Chương 9 Ngày tám tháng ba là trong những ngày dài nhất của đời tôi. Bầu trời nặng trĩu những mây suốt buổi chiều dài. Khi tia sáng cuối cùng khởi tắt, gian vẫn bớt ảm đạm. Thỉnh thoảng lại có trận mưa lớn. Tôi nghe tiếng những giọt nước đập mạnh vào dãy cửa sổ phía tây tựa hồ trời mưa tuyết. Lúc trời vừa tối, như thường thường trời vẫn tối rất sớm ở vĩ tuyến này, cơn mưa tạnh hẳn và gió cũng hơi bớt thổi. làn sa mù mỏng bắt đầu bò dọc theo phía dưới chân bờ đá. Tôi hy vọng tới nửa đêm bức màn sương dày hơn và vẫn là đà sát mặt đất. Lúc này tôi sinh ra ước mong những chuyện vô lý. Nếu tôi có thói quen cầu nguyện chắc bây giờ tôi khấn vái. Tôi nhớ chưa bao giờ thành tâm cầu nguyện điều gì, ngay trong lúc được di chuyển đến Tarawa, nơi chúng tôi biết trước chỉ có năm mươi phần trăm may mắn tới đúng thủy triều thích hợp cho cuộc đổ bộ, và nếu tới sai giờ là tai họa. Monique đến phòng tôi vào khoảng bẩy giờ và Ted đến sau đó mấy phút. Chúng tôi cùng ăn cơm với nhau nhưng uống rượu trước khi ăn. Monique vẫn còn mặc bộ áo quần trượt tuyết. Ted và tôi mặc hai lớp áo len dày bên trong áo choàng. Chúng tôi biết có lẽ có giờ trở lên để thay đổi y phục sau buổi lễ tại văn phòng của Anson. Anson đích thân lên tìm chúng tôi lúc chín giờ kém mười lăm, có cả Matuschek theo. Ông ta bảo Matuschek: - chờ tôi ngoài hành lang. Ngay sau khi vừa bước vào, ông ta đóng cửa lại và : - Tất cả có đủ đây rồi. Hay lắm. Tôi vừa có quyết định. De Ménard có thể theo để dự thính. Chắc chắn ấy đặc biệt chú ý và nhờ đó lấy quyết định. đến đây ông ta quay nhìn tôi trong lúc vẫn tiếp: - Tôi đoán ấy kể cho ông nghe quyết định của ấy. Hình như ấy giấu ông bất cứ chuyện gì. Ông ta nhấn mạnh hai tiếng “bất cứ” bằng giọng đổi khác hẳn. Trong lúc miệng , mắt ông ta hết nhìn tôi lại nhìn Monique, rồi cuối cùng trở lại nhìn tôi. Nàng lên tiếng: - Đại úy Anson, đây là chuyện chỉ liên quan đến ông và tôi. Tôi thể gây liên lụy cho người khác. Nhưng bây giờ tôi có thể với ông rằng tôi quyết định. Ông có tất cả những gì ông muốn. Tôi thể có quyết định nào khác hơn. - Tuyệt! Trong thoáng, tôi chợt nghĩ ông ta sắp sửa xoa hai bàn tay vào nhau. Nhưng ông ta chỉ thản nhiên tiếp với Monique: - Thế đặc biệt thích thú với cuộc vui mọn trong buổi tối hôm nay, bởi vì là diễn viên thầm lặng trong đó. Bây giò xin tất cả hãy theo tôi. gần tới giờ rồi. Chúng tôi cùng bước theo ông ta và Matuschek trở ra thang máy. Donald được thay thế bởi tên gác khác. Chúng tôi xuống qua đại sảnh và hành lang tới văn phòng của Anson. Tôi nhớ mãi cảm giác rờn rợn khi băng ngang đại sảnh. Toàn thể căn phòng lớn gần như chìm trong bóng tối, chỉ được soi mờ mờ bằng chút ánh sáng từ phía ngoài rọi qua khung cửa sổ cao. có lửa cháy trong lò sưởi. Chiếc bàn dài im lìm và vắng tanh. Tôi trông thấy Monique rùng mình lúc chúng tôi qua bên cạnh bàn tựa hồ nàng vừa thấy những hồn ma ngồi chung quanh. Anson bảo khi đến trước cửa văn phòng: - Matuschek. đứng chờ bên ngoài. ai được phép vào hoặc ra trừ phi tôi cho hay. Và nếu tôi gọi , phải vào nhanh. Matuschek nhe hàm răng dơ dáy với chúng tôi và đóng cửa lại. Anson : - Quý vị có thể ngồi xuống đây. Ông ta chỉ bốn chiếc ghế đặt khoảng giữa bàn viết rộng của ông ta và bàn nước thấp ở góc phòng đằng kia. Ông ta đứng sau bàn viết và vào máy nội đàm: - Masterson, có thể chuyển đài BBC vào máy phóng thanh của tôi. tiếng kêu vang lên trong máy phóng thanh rồi im lặng. Trong chốc lát chúng tôi nghe được giọng của xướng ngôn viên đài BBC đọc bản tin hai mươi mốt giờ. ta đọc bài về cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Rồi ta ngừng lúc và bắt đầu mục khác. - Đây là Luân Đôn, dư luận xôn xao bán tán về lý do phiên họp đặc biệt của Hội Đồng Nội Các bắt đầu từ sáng sớm hôm nay sau phiên họp khẩn cấp đêm hôm qua, và giờ vẫn còn tiếp diễn. Hôm nay phiên họp lại càng thêm khác thường với góp mặt của vị đại diện Nữ Hoàng, được cầu đến bàn luận cùng với các vị bộ trưởng. Người ta lại còn biết rằng chiều hôm nay Đại sứ Hoa Kỳ và Đại sứ Pháp được mời đến Số Mười, đường Downing để hội kiến với Thủ tướng . Chiếc đầu của Anson ngẩng lên và làn da phía trước căng ra , trong lúc xướng ngôn viên đài BBC vẫn tiếp: - Thủ Tướng rời khỏi phiên họp để chuyện với các ông đại sứ ngay trước khi Hội Đồng Nội Các lại tạm ngừng để ăn tối. vị bộ trưởng nào rời khỏi Số Mười, và người ta phỏng đoán tất cả dùng bữa tối ngay tại đây. ai hay biết gì về lý do của phiên họp bất thường, lời bình luận nào được đăng tải mặt báo, ngay ở Đông Nam Á, là nơi vẫn thường bình luận những tin tương tự. Xướng ngôn viên lại ngừng rồi tiếp tục thuật qua những vụ đất sụp trong khu mỏ sắt ở Tô Cách Lan làm cho nhiều làng phải lâm nguy. Anson lại vào máy nội đàm: - Thôi, đủ rồi, Masterson, Lambert sẵn sàng chuyện chứ? Nhân viên giữ máy đáp: - Thưa ông, sẵn sàng. Tôi cầu ông ấy đứng chờ bên cạnh điện thoại. Tôi cho chuyển ngay vào máy phóng thanh, chỉ trong chốc lát. Anson rời khỏi bàn giấy và ngồi xuống ở gần bàn nước. Lúc đó tôi mới nhận thấy có máy vi để bàn. Ông ta bảo: - Sudra có điện thoại liên lạc với thế giới bên ngoài. Chúng tôi đành phải cho nhân viên của chúng tôi ở Luân Đôn điện thoại theo lối thông thường tới căn cứ chúng tôi ở Murra. Cuộc điện đàm này được đưa vào máy truyền tin của chúng tôi ở Murra và chuyển thẳng về đây bằng vô tuyến điện. Lẽ tất nhiên phần truyền tin bằng vô tuyến điện từ Murra nghe được lắm. Ted nhìn tôi rồi ngước mắt lên trần. Chúng tôi chợt nghe giọng mới lạ vang ra từ loa phóng thanh. - Lambert đây. Thưa, ông còn đó chứ? Anson liền cầm máy vi lên tay và : - Phải, Lambert. Thủ Tướng sẵn sàng chuyện chứ? tiếng kêu rè rè nổi lên trong máy phóng thanh lát, rồi dịu hẳn xuống. - Xin ông đợi cho lúc. Thủ Tướng đường đến phòng này. Trong mấy giây đầu tiên, tôi nghe tiếng đằng hắng khe khẽ. Rồi kế đó là giọng hơi của vị Thủ Tướng vang lên trong phòng, thể nào lầm được dù hệ thống truyền làm biến đổi phần nào. Ông : - Vâng. Tôi đây. Anson vào máy vi : - Theo sắp xếp của chúng tôi, tôi mang ông Stuart Dunbar, là người ông biết, đến phòng này để chuyện với ông. Nhưng trước khi tôi chuyển qua ông Dunbar, tôi cần phải hỏi ông câu. Tôi vừa nghe đài BBC có tin các ông đại sứ Nga Xô, Hoa Kỳ và Pháp đến hội đàm với ông ngày hôm nay. Ông bàn luận chuyện này với họ hay sao? Giọng của Thủ Tướng có vẻ gay gắt: - Đây là công việc của tôi mà. Anson đính chính: - Lúc này còn đúng như thế nữa. Đây cũng là công việc của tôi, và chẳng bao lâu là hoàn toàn của tôi, tùy thuộc quyết định của ông. Vị Thủ Tướng có vẻ trầm tĩnh lúc ông trả lời sau khi im lặng lúc. - Tôi chỉ bàn luận với các vị bộ trưởng về lời hăm dọa vô danh, để chắc chắn ai báo động bậy nếu chúng tôi nhận thấy phải trả đũa. Anson liền bảo: - Ông bao giờ trả đũa được. Dunbar chuyện này với ông. Ông ấy đây rồi. Ông có thể hỏi ông ấy bao nhiêu câu cũng được. Ông ấy trả lời cách thành thực, bị ai ép buộc. Ông ta gật đầu với tôi. Tôi ngồi xuống bàn phía bên trái ông ta và ông ta trao máy vi cho tôi. Miệng tôi khô ran. Tôi nhận thấy mình toát mồ hôi. Tôi lên tiếng: - Thưa Thủ Tướng, Dunbar đây. - Dunbar, tôi đoán ông biết về câu chuyện quái đản này. - Thưa Thủ Tướng, đúng. - Có phải ông là thành phần của cái… đảng đó? - Thưa Thủ Tướng, cách vô tình mà thôi. giờ tôi là tù nhân tại đây. Nếu Thủ Tướng chuyện với ông George Vallance, chắc Thủ Tướng hiểu phần của vụ này. Tôi được khuyến cáo trình lại với Thủ Tướng những gì tôi có thể về mũi súng nhắm vào Thủ Tướng. Anson nhìn tôi cách quỷ quyệt khi nghe tôi nhắc tên của Vallance. Tới đây, ông ta lấy máy vi lại và vào máy: - Tôi xin hỏi câu. Ông có hoàn toàn tin chắc rằng ông nghe tiếng của Stuart Dunbar? Vị Thủ Tướng trả lời ngay: - Lẽ tất nhiên. Tôi chuyện nhiều lần với Dunbar trong mấy năm vừa qua. Dunbar, ông còn ở đó ? Tôi lấy mày vi trở lại. - Thưa Thủ Tướng, tôi vẫn còn đây. - Ông bảo ông là tù nhân. Tôi hy vọng ông bị cưỡng bách. Tôi đưa mắt nhìn Anson. Mãi đến lúc này tôi mới hiểu được chủ định điêu xảo trong đầu óc ông ta. Lời hứa của ông ta để cho chúng tôi rời khỏi Sudra khiến tôi có cảm tưởng mình bị cưỡng bách. Nhưng cũng có thể chúng tôi phải chết. Ý nghĩ chúng tôi bao giờ được phép an toàn ra tràn ngập khắp tâm trí tôi. Tôi cố xua nhanh tư tưởng này và tiếp tục chuyện với vị Thủ Tướng. - Thưa Thủ Tướng, tôi bị cưỡng bách. Chuyện tôi trình với Thủ Tướng có ảnh hưởng gì tới chuyện xảy đến cho tôi. Anson mỉm cười với tôi cách bất chính. Ông ta hiểu rằng tôi thấy nước cờ thí của ông ta. Vị Thủ Tướng nóng nảy bảo: - Thế ông hãy cho tôi nghe . Có phải bọn cướp đó khi chúng bảo rằng chúng có hỏa tiễn với đầu đạn hạch tâm nhắm vào mười hai đô thị lớn nhất của nước ? - Thưa Thủ Tướng, đúng vậy. Chính mắt tôi trông thấy. Những dàn hỏa tiễn này có vẻ , dù tôi phải là nhà chuyên môn. Em tôi cũng công nhận như thế. Chắc Thủ Tướng biết em tôi là người có uy tín trong lãnh vực đó. Ted chen lời: - Stuart, “có vẻ ” đúng, phải là “”. Vị Thủ Tướng lo lắng hỏi: - Chuyện gì vậy? - Thưa Thủ Tướng, em tôi muốn rằng các hỏa tiễn đó là . thể nghi ngờ được. Ông thở dài: - Chúa ơi! Thế mà tôi hy vọng đây chỉ là chuyện bịa đặt. Được rồi, Dunbar, tôi thành thực cám ơn ông. Tôi ước mong được tiếp chuyện với ông trong những trường hợp vui thú hơn vào ngày gần đây. Tôi hoàn toàn tin tưởng ông. - Tôi xin cám ơn Thủ Tướng. - Còn về vụ kia sao? Có phải mình thể mở cuộc tấn công theo lối bình thường lên đảo? Chúng tôi biết nơi đó, có lẽ ông hiểu. Tôi cố hăng hái: - Thưa Thủ Tướng, đúng vậy. Cả em tôi và tôi đều là cựu sĩ quan Thủy Quân lục chiến. Chúng tôi sao thấy có cách nào tấn công được nơi này – trớ trêu thay chính em tôi phát minh ra loại máy ngăn ngừa. Lính đổ bổ bị tiêu diệt trước khi họ có thể tràn lên bãi biển và tôi tin chắc Thủ Tướng biết chỉ có thể đổ bộ lên bãi biển duy nhất khỏi phải leo núi. Đó là tất cả . Nếu Sir George Vallance chưa trình với Thủ Tướng về vụ hai chiếc thám thính cơ của Hải Quân cất cánh từ hàng mẫu hạm Defiant, xin Thủ Tướng hỏi lại ông ấy. - Tôi biết chuyện đó. Tôi hiểu ý ông muốn gì. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với ông về cách tấn công đảo. Nhân tiện, cho tôi hay phi hành đoàn của hai chiếc phi cơ đó mãi đến hôm nay vẫn có tông tích. Thôi, tôi xin cám ơn ông lần nữa, và chúc ông may mắn. - Tôi rất buồn vì phải báo tin xấu cho Thủ Tướng. - Ông đâu có lỗi gì. Chúng tôi phải lo giải quyết vụ này. Bây giờ tôi cúp máy và trở về với hội nghị. Chào ông. Đường dây tắt ngay. Tiếng của Lambert lại vang lên: - Thưa ông, Lambert đây. Ông Thủ Tướng có vẻ tin lắm rồi. Họ hứa trả lời trong vòng tiếng đồng hồ. Tôi cũng xin trình ông tôi bị câu lưu ở đây. Anson bảo: - Điều đó, tôi nghĩ từ trước. đừng lo. hành rất chu đáo. Có lẽ tôi gặp vào tối ngày mai, nếu tất cả tiến hành theo đúng dự liệu, và tôi thấy có lý do gì khiến cho việc êm xuôi. Tôi bay sang Luân Đôn khi quyết định được loan báo. Tuy nhiên, giờ họ hơi quá kỳ hạn rồi đó. Lambert, hãy thúc đẩy chút xíu . - Thưa ông, vâng. Trong lúc hai người chuyện, tôi cố để ý tìm dịp sơ hở đề phòng, để đánh liều phen. Nhưng chuyện đó bao giờ xảy ra. Anson vẫn chăm chú nhìn chúng tôi trong lúc ông ta chuyện. Tôi biết Matuschek ở ngay ngoài cửa. Dù sao, tôi thể động đậy gì được trong khi đường dây liên lạc vẫn tiếp tục. Masterson ở trong phòng kiểm soát được báo động cách quá dễ dàng Ted khiến cho tôi lo ngại. Ted ngồi trong ghế, nhưng mình chồm tới trước, hai bàn tay tay ghế, cùi tay nâng lên, tựa hồ sắp sửa phóng qua phòng. Tôi lắc đầu với Ted mà Ted vẫn hòa hoãn lại. Monique nhìn sững Anson với đôi mắt đầy ghê sợ. Anson chợt tắt máy vi . Loa phóng thanh trong góc phòng cũng im luôn, tiếng rè rè từ từ biến mất trong lúc Masterson vặn nút tắt máy. Anson, vẫn ngồi ở bàn nước, quay mặt về phía chúng tôi và với tôi: - Cám ơn ông. Công việc tốt đẹp lắm. khác gì chính tôi viết sẵn cho ông xem trước. - phải vậy hay sao? Ông ta hiểu lầm tôi, và bảo: - . tình tôi có dự tính nào sau khi ông từ chối đề nghị của tôi tàu Victoria. Nhưng phải rằng tôi nghĩ ra ý tuyệt diệu khi ông tìm đến đây. Ông có mặc cảm phạm tội hay ? - . Tội của ông, chứ đâu phải của tôi. Tôi chỉ cố tìm cách giảm thiểu tổn thất. - có tổn thất. Đây chính là cái hay đặc biệt của thực kế hoạch. Hoàn toàn đổ giọt máu. Ông ta kết thúc lời bằng nụ cười nửa miệng với vẻ châm biếm. Tôi : - Đó chỉ là vấn đề quan điểm. đổ máu đến sau, nếu ông muốn kể tới Martin Allen và phi hành đoàn của hai chiếc phi cơ ấy. Nhưng bây giờ ông phải thi hành lời hứa. Khi nào ông đưa chúng tôi tới Murra? Ông ta nhìn tôi dường như tôi vừa hỏi xin ông ta dàn hỏa tiễn. - Dunbar, chắc ông thừa biết câu trả lời cho câu hỏi đó. - Tôi làm sao mà biết được? - Thế câu trả lời là… khôngbao giờ. - Rất có thể tôi quá ngây thơ, nhưng tôi vẫn phải nhắc nhở ông về lời hứa của ông. Ông ta mỉm cười. ra, đó hẳn là nụ cười, mà chỉ là cái nhếch mép. - Dunbar, những lời hứa chỉ để cho kẻ ngu dại. Và nếu ông sử dụng trí nhớ phi thường của ông – trí nhớ giúp ông tường thuật mọi cuộc đối thoại cách chính xác cần phải ghi chép – ông nhớ lại tôi hề hứa hẹn gì cả. - Ông… - Phải, tôi thấy ông nhớ lại. Tôi chỉ “lẽ tất nhiên” để trả lời cho lời phát biểu hơi khờ khạo của ông rằng tôi trông thấy ông an toàn đảo Murra. Tôi thích ràng buộc với khế ước chỉ có câu mơ hồ như thế. - Ông cũng là sea lawyer - (Sea lawyer: thủy thủ thích cãi cọ, khích bác những điểm về luật lệ hàng hải, thường dùng những luận điệu sai lầm – c.t.c.d.g.) - trong Hải Quân hay sao? Ông ta cười : - . Tôi là sĩ quan xuất sắc, có ghi trong hồ sơ. Dunbar, chính ông vừa tỏ ra vài đặc tính của sea lawyer, khi ông muốn bàn cãi chuyện thể bàn cãi được. Tính toán là công chuyện của các ông. Cũng có thể dịp nào đó, chúng tôi cho ông – hoặc em ông – và kể lại toàn thể câu chuyện ngày hôm nay diễn biến như thế nào – đặc biệt trong những vùng chúng tôi dự tính thu phục. Tôi nhắc: - Pháp. Rồi Ý. Rồi Đức. - Tuyệt. Ông nhớ kỹ kế hoạch sơ lược của tôi. Trí nhớ phi thường của ông quả xứng đáng với lời đồn. - Còn De Ménard sao? - ấy lại khác. Sau khi ký xong tờ tương thuận, ấy có thể đâu tùy ý. Tôi gặp ấy an toàn ở Pháp, ông cứ tin tôi . ấy khó lòng chuyện bậy bạ, vì biết chuyện gì xảy đến cho vong linh của ông , cũng như xí nghiệp của ông ta. Mặt của Monique trắng như tờ giấy. Nàng đăm đăm nhìn Anson trong lúc ông ta đứng lên khỏi chiếc ghế bên cạnh bàn nước, rồi nhìn tôi cách bất lực. Ông ta gì nữa. Tôi trông thấy cánh tay của Ted cương lên trong lúc Anson đứng dậy. Nhưng Monique đặt bàn tay của nàng lên cánh tay của Ted và Ted ngồi yên. Tôi biết nàng suy nghĩ chuyện gì. Chính tôi cũng nghĩ tới chuyện đó. khi ông ta nắm được tờ tương thuận trong tay rồi, tính mạng của nàng còn ít giá trị hơn gói đậu phụng trong sở thú. Khi phũ phàng này vỡ ra trong đầu óc tôi, tôi hiểu rằng thời cơ đến. Nếu quả có thần giao cách cảm, Monique và Ted chắc cũng hiểu được điều này. Nhưng tôi bao giờ biết Monique quyết định như thế nào. Trong lúc nàng cúi tới trước để đặt bàn tay ngăn cản lên cánh tay của Ted, nàng để cho cùi tay của nàng cọ vào chiếc áo choàng ngắn mà nàng gác qua đầu gối khi nàng ngồi xuống. Thoạt tiên, tôi tưởng đó chỉ là cử động vô tình. Chiếc áo choàng tuột khỏi đầu gối của nàng và rơi xuống nền giữa ghế nàng và ghế của Ted. Ted trông thấy việc đó. Đôi mắt của Ted nhìn sững Anson. Anson khởi bước theo bề dài của căn phòng về phía bàn giấy của ông ta. Mắt ông ta bắt gặp chiếc áo rơi trong lúc ông ta . Ông ta liếc Ted và dừng lại giữa hai chiếc ghế, cúi xuống để nhặt cái áo bằng cách cầm ở cổ. Rồi ông ta nghiêng mình về phía trước để đặt trở lại đầu gối của Monique. Đúng lúc đó Ted hành động. Ted đưa bàn tay phải lên, với lòng bàn tay nằm ngửa, và chặt cạnh bàn tay vào bên cổ của Anson, ngay phía sau tai, bằng sức mạnh mà tôi khó lòng tin Ted có thể điều động trong lúc ngồi. Cú chặt khiến cho Anson choáng váng, vừa đủ thời gian cho Ted chồm lên đầu ông ta. Tôi cũng nhảy lại bởi vì tôi biết rằng Ted cố bóp nghẹt tiếng hét sắp sửa thốt ra. Nhưng cả hai chúng tôi đều chụp kịp Anson để ngăn chặn tiếng rú thất thanh: - Matuschek! Tôi thấy cái miệng hét trước khi tôi thực nghe tiếng hét – cái miệng hấp hối há to, những sợi gân cổ phồng lên, đôi mắt nhắm chặt. Trong lúc nghe tiếng đó, tôi biết ngay quá muộn. Tôi liền để cho Ted xử với Anson, và nhảy trở lại phía cửa mở ra hành lang, đứng núp bên trước khi Matuschek có thể mở ra. Tôi biêt tôi thể giữ y ở ngoài. Như thể chỉ khiến cho khẩu tiểu liên chế tạo tại Nga-sô mau nhả tràng đạn. Trong lúc nhảy, tôi cố giơ tay ra dấu Monique tránh khỏi lằn đạn nếu có nổ súng. Nàng hiểu ngay, rời nhanh khỏi ghế và nằm xuống nền. Tôi trông thấy nàng lăn mình ra phía sau bàn giấy của Anson đúng lúc vai tôi chạm vào tường bên cạnh mép cửa. Cùng lúc đó tôi trông thấy Ted choàng được cánh tay quanh cổ Anson từ sau lưng và bàn tay úp miệng ông ta. Hai con mắt của Anson lồi ra phía cánh tay siết mạnh và hai chân ông ta đá lung tung trong lúc khí trong buồng phổi bắt đầu thiếu. có chút thời gian nào để suy nghĩ. Tôi nghe tiếng bước chân chạy của Matuschek bên ngoài cửa. Trong lúc chờ đợi, tôi cố nhớ lại cách tuyệt vọng những gì tôi thoáng thấy về loại tiểu liên bang rỗng đó. Tôi sao nghĩ ra cách chế ngự nó cho an toàn. Mình có thể ngăn cản khẩu súng lục bắn vào mình nếu mình có gan chụp lấy nòng súng và đừng cho nó xoay về phía mình. Nhưng khẩu tiểu liên hoàn toàn khác hẳn, khác loài mãnh thú. Cánh cửa mở tung ra và Matuschek phạm lỗi lầm cuối cùng của đời y. Y bước vào trong phòng mà chịu xem xét kỹ, mắt dán vào cuộc chiến đấu nền. Y bắt đầu đưa họng súng lên. Nhưng cái cảnh Anson bị bại trận bởi tay Ted khiến y sững sờ lúc. Khi y quay về phía bên trái và chợt trông thấy tôi quá muộn. Cạnh bàn tay xòe ra của tôi chặt mạnh vào yết hầu của y. Tôi cảm thấy xương sụn quả táo Adam của Matuschek dập nát. Y gục cắm xuống như người tắt thở. Tôi chụp lấy nòng súng ngắn và vặn ra khỏi tay của y. Vừa dùng báng súng rỗng đánh vào phía sau đầu y, tôi vừa rủa người vẽ kiểu chế loại báng đặc. Nhưng như thế này cũng đủ. Matuschek ngã tới trước và nằm quằn quại thảm, vì bị nghẹt thở. Tôi đá cánh cửa đóng lại và xoay ổ khóa. Trận chiến tới màn kết thúc. Ted dộng đầu Anson vào góc bàn. Anson ngã xuống và nằm im. Tôi liền ra phía sau bàn viết và kéo Monique đứng dậy. Mặt nàng tái mét và thân hình run lẩy bẩy nhưng nàng mỉm cười với tôi. Tôi trở lại Matuschek và cúi xuống xem lại cho chắc chắn. Y dẫy chết. còn cách gì có thể cứu được y dù tôi muốn giúp nữa. Tôi quỳ gối bên cạnh y và nhìn vào khuôn mặt đen xạm của y. Y ngước mắt nhìn lại tôi với vẻ oán hận của con lon - (Weasel: con lon, giống vật mình thon dài, chân ngắn, đuôi dài, và rậm lông, thường bắt chim, chuột để sinh sống – c.t.c.d.g.) - trong cái bẫy. Có lẽ nửa phút sau y mới chết. Tôi nhìn cảnh y chết, nhớ lại ánh mắt của Martin Allen, lưỡi dao cắm sau lưng ông ta và máu trào trong phổi. Chết vì thở được phải là lối dễ dàng. Tôi trở lại chỗ Ted đứng nhìn xuống Anson và xoa cánh tay. Tôi bảo: - Chú giỏi lắm. Ông ta chết rồi? - . Ông ta vẫn còn thở. Chỉ bất tỉnh. Còn tên kia sao? - Y chết. Tôi cúi xuống và bắt mạch Anson. Mạch nhảy yếu và đều, nhưng vẫn còn. Tôi tiếp: - Ít nhất ông ta cũng còn mê man mười lăm phút. Chú hãy giúp tôi tay đặt ông ta lên ghế. Phía sau bàn giấy. Ted nắm hai chân Anson, còn tôi nắm hai cánh tay. Chúng tôi đưa ông ta tới chiếc ghế trông đồ sộ như cái ngai và đặt ông ta ngồi vào trong đó. Tôi điều chỉnh lò xo ở phía dưới để cho thân hình ông ta ưỡn ra sau cách tự nhiên. Tôi rút sợi dây nịt ra khỏi thắt lưng. Ted đoán biết tôi định làm gì và đưa luôn sợi dây nịt của mình cho tôi. Chúng tôi kê hai cánh tay của Anson lên tay ghế và buộc hai sợi dây nịt quanh hai cườm tay ông ta, cố hết sức kéo cho chặt và đục lỗ nịt mới bằng mũi kéo nhọn mà tôi tìm thấy ở bàn viết. Ted hỏi: - Còn hai chân? Tôi vừa hất đầu về phía xác chết ở gần cửa vừa bảo: - Chú hãy lấy sợi dây nịt của Matuschek. Ted liền mang sợi dây lại. Chúng tôi cùng cột cả hai mắt cá ông ta vào cái chân duy nhất của chiếc ghế xoay, uốn chân ông ta hết sức về phía sau cho chắc. Khi ông ta hồi tỉnh, hẳn ông ta rất đau đớn. Tôi nhét chiếc khăn tay của tôi vào trong miệng ông ta, và Ted cũng đưa khăn của Ted cho tôi buộc cứng miệng ông ta lại. Đoạn tôi với Ted: - Đưa khẩu súng đó cho tôi. Trong lúc tôi cầm nó trong tay, Monique từ phía sau tới và choàng cánh tay quanh lưng tôi. Nàng đặt bàn tay che kín họng súng và chăm chú nhìn tôi, vẻ kinh hãi mặt. Tôi trấn an nàng: - định bắn chết ông ta đâu. muốn để dành ông ta cho chuyện tàn tệ hơn thế. Vả lại, nếu nổ súng, nhiều tên khác chạy đến đây và mình khó lòng chống cự nổi. Rồi tôi sực nhớ, liền hỏi: - Em ký tờ tương thuận chưa? - Chưa. Em bảo em ký tối nay, sau vụ này. - Tốt, thế mình khỏi phải mất công tìm kiếm. Ted, còn việc cần phải làm trước khi mình tìm cách ra khỏi đây. Bộ máy vô hiệu hóa. Ted : - Phải. Em phải nghĩ xem em có thể làm gì được bây giờ. Còn tên gác thang máy? - Tôi ra ngoài đó cùng với chú. Monique, em cố thử tìm trong các hộc bàn trong lúc bọn , để xem thử có thể tìm ra vài thứ khí giới nào nữa hay . Nhất là cây đèn bấm. Nàng dặn dò: - Stuart, nhớ hết sức cẩn thận nghe . - nhớ. Ngoài hành lang có bóng dáng người nào. Gian đại sảnh cũng vậy trong lúc chúng tôi bước ngang qua cách thận trọng. Tôi thoáng nghe những tiếng động mơ hồ từ nhà bếp về phía bên kia đại sảnh, nhưng ràng tối nay ban chuyên viên vẫn phải tiếp tục làm việc và ăn cơm ở ngay chỗ làm. Cửa thang máy đóng kín. Tôi bấm nút lên và nghe tiếng buồng thang rần rần chạy lên tầng chúng tôi. Tôi đứng ngay trước cửa. Ted tựa sát vai vào bức tường bên cạnh cửa. Công việc là dễ. Tên gác thò đầu ra và đưa mũi súng lên chỉ vào tôi. Cạnh bàn tay của Ted chặt vào đúng cổ họng của y. Tôi dùng báng súng đập lên đầu y. Chúng tôi kéo lê y trở về phòng của Anson và trói chặt y bằng sợi dây lưng của Anson, bật ngửa người y gần gãy đôi về phía sau để có thể cột cườm tay của y vào cườm chân. Lúc này thể êm dịu được nữa. Ted ra ngoài và đóng cửa lại. Tôi nhìn Monique. Nàng có vẻ trầm tĩnh, cầm trong tay khẩu súng lục 38 cụt ngủn, xấu xí. Nàng bảo: - Em tìm thấy trong hộc bàn. Nhưng có đèn bấm. - Em biết cách sử dụng chứ? Nàng mỉm cười với tôi: - Biết. Ở nhà Jacques vẫn thường dẫn em ra sân tập bắn. Em bắn súng lục đến nỗi tệ lắm. Nhưng này Stuart, mình thể bỏ mấy tên này ở đây được. Bọn chúng phát giác trước khi mình chạy thoát. Tôi : - Chỉ còn hai tiếng đồng hồ nữa là tới giờ hẹn bãi biển Lunna. Có lẽ lâu hơn chút. Và thể giết thêm tên nào trong bọn chúng được nữa. - Bọn chúng có thể giết . Cả Ted. Và em nữa. Tôi tiếp: - Và Edenburg. Màng tai của tôi bỗng chấn động vì tiếng lớn vang lên từ phía sau lưng tôi. Tôi nhảy nhổm người lên. Monique kinh hoàng nắm lấy cánh tay tôi. Tôi xoay người và nhìn vào mặt Anson. Đôi mắt ông ta vẫn còn nhắm. Rôi tôi hiểu tiếng vang lên từ máy nội đàm đặt bàn viết. Tôi liên bước quanh bàn và bật nút xuống, hỏi vào máy: - Cái gì đó? Tôi bằng giọng cao hơn bình thường, hy vọng chuyển qua máy khác Anson bao nhiêu. Quả nhiên, tôi thành công. Gã trong máy trình: - Thưa ông, có người ở tháp và bảo rằng ông muốn nhờ ông ta xem lại máy vô hiệu hóa. Tên ông ấy là… Tiếng chợt ngừng lại nửa chừng. Tôi nghe tiếng thịch. Giọng Ted vang lên ngay trong máy phóng thanh: - Cảm ơn Stuart. Em xuống ngay. Tôi quay trở về với Monique. - Cứ để cho bọn chúng sống. Mình khóa cửa phòng lại lúc . Chắc mấy giờ sau mới có người dám quấy rầy Anson. chừng sáng mai, nếu mình may mắn. Ted lao vào phòng như luồng gió. - Xong rồi. Em liệng tất cả bộ máy xuống biển bên hông lâu đài. - Chú làm gì tên gác? - khỏi lo. Y thể gây rắc rối cho mình. Em cũng liệng khẩu tiểu liên của y xuống biển. Đó là khẩu súng hạng trung bình của Hoa Kỳ cỡ năm mươi - (.50 = 0.50 inch= 12.7 ly). Tôi nghĩ tới chiều cao gần hai trăm thước từ đỉnh lâu đài xuống tới biển. Rồi tôi cố nghĩ đến chuyện đó nữa. Tôi bảo: - Thôi, mình hãy . Ted : - Em ghé vào tầng cư xá và lấy hai sợi dây nịt cho mình. Tiếc rằng em thể lấy hết hành lý. Tôi lo ngại cho Ted hay: - Mình cần ngọn đèn bấm. Trong văn phòng của Anson, có cây nào. Ted đáp: - Chiếc Land Rover đậu ở trước cửa. Em trông thấy từ đỉnh tháp. Có lẽ trong xe có đèn bấm. Mình nên ngay. Tôi giựt đứt dây điện thoại nền dưới chân Anson. Ted cũng giựt đứt dây máy vi . Tôi đưa mắt nhìn qua lần cuối xác của Matuschek cùng Anson và tên gác mê man bất tỉnh. Cả hai vẫn còn im lìm. Tên gác chết vì Ted đánh y mạnh như tôi đánh Matuschek. Lúc ra, tôi bật chốt tự động của khóa cửa, thầm cám ơn loại ổ khóa tối tân, giống loại cổ điển phải dùng chìa khóa như ở tầng cư xá. Rồi tôi tắt tất cả đèn và kéo cánh cửa đóng lại. Chương 10 Lối vào ở đáy buồng thang máy, trước kia là chân cầu thang, lúc này trống vắng và tối đen. Ánh sáng ở mặt tiền phía ngoài chỉ lờ mờ soi bên trong cửa. Chúng tôi có thể trông thấy chiếc Land Rover đậu khoảng đường cách cửa độ mười thước. Ted bảo: - Rất có thể có người gác bên ngoài. Phải hết sức cẩn thận. Tôi thận trọng nhìn qua mép cửa. - Tôi trông thấy gì lạ. Có lẽ có ai canh gác. Mình đành phải liều lĩnh thử xem. Chú và Monique cứ tạm ở đây. Hãy dùng tiểu liên để che chở tôi. Tôi bước đại ra xe. Nếu có gì xẩy ra, chú và Monique hãy chạy ra theo tôi. Monique nắm chặt cánh tay của tôi với cả hai bàn tay của nàng trong lát rồi thả ra. Tôi từ từ bước ra giữa vùng ánh đèn sáng, gần như phải đếm nhịp chậm trong đầu để giữ cho đôi chân đừng chạy. Tôi có cảm tường như mình là con ruồi bò bức tường trắng rộng. Tôi vừa được năm bước trong ánh sáng tôi bỗng nghe tiếng nổ lớn vang lên từ phía . Tôi liền ngước nhìn lên, nhưng bị chói mắt nên thể trông thấy gì. Tôi lại nghe tiếng nổ khác sắc và ngắn hơn. Tôi chạy tới chiếc Land Rover và trong lúc chạy tôi nhận thấy đó phải là tiếng đạn cỡ 50 mà là cỡ hơn. Tôi núp vào phía sau chiếc xe và nhìn lui vừa đúng lúc để trông thấy bóng người té qua lan can và rơi xuống đất làm vang lên tiếng bịch. Rồi tôi trông thấy Ted đứng cách cửa độ vài ba thước, với khẩu tiểu liên tay, nhìn sững xác chết. Sau đó Ted bước tới gần, dùng chân đá cái xác. Đoạn Ted ra dấu cho Monique ngồi vào ghế trước và trèo vào phía sau trong lúc tôi ngồi vào ghế tài xế. Ted hối thúc: - Chúa ơi! Hỏng bét cả rồi. Như thế cũng đủ đánh thức tất cả mọi người trong tòa lâu đài dậy. Mình hãy rời khỏi đây ngay lập tức. Tôi nhìn lui tòa lâu đài trong lúc cho máy nổ. Mọi khung cửa sổ đều tối đen. Tôi gần như cầu nguyện cho đừng có ai nghe vụ bắn súng vừa qua. Chiếc đồng hồ đeo tay của tôi cho biết lúc này mười giờ rưỡi. Còn giờ rưỡi nữa để lái xe chạy tới bãi biển Lunna, cách đây khoảng mười ba cây số. khoảng thời gian quá thừa thãi, dù chúng tôi gặp chuyện trở ngại. Ý tôi chỉ muốn rời khỏi nơi này đúng giờ hẹn. Nhưng quả tôi thể sắp xếp thời khắc biểu đúng theo ý mình được. Tôi đặc biệt lưu tâm tới đoạn đường chạy qua Bragawick gần bến tàu và các ụ tàu đậu. Tôi biết có nhiều người canh gác ở đó. Tôi căn cứ của bọn lính gác đặt tại đâu, nhưng theo quang cảnh tôi được trông thấy từ xa, tôi đoán bọn chúng ở trong các trại dọc theo phi trường. Tôi bảo: - Mình . Tôi lái chiếc Land Rover vọt ra khỏi cổng và phóng vào con đường dốc chạy qua căn cứ hỏa tiễn xuống làng Bragawick và bãi biển về phía dưới. Tất cả chúng tôi đều im lặng. Tôi cũng muốn như thế bởi vì tôi cố tìm lại trong ký ức con đường tắt có thể đưa chúng tôi đến thẳng bãi biển cần phải chạy qua khu vực bến tàu là nơi tôi đoán chắc gặp bọn lính gác. Nhưng im lặng kéo dài. Ted nghiêng mình tới trước trong lúc chúng tôi về phía Nam và kê đầu giữa Monique và tôi lưng ghé trước, tựa cắm hai cánh tay gác chéo với nhau. Tôi có thể trông thấy mặt kiếng bảng điều khiển phản chiếu lại chiếc đầu khá lớn của Ted. Ted chợt : - Stuart, chắc đồng ý, nhưng em muốn thả cho em xuống ở ngã ba có con đường rẽ vào căn cứ hỏa tiễn. Trong lúc phá bộ máy vô hiệu hóa, em nảy ra ý nghĩ. Em tin tưởng có thể biết cách phá hủy các dàn hỏa tiễn đó. Tôi đáp: - Chú đúng. Tôi đồng ý. Chú chỉ làm việc vô ích. - Em biết chịu. Nhưng dù sao em vẫn làm theo ý của em. Nếu ngừng xe để cho em xuống theo kiểu văn minh, em nhảy xuống trong lúc xe chạy. Như thế em có thể gãy hoặc cả hai chân, và lúc bấy giờ lãnh đủ. Tốt hơn hết nên để cho em hành theo lối văn minh. - Chú loạn trí rồi. Tôi cấm… - Cho em xin , Đại tá, chớ làm tàng nữa. Em đâu còn ở trong loại quân nhân trừ bị. Tôi hầm hừ: - Bây giờ chú lại hăm dọa tôi. Chú tính sao với bọn lính gác? - Khi tìm đến chúng tất nhiên phải gặp chúng. Stuart, em đùa