hết mực.

      “Sao tôi có thể bỏ lỡ buổi triển lãm cơ chứ? Tôi rất khỏe mạnh mà.” Venetia kiễng chân, cố nhìn qua đầu thiên hạ để xem liệu Burton có quay trở vào phòng chăng. “Tôi chưa từng nghĩ rằng mình thể đến dự.”

      vậy sao? Bà Agatha hắng giọng đầy ngụ ý. “Người ta cứ tưởng sau khi kinh qua cú sốc như hôm nay phải chịu phải nằm giường tịnh dưỡng hai ngày mới hồi phục được ấy chứ.”

      “Vô lý đấy phu nhân Chilcott.” Venetia phe phẩy chiếc quạt bằng lụa đen và cố theo dõi cánh cửa hông. “Dĩ nhiên là ta thể cho phép cú sốc khiến ta thể hoàn thành tâm nguyện của mình được.”

      Bà Agatha liếc qua bên kia phòng nơi Gabriel đứng trò chuyện cùng ngài Christopher Farley tóc bạc khả kính, người tài trợ cho buổi triển lãm này.

      “Tôi ngưỡng mộ ngoan cường của đấy, ạ,” bà bảo.

      “Cảm ơn bà. Người ta làm việc họ cần phải làm thôi. Tôi mong bà thứ lỗi cho nhé, phu nhân Chilcott.”

      Hàng chân mày kẻ đậm sì của bà Agatha nhướng lên. “Nhưng cho dù vẫn thấy khỏe mạnh để làm việc của mình, người ta hẳn cho rằng ngài Jones biết đâu lại có ý muốn trải qua đêm nay theo cách khác.”

      Venetia ngừng bước, hoang mang với lời nhận xét vừa rồi. Bà Agatha này đời nào lại có thể biết được kế hoạch truy tìm tên trộm của Gabriel.

      “Bà gì kia ạ?” nàng thận trọng dò hỏi. “Tại sao ngài Jones lại có ý khác cơ?”

      “Hẳn ai cũng nghĩ rằng quý ông rành rành khỏe mạnh, đường đường sung mãn như thế kia, lại buộc phải thôi được đón nhận những tình cảm tự nhiên từ người bạn đời dấu suốt quãng thời gian quá dài đến vậy, phải khao khát mãnh liệt được trải qua đêm đầu tiên tại Luân Đôn này trong tổ ấm của mình.”

      “Trong tổ ấm ư?”

      “Trong vòng tay [1] của gia đình ấy mà, nôm na là thế.” Bà Agatha chắp hai bàn tay mang găng vào trước bộ ngực ấn tượng của mình. “Để nối lại mối liên kết riêng tư gần gũi với vợ mình ấy.”

      [1] Nguyên văn bosom, nghĩa đen là ngực. Bà Agatha bóng gió về chuyện vợ chồng.

      Rốt cuộc Venetia cũng vỡ lẽ, như vừa bị điện giật. Nàng có thể cảm nhận được hơi nóng đột ngột hai má mình. Nỗi lo sợ xuyên qua tâm trí nàng. Có phải mọi người trong phòng này đều suy diễn về mối liên kết riêng tư gần gũi giữa nàng và Gabriel và thắc mắc vì sao họ phải cùng nhau trải qua đêm nay giường nhỉ?

      Nàng quá tập trung chú ý vào hằng hà sa những khó khăn phải đối mặt mà thậm chí chưa hề nghĩ đến khả năng rằng mọi người rất hào hứng muốn biết đến lãng mạn liên quan đến tình huống của nàng.

      cần thiết phải lo đến khía cạnh ấy đâu, phu nhân Chilcott ạ.” Venetia lại phô diễn nụ cười trấn an rạng rỡ, cùng kiểu cười nàng ban cho bà Agatha khi nàng bảo đảm với phu nhân này rằng cái mụn ruồi to tướng cằm bà ta xuất trong bức chân dung Cleopatra thành phẩm. “Đức phu quân Jones cùng tôi cuộc trao đổi thân tình hồi sớm này. Chúng tôi kể cho nhau nghe mọi chuyện.”

      cuộc trao đổi ư? Nhưng này em, câu chuyện tờ Người đưa tin bay ngụ ý rằng ngài Jones mong được đoàn tụ cùng bằng thái độ hăm hở nhiệt thành nhất cơ mà.”

