Chương 7 trong phòng vô tuyến lấy bức điện tín mà tôi vừa thảo và đọc lại cho tôi nghe, trong lúc ta đánh dấu từng chữ bắng bút chì: - John Dillingham, Công ty Hermes, 2091 đường R.N.W., Hoa-thịnh-đốn, D.C (HERCOR). Xin kiểm chứng có phải người đàn ông tên Howard Anson đáp phi cơ từ Nữu Ước Hoa-thịnh-đốn có lẽ vào chiều Thứ Tư 19 hình như phải hãng Đông Phương và cho biết tin càng sớm càng tốt, Dunbar. - Thưa ông, có phải HERCOR là địa chỉ điện tín? - Vâng. có thể gửi ngay? - Thưa ông, chúng tôi gửi nội buổi sáng hôm nay. Nhưng nếu ông cần phúc đáp liền, ông có thể dùng điện thoại. - đến nỗi gấp rút như vậy. cứ gửi điện tín cho tôi. - Vâng. Chúng tôi cho ông biết điện tín phúc đáp ngay khi nhận được. Tôi xuống dùng bữa điểm tâm, và như thường lệ, bắt gặp Maclnnes là người ăn sáng sớm nhất. Ông ta bảo: - Chào ông. Có tin vui trong tờ Ocean Times sáng nay. Ông có biết đêm hôm nay Monique de Ménard hát cho mình nghe trong buổi hòa nhạc? Tôi đáp: - Tôi có nghe ông trưởng kho lương cầu ấy. ấy cho hay hát nhạc Hugo Wolf. - Tuyệt! Dường như ông mấy lưu tâm đến chuyện này? - Đúng thế! Tôi chưa hề nghe bài nào của Hugo Wolf. - Vậy ông sắp có cơ hội nghe. Mới tưởng tượng thôi cũng đủ thú rồi. Ít có người nào hát lieder hay bằng ấy, nhất là những bài của Wolf. Tôi với vợ tôi, hôm chúng tôi nghe ấy trình diễn trong liederabend (1) ở Hong Kong, rằng là bất hạnh cho bất cứ ai cùng lên sân khấu hát chung với ấy. Lẽ dĩ nhiên trước kia từng có nữ ca sĩ Elisabeth Sechwarzkopf cũng thuộc vào hạng giỏi. - Tôi cũng có thể tưởng tượng được. Ông ta : - Dunbar, ông quả là con người kỳ lạ. Tôi có cảm tưởng ông đặc biệt lưu tâm đến người đàn bà đó, nhưng xem bộ ông tỉnh bơ tựa hồ ông thèm nhấp nháy mắt dù trông thấy mẹ ruột của ông chết đuối. Ông ta mấy lời đó cách khinh bạc. Tuy nhiên tôi vẫn giận mà chỉ bảo: - Tôi là cả khối xúc động nung nấu trong lòng, nếu ông có thể nhìn thấy được trong lòng tôi. - Tôi tin tôi có thể thấy được. Tôi là con trai thứ bảy của người con trai thứ bảy, tất cả đều thuộc dòng giống Tô-cách-lan, và thỉnh thoảng tôi trông thấy những tượng huyền bí. Chẳng hạn như giờ, tôi cứ thắc mắc mãi về người đàn bà đó. ta... như thế nào, tình tôi dám quả quyết. Ông có biết tiếng "fey", danh từ xưa cũ của xứ Tô-cách-lan? - Mơ hồ thôi. Có phải nghĩa là khả năng thấy được những chuyện huyền bí do trời phú? - , đúng. Tiếng đó có nghĩa số phải chết. - Tất cả loài người ai mà khỏi chết? - Lẽ dĩ nhiên như thế. Nhưng danh từ đó bị hiểu sai chỉ vì thiên hạ tin rằng những người có số phải chết được trời phú khả năng thấu thị, tức là khả năng thấy những chuyện mà bình thường ai có thể thấy, như những biến cố sắp xảy ra, những tượng siêu hình, v.v... Tôi có linh cảm cách gần như chắc chắn rằng đó lâm nguy cách trầm trọng, nếu đến nỗi phải chết. Tôi chân thành ước mong đúng như thế. Nhưng căn cứ theo khả năng thấu thị của tôi, tôi còn linh cảm rằng ta có thể là nguồn gốc hiểm nghèo cho chính ông. - Hơn bất cứ người đàn bà đẹp nào khác? Ông ta quả quyết gật đầu. - Vâng. Tôi biết ông nghĩ rằng tôi chỉ là kẻ bạc nhược, nhưng kinh nghiệm đời cho tôi biết nên những chuyện đó ra khi mình cảm thấy cách quá chắc chắn. Hơn nữa chuyến tàu này có bầu khí vô cùng kỳ dị. Nó ghép ông vào người đàn bà trẻ đẹp đó. Ông cảm thấy như vậy à? - Quả , tôi được biết nhiều về ấy. - Ông đừng nên giấu giếm. Tôi biết quá mà. Ông nên nhớ tôi có khả năng đặc biệt. Ông có biết ấy bị chuyện lôi thôi thuộc vào loại nào ? - Tôi biết. Ông ta im lặng nhìn tôi lúc, rồi bảo: - Tôi muốn tọc mạch. Tôi ghét rắc rối, và ghét tọc mạch. trong những thử thách gay go trong suốt thời gian sống trong những trại tập trung Nhật hồi chiến tranh cùng với vợ tôi nhưng bị giam giữ riêng biệt, là con người thiếu mất chuyện riêng tư. Tôi quen xem trọng điều này nên thích xâm lấn vào đời tư của những người khác. Bà nội của tôi, bậc mệnh phụ theo cổ học, thường trả lời câu hỏi tò mò bằng câu vặn lại hay. Bà cụ hết sức trầm tĩnh : "Nếu ông tha thứ cho tôi vì tôi trả lời câu hỏi đó, tôi tha thứ ông về câu ông hỏi". Ông có toàn quyền lại câu đó với tôi. Tôi muốn đấu khẩu với ông ta. - phải như thế. Chỉ vì tôi hiểu gì để biện minh cho mối lo ngại của ông. Ông ta vẫn hỏi gặng, trái với bản tính của ông ta: - giờ, ngay lúc này, ông có chuyện gì rắc rối cả hay sao? - . Tại sao ông có ý nghĩ đó - kể khả năng thấu thị? - Hôm qua, ta hỏi tôi câu rất kỳ lạ: "Nếu tôi gặp chuyện rắc rối dính líu với những bí mật quốc phòng, tôi có thể tìm gặp ai ở ?". Tôi hơi sửng sốt, nhưng tôi vẫn cho ý kiến ta nên chuyện với Sir George Vallance ở Cơ Quan An Ninh, và tôi có tôi mời ta cùng ăn cơm trưa với ông ta và tôi, nếu ta muốn. - ấy giải thích ấy ngụ ý gì? - . ra, đó phải là việc của tôi, nên tôi hỏi. Tôi chỉ hỏi tại sao ta tìm đến người nào ở ngay trong xứ sở của ta. Mặt ta liền tái mét, trong lúc lắc đầu lia lịa và bảo: ", ! Phải ở mới được!". Vì thế tôi khỏi lo ngại cho ta. Nhất định ông cũng vậy, nếu ông quan tâm đến ta đúng theo tôi phỏng đoán. Tôi gật đầu thú nhận: - Vâng, ông đoán đúng. Tôi cố tìm cho ra . Anson bước vào đúng lúc tôi rời khỏi bàn sau bữa điểm tâm. Ông ta chận tôi lại ở giữa đường và bảo: - Dunbar, tôi muốn bàn với ông về công chuyện làm ăn ngay sáng hôm nay, nếu ông rảnh. - Bất cứ lúc nào trước mười hai giờ trưa. - Hay lắm. Mình chuyện trong phòng tôi vào khoảng mười giờ được chứ? - Vâng, tôi đến. Tôi dạo mình boong cho tới gần mười giờ trưa. Đoạn tôi xuống phòng của Anson ở mạn lái của boong chính. Ông ta hỏi tôi trong lúc tôi ngồi xuống. - Tôi xin mời ông ly rượu trước ? Tôi có thứ Brandy ngon tuyệt: Martell. - , cám ơn ông. Tôi có hẹn uống cocktail với người bạn vào lúc mười hai giờ. - Thế tôi xin phép tiếp tục uống thứ này vậy. đoạn, ông ta cầm ly nước cam chiếc bàn bên cạnh ông ta và uống từng ngụm . Sau đó, ông ta lấy hộp xì-gà trong hộc bàn, mở ra và đưa mời tôi. - , cảm ơn ông. Tôi chỉ quen hút ống điếu. Ông ta mỉm cười. - Đây là xì-gà hiệu Upmano. Chắc ông thích vì chính trị? - Tôi có ý nghĩ gì hết. Nhưng có lẽ ông phải mời tôi đến để đàm luận về các thứ xì-gà của nước Cuba? - Ông đoán hoàn toàn đúng. Quả phải vậy. Tôi vào ngay vấn đề chính yếu. Ông ta duỗi đôi chân dài ra phía trước mặt và gác chéo mắt cá lại, nhìn xuống đôi giày ống bóng loáng bằng da của mình. Giày được đóng cách tuyệt đẹp, mỏng và mềm đến nỗi cử động nhất của chân ông ta ở bên trong cũng lộ ra ngoài. Ông ta chống cùi tay lên tay ghế, mấy ngón tay đan vào nhau. Trong lúc chuyện, ông ta vẫn chăm chú nhìn hai bàn tay, ngón hơi bẻ cong. - Dunbar, tôi mời ông đến đây chuyện với tôi bởi vì tôi lấy làm lạ về ông, và vì tôi muốn đề nghị ông điều. - Ông làm cho tôi kinh ngạc. - Vâng. Và có nhiều chuyện ngạc nhiên khác xảy ra. Xin để cho tôi về nỗi thắc mắc của tôi trước. Tôi thắc mắc về ông bởi vì ông tỏ ra tò mò về tôi. Chẳng hạn những câu ông hỏi De Ménard. Và bức điện tín hỏi nhiều câu về tôi. Lẽ tất nhiên, tôi biết nội dung... Ông ta chợt mỉm cười cách lạnh lùng trong lúc tiếp: - Nhưng đó là hành vi trái phép. - ấy bảo ông như vậy? - trong phòng vô tuyến điện chứ gì? - phải. De Ménard. Ngay sau khi tới đây, tôi cảm thấy mình quá khờ dại. Tôi quên phứt gã nghe lóm trong phòng ngoạn cảnh. - ấy đâu có gì. Tôi bảo: - Trong vụ này có gì đáng gọi là bất bình thường. Chắc ông thừa hiểu rằng, trong nghề nghiệp của tôi, chuyện gì cũng có thể xảy ra. Tôi muốn tìm hiểu mọi người và mọi vật. - Nhưng tại sao lại tôi? Tôi chỉ là con người có chút tiếng tăm. - Ngày nay, thiên hạ đều biết rằng chính những người chút tiếng tăm tạo ra thời - và lịch sử. Như John Brown, chẳng hạn. Dred Scott. Viên hạ sĩ tầm thường đảo Corsica. Người vũ nữ Đức hèn mọn mang cái tên Đông Phương. - Toàn là những người danh tiếng. Ông quá khen tôi. Thôi được, hãy cho qua chuyện đó, mặc dầu câu trả lời vẫn khiến tôi thỏa mãn. Tôi xin bước sang điểm thứ hai. Tôi đặc biệt lưu tâm đến ông với hy vọng ông trở thành người bạn đồng chí. Tôi muốn đề cử ông cho địa vị trong tổ chức của tôi. - Tổ chức gì vậy? Thế mà tôi tưởng ông về hưu trí. - Thôi mà, Dunbar. Phải, tôi ra khỏi Hải Quân Hoàng Gia. Nhưng ông chớ nên bảo tôi rằng ông có ý kiến gì về cái tổ chức mà tôi tới. Ông hỏi nhiều câu về nó. Có câu mà De Ménard trả lời rất thành thực: ấy biết tên của nó. Nhưng ông nhất định phải biết. - Oui-Dire? Tôi có nghe cái tên này. Người ta kể với tôi rằng đó là tổ chức gián điệp. - Còn hơn thế chút. căn bản đúng như vậy, nhưng đây là tổ chức hoàn hảo nhất. Dù những tổ chức tinh vi nhất của các chính quyền cũng sánh nổi. Chắc ông choáng váng nếu tôi kể cho ông nghe những người của chúng tôi đặt ngầm trong mọi chính phủ - nhiều nhân vật có địa vị rất cao. Chẳng hạn người trong bộ tham mưu của De Gaulle. người trong nội các tại của . người trong Thượng-nghị-viện Hoa-kỳ. Đâu đâu cũng có. Nhưng phải chỉ có nhân viên. Oui-Dire biến thành - sắp biến thành - thứ siêu-quốc-gia. Tôi đăm đăm nhìn ông ta có tới nửa phút mới hỏi: - Vì thế, các ông thu tập các khoa học gia? Như em tôi? - Em của ông? Theo tôi hiểu ông ấy chết. Dunbar, tôi xin chia buồn cùng ông. - Ông làm sao biết được em tôi chết? - Oui-Dire có những nguồn tin bì được. - Còn Jacques de Ménard? - Tiếc thay, ông ta từ chối gia nhập với chúng tôi. Về phần ông sao? - Mình chưa bàn qua các điều khoản. Tiền. Ông ta hơi ngẩng đầu lên cao. Hai cánh mũi ông ta nở rộng tựa hồ ông ta vừa bắt được mùi gì khó chịu. Ông ta bảo: - Nhất định có đủ tiền để thỏa mãn cho cả ông. Nhưng tiền bạc đâu có nghĩa lý gì nếu đem so sánh với thế lực? Khi có thế lực rồi tiền bạc thâu vào mấy hồi - tôi dám mọi trường hợp đều giống nhau, nhưng đại khái là như vậy. - Monique de Ménard là hội viên trong tổ chức của ông? Ông ta nhìn sững tôi, kinh ngạc cách . - Trời ơi, đâu phải! Chúng tôi có nhiều việc cần dùng ấy, nhưng đúng như ý ông nghĩ. Tôi chắc lưỡi. - Thế có vẻ hơi khô khan. Ông ta xem đó như câu trả lời. Ông ta quan sát khuôn mặt tôi hồi lâu, rồi : - Hay lắm. Tôi nghĩ rằng mình chuyện khá đầy đủ. Nếu ông có thể đổi ý, xin cho tôi hay liền. Trái lại... Ông ta bỏ nửa chừng, xoay sang chuyện khác. - Bây giờ tới lúc tôi dạo boong. Ông cùng với tôi? Câu hỏi của ông ta như lời đuổi khéo. Tôi liền : - Tôi có việc cần phải làm. Nhưng ông cho tôi hỏi câu cuối cùng: ông rằng ông được tin em tôi chết. Tôi tin rằng đó là . Nhưng đó phải là quan điểm của giới chính quyền, hay là ông hay biết gì hết. - Tôi biết đúng y những chuyện ông được nghe kể. đến đây, ông ta đứng dậy. Chúng tôi cùng ra khỏi phòng ông ta và chia tay tại cầu thang. Ông ta quay lại nhìn tôi với bàn chân đặt mặt nấc thang cuối cùng, và bảo: - Ông chớ nên chờ quá lâu mới quyết định. Như thế có thể hay... cho chính ông và cả De Ménard nữa. - Như thế nghĩa là sao? - Nghĩa là khôn ngoan. rồi ông ta bước lên cầu thang và mất dạng. Bức điện tín trả lời bức thư tôi gửi cho Dillingham đến vào lúc sáu giờ chiều trong khi tôi ra khỏi phòng tắm định thay áo quần để ăn cơm tối: Hồ sơ Đông Phương cho biết Anson đáp máy bay Nữu Ước Hoa-thịnh-đốn 19 giờ thứ tư. Khẩn cấp xin cứ gọi Dillingham cần phải chờ đến Luân-đôn. Patrick. Cái tên có vẻ xa lạ đối với tôi, nhưng ông ta trả lời câu hỏi của tôi. Bịnh đau răng và chiếc khăn tay dùng để che mặt. Chiếc áo choàng và cà-vạt của Ted, cùng cái mũ để che chiếc đầu trọc. Ngay khi vừa thay áo quần xong tôi trở lại phòng vô tuyến. Trước khi đánh bức điện tín của tôi, đọc lại cho tôi nghe: John Dillingham HERCOR: Nhờ xem lại các chuyến bay từ Hoa-thịnh-đốn Nữu Ước sáng Thứ Sáu 21, hình như có người băng đầu ngồi trong ghế lăn với người khác. Dunbar. Chú thích: - (1) liederabend: tiếng Đức, có nghĩa tương tự phòng trà ở Việt Nam (chú thích của dịch giả). Chương 8 Monique xuống ăn bữa tối hôm ấy. Tôi đoán nàng có ý định ăn gì trước buổi hòa nhạc. Theo hiểu biết ít ỏi của tôi về các ca sĩ, tôi nhớ đọc đâu đó rằng họ thường thích ăn sau khi hát. Sau bữa ăn tối, tôi đến phòng nàng và gõ cửa. có tiếng trả lời. Tôi liều chuồi vào dưới khe cửa bức thư ngắn đại ý cầu nàng để cho tôi được mời nàng ăn tối trong phòng tôi sau buổi hòa nhạc. Chưa đầy mười lăm phút sau, Daisy gõ cửa phòng tôi, đem phúc thư của nàng đến. ta vừa mỉm cười cách e lệ đến chịu nổi vừa đưa bức thư cho tôi: Stuart quý, Em đến với nửa giờ sau khi bế mạc buổi hòa nhạc. Trong những vụ như thế này chỉ cần dĩa chim và chai rượu là đủ. Monique. Bức thư như mang theo tiếng của nàng. Tôi nhận thấy bồi phòng vẫn còn đứng ở cửa và còn mỉm cười. Tôi vừa lục túi tìm tiền lẻ, vừa bảo: - cần trả lời. Cám ơn Daisy, nhờ nhắn Err vào đây chút. Err từ nhà bếp trở lại sau mấy phút, cho tôi biết tôi có thể đặt món Suprêmes de Volaille en Chaud-Froid, Blanche Neige. Tôi nghĩ như thế cũng tạm đủ và gọi thêm chai Pouilly-Fuissé, 1964. Phần thứ hai của buổi hòa nhạc, sau khi nghỉ giải lao, là phần dành riêng cho Monique. Nàng đứng trong khoảng lõm của chiếc dương cầm màu đen, với dáng người yếu ớt, mặc chiếc áo dài màu đỏ tươi che kín đôi vai và cổ của nàng nhưng để trần hai cánh tay mang găng dài cũng màu đỏ. Albert Morse với chiếc áo choàng dài trông giống hệt thây ma. Giọng hát của nàng lúc cất lên khiến tôi bàng hoàng kinh ngạc. Nó lớn nhưng được vận dụng và điều hòa cách tuyệt diệu, vừa đầm ấm vừa thiết tha. Nó hùng mạnh mà thanh tao và truyền cảm. Nàng lựa những bài ca Mignon trích trong tập Wilhelm Meister của Goethe (1) để hát sau cùng. Theo chương trình tôi được biết đó là những bài: "Kenast du das Land" ( có biết chốn quê hương?), "Singet nicht in Trauer-tone" (Đừng hát bằng giọng buồn), "So last mich scheinen" (Cứ để cho em hy vọng), "Nur wer die Sehusucht kenni" (Chỉ có kẻ nào đó mới biết tình quê hương), và "Heiss mich nicht reden" (Đừng buộc em ), tất cả đều do Hugo Wolf phổ nhạc. Nhất là bản cuối cùng làm cho tôi nín thở. Tôi nhận ra ngay lúc nàng mới hát câu đầu tiên. Đó là bản nhạc tôi đọc được cách đây khá lâu trong cuốn tiểu thuyết, chứ phải nghe ai hát. Từng câu lần lượt vang lại bên tai tôi trong lúc nàng hát theo điệu nhạc đau buồn cách thầm lặng của Wolf. Heiss mich nicht reden, heiss mich schweigen! Denn mein Geheimnis ist mir Pflicht; Ich mochte dir mein ganzes Inn re zeigen, Allein das Schicksal will es nicht. Zur rechten Zeit vertreibt der Sonne lauf Die finstre Nacht, und sie muss sich erhellen; Der harte Fels schliesst seinen Busen auf, Missgonnt der Erde nicht die tiefverborgnen Quellen. Ein Jeder sucht im Arm des Freundes Ruh , Dort kann die Brust in Klagen sich ergiessen; Allein ein Schwur druckt mir die Lippen zu, Und nur ein Gott vermag sie aufzuschlissen. Và trong đêm tối, tiếng hát của nàng như nghẹn ngào trong nước mắt. Nó bị lạc giọng, nhưng người nghe tưởng chừng nó sắp sửa vỡ tan. Lời ca tự động dịch ra trong tâm trí tôi trong lúc nàng hát mà mắt hề rời khỏi mặt tôi: Em phải sống trong u hoài im lặng! Cho điều bí đến suốt đời. Nỗi đơn, niềm ước ao mang nặng, Với , làm sao tỏ được bằng lời. Cho đến khi vầng thái dương xuất Xé màn đêm, cho mầm sống phơi trần; Rồi đá cứng cũng vỡ tim dâng hiến Dòng suối tuôn vào lòng đất thầm. Ai cũng mong an bình trong tay bạn, Trái tim khô nước mắt tuôn trào. lời thề khép bờ môi vô hạn. Mở lần, chỉ có Chúa cao. (Đan Chinh phỏng dịch) Toàn thể khán giả ngồi im sững có tới mấy giây sau khi tiếng hát dứt mới ào ào vỗ tay hoan hô. Nàng ngẩng đầu lên, nhìn thẳng vào mặt tôi với vẻ như muốn ra dấu với tôi bằng chiếc cằm của nàng. Cử chỉ đó có gì đáng lấy làm lạ, vì tôi trông thấy nàng bày tỏ nhiều lần, nhưng lúc này hình như mang ý nghĩa nào đó mà tôi sao đoán biết nổi. Chú thích: - (1) Wolfgang Goethe: đại văn hào Đức (1749 - 1832), có tư tưởng sâu sắc và óc tưởng tượng phong phú, tác giả của nhiều tác phẩm lừng danh được dịch lại khắp thế giới, ngoài ra ông còn là nhà bác học đại tài (chú thích của dịch giả). Chương 9 Có tiếng gõ vang lên ngoài cửa phòng của tôi ngay lúc vừa quá mười hai giờ khuya. Tôi vẫn còn thức, nhưng tôi chưa kịp cử động Monique giật mình tỉnh dậy. Ngồi thẳng người, nàng nhìn tôi với đôi mắt mở tròn. Tôi đặt bàn tay lên vai nàng và nhận thấy nàng run. Nàng nắm lấy bàn tay của tôi và áp vào làn da ấm giữa hai gò ngực của nàng. Tôi khẽ bảo: - có gì đâu, em cứ nằm xuống. Tôi hé mở cánh cửa độ vài phân và nhìn ra ngoài. Đó là Err. - Thưa ông, có bức điện tín. Nhân viên phòng vô tuyến vừa đưa xuống. - Cám ơn Err. Tôi trở vào với chiếc phong bì tay. Monique chăm chú nhìn cách sợ hãi. - Gì vậy, Stuart? - Điện tín. Có lẽ của ông chủ bút của . Tôi xé chiếc phong bì mỏng ra, vo tròn phong bì và ném vào trong cái giỏ rác ở bên kia phòng. Monique : - Hoan hô. Bức điện tín cho biết: Nội dung: Người đàn ông băng đầu dường như ngồi trong ghế lăn đáp chuyến bay sáng Thứ Sáu. Có người đàn ông hói đầu theo. Ngoài ra còn có người đàn bà cao, tóc đen, đẹp. Nhân viên hãng Đông Phương nhớ rất . Hãy cẩn thận. Xin ra dấu nếu cần trợ giúp. Gọi Dillingham nếu gặp khó khăn. Nhưng đừng gọi từ tàu. Patrick. Đọc lại mấy lời ngắn ngủi mô tả về người đàn bà, tôi liếc mắt nhìn Monique. Nàng cũng chăm chú nhìn tôi. Tôi liền bảo: - Xin lỗi em. Đây chỉ là chỉ thị công tác của ông xếp . Đoạn tôi xếp miếng giấy lại và chuồi vào túi áo ngủ. Trong vài giây thiếu suy nghĩ, tôi có ý định đưa bức điện tín cho nàng xem và dò xét phản ứng của nàng. Nhưng tôi cố gạt bỏ ý nghĩ này, và từ từ trấn tĩnh lại. Rồi tôi trở về giường. Nàng gọi tôi: - Stuart. Nàng vẫn còn ngồi, cúi xuống nhìn tôi. Nền ngực của nàng hơi săn lại trong khí mát lạnh của ban đêm. Tôi trả lời: - đây. - Có chuyện gì rắc rối vậy? - Đâu có gì rắc rối. Tại sao? - có vẻ im lặng và thờ thẫn như người mất hồn. buồn chán? - Có lẽ, hơi buồn. - Omne animalia triste post coitus? (1) Tôi nín cười được. Nàng tiếng La-tinh giống hệt nữ sinh ngọai trừ chữ triste. Riêng chữ này nàng lại dùng giọng Pháp, với "r" của dân Ile de France. (2) - buồn theo cái kiểu đó. Ngọai trừ lúc nghĩ tới chuyện sáng mai tàu đến Cobh và ngày hôm sau đến Le Havre và Southampton. Nàng chống người khuỷu tay và nhìn sát mặt tôi, ngực nàng chạm vào vai tôi. Tôi luồn cánh tay phải của tôi dưới mình nàng và bàn tay ôm lấy khoảng lưng hẹp của nàng, cảm thấy làn da của nàng dưới mút ngón tay của tôi êm như nhung. Mái tóc huyền của nàng buông xuống bên đầu vắt lên cổ tay nàng trong lúc nàng tựa đầu nhượng tay. Tôi xoắn lọn tóc quanh cánh tay nàng như chiếc vòng. Nàng cúi xuống và hôn tôi cách chớp nhoáng, kết thúc chiếc hôn bằng cách cắn môi dưới của tôi. - Tại sao vui? - làm sao vui được khi biết rồi đây mình ra sao? - Chỉ cần tại mình được gần nhau. Như thế này sung sướng hay sao? Tôi lắc đầu: - Vẫn còn chưa đủ. Nàng : - là người quá đạo đức. Tại sao vậy? Ngón tay của nàng rà quanh miệng tôi trong lúc nàng hỏi và giọng nàng chợt có vẻ khác lạ như vài lần tôi bắt gặp. - Chính cũng hiểu. - là hỗn hợp lạ lùng, vừa hết sức phong nhã mà lại vừa hết sức rụt rè, người Tô-cách-lan đất Virginia như bá tước Montrose (3) kết hợp với nhà độc tài Cromwell (4). Tôi chắc lưỡi. - ngờ em giỏi sử học quá. Nàng vẫn để ý lời tôi và tiếp: - Có lúc như người điên cuồng. Nhưng những lúc khác lại vô cùng hiền lành. biết rằng người đàn bà thường thích ngọt dịu nhưng thỉnh thoảng họ lại muốn đối xử cách cứng rắn? Dù đôi khi phải chịu đau đớn? - bao giờ gây đau đớn cho em. Monique, có lẽ bao giờ gặp lại em. - Cũng có thể lắm. - muốn nghĩ em tin như thế. Em hãy giải thích cho nghe chuyện. Về bản nhạc Wolf mà em hát cuối cùng trong đêm vừa qua. Câu " lời thề khép bờ môi vô hạn" ngụ ý gì? nỗi đau đớn lướt qua khuôn mặt của nàng. Nàng khẽ hát hai câu cuối: " lời thề khép bờ môi vô hạn. Mở lần, chỉ có Chúa cao". Stuart, em đâu có viết mấy dòng này, mà chính Goethe viết từ xa xưa. Xin đừng hỏi em gì nữa. Đây là lần cuối cùng... Nàng dừng lại nửa chừng và nhìn sững tôi trong bóng tối lờ mờ. - Lần cuối cùng gì? - Lần cuối cùng em có thể chuyện với . Ngay cả lúc này là lúc giữa mình còn gì bí mật. hãy tin em. Mình phí thời giờ vì chuyện. Tôi liền bảo: - Thế ngừng ngay lại. Em hãy hé miệng ra và nhắm mắt lại rồi cho em cái này hay lắm. Nàng thầm : - Mắt em nhắm đây này. Môi nàng hé ra như đóa hoa hồng và tiếp đón tôi cách mê say. Chú thích: - (1) Tiếng La-tinh có nghĩa: "Mọi loài đều buồn sau khi giao hợp". - (2) Ile de France: tên cũ của đảo Mauríce, trong Ấn-độ-dương, về phía đông đảo Madagascar, trước kia thuộc Pháp, rồi thuộc từ 1810, dân số 741.000 người, kinh đô Port-Louis, chuyên sản xuất đường mía (chú thích của dịch giả). - (3) James Graham Montrose: Đại tướng Tô-cách-lan, sinh tại Edimbourg năm 1612, tướng lãnh trung kiên của Hoàng đế Charles đệ Nhất, bị hành hình năm 1650. - (4) Olivier Cromwell: Nhiếp chánh nước Cộng-hòa , sinh tại Huntingdon (1599-165. Được bầu làm Thượng nghị sĩ ở Thượng nghị viện (1640), ông hô hào cách mạng chống lại quân đội Hoàng gia ở Naseby (1645). Lên Trung tướng ông thiết lập tòa án đặc biệt tuyên án tử hình Hoàng đế Charles đệ Nhất (1649) thống trị Ái-nhĩ-lan và Tô-cách-lan, giải tán Quốc hội, áp dụng chế độ độc tài ở (1653) (c.t.c.d.g). Chương 10 Chưa kịp cạo râu, tôi mặc cái áo ấm bên trong và khoác chiếc áo choàng len bên ngoài để có thể chịu đựng được khí buổi sáng giá lạnh của Cobh. Trước khi rời khỏi phòng, tôi đứng uống cạn tách trà, lấy chiếc áo ngủ tôi vắt lên thành ghế và định treo vào trong tủ kiếng. Tôi thọc tay vào túi tìm bức điện tín tôi cất trong đó. Nó rơi đâu mất. Tôi tìm sàn dưới ghế. Tôi tìm khắp mọi nơi trong phòng, nhưng thấy ở đâu cả. Tôi nhớ nhét nó vào trong túi. Tôi nhớ sau đó tôi có lấy ra, nhưng tôi vẫn xem lại trong hộp đựng máy đánh chữ để chắc chắn tôi cất nó cùng với các thứ giấy tờ khác trong cái đáy giả. Tất cả đều còn đủ ngoại trừ bức điện tín. Tôi lên boong hóng mát với đầu óc đen kịt. Monique rời khỏi phòng hồi trời mới chớm sáng lúc tôi ngủ. Tôi cố nhớ lại những giây phút cuối cùng trong tình trạng mơ màng, nhớ lại chiếc hôn từ giã luyến tiếc của nàng và tiếng xột soạt êm dịu của chiếc áo lụa trong lúc nàng mặc vào người. Rồi hết. Tôi ngủ thiếp trước khi nàng ra tới cửa. Hải cảng Cobh sáng chói lên trong nắng sớm, ánh sáng lấp lánh những gợn sóng lăn tăn mặt nước, khí xao động với hàng trăm con Hải âu vừa bay tròn vừa phóng xuống chung quanh chiếc tàu chạy cách gan dạ sát cầu nổi, những ngọn đồi xanh của Ái-nhĩ-lan dù ở giữa mùa đông mà vẫn rất tươi tốt, những ngôi