đâu. Đây là dịp may độc nhất vô nhị để cho em có thể sửa chữa lỗi lầm em phạm. Em quả quyết với an hem có thể chế ngự được những hỏa tiễn đó. - Chú hãy cho tôi biết chú làm cách nào? - Nếu em có nửa tiếng đồng hồ và cái bảng đen, em vẽ cho xem họa đồ điện. Nhưng dù vậy nhất định cũng hiểu ất giáp gì. Stuart, nên tin lời em. Em nhớ lại điều Kalwitz kể cho em nghe về cái tủ điện. Em có thể thay đổi chút trong hệ thống làm cho hỏa tiễn tự động phóng lên cần bấm nút điều khiển. Đây là dịp may hiếm có. Kìa, Stuart! Con đường rẽ vào căn cứ sắp sửa tới rồi. Ted với vẻ khẩn trương dữ dội, dường như rít vào tai tôi. Bàn chân của tôi tự nhiên nhấc lên khỏi cần ga. Chiếc Land Rover khựng ngay lại. - Chú ở đây bao lâu? - lâu lắm. Có lẽ độ nửa giờ. Em để cho ai trông thấy dấu đâu. Phải làm sao cho trong tủ điện có vẻ gì khác lạ. - Theo ý tôi khỏi cần làm gì nữa. Chú phá hỏng máy vô hiệu hóa. Bây giờ người của mình có thể tấn công đảo này. - Và rất có thể làm cho các hỏa tiễn tự động phóng lên? Vả lại, trong lúc mình trở về Murra, bọn chúng có thể đặt những máy vô hiệu hóa khác. Thôi… hãy dừng xe lại, hay là để cho em nhảy? Tôi liền dừng chiếc Land Rover ở lối rẽ vào căn cứ hỏa tiễn. Tôi có thể trông thấy ánh đèn tỏa lên từ căn cứ chỉ cách xe chưa đầy cây số. Ted đặt bàn tay lên vai tôi và : - Stuart. Chắc hiểu em phải làm cái gì chứ? Gần như tất cả thảm họa này là lỗi lầm của em. Em ra bãi biển đúng giờ hẹn. Trong căn cứ có chiếc xe jeep. Và em vẫn còn chưa quên những phương pháp quân đội dạy em để tránh bọn lính tuần. - Đó là trong bóng tối. Còn nơi này sáng rực ánh đèn. - đừng lo ngại, em thành công mà. Em tìm cách làm chuyển hướng bọn lính gác. - Chúc chú may mắn. Và làm cho nhanh. Monique quay đầu lại và hôn lên má Ted. Ted mỉm cười với nàng. - Monique, hãy thận trọng. Tôi hỏi: - Chú còn nhớ dấu hiệu chứ? Phòng lúc chú đến trễ. - OUI. O, U và I. Tè tè tè – tích tích tè – tích tích. Ted siết vai tôi và vai Monique rồi biến vào đêm tối, sau khi đóng mạnh cửa xe lại. Tôi ngồi nhìn theo Ted hồi lâu, cố nghĩ xem có điều gì được ổn, như viên đại úy thể tổng hợp các lý do chứng tỏ rằng hay nhất là đừng hành quân. Đa số vì sợ bị nghĩ là hoảng sợ. Monique chợt đặt bàn tay của nàng lên cánh tay của tôi. Nàng vừa nhìn trở lại con đường phía sau vừa : - Stuart, có ánh đèn pha từ lâu đài chạy xuống về ngả này. Tôi liền nhìn lui và trông thấy ánh đèn đảo qua đảo lại phía cao. Hai ánh đèn sát nhau, như hai ngọn đèn pha của chiếc xe Jeep. Tôi gài số chiếc Land Rover và tiếp tục chạy, hy vọng ánh đèn kia có nghĩa là Anson được phát giác. Nhưng điều đó cũng có thể lắm. Trước mặt lâu đài chắc phải có người canh gác. Đáng lẽ chúng tôi phải xô Anson xuống biển. Tôi phóng hết tốc lực về phía Bragawick. Trong lúc chúng tôi chạy xe vào khu vực phía của làng Bragawick, ánh đèn pha di động qua khỏi con đường dẫn vào căn cứ hỏa tiễn và bắt đầu rọi vào ngay sau lưng chúng tôi. Monique hỏi bằng giọng đầy lo lắng: - Chắc bọn chúng phát giác? - hy vọng phải vậy. Nhưng dù sao chiếc xe đó cũng sắp sửa theo kịp mình. Theo ý , mình nên quẹo vào nơi nào đó để núp. Vả lại, mình cũng cần ra bãi biển quá sớm. Nhưng tôi quá trễ. Chiếc xe Jeep bắt kịp chúng tôi trong lúc chúng tôi sửa soạn quẹo phải để chạy vào con đường hẹp ở đầu làng. Nó qua mặt chúng tôi và chặn đầu chiếc Land Rover, ngừng ở ngay giữa đường, hai bánh sau tung lên hai luồng sỏi. Tôi bảo Monique: - Em hãy cúi sát xuống sàn xe. Tôi bước xuống khỏi ghế tài xế và đứng bên cạnh xe, khẩu 38 (2) nằm sẵn trong bàn tay phía sau chân phải của tôi. Tôi muốn quá gần bến tàu như thế này. bóng đen nhảy ra khỏi chiếc xe Jeep và trở về phía tôi. Đó là gã tôi chưa hề gặp. Y mang khẩu súng lục ở bên hông bộ đồng phục màu xám. Tôi có thể trông thấy phù hiệu “O” của tổ chức ở bên trái ngực của y. Quả là điểm nhắm quá tốt, tôi thầm nghĩ. Y lên tiếng hỏi lúc bước ra khỏi ánh đèn pha: - Xe ai đó?
Tôi đáp ngay: - Xe của đại úy Anson. Y tiến đến gần và nhìn vào mặt tôi: - Ông là ai? - người bạn của đại úy Anson. - Ông là gì mình ở đây? - Đem xe xuống bến tàu cho đại úy Anson. Y liếc nhìn tôi cách nghi ngờ, mắt y lúc này quen dần với bóng tối. - Đại úy Anson ở dưới bến tàu hay sao? - Phải. - Tôi biết mặt ông. Ông hãy lên xe và theo tôi xuống bến tàu. Tôi tìm đại úy Anson. Cửa phòng của ông ấy ở lâu đài khóa chặt và đó có ai khác. Ông theo tôi mau lên. Y lầm to khi tưởng rằng tôi vâng lệnh. Lúc y vừa quay gót tôi liền đưa nòng súng nắm trong tay lên và đánh mạnh báng xuống đầu. Y té quỵ xuống như con bò trong lò sát sinh. Tôi thò đầu vào trong chiếc Land Rover và lên tiếng gọi Monique. Nàng liền trèo lên ghế ngồi như cũ và khẽ hỏi: - Xong rồi? - hoàn toàn xong. bị kẹt. Em có thể lái chiếc xe này? - Có lẽ được. - phải trở bạn này chiếc xe Jeep vào đây. Tôi phải vất vả hồi mới đưa được cái xác vô tri giác vào phía sau của chiếc xe Jeep và lấy tấm vải dầu đậy kín y lại. Rồi tôi leo lên chiếc xe Jeep. Chúng tôi cùng lái xe chạy vào vùng vắng vẻ của Bragawick về phía tây bắc, cách xa con đường cái băng qua làng. Những con đường ở nơi này đầy những ổ gà qua nhiều mùa đông được tu bổ. Chiếc xe Jeep nhảy lên nhảy xuống ngừng, vì sao tránh hết những ổ gà, nhưng Monique vẫn lái chiếc Land Rover chạy theo bén gót. Công việc này rất khó vì tôi tắt đèn pha, chỉ bật đèn lái, và Monique phải nhắm chừng về phía tôi mà chạy tới. Tôi sao trông thấy những ổ gà hoặc những vũng nước mưa mãi cho đến khi bánh xe lăn lên. Nàng chạy theo sau tôi, lại càng khó trông thấy hơn nữa. Mấy phút sau chúng tôi ra khỏi làng và chạy vào con đường tương đối khá hơn, về phía tây bắc, gần như chạy thẳng trở về phía căn cứ hỏa tiễn. Đây phải là con đường tôi muốn . Nhưng tôi tìm chỗ nấp tạm thời và chống cự cách dữ dội với cái linh cảm nên ra bãi biển ngay dù quá sớm. Chúng tôi còn hơn tiếng đồng hồ nữa mới tới giờ hẹn. Tôi đành phải liều lĩnh hy vọng rằng cuộc săn đuổi mở màn trước mười hai giờ khuya. Cách xa gần cây số, tôi bỗng trông thấy khối đen ở bên trái con đường. Tôi vội vàng giảm tốc độ và chăm chú nhìn vào khối đen. Trông nó như trang trại với căn nhà phụ khá lớn ở phía sau, có lẽ là kho chứa đồ. Trong lúc tôi nhìn, chúng tôi cùng tới lối dơ bẩn dẫn về phía những khối đen. Tôi liền quẹo vào đó. Nơi đây tệ hơn con đường chúng tôi vừa tách khỏi. Nhưng tôi thấy an toàn hơn. Các rãnh nước mưa và các tảng đá cho tôi biết chắc ngôi nhà bị bỏ hoang. Tôi lái xe qua khỏi ngôi nhà chạy ra tới kho chứa ở phía sau. Monique theo sát tôi và nhảy ra khỏi chiếc Land Rover. Nàng chạy lại gần tôi. Tôi bảo: - Em hãy đợi ở đây chút. đoạn tôi bước tới cửa kho. Cửa đóng bít kín lối vào, nhưng có khóa. Tôi vừa xô cánh cửa để mở ra bản lề bị rỉ gãy lìa và cả cánh cửa ngã xuống mặt đất làm cho bụi tung lên như đám sa mù. Tôi lái chiếc xe Jeep qua khung cửa đen ngòm của kho chứa, chạy vào trong xa để đủ cho chiếc Land Rover nối đuôi. Monique lái vào theo. Trước khi trở ra với nàng, tôi lôi gã đàn ông bất tỉnh ra khỏi ghế sau của chiếc Jeep và cuốn y lại trong tấm vải dầu có đủ cả bút và dây nịt. Tôi cuốn y lại chặt và thắt dây nịt quanh mình y ở tay và chân. Điều cuối cùng tôi phải làm là sờ tay tìm đúng đầu của y và tặng thêm phát báng súng cho chắc ăn. Monique chờ tôi bên cạnh chiếc Land Rover. Nàng phóng mình vào trong vòng tay của tôi. Chúng tôi đứng ôm nhau như thế suốt mấy phút, gì. Toàn thân nàng run rẩy. Tôi vào tóc nàng: - Xong cả rồi. Mình hành đúng mức. - Theo sát chương trình. Giọng nàng vẫn còn run, nhưng nàng cất được tiếng cười. Tôi trấn an nàng: - Việc xảy ra đến đâu, giải quyết đến đấy, em cứ tin . Nếu muốn, em chỉ cần cầu nguyện thêm cho mình. Bây giờ mình hãy tìm cây đèn bấm. Tim tôi như trực nhảy ra khỏi cổ họng trong lúc tôi mò mẫm trong hộc đựng găng tay của chiếc Land Rover. Trong đời tôi, chưa bao giờ tôi cảm thấy khoan khoái bằng khi tôi sờ được cái vật tròn dài và trơn láng đó. Cây đèn bấm khá nặng nhưng có móc để có thể đeo vào thắt lưng. Tôi úp bàn tay lên mặt kiếng và thử bấm nút. Đèn cháy. Những đốt xương bàn tay của tôi ra lờ mờ đen bên cạnh mầu hồng của thịt. Mùi súc vật trong kho chứa chỉ còn thoang thoảng, gần như mất hẳn. Nền kho đầy đá sỏi và bụi bặm. Chúng tôi bước ra ngoài và đứng nhìn về phía đông nam. Mưa tạnh nhưng tôi đạt được ước vọng về sa mù. Nó tan biến. Bầu trời trở nên quang đãng và đầy sao sáng. Tôi lại còn có thể trông thấy ánh sáng lờ mờ của bến tàu Bragawick, nơi chiếc tàu hàng vẫn tiếp tục xuống hàng trong đêm. Về phía tây bắc, cách xa quá bốn trăm thước tôi có thể trông thấy ánh đèn của căn cứ hỏa tiễn. Trong lúc chúng tôi nhìn, chúng tôi bỗng nghe tiếng súng nổ. Monique bước tới sát bên tôi và tôi choàng cánh tay quanh vai nàng. có tiếng gì khác lạ tiếp theo tiếng súng, ngoại trừ vang của tiếng nổ. Tôi kề môi sát tai Monique: - Em có ngán , nếu bỏ em đứng đây mình trong vài phút? Nàng đáp: - Em đâu có ở đây mình. Còn có gã nằm trong tấm vải dầu. - Em hãy chờ trong kho chứa và giữ cây đèn bấm. Đây là khẩu súng lục. Em đừng nên ngại dùng nếu có ai tới. huýt gió làm hiệu khi trở lại. Em có biết bài “Auprès de ma blonde ”?