      “Coi nào, phu nhân Chilcott. Bà là phụ nữ từng trải. Tôi chắc là bà biết rằng ngay cả những cuộc đoàn tự hăm hở nhiệt thành nhất cũng cần phải hao tốn thời gian của người ta đến vậy.”

      “Cho dù là thế, phu nhân Jones à, tôi thể để ý thấy rằng ngài Jones gần trọn buổi tối này chỉ đứng ở đầu kia sảnh mà thôi.”

      “Thế sao?”

      “Thế người ta chắc nghĩ ông ấy rất thích phải xa cách tối nay đấy.”

      “Tôi xin đảm bảo với bà rằng, ngài Jones có đủ khả năng làm cho mình bận rộn.”

      Bà Agatha đưa mắt nhìn nàng sắc lạnh. “ vậy sao?” Rồi đột nhiên vẻ mặt bà ta dịu lại. “À, tôi nghĩ tôi biết vấn đề nằm ở đâu rồi.”

      “Chẳng có vấn đề nào cả đâu, phu nhân Chilcott.”

      “Tầm bậy nào, em. cần phải cả thẹn như thế. ngượng ngùng tự nhiên nào đó tồn tại giữa hai người mới kết hôn lại buộc phải xa nhau lâu đến thế là điều hoàn toàn hợp lý.”

      “Vâng, dĩ nhiên rồi.” Venetia chộp ngay lời lý giải ấy. “Ngượng ngập lắm cơ.”

      “Nhất là trong tình cảnh ấy,” bà Agatha nhàng thêm vào.

      “Tình cảnh ấy à?”

      “Tôi nhớ hình như có nghe được rằng ngài Jones biến mất trong tuần trăng mật của hai người.”




      “Chính xác là vậy.” Venetia đáp. “Còn nữa chứ thưa bà, biến mất mà để lại lời nhắn nào. Bước hụt khỏi mỏm đá. Rơi xuống khe núi sâu. Dòng sông cuồn cuộn chảy. Xác bao giờ được tìm thấy. Thế là được cho là chết. Chuyện bi thương nhưng cũng hiếm mà, bà biết rồi đấy. Nhất là ở những nơi như vùng Viễn Tây ấy.”

      “Như thế có nghĩa là có rất ít dịp được làm quen với các nghĩa vụ hôn nhân của mình rồi, em nhỉ.”

      Miệng Venetia khô khốc. “Các nghĩa vụ hôn nhân của tôi ư?”

      Bà Agatha vỗ về bàn tay mang găng của nàng. “ ràng tối nay căng thẳng và lo lắng.”

      “Bà tưởng tượng được đâu, phu nhân Chilcott à.”

      “Ấy nào, tôi lấy làm ngạc nhiên khi biết được trải qua cùng nỗi bồn chồn bối rồi mà chắc hẳn từng cảm thấy trong tuần trăng mật của mình.”

      “Vâng, phải đấy ạ.” Venetia lại phô ra nụ cười rạng rỡ nhất. “ may mắn làm sao, ngài Jones rất tôn trọng cảm xúc khó này của tôi.”

      “Nghe thế tôi lấy làm mừng lắm đấy, phu nhân Jones. Dầu sao , tôi hy vọng lắng nghe vài lời khuyên từ người phụ nữ lớn tuổi hơn và biết đâu lại thông thái hơn.”

      “Tôi nghĩ chuyện này lại cần đến lời khuyên đâu, xin cảm ơn bà.”

      “Tôi bảo đảm đấy, em à, người đàn ông khỏe mạnh, sung mãn được đoàn tụ lại với tân nương của mình sau quãng thời gian cách xa đằng đẳng có đôi điều ham muốn sục sôi tự nhiên nào đấy.”

      Venetia trân trối nhìn bà ta, ngớ cả người. “Ham muốn sục sôi ư?”

      Bà Agatha ghé sát người lại và giọng. “Tôi khuyên đừng trì hoãn gì nữa mà hãy đáp ứng mọi niềm ham muốn sục sôi ấy, em ạ. muốn ngài Jones tìm kiếm giải tỏa ở chỗ khác đâu.”

      “Trời đất quỷ thần ôi.” Venetia cảm thấy đầu óc mình trống rỗng.