nhà bé đứng sừng sững mũi đất. Khu vực của hải-cảng Cobh trải dài khắp vịnh dưới bè mây nặng trĩu. Trong lúc tôi nhìn ngắm, cơn gió chợt xé rách lỗ nền mây xám và ánh nắng theo đó tuôn xuống đô thị trông giống hệt mũi lao từ trời phóng xuống. Ngay về phía dưới chỗ tôi đứng, chiếc xà-lan cặp sát tàu và các hành khách xuống bến Cobh thận trọng tìm đường bước xuống cầu phao dựng lên từ boong hàng hóa về phía dưới xa. số người chen chúc nhau boong sau của chiếc xà-lan, đứng run rẩy trong ngọn gió lạnh buốt trong lúc họ nhìn hành lý của họ được đưa lên boong trước. trong số hành khách này là Van Layden với mái tóc vàng tro che dưới chiếc mũ đen. Van Layden chợt nhìn lên boong hóng mát phía lái tàu và vẫy tay với người. Tôi nghiêng mình ra ngoài xa khỏi chiếc cột mà tôi đứng bên cạnh và nhìn theo hướng mắt của ông ta. Anson cũng nghiêng mình ra khỏi chiếc cột cách xa tôi chừng mười lăm thước. Van Layden khum hai bàn tay đặt lên miệng và hét lớn mấy tiếng với Anson. ngọn gió bất thần đánh bạt tiếng về phía mũi đất. Tôi chỉ nghe được vài tiếng: - Khách sạn Lace! Berkeley? Nhưng tôi có thể nghe Anson trả lời cách ràng bởi vì tôi đứng khá gần ông ta và ở về phía dưới gió: - Phải! Thứ Hai! Cái gì Thứ Hai? Hôm nay là ngày cuối cùng của Tháng Hai. Mấy tiếng đó nghe tựa hồ tóm tắt những chỉ thị về cuộc hội họp. Khách sạn Lace. Tôi biết chỉ có nơi thích hợp với lời của Van Layden: Khách sạn Lovelace ở đường Berkeley tại Luân Đôn. Khi chiếc xà lan dần ở cuối đoạn đường đến Cobh và chiếc Victoria nhổ neo, bắt đầu quay mũi về phía hải khẩu, tôi gõ ống điếu vào cái gạt tàn thuốc bằng sắt ở bên cạnh tôi và xuống để cạo râu. Vừa lướt lưỡi dao cạo mặt, tôi vừa nghĩ tới lúc vạch mặt nhân viên của Dillingham tàu. Theo tôi được biết giờ tôi gặp chuyện rắc rối nào nhưng Đảng của Anson - tức Đảng Oui-Dire, bây giờ tôi - bắt đầu ly tán, và tôi thể nào mình theo dõi hết bọn họ. Tôi cũng nhớ rằng người của Dillingham ở tàu để biết chắc Ted thể tới bất cứ nơi đâu. Tôi có cách gì biết được nhân viên đó dùng những phương tiện nào. Nhưng tôi muốn ta xuất để cho ít nhất tôi có thể nhìn thấy ta. Tiềm thức của tôi chắc hẳn nhìn nhận trước khi tôi biết rằng Ted chưa chết, rằng Dillingham có lý, và Ted muốn đến nơi nào đó mà được. Điều này có vẻ mới lạ đối với tôi trong khi tôi vừa cạo râu trước gương vừa suy xét lại, cố gạt bỏ tính ương ngạnh thường lệ. Tôi phải là kẻ có nhiều tình cảm, và tôi tin mình có thể kiềm chế những xúc động, nhưng nghĩ đến điều này tôi vẫn cảm thấy cổ họng nghẹn ngào, hơn cả khi tôi nghĩ rằng Ted chết. Trước khi tôi mặc cái sơ-mi và áo choàng, tôi lục trong hộp đựng khuy áo và lấy tấm Hải Quân Bội Tinh mà Dillingham đưa cho tôi để dùng làm dấu hiệu. Tôi gắn vào lỗ nút của chiếc áo choàng và sửa lại cho ngay ngắn. Màu kim lọai lóng lánh nổi bật lớp vải sậm. Nhưng gan dạ tôi vững như thế. Martin Allen vừa ăn điểm tâm xong tôi ngồi xuống. Ông ta hỏi tôi: - Ông vừa lên xem Queenstown? Tôi đáp: - Vâng. Tôi thích ngắm Hải âu bay. - Hôm nay cũng là ngày tốt cho lũ vịt trời, nếu ông muốn ngắm loài này. Nhưng tôi biết giờ có phải là mùa vịt hay . Ông ta mỉm cười với tôi và bỏ . Lúc bước qua cửa phòng ăn, ông ta dừng lại để chuyện với MacInnes. Tôi sững sờ đến nỗi nghe MacInnes với tôi trong khi ông ta ngồi xuống bàn. - Dunbar, tôi vừa chào ông, ông nghe hay sao? - Xin chào ông. Tôi xin lỗi vì suy nghĩ vẩn vơ. - Tôi cũng nhận thấy thế. Ông lên xem Ái-nhĩ-lan? - Vâng, đó là xứ sở tuyệt đẹp. Tôi hiểu vì sao người Ái-nhĩ-lan rời bỏ miền này. - Theo ý tôi, chắc cũng chỉ vì vấn đề cơm áo. Chào ông Mackintosh, sáng hôm nay có gì đặc biệt ? đoạn ông ta gọi thức điểm tâm trong lúc tôi ngỡ ngàng ngồi im. Martin Allen là người cuối cùng tàu mà tôi có thể nghi ngờ. Tôi mất xúc giác, mất cả khả năng phỏng đoán. Tôi đến gặp Allen trong phòng ông ta, trong lúc ông ta đứng ở khung cửa sổ và chăm chú nhìn quang cảnh cuối cùng của Ái-nhĩ-lan biến dạng vào chân trời. Ông ta quay người lại khi tôi lặng lẽ mở cánh cửa khóa. - Chào ông Dunbar. Vụ săn vịt trời của ông ra sao? - Lúc này đâu phải mùa vịt. Ngay ở Ái-nhĩ-lan. - Chắc tôi làm cho ông ngạc nhiên nhiều lắm phải? Tôi đáp: - Phải. - Kỳ lạ. Có nhiều lúc tôi tin chắc ông nhận ra tôi. Nhất là khi ông chuyện về De Ménard. - ra chính ông cố lẻn vào phòng của ấy. Ông ta bảo: - Mời ông ngồi. , tôi với ông về vụ đó. Theo tôi nghĩ, có lẽ là Anson, mặc dầu chuyện này khiến tôi hơi bối rối. Tôi cố tìm cách vào phòng ấy mà được. Chứ phải phòng ấy. - Tôi có thể cho ông hay em tôi ở trong phòng của Ménard. Tôi đích thân vào trong đó. ra, tôi tin em tôi có mặt tàu. - Ông có muốn cá với tôi em ông ở trong phòng của De Ménard? Lần này cơn giận của tôi bất thần bùng nổ. Tôi phải cố gắng lắm mới xòe được bàn tay ra và ngừng nghiến răng. - Vô lý. Nhưng vừa xong hai tiếng đó, tôi chợt nhớ lại cử chỉ kỳ lạ của Monique những khi nàng ra vào buồng ngủ mà chịu mở rộng cửa trong lúc tôi ngồi trong phòng khách của nàng. Và tôi cũng nhớ lại lời từ chối đầy lo âu của nàng lúc nàng chịu để cho tôi lục soát phòng nàng giữa đêm khuya. Tuy vậy, tôi vẫn cố : - Vô lý. Nếu thế bồi phòng trông thấy. - Làm sao ông biết được ta trông thấy? Chỉ cần món tiền thưởng đặc biệt là thu xếp ổn thỏa. Dù thế nào nữa, mong ông vui lòng giúp tôi dịp lục soát phòng ấy đêm nay. Ông hãy tìm cách làm cho ấy bận rộn sau bữa cơm tối. Ông có thể đưa ấy khiêu vũ hoặc dạo mát boong. Trong lúc đó tôi lẻn vào phòng và cố tìm xem. - Làm sao ông vào được? Ông ta lấy xâu chìa khóa trong túi ra và đưa cho tôi xem chiếc. - Tôi có dụng cụ đặc biệt này để mở bất cứ ổ khóa nào. - Ông nghĩ rằng nếu có em tôi trong đó, bọn họ cho người canh chừng cẩn mật? - Đâu cần. Ông ấy chắc bị tiêm thuốc mê - tôi dám cá như thế. Dù sao, tôi cũng phải chịu liều phen. Trong nghề của tôi, tôi vẫn thường phải tùy cơ ứng biến. Ông ta bằng giọng nhàng nhưng có vẻ vui. Khó mà giải thích được cơn giận ngấm ngầm sôi trong lòng tôi hay đây là mặc cảm phản bội. Ông ta chỉ lên những điều mà tôi ngần ngại muốn với chính mình, hoặc với cõi tiềm thức luôn luôn hướng dẫn cho lề lối làm việc trong tâm trí của tôi. Nhưng tôi vẫn cảm thấy thích nghe những lời đó. Tôi bảo: - Được rồi. Tôi làm theo lời ông. Ông hãy đến phòng tôi sau khi xong việc và kể lại cho tôi nghe. Suốt ngày hôm ấy tôi gặp Monique. Nàng xuống ăn trưa cũng như ăn tối. Sau bữa ăn tối, tôi lên phòng nàng và gõ cửa. Tôi nghe ngay tiếng nàng hỏi ở sát cánh cửa: - Ai đó? Tôi đáp: - Ein Freund (1) . Stuart. Nàng chỉ mở cửa chút xíu. Nàng mặc chiếc áo lụa đen, tóc buộc lại ở phía sau bằng dây băng màu xanh thẫm như lần đầu tiên tôi trông thấy nàng đêm nàng đến phòng tôi. Trái tim của tôi đập thình thịch trong lồng ngực. Nàng chào tôi với nụ cười thoáng qua: - À, Stuart. - Suốt ngày hôm nay trông thấy em. lo ngại biết có phải em bị bệnh. - Em bị nhức đầu ác liệt, nên phải nằm miết trong phòng. Tôi liền đề nghị: - Em cố lên khiêu vũ và uống ly với rồi hãy ngủ. Chắc chắn em cảm thấy khỏe hơn. Nàng do dự lát mới nhận lời: - Được rồi. Nhưng chơi với em tối nay, e vui đâu. cho em mười phút để em thay áo quần. Em gặp phòng khiêu vũ. Tôi có cảm tưởng như kẻ phản bội. Nhưng tôi cần phải biết. Chúng tôi cùng khiêu vũ trong tiếng đồng hồ và kết thúc buổi tối bên nhau bằng cuộc dạo bộ boong hóng mát. Monique có vẻ nghiêm trang và gần như im lặng suốt thời gian ở bên tôi. Tôi có cảm giác tựa hồ vừa nuốt khối chì và lúc này nó nằm trì xuống trong đáy bụng của tôi. Ngay cả cảm giác êm dịu của bàn tay tôi đặt lưng nàng và thân hình đàn bà đầy quyến rũ của nàng trong vòng tay của tôi, vẫn khiến cho tâm trí tôi nhàng khoan khoái được. Tôi có cái cảm tưởng thường gây ra do những vụ kết thúc. Frost (2) : Ah, when to the heart of man, Seemed it ever less than a treason, To bow to accept the end Of a love or a season. (Ôi, trái tim người chỉ bấy nhiêu, Dù chưa mưu phản, dối gian nhiều. Cũng đành chấp nhận cho phần cuối Của cuộc tình hay thoáng . Đan Chinh phỏng dịch) Đó là tất cả cảm nghĩ của tôi. Tôi thể giải thích vì sao tôi có ý tưởng tới lúc phải chấm dứt. Nhưng cảm nghĩ vẫn đến, đau buồn và che đậy. bước boong hóng mát, chúng tôi cùng dừng lại ở khung cửa mở để nhìn những ánh đèn lấp lánh sáng của các đội cấp cứu hàng hải bờ biển nước Pháp. Thỉnh thoảng chúng tôi trông thấy vùng ánh sáng lờ mờ của đô thị gần bờ bán đảo Cherbourg phía dưới đám mây giăng dọc theo bờ biển. Tốc độ của chiếc Victoria giảm bớt. Vốn là chiếc nhất so với những chiếc Queen khác, nó hơi tròng trành khi những làn sóng lớn từ ngoài khơi Đại-tây-dương đổ vào nâng phần lái tàu lên cao. khí ẩm ướt và giá lạnh: hơi nước biển và hơi sương đọng lại chảy dài mặt kiếng cửa sổ. Nàng buồn rầu lên tiếng: - Đó là vùng đất đen tối và đẫm máu. Tôi chăm chú nhìn nàng. Nàng vẫn hề nhìn tôi, trong lúc tôi trả lời nàng: - Phải. - ở đâu trong thời chiến tranh? Theo các đạo quân đổ bộ? - , chỉ ở giữa Thái-bình-dương. Nàng hỏi tiếp: - Caen chỉ cách bờ biển mấy cây số về phía trong đất liền. Trong những năm đó, có khi nào ước ao có thể chết và bao giờ phải sợ hãi nữa? - Luôn luôn. Tại Tawara, quần đảo Marshall, Salomon, Guam, Iwo Jima, Okinawa. bất cứ ở đâu. Tôi biết nàng nhận ra những cái tên từng được nhiều người trong bọn quân nhân chúng tôi xem như bùa chú. Tôi cảm thấy mình hơi kỳ cục nên hỏi sang chuyện khác. - Em vẫn còn nhớ những vụ đổ bộ? Nàng : - Hồi đó, em ở bên . Em hãy còn là con bé xíu. Nhưng em bao giờ muốn chết. Mãi tới bây giờ cũng vậy. Tôi vỗ về: - Em hãy yên tâm. Nàng quay người khỏi khung cửa mờ và nhìn tôi đăm đăm. Đôi mắt màu khói của nàng gần như u tối, con ngươi mở rộng trong bóng tối của boong tàu, khiến cho nàng mang nỗi buồn vời vợi. Tôi chợt bảo: - Em run. Em lạnh hay sao? - Như ở dưới đáy mồ. Em nghĩ em phải về phòng ngay bây giờ. Tới cửa phòng của nàng, nàng nắm chặt và áp lưng bàn tay của tôi vào giữa ngực nàng. Nàng hôn tôi cách nhanh chóng rồi khẽ : - Ngủ ngon, nghe Stuart? - còn gặp lại em? - Đêm nay được đâu. Stuart, thời giờ... thời giờ của em đến rồi. Ngoài ra em còn bị đau đầu, đau bụng và cảm thấy quá buồn chán. Em rất tiếc. - cũng rất tiếc. gặp em sáng mai. Trong bữa điểm tâm. Nàng mỉm cười. - Ngủ ngon nghe Stuart. hãy nhớ đến em. Nhất là về đêm. Tôi hôn nàng, cố nhận chìm cơn kích thích trổi lên trong người tôi. Nàng vào và đóng cửa. Martin Allen có mặt trong phòng tôi khi tôi trở về. Tôi liền đến gõ cửa phòng ông ta ở hành lang phía bên trái. có tiếng trả lời. Cửa phòng có khóa. Tôi liền lên phòng ngoạn cảnh và những nơi công cộng khác. Tôi lại còn dạo vòng quanh boong hóng mát và boong chính. Cả hai nơi này đều vắng tanh. Cuối cùng tôi trở về phòng và leo lên giường với ly rượu nguyên chất. Vừa uống rượu tôi vừa đọc được hai chương của cuốn The Heavenly Twins mà tôi thường đem theo bên mình khá mệt và thiu thiu ngủ. Tôi nhìn đồng hồ trước khi ngủ thiếp . Lúc tôi tỉnh giấc tôi sao đoán biết mình ngủ được bao lâu. Đôi kim dạ quang mặt đồng hồ chỉ bốn giờ hai mươi sáu. Cuốn sách mở ra vẫn còn úp ngực tôi. Tôi biết mình ngủ khá say nên làm rơi nó xuống. Tôi nằm im có tới mấy phút mới hiểu cái gì đánh thức tôi dậy - Đó là yên lặng. Tàu nhàng vào hải cảng Le Havre và cặp bến trong lúc tôi ngủ mê. Tiếng rung chuyển của động cơ ngừng. Vừa thức dậy, cảm giác kinh hoàng mãnh liệt lướt qua tâm trí tôi làm cho tôi tỉnh táo hẳn. Tôi có khả năng thấu thị như số bà con miền Tô-cách-lan của tôi, nhưng tôi quá quen thuộc với những hồ nghi của mình. Bây giờ tôi có cảm tưởng chắc chắn rằng việc gì độc đáo, khủng khiếp và nguy hiểm sắp sửa xảy ra. Cách đây mấy năm có lần tôi thể nào uống nổi cà phê. chất cafjeine gây ra trong tôi cảm giác hoảng hốt, tên và hình dáng, tựa hồ có con thú lớn rình rập sắp sửa nhảy chồm lên mình tôi. Cảm giác này lại trở về trong buổi sáng tinh sương hôm nay. tuy nhiên cảm giác kinh hoàng phải cho chính tôi. Nó tập trung vào Monique, tựa hồ tôi có thể trông thấy ràng nàng ở trong cơn hiểm nghèo. Tôi cố áp đảo cảm giác đó xuống càng lâu càng tốt. Rồi tôi trỗi dậy, thay áo quần và mặc luôn chiếc áo choàng dài bằng vải len. Tôi vẫn chưa có tư tưởng minh bạch mình làm những gì, cho tới khi tôi bước ra ngoài hành lang. Rồi tôi biết tôi tìm Monique. Tôi gõ lên cửa phòng của nàng, và vặn thử quả nắm. Tôi hy vọng như thế làm nàng giật mình hoảng sợ. Cửa khóa và nhàng mở ra. Phòng khách lờ mờ sáng. chút ánh sáng từ những ngọn đèn của các kho hàng bến Le Havre lọt qua mấy khung cửa sổ vừa đủ cho tôi thấy đường. Tôi lặng lẽ băng ngang phòng và áp tai vào mặt cửa buồng ngủ. Chỉ có im lặng và tiếng xào xạc khe khẽ của gió thổi trong các ống dẫn thuộc hệ thống điều hòa khí. Tôi liếc mắt trở lui phòng khách, trông thấy chiếc trường kỷ được dọn dẹp, làm chỗ ngủ, chăn và ra xổ tung, nhưng có gối. Cửa buồng ngủ cũng khóa. Trong lúc tôi mở hé cánh cửa, tôi bắt đầu nghe những tiếng động bến tàu bên ngoài. có hoạt động ở phía trước mũi, có lẽ người ta dựng cầu phao để di chuyển hàng hóa xuống bến. Chắc hành khách sắp sửa lên bờ vào khoảng bảy giờ. Tôi để cho cửa buồng ngủ tự động xoay và bước vào bên trong. Đây là buồng ngủ có hai giường giống buồng của tôi. Tôi tới chiếc giường gần hơn hết. Giường hề có ai nằm lên nhưng phía của tầm vải phủ được lật ra. Chiếc gối có vẻ như được ném lên đầu giường. Tôi cầm lên mà hiểu vì sao mình làm như vậy. Mùi nước hoa của Monique phả vào mặt tôi. Tôi biết ngay đó là Bellodgia, thứ nước hoa nàng thường dùng ban đêm. Chiếc giường kia ràng có người nằm lên. Tôi nhặt cái gối ở đây và đưa lên mũi. có mùi nước hoa. Thay vào đó là mùi thoang thoảng mà tôi sao xác nhận pha trộn với mùi khác hơn làm tôi liên tưởng đến khí trong các bệnh viện. Tôi đặt chiếc gối trở xuống giường và lần bước về phía cửa buồng ngủ, tâm trí quay cuồng trong suy tư. Monique ở đâu? Đúng lúc tôi vừa tới cửa, tôi bỗng biết chắc chắn có kẻ nào ở trong phòng ngay sau lưng tôi. Tôi liền quay vụt người lại, nhưng kịp. Bị đánh cú vào gáy, đúng phía sau tai, tôi té nhào tới trước. Tôi ngã người qua cửa ra tới phòng khách, nằm dài tấm thảm. Đó là ký ức cuối cùng của tôi. Tôi bất tỉnh trước khi lăn ngửa ra và nằm yên. Chú thích: - (1) Ein Freund (tiếng Đức): người bạn (chú thích của dịch giả). - (2) Robert Lee Frost (1874 -?): Thi sĩ Hoa-kỳ (c.t.c.d.g.).
Chương 11 Khi tôi từ từ tỉnh lại, mặt trời buổi sáng chiếu qua cửa sổ phòng khách. Ngay trước khi ngồi dậy, trông thấy góc các tia sáng, tôi biết trời khá trưa. Tôi cố gượng vừa đủ để ngồi lên và nhìn đồng hồ tay. Sáu giờ năm mươi bảy. Tôi bị bất tỉnh hơn hai tiếng đồng hồ. Tôi có cảm giác đầu mình bị nứt, nhưng khi tôi đưa bàn tay sờ qua cách đầy sợ hãi về phía sau, tôi thấy máu mà chỉ có cục u bên cạnh vành tai. Tôi biết mình bị đánh ngất cách tài tình bởi tay chuyên nghiệp biết cách làm sao cho nạn nhân chết. Ngoài ra còn có mùi vị ngọt cách buồn nôn trong miệng tôi và cảm giác nóng ran chung quanh mũi và môi của tôi. Thuốc mê. Đúng rồi, lẽ chỉ cú đánh dù mạnh đến mức đó, mà lại có thể làm cho tôi mê man quá lâu như thế này. Tôi phải ngồi yên mấy phút, tay ôm đầu cho tới khi bớt nhức, mới có thể vận sức đứng dậy được. Ngay chính công việc này cũng phải chia thành từng giai đoạn: đặt bàn tay trái lên mặt thảm, chống thân hình lên bằng hai đầu gối, bỏ bàn chân sàn và đẩy mạnh. Bước cũng phải dễ dàng. Tôi bước cách chậm chạp và lảo đảo tới khung cửa sổ gần nhất nhìn ra bến tàu, cố xem thử có phải tàu rời bến. Tôi có thể cảm thấy máy tàu chuyển động lại. Nắm chặt mép cửa sổ bằng cả hai bàn tay, tôi trông thấy quang cảnh bến tàu di chuyển từ từ xa dần hông tàu. Về phía bên trái tôi có thể trông thấy bờ dốc lài lài trôi lui mãi. Tôi nhìn nhanh khắp bến tàu. Ngòai bốn người, tất cả hành khách khác biến dạng vào khung cửa đen ngòm của dãy nhà quan thuế chạy dài bên kia đường sắt. Họ là ba người đàn ông và người đàn bà, vừa tới khung cửa rộng và tối đen. Petrelli đẩy chiếc ghế lăn mang người băng đầu kín mít. Anson bước bên chiếc ghế. Và Monique bước phía bên kia. Ngay lúc vừa đến khung cửa, Monique chợt dừng chân và nhìn lui. Tôi có thể trông thấy khuôn mặt hình trái xoan của nàng cách khá trong ánh nắng của buổi sáng sớm. Anson dừng cách nàng bước về phía trước. Ông ta với nàng câu gì đó. Tôi có thể đoán được vẻ nóng nảy trong thế đứng của ông ta. Nàng vẫn đứng nhìn lui thêm lúc, mắt lướt dọc theo con tàu tựa hồ tìm người nào ở boong. Tôi vội vàng tháo con ốc gắn khung cửa sổ, nhưng ngay trong lúc cố tháo, tôi biết phải mất nhiều giờ mới mở được cả bốn con. Đúng khi tôi ngừng tháo cửa, Monique quay người và theo Anson vào trong khung cửa như miệng hang. Hình ảnh cuối cùng của nàng mà tôi được thấy trong lúc nàng ra khỏi nơi có ánh nắng là chiếc váy của nàng xoay dưới lai chiếc áo choàng ngắn bằng lông chồn. Mấy lời của Monique chợt vang lại trong tâm trí tôi trong lúc tôi nhìn nàng và mùi vị cay đắng dâng lên từ đáy cổ của tôi. "Thời giờ... thời giờ của em tới rồi." "Đây là lần cuối cùng... lần cuối cùng em có thể chuyện với ". Tôi phải ngồi xuống ở bàn viết của Monique hồi lâu mới có thể đủ thăng bằng để ra cửa. Tôi chậm bước trở về phòng riêng, tay vịn vào vách ngăn, có cảm tưởng sắp sửa ngất xỉu lại trước khi về tới nơi. Nhưng tôi ngất. Tôi đâm bổ người qua ngưỡng cửa và với tay lui đóng cánh cửa lại. Mãi đến khi tôi lụp chụp bật đèn lên rồi tôi mới trông thấy có ai nằm dài tấm thảm bên cạnh giường. Đó là Martin Allen. Ông ta gần chết khi tôi sờ vào mình ông ta. Cán cây dao dài dựng đứng sau lưng ông ta trong lúc ông ta nằm úp mặt xuống tấm thảm. Ông ta gượng ngóc đầu dậy khỏi mặt sàn, nhìn tôi bằng đôi mắt lờ đờ. Tôi gọi: - Allen! Ai đâm ông vậy? Miệng ông ta mấp máy hồi mới thào được tiếng: - Matuschek. Giọng ông ta quá yếu, như của người hấp hối. Tôi luồn bàn tay dưới trán ông ta và giữ cho mặt ông ta khỏi chạm lên nền. Tôi thể lăn ông ta nằm ngửa ra được vì kẹt con dao. Máu ông ta chỉ chảy ra ngoài chút ít, nhưng lưng áo choàng ướt sũng khoảnh và ở khóe miệng có tia máu bầm bắt đầu rỉ ra. Tôi hiểu ngay như vậy nghĩa là gì. Tôi liền : - Allen, ông đừng lo. Để tôi gọi bác sĩ. - ! Ông ta như đem tất cả sức lực cuối cùng còn lại để ngăn cản. Tôi có thể thấy thân hình ông ta cứng đờ vì dùng quá sức trong lúc vẫn cố gắng tiếp: - ! Trốn . Nghi ngờ ông. Hãy im lặng trốn . với Dill m. Suit... Try... Hai tiếng cuối quá yếu đến nỗi tôi thể chắc chắn mình có nghe đúng hay . Ông ta lại lắp bắp: - Suit... Try... Rồi máu tươi trào ra khỏi miệng ông ta và mắt ông ta dại hẳn khi tôi nhìn kỹ lại. Tôi đặt đầu ông ta xuống và ngồi ngửa ra. Trong đời tôi, tôi từng chứng kiến nhiều người chết. Tôi nhận thấy điều khá kỳ lạ là cơn đau đớn lúc chết của mỗi người đều giống nhau. kẻ hấp hối và biết mình sắp chết bao giờ cũng gần như sẵn sàng ra . Các bạn của tôi là những người chịu nhiều đau đớn hơn hết. Tôi từng trông thấy nhiều bạn thân gập người lại vì đau đớn đến chịu nổi, từng nhìn ánh mắt lạc thần của người mặc cho huyết thanh từ từ chuyền sang từ cái chai treo cây súng cắm lưỡi lê vào nền đất cứng. Nhưng cảnh tượng ngoài trận tiền bao giờ cũng đau lòng hơn bất cứ nơi nào khác vì đôi mắt lạc thần là của kẻ thân như người em cùng chung máu huyết. Mãi lúc lâu sau tôi mới trông thấy cái hình do Martin Allen vẽ cách vụng về mặt gỗ màu vàng của chiếc ghế đẩu bên cạnh giường. Trong phút chốc, tôi quên hết nỗi phiền muộn. Cái hình được vẽ bằng chính máu của ông ta, gồm hình chữ nhật với hai hình chữ nhật hơn nằm bên trong, đối xứng nhau qua đường chéo và góc dính vào nhau. Dần dần tôi mới hiểu được ý nghĩa của nó: trong những mẫu cờ dùng làm ám hiệu cho các lọai tàu bè, có ngụ ý: " Bạn đứng giữa vùng nguy hiểm". Tôi dí ngón tay lên đó và nhận thấy máu bắt đầu đông đặc và đen bầm. Nhưng Allen để lại cho tôi bức thông điệp. Họa chăng chỉ có Chúa mới hiểu được tôi cảm thấy mình chịu trách nhiệm về cái chết của Allen trong suốt mười lăm phút ngồi xuống bên cạnh xác của ông ta, nhìn nó lạnh dần. Nhất định bọn chúng bắt được ông ta và giam giữ kín ở nơi nào đó cho tới lúc giết ông ta và bỏ xác trong phòng tôi. Nhưng tôi phải thoát ra khỏi cảnh ngộ này, và tôi bắt đầu nghĩ đến vần đề của chính mình. Tôi khó lòng mang xác Allen trở về phòng ông ta qua dãy hành lang chật hẹp tàu. Còn để lại đây, chắc chắn người ta phát giác trước khi tôi kịp qua khỏi phòng kiểm nhận thông hành ở Southampton. Trừ phi tôi có thể giấu kỹ ông ta. Tôi chỉ nghĩ ra được mỗi chỗ, và ngay cả chỗ này cũng rất nguy hiểm. biết bao lâu sau người ta lau chùi căn phòng này? Có lẽ trước cuộc lau chùi toàn diện chiếc tàu để chuẩn bị chạy trở qua Đại-tây-dương. Ít nhất tôi cũng thừa sức lừa phỉnh được Err. Đó là tất cả những gì tôi có thể làm. Tôi phải duy trì tự do để dễ dàng hành động. là may mắn vì tôi bảo Err đừng mang trà cho tôi trong buổi sáng cuối cùng này. Cố quên chiếc đầu nhức nhối và mùi vị đắng chát trong cổ họng vì buồn nôn, tôi xoắn mấy ngón tay vào phía sau cổ áo của Allen và kéo lê ông ta cùng tấm thảm mà ông ta nằm lên băng ngang sàn tới cửa buồng tắm. Tôi dám nâng ông ta lên cao vì sợ làm tràn vũng máu còn chưa thấm qua lớp thảm. Ông ta nặng cách ngờ. Chiếc đầu võ sĩ của ông ta lắc lư yếu xịu. Tôi suýt nôn mửa mấy lần trong lúc kéo ông ta tới cửa và vật lộn với ông ta cùng tấm thảm để đưa tất cả lên bậc cửa cao hơn nền phòng rồi sau đó lên cạnh bồn tắm lại còn cao hơn nữa. Cuối cùng tôi phải rút lưỡi dao ra để cho khỏi bị vướng lúc lăn ông ta vào bồn. Tôi ngạc nhiên thấy chỉ có chút máu chảy khi tôi rút dao ra. Tới đây tôi sao nín thêm được nữa. Tôi quay lại bồn rửa mặt và nôn tháo suốt phút. Nhưng lẽ tất nhiên trong ruột tôi có gì nhiều. Ngay cả bữa điểm tâm tôi còn chưa ăn. Yếu đuối và run rẩy, tôi lấy tấm màn cuốn quanh xác Allen và nhét vào hai bên bồn tắm. Sau khi cạo râu qua loa rồi, tôi mới chợt trông thấy phong thư lớn nằm mặt gối của giường tôi, với dấu hiệu riêng của bến tàu Cunard ở góc. Bức thư đề tên tôi, "Stuart", với nét chữ ngay ngắn của Monique. Tôi nhìn chăm chú hồi lâu mới mở ra. Đoạn tôi đem thư tới bàn, nặng nề ngồi xuống, và bắt đầu đọc: Stuart, Stuart quý: Ai oán: em phải thay đổi tất cả chương trình. Im lặng, sáng nay em phải rời khỏi tàu ở LeHavre. Ngày nay em biết em phải Ba-lê với Jacques. Thế có nghĩa là em còn gặp lại nữa. Stuart, em rất buồn. Nhưng thế này là tốt nhất. U buồn thay, mình bao giờ hạnh phúc, vì đời em bao giờ đem an vui đến cho . Rồi đây em nhớ mãi chuyện này đến suốt đời, khiến em sao quên được kỷ niệm. Nhưng bây giờ quên em . Đây là món quà cuối cùng em tặng , dù em cho quá ít, nhưng lại bảo đảm cho Ted vẫn còn sống và bình an. Điều này em phải bí mật cho hay. Stuart quý, hãy tha thứ cho em, liebe Brust (1) , vĩnh biệt . Monique. Phía dưới chữ ký, nàng viết bốn dòng cuối cùng của ca khúc trong tập Welheím Meister, mà nàng hát theo nhạc của Hugo Wolf: Darum an dem langen Tagie Merke die es, liebe Brust, Jeder Tag hat seine Plage Und die Nacht hat ihre Lust. Tôi lấy cây bút chì, cảm thấy lỗ trống trong dạ dày lan rộng dần, và dịch lại mặt giấy ngay dưới mấy câu thơ bằng tiếng Đức: Rồi tháng ngày trôi chảy êm đềm, xin nhớ mãi dùm em, Ngày qua ngày vẫn thêm lầm lỗi. Cứu vãn bằng niềm vui mỗi đêm. (Đan Chinh phỏng dịch) Tôi gạch bỏ đoạn thơ vừa dịch bằng hai lằn bút chì khắc nghiệt và xem lại phần chính của bức thư. Tôi đọc đọc lại tới bốn lần cho tới khi quả quyết lời thư giống Monique. Những mẫu tự đầu mỗi chữ hoa viết bằng kiểu chữ in, đúng là lối viết của nàng sao lầm được. Nhưng chữ đầu tiên, đứng riêng ra, lại hoàn toàn giống của nàng. Tất cả chỉ là những câu ghi chú lộn xộn của nữ sinh. Lời thư rời rạc và vụng về, sao giống câu văn tiếng của Monique thường bao giờ vụng về. Tôi tạm gác lại. Cất phong thư vào trong đáy giả của hộp đựng máy đánh chữ xong, tôi gọi Err mang thức điểm tâm vào phòng. Tôi thể chường mặt ngòai bàn ăn. Vả lại tôi dám bỏ liều để Err vào lau chùi trong lúc tôi vắng. ta khi đem thức ăn vào: - Ông sắp về tới nhà rồi. Tôi bảo: - Phải. Nhưng tiếng đó làm tôi giật nảy mình. Tôi thể về nhà được nữa. Tôi bị truy nã khi người ta tìm thấy tử thi của Allen trong bồn tắm của tôi. Trong giây lát tôi chợt có ý định ở lại để cho nhà chức trách thẩm vấn. Nhưng tôi hiểu như thế làm hư hỏng cuộc tìm kiếm mà tôi cương quyết thực , và tôi thể kéo dài thời gian. Tôi liền hỏi Err: - Bao giờ lau dọn căn phòng này? - Thưa ông, chắc cũng phải sáng mai. - Tốt. Tôi có việc phải làm. chỉ cần trải giường xong đặt cho tôi tấm bảng "Miễn quấy rầy" ở ngòai cửa. Tôi ngốn ngấu cho xong bữa điểm tâm và lên phòng vô tuyến để cố gượng tạo ra dấu vết giả mạo. Tôi đưa cho trong phòng này số điện thọai của Khách sạn Savoy ở Luân-đôn. ta bắt liên lạc với Khách sạn sau mấy giây. Tôi liền hỏi thăm George Renata. Tôi quen biết nhiều ta nhưng tôi muốn ta nhận ra tôi lần này. Tôi cố giả giọng miền đông tiểu bang Virginia trong lúc : - Ông Renata, tôi là Angus Mackenzie ở Virginia, tàu Queen Victoria sắp cặp bến Southampton, và tôi vô ý đặt phòng trước. Tôi muốn ngụ tại khách sạn Lovelace của ông nếu ông còn phòng trống. Stuart Dunbar dặn tôi có thể chuyện với ông nếu tôi gặp khó khăn. - Nhưng thưa ông Mackenzie, đây là Khách sạn Savoy. Tôi kêu lên: - Ôi, trời! Tôi gọi lầm số. - Thưa ông, hề gì. Nếu ông có thể giữ máy lát, tôi có thể gọi tới Lovelace và thu xếp giúp ông. - Thế tốt quá. ta bỏ chưa tới phút và trở lại cho tôi hay: - Ông Mackenzie, ông may mắn. Ở đó còn phòng trống loại hai giường, có buồng tắm riêng, nếu ông bằng lòng. - Vậy là nhất. Ông vui lòng giữ phòng đó cho tôi? - Thưa ông, tôi giữ rồi. Chúng tôi cho người ra tận bến tàu Southampton để đón ông. Tôi biết chuyện này thể che chở cho tôi được lâu. Hy vọng độc nhất của tôi là trong phòng vô tuyến nhớ tôi gọi số điện thoại của Savoy, và biết mặt tôi. Tôi trả tiền mặt cho ta. Nhưng tôi vẫn mất khá nhiều giờ, nhiều hơn giờ cần thiết khi cần phải mạo hiểm trong trường hợp như thế này. Nhân viên sở di trú tàu chỉ liếc mắt xem qua sổ thông hành của tôi khi chúng tôi đến hải cảng. Tôi toát mồ hôi khắp người trong lúc ông ta nhìn hình tôi rồi quay sang tôi, và khoan thai đóng khuôn dấu vào sổ. Tôi phải vờ trông ra ngoài, phía mũi đất và tòa lâu đài cổ, qua mấy khung cửa sổ bên hông tàu. Hệ thống điều hòa khí tắt nên khí trở nên ngột ngạt. Tôi lại còn toát mồ hôi nhiều hơn nữa khi tôi xách hộp đựng máy đánh chữ trước phòng của viên trưởng kho và cố bước chậm xuống cầu phao. Tôi chờ đợi nghe tiếng gọi lớn tên tôi ở bất cứ lúc nào. Tôi chỉ thở được hơi dài lúc tôi cảm thấy mặt bê-tông ở cuối cầu phao dưới chân tôi, và bắt đầu băng đường rầy xe lửa chở hàng hóa, tiến về phía dãy nhà quan thuế. Thế rồi trong lúc bước vào đây, tôi lại gặp chuyện rắc rối khác. Tôi quên phứt chuyện Geogre Renata bảo cho người đến đón tôi tại Southampton, mãi tới khi chợt trông thấy người bồi sang trọng của Khách sạn Savoy lăng xăng ở cổng ra. ta lên tiếng hỏi: - Thưa, ông Mackenzie? Tôi bao giờ biết được bọn họ làm cách nào để nhìn ra người mà họ đón, nhưng bao giờ họ đón hụt. ta tiếp với tôi: - Thưa ông, tôi lấy hành lý cho ông, nếu ông vui lòng giao giấy khai báo cho tôi. Lưỡi tôi líu lại trong mấy giây. ta nhìn tôi cách kỳ lạ, tay vẫn đưa về phía chiếc phong bì tôi cầm. Tôi liền giao cho ta, và bảo bằng giọng hơi luống cuống: - Tờ khai mang tên Dunbar. Stuart Dunbar. Vừa , tôi vừa đưa cho ta tờ giấy bạc -kim. Mắt ta hề nhấp nháy trong lúc tay cầm tờ bạc. - Thưa ông, tôi hiểu. Ông cần giữ kín cho ai hay biết. Tôi đưa mọi thứ của ông lên xe lửa cấp kỳ. Ông chỉ việc theo tôi và bước mình lên toa xe. ta có mặt ngay vừa lúc tôi qua khoảng đưởng chừng trăm thước tới nơi xe lửa đậu. ta bỏ hành lý lên giá cho tôi và chào: - Xin chúc ông đường vui vẻ. Rồi ta từ giã bỏ tôi ngồi run mình. Mồ hôi vẫn tháo ra như tắm, tôi nhìn ra khung cửa về phía dãy nhà quan thuế cho tới khi đoàn xe lửa chuyển mình bắt đầu lăn bánh. Trong lúc con tàu khởi chạy nhanh, tôi bỗng trông thấy ba người đàn ông phóng ra khỏi ngưỡng cửa chính của dãy nhà quan thuế. Hai người trong bọn họ là hai viên sĩ quan hàng hải. Người thứ ba là người mặc áo choàng dài màu trắng. Có lẽ Err. Bọn họ nhìn lúc tựa hồ muốn chạy theo xe lửa. Nhưng đoàn tàu ra khỏi sân. Cuối cùng tôi trông thấy họ chạy trở vào nhà. Nhưng tôi biết giai đoạn tiếp theo là cảnh sát. Sau đó cảnh sát Luân-đôn truy tầm tôi. Hay là sở Scotland Yard? Tôi đoán biết được. Nhưng tôi hiểu tôi phải lánh mặt cảnh sát trong thời gian. Vấn đề khó khăn là tôi biết tôi cần lẩn tránh họ trong bao lâu, bởi vì tôi có ý kiến nào về những gì mình sắp làm. Tôi ngắm phong cảnh tươi đẹp chốn đồng quê miền Nam nước qua vùng Winchester và Farnborough cùng những vùng khác nằm dọc theo con đường sắt quen thuộc này, cố lên tinh thần bằng ly gin-tonic ở toa giải khát, nhưng tôi thấy được bao nhiêu. Tôi thử suy nghĩ như gã tội phạm. Tôi biết tôi dám vào Luân-đôn bằng xe lửa. Nhất định người ta chờ tôi ở nhà ga Waterloo. Mãi tới lúc tôi trông thấy dấu hiệu đèn về phía bên trái, tôi mới sực nhớ tàu sắp sửa đến ga Vauxhall Bridge, và ga kế là Waterloo. Tôi đành phải đánh liều nhân lúc đoàn tàu giảm tốc độ trong khi chạy qua nhà ga. Tôi kéo mấy túi đồ của tôi xuống khỏi giá và liệng tất cả ra ngoài cửa sổ ngoại trừ hộp máy đánh chữ trong lúc tàu lướt qua sân ga. Đúng lúc tàu chạy chậm như bộ, tôi chực sẵn ở cửa, liền mở ra và nhảy xuống khi tàu bắt đầu gia tăng tốc độ. Dù ở tốc độ đó, tôi vẫn bị té và trầy đầu gối. Chú thích: - (1) Liebe Brust: tiếng Đức, có nghĩa: lạc thú quý (chú thích của dịch giả). Phần III : Chương 1 Tôi cảm thấy nhõm vì sân ga có vẻ thưa thớt người. Tuy nhiên, trong lúc băng ngang, tôi vẫn có cảm tưởng như mình là kẻ đào tẩu. Chỉ có chiếc tắc xi duy nhất bến xe ở bên ngoài. Tôi đưa ngón tay ra dấu cho viên tài xế và trông thấy ta hoa tay làm hiệu. Tôi bước vào băng sau của tắc xi và bảo : - Khách sạn Lovelace, ngả tư đường Berkeley và Piccadilly. - Vâng . ta cho máy xe nổ và lách ra nhập đoàn với các loại xer cộ lưu thông cách lưa thưa dọc theo Albert Embankment. Chiếc tắc xi quẹo vế phía Nam, trực chỉ Cầu Vauchall. Tôi nghiêng mình tới trước và với ta lúc ta vừa quẹo xe : - Trước khi đưa tôi tới Lovelace, ông hãy chạy vòng đường Stratton và cho xe qua chậm trước số mười. chừng có người chờ tôi ở đó. Viên tài xế đáp : - Vâng, Dù sao, tôi cũng phải chạy qua con đường này. trong những điểm kỳ cục của tôi là tôi rất say mê tìm hiểu tên của các địa phưong và đường phố. Đặc biệt nhất là ở Luân Đôn, nơi mà những tên đường như những trang sử sáng chói. Như bao nhiêu lần khác, tôi lại kiểm điểm tên nhũng con đường giữa Park Lane , Maxket Stree : Down Street, Queen Stree. Xe rẽ sang trái vào đường Stratton, và chạy rề rề qua phía trước số Mười, là nơi tôi có căn phòng ở tầng cùng dể xử dụng những khi cần phải lánh xa mấy ông cảnh sát. Tôi ngồi cách tự nhiên ghế và chăm chú nhìn vìa đường phía bên kia. Quả thất đúng như tôi dã dự đoán, hai cảnh sát viên đứng phía trước lối vào nhà tôi và chuyện với gã đàn ông vạm vỡ mặc thường phục chắc chắn là viên thanh tra mật thám. Người tài xế tắc xi ngoảnh đầu lại nhìn tôi với vẻ mặt hiểu biết : - Ông trông thấy họ rồi ? - Phải , tôi trông thấy . Nhưng phải phe của tôi. Ông cứ tiếp tục chạy và cho tôi xuống ở Lovelace. Tôi biết người tài xế có nhận ra tôi từng xe của ta hay . Tôi trông ta có nét gì quen thuộc. Nhưng tôi rất ít khi tắc xi ở Luân Đôn, chỉ thường dùng xe buýt hoặc tàu điện hầm. Tôi gần như nín thở khi xe chạy vào đường Berkeley, sắp sửa tới Lovelace . Nhưng ở nơi này có người nào chờ tôi. Người gác cửa xách hộp đựng máy chữ và hành lý cho tôi, và tôi ký tên vào sổ chút ngượng ngịu, dùng cái tên Mackensie mà tôi với George Renata. Tôi cố lên nhanh để vào trong căn phòng rộng lớn và đẹp mắt. Tôi đưa cho người bồi phòng lô áo quần để ủi, rồi rửa tay và mặt. Sau đó, tôi xuống cầu thang và ra ngoài đườn,g Piccadilloy theo ngả phòng rượu của khách sạn, chứ qua cửa chính như ban nãy. Vừa bước chân ra đưòng tôi có quyết định những gì tôi sắp làm. Tôi Ba Lê để cố tìm Monique. phải bởi vì tôi ước mong gặp nàng, mặc dầu Chúa hiểi nỗi khao khát của tôi mãnh liệt đến mức nào, mà bởi vì nàng có thể dẫn tôi tìm lại dấu vết của Ted. Đó là điều tối thiểu cần phải làm. Sau buổi sáng suy nghĩ, niềm hy vọng dâng tràn trong lòng tôi. Trong văn phòng hãng BEA ở đườn,g Regent, con đường phố hình vòng cung, số người sắp hàng chờ đợi nhiều lắm. Lúc tôi bước vào cuối hàng, phía sau ba người khác, tôi chợt nhận thấy gã đàn ông theo tôi vào trong phòng và cũng sắp hàng sau lưng tôi. Trước đó, tôi lưu ý đến y, nhưng tôi tin chắc cách đáng ngại rằng y theo dỏi tôi từ Lovelace. Tôi xdoay người lại, cốt nhìn y cho , nhưng làm bộ như nhìn về phía cuối căn phòng dài. Tôi chắc chắn ngay y phải là cảnh sát viên. Y là gã đàn ông thấp lùn, mảnh khảnh, mặc chiếc áo choàng kiểu cũ và đội cái mũ dạ xám dơ bẩn. Y phục của y phải của dân , trông hình như được sản xuất từng loạt tại xưởng cắt may nào đó ở Trung Âu. Đám râu đen lún phún mọc lên từ dưới nên da vàng như sáp chứng tỏ y cần phải cạo thường xuyên hơn. Nhưng khuôn mặt của y lại có vẻ dễ thương cách kỳ lạ. Y khiến tôi liên tưởng giáo sư có tham vọng và được đãi ngộ cách tương xứng tị nạn từ Hung Gia Lợi, giảng dạy môn sử học Âu Châu cận đại trong trường đại học hạng nhì ở Mỹ. Tôi thể hiểu nổi y tìm ra tôi bằng cách nào ngoại trừ trường hợp trong phòng vô tuyến của chiếc Queen Victoria nghe lóm trôi trong lúc tôi điện thoại và kể lại cho kẻ khác hay. Và nếu thế gần như chắc chắn rằng cảnh sát cũng biết tôi ở đâu. Tôi chợt cảm thấy cơn lạnh bò lên sau lưng. Tôi chú ý tới gã đàn ông trong lúc bởi vì ở quầy vé hỏi tôi cần nàng giúp việc gì ? Tôi bảo : - Tôi muốn Ba Lê sáng mai, nếu có chuyến bay. - Vâng, thưa ông, chúng tôi có chuyến bay lúc mười giờ hai mươi. Ông vui lòng đợi tôi xem lại còn chỗ nào . Đoạn nàng nhác điện thoại và vào máy với thứ tiếng lóng thông dụng trong các quầy vé đường hàng khắp nơi thế giới. Trong lúc nàng còn dang chuyện, tôi bỗng toát mồ hôi lạnh. Tôi quên điều chính yếu . Tôi thể Ba Lê. Tôi thể xuất trình sổ thông hành ở trạm cuối của bất cứ đường bay nào, vì e rằng tôi bị truy nã. Nhất định cảnh sát kiểm soát kỹ các phi cảng. Nhưng tôi vẫn để nàng kết thúc cuộc điện đàm. Nếu quả gã đàn ông sau lưng theo dỏi tôi , ít nhất tôi cũngt có thể lừa phỉnh y phen. Nàng viết xong vé và đóng khuôn dấu. Tôi trả tiền mặt cho nàng, bởi vì tôi muốn dùng chi phiếu du khách với tên họ tôi ghi ràng đó. Tôi bước ra khỏi hàng người và ra đường Regent, tới ngả tư rồi quẹo trở về đường Piccadilly. Trong lúc quẹo ở góc đường, tôi quay nhanh người lại tựa hồ tôi vừa quên chuyện gì. Tôi gần như đụng mạnh vào người viên giáo sư sử học thó. Y sát sau lưng tôi, cách tôi chưa đầy ba bước. Y nhảy qua bên để tránh và lẩm bẩm câu xin lỗi bằng giọng Trung Âu nhưng nước nào. Y cúi đầu vòng quanh tôi và tiếp tục bước về phía khách sạn Lovelace theo đường Piccadilly. Tôi đứng chờ hai phút sau mới theo y. Tôi thể trông thấy y trong đám đông về phía trước mặt tôi, nhưng tôi đoán rằng, nếu y là kẻ biết việc, y dừng lại ở chỗ nào đó và chờ cho tôi bước qua. Y làm đúng như thế . Tôi trông thấy y ở ghi sê của tiệm bán đồ da B. Lewis, liếc nhìn tôi qua. Y quay mặt lại và lần này lại còn mỉm cười với tôi trong lúc tôi bước qua trước tiệm. Mãi tới lúc bấy giờ tôi mới chợt có ý nghĩ rằng, vụng về của kẻ theo dỏi tôi chắc phải vô tình. Nếu y là người của Aneon, người của Oui-Dire, có lẽ y muốn tôi hiểu rằng tôi luôn luôn ở trong vòng giám thị của Aneon. điểm khiến tôi đặc biệt lưu ý : nếu Oui-Dire biết tôi ở đâu và tôi chưa bị cảnh sát chộp, ràng Oui-Dire muốn cảnh sát biết tôi ở đâu, hoặc có ích lợi đích dáng nào trong việc giúp họ tìm bắt tôi. Buổi tối hôm ấy, chuông điện thoại trong phòng tôi tại Lovelace reo vang lần. Tôi hơi do dự trước khi trả lời. Khi tôi dở máy lên, trong đường dây có tiếng nào, ngoại trừ hơi thở mạnh và chậm . Viên giáo sư sử học làm cuộc kiểm soát thông thường để biết chắc tôi còn ở trong phòng. Tôi liền vào máy : - Vâng, tôi hãy còn đây. Tôi đâu hết, ngoại trừ xuống quán Buttery vào khoảng mười giờ khuya để uống ly trước khi ngủ. Y đáp : - Ông Dunbar, ông chơi đúng theo luật lệ. Lần này, nhờ nghe hơn chút, tôi xác định được giọng của y. Đó là giọng Tiệp Khắc. Phát giác này cũng làm tôi nhớ lại những lời cuối cùng của Allen. Tôi bảo : - Matuachek, tôi có luật lệ riêng của tôi. Chào ông và chúc ông nhiều ác mộng. Bây giờ tôi biết chắc rằng kẻ giết Martin Allen bám sát tôi theo lệnh của Oui-Dire. Sau ngày dài và ly đôi whisky trước khi lên giường nằm, tôi ngủ say được bốn tiếng đồng hồ đầu tiên. Rồi tôi bỗng tỉnh dậy vào khoảng ba giờ sáng, với cảm tưởng vửa nghe ai gọi tên mình. Lúc tỉnh táo hẳn, tôi mới hiểu rằng đó chỉ là tiếng gọi trong giấc mơ. Nhưng giọng thể nào lầm được. Chữ «I » trong tên tôi có điệu đặc biệt của vùng Ile de France. Tôi nằm thao thức hồi lâu, cố xua mờ hình ảnh khuôn mặt trái xoan xanh xao và mái tóc đen của nàng chiếc gối của tôi. Chương 2 Sáng hôm sau, tôi cầu dọn điểm tâm ngay trong phòng. Trong lúc ăn, tôi lấy bức thư của Moniques ra khỏi hộp đựng máy chữ và đọc lại lần nữa. Nó vẫn có ý nghĩa nào sáng sủa hơn. Chắc chắn phải có ám hiệu gì trong những chữ ở đầu dòng nếu tôi thừa nhận hai chữ viết hoa. Nhưng tôi vẫn nghĩ mãi vẫn thấy gì khác lạ và sinh ra nghi ngờ suy đoán của mình. Người ta thường tìm được nhiều ý nghĩa ngẫu nhiên sau khi sắp đặt lại các hàng chữ nếu chịu khó nghiền ngẫm kỹ. Điều khiến cho tôi gần như chắc chắn rằng bức thư này mang ám hiệu đặc biệt là người viết dùng chữ và đặt câu cách vụng về. Các hàng chữ giống như những câu thơ vần hiệu, tựa hồ nhiều chữ được dùng cách gượng gạo để ngầm chứa ám hiệu nào đó. Cuối cùng, sau khi uống xong tách cà phê cuối, tôi quả quyết rằng nếu tôi đọc nổi ám hiệu, ít nhất tôi cũng có thể tin tưởng có ai khác đọc nổi trong trường hợp bọn họ nhất định lục soát phòng tôi. Tôi ghim vào trong cái kẹp phía hộp đựng máy chữ Olivetti của tôi mấy tờ giấy viết thư khổ lớn mang dấu hiệu của bến tàu Cunard mà tôi lấy trong phòng viết của chiếc Queen Victoria. Tôi rút ra tờ và đặt lên mặt bàn cùng với bức thư của Moniques. Tôi biết mình thể sao lại y hệt từ màu mực cho đến nét chữ của nàng, nhưng tôi có thể miễn cưỡng giả mạo tuồng chữ này. Công việc được thực cách khá mỹ mãn với mánh khóe mà ông già chuyên môn làm các thứ giấy tờ giả mạo truyền thụ cho tôi hồi tôi nhờ ông cụ ngụy tạo văn kiện. Quý bạn chỉ cần lật ngược bức thư mà bạn muốn chép lên tờ giấy trắng, đoạn xếp sát dưới hàng chữ bạn cần sao và đặt sát phía chỗ mà bạn viết. Rồi bạn đừng nghĩ đó là hàng chữ, và cứ cẩn thận sao từng dòng tựa hồ đây là những chi tiết trong bức họa đồ chứ phải là chữ. Tôi chép lại bức thư y hệt nàng viết, nhưng tôi thay đổi khoảng cách giữa các chữ ở cuối mỗi dòng, để cho những chữ mang mật hiệu - nếu quả tôi đoán lầm - còn nằm ở đầu dòng. Khi viết xong, tôi xếp bức thư này theo đúng lối xếp của nàng và cất vào trong cái đáy giả của hộp máy chữ. Đoạn tôi lấy phong bì ở quầy tiếp tân của khách sạn và bỏ bức thư chính hiệu của Monique vào trong đó. Bên ngoài phong bì, tôi đề tên Đại úy Colin Andrews, Bộ Tư Lệnh Hải Quân Hoàng Gia , và ghi thêm dưới hàng địa chỉ : "Xin trao lại cho Stuart Dunbar". Nếu quả Đô Đốc Everett Jonas viết thư cho ông ta, chắc chắn ông ta nhận biết cái tên này. Tôi dán tem và bỏ phong thư vào thùng ngoài hành lang gần thang máy. Tôi biết cần phải gọi điện thoại cho Dillingham, nhưng tôi bỏ ngay ý nghĩ đó. Sau lúc phân vân, tôi quyết định gởi cho ông ta bức điện tín, liền điện thoại xuống phòng gác để nhờ gởi : lên bờ, tại Khách sạn Lovelace. Đau buồn về vụ Quen và Martin. điện thọai sau khi biết điều gì ràng. Tôi ký bằng cái tên Mackenzie. Tôi tin Dillingham thừa sức đoán biết nguồn gốc nhờ ý nghĩa của bức điện tín. Trong suốt khoảng thời gian còn lại của buổi sáng, tôi cố sức suy nghĩ. Tôi thu hoạch được kết quả nào ở đây bởi vì có kết quả để thu hoạch. Phương pháp sáng kiến hoàn toàn khác với phương pháp suy luận, và tôi vốn quen thuộc với cách đầu hơn cách sau. Đa số các bài tôi viết cho hãng Thông tấn đều là những bài sáng kiến, từ con người, nơi chốn, cho tới mọi vật. Tôi bao giờ thích kiểu giải thích bởi lẽ tôi có tài giải thích hay. Phương án sáng kiến có nghĩa là : bạn hãy ráng học tập mọi điều liên hệ với vấn đề, rồi bỏ quên nó trong hai tuần lễ để cho nó chìm sâu vào tiềm thức, và trong giai đoạn thứ ba tư tưởng của bạn nẩy mầm. Tư tưởng nổi lên mặt biển bí mật đó. Khi tôi thử dùng phương pháp này vào việc suy luận, các tư tưởng trôi lềnh bền như lũ cá thu chết và có mùi hôi. đường đến tiệm Buttery để ăn trưa, giữa lúc tôi gần như quyết định phải Ba-lê dù nơi đó là địa ngục và dù bị đám thanh tra chu lưu gây khó dễ, tôi mua tờ Daily Telegraph và cầm theo tay. Tôi dừng lại ở quầy rượu bên ngoài tiệm Buttery để uống ly trước, rồi khởi xem sơ qua trang đầu của tờ nhật báo. Thoạt tiên tôi hăm hở đọc bài tường thuật về vụ Martin Allen bị giết tàu Victoria. Người viết dùng những lời lẽ khá dè dặt, có lẽ bởi vì ai hiểu biết nhiều về Allen. Bài báo cho tôi hay cảnh sát nóng lòng muốn được tiếp xúc với người tên Stuart Dunbar, "người có thể giúp ích cho cảnh sát trong cuộc điều tra", bởi vì Dunbar là trong những người quen biết với nạn nhân. trắng ra là : tôi bị truy tầm để cho cảnh sát thẩm vấn như kẻ bị tình nghi. người bồi tàu - có lẽ là Err - đẽ kể lại với cảnh sát rằng tôi trở về buồng hơi sớm hơn giờ phỏng định xảy ra án mạng. Bất cứ đọc giả truyện trinh thám nào cũng biết rằng giờ chết thể định cách chính xác. Err cũng thuật lại tôi có hỏi ta phòng được lau chùi vào lúc nào. Nhưng tôi chỉ xúc động khi mắt tôi bắt gặp hàng chữ lớn khác, cũng đăng trang nhất, dính liền với cái tên Ménard. Bài báo khiến cho thần trí tôi gần như hôn mê. Nó kể lại cái chết của Jacques de Ménard trong tai nạn xe hơi kiểu thể thao ở gần Ba-lê. Đầu nạn nhân bị đè nát cách ghê rợn và chiếc xe bốc cháy sau khi lăn tròn nhiều vòng đoạn đường vắng giữ Ba-lê và Troyes. Phóng viên thuật khá đầy đủ về công việc và chức vụ tại của kẻ bất hạnh : Jacques de Ménard là chủ tịch Công ty Điện tử Pháp Quốc (Compagnie Electronique de France, S.A.), do chính ông thành lập và lúc này trở thành công ty lớn, với năm ngàn nhân viên, sản xuất từ những vật dụng trong nhà cho đến các loại máy móc điện toán, các hệ thống ra đa phức tạp và các hệ thống kiểm soát hướng dẫn hỏa tiễn. Ông vẫn chưa lập gia đình. em của ông, Monique de Ménard, nữ ca sĩ nổi tiếng, là người thừa kế duy nhất. Chính đoạn cuối cùng của bài báo khiến cho tôi xao xuyến mãnh liệt hơn hết : Lúc tai nạn xảy ra, ông De Ménard ngồi bên cạnh người đàn bà còn trẻ mà thi thể chưa được biết lý lịch. giờ De Ménard vẫn chưa có thể trở về nhà riêng của tại Ba-lê để giải thích điều này. Tôi ngồi bên cạnh ly rượu chưa cạn hồi lâu, cứ đọc đọc lại bài báo sơ lược, rồi tôi vào trong tiệm Buttery để ăn bữa cơm trưa mà tôi thể nhớ có nuốt nổi hay . Tôi chỉ có thể nhớ ràng chuyện xảy ra lúc tôi ăn xong. Tôi bắt đầu cảm thấy mơ màng buồn ngủ. Loại cà phê của , pha như tra, thường quá yếu chống nổi cơn buồn ngủ bình thường, nhưng tôi biết đây phải là cơn buồn ngủ bình thường. Tôi khởi nhìn vật hóa thành hai và mí mắt nhất định sụp xuống. Tôi liền cầu tính tiền. Lúc ký tên vào tấm phiếu và đưa lại cho người bồi, tôi lo sợ mình nổi tới thanh máy. Nhưng tôi vẫn còn đủ sức . Tôi mò mẫm đút chìa khóa mở cửa và vừa vào trong phòng nằm vắt ngang giường, mê man còn biết gì nữa. Khi tôi tỉnh dậy, tôi nằm thẳng người giường. chiếc gối được đặt dưới đầu tôi. Tôi cảm thấy mình vẫn còn mặc đầy đủ áo quần. Tôi cố ngồi lên nhưng thể được. Tôi bị trói chặt khác gì Gulliver trong xứ Lilliput (1), chỉ khác điều là thấy sợi dây nào. Thế mà tôi vẫn sao cử động. Tôi liền đảo mắt nhìn quanh phòng. Van Leyden tự lan can ở chân giường, hai cánh tay gác dọc theo lan can, mắt nhìn sững tôi dưới mái tóc vàng. Viên giáo sư sử học thó đứng sát bên trái y. Y cũng chăm chú nhìn tôi cách thản nhiên. Viên giáo sư chợt lên tiếng : - Hình như ông ta tỉnh lại. Van Leyden đáp : - Phải. Matuschek, tôi thấy rồi. Ông Dunbar, ông có thể nghe tôi chứ? - Vâng. Ông làm gì ở đây? - Chỉ đến viếng thăm thân hữu. Ông Dunbar, ông cảm thấy thế nào? - Hoàn toàn bị tê liệt. - Thú vị. Để chúng tôi xem lại cho chắc chắn. Ông vui lòng thử đưa cánh tay lên. Cánh tay kia. Tôi làm theo lời của y. Sức cố gắng nhất định ai cũng có thể thấy dễ dàng. Ông ta mỉm cưới. Tôi lại thử hai chân. Tất cả đều nằm bẹp giường như những khúc cây còn sinh khí. Van Leyden bảo : - Tuyệt. Xem bộ ngon lành lắm. Được rồi, Matuschek. Gã