(3) Nàng vờ làm mặt giận. - muốn chọc quê em phải ? - trở lại trong vòng nửa giờ. Nàng hôn nhanh tôi và băng ngang cánh đồng giốc lên giờ chỉ có lớp cỏ thấp thỉnh thoảng mới mọc bụi kim tước. Công việc leo giốc quả khó khăn. Khắp cánh đồng rải rác những tảng đá chênh vênh. Tôi dám di chuyển nhanh vì sợ té xuống những hố khô và gãy chân. Cuối cùng tôi đến hàng rào bao quanh căn cứ hỏa tiễn trước khi biết mình tới nơi. Giữ cách xa hàng rào lối vài thước, tôi khởi vòng về phía trái. Mới được hơn mươi bước tôi bỗng vấp phải vật mềm. Đó là xác người với khẩu tiểu liên nằm bên cạnh. Tôi xoay ngửa cái xác trong lúc tim đập thình thịch. phải Ted. Đó là tên lính gác mặc đồng phục xám, bị bắn ngay khoảng giữa hai mắt. Tôi nghĩ chắc đây là phát súng duy nhất mà tôi vừa nghe ban nãy. Ted vẫn có biệt tài bắn súng rất chính xác, thường chỉ cần viên là trúng đích. Tôi liền nhặt khẩu súng lên và đeo vai. Trong băng đầy những đạn. Tôi thận trọng di chuyển sát góc ngôi nhà được dùng làm đài kiểm soát, đầu tiên nằm sát mặt đất để dò xét động tĩnh. Tôi có thể trông thấy chiếc xe Jeep đậu ở trước cửa nhưng có tên lính tuần. Tôi chỉ bắt gặp y sau khi bò qua khỏi góc tường y nằm chết. Nhìn cái đầu y bị vẹo sang bên, tôi đoán y bị gãy cổ do người tấn công từ phía sau lưng. Tôi đứng dậy và nhìn qua khung cửa mở. Ted lom khom trước tủ điện. Tôi huýt gió đoạn đầu của bài “Scotland the Brave”(4). Ted quay nhanh người lại và chụp lấy khẩu tiểu liên nằm bên cạnh. Trông thấy tôi Ted nhe răng cười và hỏi: - làm quái gì ở đây? Tôi bảo: - Kiểm soát công việc của chú. Tới đâu rồi? - Còn mười dàn nữa. Em phá được hai dàn ở phía này. Bây giờ các đầu đạn thể nổ được. Nhưng em phải bỏ laij vài phần vì làm kịp. nên trốn khỏi đây mau lên. - Tôi ở lại để phụ giúp chú. - Cho em can . kheo lại làm cho hỏa tiễn tự động phóng lên. Monique đâu rồi? Tôi liền kể cho Ted nghe. Ted lại : - Em rất mừng vì được gặp . Em vừa tìm được cái này hay lắm. Ted qua phòng giấy và trở lại với hai cái hộp da có quai để mang lên vai. Mỗi hộp chỉ như gói thuốc lá. Ted kéo cây an ten ra khỏi mỗi hộp và bảo: - Đây là loại máy truyền tin nhất mà em chưa từng thấy. Lẽ tất nhiên chế tạo tại Nhật Bản. Có cả thảy năm băng tần. hãy lấy theo máy và mình liên lạc với nhau trong lúc em cố gắng hoàn tất công việc ở đây. Ted vặn cho hai máy có băng tần giống nhau, rồi bấm nút vi của máy và thổi vào đó. Tôi có thể nghe hơi thở của Ted máy kia. Ted tiếp: - Máy có thể xử dụng cách xa nhau mười dặm(5) theo đường chim bay. Cứ lát em lại thử với . - Chú cố làm cho nhanh. Đồng hồ chú chỉ mấy giờ rồi. - Mười giờ năm. Đồng hồ tôi cũng vậy. Ted quay trở về tủ điện thứ ba lúc tôi vừa bước ra tới ngưỡng cửa. Tôi trở về phía nam, băng qua cánh đồng cỏ, bị trầy đầu gối vì đụng phải tảng đá lớn nằm dưới cái hố mà tôi té xuống. Chú thích: 1/ Đường kính đầu đạn thường được tính bằng đơn vị : đạn 50 tức là 0.50 inch tức 12,7 ly (c.t.c.d.g.) 2/ 38 tức 0,38 inch: loại súng có khẩu kính (đường kính của nòng súng) 9,65 ly. 3/ Tiếng Pháp, có nghĩa “Bên cạnh tóc vàng của tôi”. 4/ Tiếng , có nghĩa “Tô-cách-lan dũng”. 5/ 10 dặm = 16 cây số. Chương 11 Tôi gần như quên huýt gió lúc về tới nhà kho. Tiếng lên đạn khẩu súng của Monique làm tôi giật mình dừng bước ở ngay ngoài cửa. Tuy miệng khô ran, tôi vẫn phải cố gắng huýt gió môt vài điệu của bài “Auprès de ma blonde”. Chòm ánh sáng của ngọn đèn pin chiếu thẳng vào mặt tôi chưa đầy giây đồng hồ rồi tắt ngay trong lúc Monique chạy đến gần tôi. Khẩu súng lúc nặng nề trong túi áo choàng của nàng chạm vào mình tôi khi nàng vòng hai cánh tay quanh cổ tôi. Nàng vừa thở vừa bảo: - Suýt nữa bị em bắn rồi. Stuart, theo ý em mình nên ngay. Ngoài phi trường có nhiều chuyện náo động. Tôi nhìn theo lời nàng chỉ. Con đường gần nhất thuộc khu vực phi trường chỉ cách chúng tôi độ cây số rưỡi về phía dưới. Tôi có thể trông thấy vài luồng ánh sáng mạnh bùng lên ở bên này con đường. Nhiều ánh đèn pha di động dọc theo hai bên mép đường. Tôi có thể trông có dấu hiệu nào chứng tỏ có chiếc máy bay chuẩn bị cất cánh. Rồi tôi bỗng có ý nghĩ những ngọn đèn pha ngừng rải rác bên cạnh phi đạo chính là những chiếc xe vận tải đưa bọn lính gác đến máy bay. Tôi đoán biết ngay thể. Hoặc bọn chúng biết chúng tôi còn ở trong lâu đài, hoặc chúng phát giác Anson cùng tên lính bị thương. Trường hợp nào cũng nguy ngập. Chúng tôi khiến cho chúng mau đoán biết vì giết mất tên gác ngoài lan can. Monique ngồi sát vào mình tôi trong lúc chúng tôi từ từ lái xe con đường gồ ghề vào làng Bragawick. Trước khi vào đến trung tâm tôi biết đành phải mạo hiểm bật đèn pha. Ngay lúc vừa bật đèn lên tôi chợt để ý thấy con đường rẽ về phía tay phải. Tôi liền quẹo vào đó, lòng tràn trề hy vọng nó nối tiếp con đường chạy ra bờ biển khỏi phải băng ngang Bragawick và gần bến tàu. Nhìn về phía trước, tôi có thể trông thấy con đường này chạy sát mé đông của phi trường. Nhưng ở đây thấy bóng dáng chiếc phi cơ nào và cũng có lính gác. Trong lúc im lặng lái xe, tôi cố gắng nghĩ ra cách gây xáo trộn để khiến cho bọn chúng hướng mọi chú ý cách xa căn cứ hỏa tiễn. Tôi cũng muốn cho chúng lưu tâm khu vực bãi biển. Tính toán thời gian là vấn đề sinh tử. Lẽ tất nhiên tôi dại gì công khai gây rối trừ phi biết chắc rằng cuộc tẩu thoát của chúng tôi bị phát giác. Đoạn đường chạy dọc theo bãi biển dài lắm. Nó vòng quanh vịnh Gentry rồi chạy xuống bãi biển tôi cần đến. Với mười cây số từ phía Bragawick tới mé bắc của bãi biển ở eo bể Lunna chỉ cần thời gian hơn mười lăm phút là cùng. Còn bốn mươi phút nữa mới đến giờ hẹn của tiềm thủy đỉnh trừ phi tàu tới sớm. Tôi biết thể hy vọng được chuyện đó. Trong lúc con đường chạy vòng quanh trở về phía tây nam qua khỏi điểm đối diện với đảo Lunna, có con đường rẽ khá thẳng quẹo về ngả tay phải. Đó là đường chạy trở về phi trường và trại lính. Monique đập vào cánh tay tôi và chỉ về phía bên mặt khi chúng tôi qua ngã ba. - Có ánh đèn pha chạy tới phía này. Tôi liếc nhanh rồi nhìn trở lại con đường mình chạy. Bốn cặp đèn pha quẹo ra khỏi khu vực trại lính. Tất cả đều lớn hơn loại đèn của chiếc Land Rover. Tôi đoán có lẽ đó là bốn chiếc xe vận tải chở đầy những binh lính. Bây giờ tôi tin chắc rằng bọn chúng biết chúng tôi bị mất tích và đoán đúng ánh đèn xe của chúng tôi. Cuộc truy nã chúng tôi khởi . Bây giờ tới lúc cần gây rối. Tôi biết rất có thể bọn chúng tìm được nơi chúng tôi lẩn trốn, nhưng dù sao cũng phải hành động. Điều cốt yếu là lôi chú ý của chúng ra xa chúng tôi càng nhiều càng tốt. Tôi lạng xe vào lề đường và quay sang Monique. - cố gắng làm cho bọn chúng tưởng rằng mình quay trở lại Bragawick và bến tàu. muốn em hãy rời khỏi xe và tìm chỗ núp trong khe đá ngoài bãi biển. với , để chỉ cho. Tôi chạy với nàng lên đỉnh bờ đá lởm chởm cách đường chừng hai chục thước. Tôi tìm được khe hở chạy dài từ đỉnh xuống tới bãi cát ở phía dưới. Tôi bảo nàng: - Em hãy theo sát và níu chặt vào vai . Chúng tôi tuột dần theo khe cát mịn xuống bãi biển. Tới đáy khe, tôi quẹo phải và kéo Monique tới dưới tàng cây kim tước mọc từ trong bờ đá chìa cành ra mặt cát. Tôi dặn: - Em hãy ở đây chờ lát. trở lại ngay. Nàng xoay mặt lên và tôi hôn nàng. Nàng dặn lại tôi: - Mau lên nghe . Tôi để lại cho nàng khẩu tiểu liên và trèo trở lên đỉnh bờ đá, rồi chạy lại chiếc Land Rover. Tôi quẹo nó trở ngược lại, với đèn pha bật sáng, hy vọng bọn chúng trông thấy tôi trở xe lui. Đoạn tôi nhấn lút ga. Bốn bánh xe cắm chặt vào mặt đường đá trong lúc chiếc Land Rover chồm tới trước, mỗi lúc thêm nhanh. Vừa lái xe bằng tay, tôi vừa lấy máy truyền tin và bấm nút vi , vào máy: - A lô, Ted? Tiếng của Ted vang lại sau lát im lìm: - Ted đây, Stuart. - Tôi định gạt chúng vố. Ở đó có gì rắc rối ? - Xe cộ chạy rộn rịp con đường rời khỏi lâu đài về phía nam. Chắc bọn chúng tìm thấy Anson. Tôi đáp: - còn nghi ngờ gì nữa. Nhiều toán lính lùng bắt bọn mình. Giọng của Ted có vẻ vui thú: - Ở đây vẫn chưa có gì lộn xộn. Theo em phỏng đoán, có lẽ chúng đổi phiên gác vào lúc 12 giờ khuya – hoặc trước đó chút – vì Anson vốn xuất thân từ hải quân. Từ đây đến đó chắc có ai vào nơi này làm gì. - Chú đừng quá tin tưởng như vậy. Hãy cố xuống đây trước mười hai giờ khuya. Tôi lái chiếc xe chạy lên, qua khỏi con đường rẽ vào phi trường gần hai cây số. Tới đây, tôi nhảy xuống và tìm hòn đá nặng bên lề. Hòn đá vừa đủ nặng để đè sát chân ga xuống sàn xe. Tôi kê nó vào đúng vị trí. Máy xe gầm lên, làm rung động toàn thể chiếc xe. Giữ cho cửa xe phía tài xế mở, tôi gài số nhanh tới số lớn nhất khi chiếc Land Rover vừa bắt đầu có trớn. Chiếc xe hơi loạng choạng vì tôi sang số quá nhanh. Cuối cùng tôi vừa lăn mình ra ngoài cửa, vừa bẻ quặt tay lái về phía tay phải. Vai bên mặt của tôi chạm vào cỏ gai bên lề đường, trong lúc tôi cố bình tĩnh để lăn tròn cho khỏi bị thương, với khẩu tiểu liên kẹp chặt sát ngực bằng cả hai cánh tay, như thủ môn ôm quả bóng sau khi vừa chụp được và té nhào mặt đất. Khi tôi ngừng lăn, đầu óc tôi choáng váng. Tôi quỳ gối lên, vừa kịp trông thấy chiếc Land Rover nghiêng về bên trong lúc leo lề và tiếp tục phóng lên mặt dốc về phía bờ đá. Lúc lên tới đỉnh dốc, tốc độ của xe vẫn còn dưới trăm cây số giờ. Theo đúng đặc tính đặc biệt của nó, chiếc Land Rover quả là loại xe leo dốc nhanh kém lúc chạy đường bằng. Chiếc xe vượt luôn mép bờ đá khá cao và phóng ra ngoài khoảng phía bãi cát chừng hai thước. Cây cản trước cắm xuống cát, rồi chiếc xe lật nằm ngửa, trong lúc bốn bánh xe vẫn quay tròn trong khí như mấy cái chân của con bọ hung bị lật ngửa, ở cách tôi độ ba chục thước. Tôi tuột xuống bờ đá và chạy về phía chiếc xe, tay mò tìm hộp quẹt. Tôi nhất quyết làm cho nó phải cháy. Nhưng tôi khỏi cần nhọc công. Tôi vừa chạy được năm sáu bước tiếng nổ hất ngược vào mặt tôi, làm tôi phải thối lui. Tôi ngã xuống bãi cát mịn và quỳ gối hồi, nhìn chiếc xe bốc cháy, những ngọn lửa như những chiếc lưỡi đỏ tươi liếm lên nền trời đêm. Khói đen cuồn cuộn