      “Từ vẻ mặt tôi có thể thấy chưa có dịp được làm quen với những nghĩa vụ hôn nhân của mình ngài Jones gặp phải cú ngã thảm kia rồi.” Bà Agatha dùng quạt vỗ vỗ lên cổ tay Venetia. “Tôi bảo này, tin tôi , nghĩa vụ vợ chồng của người vợ khó chịu chút nào đâu, nếu như có từng nghĩ thế.” Bà ta nháy mắt. “ chút nào đâu khi mà người chồng lại khỏe mạnh và sung mãn như ngài Jones kia.”

      Mỉm cười nhân hậu, bà Agatha quay người lướt vào trong đám đông.

      Cuối cùng rồi Venetia cũng cố khép miệng lại được. Vận dụng hết ý chí, nàng trấn tĩnh lại và tiếp tục bước về phía mục tiêu của mình.

      Nhưng giờ đây nàng ý thức rất những ánh liếc len lén lẫn những cái nhìn hiếu kỳ hướng về phía nàng. Mọi người ở đây, đúng là, suy diễn về khía cạnh riêng tư gần gũi trong mối quan hệ giữa nàng với Gabriel đây, Venetia thầm nhủ. Mặt nàng nóng bừng.

      Tình cảnh trớ trêu này đủ khiến nàng phải nghiến răng. Nàng thể chịu được khi nghĩ lại bao đêm trắng lê thê độc mà mình trải qua, mong làm sống lại ký ức đêm trong vòng tay người tình trong mộng rồi lại lặng lẽ khóc thương cho điều dường như là mất mát.

      Giờ nàng biết Gabriel Jones chỉ đơn thuần lo cho Hội Arcane của ta, chẳng hề có lấy thoáng chốc nghĩ xem tin tức về cái chết của mình gây xáo trộn tâm trí nàng ra sao.

      tình, đàn ông lắm lúc có thể vô tâm đến vậy cơ chứ.

      Khi đến cánh cửa hông nơi Burton biến mất, Venetia dừng lại ngoái nhìn về chỗ Gabriel mấy phút trước đứng tán gẫu cùng ông Christopher Farley. Nàng nhìn thấy chàng đâu. Có lẽ chàng ra ngoài hít thở khí trời. Có lẽ chính nàng cũng cần chút khí trời như thế.

      Rủi thay nàng lại có nhiệm vụ quan trọng hơn cần phải hoàn thành. Nàng chỉ có thể hy vọng Burton rời hẳn khỏi sảnh triển lãm trong khi nàng bị bắt buộc phải đàm luận về nghĩa vụ hôn nhân của mình cùng phu nhân Chilcott.

      Nàng mở cánh cửa dẫn vào khu hành lang tối tăm từ sảnh triển lãm sáng rực.

      Nàng khép cửa lại và đứng lặng im lúc, chờ cho ánh mắt quen dần với bóng tối đen đặc. Chút ánh trăng rọi xuống từ những cánh cửa sổ cao cao bên cầu thang phía cuối lối đủ làm lộ ra dãy cánh cửa đóng kín.

      Nàng cố lắng nghe tiếng bước chân của Burton nhưng chỉ nghe được tiếng ồn xa xa, nghèn nghẹt từ đám đông bên kia bức tường.

      Nàng bắt đầu chầm chậm bước, lòng đầy nghi hoặc hiểu vì sao Burton lại chọn lối này.

      Đây phải lần đầu tiên nàng đến phòng triển lãm của ông Farley. Nàng từng đến đây, bí mật thôi, rất nhiều lần trong những tuần gần đây để bàn thảo chuyện làm ăn. Ngài Christopher Farley ngay từ đầu rất hứng thú với những tác phẩm của nàng khi nàng đem vài bức đến cho ông ta kiểm nghiệm. Ông ta cho nàng lời khuyên về khía cạnh tài chính và giới thiệu cho nàng vài khách hàng quan trọng đầu tiên. Để đáp lại, nàng trao cho ông ta vài bức ảnh của mình để trưng bày và bán .

      Nhờ vào những lần họp hành với Farley, Venetia biết đại khái cách bố trí phòng tầng này.

      Khu hành lang mà nàng đứng bị lối khác cắt ngang ngay giữa lối dọc theo sảnh. Văn phòng làm việc chính của Farley nằm ở khu hành lang khác ấy.