đàn ông thó liền quanh tới bên cạnh giường. Y nắm lấy bàn tay của tôi và bắt đầu bẻ ngược ngón tay cái ra phía sau. Tôi đau đớn hét lên : - Trời ơi! - Đủ rồi, Matuschek. Ông Dunbar, đó chỉ là lối chứng minh rằng ông vẫn có thể cảm thấy đau đớn. - Các ông cũng vậy nếy tôi được tự do, đồ chó đẻ đồng tính luyến ái. - Ông chuyện có khó khăn ? Lưỡi tôi hơi cứng lại nhưng tôi vẫn có thể : - . Tại sao? Các ông có muốn nghe những gì tôi nghĩ về các ông? - Bây giờ khoan , ông Dunbar. Có lẽ khi khác. Bây giờ chúng tôi dò tin tức, chứ phải chửi rủa. Trước khi chúng tôi khởi tìm những gì chúng tôi cần theo những lối mấy vui thú, ông có vui lòng cho chúng tôi biết bức thư ở đâu? Tôi hiểu y muốn gì. Thói quen đặc biệt của người Tô-cách-lan xui khiến tôi cất bức thư ở chỗ mà y thể nào tìm ra. Tôi giả vờ hỏi lại : - Bức thư nào? - Thôi mà, ông Dunbar, ông đừng nên gây khó khăn. Chúng tôi cần bức thư De Ménard viết cho ông trước khi rời tàu. - ấy đâu rồi? - Tôi có giờ để trả lời câu hỏi cho ông. Bức thư ở đâu? Tôi vẫn mực. - Tôi hiểu ông gì. Y liền quay sang Matuschek. - Được rồi, Vasil. Gã đàn ông thó cúi xuống và xách chiếc vali con bằng da khỏi mặt nền bên cạnh chân y. Y đặt vali Y đặt vali lên cái bàn ở giữa hai chiếc giường và lấy ra ống chích. Tôi nhìn sững y đẩy mũi kim vào trong ống thuốc có chất nước trong suốt xuyên qua nút cao su và rút chất thuốc vào ống chích. Van Leyden bảo : - Cẩn thận nghe, Vasil. Chỉ cần hai phân khối. Matuschek gật đầu. Y cúi lên mình tôi và véo miếng da phía khuỷu tay của tôi. Y ngần ngại nhìn Van Leyden. - Ông Dunbar, chắc ông muốn biết chuyện gì sắp xảy ra? Đây là thứ thuốc đặc biệt rất hiệu nghiệm mà chúng tôi kiếm được trong chuyến công tác thường ở Mạc-tư-khoa. Loại này, ở những nơi khác rất ít người biết tới. Nó gây ra những triệu chứng giống hệt thứ ma túy. Thường thường, nó bắt đầu có hiệu lực sau khi chích vào người độ chừng (y nhìn đồng hồ tay) mười lăm giây sau. Chúng tôi chích cho ông chút. Hiệu lực kéo dài khoảng hai phút. Nếu Matuschek tính kỹ. đoạn, y gật đầu với Matuschek. Viên giáo sư sử học mỉm cười cách hiền lành và thúc mũi kim vào cánh tay của tôi. Y chích cách khéo léo đến nỗi tôi gần như cảm thấy gì khác lạ. Tôi nhắm mắt lại và chờ đợi. Tôi có cảm giác tựa hồ những bắp thịt ở tay và chân tôi bị siết chặt bởi những chiếc kềm nóng đỏ. Cùng lúc với cơn đau đớn dữ dội này, trong chốc lát lan tràn khắp cơ thể, lại còn thêm cảm giác khổ sở hơn cỡi cơn đau như những hòa nốt nhạc. Tôi cảm thấy dường như có nhiều đàn kiến tấn công từng phân da thịt tôi, từ đầu cho tới gót chân. Tựa hồ tôi bị lột da sống, tựa hồ nhà giải phẩu moi các mạch máu của tôi và lôi ra ngoài cơ thể. Tôi cảm thấy máu tràn ra trong miệng tôi, trong khi tôi cắn lưỡi để cho khỏi hét lên. Khổ sở nhất là tôi thể vặn vẹo thân hình cho đỡ đau đớn. Tôi vẫn còn bị tê liệt. Tôi phỏng đoán khoảng thời gian này chỉ kéo dài hai phút như Van Leyden ước lượng. Nhưng nó như bao giờ chấm dứt. Khi tôi lên tới mức độ gần ngất xỉu và cố gắng gượng lại, những cảm giác đau đớn qua khỏi tột đỉnh và như nước thủy triều rút xuống còn gì nữa. Tôi nằm yếu xìu và toát đầy mồ hôi giường. - Ông Dunbar, đó chỉ là màn biểu diễn . lối thẩm vấn văn minh , phải ông? Và có lẽ đó mới là khởi đầu. Bây giờ tôi hỏi lại lần nữa. Bức thư ở đâu? Tôi còn muốn liều mạng cách vô ích. Thiên hạ vẫn thường bao tôi ương ngạnh theo kiểu này. Tôi liền : - Trong hộp Olivetti, dưới đáy giả. Kéo đường rãnh kềm máy đánh chữ lên. Van Leyden gật đầu với Matuschek. Matuschek tới cái hộp bàn vào kéo đường rãnh lên. Y trở lại và trao bức thư tôi viết giả mạo cho Van Leyden. - Tại sao ông muốn lấy bức thư này? Đó chỉ là bức thư chia tay. Matuschek mỉm cười và mở miệng lên tiếng lần thứ hai : - Thế tại sao ông cất giấu quá cẩn thận như vậy? Van Leyden bảo : - Khỏi cần, Vasil. Ông Dunbar, chuyện rất đơn giản. Chúng tôi muốn biết chắc De Ménard nhắn gởi gì với ông. - ấy ở đâu? Y chỉ vắn tắt trả lời : - Ở nơi an toàn. Tuyệt đối an toàn. Y có vẻ như muốn điều gì khác nhưng đổi ý cách kín đáo. - Còn em tôi? - chết rồi, Ông Dunbar à. Tôi xin chia buồn. Ông nên bỏ qua chuyện đó . Ông chỉ gây thêm đau đớn nếu ông cứ tiếp tục tìm kiếm cách dại dột. Y lại gật đầu với Matuschek. Gã đàn ông thó lấy ống chích khác trong chiếc va-li của y. Y thọc cây kim vào trong cái chai khác. Van Leyden giải thích : - Thứ này chỉ giúp cho ông ngủ lại. Bây giờ còn đau đớn gì nữa. Ông Dunbar, xin chúc ông có nhiều mộng đẹp. Matuschek lại chích mũi kim vào cánh tay của tôi. Chú thích: Lilliput : xứ sở của giống người lùn tấc rưỡi, trong "Gulliver s Travels" của nhà văn Jonathan Surift ở nước vào thế kỷ thứ 18.
Chương 3 Sáng hôm sau tôi thức dậy sớm. Tôi cảm thấy trong mình có chút hậu phản ứng nào cả. Tôi nằm yên lúc lắng nghe tiếng máy xe chạy Đường Piccadilly êm dịu vọng vào phòng qua hai lớp cửa sổ. lát sau tôi trỗi dậy, cởi áo quần mặc từ hôm qua và tắm nước lạnh. Trong lúc cạo râu tôi bắt đầu cố suy nghĩ cách đúng đắn. Tôi rối bù đầu với đủ giả thuyết trong suốt bữa điểm tâm do bồi phòng đem vào cho tôi vào khoảng chín giờ. Tôi vẫn trở về với kết luận cũ. Về vụ Monique và Ted mất tích, tôi vẫn nhất định truy tầm. Bây giờ tôi hiểu rằng tôi thể bám lấy niềm tin Ted chết lúc tôi còn ở Hoa-thịnh-đốn. Mặc dầu vậy, tôi biết có thể tin Monique về những điểm nào. Riêng lời cam quyết của nàng về vụ Ted hãy còn sống có thể tin được. Tôi cố nghĩ đến Monique. Rất có thể nàng chính là người đàn bà trẻ tuổi ngồi chung xe với nàng khi ta chết. Tôi thay áo quần và thang máy xuống tầng trệt lúc chín giờ rưỡi. Đúng lúc cửa thang máy mở tôi chợt biết mình lâm nguy. Đứng ở bàn giấy của người gác cổng là người đàn ông tôi trông thấy trước lối vào cao ốc có căn nhà của tôi, chuyện với hai cảnh sát viên mặc sắc phục. ràng ông ta là thanh tra mật thám. Ông ta hỏi thăm người gác cửa. Tôi biết ông ta có thể tìm được bức hình của tôi cách dễ dàng tại Hãng United Publication. Ngay lúc tôi vừa có ý nghĩ này, tôi trông ông ta lấy chiếc phong bì từ túi áo trong và cho người gác cửa xem tấm hình. Tôi nhàng ra khỏi thang máy và sải hai bước dài qua khúc hành lang hẹp, tiến tới cánh cửa hông mở ra phía quán Buttery. Viên thám tử nhìn lên khi tôi bước qua lối chật hẹp và mắt chúng tôi cùng gặp nhau trong lát. Nét mặt ông ta có vẻ nhận ra tôi. Bước nhanh lên hành lang chính tôi lẹ làng ra cửa phía đường Berkele hướng về ngả Buttery mà bị theo dõi. Tôi tìm được buồng điện thoại ở đường Berkele và quay số của bộ Tư Lện Hải Quân. Tổng đài cho tôi liên lạc với người thư ký. Giọng lạnh nhạt của người đàn bà nhắc lại tên tôi tựa hồ có gì đáng lưu ý. Rồi ta : - Ồ, đúng rồi, ông Dunbar. Chúng tôi mong đợi ông. Tôi là Delight, nữ thư ký của Đại uý Andrews. Ông vui lòng chờ phút để tôi xem thử sáng nay ông ấy có việc gì hay ? ta trở lại sau mười giây. - Ông Dunbar, Đại uý Andrews mời ông đến đây ngay. Tôi thay đổi vài buổi hẹn để dành cho ông trọn sáng hôm nay. Tôi liền bảo: - Độ mười phút nữa tôi đến. Đề Đốc Jonas thực lời hứa. Tôi chợt cảm thấy bớt đơn hơn chút. Tôi đón chiếc taxi đến Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Tôi biết đến lúc cần phải vận dụng mọi giúp đỡ mà tôi có thể tìm thấy. Tôi chắc chắn nhờ cậy nhiều ở Đại uý Colin Andrews, thuộc Hải Quân Hoàng Gia, nhưng tôi phải thử xem. Văn phòng của Đại uý Andrews khiến cho tôi hơi ngạc nhiên. Căn phòng lớn, nhưng nó gây ra cảm tưởng đặc biệt. Cái bàn viết xinh xắn của ông ta đặt ở đầu phòng trông cân xứng với chỗ hội họp ở đầu kia, gồm cái bàn hội nghị ngắn xung quanh có sáu chiếc ghế bành rất êm ái. Mấy bức tường lót ván đào-hoa-tâm và những tấm màn bằng vải dày ở các khung cửa sổ khiến cho căn phòng giống hệt văn phòng của vị giám đốc quan trọng. Ngay trong ngày u ám như hôm nay, nó vẫn mang nét vui tươi và sáng sủa. Ngoài ra lịa còn có lò sưởi đốt bằng than đá ở cuối phòng gần chỗ hội nghị. Bản thân Andrews là điều đáng ngạc nhiên. Ông ta bước vào văn phòng cách nhanh nhẹn, mấy phút sau khi nũ thư ký của ông ta dẫn tôi vào. Ông ta có vẻ quá trẻ so với vị đại uý của Hải Quân Hoàng Gia, có lẽ chỉ bốn mươi tuổi là cùng. bộ mặt diều hâu ngăm đen, với cái mũi quặm tạo cho ông ta cái dáng của tay lãng tử giang hồ vào thời Elizabeth Đệ Nhất. Nhưng ông ta cạo râu rất sạch. Ông ta chỉ cần thêm bộ rầu của Francis Drake là hoàn toàn giống vị đề đốc này. Ông ta lên tiếng: - Chào ông Dunbar. Tôi hy vọng ông chíng là Stuart Dunbar, người Everett Jonas viết thư cho tôi hay. - Chính tôi đây. Xin chào đại uý Andrews. - Ông đến vừa đúng lúc để gây hào hứng cho tôi. Mấy lúc gần đây công việc mỗi lúc thêm nhàm chán. Sau khi hỏi qua về gia thế tôi, ông ta lại hỏi tiếp: - Có phải ông cũng là người mang tên Stuart Dunbar gửi cho tôi bức thư mà tôi chưa kịp mở ra xem? - Vâng. Tôi ước mong đại uý có thể dành cho tôi ít phút. - Bao nhiêu cũng được. Tôi cho dời tất cả các cuộc hẹn sáng nay khi tôi nghe tin ông đến đây. Ông ngồi xuống chứ. Ông muốn dùng cà phê hay trà? - Xin cho trà. Ông ta chắc lưỡi và mỉm cười. - À, ông dùng trà. Delight, thấy chứ? Còn tôi cà phê. Delight học pha ở bên Mỹ, ngon tuyệt. ta liền bỏ lấy khay. Tôi hỏi: - Tên ấy là Delight , hay đó chỉ là biệt danh gọi đùa trong sở? Ông ta đáp: - Đúng Delight. Chắc ông tưởng tên ấy có chữ “De” ở trước như số người Pháp. Ở London có tiệm bán thịt mang bản hiệu J.W. Death. Tôi đoán có lẽ khởi thuỷ là De Ath. Delight trở vào với chiếc khay. Cà phê bốc hơi thơm ngát. Andrews bảo: - Delight, nhờ mời Sir George vào. Khi người nữ thư ký ra, ông ta quay sang tôi: - Tôi mong ông phiền lòng. Sau khi tôi nghe tin ông đến đây trong sáng hôm nay, và sau khi tôi nhớ lại những lời Everett Jonas viết cho tôi, tôi thiết tưởng mình phải mời Sir George Vallance đến. Chắc ông biết ông ấy là Giám đốc An Ninh. Tôi : - Vâng, tôi có nghe về ông ấy cách mơ hồ. Nhất định Andrews xem việc này quan trọng lắm, nên ông ta mời dời tất cả các cuộc hẹn lại và cầu Vallance đến họp. Andrews : - Càng mơ hồ chừng nào càng tốt chừng đó. A, Sir George, ông đến. Đây là ông Stuart Dunbar. Tôi chuyện với ông về ông ấy. Sir George lên tiếng: - Ông là người bạn của người bạn của tôi. Alexander MacInnes. Ông mạnh giỏi chứ? - Vâng, cảm ơn ông. MacInnes là người rất tốt. Tôi hy vọng ông ấy chê tôi quá nhiều. - Ông ấy nhắc lại tên của ông, phòng lúc tôi có dịp gặp ông. - tình cờ lý thú Vallance mỉm cười nụ cười lạnh lùng. - hoàn toàn đâu. Ông ấy còn nghĩ rằng tôi cần phải biết về câu hỏi của De Ménard. Ông có biết ấy giờ ở đâu? - . Ông ta nhìn tôi chăm chú hồi lâu, mãi cho đến lúc Andrews xen lời: - Thôi mình cùng ngồi xuống . Chúng tôi muốn nghe câu chuyện của ông. Tiếng chuông điện thoại liên lạc nội bộ bàn vang lên ngắt lời ông ta. Đó là Delight. - Thưa đại uý, có ông Dillingham đến. - mời ông ấy vào ngay. Tôi ngạc nhiên ra mặt: - Dillingham? Andrews bảo: - Vâng. Tôi thể gọi cho ông ấy hay, sau những lời Everett Jonas kể với tôi. Tôi mong ông lấy thế làm phiền. Tôi đáp ngay: - Tôi còn vui mừng là đằng khác. Delight dẫn Dillingham vào phòng. Tôi để ý thấy ông ta và Sir George Vallance giống nhau cách đặc biệt: thân hình cao, gầy, toàn màu xám. Ông ta bắt tay với Vallance và Andrews, rồi bảo tôi: - Dunbar, ông vẫn còn là đầu đề. Tôi đáp lại: - Tôi vẫn còn có nhiều vấn đề. Ông ta nhìn Andrews. - Các ông đừng để tôi làm gián đoạn. - , ! đúng là gián đoạn. Dunbar mới sửa soạn kể chuyện cho chúng tôi nghe. Tôi mất bốn mươi phút sau đó để kể lại tất cả câu chuyện, với mọi chi tiết mà tôi có thể nhớ. Họ đều hết sức lắng tai nghe. Họ chỉ ngắt lời tôi ba lần, hai lần để hỏi thêm cho , lần chỉ huýt gió khi tôi kể tới đoạn Van Leyden và Matuschek đột nhập vào phòng của tôi. Đó là phần cuối của câu chuyện. Vallance : - Bọn người đó chắc chắn bao giờ đùa. Chúng tôi dùng họ đôi khi – tôi muốn nhóm Oui-Dize. Nhưng hiểu bây giờ có chuyện gì khác lạ? Bọn này như trật đường rầy. Andrews lắc đầu. - Tôi hiểu. Nhưng tôi lưu ý đến phát minh đó, và giờ Edward Dunbar ở đâu. Dillingham lớn giọng bảo: - Tôi cũng vậy Vallance quay sang ông ta. - Ông hãy kể vụ đó cho chúng tôi nghe với. Nó hiệu lực đến mức nào? Dillingham bảo: - Hiệu lực cách khủng khiếp. Các ông có thể tin lời tôi. Tôi mấy lo ngại về phát minh nguyên thuỷ của người Pháp - tức phát minh của Jacques de Ménard – nhưng tôi vô cùng lo ngại về phát minh của Edward Dunbar. Phát minh của CEFSA chỉ có hiệu lực tới chân trời, nhưng phát minh của Dunbar có hiệu lực uốn cong theo mặt địa cầu. Vallance kéo chòm râu mép qua bên. - Hừ. Tôi hiểu. Mình có thể phỏng đoán bọn chúng muốn chiếm phát minh đó để làm gì? Dillingham : - Chúng tôi cố suy đoán. Chúng tôi có ý kiến gì mãi đến lúc nghe Dunbar kể lại đề nghị của Anson tàu Queen Victoria. Dunbar, y gì? thứ siêu quốc gia? Vallance bảo: - Vô nghĩa. Nhưng tôi tin rằng manh mối ở trong mấy tiếng Martin Allen gượng với Dunbar trước khi chết. Bọn chúng bắt giữ Allen suốt đêm. Nhất định ta nghe bọn chúng chuyện. Ông có ý kiến gì về hai tiếng đó hay sao, Dunbar? - . - Ông có chắc chắn nghe ? Chỉ có ông mới biết được. Tôi lắc đầu. - Làm sao mà chắc chắn được. Tiếng như sắp hết hơi và còn tự nhiên. Môi ông ấy chỉ hơi hé ra. Tôi kể cho các ông nghe hai tiếng tôi nghe được. “Suit” và “try”. Andrews : - Có vẻ mơ hồ . Tôi bày tỏ ý kiến thêm: - ra, hai tiếng đó, được thốt lên cách ràng như lúc này tôi cố gắng thuật lại. Tiếng thứ hai - nếu có thể xem đó như tiếng - rất dễ nghe lầm từ tiếng “Tra”. Tiếng kia nghe hơn, nhưng cũng rất có thể tôi lầm. Cuối tiếng này chừng là chữ “d” chứ phải là chữ “t”, nhưng như vậy lại vô nghĩa hơn nữa. Vallance nghiêng mình tới trước và chăm chú nhìn tôi. - Mình thử nghĩ đó phải là hai chữ, mà chỉ là chữ với hai . Chuyện có lý đấy chứ? Tôi nhìn nhận: - Có thể lắm. Lúc đó Allen hấp hối. Rất có thể ông ấy dừng lại giữa hai . Vallance chỉ ngón tay trỏ dài vào tôi - Ông hãy nghiệm lại theo lối đó. Tôi thử thử lại nhiều lần. Kẹt hơn hết là chứ “y”. Giọng của Allen phều phào trong máu, nên cũng có thể đó là chữ “a”. Khi thử lại lần thứ ba, tôi có cảm giác vừa bị quả đấm thực . Dà dày tôi thắt lại. Tôi reo lớn: - Chúa ơi! Ngu quá. Andrews từ tốn bảo: - Tôi xin chịu thua. Dillingham chồm ra khỏi ghế - Ông gì vậy? Tôi liền đáp: - Tôi quên đưa cho các ông xem bức thư do Monique viết cho tôi. Đai uý Andrews, ông giữ bức thư đó mà. Ông vui lòng cho tôi xem lại? Ông ta rút phong thư in tên và địa chỉ của Khách sạn Lovelace ra khỏi túi. Phong thư vẫn còn dán kín. Tôi liền xé ra, và : - Nó đây. Cùng chữ. Nhưng đối với tôi nó có nghĩa gì cả. Andrews cầm lấy bức thư. - Phải. Tôi hiểu lối mật mã này. Đoạn ông ta gọi lớn vào máy điện thoại nội đàm. - Delight! - Thưa đại uý cần gì ạ? Ông ta ngay: - Delight nhờ lấy cuốn Muirhead Scotland ngoài thư viện đem vào đây cho tôi? Càng nhanh càng tốt. Vallance hỏi: - Ông tiếng gì nghe lạ quá? Dillingham bảo: - Chắc là tiếng Ấn Độ - , tiếng Tô-cách-lan. Sir George, nhất định ông biết Saint Sudra. Ông ta lấy bức thư khỏi tay của Andrews, xem qua và gật đầu. - Phải rồi! Đúng là Saint Sudra. ràng như ban ngày, chỉ việc đọc thẳng xuống là thấy ngay. Nhưng, Andrews, thế này vô lý quá. Dillingham nín được, phải hỏi: - Có ai vui lòng ra cho tôi nghe với? Ngay lúc đó, Delight vào phòng, với cuốn sách màu xanh tay. Tôi nhận thấy đo là trong những cuốn chỉ dẫn hay của nhà xuất bản Ernest Benn, do Russell Muirhead soạn thảo. Tôi mang theo bên mình sáu cuốn trong bộ sách này những lúc phải đến các vùng xa lạ. Andrews cầm cuốn sách và giở nhanh qua những trang ở phía sau. Rồi ông ta hớn hở : - Phải, đây rồi. Tôi xin trích đọc trang ba trăm chín mươi hai, đoạn cuối phần viết về quần đảo Hebrides:”Saint Sudra, gồm bốn hải đảo tách riêng vùng và giờ có người ở (dộ chừng năm mươi dặm vuông) cách Murra, điểm cực anm của Outer Hebrides, bốn mươi dặm về phía tây, ngày nay chỉ được viếng thăm với những mục tiêu khoa học ( có tàu du khách). Đảo lớn nhất, Saint Sudra (dài độ chừng mười dặm) có cao độ lên tới ngàn hai trăm bộ, về phía cực bắc là nơi được bao bọc bởi những bờ đá tuyệt đẹp, mặc dù những vùng ở miền trung và miền nam rất bằng phẳng. Vào tháng tám năm 1930, toàn thể dân chúng quần đảo ( tổng cộng ba mười lăm đảo lớn ), với những phương tiện riêng bán khai, di chuyển mọi thứ động sản đến định cư số lớn gần Lochaline. nay, bốn đảo trong nhóm Saint Sudra (Sudra, Dun, Ross và Kevin) bị bỏ hoang cho lũ dê núi rất khó săn bắt và lũ chim biển sinh sản ngày thêm nhiều những bờ đá cao. Giống vật thực dã man duy nhất là chuột. Saint Sudra ( có vị thánh nào mang tên này) có lẽ xuất xứ từ cái tên Sudreyjar, danh từ Na-uy nghĩa là Đảo Miền Nam mà người Na-uy dùng để gọi chung quần đảo Hebrides. có thời kỳ Sudra thuộc quyền của dòng họ MacLeod. Đảo Dun chính là nơi Lord Field đày bà vợ của ông ta khi bà này biết nhiều chuyện bí mật của đảng Jacobite (1734). Sau đó ông ta cử hành tang lễ cho bà vợ, mặc dầu vị phu nhân bất hạnh còn sống thêm ba năm kể từ ngày được đưa khỏi đảo vào năm 1972.” Mọi người cùng suy nghĩ trong im lặng. Andrews kéo dải lụa dùng để đánh dấu vào trang vừa đọc và gấp cuốn sách lại. Ông ta đăm đăm nhìn chúng tôi với cặp lông mày nhíu sát vào nhau. - Có ai muốn đánh cuộc rằng đây phải là Saint Sudra ám chỉ trong bức thư? Và tiếng Sudra của Martin Allen? Tôi quả quyết: - Nhất định đó là tiếng Allen cố . Chắc hẳn ông ấy nghe bọn chúng chuyện về nơi này trong lúc bọn chúng bắt giữ ông ấy thâu đêm. Bọn chúng chuyện thèm e dè, vì biết rằng Allen phải chết sáng hôm sau. Vallance hỏi: - Điểm chính yếu là gì? Dillingham trả lời ông ta: - Tôi nghĩ Andrews tin tưởng rằng mấy hòn đảo này có lẽ phải có người ở như Muirhead trong cuốn sách. Andrews gật đầu: - Chính thế. Có lẽ giống vật thực dã man duy nhất phải là lũ chuột nữa. Và tôi có ý kiến mình nên tìm hiểu ngay lập tức. Tôi xin phép gọi cú điện thoại. Tôi thấy tôi có thể phát giác được những gì. Ông ta liền đến bàn giấy và quay số điện thoại gồm có bảy chữ sổ. Trong lúc chờ đợi trả lời từ đầu dây đằng kia, ông ta với chúng tôi: - Tôi liên lạc với bộ Nội Vụ. Tôi chuyển qua máy phóng thanh để tất cả các ông đều có thể nghe. Ông ta bật nhanh cần ngắt điện, và tiếp vào máy điện thoại: - A lô, Bannister, Colin Andrews đây. - A lô, Andrews. ở đâu mất biệt mấy năm nay? Andrews đáp: - Chỉ vì tôi có điều gì cần hỏi . Bây giờ tôi cần đây. có thể cho tôi biết về hòn đảo ở cức nam của quần đảo Hebrides tên là Saint Sudra. Theo lời người ta có ai ở. Bannister trả lời ngay: - Hoàn toàn sai. - phải có ai ở? - giờ còn như trước. Mới cách đây vài năm mà thôi. Câu hỏi của là tình cờ lạ lùng. Ba tháng trước tôi vừa trình lên Sếp biên bản về vụ này. Hòn đảo được nhóm khoa học gia kiểu công tử bột xin mướn. - có nhớ cái tên anò trong nhóm khoa học gia công tử bột đó ? - Trời ơi, Andrews, tôi làm sao nhớ được. Nếu chuyện này quan trọng đối với , tôi xem lại hồ sơ và gọi lại cho hay. Andrews liền bảo: - Xin hãy xem lại ngay. Ngay bây giờ. thể để sang ngày mai. - Hãy hành động ngay hôm nay, như Winnie vẫn thường bảo. Hãy xuất lực càng sớm càng tốt. Chúng tôi cùng nghe tiếng máy đặt xuống giá ở đầu kia. Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau trong lúc Andrews quay số điện thoại khác, số ngắn chỉ gồm bốn chữ số, và lần này ông ta bật máy phóng thanh. - Claggett? A lô, Dick, Colin Andrews đây. Tôi hiểu, tôi gần như giam mình trong tu viện chỉ vì quá bận… Với phương tiện mình sẵn có tại phía bắc, mình có thể thực phi vụ quan sát vùng Outer Hebrides hay ?... , chỉ có mấy hải đảo cách Murra độ chừng bốn mươi dặm, về phía tây… Đặc biệt chú ý đảo mà thôi. Đúng rồi, Sudra…, tôi hiểu. có thể chuẩn bị trước giúp tôi, hay là tôi phải liên lạc với phòng Phi Vụ?... Cám ơn, Dick… , chỉ cần xem qua và cho tôi bản phúc trình nhanh… Phỉa, tôi ban hành lệnh, nhưng khỏi phải chờ đợi tôi. cứ thi hành việc này, tất cả trách nhiệm tôi lãnh hết. Chuyện khá quan trọng. Ông ta trở về bản nhưng ngồi xuống. Trông ông ta có vẻ nóng nảy, và với chúng tôi: - May quá. có chiếc hàng mẫu hạm thực các cuộc thí nghiệm về thời tiết ở Butt-of-Lewis và Cape Wrath. Hàng mẫu hạm Defiant. Claggett chuẩn bị chuyến bay quan sát. Tôi xin phép ra ngoài để ban hành lệnh. Ông ta quay người định ra cửa. Tiếng của Dillingham làm ông ta ngừng lại. - Khoan , Andrews. Tôi biết đây là chuyện ngoài thẩm quyền của tôi, nhưng nó vẫn khiến tôi lo ngại. Chắc ông cũng hiểu rất có thể xảy ra chuyện nguy hại? Tôi muốn , cho phi công. - Sao vậy? Ô, tôi hiểu. - Phải. Nếu Saint Sudra là căn cứ bí mật của Anson và tổ chức Oui-Dire, và nếu có chiếc hộp đen được đem đặt tại đó, chiếc thám thính cơ của ông có thể trở về được. Xét đoán theo kiện bọn chúng tìm đủ mọi cách để ai biết gì về Sudra, nhất định chúng niềm nở tiếp đón những kẻ tò mò. Ngoài ra ông nên nhớ, có lẽ bọn chúng biết có mật tin trong bức thư của De Ménard, nhờ Dunbar che đậy cách khôn khéo. Nếu bọn chúng bắt gặp chiếc thám thính cơ của ông, chúng hiều ngay. Andrews tỏ ra do dự: - Tôi hiểu ý ông muốn gì. Nhưng tôi nghĩ rằng dù sao nữa, mình vẫn phải điều tra. Chưa ai kịp trả lời ông ta, chuông điện thoại bỗng reo vang. Ông ta liền chụp lấy máy. - A lô, Bannister. cừ . Chuyện như thế nào?.. Tôi hiểu… Phải, tôi hiểu. Cám ơn nhiều lắm. Khi nào cần, tôi xin đáp lại. Ông ta quay về phía chúng tôi. - Đúng là Anson. Bannister cho tôi biết hòn đảo được sở hữu chủ cho Anson mướn. thấy ai nhắc tới Oui-Dire. Các điều khoản trong khế ước thuê mướn hòn đảo được dùng làm nơi nghiên cứu và khuyếch trương. Sir George Vallance bảo: - Ông cứ ban hành lệnh thám thính. Andrews liền : - Độ mười phút nữa, tôi trở lại và dẫn các ông ăn trưa. Ông ta dẫn chúng tôi đến câu lạc bộ Hải Quân và Quân Đội, được dân London gọi là câu lạc bộ Vào-Ra vì những tấm bảng chỉ đường xe chạy hai cột trụ ở đường Piccadilly. Chương 4 Khi chúng tôi trở về, Delight sao lại bản tin từ máy tín hiều. Chúng tôi cùng chăm chú đọc: WHITBY GỬI ANDREWS: cho hai phi cơ từ Defiant thám thính Saint Sudra. Mất liên lạc với phi công ở 125 dặm. Phi cơ trở về và từ đó cho biết tin tức. Chúng tôi tìm kiếm. Cần tiếp tục thám thính hay ? Vallance ngước mặt lên trước tiên, và bảo: - Nên cho ngừng lại hơn. Dillingham tiếp lời: - Tôi đồng ý. cần mất thêm phi cơ nữa. Tôi đề nghị ông cũng nên chấm dứt ngay cuộc tìm kiếm mặt biển. Đừng sử dụng bất cứ cơ giới nào có hệ thống đốt. Andrews cau mày: - Cứ để mặc như thế hay sao? - Phải rồi, cứ để mặc. Dillingham đứng dậy, nắm tay chống lên bàn, mặt đưa tới gần Andrews, tiếp: - Tôi khỏi cần nhấn mạnh thêm về chuyện đó làm gì. Đại uý vừa có bằng chứng ràng của chiếc hộp màu đen. Đừng bao giờ nghi ngờ hiệu nghiệm của nó nữa. Dù Anson chỉ đem dùng chiếc hộp cũ của Ménard CEFSA Saint Sudra, cũng quá đủ. Ông có thể cá đến sạch túi rằng phi hành đoàn của hai chiếc phi cơ kia lúc này lênh đênh phao cứu nạn, nếu họ hãy còn may mắn. Chiếc hộp đó có hiệu lực tới đường chân trời theo mắt mình thấy, và nó triệt hạ mọi thứ. Andrews lại nhíu mày cách chán nản. - Còn các loại tàu ngầm? Dillingham đáp: - Tôi . Nhưng tôi nghĩ rất có thể tàu ngầm hề gì nhờ có nước che chở, miễn là đừng trồi lên mặt biển. Nếu ông muốn tìm kiếm phi hành đoàn của hai chiếc phi cơ ngộ nạn, ông nên dùng tiềm thuỷ đỉnh. Hay nhất là sau khi trời tối. Dù bọn chúng làm trò gì hòn đảo đó, nhất định đó phải là trò đùa, cà chúng muốn bất cứ ai trông thấy. Andrews ngồi xuống - Mình có thể dùng toán thuỷ quân lục chiến đổ bộ lên Saint Sudra và quét sạch cả vùng? Sir George Vallance chận lời: - Andrews, mình nên thận trọng chút tốt hơn. Dù sao, bọn người đó cũng mướn hòn đảo cách hợp pháp, và mình thể tràn đại lên phá rối tất cả. Trước hết mình nên tìm hiểu bọn chúng làm những gì. Sau đó, nếu là chuyện mình cần phải can thiệp, mình thảo luận chương trình hành động thích nghi. Tôi lên tiếng lần thứ nhất kể từ khi ăn trưa xong: - Việc này xin để cho tôi. Toàn thể mọi người nhìn tôi. Vallance : - Dunbar, tôi cũng nghĩ vậy. Ông được Anson đề nghị cuộc hợp tác. Chỉ có ông mới mong vào được nơi đó thời gian khả dĩ đủ để điều tra bọn chúng mưu chuyện gì. Tôi bảo: - Như thế hay hơn cho cả đoàn người tràn lên, tôi e có nhiều người chết. Nhưng tôi lên đó bằng cách nào? Andrews sốt sắng: - Tôi có thể thu xếp việc này. Vallance lắc đầu - Tôi nghĩ nên. Ông làm hỏng tất cả nếu đưa Dunbar tới đó bằng tàu hay tiềm thuỷ đỉnh của Hải Quân Hoàng Gia. Dunbar phải đến bằng phương tiện giao thông bình thường, phải của chính phủ. Để tôi xem lại cuốn sách chỉ dẫn đó. Ông ta tìm xem hoạ đồ ở phía sau, và tiếp: - Mỗi tuần chuyến tàu thuỷ Colonsay, lên cửa biển Lorse tới Oban, Sound of Mull, rồi tới Coll và Tiree, và tiếp tục tới Barra và Murra. Theo lối này được, vì quá lâu. A, đây là hãng cho mướn phi cơ từ Glasgow Islay, Tiree, Barra và Murra. Dunbar, kể từ Murra, ông phải tự xoay sở, nhưng tôi tin tưởng có người trong số dân chài ở đó bằng lòng đưa ông lên Saint Sudra. - Tôi trở về bằng cách nào? Andrews chen lời: - Việc đó tôi có thể dàn xếp được. Chúng tôi thừa sức đón ông trở về sau khi công tác tồi bại này kết thúc mặc dù chúng tôi thể đưa ông . Chúng tôi chỉ cần biết ngày giờ hẹn để cho tiềm thuỷ đỉnh đến – và nơi gặp nhau. Vallance cầm cây bút chì sơn vàng từ nãy giờ xoay trở cách sốt ruột tay, chỉ vào tôi và hỏi: - Ông cần ở Sudra trong bao lâu? - lâu quá ba ngày. - Thế mình hãy lấy ngày 8 làm ngày hẹn, Andrews, ông có thể chuẩn bị ngay được ? - Chắc chắn được. Mình hãy ước hẹn tàu tới nơi đúng mười hai giờ khuya ngày 8 tháng 3 và chờ đến tiếng đồng hồ trước khi trời sáng. Chúng tôi liên tiếp đón như thế ba đêm nếu cần - tức đêm tám, chín và mười tháng 3. Phòng trường hợp ông thể tới chỗ hẹn đúng đêm 8. - Ở đâu? Andrews bảo: - Mình hãy xem hoạ đồ. Ông ta đến bức tường và giở tấm địa đồ mấy hòn đảo, loại đặc biệt dùng trong quân đội. - Tôi lên Sudra với toán quân đổ bộ vào những ngày đầu tiên của cuộc chiến tranh 1939. Vì nơi này thể là căn cứ tốt, nên chúng tôi thiết tới chuyện đó, nhưng tôi vẫn còn giữ hoạ đồ. Đó là nơi khỉ ho cò gáy tương tự Saint Kilda về phía bắc, mặc dầu Kilda được sử dụng làm trạm hướng dẫn cho dàn hoả tiễn Uist. Ông ta chỉ bằng đầu bút chì - Hòn đảo độc nhất đáng cho mình lưu tâm là Saint Sudra, đảo lớn nhất này. Theo sách tài liệu cho biết, đảo dài độ mười dặm, kể từ Sternness, mũi đất xa nhất về phía bắc, cho tới vịnh Luana ở tận cùng phía nam Hải cảng chính, khả tốt, là nơi này, vịnh Gentry, ở về phía đông nam. Nó gần như chia hòn đảo ra làm hai phần, ngay dưới trung tâm, thọc sâu vào đất liền gần đụng South Loch, tức phá biển này. Tôi hỏi: - Những lằn màu đỏ này chắc là hệ thống đường sá? - Phải. có thành phố hay làng mạc gì ngoại trừ Bragawick, tại đây, ở phía vịnh Gentry, và giờ bị bỏ hoang. Bây giờ đây là nơi tôi đề nghị dùng làm điểm hẹn. Ông ta chỉ vào điểm ở bờ biển đông nam của Sudra, bên kia eo biển hẹp của Friday Sound về phía Dun, và vẫn tiếp tục trình bày: - nơi tuyệt diệu để yên lặng gặp nhau, với điều kiện đoạn bờ biển này có gì thay đổi. Ở đây vừa khuất gió vừa có sóng mạnh. Bãi biển dốc đứng suốt khoảng dài, bờ đá cách xa mức thuỷ triều cao và, theo tôi còn nhớ, bao phủ bởi loại cây kim tước và cỏ hoang. Ông ta chợt quay sang tôi - Khi ông muốn rước , ông hãy dùng cây đèn pin để làm hiệu. chiếc xuồng bằng cao su tới đón ông. Ông còn nhớ dấu hiệu Morse chứ? - Vâng. - Hay lắm. Ông chỉ cần ra dấu OUI – ba chữ O, U và I. Vallance cựa quậy cách bứt rứt - Chiếc xuồng đó có rộng chỗ ? Ít nhất Dunbar cũng đưa theo người khác, nếu ông ấy may mắn. Tôi vẫn còn nhớ loại xuồng xập xệ đó hồi tôi chưa ra khỏi biệt kích quân. - Bây giờ tiến bộ lắm rồi. Chúng tôi chu toàn. Dillingham cũng góp ý kiến - Còn quần áo nữa. Ở đó chắc lạnh lắm? Andrews trả lời: - lạnh lắm. Nhiều người tin, nhưng thực ra quần đảo Hebrides ít lạnh và ít khó chịu hơn London trong khoảng giữa tháng 11 và tháng 3. Nhưng tôi với Dunbar về chuyện này. Tôi lại : - Còn điều cuối cùng. Tôi bị cảnh sát truy nã. Ông có thể can thiệp để bãi bỏ vụ đó? Vallance đáp ngay: - được. Chúng tôi dám liều lĩnh với bất cứ ai về chuyện ông và những việc ông sắp làm. Dù là với cảnh sát. Ông phải tự xoay sở lấy. Ông cũng đừng nên trở về khách sạn. Chắc họ chờ ông tại đó, căn cứ theo lời ông kể về vụ họ hỏi thăm ông hồi sáng. Ông hãy đích thân tìm mướn máy bay, và cố tránh xa cảnh sát. Trông thấy bộ mặt của tôi, Andrews liền bảo: - đến nỗi nào đâu. Đêm nay tôi cho người lẻn vào nhà ông để lấy ra cho ông những món ông cần. Tôi niềm nở trả lời: - Cảm ơn ông. Ông an ủi tôi cách lạ lùng. Phần IV : Chương 1 Tôi trông thấy quần đảo Hebrides lần đầu tiên qua bờ biển phía đông của đảo Mull (1), hòn đảo xanh tươi nằm tận trong cùng nhóm - Những bức tường đá màu hồng của Lâu đài Duart đứng chót vót mũi đất đối diện với vịnh Loch Linhe và Sound of Mull, xoay từ từ về phía dưới chúng tôi trong lúc chúng tôi bay là là bên . Trông Hebrides tựa hồ như tách rời khỏi cánh tay của văn minh, mặc dù đúng như thế. Tôi rời khỏi Khách sạn Lovelace sau khi nhân viên gác cửa cho hay có thanh tra thám tử tới hỏi thăm về tôi, rồi ông ta trở lại lần nữa để xem kỹ sổ thông hành của tôi. Tôi tìm được chuyến máy bay Glasgow và mướn chiếc phi cơ cỡ đưa tôi tới Murra. Trong lúc mắt nhìn đàn cừu triền đồi của Mull, tôi nghĩ rằng ít nhất tôi ở ngoài tầm tay của Scotland Yard. Tôi cố tìm lũ cừu con lông trắng xíu thường chạy lăng quăng chung quanh những con khôn lớn trầm tỉnh hơn nhưng thấy con nào, có lẽ giờ phải là mùa cừu đẻ. Murra chỉ cách Coll và Tiree, hai hòn đảo tương tự nhau về phía bên kia Mull, khoảng chừng sáu mươi lăm cây số. Chúng tôi gần như còn trông thấy hai đảo này khi Murra lù lù xuất về phía trước. Viên phi công của chiếc máy bay hai động cơ đẩy tay lái tới trước và phi cơ bắt đầu giảm tốc độ. Vào khoảng ba giờ chiều ông ta quay vòng cuối cùng, hạ bánh xe và đưa chúng tôi xuống bờ biển. Murra và Barra là những nơi duy nhất thế giới mà tôi biết có đường hàng hoạt động điều đặn nhưng có phi trường bình thường. nay phi cơ hạ cánh những bãi biển tuyệt đẹp. Chưa đầy tiếng đồng hồ sau, chiếc taxi già nua đưa chúng tôi cùng túi hành lý đến cửa Khách sạn Stornholm. Mặt tiền của khách sạn nhìn ra Vịnh Battlement và Lâu đài Battle, có hình dáng mập lùn cách kỳ lạ như đồ chơi, xây núi đá cách bờ biển độ chừng mấy trăm thước. Người gác cửa xách hành lý cho tôi chợt trông thấy tôi nhìn quang cảnh đó liền giải thích : - Thưa ông, Lâu đài này có từ thế kỷ XII, trước kia là nhà của Macleod tại Murra, được trùng tu vào năm 1957. chiếc tàu chạy bằng hơi nước, chiếc Claymore of Glasgow, neo ở cuối bến tàu phía trước khách sạn. Những ngọn đồi chung quanh vịnh bắt đầu có vẻ mùa xuân, với những bãi cỏ xanh và bầu khí êm dịu. Tôi ngửi thấy mùi gay gay hổn hợp bởi nước biển, dầu và cá trong lúc tôi quay người lại để theo người gác cửa vào trong khách sạn. Tôi với có mái tóc đỏ ngồi sau bàn giấy : - Tôi ước mong được dẫn viếng thành phố ban đêm. Nàng trả lời, làm lộ hai đồng tiền má : - Thưa ông, chúng tôi rất sẵn lòng, nhưng đêm nay trong khách sạn chỉ có ba người khách. Lúc này hết mùa du lịch. Tôi ký tên vào phiếu ghi danh. tay xoay tấm phiếu và xem lại. - Ông Dunbar, xin chào mừng ông đến Murra. Ông từ London đến đây cũng khá xa, nhưng tôi có thể đoán ông phải người nước . - Vâng. Tôi là người Mỹ. - Người Mỹ các ông giỏi . MacLeod, vị đại điền chủ cuối cùng của Murra, cũng là người Mỹ - căn cứ theo sinh quán. Ông ta là kiến trúc sư xuất thân từ Virginia và trùng tu rất nhiều nơi trong lâu đài Battle. Mặc dù khí hậu vừa phải, trong phòng tôi lầu hai vẫn có ngọn lửa cháy trong lò sưởi. Khác với người , người Tô Cách Lan nhất quyết chịu tin rằng mùa xuân đến từ Tháng Ba. Tôi nằm xuống giường và ngủ tới bảy giờ. Đoạn tôi rữa mặt và xuống quầy rượu. Trong phòng, có khá nhiều người, ràng là dân chúng trong vùng, bởi vì trong khách sạn chỉ có ba người khách trọ. Để cho thêm ngon miệng, tôi uống ly lớn whiski, vừa nhìn cái lò sưởi vĩ đại vừa lắng nghe những lời tranh luận và vào căn phòng ăn lúc bảy giờ rưỡi. Trong phòng chỉ có nữ chiêu đãi viên, nhắn, có mái tóc đen bóng khiến tôi liên tưởng đến mái tóc của Monique. Tôi tự cá với mình rằng tên ta là Campbell. Đúng như thế . Tôi ngạc nhiên thấy có món thịt nai tấm thực đơn do nàng đem cho tôi. Nàng trông thấy vẻ ngạc nhiên của tôi và mỉm cười : - Chúng tôi mua thịt nai từ bên Pháp. Thịt hợp pháp. Chứ phải thịt nai săn lậu ở đâu. Tôi vội bảo : - Tôi đâu có buộc tội . Tôi chỉ muốn ăn thịt nai, dù thịt lậu hay cũng được. - Thưa ông, có ngay. ta bước ra phía cửa để đón tiếp khách khác vừa vào. Khách mới là người đàn bà. bé Campbell đứng chắn giữa tôi và nàng, nhưng có cái gì trong khí báo hiệu cho tôi. Khi chiêu đãi viên quay người để dẫn nàng tới cái bàn, tôi chợt trông thấy mặt nàng. Trái tim của tôi nhảy lên như con cá chuồn. Đó chính là Monique. Tôi đứng dậy khỏi ghế và cầm cái khăn ăn trong tay khi nàng trông thấy tôi. Đôi mắt nàng chỉ lướt qua mặt tôi chưa đầy giây rồi tiếp tục nhìn về phía sau tôi. Nét mặt nàng hề có biến đổi trong lúc nàng qua bên cạnh tôi về phía bàn của nàng. Bước chân nàng vẫn khựng lại chút nào. Tôi đứng sững, nhìn nàng. Người nữ chiêu đãi viên dẫn nàng tới bàn gần khung cửa sổ trông ra hải cảng và giữ chiếc ghế cho nàng. Nàng khẽ lắc đầu và chọn chiếc ghế đối diện, xoay lưng về phía tôi. Khi nàng ngồi xuống, tôi chỉ trông thấy phía sau đầu và gò má của nàng bên mái tóc đen nhánh. chiêu đãi viên mang đến cho nàng ly sherry pha nhạt và hỏi thức ăn. Tôi có thể nghe giọng của nàng cách ràng vì căn phòng lớn. sao lầm lẫn được về điểm này, dù tôi nhìn thấy khuôn mặt đó nữa. Tôi biết điệu của giọng này còn hơn điệu của giọng chính tôi. Lúc nữ chiêu đãi viên mang thức ăn đến cho nàng, nàng lại lên tiếng thêm lần nữa : - có thể dọn điểm tâm ngày mai cho tôi sớm? Tôi phải đúng bảy giờ. - Thưa , được chứ. dùng điểm tâm ở ngay trong phòng? Phòng ăn vào giờ đó còn chưa mở cửa. - Phải, nếu có gì quá phiền phức. - Thưa , có gì đâu mà phiền phức. có thể dùng trứng gà chiên với thịt heo? - Như thế là nhất rồi. Thêm bánh mì nướng và ly cà phê đen. Tôi ở phòng hai hai mươi ba. Nếu tiện, dọn cho tôi vào khoảng sáu giờ. Sau đó tôi còn thưởng thức nổi món thịt nai. Khó mà rời mắt khỏi gò má xanh xao kia. Tôi chờ tới lúc nàng bỏ sau khi ăn xong, mắt vẫn cố tránh mắt tôi. Rồi tôi trở lại quầy rượu và uống ly lớn Brandy với tách cà phê vô vị. Tôi có ít ấn tượng về người đàn bà. Tôi biết rằng phần đông họ đều thiết thực ngay cả những người có vẻ nhu nhược, gần như bao giờ thiên về phía yếu thế và những ảo tưởng điên rồ, như nhiều người đàn ông vẫn thường như vậy. Tuy nhiên, tôi luôn luôn xiêu lòng trước những người có vẻ hiền dịu và đôi khi như còn là phái đẹp vì bị kích động hoặc sửng sốt trong lúc hoảng sợ nhất thời, những người hình như cần được giúp đỡ. Trong đời tôi chưa từng gặp người đàn bà nào tài giỏi hơn Monique. Tôi thường tự hỏi cảm nghĩ đầu tiên của tôi đối với nàng xuất phát từ nỗi sợ hãi của nàng nhiều đến mức nào, tại sao đêm hôm đó nàng mất thăng bằng và trở nên mềm yếu đến thế, tựa hồ đất dưới chân nàng bỗng sụp xuống. Chính lao đao của nàng khiến tôi xúc động mạnh. Nhưng bây giờ trong cơn sửng sốt vì thái độ phớt tỉnh của nàng trong phòng ăn, tôi lại còn lúng túng hơn nữa. Nàng bước qua trước mặt tôi hai lần, thèm biết tới tôi, thế mà tôi vẫn còn ngồi đây bên cạnh lò sưởi trong quầy rượu lờ mờ ánh đèn của khách sạn, cầm ly Brandy tay mà tự cảm thấy tủi thân và trong lòng tràn đầy hình ảnh của nàng gấp đôi khi trước. Tôi lấy chìa khóa phòng ở bàn của người gác cửa lúc chín giờ tối và bước lên những nấc thang chật hẹp. Tôi qua cửa phòng của tôi ở tầng hai cho tới khi tới trước cánh cửa có tấm bảng đồng mang số 223. Tôi đứng đó phút rồi mới đưa bàn tay lên và sờ vào mặt cửa. Tôi phải đem hết ý chí ra mới khe khẻ gõ lại mạnh hơn. Tôi kiêu hãnh. Mấy giây sau tôi nghe tiếng xào xạt vang qua cửa. Cánh cửa khít với sàn ở phía dưới. Tiếng thào tiếp theo đó cũng lớn gì hơn. - Ai đó? Nhớ lại lần cuối cùng trước cửa buồng nàng, tôi liền đáp: - Ein Freund. Cánh cửa chợt mở nhanh về phía trong căn phòng tối đen. Nàng ngã người vào trong vòng tay tôi cách mau lẹ, vừa khép miệng tôi bằng miệng nàng. Tôi nhấc nàng hỏng chân khỏi mặt sàn và bước vào vừa đủ để dùng chân đóng cửa lại và ngay lúc đó tôi vẫn cảm thấy được nàng mặc chiếc áo dài bằng lụa màu xanh thẩm mà tôi còn nhớ nàng mặc tàu Victoria. Tôi cảm thấy bàn tay nàng đặt má tôi bên cạnh miệng chúng tôi lúc đó như gắn chặt vào nhau hơn nữa. Rồi nàng rời miệng nàng khỏi tôi cách nhanh và chuồi bàn tay lên môi tôi để cho tôi khỏi lên tiếng . Nàng kê má nàng sát vào má tôi và thầm bảo vào tai tôi : - Suỵt! đừng lớn. - Chuyện gì vậy? Nàng vừa thở vừa : - Trời ơi, Stuart, Stuart. Stuart của em. Em ước ao đến, đồng thời cầu nguyện cho đừng đến. Em lại còn cầu nguyện Thánh Monica và Đức Cha Huguenot. - đến đây. Tại sao em phải thầm như thế này? - Phòng sát bên cạnh. người của Anson. Y có thể nghe qua tường. Ở bên này, em có thể nghe cả tiếng y đánh răng. - Y là ai? Nàng vẫn ôm chặt vai tôi. - Em biết. gã con có bộ râu đen cắt ngắn. Trông y như hóa học gia hết thời. Nhưng y làm cho em phát sợ, Stuart à. Matuschek. Ý nghĩ vừa đến trong đầu tôi dựng đứng tóc gáy của tôi lên. - Em chắn chắn y là người của Anson? Vừa hỏi xong tôi biết ngay là câu hỏi khờ khạo. Chính y cùng tới Van Leyden đột nhập vào phòng tôi - Phải. Y ở bên Anson tại Balê hôm bọn chúng tạo ra... tạo ra cái chết khủng khiếp của Jacques trong chiếc xe hơi kiểu thể thao của ấy. Lẽ dĩ nhiên, đó phải là Jacques . Tôi bảo : - Tên của y là Matuschek. Y làm gì ở đây? - Y đến đây là chuyện có gì lạ. Khách sạn này do Anson làm chủ. Vì vậy mà em dám chuyện với trong phòng ăn. Bọn chúng dò xét. Tất cả đầu làm cho Oui-Dire. - Em khỏi phải lo. Nàng tiếp : - Mình nên chuyện ở đây. hãy trở về phòng . Em đến trong vòng phút. - ngay. Nàng tới chưa đầy phút sau. Lần này nàng ngã vào lòng tôi dữ dội như ban nãy mà êm ái áp má nàng vào má tôi. - Trời ơi, Stuart, gặp lại em sung sướng quá. Tôi trả lời. Nàng sửng người trong mấy giây. Rồi nàng dang xa mặt ra và nhìn vào mắt tôi. - Đừng, Stuart. đừng nghi ngờ em. Em biết có ý nghi ngờ em. Nhưng xin đừng như thế. Em chịu nỗi. Đôi mắt của nàng mở lớn và đen long lanh trong ánh lửa. - Nếu em đúng như nghi ngờ em có thể dẫn đường cho đến đây hay sao? Tôi đáp : - Nhờ bức thư. Có phải em dùng để cho hay? - Lẽ tất nhiên. Và đọc được ý nghĩa. tìm đường tới Saint Sudra. Em dám ngụ ý vì em mà mạo hiểm, nhưng có phải đúng như vậy hay ? - Đúng. Và phần lớn chỉ vì em. - đừng nữa. Mình có cả đêm hôm nay để trò chuyện. Miệng nàng lại trở về miệng tôi trong cái hôm cuồng nhiệt như bao giờ muốn rời ra nữa. Chương 2 Nằm thao thức với cái cảm giác đầu nàng kê vai tôi tựa hồ nàng ngủ, cuối cùng tôi hay biết mí mắt nàng cử động. Hai hàng lông nheo của nàng cọ vào da tôi khiến tôi cảm thấy nhột ở vai. - Em thức đấy à? Nàng dãn người ra. - Phải, Stuart, em vẫn còn thức. Giọng của nàng mất hết vẻ gượng gạo. - Thấy em thở quá, tưởng rằng em ngủ. - Chính lòng mãn nguyện giúp cho em thở cách nhàng. - Lúc này mình có thời giờ làm việc đó. Như thế khác gì mình quá xa xỉ. Nàng thở dài : - Em hiểu. muốn chuyện. là người có tài chuyện. Nhưng nàng cũng mỉm cười. Tôi cảm thấy những thớ thịt ở khóe miệng nàng động đậy sát vai tôi. Tôi lắc đầu. - là người Tô-Cách-Lan có tính ít . Nhưng lúc này cần phải . Em sắp sửa sớm. nghe em thế với bé Campbell. - bồi bàn? Phải, em muốn cho nghe. Cả số phòng của em nữa. Quả em biết xấu hổ. Nàng chống cùi tay nhỏm người lên và chăm chú nhìn tôi trong ánh sáng lờ mờ của ngọn lửa sắp tắt. - Mình chuyện gì bây giờ? Em phải bắt đầu từ đâu? Kể từ lúc em chưa quen biết ? - Mình mới quen nhau được 2 tuần lễ. Nhưng em chỉ cần khởi từ buổi sáng em rời khỏi chiếc Victoria. Nàng nằm ngửa xuống, duỗi hai cánh tay lên phía , rồi đặt cả hai bàn tay sau đầu. Thế nằm này khiến cho ngực nàng nổi cao hơn. - Đúng là buổi sáng khủng khiếp. Em cố tìm trước khi đẩy chiếc ghế lăn của Ted vào phòng quan thuế. - Ted được giấu ở đâu? - Trong phòng của Jacques. - Vô lý. có nghe người đàn ông trong phòng đó chuyện. ràng y tiếng Pháp rất đúng giọng. Ted thể được câu tiếng Pháp nào nghe ra hồn. - Stuart, đó chỉ là trò bịp bợm. ra Ted có trong đó, cũng như người mà nghe tiếng. Ở giường bên kia. Mê man biết gì hết. Bọn họ đoán chắc muốn điều tra cho , nên tương kế tựu kế... - Thế Ted ở trong phòng của em hay sao? - Chỉ trong đêm cuối cùng, sau khi bọn chúng giết Martin Allen. - Phải. ngửi thấy mùi băng keo và thuốc sát trùng gối. - Bọn chúng làm như thế để cho ngờ vực em. Có phải nghi em? Tôi trả lời nàng cách trực tiếp : - Em làm sao biết được những điều đó nếu em làm cho Anson? Nàng lắc đầu qua lại hai bàn tay. Bàn chân trái của nàng chạm vào mắt cá của tôi. đụng chạm khiến cho tôi bớt căn thẳng. Nàng cách khó nhọc : - Kể ra cũng đúng phần. Nhưng phải tự ý. Ai mà muốn làm cho tổ chức bẩn thỉu đó. Và nó bẩn thỉu , Stuart, à. Chúng hăm dọa Jacques, và sau khi giết Jacques chúng lại tiếp tục hăm dọa em. Em phải làm theo lệnh của chúng nếu mất hết. Và Jacques cũng phải vậy, thế mà vẫn tránh khỏi chết. - Jacques chết lúc nào? - Em nghĩ đoán ra. Ngay trong phòng của Ted ở Hoa-Thịnh-Đốn, khi mấy người cùng ăn tối ở Hội quán Jockey trở về. Tôi gật đầu : - đoán đó là xác của Jacques. - Đúng thế. Giọng nàng hơi nghẹn lại trong giây và nàng quay đầu về phía khác. Tôi hiểu ngay nỗi đau khổ mà nàng cố che giấu. Tôi quá bận tâm với nỗi khổ của mình cùng cuộc tìm kiếm khó khăn, rồi sau đó mãi nghĩ đến nàng nên quên lưu ý cảnh ngộ mà nàng phải gánh chịu. Tôi sờ lên vai nàng và nàng ngoảnh mặt trở lại với tôi, mắt long lanh trong ánh lửa. Tôi khẻ bảo : - xin chia buồn với em. - Chuyện đó bây giờ thành vấn đề nữa. Em có thể uống chút rượu để cho dễ chuyện? - Dĩ nhiên. Tôi liền pha hai ly whisky với chút nước và mang lại giường. Căn phòng lạnh dần lúc ngọn lửa tàn rụi trong lò sưởi và sàn nhà cũng giá buốt dưới chân tôi. Nàng chống mình lên gối để cầm ly rượu tay tôi. Tôi tìm chiếc áo dài của nàng và khóat lên vai nàng, nhét vào hai bên hông, rồi hỏi : - Anson dùng chuyện gì để hăm dọa em và Jacques? Nàng đáp : - cần phải hiểu Jacques. ấy tự ý liên lạc với Anson từ trước. Cách đây độ ba năm. Jacques nguyên là phi công trong -Lực, rồi sau đó là hung Kháng Chiến, nhưng ấy là người bình dị và hiền hòa. ấy ghét chiến tranh, ghét luôn cả công việc chế tạo các thứ khí giới - kể cả các hệ thống vũ khí điện tử. ấy tin rằng Anson tổ chức liên minh khoa học gia phụng hòa bình. Jacques ngờ rằng Oui – Dire là tổ chức gián điệp. Anson muốn chiếm sáng chế điện tử mà Jacques nghiên cứu. Y bảo rằng phát mình này bảo đảm nền hòa bình bởi vì nó …vô hiệu hóa mọi thứ khí giới. - biết chuyện đó, Ted Cũng nghiên cứu về vụ này. - Nhưng thành tích quan trọng hơn. Jacques và Ted có thể bàn luận với nhau về vấn đề đó, nhưng họ thể nhiều, vì lý do an toàn cho cả đôi bên . bây giờ còn lo về vấn đề an toàn nữa. Anson nắm giữ phát minh của Jacques. Y muốn đoạt luôn phát minh của Ted, nhưng trong hệ thống này thiếu mất bộ phận. Chính vì vậy y bát Ted đem về đây . Em đoán lúc đầu Ted chưa trao tất cả cho y. jasques đến gặp Ted ở Hoa Thịnh Đốn cốt để kể cho Ted nghe Anson hoạt động như thế nào. - Và Anson làm những gì ? - Em biết, em được biết, Stuart à, Jasques bao giờ kể cho em nghe. ấy chỉ bảo rằng ấy khám phá ra , và ấy muốn kể lại với Ted. ấy phải đến gặp Anson tại Saint Sudra và lúc trở về ấy có vẻ tức giận và nghĩ ngợi nhiều lắm. - ấy với Ted trong bữa ăn tối hôm đó ? - . Họ muốn chuyện đó ra vì có mặt em. Mọi người cùng trở về nhà Ted sau khi ăn xong. Em chỉ uống thêm ly rượu và trở về khách sạn mình. Jasques bắt gặp Anson đợi ấy ở ngoài hành lang khi ấy vừa ra khỏi nhà Ted. - Phải. Em biết nghĩ đến điều này rất nhiều. Y… y bắn chết Jacques. Nàng dừng và nhắm nghiền mắt lại. Tôi nắm lấy bàn tay tự do của nàng và siết nhè .Khi nàng ngước lên nhìn tôi trở lại, tôi trông thấy mắt nàng long lành hàng lệ. Lẽ tất nhiên việc là như thế. Ánh sáng lóe lên mà ông cụ mannion trông thấy ở ngoài hàng lang tối và chớp lửa của khẩu súng . Chắc nó phải có ống hãm thanh. Ông cụ đứng sau cánh cửa nên thể nào nghe được tiếng khạc đạn rất khẽ qua ống hãm thanh Nàng tiếp bằng giọng căng thẳng và đều : - Chắc hẳn ted điên đầu lên. Em đoán ấy cũng nhưb em, lo sợ dám gọi cảnh sát. Trước hết ấy chạy đến tìm em ở khách sạn. Anson liền đuổi theo. Em vừa vào trong phòng ngủ để thay quần áo saun khi Ted đến, Anson gõ cửa ngoài phòng khách. Em đoán Ted để cho y vào. Khi em ra Ted bất tĩnh, đầu bị