tuôn vào bầu khí cuồng nộ. Trong lúc đó, từng làn sóng biển vẫn khoan thai lăn lên để rửa sạch bãi cát cách chỗ xe cháy khoảng mười thước. Tôi lo sợ bọn chúng chạy tới kịp. Trong khi chạy trở về nơi Monique núp dọc theo bãi biển cách gần hai cây số, tôi bỗng nghe tiếng của Ted vang lên từ chiếc máy truyền tin : - Stuart! Lửa cháy ở đâu vậy? Tôi vừa thở hổn hển vì phải chạy mặt cát lún, vừa đáp: - Kế dụ địch của tôi. Chiếc Land Rover vừa chạy ra khỏi bờ đá lật ngược bãi biển và cháy. Chú hãy mau chạy ra khỏi chỗ đó! Rồi tôi phải liều mạng quẹo lên nơi cát cứng hơn để có thể chạy nhanh. Tôi biết như thế tôi bị kẻ nào đường trông thấy. Nhưng tôi cần mạo hiểm mới hy vọng bị toán xe truy nã chạy tới bắt gặp. Chạy cát, dù cát lún, là việc rất khó. Tôi tưởng chừng trái tim của tôi có thể nổ tung ra trước khi tôi trở về được nơi tôi để Monique ngồi chờ dưới bóng cây kim tước. Quả nhiên có chuyện trở ngại xảy ra đúng như tôi lo sợ. Tôi vừa chạy ra khỏi ngã ba chừng trăm thước tôi nghe tiếng bốn chiếc xe vận tải rú ga phóng về phía con đường ven biển. Tôi liền bò lên bờ đá và nép mình vào đó lát mới thấy ánh đèn tiến tới gần ngã ba. Đoàn xe bớt tốc độ để chuẩn bị quẹo mặt. Chiếc dẫn đầu có vẻ ngần ngại trong giây lát. Tôi thở ra hơi nhõm khi đoàn xe quẹo trái về phía chiếc Land Rover cháy và lại gia tăng tốc độ. Tôi nghe thùng xăng của chiếc Land Rover nổ vang đúng lúc ấy. Lửa bay tung tóe lên cao và lại cháy dữ dội. Tôi đeo vào bờ đá, thở hồi, thầm cảm tạ Đức Chúa. Nhưng tôi thể phí phạm nhiều thời giờ vào việc này. Tôi mất chút thời giờ để đánh lạc hướng, nhưng tôi cũng kéo cuộc tìm kiếm của bọn chúng tới nơi chỉ cách điểm hẹn của chúng tôi chưa đầy hai cây số. Nếu tàu của chúng có kẻ nào trông thấy dấu hiệu khác gì tôi chỉ chỗ cho chúng. Nếu tôi đoán sai chúng phải chờ cho ngọn lửa bớt cháy mạnh chút mới có thể biết chúng tôi bị cháy theo xe. Nhưng tôi phải sử dụng thời giờ khôn khéo, nếu còn thời giờ để tẩu thoát. Tôi tụt xuống bờ đá và lại chạy. Nhờ được nghỉ ngơi lúc, tôi bớt mệt. Tôi lo chạy và giữ cho hơi thở được đều đặn đến nỗi suýt qua khỏi nơi Monique chờ tôi. Nàng cất tiếng gọi: - Stuart! Tôi dừng chân, chạy trở lại, bò vào bên cạnh nàng, thở ra hơi. Nàng thầm tiếp: - Em tưởng bỏ chạy khi em trông thấy lửa cháy. Tôi trả lời: - Chỉ có chiếc Land Rover cháy. Mình cũng lợi thời gian được bao nhiêu. Rất có thể chúng bị kẹt ở đó. Cho tới khi lửa tắt. Và chúng thấy có mình trong xe. hy vọng chúng tưởng mình chạy về ngả Bragawick. Nhưng dám cá ăn chắc như thế. Nàng mò vào cổ tay tôi: - Mấy giờ rồi? Tôi liều mạng che tay chớp ánh đèn pin lên mặt đồng hồ. - Mười giờ bốn mươi lăm. Còn mười lăm phút nữa, nếu mình may mắn. Nhưng có Ted. Tôi bấm nút máy truyền tin. - Ted! Chú còn làm gì nữa? Chỉ còn mười lăm phút! - Alô, Stuart. Vẫn chưa xong. Có lẽ phải mất mười hoặc mười lăm phút nữa. Cái gì mà gấp rút vậy? Chưa tới mười hai giờ khuya mà. - Chắc chú tới đây kịp. Và tôi thể giữ tiềm thủy đỉnh để chờ chú, trong lúc trong vịnh đầy những ngư lôi đỉnh. Bọn lính gác sắp đổi phiên rồi đó. Chú hãy mau lên! Ted vẫn bình tĩnh bảo: - đừng nóng. Em gần xong rồi đây. giờ em thể bỏ được. Em gỡ cho tê liệt tất cả ngoại trừ Plymouth và Luân Đôn. - Chúa ơi! Mỗi hỏa tiễn đều có đánh dấu sẵn hay sao? - đoán đúng. - Thế chú cố cho nhanh lên! Tôi xoay cái hộp ra sau lưng và quay sang Monique. - Mình nên ngược lên phía chút. Em có thể bước nhanh được ? Giọng nàng rất vững. - Em khỏe lắm rồi. Chúng tôi cố hết sức bước nhanh, nhưng chẳng nhanh được bao nhiêu. Tôi lại phải liều mạng xuống gần mé nước là nơi cát cứng hơn. Đêm khá tối. Chỉ có các vì sao rọi xuống chút ánh sáng. Nhưng lúc này cần nhanh chân hơn là bí mật. Tôi có thể trông thấy ánh lửa của chiếc Land Rover sau lưng chúng tôi, bây giờ yếu hơn nhưng vẫn còn cháy. Tôi hy vọng bọn chúng vẫn còn chờ cho tới khi lửa tắt. Căn cứ theo ký ức về bức họa đồ, chúng tôi chỉ còn cách điểm hẹn gần cây số. Chúng tôi chạy qua khoảng bãi biển có nhiều tảng đá trồi lên khỏi mặt cát từ xa cho tới bờ nước. Thỉnh thoảng chúng tôi lại vấp chân trong bóng tối. Lần thứ ba tôi nâng Monique dậy sau khi nàng vấp té, tôi chợt nhận thấy nàng gần như kiệt quệ. Lúc bước qua khỏi tảng đá, tôi dẫn nàng lên bờ, cùng ngồi dưới gốc kim tước. Chúng tôi chưa kịp lấy lại hơi thở tôi bỗng nghe tiếng động cơ xe vận tải rú lên đường về phía tay trái. Tôi lại trèo lên đỉnh bờ đá, nhìn qua đám cỏ cao mọc đỉnh. Có hai chiếc xe vận tải. Chúng chạy nhanh về phía tây con đường dọc theo bờ biển. Nơi tôi rình là nơi xa đường hơn hết, nhưng tôi vẫn có thể trông thấy mỗi chiếc xe có hơn mười tên lính võ trang trong lúc xe chạy qua. Hai chiếc xe vận tải chạy về phía tây. Có lẽ tôi được quan sát cuộc hành quân gọng kềm gồm hai chiếc xe chỏ đầy người tiến về hướng tây và hai chiếc tiến về hướng đông. Nhìn về phía chiếc Land Rover cháy rụi, tôi có thể trông thấy hai cặp đèn pha di động về ngả Bragawick, có lẽ để đổ quân xuống tìm kiếm ở mút bãi biền đàng kia. Bọn chúng thấy chúng tôi bị chết cháy trong ngọn lửa. Tôi còn nhớ bãi biển từ đảo Lunna đến vịnh Lunna dài độ chừng năm cây số. Nếu bọn chúng ngừng lại để lục soát mỗi bụi cây dọc theo phía dưới bờ đá, công việc đó mất khá nhiều thời giờ. Nhưng với số người quá nhiều và đầy đủ đèn bấm như thế, có lẽ chúng lục soát rất nhanh và có thể tới nơi chúng tôi vào khoảng mười hai giờ khuya. Mãi tới lúc này, nhìn kỹ vị trí tương đối của con đường, tôi mới nhận thấy chúng tôi ở sát điểm hẹn mà Andrews chỉ định. Cuộc đào tẩu qua. Bây giờ chỉ còn chờ đợi. Tôi tuột trở xuống và tìm gặp lại Monique. Tôi hỏi: - Em hề gì chứ? - sao. Nhưng mệt quá. Mình có phải xa hơn nữa? - Mình tới nơi rồi. Bây giờ mình chỉ việc ngồi đợi Andrews. - Và Ted. Tôi bảo: - Phải. Nhưng trong bụng tôi có cảm giác đau đớn. Cuộc tìm kiếm diễn ra bãi biển. Tôi có thể trông thấy ánh đèn ở cả hai phía, phải đèn xe mà là đèn pin chiếu loang loáng giữa những lùm cây, trong lúc cả hai toán người truy nã bắt đầu tiến gần chúng tôi từ hai phía bãi biển. Ánh đèn lay động ngừng. Bọn chúng di động nhanh hơn tôi tưởng. Chúng tôi ngồi im lìm. Tôi biết nàng mệt. Tôi biết tôi cũng mệt. Tôi choàng hai cánh tay tôi quanh mình nàng và nàng giữ bàn tay của tôi sát vào gò ngực êm dịu của nàng. Tôi kê má đỉnh đầu nàng. - Stuart. - Em gì? - Tình thế ra sao? - đến nỗi tệ nếu Andrews đem được tiềm thủy đỉnh đến đây. - Còn nếu ông ta đến được? Tôi khích lệ: - Em đừng bậy. Ông ta đến. Nàng hình như nghe tôi và tiếp tục theo ý nàng: - Nếu ông ta đến, em ước mong hiểu rằng em . Em chưa bao giờ điều đó với . - Lẽ dĩ nhiên hiểu. Khỏi cần phải em ra bằng lời. Tất cả những lời bị méo mó và rách nát vì qua quá nhiều cửa miệng của những người thốt lên cách quá dễ dàng mà lại hiểu được ý nghĩa. Nàng gì trong hồi lâu. Tôi cố giữ cho tâm trí trống rỗng. Những hình ảnh muốn nhảy chồm vào đầu óc tôi để bắt tôi quan sát chẳng thú vị chút nào. Tôi nhất định quay mặt khỏi ánh sáng trong ngọn đèn chiếu, nhưng có cái gì mạnh hơn cả ý chí của tôi bắt tôi phải nhìn vào. Luân Đôn trong đống gạch vụn còn lớn hơn nắm tay, đúng cảnh tôi trông thấy tại Nagasaki ba ngày sau khi bom nổ. Ánh sáng chói lòa xuyên qua kẽ mắt trong vụ nổ bom ở Bikini. Hội Đồng Nội Các quyết định sai lầm, muốn tỏ ra kiêu hùng theo gương của Churchill và chui đầu vào dưới nắm tay phá hoại mà Lực Hoàng Gia lần này vô phương cứu vãn. Ted trong ngôi nhà gỗ dùng làm đài kiểm soát hỏa tiễn cố tìm cách ngăn cản thảm họa và bị bắt ngay tại đây bởi bọn lính gác đồng phục xám rồi bị đem ra xử bắn. Ted nằm nền nhà bằng bê tông của đài kiểm soát trong vũng máu lầy nhầy. Monique úp mặt xuống bãi cát mềm, mái tóc huyền của nàng bị cát bạc phủ lên. Tôi tắt ánh sáng bằng cử chỉ vặn mạnh trong trí và kêu lên: - Chúa ơi! Chắc hẳn tôi phải kêu to lên, khiến cho Monique phải thầm hỏi: - Gì vậy, Stuart? Tôi đáp: - Xin lỗi. trong cơn mơ màng. Nàng lại : - Stuart, em thích đưa ra mối hy vọng giả tạo, nhưng hình như có cái gì ngoài kia. Nàng chỉ tay về phía biển. Trái tim tôi lồng lên tựa hồ có mấy cây điện cực thọc vào đó. Tôi cố hết sức nhìn, nhưng vẫn thể trông thấy gì cả. - Trông nó giống như cái gì? Nàng có vẻ lúng túng. - Em chắc lắm. Trông nó… giống như khối đen, tất cả chỉ có thế. Đen hơn cả bóng tối. Nó hơi vuông vuông, với mũi nhọn đỉnh. Tôi bảo: - Rất có thể đó là cánh buồm. vẫn thấy gì. Mắt em tốt hơn mắt . Tôi nhìn đồng hồ tay rồi tiếp ngay: - quá mười hai giờ khuya. - Nó vẫn còn đó phải? Stuart, nó hãy còn kia! - Kể ra cũng đáng thử liều, nhưng mình bật đèn lên tức là chỉ vị trí của mình. hy vọng Andrews đáp vào bờ, nếu em lầm. Đây, em hãy khum hai bàn tay lại quanh loa đèn để ngăn chặn ánh sáng chiếu ra hai bên. Khi hai bàn tay của nàng bọc quanh mặt kính của cây đèn pin, tôi hít hơi thở dài và bật nút. Tôi chiếu đèn theo ba chữ ước hẹn để nhận biết nhau. Chúng tôi nhận được phúc đáp ngay tức khắc. phải từ bóng tối ngoài biển, mà từ toán truy nã gần chúng tôi nhất, về phía đông nam. Đó là tràng tiếng nổ nghe như tiếng súng trường. Tôi thể trông thấy đầu đạn trúng vào những chỗ nào, nhưng chắc chắn rất gần vì nhiều hạt cát tung vào mặt chúng tôi. Bọn lĩnh tới gần, chỉ còn cách chúng tôi quá ba trăm thước. Tôi kéo Monique nép vào dưới cây kim tước. Tôi bảo nàng: - Em hãy tiếp tục nhìn ra ngoài biển trong lúc chứng tỏ cho bọn chúng biết mình phải là hạng người biết tự vệ. Tôi lấy cây tiểu liên và bò ra ngoài bãi biển. Tôi bắn hai phát về hai phía, cần nhắm vào gì hết. Tôi biết khoảng cách quá dài so với tầm đạn của khẩu tiểu liên. có tiếng súng trả lời. Nhưng những ngọn đèn pha bắt đầu di động về phía chúng tôi nhanh hơn ban nãy. Bọn chúng cũng biết khoảng cách còn quá xa. Tôi bắn thêm mấy viên về cả hai phía. Ánh đèn pin liền tắt. Tôi biết mình thể bắn trúng ai ở khoảng cách này. Nhưng tôi biết bọn chúng im lặng tiến tới gần chúng tôi trong bóng đêm. Bỗng Monique cất tiếng gọi lớn: - Stuart! Stuart! Coi kìa! Có ánh đèn! Tôi liền nhìn ra biển. Dấu hiệu của tôi phải chỉ được trả lời bằng ánh đèn, mà bằng hành động. luồng ánh sáng từ điểm cao hơn mặt nước chừng ba thước. Tôi bối rối mất giây cho đến khi nhận thấy nhiều bóng người chen chúc nhau qua luồng sáng. Rồi tôi quả đó là chiếc tiềm thủy đỉnh. Nhiều người đổ ra khỏi nắp tàu chạy lên boong. Chiếc tiềm thủy đỉnh chỉ cách xa bãi biển bảy tám trăm thước. phút sau, tôi hiểu vì sao có nhiều người trèo lên khỏi nắp tàu. Tôi trông thấy những lằn đạn trái sáng từ ngoài biển bay theo hình vòng cung vào hai đầu của bãi biển. tàu có ai thông minh đoán đúng ánh đèn pin. Họ liền bắn vào những nơi ban nãy vừa thấy ánh sáng. Sau loạt đạn trái sáng đầu tiên, tôi còn nghe thêm tiếng khạc đạn đều đặn của hai khẩu đại liên bốn mươi ly đặt ở mũi và lái của tiềm thủy đỉnh bắn vào hai đám quân truy kích đảo. Monique ôm chặt cánh tay của tôi, múa may như điên cuồng, trong lúc vẫn còn ngồi cát. Tiếng súng chỉ bắn hồi lâu lắm, rồi ngừng hẳn. Trong bầu khí im lặng đặc, tôi chợt nghe tiếng vọng lên từ mé biển. - Dunbar! Dunbar! Ông ở đâu? Tôi ở phía này! Đó là tiếng của Colin Andrews. Tôi la to: - Chúng tôi tới đây! Tôi cầm tay Monique và chúng tôi chạy loạng choạng xuống bãi biển, mang theo hai cây tiểu liên. Khi chúng tới chỗ cát ướt ở gần nước, tôi có thể trông thấy bóng đen đứng bên cạnh vật thấp vừa được kéo lên mặt đá cuội. Chúng tôi cùng tiến lên về phía ấy. Đó là Andrews. Ông ta nắm cứng cánh tay của tôi. - Dunbar, tôi mừng được gặp ông an toàn. Chào Ménard. Giọng của ông ta có vẻ lãnh đạm. Tôi cất tiếng cười cách lạc lõng trong lúc ông ta tiếp: - Mình hãy ra khỏi đây ngay. Phe mình chỉ có chừng này? - . Em tôi đáng lẽ có mặt tại đây. Ông đợi tôi lát. Tôi lôi chiếc máy truyền tin từ sau lưng ra trước và vào máy: - Ted! Stuart đây! Chú ỏ đâu? Ted trầm tĩnh trả lời: - Kìa, hãy chút. Coi chừng kẻo bồi thường máy vi đó. Em vừa xong việc ở đây và chuồn trong phút nữa. Ngay sau tiếng của Ted, tôi nghe tiếng súng nổ, tuy gần chúng tôi, nhưng qua bộ phận phóng thanh xíu của chiếc máy truyền tin, nghe dòn và lanh lảnh. - Ai bắn vậy, Ted? - có gì đáng kể. Chỉ có hai tên gác vừa đến và bắt gặp xác chết bên ngoài. Tụi nó thân tặng em vài hiệp. Em xử tội bọn chúng, đừng lo. - Ted, tàu đến rồi. Ted đáp ngay: - Em rất tiếc phải trễ chuyến này. hãy lên tàu và nhổ neo . Em gặp sau, ngay sau khi em thanh toán xong mấy tên hề này. Colin Andrews lấy chiếc máy truyền tin khỏi tay tôi và với Ted: - Dunbar, đây là Colin Andrews. Có lẽ chúng tôi thể chờ ông được. Nếu , và nếu ông có thể đoạt chiếc tàu, chúng tôi chạy quanh khoảng bốn dặm về phía nam, trong biển Friday Sound, lâu tới mức tối đa của chúng tôi. Tiếng của Ted vang lại: - Được rồi, xin cám ơn ông. Bây giờ tôi phải . Tôi cố gắng đến sớm. Andrews trả máy truyền tin lại cho tôi và bảo: - Thôi, mình . Trễ quá rồi. Chúng tôi đỡ Monique bước vào chiếc xuồng cao su và đưa nàng tới phía mũi, qua khỏi dàn chèo ngắn. Andrews và tôi cùng đẩy xuổng, lội cho tới khi nước lên tới đầu gối mới nhảy vào. Ông ta tiến tới trước và cầm chèo. Tôi buông mình xuống khoang. Ông ta : - Chở hơi quá sức, như chiếc thuyền du khách ở Cowes (1). Nhưng mình tới nơi. Tôi nhìn về phía sau lưng trong lúc ông ta khởi chèo. Hai toán người săn đuổi chúng tôi ban nãy bãi biển nhập lại thành . Bọn chúng tìm chúng tôi dưới cây kim tước với những cây đèn pin bật sáng. Chúng vẫn chưa có ý nghĩ chúng tôi rời khỏi bãi biển. Trước khi chúng kịp hiểu việc xẩy ra như thế nào hai khẩu đại liên bốn mươi ly lại khai hỏa, bắn xối xả vào đám đèn. Nhưng các xạ thủ thể bắn thấp xuống để cho trúng đích vì họ biết chúng tôi ở đường đạn. Tuy nhiên, nhưng tiếng nổ khủng khiếp đỉnh bờ đá cũng khiến cho bọn người săn đuổi phải tắt đèn. Andrews cố sức chèo mạnh mái chèo, nhưng khoảng cách từ chúng tôi tới bãi biển chỉ gia tăng cách vô cùng chậm. Chiếc xuồng như bị ai kéo trì lại. Xuồng cao su là loại nặng nề khó chèo hơn hết. Nhất là khi phải chở tới ba người, lại càng tệ hơn nữa. Tôi cởi đôi giày và chiếc quần tây dài cùng áo choàng. Tôi chèo ra khỏi xuồng, xuống dưới nước và bắt đầu đẩy vào đuôi xuồng hình tròn. Tôi đạp lâu vào đáy biển đầy cát. Được mấy bước, đáy biển thụt sâu và tôi tiếp tục đạp chân trong nước, cố giữ cho những chiếc đạp của tôi ăn nhịp với hai mái chèo. Chúng tôi bắt đầu di động nhanh hơn chút. Nước biển lạnh như nước đá, nhưng mấy giây sau nó làm cho tôi tê cóng và tôi còn cảm thấy quá lạnh nữa. cơn mưa lất phất khởi rơi. Đây là cơn mưa rào thường xuyên trong vùng. Chỉ cách hơn trăm thước, trời lại quang đãng. Andrews chợt quay đầu lui, gọi: - Ménard, hãy bước qua mái chèo bên phải của tôi, vào trong khoang. Rồi nằm xuống và níu lấy tay Dunbar để giúp ông ấy thêm vững. Mấy giây sau, tôi trông thấy khuôn mặt xanh xao hình trái xoan của nàng ngay phía mặt tôi và cảm thấy hai bàn tay nàng nắm chặt hai cổ tay tôi. Nàng nằm sát người lên khoang, cằm kê lên mạn xuồng cao su. Nàng mỉm cười với tôi. Tôi đạp mạnh hơn, cố trồi lên cao để hôn chóp mũi của nàng. Nàng bật cười thành tiếng. Andrews lại bảo: - Hãy nép sát xuống, để tránh đạn. Quả súng lại nổ, nhưng lần này từ phía bãi biển. Bây giờ hai khẩu bốn mươi ly ngừng bắn, các toán quân truy kích phỏng đoán chúng tôi ở đâu. Bọn chúng thể trông thấy chúng tôi, nhưng dù chúng bắn phỏng chừng nữa chúng tôi vẫn nơm nớp lo sợ. Tôi nghe tiếng những đầu đạn rơi lõm bõm xuống nước. Chỉ cần lãnh phải viên cũng đủ mệt rồi. Đúng lúc tôi nghĩ như thế, chúng tôi bỗng bị soi sáng bởi ngọn đèn chiếu cực mạnh từ bãi biển. Tôi vội vàng nhìn lui. Ánh sáng chiếu vào chúng tôi phát xuất từ phía cao bờ đá, ràng là ngọn đèn đặt chiếc xe vận tải đậu đường. Tôi cố đạp mạnh hơn chút nữa. Monique : - quả là máy tàu thượng hảo hạng. Tôi đáp: - Em đừng đùa nữa. Lời của tôi được nhấn mạnh ngay lúc đó bằng tiếng đạn đại liên. Monique giật nẩy mình. - Em hề gì cả chứ? Nàng trả lời: - Em sao hết. Viên đạn trúng vào chiếc xuồng cao su, phía lằn nước. Gần như ngay lúc đó tôi chợt nghe tiếng nổ dài phía sau lưng. Tôi chỉ ngạc nhiên lúc, mặc dầu trước đó tôi chưa hề nghe. phải chiếc xe vận tải chở ngọn đèn chiếu đậu đường. Đó là trong những chiếc xe thiết giáp mà Anson từng tới. Khẩu súng 88 ly bắn vào chúng tôi. Lần này tôi cảm thấy hơn là nghe quả đạn trái phá rơi xuống nước ở về phía bên phải của chúng tôi. Quả đạn tiếp theo rơi xuống nước cùng khoảng cách về phía bên trái. Andrews vừa chèo vừa bảo: - Bọn chúng bắn theo lối gọng kềm nằm ngang. Dù lối bắn thuộc loại gì nữa, có lẽ hiệp thứ ba chúng tôi lãnh đủ. Thủy thủ đoàn tàu lại khai hỏa bằng hai khẩu bốn mươi ly. Nhờ có ánh đèn chiếu, họ trông thấy chúng tôi ra khá xa và có thể bắn phía đầu chúng tôi. Tôi nhìn lui đúng lúc để trông thấy trong hai khẩu bốn mươi ly xác định được vị trí của chiếc thiết giáp con đường cạnh bãi biển. Ánh đạn trái sáng yếu ớt màu vàng cam như phụ họa với ngọn đèn chiếu để soi . Ánh sáng đột nhiên tắt hết. Nhưng bóng tối như bị xé rách ngay lúc đó bởi tiếng nổ, rồi ngọn lửa màu vàng cam bùng lên. Chiếc thiết giáp cháy cách dữ dội. Andrews khen: - Bắn hay lắm! Tôi quay lại đạp mạnh cùng với những mái chèo, cảm thấy chiếc xuồng nhịp nhàng trườn tới. Tôi thầm cám ơn Monique nắm chặt cổ tay tôi, vì mạn xuồng bằng cao su rất khó níu. Nàng chợt : - Mình sắp tới nơi rồi. Tôi biết nàng cố khích lệ tôi. Nàng thể trông thấy được chiếc tiềm thủy đỉnh phía sau lưng nàng. Nàng buông bàn tay ra để vuốt tóc và nước dính mắt tôi. Bàn tay của nàng lạnh ngắt. Nhưng nàng đúng. Mấy giây sau tôi cảm thấy mũi xuồng đụng phải vật gì vững chắc. Tôi trông thấy khối đen của chiếc tàu ngầm. Andrews cất chèo vào khoang. Tôi gác cả hai cánh tay lên mạn xuồng và để mặc cho thân mình nửa chìm nửa nổi trong nước biển. Monique choàng hai cánh tay quanh cổ tôi. Tôi cảm thấy hơi ấm của mặt nàng sát vào má tôi. Tôi bảo nàng: - Em hãy tới phía trước . Họ kéo lên sau. Andrews đỡ nàng đứng dậy. Tôi trông thấy hai cái vòng hạ xuống cho nàng nắm lấy rồi kéo nàng lên khỏi hông tiềm thủy đỉnh cho tới boong tàu. Sau đó Andrews quay sang tôi. - Dunbar, ông hãy níu chặt. Tôi xoay tròn chiếc xuồng. Có cái thang ở ngay phía đầu ông. Chúng tôi an toàn. Bây giờ tiếng súng bãi biển ngừng nổ. Nhưng rất có thể bọn lính gác của Anson đưa chiếc thiết giáp khác tới đây. Nếu thế, lớp vỏ mỏng của chiếc tiềm thủy đỉnh lâm nguy cách trầm trọng. Tôi từng trông thấy hông tàu lủng chỉ vì lắc lư đụng vào bến, và tôi muốn chứng kiến cảnh viên đạn tám mươi xuyên qua thành tàu. Thế là chúng tôi an toàn. Nhưng Ted vẫn còn ở Saint Sudra, và trong lúc Ted còn ở đó chúng tôi chưa bình yên và hoàn toàn sung sướng. Cả thế giới cũng thế. Tôi cảm thấy toàn thân đau đớn lúc vừa mới bước lên ba nấc thang thấp nhất trong nước biển lạnh trước khi tôi cảm thấy hai cái vòng tròng vào cổ tay. Người ta kéo tôi lên trong lúc cặp vòng khác được thả xuống để kéo Andrews. người liệng chiếc mền dày lên mình tôi lúc tôi leo đoạn sắt cuối cùng để lên boong. Họ còn kéo phụ tôi. Hai chân tôi tê cóng khi ra khỏi nước lạnh. viên đại úy Hải Quân trẻ tuổi mặc áo choàng len đội mũ xanh niềm nở với tôi: - Chào mừng ông lên tàu Venturer. Andrews bảo ngay: - Đại úy, theo tôi nghĩ mình nên lặn gấp. Dunbar, tôi rất lấy làm buồn. Máy vô hiệu hóa chưa làm hại được mình, nhưng mình thể quá mạo hiểm. Tôi đáp: - Máy đó bị đập nát rồi. Ted đập nát và liệng xuống dưới biển. - Đó thể là bộ máy độc nhất. - Đó là bộ máy duy nhất được đem đặt tại đây. Andrews trả lời cách nghiêm trọng: - Và rất có thể bọn chúng đặt lại máy khác trong vòng ít phút. Nhưng nếu bộ máy tại hư, có nghĩa là mình có thể sắp đặt cuộc tấn công lên đảo. Đại úy Thomas, tôi cần gửi bức điện tín. - Xin vâng. đoạn, viên đại úy Hải Quân quay sang viên sĩ quan có phận boong: - Ông Fanning, ông hãy đưa Đại úy Andrews xuống gặp sĩ quan truyền tin. Luôn tiện ông hãy đưa ông Dunbar lấy quần áo khô. Tôi vẫn cố : - Đại úy, xin cho tôi hỏi điều. Mình thể chờ thêm nửa giờ hay sao? Em tôi ở đảo và sắp sửa đến đây. - Ông Dunbar, tôi hết sức tiếc. Dù có bọn múa rối đó bãi biển nữa… Ông ta ngừng lát và chỉ tay về phía đông bắc. - Ông hãy xem kia kìa. Ông có biết đó là những thứ gì? Tôi liền nhìn theo tay ông ta chỉ. Ba chiếc ngư lôi đỉnh chạy nhanh đến, chiếc nào chiếc nấy bật đèn sáng rực. Tôi gật đầu. - Vâng. Đó là những chiếc ngư lôi đỉnh trang bị võ khí đầy đủ. Ông đúng. Ông thể liều mạng hy sinh chiếc tàu này. Thomas với tôi: - Xin cám ơn ông. Đoạn ông ta quay sang viên sĩ quan dưới quyền: - Ông Fanning, hãy thông báo cho các ban tàu chuẩn bị lặn ngay tức khắc. Tất cả mọi người boong đều vội vã trụt xuống nắp tàu, và nắp tàu được đóng kín ngay. Tôi đứng phía dưới nắp tàu, lúc sau mắt mới quen với ánh sáng. Tôi lờ mờ trông thấy Monique chờ tôi. Nàng đến bên tôi và tôi trùm nàng sát mình tôi trong chiếc mền mà người ta ném cho tôi boong, rồi tôi mới nhận thấy mình khóc. Andrews tới sau lưng tôi từ lúc nào tôi , mãi đến khi ông ta lên tiếng: - Dunbar, ông chớ quá lo buồn. Chúng tôi với em ông chúng tôi ở đâu – chỉ cách xa mấy dặm trong biển Friday Sound. Thế nào ông ấy cũng gặp lại mình. Chú thích: (1) Cowes: thành phố nghỉ mát và là trung tâm du thuyền đảo Wight của nước . Dân số độ chừng 15.000 người (c.t.c.d.g.) Chương kết Trong lúc tiềm thủy đỉnh tiến về phía tây nam qua eo biển Friday Sound trực chỉ eo bể Ross, tôi mặc bộ quần áo khô mà người bồi tàu của Thomas đưa cho tôi rồi ngồi xuống trong phòng sĩ quan với Monique và Colin Andrews. Monique ngồi bên cạnh tôi và im lặng nắm lấy bàn tay của tôi. Andrews chợt bảo: - Dunbar, tôi rất ân hận về chuyện em ông. Nhưng tình Thomas thể làm sao khác hơn. Độ ít phút nữa tàu trồi lên mặt nước sau khi qua khỏi eo biển Ross. Mình ngừng lại ở đó cho tới lúc trời sáng nếu cần. - Cám ơn ông, tôi hiểu. Ông cho gởi thông điệp ? - Phải. Rất nhiều chuyện đều tùy thuộc vào đó. Tôi : - Tất cả ích lợi gì, trừ phi Ted làm hư được hệ thống điều khiển của tất cả các hỏa tiễn. Các hỏa tiễn này được dự trù tự động phóng lên nếu tủ điện hoặc đài kiểm soát bị phá hủy. Phải chuyện đó cho họ biết. Thomas bước vào phòng với cặp kiếng lớn loại đặc biệt có thể giúp người mang trông thấy mọi vật trong bóng tối. Ông ta loan báo: - giờ mình ở mặt biển. Ngay phía bắc của eo biển, cách mút tận cùng phía nam của Saint Sudra vào khoảng năm dặm. Quý vị có muốn lên boong để nhìn hòn đảo lần cuối cùng? Chúng tôi cùng theo ông ta tới chỗ đặt tiềm vọng kính rồi leo thang để lên boong tàu ở cùng. Đêm quang đãng trở lại. Tôi có thể trông thấy khi mắt quen với bóng tối ở bên ngoài. Cơn mưa lưa thưa ngừng hẳn và tất cả các vì sao đều ra nền trời. Tôi có thể trông thấy sao Bắc Đẩu cao hơn hẳn mọi khi tôi vẫn thường thấy. Gió trở nên mát. Những làn sóng bạc đầu khởi nổi lên mặt biển Friday Sound đen thẫm. Dù mặc áo ấm tôi vẫn rùng mình. Monique nhìn tôi với vẻ lo lắng khi nàng cảm thấy cánh tay của tôi run sát bên mình nàng. Nhưng trời đâu có lạnh. Tôi có cảm giác tựa hồ người ta chích thuốc mê vào đầy trong người tôi và cắt trái tim tôi ra ngoài. Tôi bảo nàng: - sao hết. Chỉ buồn chán. Saint Sudra chỉ còn là vệt sáng mờ về phía bắc. Hòn đảo cao dần lên về phía bắc, từ chỗ đất nối liền với nước ở phía nam cho tới những bờ đá cao lâu đài Kinnul chung quanh Sternesss Barr. Tôi có thể trông thấy ánh đèn lờ mờ chiếu lên từ vịnh Geutry, và xa hơn nữa là ánh sáng chói lòa trước mặt tòa lâu đài. Thomas đưa cho tôi cặp ống nhòm loại đặc biệt để dùng ban đêm. Đây là thứ rất tốt. Tôi có thể nhìn kỹ quang cảnh của bến tàu. Chiếc Star of Aden rời khỏi hải cảng. Tôi có thể trông thấy các ngư lôi đỉnh di chuyển trong vịnh. Tim tôi đập loạn lên hồi khi tôi chợt trông thấy chiếc chạy nhanh về phía cửa biển hướng ra khơi. Đúng lúc đó giọng vang lên trong bộ máy truyền tin tôi đeo quanh vai: - Alô, Stuart? Tôi vội vàng bấm nút vi và gọi lớn như hét: - Ted! Chú ở đâu đó? Ted trả lời: - Vẫn còn ở trong đài kiểm soát. Em sợ quá, Stuart à. Tôi xoay ống nhòm khỏi chiếc tàu vừa cho tôi chút hy vọng trong chốc lát, và hướng về phía căn cứ hỏa tiễn. Khoang sáng xíu hình chữ nhật ra khá . Ted tiếp: - Có vài chuyện rắc rối. Em hạ được hai tên hề, nhưng bọn chúng tăng viện khá đông. Hai bên vừa mới bắn nhau trận tơi bời, nhưng em vẫn hề gì. Bây giờ tên đầu sỏ đến. Em có thể trông thấy Anson ngồi trong chiếc xe Jeep ở bên ngoài. Em tiếc đánh vào đầu y mạnh tay hơn chút. Tôi chưa kịp đáp bỗng nghe giọng của Anson vang lên trong băng tần chúng tôi sử dụng. Giọng này mạnh hơn giọng của Ted, có lẽ bởi vì ông ta dùng máy truyền tin lớn hơn đặt ngay trong chiếc Jeep. Ông ta bảo: - Dunbar, ông có ba mươi giây để ra khỏi nhà trước khi chúng tôi khai hỏa bằng súng bốn mươi ly và bắn sụp bức tường này. Ông bị gia hại nếu ông chịu ra lúc này. Chúng tôi chỉ giữ ông làm con tin. Ted : - Đừng có điên khùng. Tôi có thể chờ đợi lâu bao nhiêu cũng được. Tôi chen lời với máy truyền tin của mình. - Anson. Đây là Stuart Dunbar. Các lực lượng võ trang đường tới Saint Sudra. Nếu ông muốn có hy vọng còn sống cho tới lúc trời sáng, hãy để em tôi rời khỏi nơi đó. Anson đáp: - Dunbar, tôi xin cám ơn về lời khuyên quá tử tế của ông. Tiếc thay chúng tôi thể lãnh ý được. Chúng tôi hy vọng có máy vô hiệu hóa khác vào lúc trời hừng sáng. Ted bảo: - Stuart, em cám ơn cố gắng tìm cách giúp đỡ em. nên chạy tránh xa nơi đây ngay tức khắc, nếu có thể cho cấp chỉ huy chịu nghe lời. Và phải lặn xuống sâu. Tôi khỏi có cảm giác quái dị khi đứng boong của chiếc Venturer trong đêm tối đầy gió lạnh và nghe những tiếng phát ra từ khung ánh sáng xíu hình chữ nhật cách xa. Monique bỗng thở hổn hển và nắm chặt cánh tay của tôi. Andrews nhảy tới lan can của boong tàu. Ông ta chỉ thốt lên hai tiếng: - Chúa ơi! Tôi sững sờ nhìn về phía căn cứ hỏa tiễn sáng rực. Phía ánh đèn là vật có chiếc đuôi cháy đỏ, từ từ vươn lên. Trong lúc chúng tôi cùng nhìn, vật kia bắt đầu gia tăng tốc độ và rẽ đường phóng vào trời đêm đen, ngọn lửa cháy sau đuôi chiếu sáng cả vùng trung tâm của Saint Sudra. Monique thầm bên tai tôi: - Cái gì vậy ? Tôi : - chiếc hỏa tiễn. hiểu vì sao, nhưng đúng là chiếc hỏa tiễn. Andrews lẩm bẩm: - Cầu xin Chúa che chở cho Edinburg. Chắc đạn bốn mươi ly của Anson bắn trúng vào tủ điện. Tôi lắc đầu. - phải. Nếu thế tất cả hỏa tiễn cùng phóng lên, chứ đâu phải chỉ có . Chúng tôi chăm chú nhìn cái đuôi cháy sáng dần vòm trời đen. Thomas chợt nhảy lên. - Nó chạy theo quỹ đạo, mà cứ phóng thẳng lên trời! Ông ta chưa dứt cái đuôi lửa của hỏa tiễn vụt tắt như ngọn đèn cầy bị gió thổi mạnh. Gần như ngay lúc đó, phần giữa của hỏa tiễn nổ tan. Tôi như có thể trông thấy bàn tay đặt lên nút “phá hủy” trong đài kiểm soát, để điều động cho hỏa tiễn tự phá hủy giữa lúc bay. vài tia lửa bay tung ra nền trời. Chỉ có chấm sáng vẫn tiếp tục trèo thẳng lên trong giây rồi mới bắt đầu rơi xuống. Trong thứ ánh sáng màu vàng cam phát ra sau tiếng nổ, xuyên qua cặp ống nhòm, tôi có thể trông thấy chiếc dù trắng xíu trong lúc chấm sáng tắt ngấm. Bầu khí im lặng boong tàu tựa hồ có thể sờ mó được trong lúc chúng tôi chăm chú nhìn. Tiếng của Ted cắt ngang im lặng, vang ra từ chiếc máy truyền tin bên hông tôi: - Stuart, nếu còn nghe tiếng em, xin cho em gửi lời thăm Ba và Laura. Và cả Amada cùng lũ trẻ. Vĩnh biệt Stuart. Vĩnh biệt Monique. Rồi Ted tắt máy. Monique khóc nức nở và vùi mặt vào vai tôi. Andrews chợt bảo: - Hãy quay lưng lại ngay. Nhắm kín mắt, tới bao giờ tôi cho biết mới được mở ra. Chúng tôi liền quay lưng về phía chiếc dù lao đao rơi xuống. Tôi nắm chặt song sắt của lan can tàu đến nỗi bàn tay đau điếng. Cánh tay phải của tôi ôm lấy Monique để giữ cho nàng đứng vững trong cơn khóc mùi mẫn. Rồi luồng ánh sáng lóe ra, sáng tới mức độ tôi có thể thấy qua đôi mí mắt khép chặt. Monique rú lên tiếng khủng khiếp. Tôi siết mạnh người nàng. - Cái gì vậy? Tôi trả lời nàng, mặc dầu tôi biết đó là gì. Tôi trông thấy luồng ánh sáng có thể làm mù mắt này tại Bikini, ở cách khoảng rất xa, qua cặp kiếng đen. Tôi biết đó là gì. Đó là tiếng nổ của tử thần. Đó là giây phút tận thế. Đó là mảnh của mặt trời rơi xuống quả đất. Đó là hành vi chuộc lỗi của Edward Dunbar. Đó là ngày tàn của Saint Sudra. Qua tiếng gào trong tai tôi, tôi chỉ có thể nghe được tiếng chuông rung báo hiệu tiềm thủy đỉnh sắp sửa lặn xuống biển. Chúng tôi gần như nhảy xuống thang. Cánh cửa đóng sầm lại và được siết chặt lại ngay sau khi chúng tôi vào trong tàu. Ngay trước khi làn sóng chấn động đánh vào tàu, trước khi sức nóng chạm vào vỏ thép mỏng mảnh, tôi mới cảm thấy boong tàu bắt đầu nghiêng dưới chân tôi trong lúc chúng tôi lặn xuống để thoát khỏi địa ngục mặt biển. Hết