      Nàng lặng lẽ đến góc hai hành lang giao nhau và nhìn dọc căn sảnh thứ hai, thậm chí còn tối hơn. Chẳng có ánh sáng đèn ga nào rọi qua được những tấm kính cửa chính vào văn phòng ông Farley cả. Ánh trăng tỏa từ những cửa sổ bên trong căn phòng làm cho khung kính mờ đục ấy lấp lánh thứ ánh sáng xám nhờ nền bóng tối sẫm màu hơn. Căn phòng ngay sát bên văn phòng được hai nhân viên của ông Farley sử dụng. Căn phòng ấy cũng thế, cũng được chiếu sáng.

      Nàng quay lại lối hành lang chính. Nàng biết ở phía đấy có ba văn phòng, phòng kho lớn và phòng tối rửa ảnh.

      Nhân viên của hãng sử dụng phòng tối ấy để rửa thêm ảnh của vài bức được bày bán trong phòng trưng bày. Farley cũng nổi tiếng là người nhiệt tình mời đón các nhiếp ảnh gia tài năng nhưng nghèo túng đến sử dụng phòng tối này. Nàng thể tưởng tượng nổi vì sao Harold Burton lại vào phòng kho hay phòng tối làm gì. ta có hiệu ảnh be bé với dụng cụ riêng cơ mà.

      Dĩ nhiên, cũng có khả năng Burton chọn cách rời khỏi buổi triển lãm qua đường cầu thang phía cuối sảnh. Nhưng nếu có muốn bỏ ra theo lối vào chính an toàn hơn rất nhiều, lối này dẫn xuống khu tiền sảnh tao nhã và đường phố đông đúc.

      Cầu thang phía cuối hành lang nơi nàng đứng lại dẫn ra con hẻm.

      Nếu gã Burton rời khỏi tòa nhà này theo lối cầu thang ấy, Venetia tự nhủ, thôi nàng cũng nên từ bỏ ý định đối mặt tối nay cho rồi.

      Nhưng vẫn còn có khả năng khác. Nhân phẩm của Burton cũng chẳng phải hạng cao cả gì, nàng tự nhắc nhở mình. Có lẽ lẻn vào văn phòng ông Farley để nhòm ngó cũng nên. Chắc chắn là trong phòng ấy có cất giữ nhiều thông tin về khách hàng của hãng. Burton chẳng ngại ngần gì mà thó thứ có thể mang lại lợi nhuận tiềm tàng.

      Di chuyển khẽ khàng hết mức để gây ra thanh báo động, nàng dợm bước dọc theo lối hành lang dẫn đến văn phòng Farley.

      Mới dấn hai bước vào trong bóng tối nàng nghe thấy tiếng cánh cửa khe khẽ mở ra ở đầu kia hành lang.

      Nàng quay phắt lại, định chạy bổ ngược lại phía lối kia để chặn ngang lối Burton. Nhưng thoáng do dự cảm lạnh sống lưng lóa lên làm nàng ngần ngại.

      Nếu đấy là Burton, hành xử theo kiểu chỉ có thể được mô tả là lấm lét. Cũng đáng để xem thử liệu nàng có thể phát ra muốn gì. Có thể kiếm được chút ít lợi thế nào, nàng đều cần đến cả.

      Venetia nhón chân bước trở lại phía có hai hành lang giao nhau và đứng sững lại ngay trước khi bước vào hành lang chính.

      Những tiếng ồn nghèn nghẹt từ đám đông trong dãy phòng triển lãm đột nhiên dường như xa hẳn. Nàng cảm thấy lòng dạ nôn nao khi ở mình trong bóng tối.

      Có tiếng bước chân vọng lại từ phía hành lang kia. phải Burton về phía nàng. di chuyển về hướng cầu thang hậu. Chỉ vài giây nữa thôi mất. Nếu nàng ra tay ngay bây giờ, trốn thoát.

      Nhưng có điều gì đó ngăn nàng lại. phải là nàng ngán gì Burton, Venetia tự nhủ. Nàng chỉ tức giận vì những hành động nàng chắc mẩm là làm, nhưng nàng hãi sợ. Vậy tại sao nàng lại do dự cơ chứ?

      Venetia tập trung tinh thần và tay túm lấy váy, tiến thêm bước nữa về trước và rón rén nghiêng người ngó vào trong hành lang kia.