thương, máy chảy xối xả. Anson gọi Mendoza vào và bọn chúng tiêm cho Ted mũi thuốc. Chúng cạo sạch đầu ấy bằng lưỡi dao cạo của Jacques và gọi vị bác sĩ của khách sạn đến để băng bó. Vị bác sĩ muốn chở ấy nhà thương để rọi điện. Nhưng Anson bằng lòng, y bảo đưa rọi ở Nữu Ước. Sau đó, bọn đem vào nhiều băng hơn nữa, tự tay cuốn quanh kín cả đầu Ted, chỉ chừa lại mấy lỗ cho hai con mắt và cái miệng. Chính ted được bọn chúng đưa Nữu Ước trong chiếc ghế lăn - hiểu. Và chính em lấy bức điện tín về vụ đó trong túi tàu Queen Victoria. - Stuart, em xin lỗi . Em cần phải biết bức điện tín gì. Anson bảo em rằng định phá hủy danh dự của Jacques. - Em đừng lo. Rồi Anson và Mendoza trở về nhà Ted và đốt xác của Jacques giường của Ted. Nàng im lặng gật đầu trong lúc tôi tiếp : -Còn Ted được đưa Nữu Ước bằng máy bay vào ngày Thứ Sáu. Có phải chính Anson mượn tên của Ted để đáp phi cơ hôm Thứ Tư ? - Đúng ! Mặc áo choàng và mang cà vạt của Ted. - Tại sao em chịu hết với Dilligham và hôm em bị bắt gặp trong nhà của Ted ? - Ồ, Stuart, em làm sao được, thấy hay sao ? Em thể với bất cứ ai về những việc Jacques làm. Như vậy tất cả danh dự của ấy tiêu tan, đúng lúc ấy tìm cách chuộc lại lỗi lầm. Hôm ấy em chưa biết Jacques chết. Ngày hôm sau Anson mới kể lại với em, khi em bắt đầu lo lắng biết Jacques ở nơi nào. Em nằm lì trong phòng và khóc suốt ngày. Anson hăm dọa mật báo với Phòng Nhì Pháp rằng Jacques đem bán phát minh điện tử cho kẻ khác. Như vậy là kể như tan nát cả Jacques cùng với công ty của ấy. Em thể để cho trọn công trình của ấy tiêu tùng. ấy gày dựng công ty. Đó là tất cả cuộc đời của ấy. ấy vợ, con, và…và em xin thú , em cũng hơi ích kỷ. Em muốn giữ cho công ty sống còn. - Nhưng, Anson thể tố cáo Jacques mà tự tố cáo y luôn. Chẳng lẽ Phòng Nhì Pháp thể hỏi Anson những câu rắc rối về vai trò của Oui – Dire trong toàn thể vụ này ? -Stuart à, đánh giá Anson quá thấp, và đây là điều tối nguy hiểm. Anson viết bức thư đưa cho Jacques ký tên. Bức thư được gửi cho ai ngoại trừ người có liên hệ. - ra thế. - Lời thư rằng Jacques giao các họa đồ điện tử của bộ máy đó cho điệp viên Nga, và bằng chứng này có thể tìm thấy trong tủ sắt của hãng CEFSA. - vậy sao ? - vậy. Có hồ sơ với đầy đủ giấy tờ giả mạo. Anson đưa cho em xem các tấm hình chụp lại vừa đủ để làm sụp dổ Jacques và CEFSA. Anson giữ bức thư mà Jacques ký tên vào để hăm dọa em và tự bảo đảm an ninh cho chính y. Y chỉ cần gửi qua bưu điện đến Phòng Nhì Pháp là xong ? - Trời đất ! - Đúng là chỉ còn biết kêu trời. - Bức thư đó vẫn còn hăm dọa được hay sao ? Jacques chết rồi mà. Nàng đấm lên ngực tôi : - Sao ngốc quá vậy, Stuart ! Danh dự của Jacques có còn CEFSA mới sống được và em mới có cơ hội cứu vãn tình thế. Em biết làm gì khác hơn bây giờ? Nàng đưa vai lên và buông trở xuống. mắt nàng vẫn còn ngấn lệ lúc nàng ngước lên nhìn tôi. - Đáng lẽ em nên với chừng có thể giúp được em. - . Em thể. Bây giờ em kể hết cho nghe rồi, có lẽ em sắp sửa phá hủy công ty của Jacques. làm cho Dilligham. Em làm sao biết được dự tính làm những gì? Tôi hề có ý nghĩ chính nàng cũng bị xâu xé bởi những nghi ngờ tương tự như tôi. Tôi liền hỏi: Bây giờ em làm sao biết chắc được? Nàng đáp bằng giọng hồn: - Em cần gì nữa. Em sắp sửa Saint Sudra để đưa cho Anson những gì y muốn. Y cho chiếc tàu đón em vào lúc bảy giờ. - Y muốn gì? - Giọng nàng hơi run: - Hãng CEFSA. Y muốn chiếm cổ phần của em trong công ty, nếu y phá tan bằng cách tố giác Jacques. - Em phải dâng tất cả cho y ? Nàng cười cách gay gắt : - Ồ ! Y chỉ muốn trả nửa trị giá kế toán. Ban quản trị dã cầu em thương lượng với y. Dù thế nào nữa, em bây giờ chỉ còn trơ trọi mình. - đúng hẳn. Còn có nữa chứ. Mình cùng nhau bàn tính lại. Nàng tụt người, đập mạnh trán vào vai tôi, vừa lắc đầu vừa : - Em sợ. được. Tôi bảo : -Xuỵt. Đúng như lời em, mình chuyện quá nhiều. Chỉ còn năm tiếng đồng hồ nữa là tới giờ điểm tâm. Nàng khẽ ngâm câu thơ : - Thời gian chắp cánh, tựa chim bay. - Em cũng thuộc thơ? biết đoạn hay hơn nhiều. Rồi thàng ngày trôi chảy êm đềm, xin nhớ mãi dùm em, ngày qua ngày vẫn thêm lẩm lỗi, cứu vãn bằng niềm vui mỗi đêm. - Nàng ngâm tiếp: - Und die Nachi hat ihre Lust.
Chương 3 Trong lúc thay quần áo sau khi cạo râu xong, tôi đứng ngắm vịnh Battlement từ cửa sổ phía trước phòng của tôi. Hôm nay là ngày u buồn, với màn sương mỏng trong khí. Tòa lâu đài như được phủ dưới tấm khăn, nhưng vẫn che giấu được vẻ đen tối. Giữa lúc đó chiếc tàu thấp, dài từ từ cập bến. Nó có cây cột radio cao và hình dáng quen thuộc cách kỳ lạ, nhưng tôi chưa kịp nhớ ra nó cập hông vào bến tàu. tàu chỉ thấy bóng dáng hai người đàn ông. trong hai người khom mình về phía chiếc cột bến tàu để buộc dây. Người kia vẫn đứng ở bánh lái. Về phía mũi tàu có mấy cái giá kỳ lạ thẳng đứng, ràng để đặt súng. Ở giữa tàu là mấy dàn phóng thủy lôi nhưng mang sẳn thủy lôi. Chiếc tàu ràng là ngư lôi đỉnh trang bị vũ khí. Ngay khi tôi nhận thấy điều này, tên của chiếc tàu chợt nẩy ra trong trí tôi. Đó là chiếc ngư lôi đỉnh S của quân đội Đức, còn được gọi là ngư lôi đỉnh E trong cuộc Thế Chiến. Tôi có thể liệt kê các đặc tính của nó căn cứ theo ký ức : trọng tải độ sáu mươi tấn, bề dài chừng tám mươi thước, trang bị hai dàn phóng ngư lôi 500 ly, hai đại liên có đầu nặng nửa ký lô, trung liên hai mươi ly, dàn động cơ dầu cặn M.A.N. có tốc độ lớn hoặc động cơ chạy xăng Daimler-Benz có thể cho tốc độ khoảng chừng ba mươi lăm gút. trong hai ngươi ngồi chồm hổm sau tấm kiếng chắn gió để đốt ống điếu. Y chưa đốt xong người kia bước lên cầu tàu. Trong giây lát tôi hiểu vì sao. Y vừa trông thấy Monique ra khỏi khách sạn. Nàng sải bước băng qua đường, theo sau là người gác cửa mang hành lý cho nàng. Gã đàn ông từ chiếc ngư lôi đỉnh xuống gặp nàng ở giữa đoạn đường cầu tàu và lấy hành lý khỏi tay người gác cửa. Y xoay gót cách nhanh nhẹn và trở về tàu. Monique câu gì đó với y. Nàng quay lại để thưởng tiền cho người gác cửa trong lúc gã đàn ông xách hành lý của nàng vẫn tiếp tục nhìn lui. Người gác cổng kéo vành mũ để chào nàng. Monique lại bước về phía chiếc tàu. Tôi ước mong nàng quay lại và nhìn lên nhưng nàng hề trông lui và vẫn bước đều. lúc sau tôi nghe tiếng cánh cửa trước của khách sạn đóng mạnh. Rồi tôi trông thấy người thấp chạy ra ngoài, băng qua đường về phía bến tàu. Đó là Matuschek. Y lớn chuyện gì với người đàn ông tàu. Tôi thể nghe . Bọn chúng đợi y. trong hai gã đưa bàn tay cho y để kéo y lên, rồi quay sang đưa tay cho Monique. Nàng nhìn y và bước lên cách dễ dàng, rồi nhanh nhẹn nhảy vào trong tàu. Tôi chăm chú nhìn bọn chúng tháo dây và cho động cơ lên tốc độ, quay tàu ra cửa bến. Hình ảnh cuối cùng của Monique mà tôi còn được thấy là cánh tay đưa lên phía khuôn mặt nàng lúc này chỉ là vết mờ màu trắng. Người gác cổng với tôi : - Bây giờ phải là mùa thích hợp với cuộc ngoạn cảnh chung quanh đảo. Tại sao ông chuyến tàu hơi nước cho tiện? Ngày mai nó lại khởi hành. Tôi bảo : - được. Có lẽ tôi phải trở về Glasgow bằng chuyến tàu đó, nhưng tôi muốn xem qua Murra trước . - Ồ, được chứ. Tôi chỉ có thể giúp ông ý kiến là hãy gọi điện thoại cho Archibald MacLeod. Mặc dầu tôi thể biết chắc cậu ấy có chịu hay , bởi vì chỉ thỉnh thoảng cậu ấy mới cho mướn xuồng máy. Cậu ấy chuẩn bị xuồng sẵn sàng cho mùa hè sắp tới. Ông có thể gọi điện thoại đến Lâu đài Battle và hỏi thử xem. giọng đàn bà cho tôi hay Archibald MacLeod có mặt ở nhà. Bà ta cho tôi số điện thoại xưởng tàu ở Lingay, về phía bên kia vịnh, nơi ta lo tô điểm cho chiếc thuyền buồm. Chiếc Ailsa tiến vào bến tàu lúc gần mười hai giờ trưa với mấy cây cột trơ trụi và chỉ chạy động cơ phụ . Đó là xuồng máy xinh đẹp chỉ dài độ mười thước. trong hai thanh niên rất trẻ trèo lên cầu tàu và đưa bàn tay cho tôi, rồi ngay : - Tôi là Archibald Sinclair MacLeod. Đây là em tôi, tên Eric. Archie vào khoảng hai mươi hai tuổi, còn Eric mới độ chừng mười tám. Cả hai đều sạm nắng dường như suốt ngày chỉ ở ngòai trời, từ mùa hè cho chí mùa đông. Archie bằng lòng ăn trưa với tôi, nhưng ta muốn Eric chờ tàu. ta giải thích : - Chung quanh đây có nhiều người lạ quá. ta và bé Campbell mĩm cười với nhau dường như họ là đôi bạn thân, nhưng ta rất ít cho đến lúc chúng tôi ăn gần xong bữa ăn trưa. ta lắng nghe tôi cách lễ độ, thỉnh thoảng gật đầu. Tôi vào điểm chính : - Tôi trả cho mỗi giờ guinea, thêm tiền xăng. - Ông Dunbar, ông cho nhiều như thế, làm sao chúng tôi từ chối cho được. Chúng tôi cũng cần tiền. Chúng tôi sắp sửa đưa chiếc Ailsa tham dự cuộc đua xuyên Đại-tây-dương tổ chức vào mùa hè năm nay. Nếu ông muốn, mình có thể lên đường ngay sau khi ăn trưa xong. Nhưng ông có thể cho tôi biết ông làm cách nào để trở về đây được? - Mấy người bạn của tôi Saint Sudra đưa tôi về khi tôi xong việc. ta nhìn sửng tôi cách ký lạ và tiếp tục ăn gì nữa. ràng ta nghĩ tôi điên nên mới tin tưởng nhờ được bạn bè hòn đảo có người ở đưa tôi trở về Murra. Nhưng ta muốn giữ lễ độ nên dám tỏ điều đó. Tuy nhiên cuối cùng ta vẫn khéo : - Ông nên biết, có đường điện thoại liên lạc với Saint Sudra. Như vậy ông thể gọi tôi đến đón ông. Có lẽ hay nhất là tôi chạy loanh quanh ngoai khơi vài ngày chờ ông. Tôi bảo : - Khỏi cần, Arch à. Nhưng dù sao tôi cũng cám ơn nghĩ tới chuyện đó. ta lại nhắc nhở chuyện này lần nữa đường tới Saint Sudra. ta chăm chú nhìn trời hồi, có vẻ vừa ý với thời tiết vì lúc này chút nắng ra. ta vẫn chưa giăng buồm. Thỉnh thoảng mới có cơn gió thổi qua làm cho mặt nước gơn lăn tăn. Từng làn sóng dài của Đại-tây-dương nâng mũi chiếc Ailsa lên trong lúc chúng tuần tự chuồi vào phía dưới lườn tàu. Archie và Eric cùng cầm bánh lái. Archie chợt hỏi : - Có phải ông là người Mỹ. - Phải. Nhưng tổ tiên tôi là người Tô-cách-lan. - Tôi có ý ám chỉ những người Mỹ đều điên. Chính chúng tôi, Eric và tôi cũng có nửa phần Mỹ. Ba chúng tôi là người Mỹ. Nhưng chắc ông biết rằng Saint Sudra có ai ở suốt ba chục năm nay? - Phải. Nhưng giờ ở đó có người. Có thể tạm gọi là đoàn thám hiểm khoa học. ta nhìn tôi với vẻ hòai nghi. Tôi liền : - Trông có vẻ tin lời tôi. Ở Murra các để ý thấy gì lạ hay sao? Chẳng hạn có ai đến mua đồ tiếp liệu, thực phẩm? ta trầm ngâm bảo : - Có kho hàng mới thành lập ở Sternholm nhưng ai biết gi về bên trong. nóc có cả cột radio lớn trông kỳ lạ. Nhưng chung quanh đó xe cộ rất ít qua lại, và tôi hề biết ai từ Sudra đến. chừng Eric có thấy ai. Eric liền : - hề. Em biết người nào ở đó. Cả Archie và Eric đều uốn giọng gần đúng tiếng chính hiệu. Tôi nghĩ chắc hai em từng học tại đó. Archie ngước mắt nhìn trời, kêu lên : - Xem kìa, tôi tin chắc mình sắp gặp gió lớn. Như thế giúp cho ông đỡ tốn mớ xăng. ta về phía trước với Eric và hai em cùng kéo buồm lên cách nhanh nhẹn. ta đoán rất đúng. Gần như ngay lúc đó ngọn gió đông nam nổi lên. Trong phút chốc, chiếc xuồng có tốc độ lên đến mười lăm gút, nhanh hơn cả khi có máy chạy. Tôi tin tưởng có thể cá chiếc Ailsa thắng cuộc đua xuyên Đại-tây-dương, nếu Archie nắm bánh lái. Tôi hỏi Archie ta có thể đưa tôi vào Vịnh Gentry theo ngả Friday Sound và eo biển Lunna hay . ta đáp : - Dễ quá mà. Ngả đó cũng khác ngả mình theo bao nhiêu. Tôi chỉ ước mong gió cứ thổi mãi như thế này. Tôi cũng ước mong điều đó khi nhớ đến hệ thống điện tử có thể làm tê liệt động cơ của chiếc Ailsa. Lúc năm giờ chúng tôi vào eo biển. Tôi quan sát bãi biển cách kỹ càng với cặp ống nhòm của Archie cho tôi mượn. Andrews nhớ nơi này rất chính xác. Đây là bãi biển khá sâu với bờ dốc thoai thoải có cát trắng và lởm chởm những đá. Về phía bên kia bãi cát chạy dài bờ đá cao khoảng chừng bốn thước tây, có nơi lên tới sáu thước, có nơi chỉ độ ba thước, nhưng trung bình là bốn thước. Bờ đá thỉnh thoảng bị tách rời ra bởi lằn nứt sâu từ đỉnh xuống tận dưới đáy. Bãi biển nơi tôi phải đến gặp Andrews và chiếc xuồng máy của ông ta rất dễ nhận thấy ở mút đông bắc, gần đảo Lunna. Archie chăm chú nhìn tôi trong lúc tôi hướng ống nhòm về phía bãi biển. Tôi giải thích : - Tôi chỉ muốn xem thử có thể lội được hay . ta ngay : - Ông phải hết sức cẩn thận. Khỏi dấu thủy triều thấp chừng mấy thước, đáy biển thụt xuống sâu lắm. - Sâu bao nhiêu? Eric trả lời sau khi xem lại bản đồ. - trăm fathom, ở chính giữa eo biển. Tôi le lưỡi : - trăm tám chục thước tây! Eric mỉm nụ cười thú vị trước vẻ kinh hoảng của tôi : - Thưa ông, đúng như vậy. Tuy nhiên, ra khỏi dấu thủy triều thấp, khởi đầu đáy biển chỉ xuống sâu rất nhanh tới bốn mươi fathom. Lối vào vịnh Gentry chỉ rộng chừng 1.600 thước giữa mũi Pentland và đảo Nossie. Trong lúc chúng tôi quay vào cửa vịnh, tôi phỏng đoán làng Bragawick chỉ cách chúng tôi vào khoảng ba cây số. Với cặp ống nhòm, tôi có thể trông thấy nhiều ụ dọc theo cầu tàu duy nhất. Bốn chiếc ngư lôi đỉnh S đậu ở bốn ụ, cùng với mấy chiếc tuần dương đỉnh. Điều khiến cho tôi ngạc nhiên nhất là chiếc tàu hàng khá lớn bỏ neo trong vịnh cách bến tàu gần cây số, như ngồi lên khỏi mặt nước, phô bày những mảnh sắt gỉ. Quang cảnh có vẻ rộng rịp các boong tàu trong ánh sáng giảm dần. bọn đàn ông đưa hàng hóa xuống nhiều chiếc xà lan bằng những cây cần trục. Archie nhìn tôi. - Tôi xin rút lại lời tôi có ai Sudra. Chiếc tàu hàng nào vậy ông? Eric đáp trước : - Đó là chiếc Star of Aden, khởi hành từ Alexandria. Tôi nhìn ta, vô cùng ngạc nhiên. Chỉ mình tôi có ống nhòm, và chính tôi còn đọc nổi tên. Archie bật cười : Eric vẫn được nhiều người gọi là Mắt Ó. Nó có thể thấy mọi vật ở cách xa ba cây số bằng mắt trần trong lúc tôi thấy quá cây số rưỡi dù có ống nhòm. Eric bảo : - Tàu chuẩn bị rời bến. Chương 4 chiếc Land Rover mui trần đậu bến tàu trong lúc chiếc ngư lôi đỉnh S tiến vào ụ. Tôi có thể trông thấy chiếc đầu sói sao lầm lẫn của Anson ở phía tay lái. gã đàn ông mặc đồng phục xám ngồi bên cạnh ông ta với khẩu tiểu liên đặt đầu gối. Anson bước xuống khỏi xe và ra ụ tàu theo đoạn đường hẹp. Ông ta đưa bàn tay ra cho tôi khi tôi bước lên bên, và lên tiếng : - Chào ông Dunbar. Rất vui mừng được gặp lại ông. Tuy nhiên giọng ông ta chẳng những vui vẻ chút nào mà lại còn gượng gạo. Tôi đáp : - Chào ông Anson. Tôi đến để bàn tính với ông về đề nghị của ông. Ông có vẻ khích lệ khách đến đây phải? - . Ông đến là điều rất hay. Tuy ông hơi trễ, nhưng dù sao mình vẫn có thể bàn luận. Ông làm sao mà tìm ra chỗ ở của tôi? - Martin Allen cho tôi hay, ngay trước khi ông ấy chết. - Phải. Matuschek hành được chu đáo. Tôi phải chuyện với ta về vụ này. Mình nên ngay. Trời chiều lắm rồi. Ít nhất, tôi cũng có thể mời ông bữa cơm tối và giường ngủ đêm hôm nay. Ông có thể xe lên tận lâu đài cùng với Nelson và tôi. Ông ta quay phắc người lại và bước tới chiếc Land Rover. Tôi liền theo ông ta. Gã đàn ông cầm súng rời khỏi ghé trước và ra băng sau, cầm theo hành lý của tôi. Trông y có vẻ cau có trong lúc chật vật với túi đồ khá nặng của tôi. Đường bắt đầu lên dốc gắt ngay khi chúng tôi băng ngang Bragawick. Tôi ngắm những ngôi nhà bé trong làng, nhớ lại lời Colin Andrews diễn tả về nơi này. Toàn thể đều xây bằng đá bản xứ, với mái lợp rơm. bọn người nhiều lắm, đa số là đàn ông, xê dịch những thân cây. Họ là những người thợ. Tất cả, cũng như gã Nelson ngồi ở băng sau, đều mặc đồng phục xám. Mỗi người đều mang dấu hiệu có hình chữ <O> túi ở ngực bên trái để phân biệt. Thỉnh thoảng tôi mới trông thấy người đàn bà, nhưng phải là hạng đàn bà nội trợ. Họ chỉ giống như những người phụ việc, đầu tóc rối bù, ăn mặc lòe loẹt. Phần đông có bộ mặt của dân du mục. Tôi liên tưởng đến thành phố khai thác mỏ hoặc gỗ xẻ. Đây phải là làng có nhựa sống. những con đường chúng tôi chạy qua, hề thấy bóng dáng đám trẻ con nào nô đùa. Chúng tôi ra khỏi Bragawick và vẫn tiếp tục lên dốc. Độ dốc lớn đến nỗi chúng tôi vừa lên chưa được cây số tôi trông thấy những mái nhà xa tít về phía dưới. Cảnh tượng chợt trông thấy ở về phía nam của thành phố làm tôi giật mình. Nằm dài vùng bình nguyên dưới dó là cả phi trường, với hai phi đạo dài và tòa nhà lớn. Ngoài ra, hai bên phi đạo có nhiều trại chứa phi cơ. Tôi với Anson trong lúc ông ta vẫn giữ im lặng suốt từ khi chúng tôi rời khỏi bến tàu. - ra ở đây có cả phi trường. - Vâng. - Có phải chiếc ở cầu kiểm soát đó là chiếc DeHaviiland Bốn-B? - Vâng. Ông có cặp mắt tốt . - Còn chiếc Caravelle? - Đó là phi cơ riêng của tôi. Chiếc Bốn-B thuộc tổ chức. - Oui-Die? Ông ta nhìn tôi cách lạ lùng, gì, mắt quay trở lại con đường quanh co. Nó đến nỗ quá ngoằn ngoèo như tôi tưởng và chiếc Land Rover giữ nguyên tốc độ khá đều. Chúng tôi hướng về phía bắc đông bắc. Trong lúc chúng tôi lên cao dần, tôi có thể trông thấy mặt biển ở phía nam và đông nam. Tôi còn thoáng thấy được chiếc Ailsa, lúc náy biến thành chấm trắng xíu bên kia đảo Nossie, trực chỉ theo phía đông để trở về Murra. Tôi với Anson : - Hòn đảo này tuyệt quá. Chắc ông làm chủ ở đây? - Đâu phải. Có thể tạm gọi là mướn lại. - Về phía bên trái, có vùng gì trông như trại thiết giáp vậy? Anson mím môi lại thành lằn thẳng. Ông ta liếc mắt về phía gã đàn ông ngồi ở băng sau, lảng : - Ngày hôm nay chắc thể nào viếng cảnh được. Tời sắp tối mất rồi. Ông ta vói tay bật đèn xe. Tôi có cảm tường ông ta quyết định điều gì, trong lúc ông ta tiếp : - Sáng mai tôi dẫn ông xem vòng đảo, nếu ông vẫn còn ở lại đây với chúng tôi. Tôi ngậm miệng suốt đoạn hành trình còn lại chỉ im lặng nhìn những mép đá lởm chởm gần bờ bể bên phải. Hàng hà sa số chim biển vừa bay vòng quanh vừa kêu la om sòm các bờ đá - trong đó có đủ các loài du cầm và hải âu có thể lội nước, lũ hải âu này lũ lượt kéo nhau vào đất liền khi màn đêm khởi buông xuống. Tôi biết rất có thể có cả loài hải báo xám đặc biệt của miền Đại-tây-dương trong đám núi đá phía dưới những đoạn bờ biển hình răng cưa. Tôi chợt có cảm tưởng huyền bí về đảo này. Tôi sao xua đuổi được ý tưởng hoang liêu của nó ra khỏi tâm trí. Nó đứng yên, hoặc trôi lênh đênh giữa vùng bắc Đại-tây-dương, nằm như chiếc tàu khổng lồ về cõi hư vô, trong nỗi đơn tàn khốc, giữa những ngọn gió lạnh buốt thổi về hướng đông bắc. Tôi chợt cảm thấy tóc dựng đứng lên ở sau gáy. Tòa lâu đài đứng sừng sững bờ đá ở mé biển phía đông. Tôi có thể trông thấy nó lúc chúng tôi chạy theo khúc đường vòng cuối cùng. Các khung cửa sổ bắt đầu sáng ánh đèn. các bức tường hoa phủ chung quanh, đèn được thắp sáng choang, theo tôi đoán có lẽ vì muốn cho đẹp mà vì muốn bảo đảm an ninh. Tôi có thể trông thấy nhiều khẩu tiểu liên gắn sẵn sàng vào giá trong chòi gác chính phía cao. Tuy nhiên tôi thể quả quyết có người kềm giữ hay . Những bức tường đá màu xám khiến cho cảm tưởng của tôi về hòn đảo này càng thêm vững chắc. Trông nó khác chiếc cầu phao bay bổng lên cao của con tàu, và con tàu này chính là hòn đảo. Anson bảo : - Lâu đài Kinnoul. Quẹo khỏi đường cái, ông lái xe chừng năm sáu chục thước theo đoạn đường vòng rải sỏi, chạy vào khuôn sân có những bức tường thấp bằng đá bọc quanh. Tôi nghĩ những bức tường này có thể thay thế cho hào hố. Trông nó giống như đất đá đổ xuống và các lực lượng võ trang khó lòng bò lên nỗi. Chúng tôi dừng lại ở trong sân. Anson : - Donald mang hành lý giúp ông và chỉ phòng cho ông. Chúng ta gặp lại nhau ở đại sảnh để uống cocktail vào lúc bảy giờ. Ông khỏi cần mặc đồ lớn. Tôi thường ăn tối mình, dùng chung với các cấp chỉ huy thuộc ban khoa học sống trong lâu đài. Chúng ta cùng uống cocktail với họ. Ông ta quay nhanh người và biến vào trong khung cửa hẹp tối đen, để Donald tiếp tục với tôi. Khi chúng tôi bước vào bên trong hành lang xíu tôi ngạc nhiên trong thấy nó chỉ đưa tới thang máy. Chúng tôi phải đứng chờ. Anson lên mình. Rồi mãi đến lúc trông thấy những phần còn sót lại của cầu thang cũ, bằng đá được thay thế bằng cái thang máy, tôi mới hiểu ngõ vào này như thế nào. Đây là lối duy nhất để vào lâu đài, hoặc trở ra. Xưa kia, khoảng trống chật hẹp này vốn là chân cầu thang bằng đá. chiến sĩ muốn vào đây phải vửa bước lên cầu thang vừa chiến đấu,mang theo cả khiên lẫn kiếm khó nhọc lắm mới tiến lên được nấc thang đục sâu trong đá. Bảng điều động thang máy cho biết có cả thảy bốn tầng, kể luôn tầng trệt là tầng chỉ dùng làm lối ra vào. Ba nút bấm ở ghi : ĐẠI SẢNH, CƯ XÁ CHUYÊN VIÊN, NHÂN VIÊN. Donald dẫn tôi lên tầng cư xá chuyên viên tức tầng phía đại sảnh. Y đưa tôi dọc theo hành lang dài, hai bên có rất nhiều khung cửa. Cuối cùng y bỏ hành lý của tôi vào phòng trong góc, và vắn tắt bảo : - Buồng tắm ở chính giữa hành lang. đoạn, y ra, khẩu tiểu liên mang lắc lư qua vai trái. Tôi có thể nghe giọng của y hề có chút nhân tính. Nó tuôn ra cửa miệng y như ra khỏi bộ máy vô tri giác. Đồ đạc trong phòng tuy đẹp nhưng đơn sơ. chiếc giường rộng kê ở đầu phòng, và đầu kia là lò sưởi đốt bằng củi. cánh cửa dẫn vào buồng vệ sinh chỉ có bồn rửa mặt và cầu tiêu. Quang cảnh nhìn qua các khung cửa sổ là ghê sợ, dù lúc trời tối dần. Mấy cửa sổ phía đông nhìn ra phía bờ vực đầy những đá nhọn lởm chởm đến nỗi khó lòng đủ chỗ cho bàn chân dài độ hơn hai tấc đặt lên. Các cửa sổ phía bắc nhìn thẳng ra bờ đá dốc đứng chạy xuống biển cách xa gần hai trăm thước phía dưới. Tòa lâu đài đứng mũi đất nhô ra biển. Tôi đoán ít nhất phải có hai hoặc có lẽ ba mặt của tòa nhà trông ra bờ đá. Tôi đoán đúng. Chúng tôi vào theo mặt duy nhất được dùng làm lối vào. Và cũng chỉ có con đường ra khỏi lâu đài Kinnoul. Tôi bước ra khỏi thang máy và vào đại sảnh lúc hơn bảy giờ. Căn phòng làm tôi liên tưởng ngay đến phòng khánh tiết trong Whitehall (1) nơi Charles Đệ Nhất (2) bị mất đầu bởi tên đao phủ lúc nhà vua vừa bước qua khỏi cửa. Nhưng nơi này rộng gấp rưỡi. Trần phòng cao, các ngọn đèn vách, những bước chân dung - đa số đều mặc loại vải sọc vuông của người Tô-cách-lan _ ván lót tường màu đen, sàn nhà bằng gỗ trải thảm mòn tới bóng loáng, và những khung cửa sổ cao khiến tôi nghĩ đến thời Phục Hưng (3) toàn thịnh. ngọn lửa cháy đỏ rực trong lò sưởi lớn ở khoảng giữa phòng. Chú thích : (1) Whitehall : hoàng cung thời xưa của nước gần Westminter Abbey, còn gọi là Whitehall Palace. (2) Charles Đậ Nhất (1600-1649) : Hoàng đế quốc từ 1625. bị kết tội phản quốc và bị hành hình vào năm 1649. (3) Renaissane : cuộc cách mạng văn hóa, nghệ thuật và khoa học xảy ra ở Châu Âu vào thế kỷ XV và XVI. Chương 5 Món điểm tâm gồm trứng và thịt muối được đưa tới tận phòng tôi cái khay. Tôi ăn xong, liền cạo râu và thay áo quần vừa đúng sáu giờ rưỡi. Nelson đưa tôi xuống. Anson đợi tôi trong chiếc Jeep mui trần. Ông ta mặc cái áo choàng ngắn dày cộm có cổ bằng da trừu. Ông ta lên tiếng trước : - Chào ông. Ông lạnh hay sao? Tôi chỉ mặc chiếc áo khoát bằng vải len với áo nịt dày bên trong. - Như thế này là vừa đủ. Nếu trời mưa. - Trong thùng xe có sẵn hai bộ áo quần đặc biệt để dùng vào lúc nào trời quá lạnh. Tôi trèo lên. Ông ta liền phóng xe , hất tung hai luồng sỏi về phía sau lúc bốn bành xe có khía sâu của chiếc Jeep cắn chặt vào mặt đường rải sỏi. Ông ta quay về phương bắc, chạy con đường ở gần bờ biển. Ông ta lại bảo : - Ông phải chuyện đôi câu chứ. Ông có biết gì về mấy hải đảo ở vùng này? - Rất ít. - Tất cả quần đảo Hebrides, còn được gọi là Isles of the West (Hải Đảo Miền Tây), nguyên thuộc nước Na-uy, mãi đến cuộc chiến tranh vào năm 1263 mới chuyển qua To-cách-lan. Người ta còn có thể thấy di tích của thời kỳ lệ thuộc Na-uy trong các địa danh, chẳng hạn Stenrness, Lunna Voe, Vaila Voe và Nossie Holm, cùng các tên tương tự. "Voe" có nghĩa là vịnh . "Holm" có nghĩa là hoang đảo. Và còn nhiều nữa. Trong thời kỳ bị Tô-cách-lan thống trị, thời kỳ được mệnh danh là Triều Đại Đảo Chúa, khi dòng họ MacDonald of Islay là những vị chúa tể, quần đảo Hebrides thực có đủ sức mạnh làm rung chuyển ngai vàng của xứ Tô-cách-lan. Tôi nhận thấy đây là trùng phùng thú vị. - Trùng phùng với cái gì? - Lẽ tất nhiên ông chưa biết chúng tôi làm gì ở đây. Tới đúng lúc tôi cho ông . Ông ta chợt mỉm cười với ý nghĩ thầm kín trong đầu và tiếp : - Ông là người ngoại cuộc duy nhất biết được chuyện này, sau khi ông viếng vòng khắp đảo. - Ngôi nhà gì bên tay trái vậy? - Phòng thí nghiệm. Vừa mới hoàn tất. Các khoa học gia của chúng tôi thường làm việc trong các phòng phía dưới của lâu đài, nhưng ở đó chật chội quá. Về phía sau khu nhà thí nghiệm có cả cư xá cho chuyên viên. Tôi chưa có thể đưa ông vào xem ở bên trong được, vì chỉ những người có phận đặc biệt mới được phép vào. - Đại khái, phòng thí nghiệm thuộc loại gì? - Phần lớn là điện tử, hóa học và vật lý học. Phần vụ điện tử hướng mọi nổ lực và việc kiện toàn máy vô hiệu hóa, được gọi là Mục Tiêu . Chuyện đó, dĩ nhiên ông biết. - Có phải đó là chiếc hộp đen do em tôi phát triển ra? - phải, chiếc hộp đen của Jacques de Ménard. Chúng tôi đặt tên cho chiếc hộp của em ông là Mục Tiêu Hai. Rủi thay, chúng tôi thể hoàn thiện Mục Tiêu , nên chúng tôi cần Mục Tiêu Hai. - Tôi hiểu. Và em tôi bắt buộc phải giao cho ông? Ông ta trả lời bằng giọng tin tưởng : - Phải. Căn cứ theo lời ông , tôi đoán ông tin em ông giao lại. Nhưng chính ông có kinh nghiệm về phương pháp khai thác của chúng tôi? Tôi nghĩ rằng ông ấy trao cho chúng tôi bộ phận còn thiếu. - Tại sao ông cần phải có? - Mục Tiêu bị giới hạn ở đường chân trời - tức độ chừng bốn mươi dặm tại cao độ này. Như thế cũng thừa đủ để bảo vệ chúng tôi Saint Sudra, nhưng chúng tôi cần hệ thống tốt hơn để dùng về sau. Các chuyên viên điện tử của tôi đủ sức cải tiến Mục Tiêu . Nhưng vẫn tiếp tục ngừng. Công cuộc nghiên cứu hóa học của chúng tôi hướng về các loại hơi độc gây phản ứng tê bại. Công cuộc nghiên cứu vật lý phần lớn thuộc lãnh vực tia laser, mặc dù vấn đề laser ngày nay hơi lỗi thời. Mình tới nơi rồi - nơi cao nhất của đảo. Ông ta giảm tốc độ chiếc xe Jeep và thắng lại ở mép bờ đá cao về phía cực bắc của hòn đảo. - Đó là hồ Rata bên tay trái. Hồ Venna và hồ Madoch ở ngay dưới đây - cả hai đều tuyệt đẹp, rồi ông thấy. Nhưng chính bờ đá khiến tôi lạnh xương sống. Nó thẳng đứng và cao hơn mặt nước biển có tới ba trăm rưỡi thước tây. Nhiều đàn chim như những đàm mây lớn vừa liệng vòng quanh vừa kêu la om sòm, trong đó tôi nhận thấy cả loài hải yến và chim cắt. Anson bảo : - Xưa kia nơi này là chỗ trú của các loài chim. Tôi hơi lấy làm tiếc vì chúng tôi biến đổi đôi phần. Nhưng tôi tin các loài chim trở lại khi chúng tôi bước qua thời kỳ trọng đại khác. Ông ta nhìn tôi bằng khóe mắt. Trong lúc tôi vẫn gì, ông ta tiếp lời : - Về chuyện chúng tôi bước qua nơi nào - đó là bài giảng kế tiếp. Tôi : - Tôi xin hỏi thêm câu. Theo tôi đoán ngôi nhà đỉnh bờ đá kia là đài radar. Tại sao phải có radar như vậy? Nhận xét của tôi thể nào lầm được, vì ngay mái của ngôi nhà sườn sắt có mấy cái ăng-ten như những chiếc rổ quay tròn. Anson đáp : - Rất dễ hiểu. Có lẽ ông được máy vô hiệu hóa đại của chúng tôi, tức Mục Tiêu , còn có khuyết điểm khác. Nó làm tê liệt mọi hoạt động điện thường, điện tử cùng những hoạt động liên hệ - phải chỉ của kẻ lạ mà luôn của chính chúng tôi nữa. Vỉ lý do này, lẽ tất nhiên chúng tôi thể cho nó hoạt động liên tục, và phải dùng radar để báo cho chúng tôi biết lúc có kẻ lạ tiến tới gần. Khi thấy những chấm sáng màn hình radar, nhân viên túc trực báo động để cho toàn thể công nhân ngoài hải cảng cũng như phi trường và trong các phòng thí nghiệm đều biết nguồn năng lượng sắp bị máy vô hiệu hóa làm gián đoạn. Khi chúng tôi có được bộ máy của em ông - tức Mục Tiêu Hai, chúng tôi cần phải dùng phương pháp bất tiện này nữa. - Ông tình lo ngại bị tấn công hay sao? - Ông hãy đợi tới khi quan sát xong. Rồi ông thấy. Lúc này, tôi chỉ muốn cho ông hay điều : chúng tôi muốn bị người ngoài dòm ngó. Chúng tôi chạy xe xuống phía tây cho tới khi gần đến vùng đất bằng phẳng ơ trung tâm của hòn đảo. Anson gì thêm trong lúc chúng tôi chạy vòng theo những bờ đá mỗi lúc thấp dần song song với bờ biển về phía tây. Khi trông thấy khu có nhiều bồn chứa kỳ lạ, tôi vừa hỏi chuyện về đêm vừa qua ông ta quẹo chiếc Jeep khỏi con đường chật hẹp và ngừng lại ở góc đường. Ông ta chỉ tay về phía nam bồn chứa, bảo : - Bài giảng kế tiếp. Ông ta chăm chú nhìn tôi trong lúc tôi nhìn sững quang cảnh này. Trước mắt tôi là ngôi nhà dài và thấp, chỉ có tầng. mặt tường liền lạc là mấy khung cửa sổ giống hệt chiếc tàu. Những khung cửa sổ đó nhìn ra khu đất rộng hình chữ nhật bao bọc bởi hàng rào kẽm gai. Khu đất trơ trụi chút cây cối. Rồi tôi dần dần để ý thấy nhiều chỗ lồi lên khỏi mặt đất cách đều đặn trong hình chữ nhật. Tất cả đều thấp, hơi tròn đầu, sơn lốm đốm nâu để tiếp với màu đất. Mỗi chiếc nắp bằng kim loại dường như có bản lề mở qua bên. Có cả thảy ba hàng, mỗi hàng bốn cái, cách khoảng nhau độ chừng ba mươi thước tây. - Ông đoán thử xem nó là gì? Tôi đáp : - Tôi có biết gì đâu mà đoán cho nổi. Mấy cái đó trông giống như những bồn dầu mà tôi có dịp trông thấy ở Romania với những cái giếng có mái che và gắn đường ống. Nhưng ở đây có khúc ông nào. Có phải ông tìm ra mỏ dầu? Anson bật cười. Tôi chưa hề nghe ông ta cười như thế. Đó là tràng thanh the thé như những tiếng sủa của giống vật, nghe hết sức khó chịu. Tôi có cảm giác màng tai vỡ ra. Cười xong, ông ta giải thích : - Ông có thể như vậy, nếu ông thích dùng giọng văn hoa mỹ. Nhưng ra phải. Đó là những hầm chứa hỏa tiễn có tầm bắn trung bình, được đặt ngay bên dưới nắp hầm. Hỏa tiễn được trang bị những hệ thống hướng dẫn cực kỳ chính xác và có thể phóng bất cứ lúc nào tôi muốn. Tôi ngồi sững nhìn mấy dãy hầm, lắng nghe vang lời của Anson trong đầu. Trong lĩnh vực của tôi, tôi thấy nhiều người khổ sở vì khuyết điểm kỳ lạ về phối hợp của bộ óc và cái miệng. Họ hiểu cách rành rẽ mà vẫn sao thốt ra câu nào hay ho. Đặc biệt nhất là vài người trong giới giáo sư vẫn thường giảng bài hàng giờ cho các học sinh. nhà toán học đại tài, quen suy nghĩ thành phương trình, có thể phiên dịch những phương trình ra ngôn ngữ mà quý bạn và tôi đều có thể hiểu. Người kém hơn thể như thế được. Anson gần như là nhà toán học. Ông ta nghĩ bằng những hình ảnh lạ lùng, tàn nhẫn, rồi ông ta sắp lại thành lời khiến tôi giá buốt tận xương tủy. Tôi tưởng lầm ông ta là kẻ mơ mộng đầy ảo tưởng. Ông ta đâu phải vậy. Ông ta có thái độ của người quen cận chiến và thích trò này, người muốn đánh cá dù thời vận bên ngoài có vẻ xui xẻo, bởi vì ông ta biết chắc mình có thể đổi thay thời vận. Mãi lúc sau tôi mới được : - Có lẽ ông muốn . - Tôi đùa. - Phóng bất cứ lúc nào ông muốn - tôi chấp nhận như thế. Nhưng nhắm vào đâu? Ông ta trả lời tôi cách trực tiếp. - Ông nhận thấy chúng tôi khỏi cần đặt phòng kiểm soát dưới đất. thành vấn đề. thể có ai phục thù, vì chúng tôi có bộ máy vô hiệu hóa, và chỉ cần dùng hỏa tiễn lần, trong trường hợp tối cần. Tôi chợt có hình ảnh điên cuồng của người hiến thân vào cuộc chiến tranh bí mật với Nga - Xô, và cố xua tan. Trong cơn xúc động, tôi hỏi câu khờ khạo : - Ông làm sao mà đưa được hỏa tiễn đến đây? - Rất đơn giản. Nếu ông chỉ muốn hỏi điều đó, tôi xin trả lời ngay : bằng đường biển. Nhưng nếu ông muốn hỏi chúng tôi đưa từ đâu đến đó là chuyện khác. Chúng tôi đặt chế tạo tại rất nhiều quốc gia và các hãng chế tạo yên trí họ làm cho chính phủ ngoại bang nào đó. Ông ta chợt bật cười thành tiếng trước vẻ mặt của tôi. - , phải là xứ tương tự Cuba đâu. có món nào được chế tạo tại Nga - Xô. Người Nga hề hay biết gì về hữu của mấy dàn hỏa tiễn này. Ngoài ra cũng chưa có ai khác hay biết. - Các hỏa tiễn đó để làm gì? - giờ để làm gì cả. Nhưng cũng sắp sửa tới lúc được sử dụng. Đó là vấn đề. Đáng tiếc lả ông bao giờ viết đăng lên mặt báo được. Ông ta dừng lại lát để xem đồng hồ tay. - Vừa đúng mười hai giờ trưa. Tôi cho ông nghe sau khi ăn cơm xong. Mình hãy trở về lâu đài. Ông ta cho chiếc Jeep nổ máy và chạy băng ngang qua đảo bằng con đường dẫn chúng tôi qua khỏi lối vào đai kiểm soát hỏa tiễn xây cất bằng gỗ. Chương 6 Ông ta bảo khi chúng tôi ăn trưa xong - hay đúng hơn khi ông ta ăn xong, bởi vì tôi ăn rất ít : - Ông hỏi đúng câu hỏi. Đó là điều đáng trách đối với ký giả giỏi. Nhưng tôi vẫn trả lời rành mạch cho ông. Trước hết là, đúng - cả mười hai hỏa tiễn đều có đầu đạn hạch tâm. Mỗi đầu đạn có thể so sánh với loại được dùng trong các cuộc thí nghiệm mới đây của Hải quân tại Bikini ngoài khơi Thái-bình-dương. Tôi tin ông từng trông thấy loại đó. Mỗi hỏa tiễn có khả năng tàn phá hơn những trái bom được thả xuống Hiroshima và Nagasaki. phải bom khinh khí, như giới báo chí bình dân thường gọi. Ông ta ngừng để đốt lại điếu xì gà. - Mỗi hỏa tiễn đó được điều chỉnh sẵn để có thể phóng vào đô thị. Tất cả đều ở trong địa phận quốc và Tô-cách-lan. Kể từ bắc xuống nam, gồm có : Glasgow, Edinburgh, Newcastle, Leeds, Hull, Manchester, Birmingham, London, Briston, Southampton, Portsmouth, Plymouth. Tôi thấy ông muốn hỏi nhiều điều. Ông hãy đợi lát nữa. Tôi trả lời tất cả cho ông trước khi ông hỏi. Tôi có ý định ngắt lời ông ta. Tôi sững sờ và tóat mồ hôi lạnh. - Hôm nay là ngày 7. Hôm nay đúng ba giờ chiều, nhân viên chìm của chúng tôi giữ chức vụ tối cao trong chính phủ - ông có thể tạm gọi là vị bộ trưởng - đến trình diện Thủ Tướng. Ông ta xin yết kiến từ trước. Sau đó Hội Đồng Nội Các nhóm họp suốt tiếng đồng hồ. Trong cuộc họp mật này, người của chúng tôi trình bày trước mặt Thủ Tướng bức tối hậu thư. Tôi muốn làm cho ông phải nóng lòng vì những chi tiết nhặt. Đại khái bức tối hậu thư cho hay cuộc cách mạng thầm lặng ở hoàn thành, chính phủ tại cần phải bị lật đổ, và nếu các điều kiện do chúng tôi đề ra được thi hành đúng, nhiều hậu quả thể tránh nổi se xảy đến. - Tôi muốn biết đó là những hậu quả gì? - Khoan . Trước hết ông hãy nghe những điều kiện. Ông ta xòe mấy ngón tay ra trong lúc tiếp : - Thứ nhất : chính phủ phải được chuyển giao lại cho tổ chức của tôi - hoặc cho tôi, nếu ông muốn như thế hơn. Trong chính phủ tại chúng tôi đặt sẵn đủ người để có thể bàn giao chức vụ. Thứ hai : cuộc cách mạng này được tham khảo ý kiến của phe đối lập, nên thể có chống đối dưới bất cứ hình thức nào. Lưỡng viện quốc hội được giải tán ngay tức khắc, như thế ai có quyền chất vấn. Đại diện các nhóm đối lập phải đến yết kiến Tân Chính Phủ, vào đúng bốn giờ chiều để nghe lệnh tối hậu. Thứ ba : (ông ta hơi cuối đầu với tôi) bái chí được thông tri về thay đổi chính phủ và chương trình loan tin được kiểm soát rất kỹ mặt báo, trong radio và vô tuyến truyền hình. Lẽ tất nhiên mọi văn bản cần thiết có sẵn trong tay của tân bộ trưởng thông tin. Tôi bảo : - Tôi có thể tưởng tượng ra danh từ. Vị cứu tinh của dân tộc, như Nkrumah. Ông tự xưng là gì? Vị lãnh tụ? Ông ta nhìn tôi cách lạnh lùng. - Chuyện đó thành vấn đề. Có lẽ là nhiếp chính. - Tôi biết trước lực lượng nào đẩy lui cuộc mưu phản này. - Lời của ông mấy thanh nhã, nhưng kể ra cũng sai. Phải, ông thừa biết. Vị Thủ Tướng và Lưỡng Viện được cho hai mươi bốn giờ để hành động. Nếu có hành động cụ thể nào tới cuối thời gian này, hỏa tiễn đầu tiên - chỉ mà thôi - được phóng và tiêu diệt Edinburgh. Sau đó, các hỏa tiễn khác lần lượt phóng cách khoảng ba tiếng đồng hồ, cho đến bao giờ bản tối hậu thư được thi hành đúng mức. Hỏa tiễn được bắn sao cho tàn phá tiến dần tới Luân-đông theo những vòng tròn đồng tâm. Trước hết là Edinburgh, rồi Plymouth. Và cứ thế - ông có thể theo dõi họa đồ. - Các cơ quan quân tưởng rằng kẻ nào muốn gây chiến và họ đâu có chịu để yên? - Ông bạn thân của tôi ơi! Viên Bộ Trưởng Quốc Phòng có mặt tại phiên họp của Hội Đồng Nội Các kia mà! Dù sao, các cơ quan tình báo cho họ biết . Nhưng họ thể nào tấn công chúng tôi, dầu họ biết chúng tôi ở đâu nữa. Chắc ông còn nhớ bộ máy vô hiệu hóa? - Có nhiều người biết các ông ở đâu. Ông làm sao chống lại cuộc tấn công theo qui ước, chẳng hạn với hoặc hai sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến? - Có cách gì đưa họ tới Saint Sudra, trong tầm hiệu lực của máy vô hiệu hóa? Bằng chiếc thuyền buồm gắn động cơ xíu như chở ông tới đây hay sao? Khó lắm! - Tiềm thủy đỉnh? - Chở những chiếc phao cao su đầy binh sĩ? Thôi mà, Dunbar, ông chớ nên ngây ngô như thế. Vả lại, Thủ Tướng còn được cáo tri nếu ông ta mưu toan tấn công, tất cả hỏa tiễn được phóng cùng lúc. Nếu ông ta còn tỉnh trí, ông ta có dám liều lĩnh đến mức độ đó hay ? Tôi gật đầu. - Tôi hiểu, ông ấy dám. Nhưng tại sao? Ông muốn dựng nên chế độ độc tài bấp bênh để làm gì? Ông ta nhìn sững tôi như cậu bé ngu dốt. - Dunbar, khi ông khiến tôi phải kinh ngạc vì nhận định quá kém. Saint Sudra chỉ là căn cứ cho bước tiến đầu tiên đường tiến tới uy lực. phải để chinh phục mà để xây dựng hòa bình. khi quốc vào tay chúng tôi rồi, phần còn lại rất đơn giản. Cùng lúc - Pháp, rồi Ý, rồi Đức. Và cứ như thế, mình trở về với triều đại nữ hoàng Elizabeth Đệ Nhất, với đầy quyền uy và chiến thắng, thống trị tất cả để giữ vững nền hòa bình của thế giới. - Còn Liên Hiệp Quốc, họ ngồi yên trong lúc chuyện này diễn ra? - Vô nghĩa. Nó đâu có gì liên quan đến Liên Quốc. Ông thử nghĩ lại xem : đâu có ai sử dụng tới võ khí để đánh nhau. Còn Hoa-kỳ? Còn Nga-Xô? Họ đứng bên cạnh và yên lặng xem? - Có gì đâu mà xem? Đâu có gì ngoại trừ vài đổi thay trong chính phủ. ai hay biết chuyện xảy ra, cho đến khi hay được quá muộn. - Rồi Hoàng gia ra sao? - Lẽ tất nhiên sao hết. Tôi phải là Cromwell (1), mặc dù ông có nhã ý xét đoán tôi cách sai lầm. Tôi cố thêm : - Nhưng có lẽ ông quên tính đến điều. Tại sao ông nghĩ Thủ Tướng tin lời ông khi ông bảo rằng ông có mười hai hỏa tiễn với đầu đạn hạch tâm nhắm vào mười hai đô thị lớn khắp nước ? Bất cứ ai cũng có thể hăm dọa bậy bạ như thế. Anson vẫn thản nhiên đáp : - Nếu ông nghi ngờ vụ tàn phá Ediburgh xóa tan tất cả. Nhưng, ông bạn Dunbar, ông nên hiểu chúng tôi vẫn có cách cứu được Edinburgh. Tối hôm qua tôi thu xếp việc này với viên bộ trưởng của tôi. Chính ông xác nhận bằng điện thoại. Ông có đầy đủ khả năng và tiếng tăm của ký giả nhờ tham dự các vụ thí nghiệm nguyên tử ngoài khơi Thái-bình-dương. Thủ Tướng biết ông. Tôi tin ông ta nhận ra giọng của ông. Và để cho chắc chắn rằng ông chứ phải bị ép buộc, tôi sắp xếp cho ông và em ông được xem tận mắt các dàn hỏa tiễn vào chiều nay. Viên giám đốc kế hoạch của tôi chỉ dẫn cho các ông.
Chương 7 Anson ngừng lại ở cánh cửa phòng tận cùng trong hành lang dẫn về phía ngôi nhà gần phòng tôi. Ông ta đặt bàn tay lên quả nắm và nhìn tôi. - Em ông tỉnh lại. Thứ thuốc mê được dùng để giữ yên ông ấy là thứ gây hại, mặc dầu ông ấy có vẻ hơi choáng váng đầu. Ông ấy được thông báo có ông đến thăm. Ông ấy cũng được báo cáo tất cả những gì xảy ra kể từ khi ông ấy rời khỏi Hoa Thịnh Đốn. Tôi vào với ông. Ông ấy còn có ác cảm với tôi hơn cả ông nữa. Ông ta cười tiếng ngắn và mở cửa. Tôi vừa bước vào, ông ta đóng ngay cửa lại. Ted ngồi chiếc ghế bành êm ái bên cạnh lò sưởi trong căn phòng giống hệt phòng tôi. Trong lúc tôi bước vào, Ted ngước mặt nhìn tôi cách mơ hồ. Tôi lên tiếng trước: - Kìa, Ted! Tôi tìm chú suốt nhiều ngày nay. Ted chống tay lên ghế đứng dậy, run run bước về phía tôi và đưa bàn tay ra. Tôi liền nắm chặt lấy tay của Ted. Lúc bấy giờ Ted mới : - Chúa ơi, Stuart, em làm cho cả hai an hem mình cùng bị nguy hại. vụ nguy hại ghê rợn. Tất cả chỉ vì em. - Ted, chú hãy ngồi xuống . Mình cần phải với nhau vài chuyện. - Em biết sắp sửa gì: “Edward, chú làm sao đến nỗi lâm vào con đường cùng này?” - Lúc này phải là lúc chuyện đó, Ted à. Lúc này còn có chuyện trọng đại hơn an nguy của chú. Tôi nhìn sát vào mặt Ted trong lúc Ted ngồi xuống. Tôi có thể trông thấy Ted mang dấu vết bệnh hoạn nào sau thời gian dài bị chích thuốc mê. Tóc chiếc đầu bị cạo trọc của Ted khởi mọc lún phún, và tôi thấy miếng băng dán lên vết thương. Ted bảo: - Họ kể hết cho em nghe. - Nhưng chắc bọn chúng chưa kể cho chú nghe chúng làm trò gì Saint Sudra? - Chưa. Em chưa nghe chuyện đó. Khi tôi kể xong, Ted nhìn sững tôi với đôi mắt mở tròn. Mặt Ted vẫn tỉnh, nhưng mắt đẫm lệ. Ted nhắm nghiền lại. giọt nước chảy xuống từ khóe trong của con mắt bên trái. Ted chùi bằng lưng bàn tay và dụi mắt. Trông Ted giống như hình ảnh buổi sáng mùa hè năm xưa khi tôi lôi Ted ra khỏi mấy đứa bé bị Ted đánh tơi bời vì bọn chúng giết chết ba con mèo con. Ted bằng giọng nghẹn ngào: Chúa ơi! ra đó là điều Jacques định kể với em. Em cũng hề hay biết bọn chúng giết Jacques, nhưng dù sao cũng quá muộn. Ted gục đầu vào hai bàn tay, cùi tay chống lên hông ghế. - Chú cho Anson biết cách kiện toàn bộ máy vô hiệu hóa tại của y? Ted ngửng mặt lên. - , Stuart. Em xin thề với Chúa… Tôi chận lời: - Chú làm sao biết được? Chú ở trong tình trạng mê man kể từ khi rời khỏi Hoa Thịnh Đốn kia mà. - Thế em làm sao mà… - Bọn khốn nạn đó có những thứ thuốc khá công hiệu. Bọn chúng thí nghiệm với tôi lần ở Luân Đôn, và tôi phải cho chúng biết điều chúng cần, vô phương chống cự. - Nếu bọn chúng biết được những gì cần biết về mạch điện còn thiếu trong chiếc hộp đen, có tin bọn chúng vẫn để cho em sống tới bây giờ hay ? - Chú cũng có lý. Chú ở đây bao lâu rồi? - Mới đêm hôm qua. Trước đó bọn chúng nhốt em ở nơi nào em . Em chỉ nhớ mơ hồ em nằm chiếc giường trong kho chứa đồ. Tôi bảo: - Có lẽ đó là ở Murra. Nhất định chú bị chích thứ thuốc tương tự Scopolamine - Chú thích 1: Scopolamine: hóa chất có ký hiệu C17H21NO1 lấy từ rễ cây scopolia, dùng chung với morphine khiến người bị chích ngủ mê man (c.t.c.d.g) - mà hay biết và mất hết lý trí. Đưa tay tôi xem thử - cả hai cánh tay. Ted liền cuốn tay áo lên. Tôi xem kỹ những mạch máu lớn chạy qua phía trong của cùi tay. có dấu kim chích nào như dấu Matuschek để lại cánh tay của tôi. Nhưng điều này cũng hoàn toàn xác nhận Ted bị chích thuốc mê vào người. - Anson chuyện với chú sau khi y đánh thức chú dậy? Sau khi chú tới đây? - chuyện vừa kể. Y chỉ bảo y triệu tập hội nghị các kỹ sư điện tử của y. Em đoạn định rằng y định bắt em chuyện gì trong ngành điện tử cho đám này nghe. Nhưng em hỏi tới. - Thế nào y cũng dở trò. Y chỉ cần chích mũi thuốc như chích cho tôi, và chú , chú tin tôi . - Stuart, em… - Chú khỏi lo, Ted, tôi cần ngay bây giờ. Chú hãy cho tôi biết hiệu lực chiếc hộp đen của Ménard như thế nào. Bọn chúng sử dụng thứ đó. Ted dần dần tỉnh trí trở lại. - Nó vừa đủ hiệu nghiệm để bảo vệ hòn đảo này, căn cứ theo lời vừa kể cho em nghe về vị trí của đảo. Tầm hoạt động chỉ dưới bốn mươi dặm, như thế nó thể có tác dụng gì với hòn đảo gần nhất trong quần đảo Hebrides. Nhưng hiệu lực của nó rất ghê gớm từ đây cho tới đó, theo độ cao của nơi này. - Có cách gì tấn công đảo được hay ? Chẳng hạn tiềm thủy đỉnh? Ted từ từ lắc đầu: - . Tiềm thủy đỉnh có thể được che chở khỏi bị ảnh hưởng của chiếc hộp đen nhờ có nước ở phía , tức là khi còn lặn dưới mặt biển. Nhưng khi trồi lên rồi còn có thể hoạt động được nữa. Ngay cả hỏa tiễn Polaris cũng thể phóng . Chiếc hộp đen làm tê liệt các hệ thống hướng dẫn. tóm lại, nếu hỏa tiễn được bắn ra ở gần, hệ thống hướng dẫn thể hoạt động. Chắc biết hỏa tiễn Polaris được bắn ra như thế nào: sau khi lên khỏi mặt nước nhiên liệu mới được đốt cháy. Nhưng chiếc hộp đen lại ngăn chặn đốt, như thế ở trong tầm hiệu lực của chiếc hộp đen, hỏa tiễn Polaris rơi trở xuống biển ngay sau khi nó vừa phóng lên khỏi mặt nước độ chừng mười thước. - Còn cách đổ bộ lên bãi biển? - Anson rất có lý về điểm này. phải đưa binh sĩ đến đây bằng tàu ngầm và cho họ ngồi những xuồng cao su. Họ nhốn nháo như những bầy vịt, dù tiềm thủy đỉnh có thể đưa họ tới nơi đổ bộ. Như em vừa , tàu ngầm chỉ có thể được che chở trong lúc lặn, nhưng nó bắt buộc phải trồi lên. Và khi đó với tác dụng của chiếc hộp đen, em e rằng nó sao lặn trở xuống được nữa. Quả , nó hủy hoại chừa cái gì. - Được rồi, Ted, chú khỏi lo. Còn về… Ted bỗng chận lời tôi bằng cách hoa bàn tay phải lên và : - Nếu mình cứ tiếp tục chuyện mãi, nghĩ rằng tốt hơn hết, mình nên hét lớn cho bọn nghe lén khỏi mất công. - Tôi biết khởi như thế nào. - Để cho em. đoạn Ted lục soát toàn thể căn phòng, bỏ qua nơi nào. Ted nhìn phía sau những bức tranh treo tường. Ted nhìn dưới bàn ghế, dưới giường, trong lớp lò xo. Ted tháo tung cả lên và vỗ khắp mặt nệm. Tuy tìm thấy gì lạ, nhưng trước khi Ted ngồi trở xuống Ted vẫn vặn cho nước chảy ào ào trong bồn rửa mặt. Tôi bảo: - Xem bộ chú rành nghề quá. - Ở RIEC em vẫn thường làm trò này. - Theo ý chú bây giờ mình có thể an tâm chuyện trò? - Phải. Em tin mình bị nghe lén, nhưng nếu mình bị tiếng nước chảy ít nhất cũng át tiếng của mình phần nào. - Bây giờ mình hãy về các hỏa tiễn dưới hầm chứa. Chú cùng xem với tôi. Chú có thể cho tôi biết đó là hay giả. - Em tin có thể. Em từng thực vài bộ phận trong các hệ thống hướng dẫn hỏa tiễn. - Chú có thể cho tôi biết cách phá hoại hệ thống kiểm soát? - Em có dịp tháo ráp các hệ thống điều khiển và kiểm soát. Nhưng mình làm sao có thể phá hoại nổi? Chắc chắn bọn chúng canh phòng rất cẩn mật. Tôi : - Tôi biết. Tôi chưa có dự tính đó. Tôi chỉ thả vấn đề này vào