      Ánh trăng mờ đục soi bóng người đàn ông mặc áo choàng dài và đội mũ cao. ta di chuyển lanh lẹ ra xa khỏi nàng, sải từng bước dài quả quyết về phía cầu thang.

      phải Burton rồi, nàng rút ra kết luận. Gã này cao ráo hơn. ta xớn xác lủi như cái kiểu đặc trưng của Burton. Thay vào đó, gã di chuyển khoan thai, nhịp nhàng, uyển chuyển, duyên dáng đến lạ, theo cách gợi cho ta nghĩ về sức mạnh và quyền lực. Giống kiểu của Gabriel, nàng thầm nghĩ.

      Nàng tập trung hết mực, nhìn vào dáng hình bước kia như thể là người mẫu ảnh còn nàng sửa soạn chụp, cố gắng bắt lấy thần khí của .

      Ánh sáng và bóng tối đảo ngược. Hành lang biến thành phim bản. thần khí giần giật quanh gã đàn ông ở cuối hành lang. Những bóng sắc năng lượng vừa lạnh vừa nóng tóe ra trong bóng tối.

      Nỗi sợ hãi phóng qua người nàng. Bao nhiêu năm nay nàng trông thấy nhiều thần khí khác nhau, nhưng chẳng có cái nào lại khiến nàng cảnh giác bằng thần khí này.

      Ngay lúc ấy nàng ngộ ra được rằng mình nhìn thấy luồng năng lượng phẫn nộ, dị thường, tỏa ra từ khát thèm lạ lùng, quái gở. Theo trực giác nàng cảm nhận được rằng có người phụ nữ nào có thể thỏa mãn được niềm khát khao bệnh hoạn đó. Nàng khấn nguyện cho mình bao giờ phải biết đến bản chất của bất cứ điều gì mà con quái vật kia cần để thỏa mãn cơn đói khát kinh khủng của .

      nhõm cả người khi dáng hình ấy chìm xuống cầu thang rồi biến mất.

      Trong vài giây Venetia đứng im náu mình nơi hai sảnh giao nhau, run rẩy đến nỗi thể cất bước.

      Chợt nàng nhớ đến Harold Burton.

      mối lo sợ đến buồn nôn dấy lên trong nàng.

      Nàng ép mình bước ra khỏi sảnh xuống hành lang dẫn đến phòng tối.

      “Ông Burton?” Nàng gõ lần lên cánh cửa.

      Chẳng có tiếng trả lời.

      “Ông có trong đấy ?”

      im lặng làm tóc gáy nàng dựng hết cả lên.

      Chẳng có lý do gì phải trì hoãn thêm nữa. Tận sâu trong tâm khảm nàng biết rằng có điều gì đấy khủng khiếp xảy ra trong căn phòng tối này. Nàng cũng cảm giác được rằng, dù mình có cố gõ cửa đến hụt hơi nữa. Harold Burton chắc chắn trả lời.

      Venetia vặn nắm đấm cửa và từ từ mở cửa ra.

      Ai đó kéo tấm trướng nặng nề thường che khuất cánh cửa số bé trong phòng tối. Ánh trăng hình tam giác xiên xiên soi sáng hình dáng Burton nằm sóng soài, bất động. nằm ngửa sàn, mắt trợn trừng vô hồn hướng lên trần nhà.

      “Trời đất thánh thần ôi.”

      Nàng quỳ thụp xuống cạnh , váy dồn thành đống quanh nàng, đoạn nàng lần ngón tay dò tìm mạch của . Động mạch ở yết hầu gã Burton còn nhịp đập nào của sống. Làn da của bắt đầu chuyển lạnh bất thường rồi.

      Rồi nàng nhìn thấy chai rượu brandy và chiếc ly chổng chơ quầy rượu. Những giọt rượu tong tỏng xuống mép quầy và đổ tung tóe lên sàn nhà. Nàng có thể ngửi thấy mùi brandy nồng sực lên.

      “Trong này diễn ra chuyện quái gì thế?” tiếng của Gabriel nghe trầm thấp, đầy nguy hiểm.

      Venetia nhảy dựng lên quay ngoắt người lại, sém chút ngăn được khẽ thét lên.

      “Ngài làm gì ở đây vậy?” nàng hào hển.

      “Ta để ý thấy nàng rời khỏi sảnh triển lãm. Mãi thấy nàng trở lại nên ta quyết định tìm hiểu xem chuyện gì giữ chân nàng.”

      Venetia nhìn thấy tay Gabriel siết chặt nắm đấm cửa. Có chuyện kỳ quái diễn ra ở đây. Nàng mau chóng tập trung và thoáng nhìn thấy luồng năng lượng tăm tối trong bầu khí bao quanh chàng.

      “Nàng có sao ?” Gabriel hỏi.

      Thấy nàng trả lời ngay. Gabriel thả nắm đấm cửa ra mà nắm chặt cổ tay nàng.

      “Trả lời ta nào,” chàng nhàng bảo. “Nàng có sao ?”

      sao.” Venetia cố hết sức trấn tĩnh lại. Nhãn lực bình thường của nàng quay trở lại tấm chú mục. “, tôi ổn mà.”

      Gabriel vặn cây đèn khí ga bàn gần đấy lên và nhìn xuống cái xác.

      cho ta biết tên này là ai nào,” chàng bảo.

      “Harold Burton. ta là nhiếp ảnh gia.”

      “Nàng đến đây để gặp ta à?”

      Câu hỏi lạnh tanh.

      ,” Venetia đáp, khẽ rùng mình. “À mà, phải. hẳn là thế. phải là như thế này.” Nàng bỏ qua giải thích. “Tôi vừa bước vào trong phòng thấy ông ta như thế.”

      “Có vết thương nào ?”

      “Tôi nghĩ thế. thấy máu.”

      ta chết vì nguyên nhân tự nhiên đâu,” Gabriel bảo.

      Venetia thắc mắc vì sao chàng lại đoán chắc đến vậy.

      “Tôi cũng nghĩ thế,” nàng đồng tình.

      Gabriel nhìn nàng, “Nàng có biết gì về chuyện này nào?”

      “Có kẻ nào đó rời khỏi phòng này ngay trước khi tôi bước vào. Tôi nghĩ có lẽ có liên quan đến chuyện này. Ít nhất hẳn biết chuyện gì xảy ra trong đây.”

      “Nàng nhìn thấy kẻ ấy ư?” Gabriel hỏi, giọng chàng đanh lại.

      “Tôi chỉ nhìn thấy thoáng qua khi xuống cầu thang.”

      “Nàng có nhận ra ?”

      .”

      “Vậy có nhìn thấy nàng ?” Câu hỏi này nghe gấp gáp hơn câu hỏi trước đến bội phần.

      Nàng lắc đầu. “Tôi chắc chắn chú ý đến tôi. Như tôi , lúc ấy di chuyển ra xa tôi. Tôi đứng trong lối sảnh khác, quan sát quành qua góc quanh. , tôi chắn chắn nhìn thấy tôi. hề dừng lại.”

      Gabriel tiến bước về phía quầy rượu, rượu brandy đổ ra giọt.

      “Đừng động vào rượu ấy,” nàng vội bảo. “Mà cũng đừng động vào cả cái ly kia nữa.”

      Chàng dừng bước quay nhìn nàng.

      “Tại sao lại ?” chàng hỏi.

      Trong tình huống này thường các tay đàn ông hẳn thấy bực mình khi nghĩ rằng phụ nữ ra lệnh cho mình. Phụ nữ đáng ra phải bị hoảng kinh lên hay ngất xỉu khi phải đối mặt với các tình huống dính dáng đến xác chết.

      Nhưng phải Gabriel chất vấn lý lẽ hay phán đoán của nàng. Venetia ngộ ra là thế. Chàng chỉ đơn giản muốn biết vì sao nàng lại cảnh báo chàng phải tránh xa chỗ brandy bị đổ kia.

      Nàng hít vào hơi sâu. “Ở đây chỉ có hai khả năng thôi.” Nàng nhìn vào chiếc cốc cạn rồi nhìn sang xác Burton sóng soài. “Tôi cho đây có thể là vụ tự sát. Đây chắc hẳn là lời lý giải thường thấy trong những trường hợp như thế này. Nhưng từ những gì tôi biết về Harold Burton, tôi thấy khó mà tin được rằng lại tự kết liễu đời mình.”

      “Ý nàng là sao, lời lý giải thường thấy trong những vụ như thế này là thế nào?”

      “Tôi đồ rằng giới chức trách tìm thấy ông Burton uống cốc brandy pha xyanua.”

      Gabriel siết chặt tay thành nắm đấm rồi lại nhanh chóng thả lỏng ra, như thể cố giải thoát mình khỏi điều gì đó khó chịu bám vào những ngón tay chàng. Nàng bỗng thấy đây là cử chỉ bồn chồn đến lạ lùng đối với người đàn ông bình thường tự chủ đến thế.