trong đáy óc để cho tự nó nảy mầm. Chú cũng nên làm như thế. Ted lo lắng hỏi: - Stuart, định làm việc này chứ? Em muốn chắc có ý định khuyên Thủ Tướng nên nhượng bộ? - Chú đừng nên điên rồ thêm nữa. Ở trong tình cảnh này tôi biết làm gì khác hơn? Đây phải là chuyện tôi có thể tự ý phán xét. Thủ Tướng phải điên khùng lắm mới chịu nghe lời. Anson đùa đâu, đó là điều tôi biết . Tôi chỉ còn việc có thể làm là xóa bỏ ván bài. Cách hay nhất là phá hủy bộ máy vô hiệu hóa, và tìm cách cho Colin Andrew biết máy bị phá hủy. Nhưng mình phải tìm hiểu bọn chúng còn bộ máy nào nữa hay . vấn đề khác là tìm cho ra Monique de Ménard. ta bị lâm nguy cách trầm trọng. Ted buồn rầu bảo: - ta ở phòng kế đây. Bọn chúng cho em hay. Tôi suýt phóng mình ra cửa. Nhưng tôi tự kềm chế lại. - Hay lắm. Tôi thăm ta sau, nếu cửa phòng có khóa. Bây giờ, chú hãy nghe tôi đây, Ted. Thời gian chỉ còn rất ít. Ngày mai là kỳ hạn cuối cùng. Tất cả những gì mình có thể làm là tùy cơ ứng biến, trừ phi bộ óc phân tích của chú sáng tạo được ý kiến kỳ diệu nào. Mình biết nơi này. Chú cứ việc làm theo tôi, dù chú nhận thấy việc này được ổn. Tất cả đều tùy thuộc vào yếu tố bất ngờ. Mình tìm cách phá hoại hoặc làm cho sai lạc . Chú nhớ được hành động theo ý riêng. Hãy cố kiên nhẫn lần này. Nếu mình có thể phá hoại đúng và thoát khỏi đảo mình có hy vọng ngăn chận tai họa. Nhưng dù sao cũng lo phá hoại trước . Lần này tôi trông thấy Ted mỉm cười trong lúc trả lời: - Giống hệt thời xa xưa. Được rồi, em cùng chơi trò này với . - Tốt. Bây giờ tôi qua phòng bên cạnh. Nhưng tôi đủ thời giờ. Có tiếng gõ cửa vang lên. Khi tôi mở ra, Matuschek đứng đó, tay cầm khẩu tiểu liên. người lạ mặt đứng phía sau lưng y. Y giới thiệu: - Ông Dunbar, đây là giáo sư Karl Kalwitz. Giáo sư đưa ông xem khu vực hỏa tiễn. Mời ông vui lòng ngay. Tôi hỏi Kalwitz ở cổng vào căn cứ hỏa tiễn: - Chỉ có người gác? Ông ta đáp với nụ cười lơ đãng: - Cần gì phải canh gác cho nhiều? Có ai lạ vào đây đâu? Nhưng cũng còn người khác. ta tuần ngoài hàng rào chung quanh căn cứ, đúng ra chỉ có ba mặt hàng rào. Gần như cần thiết. Ted làm bộ vô tình hỏi: - Hàng rào điện? Kalwitz gật đầu. - Có thể truyền điện vào, nhưng chúng tôi chưa bao giờ cần tới. Ted đưa mắt nhìn tôi. Tôi lắc đầu. Ted vẫn thường hung hăng lao đầu vào bất cứ chuyện gì. Đó là trong những lý do người ta khuyên Ted hãy bỏ môn túc cầu và tập trung vào môn cầu hồi Ted còn học Đại học đường Virginia. Ted ghét trò lấy banh cách lịch . Kalwitz dẫn chúng tôi vào trong nhà. Đó là căn phòng dài, hẹp, xây bằng gạch chịu lửa, trần thấp và soi sáng bằng những ngọn đèn ống. dãy gồm mười hai cái tủ điện thẳng hàng mặt trong của bức tường tiếp giáp căn cứ đặt hỏa tiễn, phía dưới những khung cửa sổ kiên cố. Tôi trông thấy Ted chăm chú nhìn các tủ điện. Rồi Ted hỏi Kalwitz: - Tại sao mỗi hỏa tiễn phải có tủ điện riêng? Phối hợp làm đâu có khó khăn gì? Kalwitz trả lời: - Đúng thế. Nhưng hệ thống chúng tôi dùng là hệ thống hoàn toàn mới do chúng tôi sáng chế ra. Mục đích đầu tiên là làm cho các hỏa tiễn độc lập đối với nhau, như vậy nếu tủ điện nào bị trúng đạn của kẻ địch – tuy đây là chuyện tối vô lý – hỏa tiễn tự động phóng lên. mục đích khác nữa là công việc thay đổi chương trình hướng dẫn của mỗi hỏa tiễn được dễ dàng và nhanh chóng. Ông đến đây để tôi chỉ cho xem. Tôi nhìn quanh căn phòng trong lúc Ted và Kalwitz cúi xuống quan sát tủ điện. Tôi bước dọc theo chiều dài của căn phòng, trông thấy máy điện thoại móc tường, ràng để liên lạc với những cơ sở khác đảo. Ted có vẻ u buồn hơn lúc tôi trở lại nơi hai người đứng. Ted với tôi: - Ông ấy đúng. Đoạn quay sang Kalwitz. - Tôi đoán loại hỏa tiễn này dùng nhiên liệu đặc. - Đúng thế. loại đặc biệt chế tạo tại Đức. Ở đây chúng tôi thể dùng lox ( Lox: oxygen hóa lỏng để dùng để hỗn hợp với nhiên liệu cho hỏa tiễn – c.t.c.d.g) vì nó được bền. Bây giờ các ông hãy tới đây với tôi. Tôi có chỉ thị cho các ông xem đầu đạn. Tất cả đầu đạn, nếu các ông muốn. Nó chỉ khai hỏa khi nào hỏa tiễn được phóng . Ông ta dẫn chúng tôi trở qua khung cửa duy nhất và quanh tới cổng hàng rào. Ông ta mở ỗng khóa vĩ đại và xoay cánh cửa qua bên rồi bảo: - Mình bắt đầu với hỏa tiễn gần nhất. Tới bên cạnh cái nắp hầm hình tròn, ông ta sờ vào nút bấm tấm bảng gắn cách mặt đất chừng thước cột sắt. Tôi nghe tiếng gầm vang lên từ phía dưới đất. Nắp hầm đường kính độ hai thước rưỡi, từ từ mở ra, xoay quanh bản lề. Tôi có thể trông thấy ngay phía dưới miệng hầm, cái mũi bằng của hỏa tiễn với hình dáng xấu xí. Kalwitz cúi xuống, hai bàn tay loay hoay lát bên đầu hỏa tiễn. Cái mũi bằng từ từ mở ra cho đến khi chúng tôi có thể từ chỗ đứng trông thấy được những gì ở bên trong. Ted ngồi chồm hỗm xuống và nhìn kỹ. Kalwitz liền bật mấy ngọn đèn ống ở chung quanh mép hầm. Ông ta tiếng. Lúc này cần phải gì. Mặt của Ted tái mét khi Ted đứng trở dậy. Ted bảo: - Được rồi. Như thế là đủ. Tôi thấy . Tôi theo: - Tôi cũng vậy. Kalwitz vẫy tay quanh vòng. - Các ông có muốn xem những cái khác? Ted lắc đầu: - Tôi tin lời giáo sư. Có phải tất cả đều được trang bị để đốt cháy khí? - Đúng vậy. Với chiều cao độ chừng ngàn tám trăm bộ1 (1800 bộ (feet) = 540 mét). - Giống như Nagasaki và Hiroshima? Kalwitz đáp: - Tương tự như thế. Nhưng thứ này mạnh hơn nhiều. Ông ta nhún vai và nhăn mặt. Tôi hiểu rằng ông ta hứng thú chút nào với công việc này. Trong thoáng, tôi chợt nghĩ cách lợi dụng chán chường của ông ta. Nhưng hy vọng tiêu tan ngay khi ông ta trả lời câu hỏi cuối cùng của Ted. Ted : - Tôi muốn hỏi giáo sư những thứ này được chế tạo tại đâu. Nhưng tôi hy vọng giáo sư trả lời. Kalwitz tỏ vẻ buồn rầu: - Phải. Tôi được phép trả lời câu hỏi đó, vậy xin ông đừng hỏi nữa. Nhưng ông chắc phải nhớ rằng người Hoa Kỳ từ lâu còn giữ độc quyền nữa. phải người ta đánh cắp những tài liệu mật. Khi mình cho công khai nổ tung trái bom như thế và cho thấy nó có thể được chế tạo, bí mật kể như còn nữa. Bất cứ nhà vật lý học giỏi nào cũng có thể làm ra được. Và giờ có rất nhiều phương pháp dễ hơn xưa. Khoa học kỹ thuật về khối lượng mà ông thường dùng ngay nay lỗi thời. giờ, ngay cả Do Thái cũng có thể làm bom. Tôi bảo Ted: - Ông ấy đúng. nhà vật lý học Đức mà chúng tôi giải thoát khỏi trong những trại tù binh ở Nagasaki chuyện đó với tôi hồi tháng Tám 1945. Chúng tôi gì nữa trong lúc Kalwitz lái xe đưa chúng tôi trở về lâu đài. Vẻ xanh xao, tiều tụy vẫn còn khuôn mặt của Ted. Mới cách đây hai mươi phút Ted nhìn vào trong cửa địa ngục. Ted trông thấy cánh cửa mở ra chút rồi đóng lại. Ted hiểu rằng lần sau khi mở ra được rồi nó đóng lại nữa, và Ted phải chịu phần trách nhiệm. Tôi cũng trông thấy, và là đau đớn khi biết rằng chính mình tiếp tay nối giáo cho giặc. Chương 8 Anson chờ chúng tôi trong phòng của Ted. Ông ta chăm chú nhìn gã gia nhân đặt chiếc khay bạc đựng mấy cái ly, chai nước và chai whisky mặt bàn lúc chúng tôi bước vào. Có cả Matuscheck với khẩu súng lục gác đầu gối. Anson lên tiếng: - À, các ông đây rồi. Tôi chuẩn bị rượu sẵn cho các ông uống ở ngay tại đây. Tôi chắc các ông dễ cảm xúc hơn tôi và rượu là thứ thuốc trấn an xưa cũ nhất của con người. Tối nay toàn thể ban chuyên viên ăn cơm ở dưới lầu vì bận việc. Cơm tối của hai ông được mang lên đây. Hai ông uống ly rượu? Tôi bảo: - Chúng tôi chưa muốn uống ngay bây giờ. - Các ông bị xúc động vì những gì giáo sư Kalwitz vừa chỉ cho các ông xem hay sao? Thế mà tôi tưởng các ông xao xuyến lắm. Nhưng các ông nghĩ sao về công trình kiến tạo của chúng tôi? Ted liền hỏi: - Cần gì phải nghĩ? Chúng tôi hoàn toàn tin vào lời của ông. - Tôt. Các ông làm cho tôi rất vui lòng. Bây giờ tôi muốn mời hai ông tham dự lễ mà tôi dự định cử hành tối mai, tại văn phòng tôi, vào lúc chín giờ. Các ông biết chỗ. Ông ta gật đầu với tôi: - Nhưng tôi cầu Matuschek đến tận đây để hướng dẫn các ông vào lúc gần chín giờ. phải buổi lễ theo những nghi thức, nhưng lại vô cùng quan trọng. Đề nghị của chúng tôi – cứ gọi là thế - giờ được thông báo cho Thủ Tướng và phiên họp của Lưỡng Viện được triệu tập vào chín giờ tối hôm nay. Hơi trễ hơn chúng tôi ước tính, nhưng chúng tôi cho họ hai mươi bốn giờ, cho tới chín giờ tối mai, để trả lời chúng tôi. Như vậy tối mai chúng tôi có phúc trình của nhân viên của chúng tôi ở Luân Đôn gửi về Murra bằng điện thoại rồi từ đó gửi về đây bằng ra--ô. Lúc bấy giờ, chúng tôi nhờ ông chuyện với Thủ Tướng và kể cho ông ta nghe ông được trông thấy những gì về các công cuộc chuẩn bị của chúng tôi. Tôi cần phải báo cho ông biết điều ông còn chưa được thấy: quân đội riêng của chúng tôi. Đội quân này gồm năm trăm người, được trang bị đầy đủ các loại vũ khí và đại liên 88 ly đặt xe thiết giáp. Đề phòng trường hợp ông xúi giục cuộc tấn công điên cuồng theo quy ước lên Saint Sudra. Tôi hỏi câu hơi thừa: - Nếu tôi từ chối sao? - Thế ông là người duy nhất phải chịu trách nhiệm về diệt vong của Edinburg, và sau đó Thủ Tướng nhất định phải tin lời chúng tôi. phải ai cũng có cơ hội trở nên hữu dụng như ông giờ. - Còn nếu Thủ Tướng chịu tin lời tôi sao? - Ông ta dám đâu. Tôi cam đoan ông ta rúng động lắm rồi. Vả lại ông nổi danh với những bài phóng chính xác và cả tài tiên đoán. Tôi vẫn còn nhớ những lời tiên đoán của ông về vụ bầu Thủ Tướng kỳ vừa qua. Tôi lại hỏi: - Giả sử Thủ Tướng nhượng bộ, chúng tôi ra sao khi làm những công việc đó cho ông? - phải cho tôi đâu Dunbar. Cho Edinburg. Và cho cả quốc mới đúng. Còn chuyện các ông ra sao điều đó tùy thuộc hiệu lực hành vi của ông. - Thế tôi ở vào tư thế thương lượng. Tôi làm đúng theo lời ông, nhưng chỉ với điều kiện được yên lành trả về đất liền. Anson mỉm cười cách lạnh ngắt: - Lẽ tất nhiên là như thế. Đó phải là cuộc thương nghị khó giải quyết. Bây giờ tôi phải . Cơm tối của hai ông được đưa lên vào lúc tám giờ. Các bữa ăn ngày mai cũng vậy. Thang máy được canh gác, tôi chắc các ông thừa hiểu. Nhưng có ai tới gần phòng các ông. Các ông có thể trò chuyện với nhau tùy thích. Ông ta mở cửa, Matuschek ra trước ông ta. Anson còn thêm: - Lẽ tất nhiên, de Ménard có thể theo các ông nhưng chỉ sau khi ấy chịu ký kết vài điều tương thuận mà giờ chúng tôi thương lượng. Xin chào các ông. Ông ta mỉm cười với chúng tôi cách lạnh nhạt và ra. Ted bảo: - đừng gì với em hết. Để cho em tự đoán lấy. - Có gì đâu mà đoán. - Monique gặp chuyện gì rắc rối? Tôi liền kể cho Ted nghe về vụ Anson đòi quản lý công ty CEFSA. Ted : - Lẽ tất nhiên y muốn chiếm CEFSA. Y cần nhiều bộ máy vô hiệu hóa, và CEFSA có thể chế tạo ra bao nhiêu cũng được. Y cần hàng trăm cái khi y bắt đầu bành trướng khỏi quốc. Chúa ơi, tưởng tượng cái cảnh màn radar bao quanh nước và có thứ gì có thể lọt qua màn này. Dĩ nhiên y cần chiếm công ty CEFSA. Đó là chưa kể đến những thứ khác mà y có thể khai thác từ công việc chế tạo vũ khí của CEFSA. Tôi bảo: - Chính vì thế mình phải dẫn Monique theo với mình. - Và đó phải là lý do duy nhất. Nhưng mình cứ chuẩn bị sẵn nếu mình được. - Mình phải . Khổ thay, mình thể chỉ lo tự thoát thân. Kế hoạch của mình vẫn tiến hành. Ted chợt : - Có tia sáng. Em hỏi Kalwitz về máy vô hiệu hóa, và ông ta chuyện đó cách tự nhiên. Chỉ có bộ máy đặt đỉnh tháp phía bắc của lâu đài. Khi trở về đây với Kalwitz em để ý tìm xem và nhận thấy cây ăngten. - Chú làm sao biết được chỉ có máy? - Kalwitz với em. cần thêm máy nào nữa, vì đảo và cao, trong lúc tầm hiệu lực của mỗi máy tới bốn mươi dặm. Anson định dùng CEFSA để chế tạo thêm khi y khởi điều khiển tất cả nước . Tôi biết cần phải làm gì nhưng tôi muốn nghe chính miệng Ted ra, nên vẫn hỏi: - Thế là chỉ có máy vô hiệu hóa. Vậy tính sao bây giờ? Ted quả quyết: - Mình phá hỏng bộ máy trước khi trốn . Em có thể làm công việc này ngay bây giờ. Có lẽ đó chỉ có người. Tôi lắc đầu. - được đâu, vì nhiều lý do. Mình có cách nào gửi thông điệp ra ngoài để người ta có thể kịp thời tổ chức cuộc tấn công đảo. Vả lại các hỏa tiễn được dự trù để tự động phóng lên, trong trường hợp những tủ điện hoặc đài kiểm soát bị trúng đạn. Mình phải phá hỏng máy vô hiệu hóa ngay lúc trốn , giả sử mình có thể tẩu thoát. Mình thể rời khỏi nơi này trước mười hai giờ khuya ngày mai tức là giờ hẹn với tiềm thủy đỉnh. Nếu mình phá máy bây giờ và tìm được cách ra khỏi đây, mình phải chờ hai mươi tám tiếng đồng hồ nữa. hòn đảo xíu này, với năm trăm người trang bị vũ khí, chắc chắn bọn chúng tìm ra mình trước giờ hẹn – và chúng cũng có thể sửa chữa lại lại bộ máy hoặc thay thế bằng máy mới. Ted cau mày: - Tại sao mình phải chờ? Trong vịnh thiếu gì tàu? - Những chiếc tàu được canh phòng cẩn mật. Mình có hy vọng nào đâu. Dù có chiếc tiềm thủy đỉnh nữa, hy vọng cũng rất mỏng manh. Trừ phi mình cũng có thể phá hỏng luôn các hỏa tiễn. - thể được. Hoặc có thể cũng chừng? Để em nghĩ kỹ lại xem sao. Điều rắc rối là toàn thể được ráp đầy đủ cho nên nếu mình phá hủy tủ điện hoặc cắt đứt hệ thống dây tức là mình làm cho hỏa tiễn tự động phóng lên. Kalwitz bảo rằng họ ráp hệ thống này để nếu có cuộc tấn công nào có thể thoát qua khỏi bộ máy vô hiệu hóa và bắn phá đài kiểm soát, tất cả hỏa tiễn tiêu diệt mười hai đô thị lớn nhất của nước . Theo lời Anson bọn chúng thông báo điều đó trong bức tối hậu thư gửi cho Thủ Tướng. Tôi bảo: - Khi cần phải phóng từng hỏa tiễn , chắc chúng điều động bằng tay? Từ tủ điện? - Phải. Tại sao? - Tôi biết. Tôi chỉ nghĩ tới mọi chi tiết. Tôi hiểu Anson có chịu gia hạn hoặc thương lượng thêm trước khi phóng hay ? Mắt Ted chợt mở rộng. - Em có ý kiến. Nếu em có thể lọt vào đài kiểm soát đủ thời giờ, em có thể điều chỉnh lại hai hỏa tiễn đầu, đổi hướng để cho nó lệch về phía tây thay vì phía đông. Như vậy hỏa tiễn bắn trúng mục tiêu nào hết. Tôi bảo: - Chú còn yếu kém tinh thần như thường lệ. Nếu chú vào được trong đó – việc rất khó thành – chú bắt buộc phải điều chỉnh lại tất cả hỏa tiễn. - Việc này cũng đáng để em thử phen. thể làm trong ba tiếng đồng hồ cuối cùng của mình trong đêm mai, nếu mình được tự do. Chú thấy bọn lính gác mang tiểu liên. Chú đừng mơ tưởng chuyện đó nữa. - Theo em hiểu tin Anson để cho mình ? - Chú có tin được ? Dù sao mình phải có kế hoạch phòng hờ. Nếu mình có thể phá hỏng máy vô hiệu hóa và thoát xuống bãi biển, và nếu mình có thể tin bọn chúng chỉ có máy, mình có thể chuyển giao nội vụ cho Hải quân Hoàng Gia – nếu mình dặn trước họ đừng bắn vào đài kiểm soát. - Stuart, em đếm tới ba tiếng “nếu” trong câu vừa . Tóm lại mình biết gì chắc chắn cả. Hơn nữa, bây giờ lại bàn tính trái ngược với ban nãy. Tại sao lại có thay đổi đó. Tôi bảo: - Vấn đề thời gian. Tôi muốn mình thể phá hủy máy vô hiệu hóa lúc này. Nhưng mình phải làm việc đó trong đêm mai. Ted nhe răng cười với tôi như lễ sinh trong ca đội của giáo đường. - Chắc sắp “nếu” nữa. - Tôi linh cảm mình gặp may. Mình phải liều. Điều khó chịu nhất là mình thể trù định mà phải tùy cơ ứng biến. Đối với việc trọng đại như thế này cần tính tới chuyện may rủi. Ted trong lúc miệng vẫn còn cười: - Điều thú vị là nếu mình biết mình phải làm gì, kẻ địch của mình cũng biết. Bây giờ mình nên ngủ giấc trước khi ăn tối. Mình có dịp cần nhiều sức khỏe. Tôi bảo: - Im lặng tức là yên nghỉ. đoạn tôi trở về phòng riêng. Sau bữa cơm tối, tôi cố gắng tìm hiểu cách thận trọng trong phạm vi rất hẹp. Tôi ra ngoài, bước dọc theo hành lang rộng, và bấm nút xuống bên cạnh cửa thang máy. Nó rần rần chạy lên. Khi tới tầng có tôi đứng, cánh cửa chợt mở ra cách im lặng. Tôi nhìn vào bên trong buồng thang máy sáng rực ánh đèn, thẳng vào bộ mặt của Nelson và họng khẩu tiểu liên của y. Matuschek đứng bên cạnh y, tựa người vào vách buồng, khói tỏa thẳng đứng từ điếu thuốc lá y kẹp giữa hai ngón tay theo kiểu Âu châu. Matuschek mỉm cười để lộ cả hàm răng đen sì. - Ông muốn tìm phòng tắm, phải ông Dunbar? Ở tầng bốn phía tay phải. Vừa y vừa bấm nút ở bên trong thang máy. Cánh cửa đóng trở lại. Tôi lại nghe nó rần rần chạy thẳng xuống tầng dưới cùng. Trở về phòng riêng, tôi nhìn những khung cửa sổ lần nữa. Mặc dầu chìm trong bóng tối, chỉ có chút ánh sáng phản chiếu qua những ngõ ngách của tòa lâu đài, tôi vẫn thấy thể thoát ra bằng cách leo tường. Tôi tưởng tượng được vì sao lần thứ hai tôi lại nghĩ rằng ban đêm có vẻ khá hơn. Tôi cố đừng lạc quan, và biết rằng kẻ bi quan là người được hưởng mọi thứ ngạc nhiên thú vị. Bức tường dốc đứng chạy thẳng xuống gần sát bờ vực. Về phía tây, khoảng cách từ tường ra tới bờ vực chưa tới nửa thước. Về phía bắc chẳng có gì cả. Tôi nghiêng mình ra ngoài để nhìn. Bức tường của tòa lâu đài bằng phẳng. Có nhiều lỗ để níu tay và chân đục vào trong đó, nhưng chỉ để cho người leo núi giỏi, với đủ dây và móc sắt có thể cắm sâu vào mặt đá. Tôi chỉ là người lái thuyền giỏi, nhưng lại là người leo núi thuộc vào hạng tồi. Kinh nghiệm leo núi độc nhất của tôi cách đây mấy năm ở Thụy Sĩ khiến cho tôi còn ước muốn thử lại lần nữa. Tôi nghĩ rằng nếu tôi có thể tuột xuống dải đất hẹp đó, về phía tây, tôi có thể men lần tới sâu. Nhưng tôi biết có hy vọng tuột xuống đó. Chỉ còn lối thoát là thang máy. Hoặc Anson. Cửa phòng của Monique khóa khi tôi tìm nàng lúc mười giờ đêm. Nàng ngủ. Lửa trong lò sưởi cháy thành những cục than hồng với lớp tro bên ngoài. Tôi lặng lẽ bước qua tấm thảm dày tới bên cạnh giường của nàng và nhìn xuống chiếc đầu màu đen mặt gối. Nàng nằm ngửa, cánh tay gác gối bên cạnh đầu, lòng bàn tay quay lên và mấy ngón tay hơi co vào. Tôi sờ ngón tay vào bên cổ nàng, chỗ mềm mềm ngay phía dưới vành tai. Trong giây lát, nàng vẫn nằm yên, mở mắt. Đôi mắt của nàng to và đen ánh trong căn phòng mờ tối. Nàng bằng giọng ngái ngủ: - Stuart! Em tưởng bao giờ đến được. Tôi ngồi xuống cạnh giường của nàng. Nàng liền ngồi dậy và choàng hai cánh tay quanh cổ tôi. Tôi giữ nàng như thế suốt phút, muốn lên tiếng kể cho nàng nghe những gì tôi phải kể về liều lĩnh của chúng tôi. lúc sau nàng mới rút tay ra, đưa lên khỏi vai và buông xuống gối. Tôi bảo: - xin lỗi làm em thức giấc. cảm thấy buồn chán và muốn được gần người bạn. Ted đúng là thứ bạn cần. - Ồ, Stuart, tìm được Ted? - Ted ở trong phòng sát đây. Em gặp Ted sau. Bây giờ khoan . Mình có nhiều chuyện cần với nhau. Nàng mơ màng bảo: - vẫn luôn luôn là người nhiều. - tự biết. Nhưng đây là chuyện rất quan trọng. - cứ chồm lên mình em như thế này làm sao chuyện cho được. Mãi lúc lâu sau đó tôi mới bắt đầu kể cho nàng nghe, trong lúc chính tôi cũng cảm thấy buồn ngủ. Tôi chắc lời của tôi có lọt được vào tai nàng hay . Cuối cùng, tôi cảm thấy nàng ngủ gục vai tôi. Tôi muốn đánh thức nàng. lát sau nàng khẽ cựa mình và đặt bàn tay lên miệng tôi, mấy ngón tay rà quanh cằm tôi, và nàng : - Stuart, ngừng rồi sao? Giọng nghe êm tai quá. Em có thể cảm thấy tiếng của rung động từ ngực qua ngực em. - Em làm gì có ngực. - Lẽ tất nhiên bên dưới những gì tượng trưng cho người đàn bà em cũng có ngực chứ. hãy chuyện thêm cho em nghe. - Khỏi cần nữa. Em hãy ngủ lại . Nhưng nàng ngủ thiếp trở lại trước khi tôi xong tiếng cuối cùng. Mấy ngón tay của nàng mặt tôi duỗi ra và cào má tôi trong lúc bàn tay của nàng tuột xuống. lát sau, tôi cũng nhắm mắt ngủ. Trí óc tôi quá bận rôn suốt thời gian dài. Song le chắc hẳn tôi ngủ. Điều cuối cùng mà tôi còn nhớ được là tôi trông thấy ánh sáng mờ xám của buổi bình minh giả tạo, bàn tay trái của buổi sáng bầu trời ở ngoài cửa sổ. Khi tôi nhìn trở lại trời chan hòa ánh nắng. Tôi bỗng giật mình. Chiếc đồng hồ tay của tôi cho biết chỉ còn mấy phút là tám giờ. Monique mặc áo ngủ đứng bên cạnh trong những khung cửa sổ cao nhìn ra ngoài biển. Tôi đến sát mình nàng và nhìn ra ngoài với nàng. Nàng luồn cánh tay của nàng dưới cánh tay của tôi và ép sát nó vào mình nàng, gì. Buổi sáng đến dưới bầu trời u ám nặng trĩu. Tôi lo lắng nhận thấy hôm nay là ngày hẹn mà biển lại động hơn hẳn ngày hôm qua. Gió thổi mạnh khiến cho những làn sóng bạc đầu vươn cao mặt biển và làm bay tung bọt nước khắp nơi về phía dưới chúng tôi. Tôi bảo: - Có phải làm cho em ngủ được? - đừng bậy. Em ngủ ngon lắm mà. Nhưng trông nàng có vẻ phờ phạc và dưới mắt nàng có hai quầng thâm. - Em nghe được những gì về vụ này? Nàng quay người để nhìn lên mắt tôi. - Khá đủ. Và em qua phòng bên cạnh, chuyện với Ted. Ted kể với em thêm nhiều điều. - Em đừng lo ngại. Dù thế nào nữa, đêm nay mình dời khỏi đây. thấy em để dành thức ăn điểm tâm cho . Chiếc bàn lăn vẫn còn ở gần lò sưởi, bình cà phê được bắc bếp lửa để luôn luôn nóng. Nàng tiến tới bàn. - Người ta vừa mới đưa vào. Em còn chưa ăn miếng nào. uống chút cà phê nhé? Tôi uống cà phê và ăn bánh croissant với nàng. Chúng tôi chuyện rất ít. Rồi tôi trở về phòng riêng để cạo râu và thay áo quần. Khi tôi trở qua nàng thay y phục xong. Nàng mặc bộ áo quần và mang đôi giày, tất cả là loại đặc biệt dùng lúc trượt tuyết. chiếc áo choàng ngắn dày bằng len liệng ở chân giường. Tôi chắc lưỡi: - Em tính giỏi lắm. ấm mà lại màu đen, chắc rất tiện lợi. Tối nay em nhớ mặc vào người. - Anson cầu em vòng xe với ông ta ngày hôm nay. Em đoán ông ta muốn chuyện về thỏa ước. - Tại sao em lại đem quần áo trượt tuyết theo? - Em chưa từng ở Hebrids và tưởng nơi này lạnh lắm. Như ở Ulthima Thule - (Ulthima Thule: vùng cực Bắc của địa cầu, có thể là Na Uy, Iceland (đảo lớn gần Na Uy), hoặc Mainland (đảo lớn nhất thuộc quần đảo Shelland ở phía Bắc Tô Cách Lan)) - - Kể ra em hiểu cũng có gì lạ, vì có rất nhiều người nghĩ như em. Nhưng chừng đêm nay trời lạnh . Nàng bỗng vòng tay quanh hông tôi và ôm chặt, úp mặt vào ngực tôi. Tôi cũng siết lấy mình nàng. Nàng khẽ : - Stuart, em sợ quá! Tôi bảo: - Em là nữ kịch sĩ đại tài. nên lộ ra mặt. - Nhưng em vẫn cảm thấy sợ. - Em đừng lộ ra ngoài. Rồi em thấy sao dù có chuyện gì xảy đến. Em đừng tỏ ra hay biết việc Ted và có thể làm tối nay. Khi xong xuôi kể cho em nghe. Nhất là em đừng phản kháng Anson. Em cứ bảo ông ta em quyết định ký mọi điều khoản theo đúng ý của ông ta. Nàng ngẩng mặt lên và nhìn sững tôi, vô cùng kinh ngạc. - chứ, Stuart? Nhưng tại sao vậy? - Phải . bán ngay cổ phần. Em cứ bảo y em bán. Em cứ việc ký tờ tương thuận nếu em bị ép buộc, nhưng hãy cố kéo dài qua ngày mai nếu có thể. Nếu em phải ký, và Ted cố lấy lại tờ cam kết cho em. Tôi làm bộ mạnh dạn mà trong lòng tin nổi phần mười. - Em cố. Nhưng chắc phải dễ dàng gì. Y tỏ ra gấp rút. Tôi cười bảo: - tin em thành công. Nàng hôn tôi và cắn môi dưới tôi: - Bây giờ em phải . Em phải gặp Anson đúng chín giờ sáng.