      “Ta nghĩ là,” chàng lên tiếng, “nàng tốt hơn nên cho ta biết chính xác nàng làm gì trong căn phòng này.”

      “Đây là câu chuyện khá phức tạp.”

      “Thế nàng nên cho nhanh vào, trước khi ta gọi cảnh sát đến đây.”

      “Ôi trời ơi. Cảnh sát. Phải, dĩ nhiên rồi.” Để sau hẵng lo đến các tai tiếng có khả năng xảy ra, nàng thầm nghĩ.

      Venetia giải thích, ngắn gọn, về hai bức ảnh nặc danh được gửi đến cho mình.

      “Tôi Burton định làm gì nhưng tôi nhận ra hoặc là cố dọa cho tôi sợ đến nỗi phải bỏ ngang nghiệp của mình hoặc là điều gì đó còn tệ hơn.”

      “Tệ hơn à?”

      “Tôi băn khoăn liệu có phải định dùng những bức ảnh ấy như là khúc dạo đầu cho màn tống tiền chăng,” nàng thú nhận.

      “Mấy bức ảnh đó hại đến nàng ư?”

      . Chúng chỉ là... làm người khác thấy rợn thôi. Ngài phải nhìn thấy chúng mới hiểu được.”

      “Để sau rồi nàng hẵng cho ta xem. Còn bây giờ, chúng ta đề cập đến những tấm ảnh này cho cảnh sát.”

      “Nhưng chúng có thể là manh mối đấy.”

      “Chúng cũng có thể là động cơ để giết người nữa đấy, Venetia.”

      ý trong những điều Gabriel vừa khiến Venetia sững sờ. Nàng đột nhiên thấy hơi xây xẩm.

      “Ngài có nghĩ rằng cảnh sát có thể kết luận rằng tôi hạ sát Burton vì tôi tin rằng là kẻ gửi cho tôi những tấm ảnh kinh khủng đó chăng?” nàng thều thào.

      “Đừng bấn loạn lên như vậy chứ, phu nhân Jones. Chúng ta tiến hành từng bước để bảo đảm rằng nàng trở thành nghi phạm trong chuyện này.”

      Nỗi lo âu quặn thắt ruột gan nàng. “Nhưng ngay cả khi cho cảnh sát biết về các bức ảnh, chúng ta cũng thể chối bỏ rằng tôi đứng mình trong sảnh được lúc. Tôi là người phát ra xác chết. Tôi thể chứng minh được rằng còn có người khác diện ở đây trước khi tôi đến. Điều gì ngăn quan chức chính quyền nghi ngờ rằng tôi bỏ xyanua vào cốc của Burton chứ?”

      “Cho dù cảnh sát có kết luận đây là vụ sát nhân chứ phải là tự sát nữa, ta nghĩ cũng chẳng ngoa nếu rằng bọn họ nghi ngờ vô tội của nàng đâu.”

      Venetia bắt đầu thấy bực với thái độ quyền uy bình tĩnh của chàng. “Vậy điều gì khiến ngài quả quyết đến vậy, thưa ngài?”

      “Bởi vì có người có thể cung cấp cho nàng chứng cớ ngoại phạm tuyệt đỉnh,” Gabriel từ tốn đáp.

      “Vậy à? Và người ấy là ai thế nhỉ?”

      Gabriel dang rộng hai tay. “Sao chứ, là người chồng đáng , vừa-đội-mồ-trở-lại này chứ còn ai nữa.”

      “Nhưng tôi đâu có...” Nàng chợt ngừng bặt. “Ồ. Là ngài.”

      “Phải rồi, phu nhân Jones à. Là ta. Chúng ta chợt tìm thấy nhau khi cả hai bước ra khỏi phòng triển lãm oi bức để tìm lấy chút riêng tư. Ta chắc là mọi người hiểu thôi.”

      “Họ hiểu ư?”

      “Đêm nay là đêm đầu tiên ta về tới nhà sau tai nạn xui xẻo mà ta phải kinh qua trong kỳ trăng mật của chúng ta, nếu nàng còn nhớ. Ta biết người đàn ông trong tình huống của ta làm mọi chuyện để có được dù chỉ là phút ở riêng cùng tân nương mà ta bị chia cắt trong quãng thời gian đằng đẵng đến vậy.”

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :