1. Tất cả những truyện có nguồn từ diễn đàn LQĐ thì ko cần xin phép

    Những truyện của bất kì wordpress, web hay forum khác phải được sự cho phép của chính chủ và post sau chính chủ 5 chương hoặc 5 ngày

    Không chấp nhận comt khiêu khích, đòi gỡ truyện hay dùng lời lẽ nặng nề trên forum CQH. Nếu có sẽ bị xóa và ban nick vĩnh viễn!

    Quản lý box Truyện đang edit: banglangtrang123

       
    Dismiss Notice

[Cổ đại] Trăng lạnh như sương - Phỉ Ngã Tư Tồn

Thảo luận trong 'Truyện Đang Edit'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. duongbaolien

      duongbaolien Well-Known Member

      Bài viết:
      4,670
      Được thích:
      1,610
      Chương 19: KHÚC VẮNG XIN ĐỪNG DẮT HƠI THU

      Sắc trời tối, song Dự Thân Vương vẫn lên đường suốt đêm, tức tốc trở về kinh thành. Vệ sĩ hộ tống giơ cao bó đuốc sáng rực, tiếng bước chân nghe ầm ầm. Mảnh trăng non cong cong như chiếc lưỡi liềm ai bỏ quên cánh rừng sao, ánh trăng như nước, chiếu vào áo mũ binh giáp, trong trẻo lung linh như ngầm chứa đựng cả hơi băng. Mà trong rừng, cây cỏ đều vương những hạt sương đêm, gió mùa thu thổi qua mặt thứ hơi lành lạnh.

      Trì Tấn Nhiên cưỡi ngựa sau Dự Thân Vương bị gió lùa cho rét run cầm cập, chỉ thấy Dự Thân Vương vẫn phi ngựa như tên bắn, gió thốc tấm áo choàng vai chàng bay phấp phới như lá cờ. Ngọn đuốc tay quân hầu cũng bị thổi cứ kêu phần phật, ánh lửa chiếu lên khuôn mặt của Dự Thân Vương, tranh sáng tranh tối.

      “Vương gia!” Trì Tấn Nhiên thấy thân hình của chàng bỗng nhiên lệch sang bên, khỏi cả kinh kêu tiếng. Dự Thân Vương theo phản xạ ghìm dây cương lại, dựng thẳng thân hình, có vẻ áy náy:

      “Xém chút nữa ngủ luôn rồi.”

      Trì Tấn Nhiên :

      “Vương gia quá mệt mỏi, sau khi trở lại kinh thành cần phải nghỉ ngơi chút mới được.”

      Dự Thân Vương mạnh mẽ xốc lại tinh thần, đón nhận cái gió mùa thu căm căm cách nghiêm nghị, cố mở to con mắt trĩu nặng, giọng vang vang:

      “Trở về kinh lại càng nhiều việc, chỉ e càng có thời gian mà nghỉ ngơi nữa.”

      Trì Tấn Nhiên nhịn được :

      “Vương gia, việc có lúc nào xong được, tội gì mà phải hành xác mình như thế . . .”

      Dự Thân Vương đáp:

      “Ăn lộc của vua, trung tâm báo quốc, cúc cung tận tụy. Ta mà chết , ngươi vẫn còn phải đọc sách nhiều năm nữa, còn chưa biết sách thánh hiền đọc đến đâu rồi đó?”

      Trì Tấn Nhiên cười hì hì:

      “Ăn lộc của vua, trung tâm báo quốc, đạo lý này đương nhiên ta hiểu mà. Nhưng mà ngài cũng phải ăn ngon ngủ ngon, mới hoàn thành nhiệm vụ của Hoàng Đế giao được, chứ đói bụng, hoặc ngủ thiếu, ý chí ăn thua, rồi mọi việc thành hỏng bét cả.”

      Dự Thân Vương rốt cuộc cũng bật cười, Trì Tấn Nhiên lại :

      “Vương gia thân mang trọng trách, cho nên lại càng phải chăm lo cho chính mình.”

      Dự Thân Vương đáp:

      “Ngươi đúng là lôi thôi rông dài quá .”

      Chàng ngẩng đầu lên nhìn ánh trăng đầy trời như sương, chỉ cảm thấy lạnh lẽo thấu xương. Hơn mười kỵ mã bảo vệ xung quanh, trong tiếng bước chân rầm rầm vẫn nghe thấy côn trùng kêu ri ri bên bụi cỏ, hơi thu càng đượm. nhịn được huýt sáo tiếng dài, cao giọng ngâm:

      “Tám trăm dặm hàng quân chia thịt,
      Năm mươi dây, đàn bậy biên thành,
      Mùa thu, bãi điểm binh.
      Ngựa chiến “Đích Lư” phi khoẻ,
      Cung giương, sét nổi, giật mình. . .”

      (Phá trận tử – Tân Khí Tật – dịch: thivien.net)

      Giọng ngâm đến đoạn này khỏi thấp xuống.

      “Đền đáp ơn vua lo việc lớn

      Dành cho thân thế được thơm danh . . .”

      câu cuối cùng, lại như tiếng thở than não ruột.

      Lúc vào đến thành ngày rạng, Dự Thân Vương trở lại trước phủ, trong phủ sớm có quan viên đứng đợi sẵn chờ hầu. Đợi đến lúc xử lý xong đống công văn, cũng qua giờ ngọ rồi, chỉ cảm thấy bụng đói như bị đốt, bấy giờ mới truyền dọn bữa trưa. Còn chưa ăn xong, ngoài cửa thông báo có thị lang của bộ Hộ và bộ Công đến thăm viếng.

      Hai người kia vốn là vì việc cứu trợ thiên tai mà đến, bộ Hộ quản lý thóc gạo của ba mươi hai châu trong cả nước, xem xét lương thực còn lại bao nhiêu, thiếu bao nhiêu, còn có viện trợ cho xuất chinh bao nhiêu; mà bộ Công quản lý vận tải, mỗi ngày chuyên chở xuống phía nam bao nhiêu, nơi nào điều động nơi nào chuyển , đều là mấy chuyện vặt vãnh mà vẫn phải bận lòng.

      Xong cuộc bàn bạc bóng chiều ngả về tây, Dự Thân Vương tự mình đưa tiễn hai vị thị lang ra tận ngoài hiên, hai người :

      dám! Thỉnh Vương gia dừng bước.”

      Đoạn chắp tay làm lễ. Dự Thân Vương nhìn theo bóng bọn họ, lúc vừa quay lại bắt gặp gã nội quan chuyên hầu hạ theo mình tên Đa Thuận, nhớ tới lúc sáng sớm có sai gã vào cung nghe ngóng tình hình gần đây của phế phi Mộ thị, bèn hỏi:

      “Làm thế nào mà bây giờ mới quay về?”

      Đa Thuận vội vàng bước lên đỡ khuỷu tay chàng, trở vào trong điện rồi mới bày vẻ mặt đau khổ :

      “Vương gia lại bắt bẻ nô tì rồi . . . Ngài nghĩ xem, cung Vĩnh Thanh là nơi như vậy, loại người như nô tì làm sao có thể tùy tiện vào đấy được. Phải cho người quen tìm đủ phương pháp, khó khăn lắm mới nhìn đến được khuôn mặt của Thục phi, à , họ Mộ.”

      Dự Thân Vương bắt đầu cảm thấy mệt mỏi, cau mày bảo gã:

      “Chọn chuyện gì quan trọng mau mau .”

      “Vâng.”

      Đa Thuận lo lắng mà .

      “Theo như nô tì thấy, nô tì cũng đành lớn mật . . . chỉ e họ Mộ kia sống được bao lâu nữa.”

      Dự Thân Vương bưng tách trà khỏi thoáng chững lại, lúc sau mới nhấp ngụm, lạnh nhạt :

      “Như thế nào?”

      Đa Thuận thưa:

      “Nghe vừa vào cung Vĩnh Thanh liền bị bệnh, đến nay tháng rồi, nô tì thấy bệnh rất nặng, nằm liệt giường chẳng còn biết gì, lại có ai biết đến, thế còn chịu để thầy thuốc xem mạch, có lẽ là gắng gượng cho qua ngày mà thôi.”

      Dự Thân Vương còn trầm mặc, Đa Thuận đột nhiên :

      “Vương gia, nếu . . .”

      Dự Thân Vương ngẩng đầu lên:

      “Việc này giao cho ngươi làm, cần phải lo liệu chút, tìm cách mời thầy thuốc, cũng nên trông nom nhiều hơn. Nếu như có chuyện gì, cứ chạy về báo cho ta.”

      Đa Thuận nghĩ chính mình hóa ra hiểu sai, cảm thấy bất ngờ:

      “Vương gia, việc này thực ra là hợp với quy định trong cung cho lắm, hơn nữa . . .”

      Dự Thân Vương :

      “Bảo ngươi cứ , nếu như cần phí tổn, cứ thẳng đến phòng thu chi mà lấy.”

      Đa Thuận chỉ đành khoanh tay đáp:

      “Vâng.”

      Đa Thuận theo mệnh lệnh của chàng, sắp xếp cho người vào trong cung Vĩnh Thanh, lặng lẽ thỉnh lương y hỏi mua thuốc. Tình trạng của Như Sương lại tốt ngày, xấu ngày, cuối cùng là vẫn chẳng đỡ hơn được tí nào. Dự Thân Vương theo lời dặn của Hoàng Đế, còn trăm công ngàn việc nhưng vẫn cho gọi Tể Xuân Vinh vào phủ, tự mình hỏi han lần.

      Vị Tể Xuân Vinh kia tuy là mát tay vào bậc nhất quốc gia, song cũng chẳng phải thần tiên, chỉ thành thành mà bẩm tấu với Dự Thân Vương:

      “Thần cố hết sức, nhưng nương nương . . .”

      tới đây, vội vội vàng vàng sửa lại:

      “Thứ nhân họ Mộ . . . Từ lần đẻ non trước, khí huyết đều hư tổn, căn bản là suy sụp, về sau tuy là có tăng cường điều dưỡng, rốt cuộc vẫn chưa có chuyển biến. Thần tài hèn học ít . . .”

      Dự Thân Vương :

      “Thôi, ta biết.”

      Đoạn chuyển hướng câu chuyện, hỏi lão về tình hình bệnh dịch.

      Dịch bệnh còn là chuyện ngày ngày hai nữa rồi, lũ lụt ở Giang Nam, người dân chạy nạn lánh thẳng lên bắc, hợp khí hậu, dọc đường rất nhiều người mắc bệnh. Ban đầu là sốt tiêu chảy, qua dăm ba ngày phát sốt nhiệt độ tăng cao, thuốc men đều hiệu quả, ngã đùng ra đường, sau cùng cũng biến thành dịch.

      Dần dần từ nam ra bắc, bệnh theo dân tị nạn mà lây lan, tuy rằng quan dân các tỉnh đều cực lực phòng hộ, nhưng thế của dịch chứng ào ạt, trước đó lâu toàn bộ quận Trần An phía nam của Quân châu đều mắc bệnh, mà Quân châu cách Tây Trường kinh, chẳng qua cũng chỉ trăm dặm mà thôi. Dự Thân Vương hết sức lo lắng, bởi vì dân cư Tây Trường kinh đông đúc, lại là chốn hoàng thành, khi bệnh dịch lan vào, hậu quả khó mà gánh nổi.

      Tể Xuân Vinh :

      “Thế tới của dịch chứng cực hung mãnh, kế sách giờ, chỉ có thể là đóng cửa Tây Trường kinh, trừ quân cấp báo ngoại thành, còn lại những người khác ra vào đều phải chờ. Sau đó thiết lập nhà tình thương, gom lại toàn bộ những người dân bị bệnh, nhất định phải cách ly bọn họ với người thường.

      Thần còn có kế sách này, trong thành chọn ra Hạnh Lâm đường, Diệu Xuân đường, Tố Vấn quán, Thiên Kim đường đầu, cùng hơn ba mươi nhà cất chứa và phân phát thuốc thang lớn nữa, Vương gia cũng nên ra lệnh cho phường hội, trong thời gian này phải liên lạc chuẩn bị sẵn thuốc men phòng bệnh truyền nhiễm.”

      Với cái đầu tiên Dự Thân Vương khẽ lắc:

      “Đóng cửa thành tuyệt đối được.”

      Về kế sách thứ hai, xem ra có vẻ khả quan, cho nên lập tức bố trí lập nhà tình thương ở phía ngoại thành thưa thớt, phàm là dân lưu lạc đều đưa đến đó để điều dưỡng, tiếp đó lại liên hệ hơn mười nhà chứa thuốc lớn khác nhanh chóng phân phát thuốc men cho cả thành, ngăn ngừa dịch bệnh lan truyền.

      Quả nhiên, trong kinh thành bắt đầu có người phát bênh, khởi đầu cũng mới khoảng dăm ba trường hợp, tức khắc sai người đưa đến nhà tình thương. Nhưng người bệnh biết đến nhà tình thương cũng chỉ còn đường chết, khỏi gào thét giãy giụa, ngay cả người nhà bệnh nhân cũng giấu giếm báo.

      Mùa thu, Tây Trường kinh mưa nhiều, mưa đổ ào ào dứt, cư dân ở phía đông kinh thành đều nghèo, dân tị nạn chạy cả vào trong kinh thành nương nhờ nơi bạn bè thân thích. gian chòi dựng tạm lùn tịt, thường thường rác rưởi cặn bã giăng đầy đất, nước mưa tuôn xuống, ô uế chảy ra khắp mọi ngóc ngách.

      Tuy là ăn nước giếng, song khí hậu Tây Trường kinh khô khan, đào giếng phải hơn mười trượng, thậm chí còn phải sâu hơn nữa mới có nước ngọt, nhà nghèo đào nổi giếng sâu, bèn đào miệng giếng nông rồi gạn mà ăn, mấy ngày mưa liên miên, nước giếng sớm ô nhiễm, vì thế nhà bệnh, lập tức lây sang cả mười nhà. Cứ như vậy, dịch bệnh ruốt cuộc từ từ mà lan ra, thậm chí còn có vài hộ gia đình đồng loạt mà chết bệnh ngay giữa đường. Tây Trường kinh bấy giờ chẳng khác nào cái lồng ôn dịch đáng sợ, mọi người ai nấy đều bất an thôi.

      Những ngày này mưa như trút nước, Dự Thân Vương ở trong phủ nghe tiếng mưa rào rào, khỏi thở dài. Đứng dậy tiện tay đẩy cửa sổ nhìn ra, chỉ thấy trời tối đen như mực, tựa như trời bị chọc lỗ thủng, mưa cứ thế mà ào ào dội thẳng xuống.

      Trong phòng lớn tuy được lát gạch xanh, nhưng phủ tầng hơi nước mỏng, mưa kia rơi xuống mặt đất, bọt nước nảy lên, trông chẳng khác nào trong nồi nước sôi.

      Chàng lo lắng cho đại cuộc, trong lòng cũng như tuôn mưa, cảm thấy thể nào yên ổn. Hoàng Đế mấy ngày trước muốn trở về, bị chàng mực ngăn cản lại . . . Bởi vì trong thành ôn dịch tràn lan, nghĩ Hoàng Đế vẫn tốt nhất là ở lai Thượng Uyển an toàn hơn. Mà trong thành liên lạc dường như bị cắt đứt hoàn toàn, bách tính ngay cả cưới hỏi hay tang lễ đều bị cấm chỉ, ai cũng được qua lại với nhau, mỗi nhà đều phải khép chặt cửa, cửa còn treo túi cỏ thơm, gọi là “Phòng dịch”.

      Trong lúc đó, quan lại đồng liêu, nếu có công việc quan trọng cũng được lui tới, nghị triều tạm thời hoãn lại. Hoàng Đế vốn ở trong kinh, cho nên quần thần mỗi ngày đều hội thảo trong phủ Dự Thân Vương, cùng bàn luận những chính quan trọng. Trình Phổ cao tuổi, lo lắng cũng được nhiều nữa, nhưng phía nam cứu nạn, phía bắc động binh, việc to việc , tất tần tật Dự Thân Vương cũng đều phải hỏi han.

      Chuyện này cũng thôi bàn nữa, quan trọng nhất lúc bấy giờ chính là tiền, bạc trong ngân quỹ quốc gia cứ liên tục chảy ra như nước, vậy mà vẫn duy trì được cục diện.

      bột đố gột nên hồ.”

      Thị lang bộ Hộ là Lý Tự thở dài.

      “Vương gia cũng biết, sớm là thu đủ chi, năm ngoái tuy có thu nhập được khoản lớn, nhưng chi phí cho công trình thủy lợi cùng quân đội đều ít, còn có xây lăng tẩm cùng việc đào mương ở Định châu, bốn cái khốn đốn vì ba cái, làm sao mà có thể ổn thỏa cho hết được.”

      Khoản thu năm ngoái kỳ thực là từ tài sản của Mộ thị. Họ Mộ trăm năm danh gia vọng tộc, có ruộng lúa phì nhiêu, đất đai bạt ngàn, nhà cửa, vàng bạc, phải là đếm xuể, đổi ra bạc cũng được hơn hai trăm bốn mươi vạn lượng, khiến cho triều đình cả năm qua cũng được sung túc.

      Dự Thân Vương cảm nhận khí thu mát mẻ từ vạt áo, bên ngoài mưa vẫn rào rào, khỏi nhăn mày.

      Từ cửa ải cũng nhận được tin báo hay. Tướng Bùi Tĩnh phòng giữ Hạc châu thống lĩnh viện binh, kịch liệt giao chiến cùng quân Kỷ Nhĩ Mậu dưới chân núi Mẫn Nguyệt mấy ngày, Bùi Tĩnh thua chạy te tua, hai vạn nhân mã mà tổn thất chỉ còn lại khoảng năm nghìn, những giải vây được cho ải Định Lan, ngược lại chính mình còn bị vây bên bờ Hắc Thủy.

      Thị lang của bộ Binh lo lắng bồn chồn, :

      “Bùi Tĩnh trấn giữ biên ải hơn mười năm, cũng giao tranh cùng Kỷ Nhĩ Mậu bao năm, ngờ lần này lại lâm vào tình cảnh như thế. Tay chủ soái bên Kỷ Nhĩ Mậu, quả thực là thể khinh thường.”

      Tướng soái cầm đầu cuộc xuất chinh phía nam này của Kỷ Nhĩ Mậu, trước giờ còn chưa có danh vị gì, thế nhưng lại được người của Kỷ Nhĩ Mậu tung hô là “Thản nhã trạch kim”, tức là “Thần ánh sáng”. Vóc dáng cũng chẳng hề cao lớn dũng mãnh, thậm chí còn gầy yếu thó hơn cả người thường. Tuy nhiên, chưa có ai từng được thấy bộ mặt của người này, lúc ra trận luôn mang mặt nạ bằng vàng, điêu khắc đó rất dữ tợn, cưỡi tuấn mã, nắm thương dài, toàn thân giáp sắt sáng ngời, phản chiếu ánh mặt trời như ngày chính ngọ, quả thực khí chất thần linh oai nghiêm.

      Cách dùng binh của cực kỳ xuất quỷ nhập thần, mấy tháng nay giao chiến cùng Thiên triều, vậy mà vẫn bách chiến bách thắng, chỉ trong vòng khoảng thời gian ngắn khiến cho ba quân nơi biên ải kiêng sợ.

      Thám tử được phái thăm dò trở về, báo rằng người này chính là con tư sinh của Đại hãn Kỷ Nhĩ Mậu Tra Kha Nhĩ với nữ phù thủy Oman, năm nay mới mười sáu, ngoại hình xinh đẹp như con , cho nên mới phải mang mặt nạ vàng mà xuất trận, hòng trợ oai.

      Lời đồn đãi cũng kém phần ly kỳ, rằng người này thực ra cũng phải là con riêng của Tra Khả Nhĩ, mà thực vị công chúa tuổi nhất của đại hãn, vốn thuở sùng võ hiếu chiến, tinh thông binh pháp. Cho nên lần này Kỷ Nhĩ Mậu tiến đánh phía nam, Tra Khả Nhĩ rốt cuộc phải giao phó cho con mình làm chủ soái. Kỳ thực theo tục lệ của Kỷ Nhĩ Mậu, con và con trai xưa nay vẫn bình đẳng, nếu như có chuyện này, cũng phải bất ngờ cho lắm.

      Tổng chỉ huy quân đội bắc doanh là Duệ Thân Vương, lúc nhận được điệp báo như vậy, chỉ ngửa mặt lên trời mà cười sằng sặc:

      “Hay lắm, đợi đến lúc đại quân của ta bắt được công chúa này, cũng hi vọng hai bên có mối nhân duyên tốt đẹp.”

      Tên người hầu đứng bên soạn công văn lúc nghe xong cũng tỏ thái độ gì, song ngay tối hôm đó lại gửi bức mật thư cấp báo cho Dự Thân Vương tường thuật lại tình, giọng điệu vô cùng rầu rĩ:

      “Ý tứ bừa bãi, mồm miệng chớt nhả, biểu lộ ra cũng chỉ là cái loại vô tích đến phát khủng.”

      Dự Thân Vương đối với việc Hoàng Đế phái Duệ Thân Vương thống lĩnh quân đội cũng cực vừa lòng, bởi Duệ Thân Vương còn chưa từng lần ra trận, cậy tài khinh người, chỉ sợ quân dành chiến thắng phải dễ. Mà Hoàng Đế thờ ơ :

      “Thắng thôi, mà thắng vừa hay trẫm hỏi tội .” (Á, gian xảo quá^^)

      Nhưng quan ải Định Lan vùng tây bắc chính là điểm chủ chốt, nếu mất Định Lan, sáu châu ở vùng tây bắc nhất định rơi vào thế hung hiểm, kỵ binh của Kỷ Nhĩ Mậu có thể lập tức tiến xuống nam, dễ dàng đánh bại Trung Nguyên.

      Dự Thân Vương :

      “Tới lúc đó, chỉ e thành liên lụy đến cả đại thiên hạ.”

      Hoàng Đế khẽ nheo con mắt, giống như cười:

      “Nếu như liên lụy cả đại thiên hạ, vậy trước mặt tổ tiên xã tắc, giết Thân vương, chung quy cũng thành xong chuyện.”

      Đây là lần đầu tiên Dự Thân Vương nghe được chữ “giết” phun ra từ trong miệng Hoàng Đế, nhàng bâng quơ, lại làm cho đáy lòng người ta phát lạnh. Nhưng chàng xưa nay kính Hoàng Đế, cho nên từ đó về sau cũng còn đế cập tới.

      Mà Duệ Thân Vương dẫn đại quân, lại ngừng sai người trở về thúc dục lương thảo đòi thết đãi tiệc tùng, dọc đường lại còn quấy nhiễu dân chúng địa phương, làm các quan địa phương chạy theo cung phụng cũng kịp, bèn đồng loạt gửi tham tấu lên. Mà Hoàng Đế xưa nay dung túng cho người em này, phàm có điều tấu, lập tức phê chuẩn. Trong thời gian ngắn, cả bộ Binh, bộ Lại, bộ Hộ đều vì vị Vương gia kiêu ngạo ngang bướng này mà phải bản, trái bản, tấu chương cứ như tuyết bay lên vèo vèo, khổ hết.

      Đây vẫn chưa phải là chuyện khiến cho Dự Thân Vương đau đầu nhất, mà việc phòng bệnh ngừa dịch mới chính là đại khẩn cấp đến độ cháy sém lông mày. Bởi vì ôn dịch hoành hành, cả kinh đô lúc bấy giờ tựa như tòa thành trống, khí trầm mặc đe dọa.

      Cổng thành sớm cấm tiệt xuất ra nhập vào, các cửa hiệu đều đầu cơ tích trữ, tuy là quân đội mỗi ngày đều tuần, nhưng lòng dân vẫn kinh hoàng lo sợ thôi. Mấy ngày sau, chuyện tình mà Dự Thân Vương cánh cánh nhất cuối cùng cũng phát sinh, trong cung có người bị nhiễm dịch chứng.

      Tuy là Hoàng Đế ở trong cung, nội quan bị bệnh chết cũng được đưa hỏa táng ở ngoại thành, nhưng chưa quá ngày, lại có cung nữ mắc bệnh, biểu của bệnh giống với dịch chứng, Dự Thân Vương tức khác ra lệnh phàm là cung nữ nếu bị bệnh đều phải đưa đến chùa Đại Phật Tự trong núi Tây Giác ở ngoại thành, tuyệt đối cách ly.

      Mà chính Dự Thân Vương cũng ngã bệnh, thoạt đầu chỉ nghĩ là do làm việc quá sức mà ra, về sau mới thấy sốt mà mãi lui, mặc dù bị tiêu chảy, nhưng vài ngày sau thuốc thang châm cứu cũng vô hiêu. Trong lòng chàng , chỉ sợ bản thân cũng nhiễm dịch rồi, cho nên dứt khoát, mặt sai người thông báo cho Trình Phổ, mặt sửa soạn mình di cư đến chùa. Sợ rằng Hoàng Đế lo lắng, cho nên đành giấu kín.

      Đa Thuận khổ sợ khuyên bảo vô ích, nhịn được ôm lấy chân chàng mà kêu khóc, Dự Thân Vương hỏi:

      “Ngươi khóc cái gì?”

      Đa Thuận vừa lau nước mắt vừa :

      “Vương gia nơi nào, nô tì đến nơi ấy. Vương gia thuở chính là được nô tì bồng bế, nô tì hầu Vương gia nhiều năm như vậy, từ sáng đến tối ly cũng rời, nếu Vương gia mà ruồng bỏ nô tì, nô tì cũng chỉ còn cách lập tức đập đầu vào cột mà chết.”

      Dự Thân Vương phát nóng hầm hập, cảm thấy toàn thân đều uể oải, gã này lại còn lôi thôi vướng víu, chỉ đành dở khóc dở cười:

      “Ta chừng dăm ba ngày là cùng, đợi hết bệnh rồi trở lại, ngươi còn bày ra cái vẻ khiếp nhược đó mà làm chi?”

      Đa Thuận nước mắt nước mũi ròng ròng, cái gì cũng chịu buông tay, Dự Thân Vương bất đắc dĩ, cũng đành phải để gã theo lên Đại Phật Tự.

      Ngôi chùa Đại Phật Tự này vốn là nơi Hoàng Đế Nhân Tông tu hành sau khi nhường ngôi (wtf? NHÂN tông? tu hành? trùng hợp chăng@@), bao năm qua cũng chính là nơi lễ Phật của hoàng gia. Hơn trăm năm rồi lại được xây cất thêm, đền đài gác Phật đều uy nghi tráng lệ, trong chùa còn có pho tượng Phật bằng gỗ bạch đàn cực lớn, cao tới tám trượng, đội trời đạp đất, trang trọng uy nghiêm, được người trong thiên hạ xưng là kỳ quan, cũng vậy mà chùa nổi tiếng với tên Đại Phật Tự.

      Dự Thân Vương đem theo Đa Thuận, người ngựa đơn giản mà ra khỏi thành, đợi đến khi tới được cửa chùa dươi chân núi Tây Giác, thấy đài vân chót vót, thềm đá như thang. Lúc lên , trời hoàng hôn mây mù tỏa khói như sắp mưa, mà điện chầu gác Phật nguy nga , khắp nơi trong chùa đều đốt thảo dược đưa hương thơm ngát, làn khói trằng mờ mờ ảo ảo lượn lờ trong góc điện, mái cong còn treo chuông đồng, lúc này bị gió thổi qua phát ra thanh lảnh lót trong veo, giống như cái khánh.

      Phương trượng Trí Quang tự mình dẫn theo chú tiểu sa di xuống nghênh đón Dự Thân Vương.

      Đại Phật Tự vốn mang đậm cảnh sắc mùa thu, có “ba đặc sắc” nổi tiếng của Tây kinh, “ba đặc sắc” đó là chỉ phong rậm, quế thơm, trúc dày của chùa. Phía sau chùa nguyên là có khoảng rừng trúc, trong bóng xanh ngọc bích, tiếng gió thở vi vu tinh tế, lá vót nhọn , chính giữa rừng trúc còn được đào khe suối nho uốn lượn, nước cũng trong mát như ngọc bích. Mặc dù lối được lát gạch, nhưng mênh mông vẫn là lớp lớp rêu xám, chỉ nghe suối chảy róc rách, thanh nghe như tiếng ai chuyện bên tai, rì rầm lúc được lúc mất.

      Mọi người men theo con đường quanh co khúc khuỷu mà , qua cây cầu trúc, mới trúc xanh dày đặc, che cả mảng tường đá thấp lùn, trông như những lớp tường trùng trùng bao quanh.

      Dự Thân Vương tuy mấy lần tới chùa phụng Phật, thế nhưng chưa hề ra đằng sau, lúc này bắt gặp khung cảnh u nhã tĩnh mịch như vậy, khỏi cảm thấy nổi da gà.

      “Tây Trường kinh ngờ còn có địa phương như thế này, nếu mà ngồi đây đóng cửa tĩnh tọa, hẳn cũng có người đốn ngộ cảnh thiền.”

      Gió lùa qua lá trúc nghe rào rào như mưa rơi, đại sư Trí Quang mỉm cười :

      “Vương gia quả nhiên là người có thiện duyên.”

      Xa xa cánh cửa thiền viện, chợt thấy tấm hoành phi, nét chữ cực kỳ tao nhã, chính là ba chữ “Ngồi thanh tĩnh”, hai người kìm lòng đậu bèn nhìn nhau cười.

      Dự Thân Vương chăm chú nhìn nét chữ trong chốc lát, :

      “Đây giống như là bút tích của Tiên hoàng Thắng Vũ Đế?”

      Đại sư Trí Quang đáp:

      “Đúng vậy. Tiên hoàng Thắng Vũ Đế khi còn là hoàng tử, nhân việc mẹ đẻ là Kính Tuệ Thái hậu băng hà, chôn cất tại bản chùa này, cho nên Thắng Vũ Đế bèn cất am ở đây chịu tang ba năm.”

      Vì là bút tích của Tiên đế, Dự Thân Vương phải chỉnh đốn lại vạt áo, đoạn mới cung kính bước vào. Lúc vào trong viện, thấy song cửa sổ bằng gỗ sáng bóng, mấy chiếc bàn phản ánh màu xanh, toàn bộ thiền viện đều sắc xanh biêng biếc, bài trí hết sức đầy đủ mà sạch .

      Trong sân còn có đôi hàng cây ngô đồng, lá vàng rơi rải rác mặt đất, chất đống bên thềm. Dưới thềm dù được lát gạch, song rêu xám mọc nhiều, trông như những đụn hoa trắng. Mà ngước mắt nhìn lên, chỉ thấy rừng tre như biển, ngửa mặt lên mãi mới thấy lấp ló góc trời trong vắt xanh biếc màu ngọc lưu ly.

      Dự Thân Vương bất giác :

      “Ở đây đọc sách tuyệt.”

      Đại sư Trí Quang cười , bảo tiểu sa di pha ấm trà thuốc. Hiểu biết về y học của ông rất khá, đích thân xem mạch giúp Dự Thân Vương, trầm ngâm :

      “Bệnh của Vương gia giống như dịch chứng.”

      Dự Thân Vương trả lời:

      “Đúng là phải , lúc này đại dịch khắp thành, dù sao cũng phiền hà cho kẻ khác, cho nên ta mới tới đây.”

      Trí Quang khỏi chắp tay :

      “Vương gia có lòng đại từ đại bi, nhất định được báo đáp.”

      Nơi đây vắng vẻ tịch mịch, bên ngoài bức tường phía tây hốt nhiên vọng lại tiếng con khóc tu tu, nghe rất ràng. Dự Thân Vương khỏi cảm thấy bất ngờ. Đất Phật cửa thiền, làm sao lại có tiếng nỉ non của con , huống chi đây ở sâu trong rừng trúc, rêu phủ quạnh hiu, càng làm cho người ta tưởng là nghe nhầm.

      Trí Quang :

      “Nhà khách phía tây có vài vị nữ cư sĩ trong cung đến ở, cũng là vì bị bệnh mà đến. Vốn là Vương gia hôm nay tới đây, cho nên bần tăng bảo người giúp các vị ấy tìm chỗ nghỉ tạm khác, chắc là vì muốn di dời, cho nên mới khóc.”

      Dự Thân Vương lúc này mới nhớ, ra là cung nữ dưỡng bệnh đây mà. Nghe người con kia khóc bi thương, trong lòng cũng nỡ, :

      “Thôi khỏi, cứ để họ ở chỗ này cũng được.”

    2. duongbaolien

      duongbaolien Well-Known Member

      Bài viết:
      4,670
      Được thích:
      1,610
      Chương 20: KHÓI NƯỚC THẨM SÂN SÂU LẠNH NGẮT

      Dự Thân Vương thế, mà Đa Thuận lại ra chiều đồng tình:

      “Ở gần như vậy, khí bệnh bay qua Vương gia làm thế nào được?”

      Dự Thân Vương :

      “Ta cũng là bệnh nhân, lại còn sợ khí bệnh?”

      Đa Thuận dám cãi lại, thấy tiểu sa di bưng trà thuốc đến, vội vàng tiếp lấy đem rót, lại đợi cho nguội bớt, đoạn mới đưa mời Dự Thân Vương. Đại sư Trí Quang :

      “Trong chùa cũng chỉ có cơm chay, mỗi ngày sai đồ đệ đưa tới cho Vương gia, chỉ đành để Vương gia chịu khổ phen vậy.”

      Dự Thân Vương đáp:

      “Nào có thể như vậy, phạm vào cõi bồng lai tiên cảnh, quấy nhiễu bậc chân tu là cực kỳ phải rồi.”

      Vì trời về tối, Trí Quang bèn cáo biệt trước. Dự Thân Vương tiễn ông ra tận mái hiên, bắt gặp cảnh chiều hôm mịt mờ, làn khói lam bốc lên nghi ngút, rừng trúc sâu thẳm như sóng biếc biển cả. Mà tiếng chuông chùa ngàn năm xa xôi vọng lại bên tai, trong khoảnh khắc quả thực bay vút lên khỏi cõi hồng trần. Chỉ cảm thấy hơi nước trong trẻo quét qua vạt áo, ngọn gió mát thẩm thấu vào tận trong phổi.

      Thời điểm thắp đèn, quả nhiên có tiểu sa di bưng cơm nước đến. Thiền phòng sơ sài, đốt ngọn đèn dầu, dưới ánh đèn lờ mờ nhìn kỹ, cũng chỉ thấy có cơm trắng cùng đậu phụ, ngoài ra còn đĩa đậu mầm xào cải xanh. Dù chỉ là nước luộc canh suông, song Dự Thân Vương vẫn xới bát cơm gạo lứt. Ngược lại Đa Thuận mặt nhăn mày nhó:

      “Cơm gì mà nhiều sạn quá, ăn miếng cơm kèm hạt sạn.”

      Dự Thân Vương cười :

      “Trong lòng có sạn, trong miệng có sạn, lòng có sạn, miệng tự nhiên cũng chẳng còn hạt sạn.” (Oa, Thất câu nghe có đạo vị nha^^, like)

      Đa Thuận nửa cười nửa mếu:

      “Vương gia, ngài còn có thể an nhàn thoải mái tĩnh tọa như vậy. Nô tì tuy là kẻ ngu dốt vô học, nhưng tới Đại Phật Tự cùng các Thái phi nương nương nhiều lần, ở trong miếu này thọ trai[1] mấy bữa, chẳng lẽ chưa lần nào được ăn đông mộc nhĩ, rau xanh trái ngọt hay sao? kể đến nấm hương, nấm rơm, kim châm, vân chi mà ngay cả nấm đầu khỉ, nấm gan bò tía cũng chẳng hiếm. Vậy mà hôm nay chúng ta tới, lại chỉ cho ăn cái thứ này.”

      Dự Thân Vương :

      “Trong thành giao thông cấm tiệt, giá gạo cứ liên tục tăng lên theo cấp số nhân, tháng trước đại sư Trí Quang mở kho phân thóc, cứu tế người nghèo, trong chùa chỉ sợ lương thực cũng còn nhiều. Ngươi chưa ra ngoài, còn chưa biết đó thôi. Bữa nay chén cơm mà ăn, lại còn chưa biết đủ.”

      Đa Thuận vâng vâng dạ dạ,hầu hạ Dự Thân Vương ăn cơm, nghe ngoài kia cuồng phong cuốn qua rừng, lá trúc xào xạc, Dự Thân Vương hỏi:

      “Mưa phải ?”

      chưa xong, nghe ngoài tán ngô đồng tiếng rơi tí tách, quả nhiên là mưa.

      Mưa gió đêm thu vốn điêu tàn quạnh quẽ, huống chi là chốn chùa hoang sân vắng. Ánh đèn dầu trong phòng như hạt đậu, chiếu qua song cửa sổ, bóng trúc u lay động, phiến lá ngô đồng giọt rơi tí tách, nhặt mà liên miên, cái rét đêm thanh càng như thấu vào tận xương cốt.

      Đa Thuận khỏi rùng mình cái, lấy áo choàng phủ thêm cho Dự Thân Vương, :

      “Vương gia vẫn nên ngủ sớm, ban đêm ở đây lạnh hơn trong phủ nhiều lắm ạ.”

      Mỗi chiều tối Dự Thân Vương đều bị lên cơn sốt , lúc này đứng lên cảm thấy trong người nóng hầm hập, biết mình lại phát sốt, toan gật đầu, chợt nghe có người đẩy cửa viện. Tiếng bước chân bì bõm bước vào trong sân, đạp lên thảm lá, thanh sàn sạt giòn vỡ.

      Đa Thuận quát hỏi:

      “Ai đó?”

      “Là nô tì, Trương Duyệt.”

      Bấy giờ Đa Thuận mới ra gian ngoài, vén mành trúc lên nhìn, chỉ thấy gã nội quan vận đồ đen quỳ ở ngoài thềm:

      “Thỉnh an Vương gia.”

      Dự Thân Vương lúc này mới nhớ, Trương Duyệt chính là kẻ được bố trí vào trong cung Vĩnh Thanh, bởi vì bệnh dịch hoành hành, toàn bộ người mắc bệnh trong cung đều phải vào chùa, Như Sương cũng chẳng ngoại lệ. đợi chàng mở miệng, Đa Thuận lớn tiếng trách mắng:

      “Ngươi hầu hạ Mộ thị cho tốt, đến đây làm cái gì?”

      Trương Duyệt dập đầu sát đất, thưa:

      “Nô tì muốn bẩm báo với Vương gia, nô tì nghe hồi chiều Vương gia đến chùa. Họ Mộ dường như ổn, trong tình thế cấp bách nô tì cũng phải đánh bạo tự tiện đến đây, mong Vương gia thứ tội.”

      Dự Thân Vương :

      “Thôi miễn, rốt cuộc là chuyện như thế nào?”

      Trương Duyệt đáp:

      “Nô tì dám , Mộ thị ở trong nhà khách Tu Hoàng, nô tì cả gan thỉnh Vương gia đưa ra cái quyết định.”

      Dự Thân Vương biết nhất định là bệnh tình nguy cấp cho nên Trương Duyệt mới liều lĩnh đến đây, chỉ nghĩ tới Như Sương cũng ở trong nhà khách Tu Hoàng, thực tế chỉ cách mình trong gang tấc. Chàng nhớ lại lời dặn dò của Hoàng Đế, thoáng lưỡng lự, bảo Đa Thuận:

      “Xách đèn, bản vương xem.”

      Trương Duyệt đằng trước đưa đèn lồng, Đa Thuận cầm ô che cho Dự Thân Vương, dọc theo con đường lát gạch ngập nước thẳng về hướng tây. Đêm đen như sơn, mẩu đèn lồng nho ánh da cam, quầng sáng cũng chỉ chừng trượng, trúc xì xầm như biển, ào ào tứ phía chỉ muốn ập vào ba người. đoạn đường ngắn ngủi hơn mười bước, thế nhưng lại như trải dài đằng đẵng chẳng tới.

      Nhà khách Tu Hoàng vốn là khu viện nằm sâu nhất trong rừng trúc. Gạch lát mòn vẹt, cánh cửa sơn đen bong tróc từng mảng, nhìn qua tưởng khéo léo tinh xảo, đến lúc lại gần mới biết ngay cả bức tranh chạm khắc nền sơn cũng phai còn gì. Mà trong sân viện núi đá đan xen, bên bờ đá còn trồng hai gốc mai già cực lớn.

      Vòng qua vách núi, mới thấy khuôn viên ánh đèn mờ mịt, Trương Duyệt đốt thêm đèn rồi mời Dự Thân Vương vào phòng, vách ngăn chạm trổ, thoang thoảng hương thuốc nồng đượm bay ra. Mấy chiếc bàn gỗ trong phòng đều cũ kỹ, theo ánh đèn chỉ thấy nước sơn bàng bạc phủ đầy bụi, càng làm tăng thêm vẻ tịch liêu của căn phòng.

      Có cung nữ bước ra, Trương Duyệt hỏi:

      “Mộ thị tỉnh chưa? Vương gia đến.”

      Cung nữ kia luống cuống hành lễ kịp, Dự Thân Vương :

      “Thôi được rồi.”

      Cung nữ trở lại vén màn, giọng kêu:

      “Nương nương, nương nương, Thất gia tới.”

      Người trong cung đều gọi Dự Thân Vương là Thất gia, mà cung nữ này vốn là người hầu hạ cũ của Như Sương, cho nên vẫn cứ kêu nàng hai tiếng “nương nương”.

      Nếu mà ở trong cung đình lễ pháp nghiêm ngặt, bị người nghe được chắc cũng chỉ có nước chết, song lúc này ở chùa, Dự Thân Vương đối nhân xử thế vốn rộng lượng, chỉ để ý nhìn vào Như Sương nắm trong màn. Vẫn là dung mạo như ngọc khi xưa, nay hơi thở yếu ớt, dường như thành vô tri vô giác, bèn hỏi:

      “Tể Xuân Vinh đến khám chưa?”

      Cung nữ thưa:

      “Tể viện hôm trước phải Thượng Uyển, Trương công công thỉnh Hà ngự y đến xem mỗi ngày. Hôm nay vốn phải kê thêm thuốc, chỉ sợ giới nghiêm trong thành . . .”

      Dự Thân Vương liền mệnh lấy toa thuốc đến xem, cũng chỉ có hai vị thuốc, trong đó có vị là nhân sâm.

      Do dịch bệnh nổi lên bốn phía, nghe đồn chỉ cần dùng nhân sâm cũng có thể phòng dịch, cho nên trong kinh nhân sâm cực kỳ quý hiếm, có cầm bảo vật mà đổi cũng được. Vì thế bèn lệnh cho Đa Thuận:

      “Ta nhớ ngươi có mang theo mấy mẩu nhân sâm, trước mang đến đây .”

      Đa Thuận dám trái ý, chỉ đành đốt đèn về lấy thuốc đưa qua, giao cho Trương Duyệt. Lập tức sắc thuốc, cung nữ thổi cho nguội bớt, Trương Duyệt lại nâng Như Sương dậy, ý muốn đút thuốc cho nàng. Mà đôi môi Như Sương vẫn mím chặt, cung nữ cầm thìa, song có cách nào nạy được khớp hàm ra, nóng nảy đến vã cả mồ hôi.

      Dự Thân Vương :

      “Để ta.”

      nhanh về phía trước, đoạn ấn vào huyệt Giáp Xa gò má nàng. Huyệt Giáp Xa chuyên điều khiển cơ nhai của con người, quả nhiên thấy môi Như Sương khẽ nhếch, cung nữ lập tức đút thìa thuốc vào, Dự Thân Vương thấy nàng vẫn còn nuốt được nước thuốc, trong lòng cũng hơi yên tâm. Nhìn nàng uống xong thuốc, Đa Thuận thưa:

      “Vương gia, nương nương bệnh như vậy, còn cách cứu vãn, chỉ có thể trông vào mệnh trời mà thôi. Vương gia vẫn nên về nghỉ ngơi, nương nương nếu có phúc, nhất đinh ngày mai tốt lên.”

      Dự Thân vương vốn cũng là bệnh nhân, thấy tình trạng của Như Sương hơi khá lên, đêm nay cũng có việc gì, mới khẽ thở dài đánh thượt, :

      “Ôi . . . Nhìn vận khí của nàng cũng còn . . .”

      Cảm giác toàn thân vô lực, trong người càng nóng lên, chỉ đành dựa vào Đa Thuận mà trở về ngủ.

      Đại sư Trí Quang thông hiểu y dược, mỗi ngày đều qua bắt mạch kê đơn cho Dự Thân Vương, Dự Thân Vương nhân đó thỉnh sư Trí Quang sang khám bệnh giúp Như Sương. ngờ sư Trí Quang vừa bắt mạch xong, sắc mặt trầm trọng, chậm rãi :

      “Theo như mạch đập của vị cư sĩ này, nhìn qua giống như khí – huyết đều hư tổn, song xét cho kỹ càng, lại có chỗ kỳ quặc, hình như là trúng độc.”

      Dự Thân Vương bất ngờ:

      “Trúng độc?”

      “Nữ cư sĩ này bị tổn thương hai mạch tâm phế, có vẻ quanh năm đều ăn loại thuốc lạnh mà ức, chỉ biết đích xác là thuốc gì. Xem qua thấy tính dược cực mạnh, chỉ sợ độc tính lâu ngày khó mà bài trừ.”

      Dự Thân Vương bất chợt nhớ lại ngày ấy hộ tống nàng đến hành cung, đường bệnh cũ của nàng tái phát, từng ăn viên thuốc, hương thơm mát rất kỳ dị, khỏi :

      “Ta gặp qua loại thuốc viên này lần, toàn bộ đều màu xanh, to bằng hạt đậu tằm, thơm mát lạ thường, phảng phất như xạ hương nhưng lại phải.”

      Kiến thức về hạnh lâm của đại sư Trí Quang cực kỳ uyên bác, nghe chàng miêu tả như vậy, biết:

      phải là Hàn Chu Hoàn đấy chứ?”

      Chắp hai tay, thầm tụng câu a di đà phật, đoạn :

      “Tiên sư từng gặp trong sách cổ của người xưa ghi chép loại thuốc này, chỉ dùng Chu Sa cùng hơn mười loại kỳ dược hợp chế mà thành, mặc dù tạm thời làm cho phế quản thư thái, uống vào tất đỡ ngay tức khắc, thế nhưng dùng lâu thành nghiện, để lại hậu họa cho đời sau, ôi, quả độc thể dùng.”

      Dự Thân Vương ngờ thứ thuốc ấy lại có độc tính kinh người như vậy, hỏi:

      “Có thể giải được chăng?”

      Trí Quang khoát tay, :

      “Tiên sư còn chưa lần nào tận mắt nhìn thấy loại thuốc ấy, bần tăng lại càng , thực chưa có nửa phần chắc chắn. Có điều có thể nỗ lực lần này xem sao.”

      Ông cân nhắc rất lâu, đoạn mới đặt bút kê ra đơn thuốc. Trong chùa vốn có kho thuốc, Trương Duyệt nhận lệnh đến chỗ sa di trông coi kho để lấy thuốc. Nhưng nay bệnh dịch hoành hành, dược liệu trong chùa mười phần chi ra tám chín phần cho bách tính toàn thành, chỉ còn lại hai phần đủ dùng. Mà thiếu dược liệu rồi lại có chỗ mà mua, cho nên mười ngày liên tục cũng hề đạt được chút hiệu quả nào.

      Chính Dự Thân Vương cũng bệnh, may nhờ có đại sư Trí Quang đến bắt mạch hàng ngày, cho nên mới cảm thấy dần hồi phục, chỉ còn lên cơn sốt mỗi đêm, đến sáng mai lại thôi. Hoàng Đế biết được tình hình của chàng, lo lắng hết sức, ngày nào cũng cử người đến thăm hỏi.

      Mặc dù sư Trí Quang cho biết là phải dịch chứng, song Dự Thân Vương lo xa, lúc nào cũng ở sau cửa mà xua sứ giả , lại khéo léo thỉnh Hoàng Thượng chớ sai người đến nữa, tránh khỏi bị truyền nhiễm.

      Bệnh trạng của chàng vẫn cứ dậm chân tại chỗ, trong khi đó Như Sương bắt đầu có chuyển biến tốt. Ngày hôm ấy Trương Duyệt báo lại:

      “Cuối cùng nương nương tỉnh rồi, mặc dù chỉ trong chốc lát, nhưng dù sao cũng mở được mắt, còn hỏi câu “Đây là đâu? , hiển nhiên là nhận thức được xung quanh.”

      Dự Thân Vương cũng yên tâm:

      “Chăm sóc cho tốt vào.”



      Thấm thoát mười ngày trôi qua. Dự Thân Vương ở trong chùa, cảm thấy đời người chưa bao giờ thanh tĩnh như vậy. Mỗi ngày, tiếng tụng kinh vang lên trong tĩnh mịch, nghe trúc xì xào như mưa, tuy rằng chỉ có cơm cà cháo hoa, nằm sương ăn gió, song lòng dạ lại khoan khoái như được tẩy rửa.

      Sáng tinh mơ hôm ấy, chân trời vừa rạng, đàn chim trước rừng trúc hát ca tưng bừng. Chàng chắp tay mà đứng trong sân, lắng nghe chim ca líu lo, mặt khỏi mang theo nét cười. Đa Thuận lặng lẽ từ ngoài tiến vào, bắt gặp cảnh như vậy, chỉ hận đến mức giãy đành đạch:

      “Ông nội con ơi! Buổi sáng lạnh như thế này, chịu khoác áo choàng còn đứng đầu con gió, quả thực là muốn mạng của nô tì mà.”

      Dự Thân Vương lúc này lại nổi lên đợt ho, ho khan hai tiếng, hỏi:

      “Ngươi vừa đâu đấy?”

      Đa Thuận trả lời:

      “Nô tì thăm Mộ nương nương, nghe Trương Duyệt , ngày hôm qua nương nương còn ăn được vài thìa cháo, lại còn trò chuyện được đôi câu, trông chẳng khác nào người bình thường, xem ra, tình hình cũng tốt đẹp lên rồi.”

      Dự Thân Vương khỏi mỉm cười :

      “Đại sư Trí Quang là cây cao bóng cả trong nước, quả nhiên là có đôi tay vàng.”

      Đa Thuận :

      “Cái gì mà bàn tay vàng cơ chứ, Vương gia bệnh lâu như vậy, mỗi ngày ông lão đều hết kê toa này đến toa khác, thế mà bệnh của Vương gia vẫn cứ nhùng nhằng hết.”

      Dự Thân Vương :

      “Ngươi biết cái gì, thuốc và châm cứu khác nhau, còn phải dựa vào vận khí trời cho, tốt hay tốt, nào có liên can đến thầy thuốc?”

      Đa Thuận cười :

      “Kỳ thực ở nơi này, nô tì cảm thấy tinh thần của Vương gia thoải mái hơn rất nhiều so với hồi trong phủ. Trước đây lúc nào cũng chỉ thấy Vương gia cau mày nhăn trán, mà mấy ngày qua lại thường nở nụ cười.”

      Trong chùa ngày tháng trôi nhanh, nhưng là khoảng thời gian bình dị nhất trong đời, Dự Thân Vương trong cơn bệnh tật lại có thể thong dong tự tại mà ngồi tĩnh tâm. Thi thoảng sư Trí Quang cho mượn vài cuốn kinh Phật, cũng thong thả mà ngồi đọc. Lúc Đa Thuận sắc thuốc bưng đến, thấy chàng vẫn ngồi miết bên cửa sổ đọc kinh, lại cằn nhằn cấm cảu:

      “Khó khăn lắm mới là dưỡng bệnh, cũng chịu nghỉ ngơi ngày, lại còn hao công phí sức đọc sách.”

      Dự Thân Vương nghe thế, cũng chỉ cười mà thôi.

      Chiều tối hôm đó Dự Thân Vương vẫn ngồi xem kinh sách, chợt nghe có tiếng bước chân dồn dập, chưa kịp đứng dậy, giọng hoảng hốt của Trương Duyệtt vang lên:

      “Vương gia, Vương gia . . .”

      Đa Thuận bước ra mắng:

      “Cài gì mà cứ chuyện bé xé ra to thế?”

      Trương Duyệt rã rời, nuốt nước bọt đánh ực, :

      “Mộ nương nương đột nhiên lại tốt, sư Trí Quang có ở trong chùa, nô tì rất sợ . . .”

      Bệnh tình của Như Sương lúc trước có chuyển biến tốt, giờ nghe Trương Duyệt kinh hoàng luống cuống như vậy, Dự Thân Vương thể hỏi:

      “Như thế nào?”

      Ai cũng biết xảy ra chuyện gì, đợi khi Dự Thân Vương bước vào nhà khách Tu Hoàng, chỉ thấy cung nữ đứng lộn xộn trốn ở góc phòng, chăn màn, gối nệm đều bị quăng bừa bãi đất, mà Như Sương co lại bên mép giường run cầm cập. Dự Thân Vương thấy môi nàng tím ngắt, hàm răng đánh lách lách, dường như rét đến cùng cực. Trương Duyệt đánh bạo nhặt tấm chăn lên đắp lại cho nàng, cả người nàng vẫn còn run bần bật, như con thú co quắp thành đống.

      Dự Thân Vương đoán hàn độc phát tác, mà sư Trí Quang đúng lúc này lại còn phía đông thành phân kinh phát thuốc cho dân nghèo, có trong chùa. Đành phải buộc lòng nghĩ biện pháp khác, bèn sai người mang tới vài tấm chăn nữa, Như Sương vẫn lạnh đến phát run. Sau cùng đem vài chậu than tới đặt trong phòng, vừa mới bưng chậu than vào, Như Sương đột nhiên bật cười ha hả.

      Nàng bệnh lâu ngày, người gầy trơ xương, trông càng nhếch nhác gấp bội, lúc này cười để lộ hàm răng trắng nhởn, chăng khác nào bệnh nhân tâm thần. Thoáng cái thình lình xô ngã cung nữ, mọi người chưa kịp ngăn, chỉ nghe “cốp” tiếng, nàng đập đầu vào cây cột nhà, dòng máu tươi lập tức trào ra.

      Trương Duyệt cùng mọi người ai cũng kinh hoàng đến mặt cắt còn giọt máu, Dự Thân Vương xông lên trước bịt lại vết thương trán nàng, máu phun qua năm kẽ ngón tay, chàng đưa tay lên thăm dò hơi thở của nàng:

      “Vẫn còn thở.”

      Trương Duyệt bị dọa cho choáng váng đầu óc, chỉ có Đa Thuận là phản ứng nhanh nhẹn, vội vàng vốc nắm hương tàn trong lư, chạy đến cố gắng đắp lên vết rách trán Như Sương. Dự Thân Vương lại sai Đa Thuận chạy vào trong kho đem thuốc trị ngoại thương đến đây, Như Sương sớm hôn mê bất tỉnh.

      Trương Duyệt sợ hãi nước mắt nước mũi tùm lum, run rẩy quỳ xuống, :

      “Vương gia ban ơn . . .”

      Dự Thân Vương :

      “Thôi thôi, ai cũng ngờ ta tìm chết, đừng tự trách mình quá. Vả lại ta đứng ngay chỗ nay mà còn ngăn nổi, ngươi còn tội tình gì? Mau đứng lên .”

      Trương Duyệt vừa quẹt nước mắt vừa :

      “Ban ngày nương nương còn tốt như vậy, ai biết . . .”

      Dự Thân Vương nhớ lại vẻ mặt thảng thốt của Như Sương hồi nãy, hình như phát điên, chắc hẳn là bị hàn độc đày đọa đến mức đầu óc bất thường, nén được tiếng thở dài.

      Đợi đến ngày thứ hai, đại sư Trí Quang trở về chùa, qua xem xét thương thế của Như Sương, đích thân đến lại cho Dự Thân Vương:

      “Trung khí của nữ cư sĩ này đủ, lần này bị ngoại thương rất nặng, vết rách sưng đỏ, lại còn phát nhiệt, sợ là hết sức hung hiểm.”

      Từ hôm ấy trở , Như Sương vẫn mê man mãi tỉnh. Mỗi ngày đều sốt cao hạ, liên tục kéo dài đến mấy bữa như vậy, ngay cả thuốc thang đều trị nổi nữa, cứ trơ mắt nhìn mà vô phương cứu chữa, Trương Duyệt cùng mọi người cũng chỉ đành lặng lẽ chuẩn bị hậu . Ai dè qua thêm vài ngày, Như Sương đột nhiên tỉnh lại như kỳ tích. Trí Quang bất ngờ, thử kê lại vài toa thuốc, quả nhiên tĩnh dưỡng dần dần hồi phục. Chỉ là Như Sương sau khi mêm man tỉnh dậy, như kiểu mất trí nhớ, chỉ :

      “Đậy là nơi nào? Các ông mau mau đưa tôi về nhà .”

      Cung nữ thấy nàng như vậy, dè dặt :

      “Nương nương, ngài ở đây để dưỡng bênh. Chờ khỏi bệnh rồi, lập tức trở về trong cung mà.”

      Như Sương :

      “Nương nương? Sao lại gọi tôi như thế? Bắt ta vào trong cung làm cái gì?”

      Phát ngôn hồ đồ như vậy, phải là tinh thần và trí tuệ hoàn toàn biến mất. Vẫn biết lai lịch của bản thân, thế nhưng năm qua xảy ra đủ thứ biến động, Mộ thị tru di tam tộc, nàng vào cung, phong phi, phế vị . . . dường như đều quên sạch. Chỉ biết bản thân là con họ Mộ, cho lên thường xuyên tranh cãi ầm ĩ, khăng khăng là phải về nhà.

      Trương Duyệt dám khinh suất, bẩm báo lại tường tận với Dự Thân Vương, lại thỉnh sư Trí Quang đến khám bệnh lần nữa. Trí Quang ngồi trò chuyện hỏi han Như Sương cả buổi, sau mới lại với Dự Thân Vương rằng:

      “Vương gia, nương nương bị ngoại thương ở đầu quá nặng, chỉ e là mắc chứng thất hồn.”

      “Chứng thất hồn?”

      “Sách y dược của tiền triều chép rằng, có thương dân ở Tể châu là Vương mỗ, đốn củi bị cành cây đập mạnh vào đầu, tuy là tỉnh lại, nhưng toàn bộ ký ức của hơn mười năm trước đều quên hết, chỉ nhớ những chuyện hồi còn bé. Người ta đều gọi là chứng “Thất hồn”. Xem bệnh trạng của chứng thất hồn, so với tình hình nay của nữ cư sĩ, quả thực là giống y hệt.”

      Dự Thân Vương nghe thế, tuy là chưa bao giờ gặp qua, cũng chỉ hỏi:

      “Có phương pháp nào chữa trị hay ?”

      Đại sư Trí Quang :

      “Loại bệnh này bần tăng cũng từng thấy, bệnh này phải về kinh mạch, nếu có thần lực cực mạnh, chỉ e thuốc thường linh.”

      Dự Thân Vương thở dài:

      “Cái mà gọi thiên mệnh chính là đây.”

      Đại sư Trí Quang chắp tay niệm Phật:

      “Kiếp trước gieo nhân, kiếp này gặt quả. Nữ cư sĩ này nghiệp chướng chồng chất, quả báo như vậy, cũng phải là điều bất hạnh.”

      Dự Thân Vương nghĩ, việc này hẳn là cần bẩm báo lên Hoàng Đế, mọi tình tiết lớn , còn phải do chính mình viết ra, vì vậy trước tiên bèn đến nhà khách Tu Hoàng hỏi thăm.

      Vừa bước qua cổng viện, chỉ thấy trúc mọc bít bùng, nhìn xuyên qua bóng trúc, Như Sương ngồi mình dưới ô cửa sổ, chống má ngẩn ngơ mà nhìn vách núi. Bệnh của nàng dần hồi phục, dung mạo mặc dù bì kịp vẻ xinh đẹp của ngày xưa, nét tiều tụy vẫn còn vương khuôn mặt, nhưng nhan sắc thanh khiết tinh thuần, vẫn mang dáng dấp thiếu nữ con nhà khuê các.

      Dự Thân Vương nhớ có đôi dịp gặp Như Sương ở trong cung, đều bị ngăn cách bởi lớp son phấn dày dặn, về sau mấy lần khốn đốn vì bệnh tật dày vò, dáng vẻ còn bình thường. tại nàng áo trắng thuần khiết, cũng giống như bao thiếu nữ con nhà danh gia vọng tộc khác, dường như con người hoàn toàn thay đổi.

      Cung nữ bưng thuốc đến, xa xa bắt gặp Dự Thân Vương cùng Đa Thuận bước vào trong sân, vội vàng :

      “Tiểu thư, Dự Thân Vương tới.”

      Như Sương sau khi tỉnh dậy, chỉ cho người ta gọi mình là “Mộ tiểu thư”, Trương Duyệt cùng mọi người dám trái ý, sợ chọc nàng tái phát bệnh cũ, cho nên cũng đành gọi tiếng “Tiểu thư”.

      Như Sương nghe cung nữ báo lại, ngước mắt nhìn lên, quả nhiên trông thấy ngoài sân trúc xanh rậm rạp, có người đàn ông mặc áo đen chắp tay mà đứng, tướng mạo khôi ngô, tuấn như ngọc. Nàng đứng dậy chỉnh đốn trang phục, cách khung cửa sổ mà hành lễ, trong giọng dường như còn đượm vẻ sợ sệt:

      “Kính gặp Vương gia.”

      Từ sau ngày bị bệnh, giọng của nàng trở về như cũ, nghe trong trẻo mà dịu dàng.

      Sau đó, nàng theo tập quán như của các thiếu nữ chưa gả, thuận tay đưa chiếc quạt lụa lên che khuất phần khuôn mặt mình, chỉ lặng yên đứng cúi đầu, điệu bộ kính cẩn như mỗi lần gặp cha hoặc trai.

      Dự Thân vương nhìn nàng hành lễ, phong thái ngượng ngùng e ấp như thiếu nữ, thấp thoáng đâu đó hình ảnh của viên ngọc quý được nâng niu trong phủ họ Mộ khi xưa, lại nghĩ đến những lời của đại sư Trí Quang, ký ức mấy năm gần đây hoàn toàn biến mất, với nàng mà , hẳn cũng phải là bất hạnh. Trong lòng nén được thổn thức cảm khái.

      Chương 21: KHÓI NƯỚC THẨM SÂN SÂU LẠNH NGẮT

      Dự Thân Vương viết phong thư thuật lại sơ qua toàn bộ bệnh tình của Như Sương, sai người đem đến Thượng Uyển chỗ Hoàng Đế. Tức Hoàng Đế cũng có thư hồi đáp, trong thư hề đề cập đến Mộ thị, chỉ đơn giản là dặn chàng dưỡng bệnh cho tốt, ngoài ra còn kèm thêm vài tập sổ sách, phê là “Cho Dự Thân Vương xem kỹ”.

      Hóa ra là chuyện Duệ Thân Vương dẫn đại quân, dọc đường quấy nhiễu dân lành, rốt cục vào đầu tháng sáu cũng mò được đến Phồn châu, lực lượng đóng quân tại đó. Mà đô đốc Phồn châu là Lý Duyên đến trước đại trướng yết kiến, biết vì sao lại chọc giận Duệ Thân Vương, bị người của Duệ Vương kéo ra ngoài trướng dùng gậy mà đánh cho đến chết.

      Quân đội đóng giữ nơi Phồn châu thiếu chút nữa khởi dậy làm phản, may mắn vị phó tướng dưới trướng Duệ Vương nhận được điệp báo, bí mật bẩm báo lại. Duệ Thân Vương lập tức mệnh cho ba quân vây chặt, tước hết toàn bộ binh khí của vạn năm nghìn binh lính trong quân đội đóng giữ tại Phồn châu. Rốt cuộc còn chưa thấy mặt mũi đại quân của Kỷ Nhĩ Mậu ra làm sao, kịp bắt giữ nghìn năm trăm binh lính của quân nhà mình làm tù binh cách gọn lẹ.(bó tay^^)

      Dự Thân Vương cầm bản tấu chương đọc đọc lại mấy lần, mỗi lần xem, đôi mày lại càng nhíu chặt hơn phần.

      Đêm sớm khuyu, Đa Thuận trở vào mấy lần, song dám giục chàng nghỉ, chỉ có bưng trà rót nước. Sau cùng Dự Thân Vương cũng gấp bản tấu chương, mệnh Đa Thuận tắt đèn, bấy giờ mới ngủ.

      Tuy là nằm xuống, nhưng mấy chuyện chính trong triều vẫn còn luẩn quẩn trong đầu, lòng dạ ngổn ngang, mãi mà vẫn ngủ được. Bên tai tiếng mưa gió vẫn bịt bùng, chỉ cảm thấy toàn bộ thanh đều buồn tẻ, mưa giọt tí tách phiến ngô đồng, lạnh lẽo đìu hiu. Quả thực người xưa từng “Đêm dài gió trúc giục cành thu”[1].

      Cứ nửa tỉnh nửa mê như vậy, mỗi đêm chàng đều lên cơn sốt , lúc này nằm giường lại bắt đầu thấy nóng, trong mông lung chỉ cảm thấy ngọn lửa đèn dầu chập chờn rung động, rốt cuộc ban đêm vẫn ngủ nổi.

      ngủ được, nghe gian ngoài thanh hít thở đều đều của Đa Thuận thi thoảng ngưng lại, trong tiếng thở còn có tiếng ngáy, biết gã ngủ rất say, cũng muốn làm kinh động, tự khoác thêm tấm áo, kéo đôi giày, đoạn thong thả bước lại bên cửa sổ, đẩy cánh cửa ra. ngờ mưa thôi rơi, có ánh trăng cuối tháng rỉ qua tán ngô đồng chảy xuống đất, khắp sân trăng sáng như tuyết đọng, trong trẻo mà lạnh lẽo cả hồn người, trong thoáng chốc vì vậy mà hóa ngẩn ngơ.

      lúc xuất thần, chợt nghe có tiếng vi vu dìu dặt, dường như sáo mà hẳn sáo, tựa như tiêu lại chẳng phải tiêu, thanh trầm buồn tao nhã, xuyên qua rừng trúc, thấu qua màn trăng mà vẳng đến, làn điệu hết sức đơn giản, điệp lần lại ngắt ba lần. Chàng chăm chú lắng nghe hồi lâu, mới nghe ra đúng là khúc nổi danh thuở tiền triều, tên gọi ”U hoàng”.

      “Lẻ loi ngồi tựa khóm u hoàng

      Đàn ngân tiếng vẫn còn vang

      Rừng sâu núi thẳm ai hay biết

      Vầng trăng tri kỷ sáng ánh vàng.”[2]

      (Dịch thơ: Đông Y Lâm)



      Lời thơ được danh sĩ tiền triều phổ nhạc, nhất vịnh tam thán, cực kỳ phong nhã. Chàng vẫn thường nghe người ta đàn tấu, ngờ cải biên lại thành nhạc sáo, cũng u uất rung động lòng người đến vậy. Mà tiếng sáo ngắt quãng, thổi được lần, lại thổi lại từ đầu. Chàng kìm lòng được bước ra dưới hàng hiên mà lắng nghe, dưới thềm từng tụm cỏ huyên chen mọc, vương đôi tấm mạng nhện, mà khúc nhạc lại bắt đầu nổi lên.

      Mảnh trăng tàn trong sân ánh hàng cây ngô đồng, hơi lạnh thấm xương. Chàng lần bước theo tiếng nhạc dẫn lối, càng lúc nghe càng , dường như còn cách xa lắm. Lúc qua cây cầu trúc, trong tiếng suối róc rách lại lắng nghe, có vẻ ở ngay trước mặt, vì vậy bèn thẳng mạch. May mà có ánh trăng bàng bạc, chiếu lên dòng suối như thủy ngân, chảy tràn qua cả con đường lát đá.

      Vòng qua góc tường thấp tè, chỉ thấy bên tảng đá cạnh bờ suối, có thiếu nữ áo trắng tựa người vào phiến đá mà ngồi. Dưới ánh trăng, thấy nàng áo trắng còn hơn tuyết, tóc mây lõa xõa bờ vai, đen ánh như ngọc, mềm mại buông rủ đến tận gót chân. Khe nước tỏa mù uốn lượn, làn gió thoảng qua, lá trúc trong rừng lại xào xạc như mưa, thổi bay làn tóc mây cánh tay nàng. Lúc bấy giờ mới bắt gặp cánh tay nõn nà như ngọc, mà giữa đôi môi áp phiến lá trúc mỏng tựa phỉ thúy, khúc nhạc kia chính là từ phiến lá nàng dùng để thổi mà ra.

      Cách dòng suối ngóng qua, cũng tình này cảnh này, như mộng tựa ảo, mà bóng người trước mắt kia, là tiên hay quỷ, là hồ hay .

      Nàng ở kia khẽ ngước đầu, bắt gặp Dự Thân Vương, đưa tay tuồn mái tóc dài, lúc này mới lộ ra hai gò má nhợt nhạt, hề điểm chút hồng hào. Con ngươi đen trầm lặng, loang loáng như làn suối phản chiếu ánh bạc, chỉ khẽ động là vỡ tan thành ngàn vạn bóng trăng, hào quang lấp lánh ngừng.

      Chàng hoảng hốt :

      ra là .”

      Nàng đứng dậy, bỏ là trúc khỏi miệng, tiện tay phất cái, phiến trúc kia liền rơi vào trong dòng nước, nước suối dựa ánh trăng trông như thủy ngân, uốn lượn chảy về trước. Phiến lá trúc kia, cũng chỉ là nước chảy bèo trôi, xoay tròn theo dòng xoáy, vòng qua những mỏm đá nhấp nhô, chậm rãi trôi qua trước mặt chàng. Lá nhọn mà mỏng mắc vào sườn đá, nhưng chỉ trong chớp mắt, lại bị dòng nước cuốn theo, rốt cuộc cũng dần trôi về phương xa, nhìn theo mất hút.

      Nàng vẫn đứng nguyên nơi đó, tư thái thướt tha yểu điệu tựa nàng tiên, ánh trăng tàn cuối tháng phủ trùm lên thân hình của nàng, hình như còn có đám khói mây chiều ráng lững lờ bay quanh.

      Sau cùng, nàng thi lễ, trong giọng còn tia khiếp sợ:

      “Vương gia.”

      Dự Thân Vương thấy hơi được tự nhiên, bảo:

      cần đa lễ như vậy.”

      Trong chốc lát lời nào.

      Dự Thân Vương nghĩ đến thân phận tự thấy xấu hổ, đêm hôm khuyu khoắt, nam quả nữ với nhau quả thực quá mờ ám, bèn :

      “Đêm khuyu gió lạnh, bệnh mới dậy, vẫn nên mau chóng trở về thôi.”

      Dứt lời toan quay , ai ngờ Như Sương vội vàng kêu lên:

      “Vương gia.”

      Chàng dừng bước, Như Sương như cố lấy dũng khí, :

      “Xin hỏi Vương gia, vì sao cho Như Sương được về nhà?”

      Ánh trăng thuần sáng, rơi đầy mặt đất như thanh sương. Chàng ngẩn ngơ mà nghĩ, ra là thế.

      ra, nàng tên là Như Sương. . .

      Chàng :

      “Trong thành bệnh dịch hoành hành, cho nên mới để ở trong chùa tĩnh dưỡng.”

      “Nhưng mà . . .”

      Như Sương khẽ nhíu mày, dưới ánh trăng nhìn lại, hàng lông mày nhàn nhạt như được vẽ nét phấn xa xa, càng tôn lên đôi con ngươi như nước:

      “Qua ngần ấy ngày rồi, tại sao trong nhà vẫn ai tới thăm tôi?”

      là dịch chứng, đương nhiên tiện sai người đến thăm hỏi.”

      “Nhưng bà vú cùng Tiểu Hoàn, hai người ấy bất luận thế nào cũng bỏ mặc tôi. Mặc kệ tôi có bệnh gì, họ nhất định cũng theo tôi.”

      Dự Thân Vương khỏi im lặng, bởi vì trong con ngươi nàng ngấn ngấn bóng sáng chợt vỡ òa, chực khóc rồi:

      “Vương gia, ngài đừng gạt tôi . . . người trong nhà . . . người trong nhà tôi . . . đều chết rồi phải ?”

      Thấy chàng vẫn lặng im như cũ, nước mắt nàng tuôn rơi lã chã:

      “Có phải bọn họ đều bệnh chết, có phải ? Cho nên mới cho tôi về, cho nên tôi mới mình ở nơi này, có phải vậy ?”

      Dưới bóng trăng chỉ thấy lệ nàng rơi vạt áo, lấp nhánh những viên trong suốt như ngọc, Dự Thân Vương bỗng nhiên trả lời cực dứt khoát:

      “Phải.”

      Hít hơi, mới tiếp:

      đoán sai, bọn họ đều bệnh chết.”

      Chàng vốn muốn họ Mộ bị tru di tam tộc, nhưng nghĩ lại Như Sương bệnh mới khỏi, sợ nàng bị kích thích, cũng hiểu tại sao, lời chực tuôn khỏi miệng lại thay đổi ý định.

      Dù là như thế, sắc mặt nàng cũng thoáng chốc tái nhợt , trăng chiếu xuống, càng như còn chút tia máu. Ngay sau đó, thân mình lay động run rẩy, mềm oặt ngã đất rồi.

      Chỉ nghe thanh trầm đục vang lên, bọt nước bắn tung tóe khắp nơi, phân nửa người nàng ngập trong nước , cứ như đóa hoa cực rơi tõm vào nước, lập tức bị nước suối đánh tan rã rời. Dự Thân Vương chần chừ trong giây lát, chỉ sợ nàng bị ngạt mà chết, vì thế bèn nhảy vào dòng suối, vươn hai tay bế nàng lên. Nhưng khắp người Như Sương đều đẫm nước, lập tức cảm nhận được vạt váy ẩm ướt thẩm thấu khoảng man mát trước ngực mình, ngấm vào tận trong tim.

      Cơ thể nàng rất , ôm vào ngực chẳng khác nào đứa con nít, hai mắt nhắm nghiền, hiển nhiên là ngất rồi. Dự Thân Vương cứ ôm mình mẩy ướt sũng mà đứng như vậy, nhất thời cảm thấy khó xử vô cùng. Suy nghĩ lại, vẫn thấy tốt nhất là nên đưa nàng trở lại nhà khách Tu Hoàng, vì thế bèn ôm nàng bước nhanh về phía nhà Tu Hoàng. Bên ngoài, chỉ thấy khoảng sân thanh tĩnh, lặng lẽ tiếng động phóng qua tường gạch, nương theo trăng sáng mà phân biệt phương hướng, vòng qua vách núi đá, dọc theo đường mòn đến nơi ở của Như Sương.

      Cánh cửa gian buồng vẫn khép hờ, ở gian ngoài, cung nữ nằm giường ngủ say. Chàng bế người vào phòng ngủ gian trong, ánh trăng rỉ qua khe cửa sổ mà tràn vào, chiếu lên hai tấm màn màu bạc mắc trước giường, phản xạ ánh hào quang trong trẻo mà lạnh lùng.

      Chàng đặt Như Sương lên giường, giũ cái chan đắp cho nàng. tính xoay người, ai ngờ vừa mới nhúc nhích đôi chân, ống tay áo lại bị Như Sương đè người lên. Chàng cố gắng giật nhanh ra, tay dùng sức, thân hơi nghiêng, chẳng biết đụng phải cái gì treo trước giường, chỉ nghe “cách” tiếng, trong lòng trầm xuống, cung nữ ở gian ngoài choàng tỉnh, kêu lên:

      “Tiểu thư?!”

      Chàng thể lên tiếng, cung nữ kia thấy Như Sương trả lời, sợ có biến cố gì, liền muốn vào phòng ngủ kiểm tra. Dự Thân Vương nghe thanh ta soàn soạt đất tìm giày, trong lòng quýnh lên, mà Như Sương như cố tình lại đè lên phân nửa ống tay áo chàng, giật ra nổi. Phá cửa sổ mà ra kịp, nếu bị cung nữ mạo muội tiến vào bắt gặp, làm sao cho phải?

      Nghe kia kéo giày lệt xệt lên, tiếng bước chân càng lúc càng gần, thể nghĩ nhiều, xoay người nhảy thẳng vào giường, kéo tấm chăn lụa qua đắp người, tay trái gạt ngang, hai tấm màn bị gió từ tay chàng quạt mạnh, dập dờn bung ra, màn lụa xanh biếc lặng lẽ buông xuống. Cung nữ kia cũng bước qua tấm bình phong, lại khẽ khàng kêu tiếng:

      “Tiểu thư?!”

      Dự Thân Vương lo lắng bội phần, cách tấm mành thấy vẫn chưa tiến lên trước, bấy giờ mới hơi yên tâm, ngay lúc đó, thình lình nghe ở dưới vành tai có người khe khẽ thở dài. Dự Thân Vương khỏi chấn động, liếc mắt nhìn xuống, chỉ thấy con ngươi sáng ngời của Như Sương bình tĩnh nhìn mình.

      Cơn kinh hoàng này phải chuyện , chỉ xém chút nữa nhảy dựng lên phát hoảng, nhưng thân mình vừa mới nhúc nhích, nàng vươn hai tay ôm lấy chàng, dù chưa dùng sức, nhưng trong gang tấc ấy, bên mép tóc của nàng tỏa ra hương thơm tnh tế, ngấm vào tận trong phổi, như thể ăn mòn cả xương tủy. Trong nháy mắt toàn bộ sức lực của chàng hoàn toàn biến mất, vừa muốn động mà chẳng thể động.

      Nàng lại khẽ hắt hơi cái, hỏi:

      “Như Ý, động tĩnh vừa rồi là cái gì vậy?”

      Thanh lười biếng, làm như vừa mới bừng tỉnh trong giấc mộng.

      Cung nữ kia đáp:

      biết có phải là chuột nữa.”

      Nàng “ừm” tiếng gì nữa, có vẻ thiêm thiếp ngủ lại. Cung nữ thấy nàng chuyện, cũng tự giác lui ra ngoài.

      Qua khoảng thời gian chừng tàn nén nhang, nghe ở gian ngoài tiếng hít thở của cung nữ đều đều, ngủ say, chàng mới :

      buông tay.”

      Thanh cố đè nén , chỉ sợ làm người ở gian ngoài tỉnh lại. Hơi thở của nàng như hương lan, pha phả mặt chàng, giọng cũng lí nhí như muỗi:

      “Ta cố tình buông đấy.”

      Trong giọng điệu còn pha vài phần tinh quái của trẻ con.

      trán chàng toát mồ hôi lạnh, :

      muốn sống chăng, ta gọi người.”

      “Nếu lúc này Vương gia kêu lên, toàn bộ những người trong viện này đều sống nổi. Vương gia xưa nay là đấng hiền vương, tất muốn liên lụy người người vô tội, lại càng muốn liên lụy đến danh dự cao quý của Hoàng Thượng. Ta tuy là phế phi, nhưng nếu lan truyền ra bên ngoài, mặt mũi nhìn người chính là hoàng gia. Huống chi Hoàng Thượng với Vương gia như tay như chân, dĩ nhiên cũng thể để cho danh dự của Vương gia bị tổn hại.”

      Trong đầu chàng giống như sấm lằn chớp đánh:

      “Hóa ra hơn tháng nay, bệnh của đều là giả, cái gì mà chứng thất hồn cũng chỉ là giả, đều là diễn kịch!”

      Nàng khẽ cười nhạt tiếng, :

      “Cái gì là , cái gì là giả, đời này nào có cái gọi là thực cùng giả ràng như vậy. , , bảo nó giả, nó cũng giả.”

      giọt mồ hôi to như hột đậu thoáng trượt qua đầu mày của chàng:

      bỏ vào trong lư hương cái gì vậy hả?”

      có bỏ gì khác, chẳng qua là thêm chút Chu Linh. Hai ngày nay Vương gia bệnh tật ho lao chung quy là tốt, cho nên vẫn liên tục uống Xuyên Bối Mẫu. Chu Linh này vốn cũng chỉ là loại hương liệu hiếm gặp thế gian, nhưng nếu mà gặp được Xuyên Bối Mẫu, kỳ diệu thay lại có tác dụng cơ đấy. Ái chà, Vương gia, ngài nóng lắm sao, xem cái trán đầy mồ hôi này . . .”

      Giọng của nàng ngọt như đường mật, vươn ngón tay chậm rãi xoa cái trán đẫm mồ hôi của chàng.

      Ánh trăng chiếu vào phòng mờ ảo, trong màn lại càng thêm mông lung, mặc dù nhìn dung mạo của nàng, song vẫn xinh đẹp vô ngần. Dự Thân Vương chỉ cảm thấy khắp người như bốc cháy, dùng toàn bộ sức lực cuối cùng, thình lình “bốp” tiếng tát vào bên má nàng, thanh giòn giã vang vang. Như Sương giống như bị cái bạt tai của chàng đánh cho ngớ ra, tay đưa lên ôm má, tay chống thân mình nửa ngồi nửa dựa chỗ kia, lời nào. Chỉ nghe cung nữ gian ngoài trở mình, lại chìm sâu vào giấc ngủ.

      Dược tính bắt đầu phát tác, xem ra dồn toàn bộ sức lực, song hơi thở vẫn gấp gáp liên tục. Như Sương thong thả nghiêng mình nằm xuống, mềm mại, quấn quít, hôn lên môi chàng. Chàng chỉ thấy đôi môi nàng lạnh lẽo, giống như đuôi cá, bơi qua bơi lại tiếng động, mang theo hơi thở thơm mát, chạy tấm da thịt nóng bỏng của chàng.

      Trong đầu óc hỗn loạn của chàng còn tia lý trí cuối cùng, đưa tay muốn đẩy nàng ra:

      được . . .”

      Nhưng lời bị đôi môi của nàng phủ lên, tay chàng đặt ở bên hông nàng, cách lớp xiêm y ẩm ẩm mong manh, lòng bàn tay chạm vào da thịt trắng nõn mịn màng như phấn, còn sức mà đẩy ra nữa. Trong lồng ngực cơn dục vọng nổi dậy khát khao, mà nụ hôn của nàng khẽ như phiến lá, dán chặt đê mê.

      Nàng cứ từng nút từng nút mà cởi bỏ hàng cúc trước vạt áo chàng, luồn tay vào bên trong lớp áo của chàng. Lòng bàn tay nàng lạnh ngắt, dán nơi lồng ngực nóng bỏng của chàng, lập tức tình dục mãnh liệt nổi lên, khó mà ngăn nổi. Rốt cuộc nàng dời môi, nhàng cắn nơi đầu vai của chàng cái, chàng chợt hít sâu hơi, chỉ cảm thấy toàn thân máu nóng rừng rực sôi trào, sắp phá tung huyết mạch, bứt phá da thịt mà phun ra, hóa thành con thú dữ tợn, với hàm răng trắng nhởn như tuyết, tựa hồ chỉ muốn cắn xé hết thảy.

      Vầng trăng dần ngả về tây, lọt qua song cửa sổ, chảy tràn đất như dòng thủy ngân.

      . . .

      Sáng sớm hôm sau mưa lại tuôn xối xả, biển trúc rì rào sóng lớn. Ngày cuối thu trời ướm hơi lạnh, Đa Thuận cảm giác ngủ mê man, lúc tỉnh dậy chỉ thấy ngoài cửa sổ trời quang sáng , thầm than, hỏng rồi! ngủ quên giờ. Vội vội vàng vàng đứng lên sửa soạn, hầu hạ Dự Thân Vương. Ai ngờ mới bước vào gian trong, buồng ngủ im ắng, vắng tanh bóng người.

      Bên ngoài mưa giọt như dải tơ bạc, Đa Thuận mở ô lần theo con đường về phía trước, con suối hẹp ngập nước, dòng chảy rất xiết, thanh róc rách vang to. Vòng qua góc tường, rừng trúc càng ngày càng rậm, xa xa trông thấy bóng người đứng bên sườn vách núi đá, trong lòng vui vẻ, bước lên trước giương ô che, kêu tiếng:

      “Vương gia.”

      Dự Thân Vương “ừ” tiếng, Đa Thuận thấy quần áo của chàng ướt sũng, ngay cả tóc cũng nước giọt giọt, biết đứng nơi này bao lâu rồi. Vì thế lại bắt đầu lải nhải than vãn:

      “Vương gia mới khỏe lên được chút, lại chịu thương chính mình, thời tiết như vầy, đứng ngay dưới mưa lạnh, còn phải là muốn hành hạ bản thân hay sao?”

      Dự Thân Vương có vẻ kiên nhẫn nghe gã dong dài, bảo:

      về thôi.”

      Đa Thuận giúp chàng đưa ô, vài bước, Dự Thân Vương đột nhiên hỏi:

      “Hoàng Thượng hôm nay có sai người đến hay ?”

      Đa Thuận thưa:

      “Còn sớm lắm mà, Hoàng Thượng nếu có sai người đến, chắc cũng phải sau buổi trưa.”

      Bởi vì từ Thượng Uyển đến đây, phi ngựa cũng chỉ có hai canh giờ.

      Dự Thân Vương gì nữa, mãi đến buổi trưa, Đa Thuận mới cảm giác được khác thường. Dự Thân Vương sửa xong hết sổ sách, dáng vẻ vô cùng mệt mỏi. Đa Thuận rót ly trà dâng đến, vô tình đụng phải tay chàng, chỉ thấy nóng rực, khỏi cả kinh :

      “Vương gia, ngài bị làm sao thế?”

      Dự Thân Vương đáp:

      “Chỉ là nóng lên mà thôi, nghỉ chút được rồi.”

      Tuy là như vậy, nhưng uống thuốc vào rồi, lâu vẫn thấy hạ nhiệt, thậm chí liên tục ba bốn ngày sau vẫn hề thuyên giảm. Bệnh chàng vốn dần dần có chuyển biến tốt, chẳng hiểu sao bỗng dưng tái phát trở lại, uống chén thuốc rồi, cũng chẳng thấy hiệu quả là bao, trong lòng Đa Thuận khỏi sốt sắng.

      Hoàng hôn ngày hôm đó, mưa lại đổ xuống, chỉ nghe mưa táp lá trúc, sàn sạt vang lên, hơi thu hiu hắt càng nồng đượm. Đa Thuận sắc thuốc dưới mái hiên, chợt thấy cung nữ cầm ô, đỡ Như Sương tiến vào trong sân, vội buông cây quạt, bước lên đón, kêu:

      “Mộ nương.”

      Như Sương bệnh lâu mới khỏi, Đa Thuận thấy nàng chỉ mặc bộ áo kép màu mận chín, lấp ló bên dưới sắc váy xanh lơ, viền váy bị nước mưa thấm ướt phân nửa, sạch thuần khiết, toát lên vẻ gọn gàng tao nhã, chỉ hỏi:

      “Vương gia vẫn tốt chứ?”

      Đa Thuận mặt cau mày có, khe khẽ lắc đầu, :

      “Lại vẫn là tình trạng khi trước.”

      Dẫn Như Sương vào phòng, cách tấm mành bẩm:

      “Vương gia, có Mộ nương tới.”

      Dự Thân Vương còn nằm nhắm mắt dưỡng thần, Như Sương tự mình xốc mành lên. Đa Thuận vội phủ thêm áo choàng cho Dự Thân Vương, chàng bệnh, thiền phòng lại thô sơ, khoác áo ngồi giường, sắc mặt thoáng vẻ mỏi mệt.

      Như Sương tha thướt hành lễ:

      “Vương gia.”

      Dự Thân Vương im lặng phất tay, Đa Thuận cũng biết ý lui ra ngoài.

      Trong phòng yên ắng tĩnh mịch, chỉ nghe tán ngô đồng ngoài hiên soàn soạt mưa rơi, qua hồi lâu, Dự Thân Vương mới :

      “Rốt cuộc muốn thế nào?”

      Đôi mày thanh tú của nàng khẽ nhíu:

      “Ta hiểu ý Thất gia, ta làm cho Thất gia yên lòng là được.”

      Chộp lấy thanh kiếm của Dự Thân Vương bàn, “soạt” tiếng tuốt lưỡi, giơ ngang nơi cổ mình. Dự Thân Vương kinh hãi, ngờ được nàng có hành động như thế, kịp nghĩ nhiều, vươn tay muốn đoạt lại kiếm, ai ngờ Như Sương nắm cực chắc, cướp lại nổi, trơ mắt nhìn thấy mép kiếm cách cổ họng nàng quá nửa tấc. Chàng bật ngón tay trỏ cái, vốn mang bệnh nặng, hai lần động mạnh như thế cơ hồ vắt kiệt sức. Rốt cuộc cũng đẩy được mũi kiếm,”keng” tiếng kiếm rơi xuống mặt đất.

      Chàng vừa mới vận hết lực, lúc này hô hấp dồn dập, gập người mà ho khan, ho đến mức cả thân mình cũng run rẩy. Như Sương thong thả bước lên, vươn tay giống như muốn đỡ chàng, chàng hơi nghiêng thân hòng tránh khỏi tay nàng, lại ho đến nhăn cả trán, cũng được lời.

      Chàng ho đến lục phủ ngũ tạng đều quặn đau, cuối cùng ngưng hơi, gắng sức gạt tay nàng, giọng cực , gần như thể nghe ra:

      “Người đáng chết phải nàng, đáng chết là ta.”

      câu chưa hết, bỗng nhiên cảm giác có vị tanh ngọt, nhịn được phun ngụm máu tươi.

      Bên tai mơ hồ nghe tiếng kêu thất thanh của Như Sương, chàng chỉ cảm thấy đất trời chao đảo, đứng thẳng nữa, cuối cùng cũng rơi vào bóng tối mông lung mà mềm mại.

      **************************

      [1]Bài thơ “Ngọc lâu xuân kỳ” của Âu Dương Tu

      [2] Đây là bài “Trúc lý quán” của Thi Phật Vương Duy^^ ngờ ta với mẹ cũng có duyên nha, hồi chưa đọc Trăng lạnh ta kết bài này lắm rùi, h lại gặp trong truyện, sướng như điên.

    3. duongbaolien

      duongbaolien Well-Known Member

      Bài viết:
      4,670
      Được thích:
      1,610
      Chương 22: GIỌT NƯỚC TÍCH TẬN TẦNG MÂY THANH KHIẾT

      Chàng sốt cao hạ, bị bệnh nằm liên tục mấy ngày liền, mê man, khi mộng khi tỉnh. Trong mộng, dường như thanh sương chảy tràn mặt đất, trăng lạnh như sương. Dưới ánh trăng, thấy nàng áo trắng còn hơn tuyết, tóc mây lõa xõa bờ vai, đen ánh như ngọc, mềm mại buông rủ đến tận gót chân. Khe nước tỏa mù uốn lượn . . . Thình lình, giấc mơ của những ngay ấu thơ lại ùa về, thời tiết rất lạnh, rất lạnh, Tứ ca dạy chàng tập viết, cầm chiếc bút, giúp chàng nắn nót từng chữ . . . Nhưng trong điện giống như có vết nứt . . . Lạnh đến nỗi toàn thân chàng đều phát run. . .

      Chàng tỉnh lại từ trong giấc mơ hỗn loạn, Đa Thuận câu gì, chàng cũng nghe , bởi vì cả người đều nóng ran, lại nặng nề thiêm thiếp mê man.

      Rất xa rất xa có người gọi tên chàng . . . Định Loan . . . Định Loan . . . Hình như là giọng của phụ hoàng . . . Nhưng phụ hoàng chưa lần dịu dàng mà gọi tên chàng như thế . . . Nhất định là Tứ ca, hồi còn , cứ hễ đến thời khắc trong cung tổ chức tiệc mừng quốc khánh, chàng đều lặng lẽ trốn vào góc, thui thủi muốn gặp ai. Tứ ca luôn sai người khắp nơi tìm chàng, chàng chịu lên tiếng trả lời, mà thanh kia vẫn kiên nhẫn dứt “Định Loan” . . .

      Sau cùng chàng bồn chồn tỉnh giấc, mí mắt nặng nề hé mở, ngọn đèn dầu trong phòng như hạt đậu, bóng lửa chờn vờn, ngoài cửa sổ, tiếng mưa rả rích rơi, thu lạnh đến thế. Miễn cưỡng mở to hai mắt, thấy dưới quầng sáng mông lung, ra khuôn mặt cực kỳ quen thuộc, hoảng hốt cả kinh:

      “Tứ ca?!”

      Hoàng Đế là cải trang mà đến, Triệu Hữu Trí đứng ngay đằng sau. Thấy chàng tỉnh lại, Hoàng Đế đưa tay đè chàng nằm xuống, hòa nhã :

      “Nằm , đừng động đậy gì cả.”

      Chàng lại ngọ nguậy muốn đứng lên, Hoàng Đế vận sức vào tay:

      “Lão Thất!”

      Kỳ thực toàn thân mệt mỏi cùng cực, dùng hết sức vẫn bị Hoàng Đế cản lại, chàng rã rời đổ phịch lên gối:

      “Tứ ca . . . Sao huynh lại tới đây . . .”

      “Ta lo lắng lắm, cho nên đến thăm.”

      Hoàng Đế cười điềm đạm, mặt mày vẫn thản nhiên ôn hòa, tựa như vẫn là người luôn luôn dốc lòng che chở chàng của mười năm trước.

      “Đệ làm sao mà bệnh đến mức này?”

      Ngoài cửa sổ giọt mưa tí tách, gió thoảng qua lá trúc, Dự Thân Vương lẩm bẩm:

      “Trời mưa . . .”

      “Phải, trời mưa, ban đêm trời lạnh . . .”

      Hoàng Đế giúp chàng chỉnh lại chăn cho ngay ngắn, nhàng :

      “Bệnh của đệ đều là do quá cật lực mà ra, nghỉ ngơi thoải mái vài ngày, an dưỡng cho khỏe lại.”

      Trong lòng Dự Thân Vương run lên, kêu tiếng:

      “Tứ ca.”

      Hoàng Đế nắm tay chàng, hỏi:

      “Chuyện gì?”

      Chàng muốn lại thôi, cuối cùng chỉ :

      “Ý chí của Định Trạm , mọi Tứ ca đều phải cẩn trọng.”

      “Ta biết.”

      Khóe miệng Hoàng Đế khẽ cong, phảng phất ý cười lạnh:

      liều mạng dâng nửa giang sơn cho bọn giặc Hồ((thời xưa chỉ các dân tộc phía Bắc và phía Tây Trung Quốc), hẳn cũng muốn mưu đồ tạo phản.”

      “Con người Kỷ Nhĩ Mậu trời sinh tàn bạo giảo hoạt, kỵ binh tung hoành, Thiên triều phải liên tiếp tấn công mới có cơ may thắng.”

      Dự Thân Vương lại hổn hển hơi.

      “Định Trạm chỉ sợ là muốn dẫn sói vào nhà, trọng yếu nhất là hai châu Hoằng, Nhan.”

      Trấn thủ hai châu Hoằng, Nhan chính là Định quốc đại tướng quân Hoa Lẫm, vốn sầu não vì cố của Hoa phi lâu. Hoàng Đế tuy dùng nhiều phương thức hòng xoa dịu, thế nhưng Hoa lão tướng quân dường như kiên quyết, thời gian lâu liền đệ trình bản tấu xin từ quan về ở . Hoàng Đế vừa nhớ đến lại thấy nhức đầu, song trước mặt Dự Thân Vương cũng chỉ an ủi:

      “Hoa Lẫm tuy là cao tuổi, song cũng chẳng đến nỗi già mà hồ đồ, chuyện này đều phải gấp, đệ cứ an tâm mà tĩnh dưỡng là được.”

      Dự Thân Vương vốn phát nhiệt còn chưa hạ, thần trí uể oải đến cực điểm, gắng gượng chuyện cùng Hoàng Đế chốc lát, rốt cuộc lại mơ màng thiếp . Vì Hoàng Đế cải trang mà đến, ngoại trừ nội quan, chỉ dẫn theo cấm vệ quân trong ngự doanh làm hộ giá.

      Nhìn mưa rơi vội vã đêm thâu, gió thu mang hơi thu đều lạnh đến thấu xương, tiếng mưa lộp bộp rừng trúc, càng làm tăng thêm cảm giác quạnh quẽ, cũng thể trú lại chùa đêm.

      Cũng may Đại Phật Tự từ trước nay đều là nơi lễ Phật của hoàng gia, thiền phòng tăng xá sạch cũng thiếu, Trí Quang đại sớm sai người bố trí ổn thỏa. Triệu Hữu Trí đốc thúc tiểu thái giám dọn dẹp giường, lau dọn sạch , lại tự mình hầu hạ Hoàng Đế thay đổi trang phục. Hoàng Đế buồn ngủ lắm, ngồi dưới bậu cửa sổ, nghe bên ngoài kia mưa sa gió giật, tựa hồ thoáng ngẩn ngơ.

      Triệu Hữu Trí biết chàng lo lắng bệnh tình của Dự Thân Vương, dám lắm mồm khuyên bảo, chỉ chỉnh cho đèn sáng thêm, :

      là canh tư, thỉnh Vạn Tuế gia vẫn nên ngủ.”

      Hoàng Đế ừ tiếng, ngoài kia gió thét mưa gào, rừng trúc lay động trong rả rích, làm người ta cảm giác như sắp nổi lên phong ba bão táp.

      Chàng ngủ yên giấc, sáng sớm tinh mơ thấy tỉnh, mưa vẫn giọt giọt tí tách rơi quá nửa đêm, đến tận bình minh vẫn còn đọng lại chút dư , leng keng có tiếng chuông gió đầu hiên, càng như vọng lại hơi lạnh lắng lòng. Lại nhớ đến bệnh tình của Dự Thân Vương, vừa tỉnh dậy sai người hỏi, báo rằng Dự Thân Vương vẫn chưa tỉnh. Hoàng Đế lo lắng thôi, Triệu Hữu Trí thấy vậy khuyên nhủ:

      “Vạn Tuế gia vẫn nên khởi giá về Thượng Uyển thôi, ở trong chùa này cực kỳ bất tiện, vả lại kinh thành bệnh dịch tràn lan, Hoàng Thượng lại là cải trang đến, khiến lòng Thất gia chỉ có bất an.”

      Hoàng Đế nhìn mưa ngoài cửa sổ, :

      “Trẫm ra ngoài chút.”

      Triệu Hữu Trí biết làm sao, đành phải gọi tiểu thái giám lấy ô to bằng giấy dầu, nhắm mắt nhắm mũi mà theo đuôi Hoàng Đế. Hoàng Đế như tùy ý mà , dọc theo con đường lát gạch ngập nước hướng về phía nam. Vòng qua rừng trúc, xa xa trông thấy tòa tháp cổ màu gạch xanh, hình tháp như cây bút, thấp thoáng vài đám đỏ sẫm như lửa. . . chính là hai gốc cây thích đại thụ sau tháp, lá cây đỏ rực như bùng lên.

      Hoàng Đế chắp tay đứng lặng hồi lâu, ngưng mắt nhìn lá đỏ dưới chân tháp, biết nghĩ gì. Triệu Hữu Trí cũng chẳng dám nhúc nhích, chỉ là cánh tay cầm dù vừa tê vừa mỏi, lại dám lên tiếng. Ngay lúc còn biết làm sao, chợt thấy từ trong rừng trúc bóng người bước ra, khỏi lắp bắp kinh hãi.

      Hoàng Đế hình như cũng phát , quay đầu, chỉ thấy người kia áo trắng tóc đen, tay xách cái làn trúc nho , bên trong đựng đầy hoa cúc vàng, càng bước càng gần. Gót sen khoan thai, dung mạo so với hoa cúc kia lại càng trong trẻo mà lạnh lùng, Hoàng Đế chợt cảm thấy lóa mắt.

      Nàng bắt gặp Hoàng Đế đứng đó, nghiêng đầu khẽ liếc, bỗng nhiên hé cười, hai lúm đồng tiền lồ lộ. Cũng cầm quạt, bèn đưa cành hoa cúc lên che mặt, lúng liếng xinh đẹp, lại cúi đầu, về phía trước. Hoàng Đế vừa ngạc nhiên vừa nghi hoặc, buột miệng thốt lên:

      “Chậm .”

      Đôi mắt đen trầm lắng của nàng nhìn chàng, tràn đầy vẻ thắc mắc. Hoàng Đế rốt cuộc gọi tiếng:

      “Như Sương.”

      Đầu mày của nàng khẽ nhíu, qua lúc sau mới thẹn thùng cười. Trong lòng Hoàng Đế chấn động, mà khóe miệng nàng vẫn cười dịu dàng như thế. Vạt áo trắng hơi ẩm, càng làm tăng thêm vẻ mong manh yếu đuối, chỉ có sắc mặt là vẫn điềm đạm bình thản, tựa như rất lâu rất lâu về trước từng gặp ở nơi nào.

      Chàng thảng thốt nghĩ, chẳng lẽ là nàng?

      , là nàng, thể nào là nàng. thể nghĩ nhiều, mà cũng muốn nghĩ nhiều.

      Chàng ngước mắt nhìn lên hai bóng cây lá đỏ sau tháp, đoạn thấp giọng thào:

      “Hận mệnh ấy dài, mình quạnh quẽ, biết hay chăng.”

      Nàng cũng thuận miệng ngâm nga:

      “Lá cành liền nhánh tự bao thuở, chung mưa gió.”

      Hai câu này xuất từ tập thơ “Đề diệp tập” của Tiên hoàng Thắng Vũ Đế.

      Hơn mười năm về trước, thuở Hoàng Đế vẫn còn là hoàng tử, vốn thiếu niên tính hay tò mò, từng gạt thái phó(thầy dạy) đọc trộm cuốn từ tập này, bấy giờ thốt nhiên nghe nàng thuận miệng ngâm nga, trong lòng chấn động, dường như tự chất vấn, chỉ ngơ ngẩn nhìn nàng. Mà nàng thản nhiên như , khoé miệng nở nụ cười nhạt:

      “Truyền thuyết rằng hai gốc cây thích đại thụ này, chính là do Thắng Vũ Đế tự tay trồng, cảnh sắc mùa thu trong kinh thành, hàng năm vẫn lấy đó làm tiên phong.”

      Chàng hỏi:

      “Nàng rốt cuộc . . . nàng rốt cuộc là ai?”

      Nàng nhàng “ừm” tiếng, nhưng trả lời.

      Lòng bàn tay Triệu Hữu Trí sớm thấm đẫm mồ hôi lạnh, lúc này thấy sau lưng cũng hơi lạnh hiu hiu, ra ngay cả áo trong cũng ướt đẫm.

      Như Sương như nghe thấy, Hoàng Đế nhìn nàng đứng trong mưa, mưa phùn như tơ thấm ướt mái tóc mai của nàng, mà ngón tay thon thon của nàng như ngọc, vờn qua làn tóc , đôi mắt ngước lên, lại cười.

      Hoàng Đế cũng nhịn được mỉm cười theo, tiếp lấy ô trong tay Triệu Hữu Trí, vẫy vẫy nàng, :

      “Đến đây, cùng ta ngắt lá đỏ.”

      Như Sương vui vẻ đáp ứng, Triệu Hữu Trí muốn gì lai thôi, lại thấy Hoàng Đế xua tay ý bảo lão cần theo, đành phải đứng nguyên chỗ cũ,trơ mắt nhìn Hoàng Đế cầm ô, Như Sương đứng bên cạnh chàng. Hai người sóng vai mà , càng lúc càng xa, hơi nước mát dịu như sương, sau cùng qua ngọn tháp, mất hút.

      Hai gốc cây thích sau tháp, lá đỏ rực như ngọn lửa bùng cháy, Như Sương chỉ vận trang phục như nữ nhi khuê các, xiêm y áo lụa đều màu xanh lơ thuần khiết, đứng dưới lá đỏ, càng toát lên dáng người thướt tha yểu điệu. Nàng ngẩng đầu ngắt phiến lá, lá cây đỏ sẫm như máu, ghé bên sườn mặt, càng như tôn lên gò má rạng rỡ sắc trắng nõn nà.

      Hoàng Đế :

      “Quả thực chưa từng thấy nàng vận trang phục như thế này.”

      Miệng nàng khẽ nhếch, thoáng ý cười, Hoàng Đế bắt gặp trán nàng có vết thương mới chưa lành, vết thẹo hồng mờ nhạt, nhớ lại bức thư của Dự Thân Vương, trong ngực lại thoáng động.

      Như Sương bỗng quay mặt , khe khẽ thở dài. Hoàng Đế cũng hỏi, qua lâu, ngưng mắt nhìn giọt mưa rả rích tàng lá đỏ, đoạn :

      ra nàng cũng từng đọc “Đề diệp tập”.

      Nàng cúi đầu vuốt vuốt mặt lá trong tay, hàng mi dài buông xuống, chấp chới tựa cánh bướm run rẩy, giọng cũng rất , tựa tiếng thở dài:

      “Cũng chưa đọc xong được.”

      Chàng chợt hỏi:

      “Nàng có biết tập từ này vì sao gọi là “Đề diệp tập”?

      Mưa vương lá, đọng lại như sương, nàng lau bọt nước phiến lá đỏ, ngẩng đầu cười yếu ớt:

      “Tiên hoàng Thắng Vũ Đế dùng lá đề thơ, nên gọi “Đề diệp tập”.

      Hoàng Đế nhìn nàng, như thể trước giờ chưa từng biết nàng, khóe miệng khẽ cong, mặt cũng tỏ vẻ gì, chỉ nhìn nàng, hồi lâu sau, mới quay mặt , :

      “Lá đỏ này . . . nếu như đề lên mặt lá đỏ, quả thực là thích hợp.”

      Như Sương nhàng “ừm” tiếng, :

      “Người con ấy họ Diệp.”

      Đây là cấm kỵ trong cung hơn mười năm qua, Hoàng Đế nghe nàng bỗng nhiên đề cập, chỉ thấy tiếng mưa rả rích vang lên, mưa rơi càng lúc càng nặng hạt. Giọng Như Sương thỏ thẻ, như hòa vào trong tiếng mưa:

      “Bởi vì hận nước thù nhà, bảo nàng phải cư xử như thế nào đây? Dù cho hai trái tim cùng nhịp đập, tình sâu tựa bể, cuối cùng cũng tránh khỏi dứt áo đoạn tình, bất cần ra .”

      Nửa người nàng ở ngoài ô, đầu vai thấm ướt, Hoàng Đế thể nắm lấy tay nàng, kéo nàng vào sát mình, chỉ cảm thấy bàn tay nàng lạnh ngắt.

      Giọng điệu Hàng Đế buồn bã như thở dài:

      “Ký ức ngày trong Tây Giác này, trúc sâu tựa bể, lá đượm lá tình, mới hay chợt bừng cơn mộng.”

      Câu mà chàng ngâm chính là lời bạt trong “Đề diệp tập”, hai người đứng dưới tán ô, lặng nhìn hai gốc cây đỏ lạ, trong khoảnh khắc ngôn từ đều tan biến.

      Hai người đều biết Diệp thị cuối cùng tự vận mà chết, mà Thắng Vũ Đế trị vì suốt hai mươi năm trời hề bước chân đến Đại Phật Tự nửa bước. Mãi tới về già trọng bệnh, mới hạ lệnh cho người xây dựng tòa tháp trong chùa, sau đó thân hành tới chùa, tự tay vun trồng hai gốc cây thích bên sườn tháp.

      Mỗi đợt thu về, hai cây thích đại thụ luôn luôn là báo hiệu trời thu bằng những tàng lá đỏ rực, nhen lên khắp kinh thành Tây Trường cảnh sắc thiên thiên thu rực lửa. Bởi vì hai cây lá đỏ nồng đượm, đứng kế bên những hàng phong từa tựa lại càng nổi bật lên sắc nồng cháy, cho nên được nhân gian gọi là Huyết Thích.

      “Chính tại nơi này Diệp thị tự kết liễu sinh mạng mình, trong cung vẫn truyền nhau nghe rằng, bởi vì bóng thích được nhuốm máu nàng, cho nên mới mang màu đỏ kỳ lạ đến thế.”

      Hoàng Đế ngước mắt nhìn chuông đồng bên góc tháp, tiếng leng keng hưởng trong gió:

      “Xây tòa tháp như vậy, có làm được cái gì?”

      Bắt gặp đôi con ngươi sáng như sao của Như Sương nhìn mình, thoắt nhiên hứng thú rã rời:

      lời vô nghĩa như vậy, cũng nhất thiết phải trả lời.”

      Mưa bụi điểm lạnh, thoảng hoặc có làn gió vờn qua mặt, Như Sương chỉ nhìn chàng, trong đáy mắt vô thương vô bi, cũng chút hỉ nộ ái ố, cứ đơn giản là nhìn chàng như vậy.

      Chàng nhớ lại cơn dông đêm ấy, chớp lằn rạch ngang như xé toạc bầu trời, sấm nổ đùng đùng kéo theo bóng đêm vô cùng vô tận, mình đứng lặng lầu thành, tường thành cao cao bao bọc, hết thảy đều bị bóng tối mịt mờ mông lung nuốt chửng.

      Chính là như thế, hóa ra, đúng là như thế.

      Cuộc đời như bàn cờ, sớm nắng chiều mưa, có ai ngờ trong chốn u minh sáng tối lại định sẵn là thế. Chắng qua quá mệt mỏi, mỏi mệt chồng chất dâng lên từ tận sâu đáy lòng, chàng nhàn nhạt :

      “Cùng trẫm về kinh thôi, mặc kệ nàng có phải quên hay , trẫm cũng luôn hy vọng nàng đứng ở bên cạnh mình.”

      Như Sương vẫn đáp, đôi con ngươi như nước, loang loáng bóng sáng. Nàng ngoảnh đầu nhìn lá đỏ, trong cơn mưa bụi rả rích kéo dài, hai ngọn cây như hai bó đuốc, thiêu đốt cả tầm mắt con người.

      **************************************

      Như Sương tựa hồ quên hết toàn bộ việc trước kia, sau khi trở về Thượng Uyển, đối với mọi người cũng đều nhớ gì, cái tính bướng bỉnh kiêu ngạo trước đây dã còn, giờ trở nên ôn hòa rất nhiều.

      Triệu Hữu Trí tuy là lo lắng trùng trùng, song Hoàng Đế vẫn lạnh nhạt như trước, cũng khôi phục lại danh phận cho Như Sương. Nàng ngày ngày vẫn ra vào cung Chính Thanh, có vẻ giống phi tần, lại mang dáng dấp của nữu quan. Mọi người trong cung đều xấu hổ biết xưng hô với nàng ra sao, chỉ đành gọi “Mộ nương”, dần dần về sau lại thành “Mộ nương”.

      Hoàng Đế đối với nàng mặc dù còn cưng chiều cách vô cớ như trước, song cũng đặc biệt khác xa so với tất thảy trong hậu cung, thường xuyên ở bên bầu bạn.

      “Chiêu nghi nương nương nếu so đo, trước mắt nghiệt kia chính là mối tai họa của hậu cung, nương nương thoạt tiên biết, họ Mộ kia ngày xưa bày kế độc cưỡng chết Hoa phi, bức điên Hàm phi, hại chết Tình phi, cư nhiên về sau bá chủ cả hậu cung, trong đây ai ai mà biết ta chính là con đàn bà tâm địa rắn rết?”

      Người dần dần nghiêng mình qua, khe khẽ như thầm:

      “Nương nương nếu thừa dịp chỗ đứng của ả chưa vững, tay quét sạch, bằng hậu hoạn về sau e khó lường.”

      Chiêu nghi Ngô thị nửa ngồi nửa dựa lò sưởi, mái đầu nghiêng nghiêng, bối tóc đen nhánh như ngọc lưa thưa lõa xõa, cây trâm nạm vàng mười hai nhánh gài ngang bím tóc, sợi tua màu hoàng kim được kết tinh xảo thoáng đong đưa, làm ánh lên những đợt sóng màu vàng kim lấp lánh. Nghe người ta trình bày mối nguy cơ có vẻ nguy ngập như thế, ta cũng chỉ vươn cánh tay, những ngón tay ngọc ngà thanh thoát che đôi môi đào ngáp cái, vẻ mặt lười biếng:

      “Rồi sao?”

      “Rồi sao ư?”

      Người dường như thoáng bất ngờ, chần chừ :

      “Nương nương, ả ta là đồ nghiệt.”

      nghiệt?”

      Trục Hà như cười như .

      “Hình như ta nghe người ta , trong cung này cũng thường gọi ta là nghiệt cơ đấy.”

      Người kia tái mặt, gượng gạo kêu lên:

      “Nương nương . ..”

      Đôi môi hồng của Trục Hà hé mở, buồn để ý gọi tiếng:

      “Người đâu!”

      Hai gã nội quan theo gọi mà vào, nàng tiện tay chỉ:

      “Tên này châm ngòi ly gián, thể lưu lại, tha ra ngoài cho ta.”

      Hia gã nội quan lập tức tiến lên bắt người, kẻ kia hoảng hốt kêu lên:

      “Nương nương! Nương nương ban ơn . . . nương nương . . .”

      Rốt cuộc cũng bị tha ra ngoài, hình như bị nhét cái gì vào miệng, tức khắc còn nghe thanh nào vọng lại. Giây lát trong điện trở về yên tĩnh, chỉ có cái lư đốt hương là cứ phun ra hết đun khói này đến đụn khói khác. Trục Hà vươn tay, chậm rãi xoa xoa đỉnh lư hương vòng, hoa văn tinh xảo nhẵn nhụi, trơn mát bàn tay.

      Nghĩ ngợi thất thần, đoạn kêu:

      “Huệ nhi, thay quần áo.”

      Huệ nhi giúp đứng lên, cười bồi :

      “Nương nương muốn dạo vườn chút?”

      “Chúng ta thăm Mộ nương cái.”

      Huệ nhi :

      “Nương nương, Vương gia dặn dò, chưa được hành động thiếu suy nghĩ.”

      Trục Hà đáp:

      “Ta biết chứng mực.”

      Như Sương là phế phi, còn chưa được phục vị, cho nên cũng chỉ ở nơi gian vũ phòng, tuy là bày biện sạch , song giữa phòng cũng chỉ có cái giường. Trục Hà vừa mở cửa bắt gặp Như Sương ngồi dưới cửa sổ thêu hoa, cái khung thêu giăng ngang bên khung cửa. Trong phòng cũng có bao nhiêu chỗ trống, nghe tiếng bước chân, nàng quay đầu lại nhìn. Thấy Trục Hà vịn lấy Huệ nhi mà bước vào, Như Sương cũng chưa đứng dậy, lại tiếp tục cúi đầu mà thêu.

      Trục Hà thấy nàng đnag thêu hoa mai, mai đen, tuồn những sợi tơ đen lên nền gấm trắng, hai màu đen trắng phân minh, trông như bức thủy mặc. Tà tà mấy nhánh, phía lại treo lơ lửng diềm trăng lạnh lẽo, sắc trăng kia cũng cực nhạt, thêu dát như bức họa. Phương thức đưa mũi kim cực kỳ linh hoạt, kỳ thực thiếu nữ con nhà thế gia vọng tộc trong kinh thành đều là tay thêu thùa cực giỏi, mà con Mộ gia, đương nhiên ngoại lệ.

      Như Sương vẫn cứ thản nhiên cúi đầu mà thêu, Trục Hà ngồi bên mé giường, làm ý ra hiệu, Huệ nhi liền đóng cửa lại, chính mình đứng canh bên ngoài.

      Trong phòng cực im ắng, tựa hồ còn nghe được cả tiếng kim khâu đâm xuyên qua tấm vóc, qua hồi lâu, Trục Hà mới cười:

      “Mộ nương là có đôi tay khéo léo, chẳng trách Hoàng Thượng thích như thế.”

      Như SƯơng mỉm cười:

      “Chiệu nghi thời danh vị cao nhất cái hậu cung này, dĩ nhiên Hoàng Đế lại càng thích hơn nữa.”

      Trục Hà :

      “Thôi, nơi này cũng chẳng có người noài, hai người chúng ta hẳn cũng phải xa lạ đến mức đó chứ?”

      Như Sương thờ ơ như , vẫn cúi đầu tiếp tục thêu.

      “Ngày đó ra là Vương gia bày kế hãm hại cùng Kính Thân Vương, có điều KÍnh Thân Vương là em trai cùng mẹ với Hoàng Thượng, nếu có chuyện như vậy, động đến tuyệt được. Trong lòng cũng phải hiểu, nên oán Vương gia. Huống chi thời cũng yên ổn mà ở trong này, Hoàng Đế đối đãi với , cũng chưa nảy sinh hiềm khích gì.”

      Nhụy hoa rất , kim càng , sợi tơ mà xẻ àm bốn phần, nếu cẩn thận, xé bị đứt. Như Sương luồn chỉ, hơi hơi dẩu miệng, chăm chú cần thận kéo sợi chỉ ra .

      “Vương gia muốn tôi truyền đạt câu, nếu chịu sửa lại ý định, Vương gia cũng như trước, toàn tâm toàn ý hỗ trợ cho .”

      Cuối cùng Như Sương cũng ngẩng đầu lên, lạnh nhạt :

      “Mấy tháng gặp, Chiêu nghi nương nương quả nhiên khiến người ta phải nhìn với cặp mắt khác xưa.”

      Con ngươi nàng cực đen, phải gọi là hai tròng mắt sánh nước, phản chiếu bóng Trục Hà toàn thân vận áo gấm hoa mỹ, mà dưới đáy đen thẳm kia tựa như lấp lánh ánh vàng kim chói lóa, khẽ liếc:

      “Ta oán Vương gia, càng oán hận .”

      Trục Hà mỉm cười:

      “Tôi biết trong lòng thấu hiểu.”

      “Hoàng Thượng kỳ thực là con người thông minh hiếm có, vì tiết kiệm sức mình, thường ưa mượn đao giết người.”

      Như Sương cúi đầu thêu hoa, sắc mặt điềm tĩnh mà chuyên tâm, tựa như chính mình chỉ tự tại mà ngồi trong khuê phòng:

      “Vương gia thời tuy có binh quyền trong tay, vẫn phải đề phòng cẩn thận từng bước, từng bước, thể vọng động.”

      Trong tay Trục Hà nắm tấm khăn thêu hoa hải đường vàng kim, xoắn chặt nơi đầu ngón tay:

      “Đại được thu xếp cả rồi, tuyệt đối sai sót.”

      Như Sương ung dung mà thêu từng cánh hoa mai, động tác nhàng, dường như kia chẳng pahỉ thêu, mà chính là thảo từng nét họa, sắc đen tấm vóc tựa như mây khói nhuốm đẫm, đáy mắt nàng nét cười:

      đời này nào có cái chuyện tuyệt đối sai sót, huống chi, tại nương nương nhẫn tâm xuống tay sao?”

      Trục Hà dường như vừa hít ngụm khí lạnh, chưa kịp gì, chợt nghe gian ngoài Huệ nhi ho khan hai tiếng, biết có người đến, lập tức phát ra lời nào, chỉ nghe tiếng bước chân lộn xộn, nàng kêu “Huệ nhi”, cũng thấy ai trả lời. Vừa đẩy cửa ra nhìn, thấy nội quan vậy quanh Hoàng Đế trong chốc lát bước nhanh vào trong viện, ki[j suy nghĩ nhiều, buộc lòng uyển chuyển bái lạy, khéo nở nụ cười tươi:

      “Hoàng Thượng.”

      Mấy ngày nay nàng chưa gặp Hoàng Đế, sắc mặt Hoàng Đế vẫn hòa ái như vậy, ra ý cho hai bên đợ nàng đứng dậy, đoạn hỏi:

      “Sao nàng lại tới đây?”

      “Nô tì đến thăm Mộ nương, chỉ sợ mình sống ở trong này, e thiếu người chăm sóc.”

      Hoàng Đế cười cười:

      “Nàng làm việc quả chu toàn.”

      Quay mặt về phía Như Sương:

      ngờ nàng trốn trong phòng mà thêu hoa, bất quá trẫm chỉ đùa câu, lại làm chuyện phí công như vậy, thời tiết lạnh, thân thể nàng khỏe, đừng để cho mình lại mắc bệnh.”

      Như Sương nhoẻn miệng cười:

      “Thần thiếp đáp ứng với Hoàng Thượng, huống hồ nhàn rỗi cả ngày, thêu thùa âu nó cũng để giết thời gian.”

      Trục Hà :

      “Phương pháp thêu này quả thực nô tì chưa từng gặp qua, nghĩ Mộ nương còn có tay nghề cao như vậy, nô tì ngưỡng mộ còn muốn sau này học hỏi đôi điều.”

      Hoàng Đế nhìn hai người sóng vai mà đứng, dưới song cửa sổ chúm chím cười xinh, tươi đẹp là thế, quả thực chẳng khác nào cặp song sinh, kìm được mỉm cười.

      Chương 23: ĐIỆN NGỌC TINH THUẦN GIẾNG NGỌC LẠNH LẼO

      Đợi đến lúc Dự Thân VƯơng lành bệnh cơn rét đậm rét hại cũng kéo đến.

      Sau mấy trận tuyết lớn, rốt cuộc dịch bệnh trong thành cũng dần dần mai danh tích trong khí trời giá rét, đại dịch qua, ngay cả trong cung cũng trơ lại vẻ tiêu điều tịch. đại lộ cấm mênh mông thẳng tắp, chỉ lác đác đôi tiếng bước chân xền xệt vang tai, tựa hồ đạp nát cả cái tĩnh mịch ngút ngàn.

      Bọn tiểu thái giám quét tuyết sớm đứng núp ru rú trong góc, bởi vì lạnh, gió cuộn những đám tuyết cuồng lên đập tới tấp vào mặt, đau ê ẩm.

      Đến cửa Định Hòa xuống ngựa, nội quan sớm đứng đợi để nghênh đón, thấy chàng thở phào hơi:

      “Vương gia, Hoàng Đế ở trong noãn các phía đông.”

      Tiểu thái giám xốc mành, uồng hơi ấm phả vào mặt, thoang thoảng hương hoa thơm ngát đan xen, trong noãn các bày ngập hoa cúc và những đóa mai hái sớm, đều là thứ hương thơm ngây ngất lòng người. Trong phòng ấm áp, cho nên Hoàng Đế cũng chỉ mặc tấm áo bào kép, trông qua hình như hao gầy đôi phần, khiến người ta cảm giác có sức sống, thấy chàng tiến vào, lại cười cười , :

      “Lão Lục quả nhiên cũng có chút bản lĩnh đấy.”

      xấp tấu chương còn điểm lốm đốm màu đen, Dự Thân Vương tiếp lấy, mới biết ra là vết máu, khô từ lâu, máu đỏ đông lại giờ chuyển sang sắc đen. Nét chữ viết tháu rất cẩu thả, hiển nhiên là gắng gượng đôi nét cuối cùng trong tình thế hiểm nghèo . . . Dự Thân Vương đọc lướt qua,xem xong, lại giở lại từ đầu, đoạn mới ngâm cứu tỉ mỉ từng câu từng chữ, trầm mặc lên tiếng, sau cùng thả bản tấu chương trở lại bàn.

      Hoàng Đế :

      “Quân phản loạn qua Bàn châu, lâu hướng về nam, trước là sông Mân, Định Trạm . . .”

      Chàng cười lạnh mấy tiếng:

      “Ha ha, đến mới là mau đó.”

      Sắc mặt u ám:

      “Lão Thất, rốt cuộc trẫm tính sai bước rồi. Trẫm cứ nghĩ cấu kết cùng Kỷ Nhĩ Mậu, cùng lắm cũng tống cổ bọn giặc Hồ đó về bên ải Định Lan mà thôi, nhưng ngờ ngay cả tổ tiên cũng bất chấp, cuối cùng còn hứa hẹn cắt sáu quận phía bắc Định Lan cho quân Kỷ Nhĩ Mậu, hòng mượn binh vay lương mà tác loạn, cũng chẳng sợ bêu danh cho đời.”

      “Thần đệ có thỉnh cầu”

      Dự Thân Vương :

      “Thỉnh Hoàng Thượng cho Định Loan dẫn binh nghênh địch, san bằng quân phản loạn.”

      Hoàng Đế nhíu mày.

      “Quân doanh trong kinh đô ta cũng thể giao cho ai khác, chỉ có đệ.”

      Dự Thân Vương :

      “Thần nhất định dốc hết khả năng.”

      Hoàng Đế lại :

      “Quân đội trong kinh chỉ có mười vạn, mà loạn quân còn gấp mấy lần đó, ấy trận này tất hung hiểm khó lường.”

      Chàng thở dài,trng giọng dâng đầy hối hận:

      “Chỉ tại trẫm quá khinh suất, lần dụ rắn xuất hang này lại quá tay, để cho thừa cơ tương kế tựu kế.”

      Dự Thân Vương chỉ đáp:

      “Hoàng Thượng sai, sớm ấp ủ mưu làm phản, vừa rồi để cho bọn giặc Hồ nhập quan ải, chính cũng là kẻ tội nhân thiên cổ của Đại Ngu. Hoàng Đế thay trời hành đạo, ắt thắng là thể nghi ngờ.”

      Hoàng Đế gật đầu, đoạn :

      “Chủ soái Kỷ Nhĩ Mậu luôn luôn đeo mặt nạ, trong đó tất có kỳ quái. Mội lần trinh thám dò la trở về, cũng được câu cho đích xác. Trẫm cảm thấy nghi ngờ chồng chất, huống chi ngày nay Định Trạm cùng cấu kết, việc khích lệ tinh thần chiến đầu là cần phải .”

      Dự Vương đáp:

      “Thần đệ hiểu.”

      Nguyên là tình hình nguy cấp, cho nên bộ Lễ phải nhanh chóng chọn ngày lành gần nhất, làm lễ suất ấn(giao binh quyền), Hoàng Đế thân chinh đưa tiễn ba quân ra tận cổng Thắng Môn, mười vạn binh sĩ trong quân doanh kinh thành rầm rầm rộ rộ xuất phát, kinh đô cùng ngoại ô chật ních hầu như còn nửa khoảng trống, Dự Thân Vương sợ trong kinh có biến, trước khi khéo léo khuyên nhủ hết lần này lượt khác, rốt cuộc Hoàng Đế cũng phải cho triệu hồi đứa em ruột Kính Thân Vương, mệnh cho thống lĩnh ngự lâm quân.

      Kính Thân Vương trải qua chuyện lần trước trở nên lão thành rất nhiều, sau khi phụng chiếu về kinh hết sức cẩn trọng, tuân theo lề lối quy củ răm rắp. Lại kiêm việc lúc bấy giờ chiến tranh nổi dậy, lòng bách tính trong kinh thấp thỏm yên, mội ngày chàng đều tự mình điều khiển đội tuần tra trong thành.

      Ngày hôm đó là hai mươi tám tháng chạp, nha môn trong kinh thành đều đóng cửa nghỉ ngơi, trăm họ muôn dân cũng tất bật sắm sửa ăn tết. Tảng sáng hôm ấy tuyết rơi, đầu đường cuối phố đều chìm ngập trong bùn tuyết, Kính Thân Vương tuần thành trở về, đôi ủng sớm ướt sũng. Vừa mới tháo cương ngựa, chợt thấy Từ Trường chậm chạp tiến vào, thân vận bộ trang phục vải dầu màu xanh, lúc hành lễ mà lạnh đến sắp đóng băng:

      “Vương gia.”

      “Sao ngươi trở lại rồi?”

      Kính Thân Vương kìm được hỏi.

      “Hôm nay phải là ngươi trực sao?”

      Từ Trường đáp:

      “Hoàng Đế cho truyền Vương gia tiến cung.”

      Lại tiếp:

      “Nghe có quân cấp bào về, có vẻ phải tin tốt lành.”

      Kính Thân Vương đội gió tuyết mà vào cung, Hoàng Đế ucng kông ngồi trong phòng ấm điện Chính Thanh nữa mà đứng đợi sẵn ngoài cửa rồi, Kính Thân Vương trông thấy xa xa mưa tuyết lất phất làn bụi,tán ô phấp phới, bức tường loan giá trong mười bước đứng lặng im, nhóm nội quan đầu đội mũ đứng nghiêm nghị xung quanh, đầu vai đều đọng tầng tuyết mỏng, cũng chẳng biết Hoàng Đế dứng đó bao lâu. Vì thế lập tức bước lên thi lễ, sắc mặt Hoàng Đế vẫn bình thường như cũ, :

      “Đứng lên .”

      Giọng điệu ôn hòa, ánh mắt vẫn rơi vào khoảng tuyết bạt ngàn trước cửa điện Chính Thanh, sau hồi lâu mới với Kính Thân Vương:

      “Bốnmới vạn loạn quân vào đến Phổ Lan.”

      Mà Dự Thân Vương bất quá cũng chỉ suất lĩnh có mười vạn quân, Kính Thân Vương chỉ thấy má lành lạnh, hóa ra có bông tuyết nhàng vo thnah vô tức đậu mặt chàng, chàng đựa tay gạt , :

      “Dự Thân Vương dụng binh như thần, tuy là địch mạnh ta yếu, song cũng rơi vào thế hạ phong.”

      ***************************************

      Hoàng Đế cười tiếng:

      “Khó mà nghe được ngươi khen cậu ta câu.”

      Kính Thân Vương đáp:

      “Thần cũng chỉ ăn ngay .”

      Hoàng Đế :

      “Bồi trẫm dạo , đợt tuyết đẹp như vậy.”

      Kính Thần Vương đành lĩnh mệnh, Hoàng Đế lệnh cho Triệu Hữu Trí cùng đám nô tì đều đứng yên chỗ cũ, chính mình lững thững dọc theo con đường chạy về hướng đông. Kính Thân Vương cắm đầu cắm cổ mà sau chàng. Tuyết rơi càng lúc càng nặng hạt, chỉ lát sau, toàn bộ cung điện xa xa đều biến thành màn trắng xóa những lầu quỳnh điện ngọc.

      Hoàng Đế đôi ủng da tuần lộc, giẫm lên vũng tuyết đọng vang lên tiếng lóc tóc, lát, thẳng đến trước cửa cung Song Thái, Hoàng Đế lúc bấy giơ mới dừng bước, :

      “Định Vịnh, những năm gần đây trong lòng ngươi hẳn rất oán hận trẫm?”

      Kính Thân Vương còn để đầu óc bay bổng đâu đâu, chợt nghe những lời ấy, chỉ thưa:

      “Thần đệ dám.”

      Hoàng Đế thở dài, :

      “Đại Ngu ta khai triều hơn ba trăm năm, trải qua hơn mười cuộc phản loạn lớn , mỗi lần đều kết thúc bằng máu chảy đầu rơi, nội bộ bất hòa, em thanh toán lẫn nhau, ngươi hiểu.”

      Kính Thân Vương vẫn lặng thinh.

      Hoàng Đế lại tiếp:

      “Những năm gần đây, ta đối xử lạnh nhạt với đệ, thậm chí còn thân thiết bằng lão Thất, kỳ thực là muốn tốt cho đệ, cũng chính là tốt cho trẫm, giữ cho cả hai đường lui.”

      Kính Thân Vương lúc này mới ngẩng đầu lên, có vẻ hoang mang nhìn Hoàng Đế.

      Hoàng Đế mỉm cười, chỉ vào dãy cửa hang bên cửa Song Thái, đoạn :

      “Đệ còn nhớ hồi còn bé, ta vẫn thường đưa đệ tới đây bắt dế mèn ?”

      Khi đó Kính Thân Vương cùng lắm mới năm tuổi, Hoàng Đế mới mười hai, mỗi ngày đều phải cung Cảnh Thái thỉnh an mẫu phi. Định Thuần lớn hơn, buổi chiều nếu có giờ học, liền dẫn Định Vịnh theo ra phía ngoài cửa Song Thái chơi đùa. Khoảng thời gian ấy có lẽ là thời kỳ thân mật nhất của hai em, về sau tuổi càng lớn, hai người dần dần trở nên xa lạ, thể nào còn trở lại như ngày xưa.

      Lúc này đứng ngay trước cửa điện Song Thái, từng bông tuyết cứ rơi trong thầm lặng, phóng tầm mắt ra xa, những chóp ngọc lưu ly kéo dài bất tận màu trắng xóa, ngay cả đỉnh hang cũng đều phủ tầng tuyết mỏng manh. Gió thổi khẽ phất vạt áo bào khâm của hai người, góc trời phía tây cũng nặng trĩu những đụn mây xám xịt, hơi tuyết càng nặng

      “Mây đèn đè lên tường thành như thể muốn phá sập ấy.”

      Sau cùng Hoàng Đế thở dài đánh thượt, :

      “Tuyết rơi dày, chúng ta vào trong uống ly rượu thôi.”

      Cứ ngày mồng tám tháng chạp Hoàng Đế lại ban thưởng ly rượu chống hàn cho hoàng thân quốc thích. Ngày hôm đó Kính Thân Vương cũng uống hai chén. Tửu lượng của chàng vốn cao, lại thêm mấy ngày liên tiếp vất vả, vừa mới hồi phủ lập tức say ngã chỏng vó mà ngủ khì khì, chợt lại bị người hầu đánh thức, báo rằng:

      “Vương gia, Lý tướng quân sai người đến, có việc gấp cầu kiến Vương gia.”

      Bởi vì phong ấn, chỉ có thể là quân lệnh khẩn cấp mới có cách hành xử như thế, trong lòng Kính Thân Vương trùng xuống, chỉ sợ nơi thành Phổ Lan có tin chẳng lành, vội vã cho truyền gặp.

      đến gồm hai người, đều vận áo choàng màu phẩm xanh, người trước vẫn chưa hề cởi mũ trùm đầu, lập tức khom mình thi lễ:

      “Thỉnh Vương gia cho tả hữu thối lui cả .”

      Thanh the thé, ràng là gã nội quan.

      Kính Thân Vương tỏ ý ra hiệu, người hầu hai bên đều lặng lẽ lui ra ngoài. Người trước lúc bấy giờ mới lùi lại vài bước, tên còn lại chẳng ừ hử câu, lúc này cởi mũ trùm ra, chỉ thấy đôi con ngươi lấp lánh sáng quắc, trong trẻo đến rực rỡ chẳng khác nào tuyết trằng ngoài cửa sổ, mà áo choàng dài cũng thể nào che đậy được vóc người, đích thị là thiếu nữ thanh xuân.

      Kính Thân Vương kìm được hít ngụm khí lạnh, mãi nửa ngày mới nghe cái giọng cứng ngắc của chính mình vang lên, hỏi:

      rốt cuộc là người phương nào?”

      “Tôi là người chốn nào cũng chẳng quan trong”

      nở nụ cười yếu ớt mà xinh đẹp.

      “Tôi biết trong lòng Vương gia vẫn luôn luôn canh cánh mối nghi ngờ, cho nên hôm nay đến xin được giải thích.”

      Kính Thân Vương thoáng lặng im, bỗng nhiên ngẩng mặt lên nghiêm nghị:

      “Mặc kệ là ai, bây giờ phải mau mau mà rời khỏi nơi đây , bản vương coi như chưa từng biết là được.”

      kia thản nhiên cười, xinh đẹp tựa làn gió xuân phất qua lòng người, giọng càng thêm hòa nhã êm tai:

      “Vương gia lẽ nào thực muốn biết, Hiếu Di Hoàng Thái hậu chết như thế nào?”

      Kính Thân Vương như chấn động toàn thân, ngay cả mặt cũng biến sắc, quát lên:

      “Ngươi to gan, chớ có ở đây mà tà thuyết mê hoặc kẻ khác, gây chia rẽ tình thân giữa em bọn ta.”

      cười :

      “Té ra Vương gia vốn đoán được đôi điều, cũng phải trước nay hoàn toàn có nghi ngờ, chỉ là, còn chưa biết tôi định gì.”

      Kính Thân Vương đáp:

      “Bất kể muốn gì, dứt khoát đều phải .”

      cười cười:

      “Vương gia cần chi phải tự lừa mình dối người như vậy, cho dù tôi đây là hươu vượn, hẳn cũng điều gì đó thể nào giả được.”

      Lấy từ trong tay áo ra cuốn lụa vàng, đưa tới trước mặt Kính Thân Vương. Chỉ thấy ngón tay nàng trắng ngần, cầm chặt cái trục bằng ngọc của cuốn sách lụa, màu da tay so với sắc ngọc kia dường như chỉ là :

      “Vương gia, vật này, ngài có thể thong thả mà xem, là là giả, chính ngài tự nhận ra.”

      Sắc mặt Kính Thân Vương tái mét, dường như biết trong tay nàng là thứ gì, chỉ là đủ sức mà chìa tay ra tiếp, mãi nửa ngày, mứoi nghiến răng :

      “Ta xem!”



      ***************************************

      cười phì tiếng:

      “Thường nghe người ta ca ngợi Vương gia, đều Vương gia là bậc thiếu niên hùng, tài cán gan dạ đều thua kém Dự Thân Vương. Đáng tiếc hôm nay mới gặp, cũng chỉ là như vậy mà thôi.”

      đến đây, trong giọng điệu hàm chứa mỉa mai:

      “Ngay cả di chiếu của tiên hoàng cũng chẳng dám liếc mắt nhìn cái, quả thực là uổng phí cái phận con cháu hoàng tộc Đại Ngu.”

      Sắc mặt Kính Thân Vương càng lúc càng tái nhợt:

      “Đây nhất định là giả mạo chỉ dụ Hoàng Đế, tiên hoàng bạo bệnh mà qua đời, căn bản thể có di chiếu.”

      “Đây phải di chiếu của Mục Tông hoàng đế, mà chính là di chiếu của Hưng Tông hoàng đế.”

      Hai tròng mắt của nàng loang loáng tinh như mặt nước, chăm chú nhìn chàng, tựa hồ là gằn lên từng tiếng:

      “Đương kim Hoàng Đế ngại bức tử mẹ đẻ của mình là Hiếu Di Hoàng Thái hậu, chẳng qua là muốn cướp đoạt trang di chiếu này, chẳng lẽ Vương gia ngài, tại ngay cả dũng khí liếc qua cái cũng có?”

      Khóe miệng Kính Thân Vương run run, tuy là cảm thấy giận dữ cùng chê trách, song thốt nên được lời. Thình lình vươn tay ra, giật lấy trang chiếu thư. Cố gắng bình tâm lại, cuối cùng chậm chạp mở ra, chỉ thấy nét chữ quen thuộc cứ từng câu từng câu mà ra trước mắt. Bút tích ấy chẳng quá thân quen rồi sao?

      Vốn chư hoàng tử ngày còn bé được tập viết, Hưng Tông hoàng đế đích thân viết những tấm thiếp mẫu, để chúng hoàng tử viết theo. Lúc này nét bút kia giống như trảm khắc vào tận xương máu, nét chữ tròn đầy phóng khoáng, lại quen thuộc đến nhường ấy.

      Giọng lạnh lẽo như băng:

      “Vương gia cần thận mà xem xét, đây lẽ lại chính giả mạo chỉ dụ Hoàng Đế?”

      Kính Thân Vương chỉ thấy mấy con chữ trang chiếu thư nhảy nhót di động, vặn vẹo như muốn thức giấc, có lẽ đây phải nét chữ, mà là dòng nước xoáy vĩ đại, phăng phăng cuốn trôi hết thảy những vật cản đường.

      Chàng chỉ thấy đầu óc quay cuồng, kìm được hỏi:

      “Rốt cuộc muốn cái gì?”

      thời phải là thiếp thân muốn gì, mà chính là Vương gia pahỉ làm như thế nào. Phụng chiếu hay phụng chiếu. Chả lẽ ngay cả di mệnh của tiên hoàng Vương gia cũng đòi kháng chỉ?”

      Kính Thân Vương nghiến chặt hàm, qua hồi lâu mới :

      “Huynh ấy là trai ta.”

      phì cười:

      “Thời điểm Lục gia giao thứ này cho tôi, từng ‘Thập Nhất đệ của ta tuy là con người ngay thẳng chính trực, song cũng thoát khỏi cái lòng dạ nhu nhược của đàn bà’ ,quả nhiên!”

      Giọng chậm lại:

      “Vương gia mềm lòng, đáng tiếc người kia thời điểm phái người đầu độc chết mẹ đẻ của mình, chỉ e cũng chưa từng mềm lòng.”

      Cơ bên mà Kính Thân Vương tựa hồ giật giật, hai mắt trợn ngược, vẻ mặt thoáng làm người ta khiếp hãi, sau cùng thanh cũng trở nên lạnh lẽo u ám đến đáng sợ:

      “Ngươi bậy!”

      “Nội quan, cung nữ hầu hạ Thái hậu đều bị chôn theo, lế này vốn cũng hoàn hảo như áo tiên chẳng thấy vết chỉ khâu. Chỉ có mình Tiểu Triệu là người pha thuốc cho Thái Hậu, trước khi chuyện bất hạnh xảy ra mắc thương hàn, sớm nằm liệt giường chờ chết. ngờ mệnh gã còn dài, đến này thê nhưng vẫn còn sống.”

      quay đầu vẫy vẫy tay, nội quan kia liền chậm chạp tiến lên từng bước, khom người lĩnh mệnh.

      “Vương gia nếu tin, có thể hỏi Tiểu Triệu là biết.”

      Nội quan kia có vẻ kinh hãi, cúi đầu kêu tiếng “Thập Nhất gia”. Kính Thân Vương chỉ cảm thấy trong lồng ngực như phong ba bão táp đổ bộ, phiền muộn khôn xiết. Nhớ lại buổi chiều hôm nay trước cửa Chính Thanh, hành động lời của Hoàng Đế, nhất cử nhất động hình như đều có dụng ý. ta thực cắn rứt lương tâm, hay là cố ý lợi dụng, hòng lừa gạt chính mình cả cuộc đời?

      Tính chàng vốn thẳng thắn, hôm nay gặp đại như thế, chỉ cảm thấy máu nóng phập phồng, thực khó mà kìm nén. Đến nay ngàn cân treo sợi tóc, chính mình thân bất do kỷ bị cuốn vào vòng xoáy của mạch nước ngầm, dù thịt nát xương tan cũng chẳng màng, mà hết thảy đều quá đột ngột đến đáng sợ, tay siết chặt bản di chiếu, cũng biết nên thế nào là phải.

      Sắc trời dần dần ngả tối, trong phòng chỉ nghe mỗi than cháy trong lò nổ tí tách, tựa như vô tình vuốt vuốt làn tóc mây, :

      “Thiếp thân hẳn cũng nên thôi, nếu mà chậm chận e cửa cung khóa mất.”

      Kính Thân Vương rốt cuộc hạ quyết tâm:

      “Có chuyện ta muốn hỏi . . . ngày ấy ở ngoại thành, người trong xe là sao?”

      Dứt lời nhìn chăm chăm, hình như là muốn tìm tòi khuôn mặt ấy chút manh mối.

      chỉ cười đáp, tiện tay rút vài cánh mai cắm trong bình, từ phía xa ném về phía chàng, hoa đáp ngay lồng ngực, trong nháy mát làn hương thơm ngát lành lạnh ddào dạt cõi lòng. cười xinh đẹp, thản nhiên mà quay , giữa căn phòng hương thơm phảng phất đưa tình, hình như có mà lại như .

      Ánh lửa than trong lò nháy sáng, phản chiếu lên mười hai tấm bình phong nhũ vàng vẽ cảnh sơn thủy họa đồ. Núi vàng ngọc bích cùng dòng thác khảm xà cừ tấm bình phong lấp lánh sắc màu, gió luồn qua ô cửa giấy kêu phần phật, chàng chỉ cảm giác chính mình như lạc vào cõi mộng.

      Tuyết càng rơi càng nặng hạt, đợi đến khi trời tối hẳn, chỉ nghe gió bắc gào thét liên hồi, ngọn tuyết đập vào cửa sổ giấy, sàn sạt lay động. Tuy có long giường ấm áp, trong phòng vẫn phải để thêm vài chậu đồng đựng than, cho nên trong phóng hơi ấm ngập tràn.

      Trục Hà chỉ khoác hờ tấm áo cẩm bào dệt kim như ý thêu hàng trăm đóa sen, tựa vào bên lò sưởi mà chăm chú thêu tấm hoa văn theo kiểu tân thời. Dáng vẻ dạo gần đây luôn luôn uể oải, khi cũng vui tươi hớn hở, có lúc lại cáu kỉnh cách kỳ quái. Mội lần phát tác cơn giận, mấy ngày liền ngay cả nội quan thân cận chỉ cần đụng chuyện nho cũng đều lôi ra mà đánh, cho nên bọn cung nữ nội quan đều im thin thít dám động đến .

      Hoàng Đế vốn đôi giày tuần lộc, bước của chàng lại , mãi tận lúc đến ngay bên cạnh, mới :

      “Còn sợ lạnh cóng hay sao?”

      Trục Hà như bị giật mình, cung nữ bưng khay trà đứng bên sớm quỳ xuống, lại lười biếng di động, chỉ :

      “Tuyết lớn như vậy, ngày kéo lê thê, chàng còn tới chỗ thiếp làm gì. Người của thiếp tay chân đủ linh hoạt, chàng vừa tới, bọn họ lập tức cuống quít cả lên, còn hơi đâu mà lo lắng cho thiếp.”

      Hoàng Đế đưa tay nhấc cằm , dưới ánh nến rực rỡ diễm lệ, càng toát lên màu da nõn nà, chàng lại nhéo ta cái:

      “Nàng hôm nay đúng là ngược đời, người trong cung đều mong ngóng trẫm, chỉ có nàng là chưa gì vội vội vàng vàng tống cổ ta .”

      Trục Hà nghiêng mình dựa vào bên lò xông hương, nửa cười nửa :

      “Chàng cũng chỉ là dỗ thiếp mà thôi. Hôm nay Mộ nương còn được Đại Phật Tự dự lễ tạ thần, thiếp lại chẳng có cái phúc phận kia, héo hắt trong thâm cung này, có chơi được chỗ nào.”

      Hoàng Đế cũng như cười như :

      “Nếu nàng muốn chơi, vậy chờ đến tết Nguyên Tiêu (><) chúng ta lén xuất cung xem người ta đốt đèn.”

      Trục Hà than tiếng:

      “Lén lút có cái gì hay, người ta có thể quang minh chính đại mà lễ tạ thần, thiếp chỉ có nước vụng trộm mà xem cuộc vui.”

      Hoàng Đế nhìn nắm chặt cái khung thêu, càng siết càng chặt, siết đến nỗi gần như muốn xé toạc ra, trông có vẻ tức giận, bèn :

      “Nhiều ngày qua nàng cứ đeo cái bộ dạng này, phải là ghét bỏ ta đấy chứ?”

      Trục Hà cười nhạt:

      “Cũng dám.”

      Lại tiếp:

      “Chính chàng mới chỉ thuận miệng mà dỗ thiếp thôi, Nguyên Tiêu còn lâu mới tới, tính đợi được cho đến ngày đó, chừng chàng lại có chuyện này chuyện kia, vứt thiếp quẳng xó.”

      Hoàng Đế bỗng nhiên bật cười:

      “Cũng cần chờ đến ngày đó, tối hôm nay chúng ta ra ngoài dạo là được.”

      Trục Hà thoáng rùng mình, Hoàng Đế lại thúc giục:

      “Mau mau thay quần áo, bên ngoài lạnh, tuyết còn rơi, phải ăn mặc ấm áp chút mới được.”

    4. duongbaolien

      duongbaolien Well-Known Member

      Bài viết:
      4,670
      Được thích:
      1,610
      Chương 24: GIÀ CẢ BIẾT ĐỜI PHÙ DU

      Mặc dù còn chưa đến giờ giới nghiêm ban đêm, song trời tối, tuyết lại rơi nhiều, đầu đường cuối ngõ vắng vẻ thê lương, còn bóng người nào lại phố, chỉ có bánh xe lăn long lóc, nghiền lên những đụn tuyết phát ra tiếng sàn sạt.

      Hoàng Đế thế mà vẫn cực kỳ hăng hái:

      sớm nghe danh món cháo Tịch Bát[1] của Bạn Hương Các tuyệt hảo, hôm nay chúng ta nếm thử.”

      Bạn Hương Các nằm đầu con ngõ ở mé đông thành, vòng qua con đường lớn, xa xa thấy trước lầu treo hai ngọn đèn lồng đỏ cực lớn, chiếu lên mặt tuyết. Khắp lầu đèn đuốc sáng trưng, tiếng cười xôn xao vọng rất xa.

      Nghe thấy tiếng xe, tiểu nhị sớm đứng ở cừa chờ đón, buộc dây cương, đoạn bắc ghế ra hầu xuống xe. Hoàng Đế bước xuống, quay người lại vươn tay đến. Trục Hà ngược lại có vẻ ái ngai săn sóc của chàng, ngập ngừng chốc lát mới trao tay cho chàng, dè dặt cẩn trong xuống xe.

      Gã tiểu nhị thế mà lại có mắt sắc, sớm thấy tuy chỉ là xe ngựa du hành bình thường, song con ngựa kéo xe toàn thân đen tuyền màu, chỉ có bốn cái vó là bạc trắng, cực kỳ đẹp đẽ duyên dáng.Lại bắt gặp lúc Hoàng Đế duỗi tay ra, bên dưới áo choàng lộ góc tay áo cẩm bào da thuộc, sắc da chồn đen bóng như satanh, lập tức biết ngay đôi nam nữ này phải hạng giàu có bình thường, tươi cười nịnh nọt:

      “Hai vị đại gia, quả thực có lỗi, phòng tốt lầu đều đầy, nếu hai vị đây có đặt chỗ, trước xin thỉnh xem thẻ số.”

      Hoàng Đế nào nghĩ còn có chuyện như vậy, khỏi thoáng giật mình, tiểu nhị nhìn sắc mặt của chàng, vội vàng tiếp:

      “Hai vị nếu phái quản gia tới đặt chỗ, cũng cần gấp làm gì, phía sau lầu hai vẫn còn căn gác hết sức chỉnh tề, thanh tĩnh thông thoáng, hơn nữa còn đối diện với vườn mai hậu viện, uống rượu thưởng tuyết quả còn gì hơn. Chỉ là giá so với phòng tốt bình thường nhỉnh hơn chút, năm lạng bạc.”

      Hoàng Đế lại thoáng giật mình cái nữa, đoạn :

      “Vậy lấy gian đó .”

      Tiểu nhị cười rạng rỡ, “úi chà” tiếng, cầm đèn lồng trươc dẫn đường. Cũng hề bước vào lầu chính, chỉ dọc theo hành lang lát gạch thẳng ra phía sau, vòng qua vách giả sơn. Bước vào cửa tròn, mới thấy cái lầu , mái cong vểnh góc, lan can sơn màu son lúc này bị tuyết phủ. Dưới hành lang treo dải bốn chùm đèn thạch , làm cả tòa lầu càng bừng sáng như lầu quỳnh điện ngọc.

      Tiểu nhị dẫn tới nơi lập tức khoanh tay lui ra, lại có người khác xuất , dẫn bọn họ lên lầu. Tiểu nhị hầu phòng nhanh chóng xốc mành lên, hơi lò sưởi lập tức phả vào mặt, thoảng thoảng còn có làn hương lững lờ. Quả nhiên bên ngoài cửa sổ có vài gốc hoa mai, hoa đến độ nở rộ, đáng tiếc đây là buổi tối. Mông lung có ánh tuyết trong trẻo lành lạnh ánh lên, trông được ràng lắm.

      Đợi hai người ngồi xuống, dùng khăn tay vắt làn nước ấm, tẩm ướt hoa quả đĩa, sau đó lại đổ trà vào pha. Hoàng Đế tùy ý gọi vài món ăn, tiểu nhị thưa:

      “Khách quan xin chờ chút, đồ ăn lập tức lên ngay.”

      xong lui ra ngoài, đóng cửa lại.

      Trong phòng lập tức yên tĩnh, chỉ nghe củi đốt trong chậu than thi thoảng lách tách. Hoàng Đế thấy trong đĩa quả có hạt giẻ phơi, thuận tay nhón lất hạt tách ra.

      Trục Hà bỗng nhiên cảm thấy trong bụng khó chịu, hình như là đói, lại hẳn đói, chỉ cảm thấy dạ dày như sắp bị phỏng, mà trong phòng quá ấm, khiến người ta hơi khó thở. Vì vậy bèn đứng lên tiến lại bên cửa sổ, đẩy cánh cửa ra ít, gió lập tức lùa vào, thổi cho cái chao đèn bàn lắc lư như muốn tắt.

      Khắp phòng bóng sáng chập chờn Trục Hà thấy ngọn đèn lắc lư sắp tắt, định đóng cửa sổ, ai ngờ chàng lại “phù” cái thổi tắt luôn đèn, lập tức ánh tuyết tỏa đầy phòng, tựa hồ là ánh trăng. Trời đất yên ắng động tĩnh, chỉ nghe ngoài cửa sổ thanh tuyết rơi nho , chi chít tướng những cái bóng mờ mờ xiêu vẹo. Ánh tuyết phản chiếu bóng cành mai vào phòng, chạc cây chùm hoa cũng đều in mồn , hơi lạnh thấm qua da thịt, dường như khắp trời đều sắc hoa mai.

      vốn khoác tấm áo choàng màu xanh lơ bên ngoài áo trong da cáo, hoa mai đầy tường in bóng lên quần áo , ngỡ như những cánh hoa tối màu in nền trắng. Tay vô thức xoa xoa tấm da cáo dài mà mịn, cảm giác ấm lan tỏa nơi ngón tay, nhưng nháy mắt tan biến chẳng còn dấu vết, cách nào mà nắm bắt nổi.

      Hoàng Đế vẫn ngồi kia, cơ hồ xuất thần, cũng tiếng. Mọi thanh trong trời dất giống như trong phút giây đó đều ngưng đọng, chỉ còn lại gió thổi tuyết bay, hiu hiu như ai khóc.

      Có lẽ qua cả nửa cuộc đời, mới nghe được tiếng bước chân, té ra là tiểu nhị bưng đồ ăn đến.

      “Ai, sao đèn lại bị gió thổi tắt thế nhỉ?”

      Châm lửa, thắp đèn sáng lại. Tức khắc gian phòng bừng sáng như trước, đồ ăn đều được bày lên, đủ loại cơm canh thịt cá trưng đầy bàn, so với thức ăn trong cùng thường ngày khác biệt rất lớn. Trong đó có món là dưa chuột muối giòn tươi, rất , vẻn vẹn to bằng đầu ngón tay, độ dài chỉ chừng như cây trâm cài đầu của con . Tiểu nhị :

      “Đây là món tủ của bản lầu đấy, Hoàng Kim Trâm, đừng trông trái dưa leo như vậy, chứ giá trị của nó cũng chẳng thua cây trâm báu đâu. Những ngày tuyết lớn này, dùng lò nóng mà ủ mấy tháng trời mới ra được, độc nhất vô nhị trong kinh thành, ngay cả lão Hoàng Đế ở trong cung cũng chưa từng được nếm món này đâu đấy.”

      Hoàng Đế cười cười, với Trục Hà:

      “Có nghe kìa, ngay cả Hoàng Đế cũng chưa được ăn đâu đấy.”

      Trục Hà nếm miếng, vị chua chua ngọt ngọt giòn tươi rất ngon, nhịn được ăn liền hai quả, lại thấy tiểu nhị bưng lên bình rượu Thiệu Hưng vừa hâm nóng, bèn tự tay rót chén mà uống. Nuốt xuống ngụm, chỉ cảm thấy vừa lạt vừa cay, kìm được mấy tiếng ho khan.

      Hoàng Đế :

      “Nàng đừng uống rượu gấp quá, tốt cho thân thể.”

      hiểu sao, chỉ cảm thấy muốn nổi nóng, buột miệng thốt lên:

      “Chàng đây là thương thiếp, hay là thương người nào đó vậy?”

      Câu hỏi vừa ra khỏi miệng, chính mình cũng như ngây dại, chỉ thấy Hoàng Đế chậm rãi nở nụ cười, như thể thực thấu tâm can. rốt cuộc thấy chua xót trong lòng, đặt đũa xuống.

      Hoàng Đế quay lại gọi tiểu nhị:

      “Quách sư phụ của các ngươi có ở đây sao? Đồ ăn này cảm giác như đúng vị.”

      Gã tiểu nhị cười nịnh đáp:

      “Hóa ra quan nhân đây là khách quen, còn biết Hoàng Kim Trâm này chính là món tủ của Quách sư phụ . . . Quách sư phụ già bị bệnh hơn năm, thời làm đầu bếp chính là cháu của lão, “tiểu Quách sư phụ” đó.”

      xong lại rót ly rượu cho Hoàng Đế, Hoàng Đế cũng hỏi nhiều, phất tay bảo gã lui ra, bản thân nhấc chén lên mà uống.

      Hai người ngồi đối diện bàn lớn bày biện đủ đồ ăn, đều chỉ yên lặng uống rượu. Uống đến cạn, Hoàng Đế cảm thấy hơi men bốc nóng tận vành tai, chợt :

      ngờ nàng cũng biết uống rượu cơ đấy.”

      Trong lòng Trục Hà khó chịu, cười cười:

      đời này có chuyện gì là , chỉ có chuyện thể mà thôi.”

      Hoàng Đế im lặng lát, đoạn :

      “Suy cho cùng, đúng là đời này có chuyện gì là , chỉ có chuyện thể.”

      Lại nhấp thêm chén, tự tay cầm cái bình, lại thấy bình rỗng , bèn gọi to:

      “Tiểu nhị, thêm rượu!”

      Kêu nửa ngày, chẳng hiểu sao vẫn nghe ai trả lời, chàng bỗng nhiên nổi hứng, cầm đũa gõ vào cái đĩa, hòa thanh cùng gió tuyết ngoài cửa sổ kia:

      “Thơ vạn ý

      Chung rượu ngàn

      Tước hầu vương nào đáng phải màng?

      Lầu ngọc gác vàng lười trở lại

      Say Lạc Dương mai nở vừa sang.”

      (Giá thiên – Chu Đôn Nho – dịch thơ: Đông Y Lâm)

      Đoạn ngửa mặt cười sảng khoái, đôi con ngươi sáng ngời, dưới bóng đèn tựa như đêm thâu chưa vãn, đen thẳm sâu hút khôn lường, lấp lánh hào quang muôn ngả, tựa hồ có vật gì chợt vỡ tan.

      Trục Hà thoáng run rẩy, nhưng lập tức mỉm cười:

      “Hoàng Thượng, ngài say rồi.”

      Chàng chán nản :

      “Phải, say.”

      Ngón tay se mà ấm áp, vuốt mặt chàng, chàng bắt lấy tay , hơi men ngà ngà:

      “Có thai, tại sao cho trẫm?”

      chậm rãi đáp:

      “Thiếp dám.”

      Chàng cũng hỏi tại sao, trong lòng chợt dâng trào nỗi tuyệt vọng:

      “Ngay cả đứa con của chính mình ta cũng nỡ lòng nào toan tính, thiếp đoán được rồi ta còn làm được những chuyện gì.”

      Đáy mắt Hoàng Đế chợt lóe, sắc mặt kia khiến nhìn lắm, chỉ :

      “Hoàng Thượng, lưu lại Mộ nương thực quá nguy hiểm . . .”

      Bất thình lình chàng vung tay cho ta cái bạt tai, tiếng vang giòn giã, cái tát khiến cho sững sờ kinh ngạc.

      Chàng :

      “Ta mang ngươi tới đây, ngươi lại còn dám ra những lời như vậy!”

      xoa xoa bên má mình, nửa ngồi nửa quỳ dưới sàn nhà, hình như vẫn hiểu chuyện gì vừa xảy ra. Hai mắt Hoàng Đế vằn đỏ, nổi cơn thịnh nộ, bỗng nhiên mành cửa có tiếng động, nghe giọng quen thuộc vang lên:

      “Ông nội con, khiến nô tì tìm toáng đám.”

      Người bước vào đầy đầu tuyết sũng mà buồn phủi, chính là Triệu hữu Trí. Khuôn mặt béo trắng của lão tái mét vì lạnh, ngay cả hành lễ cũng được chỉnh tề nữa, run lập cập :

      “Vạn Tuế gia, xảy ra chuyện lớn rồi, Dự Thân Vương rơi vào mai phục!”

      Tình hình quân tại Phổ Lan hết sức gian nan, Dự Thân Vương lấy ít địch nhiều, chiến đấu gian khổ hơn mười ngày, đợi cho được đến lúc Hoa Lẫm ở Nhan châu và Nhạc Thế Vịnh của Bình châu suất binh đến viện trợ mới bắt đầu siết chặt vòng vây, đâu ai ngờ lúc lâm trận Hoa Lẫm thình lình lại quay mũi giáo, hợp lực cùng quân Lỷ Nhĩ Mậu mà bao vây trở lại Dự Vương. Đội quân của Nhạc Thế Vinh kịp trở tay, lập tức bị tiêu diệt gần hết, mà trung quân của Dự Thân Vương vừa đánh vừa lui, tại bên bờ sông Mân Giang lại trúng mai phục, cho đến hôm nay tình thế chưa .

      Chiến chuyển biến rất xấu, Kỷ Nhĩ Mậu chỉ mấy ngày nữa vượt sông Mân Giang, mà Duệ Thân Vương tự mình dẫn ba vạn kỵ binh vòng qua sông, cứ mạch mà kéo thẳng về kinh đô. Khai triều hơn ba trăm năm qua, ngoài trừ Thừa Càn tám năm làm loạn tứ phủ, kinh đô cũng chưa bap giờ phải chịu mối đe dọa như thế.

      Hoàng Đế lại vẫn bình tĩnh phi thường, liên tục ban chiếu cấp bách, sai khiển đội quân Phủ châu cùng Tấn châu đóng ở phía bắc. Tuy nhiên quân đóng hai châu cũng chỉ có hơn vạn người, thời gian quá gấp rút, e chẳng kịp. Quần thần trong triều cực lực khuyên Hoàng Đế nên “tuần thú phía Tây” (ý là bỏ chạy) thôi, song Hoàng Đế lại kiên quyết từ chối.

      “Dù cho chỉ còn binh tốt, trẫm cũng bao giờ chắp hai tay mà dâng kinh đô cho Định Trạm.”

      Đứng đầu tả hữu là lão thần Trình Phổ nước mắt ngang dọc, nằm phục mặt đất mà dập đầu:

      “Vua lo thần nhục, vua nhục thần chết. Chỉ tại thần có năng lực, cho nên mới có mối họa ngày hôm nay.”

      “Đứng lên!”

      Hoàng Đế còn kiên nhẫn, ngửa mặt nhìn ngai vàng ngôi báu, ngầm chứa khinh miệt mà điên cuồng:

      “Trẫm còn chưa chết, các ông sợ cái gì?”

      Cười gằn tiếng:

      cho rằng nắm chắc phần thắng rồi sao, hãy còn sớm lắm! Trẫm ở chỗ này mà chờ, chờ xem có cái số được bước qua cửa Chính Thanh này nửa bước hay ?”

      Mùa đông năm ấy rất lạnh, bởi vì tình hình quân khẩn cấp, trong cung ngay cả tất niên cũng đều qua quít cho xong, tuyết lớn rơi liên tục mấy ngày ngừng, cột trụ trong điện Chính Thanh bị băng đóng quanh lớp dày, Trình Viễn đốc thúc tiểu thái giám cầm dùi sắt đập vỡ, chợt nghe sau lưng có người :

      “Đừng đập.”

      Trình Viễn quay nhanh lại nhìn, hóa ra là Chiêu nghi Ngô thị.



      Lớp băng dày đến thước, trong nắng sớm mùa đồng u tối khúc xạ những ánh hào quang kỳ dị, chiếu lên khuôn mặt trắng như tuyết của Trục Hà. khoác chiếc áo choàng da cáo đen, lớp da cáo đen như mực bao phủ quanh mặt , càng làm tăng thêm vẻ tái nhợt còn chút sắc hồng, nheo nheo con mắt, phỏng chừng là ánh tuyết chói lòa mở nổi mắt.

      Toàn bộ màu đỏ của tường hay màu xanh của ngói trong cung đều chìm trong màu tuyết trắng bao la, tòa thành trắng xóa màu tuyết, dường như chỉ là tòa thành trống.

      lặng lẽ đứng đó, trong ngàn tuyết trông như khối ngọc đen nho .

      “Để cho nó đóng ở đó cũng được.”

      Nghe thấy giọng Hoàng Đế, Trình Viễn và các cung nhân vội vã cung hạ thân mình, thực ra nhóm hầu hạ thân cận hằng ngày gặp vua cũng cần hành đại lễ, Hoàng Đế xưa nay lại kiên nhẫn với cái thứ nghi thức rườm rà này. Trình Viễn cúi đầu, thấy đôi giày xanh thêu những hồi hoa văn như ý bước qua mặt đường lát gạch.

      “Mấy ngày nữa vào tiết lập xuân rồi mà tuyết còn rơi như vậy.”

      Trục Hà cũng lên tiếng, ánh mắt Hoàng Đế dừng nơi nóc đền trắng xóa. bị gió lùa vào họng, khỏi ho khan vài tiếng, Hoàng Đế bảo:

      “Nàng đừng đứng ở đầu gió.”

      Trục Hà vẫn đáp, qua lúc lâu mới :

      yên tĩnh.”

      Hoàng Đế nhìn màn tuyết dày đặc, lạnh nhạt :

      “Yên tĩnh được mấy ngày mà thôi.”

      Tuyết vẫn rơi triền miên, còn nghe cả thanh tuyết bộp bộp, mà ba vạn quân kỵ binh của Duệ Thân Vương cách phủ Kỳ châu ngoài trăm dặm, gần đến mức tựa hồ còn nghe cả tiếng vó sắt boong boong.

      Đó là ngày Canh Thân, mà đời sau thường gọi là “Canh Thân chi biến”.

      Nửa đêm biến cố bắt đầu xảy ra, Trục Hà vốn ngủ, bỗng nghe xa xa mơ hồ có tiếng quát tháo. Từ ngày có chửa, ngủ được sâu, lập tức liền bừng tỉnh, ngồi dậy ôm gối lẳng lặng nghe. Tiếng rống kia như gào thét cùng gió bấc, chỉ có những tiếng gào ngắn ngủi, xen lẫn vào đó còn nghe leng keng, ràng là thanh của binh khí giao nhau. Lòng trùng xuống, lập tức khoác thêm áo, cung nữ ở gian ngoài cũng tỉnh, vội vội vàng vàng tiến đến giúp thay quần áo, Ngón tay Trục Hà run run, biết ngày này rồi cũng tới, chỉ ngờ nó nhanh đến như vậy.

      Nơi ở cách cung Dục Thanh xa, kịp truyền kiệu, cung nữ đốt đèn bão, tự mình cầm ô. Tuyết rơi càng lúc càng nhiều, như tấm mành trắng, cách ly tầm mắt với toàn bộ cảnh vật bên ngoài, mà ngọn đèn trong tay cung nữ tỏa ánh mờ mịt, chỉ có thể soi được mặt đất ngay dưới chân.

      Tuyết đóng dày, từng dấu chân đều lún sâu, lòng dạ cũng ngổn ngang trăm mối, chính mình cũng biết bản thân nghĩ gì, chẳng qua chỉ là bước từng bước nhanh về phía trước.

      Nửa đường thấy có bóng đèn xa xa, trong lòng chợt nghĩ, nếu như loạn quân xông vào hậu cung, chường mặt ra mà nghênh chiến, chỉ e chết là khó thoát.

      Đôi tay cung nữ run rẩy kịch liệt, phỏng chừng sắp cầm nổi đèn nữa. tiếp lấy ngọn đèn, hỏi:

      “Ai?”

      “Nô tì Trình Viễn.”

      Trình Viễn gặp được , chừng như thở phào hơi:

      “Vạn Tuế gia phái nô tì gọi nương nương.”

      “Loạn quân vào thành rồi sao?”

      Trình Viễn lắc lắc đầu, chỉ giục ta:

      “Thnhr nương nương nhanh nhanh chút.”

      Vừa , vừa ngay lên trước dẫn đường.

      “Nương nương cẩn thân dưới chân.”

      Trọng điện Dục Thanh hoàn toàn yên tĩnh, Hoàng Đế thay áo giáp. Tới bây giờ Trục Hà chưa bao giờ thấy chàng mặc giáp, áo giáp hoàng kim càng tôn lên màu son cẩm bào, dệt những dải hoa văn rồng vàng, ngọc lưu ly giắt bên, càng toát lên vẻ cao lớn vững chãi. Chính vì cao, Trục Hà lại cảm thấy quá xa, xa lạ như chưa từng quen biết.

      Hoàng Đế tiếp nhận ngự cung trong tay quan Chưởng Cung, quay đầu bắt gặp , cũng buông cung, lập tức bước đến trước mặt, :

      “Ta mệnh Trình Viễn dẫn đường, hộ tống nàng Thượng Uyển trước.”

      “Định Vịnh kia hẳn là muốn đòi mạng trẫm.”

      Giọng Hoàng Đế bình tĩnh, như thể chuyện chẳng liên quan đến mình:

      “Binh mã kinh thành đều nằm trong tay , vậy mà vẫn án binh bất động. Trước mắt loạn quân vào thành, chỉ sợ quân doanh tinh nhuệ còn lại cũng chống đỡ nổi hai giờ.”

      Chàng cười cười:

      em cùng cha cùng mẹ, bao nhiêu năm qua, trẫm hao tổn hết tâm trí mà lo cho , ngờ cuối cùng vẫn có ngày hôm nay.”

      “Kính Thân Vương?

      Trục Hà lắp bắp:

      “Làm sao có thể?” (có thể hay ko ko phải mậy biết sớm nhất à?><)

      Hoàng Đế như mỉm cười:

      đời này có chuyện gì là , chỉ có chuyện thể mà thôi.”

      Trục Hà trầm mặc lát, mới :

      “Thiếp .”

      Hoàng Đế cau mày, quay lại gọi:

      “Trình Viễn!”

      “Có nô tì.”

      Bóng đèn tranh sáng tranh tối, chiếu mặt Trình Viễn, vẫn luôn luôn là vẻ mặt kính cẩn ấy.

      “Đưa ấy .”

      Chỉ chỉ Trục Hà.

      “Nếu như nửa đường Ngô chiêu nghi có gặp bất trăc gì, ngươi cũng cần tới gặp trẫm.”

      “Nô tì tuân chỉ.”

      Trình Viễn dập đầu cái, Trục Ha ngẩng mặt lên:

      “Thần thiếp , thần thiếp ở trong này.”

      Hoàng Đế cũng chẳng buồn để ý đến ta nữa, mệnh cho quan Chưởng Cung xách bao tên đoạn ra, ống tay áo chợt căng, ra Trục Hà bắt lấy tay chàng, nhìn chàng bằng đôi con ngươi đen thắm, buông tay.

      Hoàng Đế thấy mềm lòng, cũng nắm lấy tay , bỗng nhiên có dòng lệ ấm áp, rơi mu bàn tay. Cho tới bây giờ Hoàng Đế chưa lần nào thấy khóc . . . khóe miệng chàng hình như thoáng cười, dùng sức, gỡ ngón tay ta ra, từng chút từng chút, dứt khoát mà gỡ ra.

      “HOnagf Thượng . . .”

      rơi lệ đầy mặt, nghẹn ngào.

      Đầu ngón tay chàng lạnh lẽo, có lẽ luôn luôn lạnh lẽo như vậy, lau nước mắt cho :

      “Đừng gì nữa, nhanh .”

      “Bệ Hạ!”

      Hoàng Đế chạy ra ngoài cửa điện, từ xa chỉ ngoái nhìn cái, Trình Viễn tiến lên đỡ ta:

      “Nương nương, nô tì phải hầu nương nương ra cung, chậm chạp chỉ e kịp mất.”

      Đó là đêm hỗn loạn thể tả, đằng đẵng như cả cuộc đời.

      Lúc Duệ Thân Vương rốt cuộc ghìm ngựa đứng giữa cung điện, màn tuyết mông lung trải từ trời xuống, khí thế bao la trùm ngập khắp chốn hoàng thành, hết thảy đều chìm trong ánh tuyết lạnh lẽo.

      Hơn hai mươi năm qua, cả quãng đời qua, y cũng chưa giờ cảm nhận bầu khí tĩnh mịch đến thế nơi hoàng thành, dường như mọi người đều ra trong bóng chiều chạng vạng. Chỉ có ánh đèn nhiều như vậy, làm bừng lên bóng dáng cung đình, mà ánh sáng kia cũng lạnh lẽo, trong gió tuyết vẫn phêu diêu ngừng.

      *********************************

      [1]Nguyên là cháo Lạp Bát(thực ra Tịch hay Lạp đều đc, tịch nghe hay hay^^) dùng nếp, đậu, và các loại quả khô như táo, hạt dẻ, hạt sen…nấu thành. Bắt nguồn từ Phật giáo, tương truyền Thích Ca Mâu Ni đắc Đạo vào ngày này(lạp bát là mồng tám tháng chạp đó^^), nên chùa chiền nấu cháo cúng Phật, về sau trong dân gian lưu truyền mãi thành tục lệ

    5. duongbaolien

      duongbaolien Well-Known Member

      Bài viết:
      4,670
      Được thích:
      1,610
      Chương 25: KIẾM LƯỚT ĐÊM HÀN ÁNH TUYẾT BẠC

      Chàng bỗng thở dài hơi.

      Dường như mũi tên nhọn lao xuyên qua tấm màn u tịch, thanh hò hét dâng lên như đợt thủy triều, ngay lập tức vang vọng cả đất trời. Gió tuyết thét gào, tiếng kêu la, tiếng binh khí va chạm nhau, tiếng mũi tên bật khỏi dây cung, khiên giáp kêu loảng xoảng, tiếng mũi đao bén ngót trảm thấu da thịt vào xương, tiếng máu tươi bắn tung tóe. . . Sôi trào như biển cả, chôn vùi con người ta trong tiếng gầm long trời lở đất của biển cả, chôn vùi hết thảy hoàng thành trong cuộc tàn sát này đây.

      Tấm giáp bạc của quân doanh tinh nhuệ phản chiếu cả hơi lạnh của tuyết, đây là quân đội do chính Hoàng Đế thống lĩnh, ngoại trừ mỗi năm hai mùa xuân thu đều được huấn luyện trong kinh đô, chưa lần nào được nếm qua cái cảm giác lâm trận giết địch, lại càng chưa lần trải qua cuộc chiến tranh quyết tử đẫm máu như vậy. Thế những mỗi binh sĩ trong quân tinh nhuệ, ngay cả khi quân địch mấy lần giáp vào mình, vẫn cứ dũng mà xông lên có gì cản nổi.

      Bóng tuyết trắng thảm đạm phản chiếu lên tia sáng lạnh lẽo của những chùm binh khí giao nhau. Lớp lớp khiên giáp bàng bạc ngã xuống, lại lớp lớp khiên giáp sáng rực từ phía sau xông lên. Đạo quân của Duệ Thân Vương khí chất nhẫn nại, vẫn cứ quyết hạ từng lớp từng lớp giáp bạc kia mà sáp vào.

      Xác chết hai quân đều chất cao như núi, quân doanh tinh nhuệ sau cùng phải bắt buộc lui về mười trượng . . . Lúc bấy giờ, mọi người ai nấy đều cố hít sâu hơi, chợt nghe tiếng hô “Vạn Tuế” dội lên như thủy triều . . . ra Hoàng Đế thân đứng nơi bậc thềm son cao cao phía , dựa cung mà đứng, vẻ mặt lạnh lùng nghiêm nghị dường như ánh lên bóng tuyết lạnh, áo khoác chồn tía bị gió thổi tung bay, để lộ hoàng bào gấm lụa bên trong.

      Dường như nguồn khích lệ cực lớn ào qua, quân doanh lập tức phấn chấn tinh thần, dũng mãnh cùng ồ lên phản công ào ạt.

      Lưỡi đao bén ngót nặng nề đâm thủng áo giáp khiên sắt, thọc vào trong da thịt, thanh kia cơ hồ chọc thủng màng tai con người. Thế mà quân tinh nhuệ từ đầu đến cuối vẫn hề rối loạn trận pháp, ngay cả lúc cục diện càng ngày càng mong manh, cuối cùng dàn thành bức tường chắn ngang giữa quân địch cùng cửa điện Chính Thanh, ngăn cản tấm cờ sắc đen phần phật trong gió tuyết bên người Duệ Thân Vương cho tiến lên nửa bước.

      “Vương gia?”

      Giọng trong trẻo của kẻ đứng bên người vang lên ý dò hỏi.

      Duệ Thân Vương khe khẽ gật đầu.

      Người nọ lập tức rút trong người múi tên kêu (tên bắn ra có tiếng), chỉ nghe tiếng vút ngắn ngủi, trong màn thanh chém giết rung trời, vẫn bén nhọn xuyên vào lỗ tai.

      Ánh lửa phụt tiếng bừng sáng, chói lóa như chọc mù con mắt của mọi người, hàng ngàn hàng vạn đốm lửa rơi ào ào như trận mưa sao băng, lại giống như hằng hà sa số những con châu chấu sắc vàng chóe bay tùa cả lên. Những vệt cháy cắt xé màn đêm đen thẳm, nở rộ trung vô số những đóa hoa cực lớn màu vàng, chỉ nghe ùng ùng như sấm rền vang dội quả đất, con rồng lửa vĩ đại uốn éo rừng rực bốc lên.

      Trong thoáng chốc quân tinh nhuệ bị bốn năm con rồng lửa chia tách, giáp bạc trong ngọn lửa bừng bừng kia cháy bỏng biến thành cực hình tàn khốc, rất nhiều người phải rống lên bi thảm. Sau đó lại càng nhiều người trong rừng lửa hùng hổ tiến vào, lặng lẽ mà xông về trước, rốt cuộc nương vào lửa cháy mà vạch chém mở đường máu. Hơn mười kỵ binh nhanh như chớp luồn theo kẽ hở đó mà qua, quân tinh nhuệ nhanh chóng liều mạng khép lại trận thế, trận chém giết lại lần nữa nổi dậy.

      Ngày vẫn chưa rạng, đêm dài đen như mực, chỉ nghe gió bắc gào thét, Duệ Thân Vương nghĩ, tuyết lớn như vậy, chẳng lẽ chỉ vẻn vẹn trong đêm nay?

      Khắp ngoài cửa điện Chính Thanh đều đẫm máu tươi , dòng máu đỏ thẫm ngấm vào trong bãi tuyết đọng, xác chết ngổn ngang, máu ấm hòa tuyết lạnh, hóa thành vũng nước tuyết đỏ màu máu, sau đó đông lại thành lớp váng băng. bậc tam cấp dính đầy những lớp váng nhầy nhụa như thế, giẫm chân lên chẳng khác nào đạp vào lớp keo, đóng chặt lấy đế giày.

      Mùi máu tanh lợm xông thẳng vào trong họng, làm người ta chỉ muốn ói mửa. Chàng vẫn từng bước từng bước , nhanh nhẹn tiến thẳng lên bậc thềm, mà tòa cung điện nguy nga hùng vĩ nhất chốn hoàng thành, từng khắc từng khắc , bị chàng giẫm ở dưới chân.

      mũi tên bắn lén từ sau lưng bay đến, “vút” tiếng sượt qua bên tai chàng, cong cong giắt ngay cánh cửa nửa đóng nửa mở trước mặt.

      Cửa chính điện, mười sáu phiến gỗ đàn hương sơn son thếp vàng với chín con rồng xoay đầu vào nhau. Có vài phiến bị long ra, trông như hàm răng khuyết của con mãnh thú hung tợn, bất kỳ lúc nào cũng có thể há miệng ngoạm lấy người ta. Trong cửa điện, nền nhà lát gạch vàng, chi chít những mũi tên lạc rơi chồng chất, như thể dùng tên vũ mà rải thành con đường, còn chàng, cứ từng bước từng bước đạp lên cái lối đầy tên ấy mà vào.

      Hoàng Đế chỉ bị vết thương , do trúng tên, ngay cánh tay trái, cũng chẳng buồn băng bó, cứ để cho máu kia tùy ý giọt xuống từng giọt nền gạch vàng. Rất , “tích” tiếng, tựa như đồng hồ rỉ nước.

      Triệu Hữu Trí quỳ bên, phỏng chừng phát khóc lên rồi.

      Nhìn thấy Duệ Thân Vương tiến đến, bọn thị vệ xông ồ lên, che chắn trước mặt Hoàng Đế, mà mười tướng sát bên người Duệ Thân Vương, cũng lăm lăm lá chắn, bảo hộ cho Duệ Thân Vương.

      Duệ Thân Vương thản nhiên như , đưa tay gạt máu bắn tung tóe mặt, cách nhiều người như thế, khóe miệng Hoàng Đế khẽ cong lên, tựa hồ nở nụ cười.

      Ngàn vạn người ở ngoài kia vẫn liều mạng chém giết, hò hét, đấu đá, gục chết, mà trong đại điện ánh nến vẫn chập chờn lay động, dường như là cả thế giới ngăn cách hoàn toàn với cảnh máu me bên ngoài.

      Hoàng Đế cười :

      “Ngươi tới quả là nhanh.”

      Duệ Thân Vương đáp:

      “Ta lỡ lần, dĩ nhiên lần này thể sai.”

      Hai người đều thoáng trầm mặc, Hoàng Đế lạnh lùng đối mặt Duệ Thân Vương:

      “Trẫm biết, ngươi chờ ngày này lâu.”

      “Ngươi cũng đợi ngày này lâu.”

      Trong giọng điệu của Duệ Thân Vương giấu mỉa mai:

      “Rất lâu trước kia, ngươi lo nghĩ làm sao kiếm mà giết ta.”

      Hoàng Đế bất ngờ cười vang, rút soạt thanh kiếm:

      “Tới !”

      Lưỡi kiếm loang loáng như nước hồ thu, phản chiếu bóng đèn giữa điện, giống như rồng cuộn lóe lửa, ánh lên giữa mù sương rét lạnh. Đường kiếm vẽ ra nửa vòng tròn, đầu lông mày thấp thoáng vẻ ngạo nghễ. Người hầu chung quanh đều từ từ lùi tản ra sau, Duệ Thân Vương cũng chậm rãi tuốt gươm.

      Từ thời Thái tổ Hoàng Đế dùng vó ngựa cung tên mà giành được thiên hạ, các chư hoàng tử đều tập cười ngựa bắn cung ngay từ tuổi ấu, cùng ngồi tại điện Văn Hoa mà nghe thái phó giảng giải kinh điển, ngoài ra mỗi vị hoàng tử cũng đều có vị sư phụ dạy cưỡi ngựa bắn cung riêng của mình.

      Dựng nước hơn ba trăm năm nay, luôn luôn có hoàng tử lĩnh binh ra trận, lưu danh với sử sách, dĩ nhiên là nhờ công dũng mãnh chinh chiến giết giặc. Các triều đại qua trong chiến tranh liên miên dứt, cũng bởi Đại Ngu từ trước nay trọng võ khinh văn, phàm là hoàng tử, ai mà tập võ.

      Sau hơn mười chiêu, hơi thở của Hoàng Đế dần trở nên nặng nề, trường kiếm trong tay cũng lỏng lẻo, dù sao tay vốn có thương tích. Mà đường kiếm của Duệ Thân Vương thư thái linh hoạt, sốt ruột cũng chẳng nóng nảy, có vẻ như thiên về công ít mà thủ nhiều.

      Triệu Hữu Trí hoảng loạn tâm thần, chỉ thấy dưới ánh nến, bóng hai người thoắt xoay thoắt chuyển, mũi kiếm đâm ra rút về, lập lòe chớp nhoáng, vạt áo bị gió cuộn tốc lên, phất phơ ánh đèn tranh sáng tranh tối.

      Thình lình tiếng quát khẽ vang lên, đèn đuốc bị kình phong bạt mạnh, đồng loạt trở nên lù bù, mấy cây nến gần đó trong nháy mắt tắt lụi. Trong lòng Triệu Hữu Trí chợt thót lên, quả nhiên, ngực trái của Hoàng Đế bị Dự Thân Vương đâm kiếm, máu tươi chậm rãi trườn theo hoa văn dệt cẩm bào, song rốt cuộc Hoàng Đế vẫn đứng thẳng thân mình. Bọn thị về đăm đăm nhìn chàng, chỉ sợ chàng bị thương nặng.

      Duệ Thân Vương hạ kiếm xuống, môi bạc thoáng nhếch:

      kiếm này, là vì Lâm Nguyệt.”

      Toàn thân Hoàng Đế chấn động, giọng chợt đượm vẻ châm biếm:

      “Ngươi đừng có mà nhắc đến nàng . . . ngươi xứng đáng được nhắc đến nàng.”

      “Sao ta thể chứ?”

      Duệ Thân Vương cười khẩy:

      “Ngươi có biết vì sao nàng đồng ý gả cho ngươi ?”

      “Trẫm biết . . . trẫm vẫn luôn biết, là vì ngươi.”

      Trong khoảnh khắc ấy, dưới ánh nến, con ngươi của chàng như bị phủ tầng hơi mỏng, nhìn lắm.

      “Nhưng đến cuối cùng, nàng cũng chưa từng phụ ta, chỉ có ta nợ nàng.”

      Giọng của chàng bỗng trở nên dịu dàng:

      “Nhưng hết thảy những gì giữa ta với nàng, ngươi vĩnh viễn thể biết.”

      Duệ Thần vương chưa bao giờ trông thấy vẻ mặt chàng như vậy, bất giác hơi kinh ngạc.

      “Năm đó, lần đầu tiên ở Bạn Hương Các ta gặp nàng, chính là buổi tối tuyết rơi đầy . . .”

      Chàng ngẩng đầu, nhìn lên ô cửa sổ giấy phản chiếu ánh lửa, bờ môi kìm được khẽ mỉm cười:

      “Đêm đó đêm Nguyên Tiêu, đèn đuốc sáng rực cả trời đen, người trong cả thành ai cũng kéo nhau xem đốt đèn, chỉ có mình nàng ngồi mình nơi góc ấy uống rượu cùng hoa mai, tuy nàng giả nam trang, nhưng ta liếc mắt cái cũng nhận ra nàng là con .

      Tiểu thư khuê các, thế nhưng lại giả con trai ngồi trong quán mà nhắm rượu, vì thế ta cố tình tiến đến bắt chuyện.

      Mặc dù nàng còn , song cách ăn phóng khoáng, cùng ta bàn chuyện trời dưới đất, trong câu chữ đều trí tuệ nho nhã, hề thua kém đấng mày râu. Từ giây phút ấy, ta mới biết được, ra đời còn có người con như vậy, có thể cùng mình tri tri kỷ. Mà hai canh giờ ngắn ngủi ấy được ở cùng nàng, càng làm cho ta khẳng định, cái gì là tâm đầu ý hợp, lòng thấu hiểu lòng. Ta vui, đều vì nàng mà vui, nàng vui, ta cũng thấy vui.

      đời này còn ai hiểu lòng ta như nàng từng, chỉ là, đời này cũng còn có nàng.”

      Trong mắt chàng vô bi vô hỉ, nhìn Duệ Thân Vương:

      “Sau này ta biết nàng là con họ Mộ, mà Mộ đại tướng quân dĩ nhiên muốn gả con cưng làm vợ lẽ cho ta. Ta quỳ xuống mà cầu xin phụ hoàng, nhiều năm như vậy, đó là lần đầu tiên ta vì việc riêng mà cầu phụ hoàng, chung quy cũng được toại nguyện.

      Có thể lấy được nàng, chính là hạnh phúc của cả đời ta, cho dù mới đầu nàng vì ngươi mà gả cho ta, nhưng đến cuối cùng nàng vẫn đem trái tim mình trao cho ta. Mà thiên hạ giàu có của trẫm, từ ngày nàng tạ thế, mới biết cái gì gọi là mất , ai có thể thay thế nàng.”

      Duệ Thân Vương lại tỏ vẻ thờ ở như chẳng buồn để ý, trong điện yên ắng nghe được cả tiếng gió vù vù bên ngoài. Ô cửa sổ vốn được dùng giấy bông mà căng kín, song có cánh bị mũi tên lạc bắn thủng vài lỗ. Trong điện thắp mấy ngọn đèn lớn, hốt nhiên có trận gió lùa qua khe thủng tràn vào, ngọn đèn lớn chập chờn, cuối cùng tắt ngấm, làn khói xanh lừng lững tản ra.

      nửa khuôn mặt gã trong bóng tối, tựa như cũng mất hút, thấy .

      Qua rất lâu sau, gã mới :

      “Là ngươi hại chết nàng.”

      Trong mắt hun hút lóe lên tia lạnh cắt người.

      “Ngươi là Hoàng Đế, vạn vật trong thiên hạ với ngươi đều là “ta cần ta cứ lấy”! Ngươi luôn miệng cái quái gì mà tâm đầu ý hợp, ngay cả nàng ngươi cũng tha!”

      “Trẫm thể làm. Nếu ngươi cấu kết với Mộ thị, nếu ngươi buộc trẫm bất đắc dĩ phải ra tay trước bước, Lâm Nguyệt chết.”

      Chàng cười lạnh:

      “Năm đó ngươi chắp hai tay dâng Lâm Nguyệt cho ta, là có cái ý đồ gì đây?”

      Mũi kiếm nhọn chợt lóe sáng, đường kiếm của Duệ Thân Vương hung hăng đâm tới, Hoàng Đế giơ kiếm lên đỡ, “keng!” tiếng hai mũi kiếm giao nhau. Hơi thở của Hoàng Đế bắt đầu hổn hển:

      “Ngươi chưa từng mất , trước giờ ngươi chưa từng biết cảm giác mất mát nó như thế nào. Thế nhưng ta quá , ta hiểu rất sâu sắc, cho nên trẫm từng thề tuyệt đối để cho bản thân phải mất bất kỳ cái gì. Ngươi bức bách trẫm, trẫm tuyệt đối bao giờ để cho ngươi toại nguyện.”

      “Bởi vậy ngươi mới cướp ngôi!”

      Do dùng sức, nơi mu bàn tay Dệ Thân Vương hằn gân xanh, song giọng vẫn ràng bình tĩnh:

      “Phụ hoàng vốn có di chiếu, nếu như tiên đế có con nối dõi, cho ta được kế thừa ngôi vị.”

      Hoàng Đế vận sức vào cổ tay,cuối cùng hất văng thanh kiếm của Duệ Thân Vương, chàng ngửa mặt cười ầm lên:

      “Di chiếu ? Té ra ngươi đúng là dùng cái thứ đó mà thuyết phục lão Thập Nhất mở cửa thành đây.”

      Đôi lông mày của chàng khẽ nhếch:

      “Hao phí công sức tìm tòi bao lâu, ra đúng là vẫn còn nằm trong tay ngươi. Hai năm qua, quả thực ngươi giả trang rất khéo.”

      Duệ Thân Vương cười gằn:

      “Ngươi ngại đầu độc chết mẹ đẻ của chính mình, lại kê biên tài sản cả nhà họ Mộ, chính là vì thứ này đây. Đáng tiếc người tính chẳng bằng trời tính, nó sớm bị Mộ đại tướng quân đưa ra vùng quan ngoại, Mộ Duẫn thoát được mạng mà thu hồi di chiếu, công bố cho toàn thiên hạ ngươi là cái đồ loạn thần tặc tử cướp ngai vàng!”

      “Loạn thần tặc tử?”

      Hoàng Đế cười khẽ:

      “Ngươi là con trai phụ hoàng, ta cũng là con trai phụ hoàng, vì sao ngươi được làm Hoàng Đế, còn trẫm đây lại cướp ngôi? Trẫm muốn giành lại toàn bộ thiên hạ này, trẫm cho ngươi sáng mắt ra, cho phụ hoàng kia cũng sáng mắt ra - hôm nay ngươi khởi binh làm loạn, chính ngươi mới là cái đồ loạn thần tặc tử!”

      Hoàng Đế nheo nheo con mắt:

      “Theo luật tử hình lại cái chắc, nhưng trẫm còn muốn chậm rãi mà lăng trì cho ngươi dở chết dở sống.”

      Duệ Thân Vương cười ha ha:

      “Hôm nay giết ngươi, chính ta mới là bậc đế vương trời chọn, mà ngươi cũng chỉ là loại phản tặc cướp ngôi mà thôi!”

      Đường kiếm vạch xéo, hướng thẳng phía ngực Hoàng Đế mà đâm, Hoàng Đế giơ kiếm, song Duệ Thân Vương biến chiêu cực nhanh, mũi kiếm xé gió, Hoàng Đế rốt cuộc trong mình mang thương tích, chống đỡ hơi chậm, kiếm của Duệ Thân Vương trùng trùng đâm vào vai phải của Hoàng Đế, mọi người ai nấy đều thót hơi. Trong hỗn loạn còn nghe cả tiếng hít vào gấp gáp của phụ nữ, Duệ Thân Vương xoay tay, “soạt” cái cắt phăng dây rèm.

      mặc váy hoa đứng sau rèm phỏng chừng là bị bất ngờ kịp đề phòng, đôi con ngươi đen kịt nhìn gã, lại chút sợ hãi. Con ngươi ấy trong vắt tựa đáy hồ ngàn thước, lạnh lẽo chẳng khác nào tuyết rơi ngoài kia.

      Duệ Thân Vương chỉ đơn giản kiếm là có thể lấy được mạng nàng, thế nhưng lại bị luồng hơi lạnh trong mắt nàng áp đảo, lưỡi kiếm thoáng trì trệ giây, mà khoảnh khắc trì hoãn ấy, nàng vọt nhanh đến trước mặt Hoàng Đế.

      Hoàng Đế cho là nàng vì quá kinh hoàng sợ sêt, bèn chìa cánh tay còn lại chưa hề bị thương, muốn ôm lấy nàng. Mà đôi tay nàng cũng thoáng giơ lên, tựa như cánh bướm, vạt áo lông điêu dài lướt nền gạch sáng bóng như gương, tựa như dải ráng chiều cuồn cuộn nơi phía chân trời, nhanh nhẹn nhào vào trong ngực chàng.

      . . .

      “Phập!”

      thanh đến mức gần như nghe thấy khe khẽ vang lên, Hoàng Đế như chưa hề có cảm giác gì, cánh tay vẫn choàng lấy vai nàng, sau hồi lâu, thanh kiếm tay chàng mới “keng” tiếng rơi mặt đất.

      Nàng chậm rãi trượt xuống từ trong lòng chàng, nửa ngồi nửa quỳ đất. Máu ồng ộc phun ra. Nàng ngửa mặt nhìn chàng, toàn bộ thị vệ đều bị biến cố bất thình lình dọa cho điếng người, ngay cả Duệ Thân Vương cùng với đám thân vệ cũng đều ngây phỗng nơi đó. Hoàng Đế lảo đảo về trước, gắng sức nhổ phắt thanh đoản kiếm nơi ngực mình, máu tươi bắn quần áo nàng, mặt, tóc . . .

      Chàng nhìn chuôi đoản kiếm chạm trổ hoa văn thếp vàng, máu vẫn tràn qua kẽ ngón tay . . . Chàng chỉ nhìn đăm đăm hai chữ “Ngàn xa”, dường như nhìn thấy điều gì đáng sợ nhất đời, khó mà tin, nhưng lại thể tin.

      “Sống chết ngàn xa

      Cùng người thề nguyện”

      Làm sao là nàng?

      Chàng vét chút hơi tàn cuối cùng, mới có thể phát ra thanh:

      “Là nàng?”

      Nàng vươn hai tay bao lấy mình, chậm rãi, cẩn trọng, dán khuôn mình lên vạt áo của chàng. Máu theo tấm áo khoác của chàng mà trườn xuống, chảy lên mặt nàng. Dòng máu nóng hổi, hình như chính là nước mắt, làm sao có thể, nàng còn nước mắt. Trong giọng đượm nỗi bi ai lạnh lẽo khó thành lời, nhưng dịu dàng tựa hồ hết thảy đều chưa từng phát sinh:

      “Là ta, ta vẫn luôn luôn chờ, nhưng chờ được chàng.”

      Chàng vượn tay đến, dường như muốn chạm vào khuôn mặt nàng, vết máu vẩn nhuốm lên hơn phân nửa hai gò má của nàng, thế nhưng dung nhan nàng vẫn thuần khiết như vậy, vẫn như bóng hình trong trí nhớ của chàng.

      Nàng nắm chặt tay chàng, tựa như bao giờ có thể buông ra nữa. Nàng :

      “Ngày đó ta sinh ra, ánh trăng rơi đầy mặt đất tựa thanh sương, cho nên tên của ta là Như Sương.”

      Miệng chàng khẽ cong lên, hình như là muốn cười, lại tác động đến miệng vết thương, càng làm cho máu phun mạnh ra. . .

      Giữ chặt, bao giờ có thể buông ra nữa, dịu dàng mà gọi tên nàng:

      “Như Sương . . .”

      Chàng lại siết thanh đoản kiếm, máu loang cả lên hàng chữ chuôi kiếm.

      “Sống chết ngàn xa“

      Sống chết ngàn xa, cùng người thề nguyện . . .

      Nước mắt nàng rốt cuộc cùng ào ạt tuôn rơi, hòa trong máu và nước mắt, tầm nhìn của nàng cũng mơ hồ khoảng, lại thể thốt nên lơi nào nữa, cho đến hôm nay, tất thảy cũng đều thành uổng phí.

      Chàng tựa hồ muốn gì, lại thể được, chỉ đơn giản là cầm lấy tay nàng, siết lấy tay nàng chặt, có giọt nước mắt lớn, chậm rãi trào ra nơi khóe mắt. Chàng cứ ngỡ bản thân bao giờ còn khóc, mà giọt lệ kia chảy dài, vương mái tóc đen của nàng. Chàng từ từ buông lỏng ngón tay, nàng muốn bắt lấy cái gì mà vô ích, chỉ kịp níu lấy góc áo chàng. Chàng nặng nề mà chậm chạp ngưởng mặt, ngưởng mặt thế rồi ngã xuống, ngã vào trong vũng máu.

      Triệu Hữu Trí gầm lên tiếng ngắn ngủi tuyệt vọng, nhặt thanh kiếm mặt đất của Hoàng Đế, điên cuồng hướng về sau lưng Như Sương mà đâm. Như Sương vẫn nằm sấp nơi đó, tránh né, mắt thấy kiếm của lão nhất định găm xuyên qua người Như Sương, chỉ nghe “phập” tiếng.

      Chính là gã thân vệ đứng bên Duệ Thân Vương giương cung bắn, mũi chuẩn xác xuyên thấu sau lưng lão. Lão đổ phịch người nền gạch, co giật liên hồi, trong chốc lát tắt thở.

      Như Sương vẫn phủ phục ở đấy, hề nhúc nhích, trong điện im ắng như tờ, chỉ nghe bên ngoài tiếng gào thét, tiếng chém giết đan xen vang vọng.

      Duệ Thân Vương nhìn Như Sương gục vũng máu, nàng vẫn nắm chặt góc áo của Hoàng Đế, như con thú , cuộn mình nơi ấy, hay chăng cũng chỉ như bức tượng gỗ bất lực, chút sức sống dầm mình trong vũng máu đỏ.

      mặt Hoàng Đế vẫn cực kỳ sạch , dường như chàng chỉ say ngủ mà thôi, nàng cũng chưa hề phát ra thanh nào. Phía sau lưng bọn họ, chính là lớp lớp mành bạc vây quanh kim loan bảo tọa.

      Cửu ngũ chí tôn, đỉnh cao huy hoàng, thềm son thắm đỏ, mà gã từng bước từng bước tiến lên. Chiếc ngai vàng kia giống như cực cao cực xa, còn gã vẫn từng bước từng bước, hướng về nó mà đến.

      Cuối cùng đứng vạn người, bảo tọa cửu long vàng ngọc này đây, tựa như tháp thờ thần linh. Y chậm rãi quay người, hướng mặt về phía nam, hàng ngàn hàng vạn đốm lửa ngoài kia cũng đều biến ảo thành biển lửa mông lung, tràn ngập màng sáng ấm áp. Mọi người trong điện đều quỳ xuống, rốt cuộc có người hô lên:

      “Vạn tuế!”

      Lập tức kéo theo những tiếng tung hô nối tiếp:

      “Vạn tuế, vạn vạn tuê!”

      Càng lúc càng nhiều người dập đầu ở dưới, mấy tên nội quan, người hầu chưa chịu quỳ lạy tức khắc bị lôi ra chém sạch.

      Từ nay về sau, thiên hạ phục tùng, ngự cực bốn bể. Trong lòng y dâng lên thỏa mãn phi thường, phải là sảng khoái có ngôn từ diễn đạt, cúi nhìn về đầu mút xa xa kia. , còn kẻ nào có thể nổi loạn, còn kẻ nào có thể đoạt , hôm nay, hết thảy đều là của y.

      Chương 26: PHONG SƯƠNG TUYẾT NGUYỆT AI CÒN NHỚ

      Trong điện tràn ngập mùi máu tanh lợm, mà bên ngoài cuộc chiến vẫn kịch liệt như trước, thi thoảng còn có vài ba mũi tên lạc bay vào điện, bởi vì khoảng cách quá xa, lưa thưa đích, rơi xuống nền gạch.

      Duệ Thân Vương chẳng buồn bận tâm, chỉ chỉ vào xác Hoàng Đế:

      “Đem ném ngoài điện , xem bọn chúng còn liều mạng làm cái quái gì?”

      Lập tức có người tiến đến lôi Như Sương ra, nàng vẫn nắm khư khư góc áo Hoàng Đế, người đó liền rút đao, định chém luôn nhát, nàng thong thả đứng lên, giọng lạnh lùng như băng giá:

      “Lục gia, ngài chẳng lẽ thừa dịp này mà trốn hay sao?”

      Duệ Thân Vương kinh ngạc, chợt cười ầm lên:

      “Sao ta phải trốn cơ chứ?”

      Nàng rốt cuộc xoay người nhìn thẳng vào gã, trâm cài ánh ngọc màu tím lấp lánh đong đưa, sàn sạt bên mái tóc. Con ngươi nàng cũng loang loáng, dường như còn mang nét xinh đẹp quyến rũ khó tả:

      “Thập Nhất gia đúng là chẳng thông minh chút nào, Lục gia chậm chạp công thành, chẳng phải là còn kiêng kỵ ngòi bút của sử gia gắn cho hai chữ “giết ” hay sao? Thập Nhất gia trở mặt lần này, Lục gia chỉ cần thừa dịp mà tấn công vào thành, ai cũng biết Bệ Hạ chết như thế nào, đến lúc đó chỉ có Thập Nhất gia là giơ đầu ra mà gánh tội ác “giết ” tày trời, còn Lục gia cứ ngồi rung đùi mà hưởng “ngư ông đắc lợi”.

      Chỉ là, Lục gia cảm thấy, hết thảy này đây đều quá thuận lợi rồi hay sao? “Bọ ngựa bắt ve sầu, chim sẻ rình sau lưng”, chính là chiêu tuyệt sát xưa nay vốn có của Hoàng Thượng.”

      Nàng chậm rãi gằn từng câu từng chữ:

      “Dự Thân Vương giả bại mà , ta căn bản chẳng hề trúng mai phục, mà chỉ là dẫn xuất đại đội binh, chậm rãi mà dàn thành lớp giáp sắt bao vây toàn kinh đô này. Cứ cho là Lục gia có ba vạn quân tinh nhuệ, hay là Thập Nhất gia có toàn quyền điều khiển binh mã cửu thành, rốt cuộc cũng chỉ là cá nằm trong chậu mà thôi.

      Bởi vì hai vị Vương gia đều là em của Hoàng Thượng, nếu như có tội lớn mưu phản gì, quả thực chẳng có cách nào nhổ có tận gốc, trừ khử tính mạng của các người. Khả năng nhẫn nại của Hoàng Đế người thường sánh kịp, liều lĩnh phen, cũng chỉ chờ cho đến ngày này.”

      Như Sương cười lạnh nhạt, :

      thời chỉ e Dự Thân Vương vào đến thành rồi, Lục gia nếu còn muốn giữ cái mạng, mau mau mà đào tẩu thôi.”

      Duệ Thân Vương đột nhiên ngửa mặt cười vang, cười hồi lâu, mới :

      “Chỉ bằng sao? Ăn vã suông mà đòi ta tin rằng Dự Thân Vương có thể khiển binh hùng tướng hậu bao vây kinh đô? Hoàng Đế nếu sớm bố trí chiêu như vậy, làm thế nào còn có ta ngồi chỗ này?”

      “Lục gia có thể tin”

      Như Sương chậm rãi .

      “Kính Thân Vương bao giờ giết Hoàng Thượng, lòng dạ cậu ta vốn mềm yếu, dù có di chiếu của tiên hoàng trong tay, bất quá cũng chỉ muốn ép Hoàng Thượng thoái vị mà thôi. Đậy chính là bước mạo hiểm của Hoàng Thượng, bố trí tử địa ngầm về sau, tự lấy thân mình làm mồi nhử, hòng dụ Lục gia ngài thân mình mà thuận tiện tiến lên.

      Lục gia vốn giết nổi Hoàng Thượng, bởi đợi ngài tiến vào cung, đại quân của Dự Vương sớm vây siết ba vạn kỵ binh tinh nhuệ của ngài đến giọt nước cũng rỉ. Hoàng Thượng quả thực tính toán sai, chỉ là bỏ sót điểm . . . đó là em trai của ta, Mộ Duẫn.”

      Đáy mắt Duệ Thân Vương lóe lên ánh nhìn khó đoán, phỏng chừng là chợt hiểu ra cái gì:

      “Té ra cậu ta chính là thủ lĩnh quân Kỷ Nhĩ Mậu? Làm khó cho cậu ta phải mang cái mặt nạ giả thần giả quỷ rồi.”

      Tiếng cười Như Sương khẽ như tiếng thở than:

      “Phải, cho nên Dự Thân Vương mới bị trì trệ việc vào thành, là bởi vạn kỵ binh Kỷ Nhĩ Mậu còn cuốn chân ta. Dự Thân Vương vốn dụng binh như thần, có lẽ lúc này thoát khỏi vướng víu của em tôi, chẳng mấy chốc mà vào đến cung này.”

      Như thể là muốn chứng minh cho lời của nàng, ngoài cửa Chính Thanh thình lình dậy lên trận hò hét như thủy triều tới tấp, tiếng kèn loa vang vọng chốn mù sương, ngay cả băng tuyết tựa hồ đều bị thứ thanh nền nã này chấn động, tiếp đó là chuỗi thanh nặng nề mà vang vang xa xa . . . chính là đại đội quân binh của Dự Thân Vương dùng khúc gỗ cực lớn mà phá cửa điện Chính Thanh.

      Duệ Thân Vương giật nảy lên, phỏng chừng muốn bước xuống khỏi thềm son, nhưng chợt đứng khững lại. Sau cùng, gã hung tợn hỏi:

      “Ngươi làm tất cả là vì cái gì chứ?”

      Như Sương vẫn điềm tĩnh mà đứng nơi đó:

      “Còn các người sao? Các người làm tất cả, lại là vì cái gì?”

      Duệ Thân Vương thở phì phò, mà Như Sương ngược lại nở nụ cười:

      “Lục gia, nếu hôm nay hết thảy này đây đều chỉ vì Lục tỷ, hẳn ngài cũng tin. Ngài vì ngôi vị Hoàng Đế, bán đứng Lục tỷ, bán đứng họ Mộ. Lục gia, đây là báo ứng. Trời làm, vậy ta làm.”

      “Đồ điên!”

      “Các ngươi mới là đồ điên, bọn đàn ông các ngươi đấy.”

      Nàng cười, chỉ về xa xa:

      “Vì cái vị trí này, điều gì cũng làm được, cái gì cũng bỏ được. Ngươi đem Lục tỷ dâng cho Hoàng Đế, ngươi đem người mình nhất dâng cho kẻ thù, chỉ bởi vì tham vọng đế vương. Lục tỷ chết rồi, ngươi lại đưa ta vào cung, hao tâm tốn sức, biến bọn ta thành quân cờ, biến bọn ta thành thứ đồ chơi mà tặng cho người. Được lắm, vậy ta đây thay Lục tỷ đem vị trí này tặng cho ngươi, nhưng ngươi có cái số mà ngồi lên được nửa khắc. Hết thảy giờ này ngày này đều là báo ứng! Báo ứng!”

      Tiếng cười sắc nhọn của nàng lởn vởn giữa gian điện, chợt chôn vùi trong tiếng nổ ầm ầm đinh tai. Cửa điện Chính Thanh cuối cùng cũng bị phá, thanh như thủy triều ào ào dội vang, long trời lở đất. Nàng đứng ở ngay giữa điện chầu, dáng điệu thướt tha, mong manh yếu đuối như thể bất cứ lúc nào cũng có thể bị thứ thanh sóng cuộc triều dâng kia nuốt gọn.

      Lần đầu tiên gã nhìn thẳng vào người con này, mà nàng, chỉ lẳng lặng đứng yên nơi đó, như mỏm đá nhô lên giữa dòng chảy xiết, mặc cho sóng cả nước trào, vẫn sừng sững bất động.

      Duệ Thân Vương cười lạnh tiếng:

      “Ngươi tưởng lấy đó mà nhục mạ ta sao, làm gì có dễ dàng như vậy!”

      Gã ngạo nghễ :

      “Ta là con của Hưng Tông, có lẽ nào chịu chết trong tay cái thứ con tạp Hồi Hột đó!”

      Giơ kiếm cứa nhát ngang cổ, rốt cuộc hơi thở tắc nghẹn giữa cuống họng, gã ngã ngồi bảo tọa, nặng nề gục đầu xuống.

      Máu trườn xuống theo thềm son, nhuộm sắc son càng thêm đỏ tươi diễm lệ.

      Như Sương lẳng lặng đứng đó, trời đất chỉ còn lại khoảng yên ắng tịch mịch, như thời hồng hoang[1] vẫn còn chưa khai. Ánh tuyết chiếu lên cửa sổ giấy, làn ban mai sáng ẩm, rốt cuộc càng ngày càng tỏ, phương đông hào quang rạng ửng, tuyết lớn rơi liên miên cả đêm, cuối cùng đợi hừng đông thức giấc cũng ngừng.

      Dự Thân Vương sau bình minh mới tiến quân vào được thành, hồi chiến đấu kịch liệt, máu của quân địch thắm ướt cả chiến bào của chàng, mà trong lòng chàng nóng như lửa đốt, chỉ thúc ngựa chạy lồng như điên.

      Cổng Vĩnh Môn, cổng Thái Thanh, cổng Chính Thanh, cung điện nguy nga xán lạn cứ lần lượt hiển trước mắt. Tiếng vó ngựa dồn dập, cả hoàng thành trống trải tựa như tòa thành. Tuyết ngừng, chung quanh đều là màn trắng xóa bạt ngàn, tuyết nhiều như chỉ muốn giấu vào lòng hết thảy, đỉnh ngói vàng lưu ly cũng đều đóng lớp tuyết dày.

      Trước cửa điện Chính Thanh to như vậy, ngay cả khoảng tuyết đọng mênh mông đường cũng đều bị nhuốm màu đỏ thẫm, vô số tử thi đều bị chôn vùi phân nửa trong tuyết, bầu khí sặc mùi máu tanh tưởi khiến người ta tởm lợm muốn nôn mửa. Chỉ trong vòng đêm mà toàn bộ chốn hoàng thành phồn hoa nhất thế gian như biến thành cõi Tu La địa ngục trong kinh Phật, thậm chí còn kinh khủng tàn bạo hơn nữa. Mấy hài cốt gãy xương đông cứng vì cái lạnh băng giá, bị vó ngựa phi nước đại đạp cho vỡ vụn, kêu lên răng rắc.

      Dự Thân Vương gần như nhảy phốc xuống lưng ngựa, chạy thẳng mạch vào bên trong điện Chính Thanh. Thềm son cẩm thạch đóng tầng băng mỏng đỏ hồng, lồ lộ bên dưới những hoa văn vân rồng, khắp nơi đều là xác chết nội quan ngổn ngang chất đống. Cả tòa đại điện mà chẳng khác nào dưới chín tầng địa ngục, lặng ngắt như tờ.

      “Hoàng Thượng! Tứ ca!”

      Chàng tựa hồ lảo đảo nhào vào cung Chính Thanh, trong điện bóng người, kim loan bảo tọa như cũng phủ tầng tro bụi mỏng, ghế tựa sơn son thếp vàng đều trở nên u ám và ảm đạm, hun hút lòng điện sâu thẳm vẫn nghe vọng lại thanh của chàng:

      “Tứ ca . . . Tứ ca . . .”

      Giữa điện vẫn lởn vởn mùi máu tanh lợm, xác chết trong điện chất càng nhiều, bởi vì mặt đất khô ấm, máu thậm chí còn đông đặc, cả tòa cung điện như chìm trong biển máu, ngập đến tận mắt cá chân.

      Chàng bắt gặp Triệu Hữu Trí há miệng ngồi xoài chỗ kia, giữa ngực cắm xuyên mũi tên dài, chết cứng từ lâu. Dự Thân Vương chỉ cảm thấy trời đất quay cuồng, giống như phát điên mà tìm kiếm:

      “Tứ ca!”

      Phía sau lớp lớp mành bạc, hình như có bóng người, chàng thình lình khựng lại ở đó, theo phản xạ chụp thanh trường kiếm bên hông. Bọn thị vệ theo cũng túm tụm vây quanh, làm tấm màng bao bọc cho chàng. Vô số thương dài tên nhọn, nhắm sẵn sàng vào bóng người chậm chạp bước ra từ sau lớp mành.

      Nàng vận bộ đồ hoa, làn váy uốn lượn, giống như lội qua biển máu, sắc mặt tái nhợt đến kinh người, dường như phải gượng hết sức mới có thể nhích nổi bước chân, mà đôi giày vải điều đen vàng sớm bị ngấm máu tươi ướt rượt.

      “Cảm tạ trời đất . . . “

      Nàng se :

      “Cuối cùng Vương gia tới.”

      Sau đó thân thể mềm oặt, ngã xuống.

      . . .

      Nàng nằm mơ giấc mộng dài. Mộng về Nguyên Tiêu năm ấy, nàng mười bốn tuổi, đàn bà con trong nhà đều ngoài phía đông thành xem đốt đèn, mà nàng vì phạm vào gia giới, bị cha phạt cho xem.

      Bị nhốt trong nhà như vậy rất bức bối, bên ngoài khói lửa đầy trời, khắp thành đều nườm nượp người xem đèn, nàng lập tức chịu nổi, rốt cuộc cùng Tiểu Hoàn gạt bà vú, thay đổi trang phục con trai mà chuồn ra phủ.

      Đó là lần đầu tiên nàng ra phủ mình, tới đầu con phố bị lạc mất Tiểu Hoàn, song chẳng hề cảm thấy sợ hãi. Tình cờ mà bước vào quán rượu to, tên là Bạn Hương Các. Vốn còn chỗ, nhưng nàng đưa cho hầu phòng mười lạng bạc, lập tức hầu phòng cũng tìm được cách:

      lầu hai hậu viện còn có căn gác cực chỉnh tề, vốn được quý nhân phủ bao cả tháng, mà hôm nay vương công đại thần đều hầu Hoàng Thượng xem đèn, tất đến, vậy cứ im ỉm tạm nhường cho cậu vậy.”

      Gian các chỉnh tề kia, thực căn gác nhã nhặn yên tĩnh nhất trong Bạn Hương Các. Đối diện với sân sau trồng mấy gốc mai hồng, ở đầu gác còn ngóng ra được xa xa phía đông thành đèn hoa rực rỡ, vô số những đường cung lửa bay lả tả khắp bầu trời như sao sa, cắt xé màn đêm tịch mịch.

      “Đêm đông gió thoảng ngàn hoa đưa

      Bay lác đác, sao như mưa

      Ngựa quý, xe trổ, phố ngát hương

      Tiêu phượng thanh thanh

      Ngọc Hồ lấp lánh

      Đêm này cá lượn rồng bay . . .”

      (Thanh ngọc án – Tân Khí Tật – dịch thơ: Đông Y Lâm)

      Từ của cổ nhân, ngâm nga cả ngàn lần, mà thời khắc này, mới biết ý thơ kiều diễm phồn hoa kéo đến tận nơi đây, mà nàng lần đầu tiên uống rượu, trong hơi men ngà ngà nhịn đươc gõ chiếc đũa vào bình[2], cao giọng mà ngâm.

      “Mày ngài, tuyết liễu, dải tơ vàng

      Cười hương đưa thoảng dịu dàng

      Tìm nàng chốn ấy trăm nghìn độ

      Quay nhìn thảng thốt

      Người chỉ có

      Đèn tàn dựa bóng ngóng trông.”

      Ngoài mành bỗng có giọng người cất lên tiếp lời, con tim nàng nhảy thịch cái, hầu phòng vén tấm mành sổ, công tử tuấn khôi ngô, ăn vận trang nhã thong dong bước vào. Mày kiếm mắt sáng, toàn thân toát lên vẻ phong lưu văn nhã như ngọc, đôi con ngươi đen thẳm hun hút tựa bóng đêm, khiến cho người ta đắm đuối.

      Đó là lần đầu tiên trong đời nàng trò chuyện cùng người xa lạ khác giới, hiểu vì sao vẫn trấn tĩnh đến ngạc nhiên, có lẽ vì nàng ăn mặc đồ con trai, có lẽ vì lời của chàng đậm đà thú vị, có lẽ vì đôi mắt với tròng ngươi đen nhánh sáng ngời của chàng.

      Ngày đó, bọn họ với nhau rất nhiều chuyện, nàng kể những mẩu chuyện lý thú ngày thơ ấu cho chàng, chàng lắng nghe với tấm chân tình nồng nhiệt. Nàng đọ rượu với chàng, cuộc kẻ nào bói ra thi từ liền bị phạt rượu, nàng chưa bao giờ gặp được người đàn ông nào học vẫn uyên thâm như chàng, bất luận là cố điển tích ra sao, chàng đều có thể thuận miệng mà giảng giải hết sức tự nhiên.

      Bọn họ trò chuyện rất lâu, thình lình trong phòng tối sầm như mực, mới biết té ra đèn cầy cháy hết.

      Tức khắc ánh tuyết lạnh thanh khiết tràn ngập căn phòng, từa tựa ánh trăng. Trời đất lúc bấy giờ yên ắng tiếng động, chỉ có tuyết rơi ngoài cửa sổ rất khẽ, mà khắp mảng tường chăng đầy những bóng hình đan xen, chính là tuyết trắng phản chiếu dáng mai vào phòng, chạc cây đài hoa đều in lên mồn , hương lạnh ngấm vào tận xương, dường như đầy trời sắc hoa mai.

      “Thơ vạn ý

      Chung rượu ngàn

      Tước hầu vương nào đáng phải màng?

      Lầu ngọc gác vàng lười trở lại

      Say Lạc Dương mai nở vừa sang.”

      Chàng hướng xa xa mở miệng, ngay đây hoa mai đầy trời ngập đất, cúi đầu nỉ non.

      Say Lạc Dương mai nở vừa sang . . . ngày ấy nàng mới biết được, ra đời còn có người, có thể cùng mình kết bầu tri kỷ, ra đời còn có người, cùng nàng tâm đầu ý hợp, vui cùng nàng vui, lòng thấu hiểu lòng.

      Trước lúc chia tay, chàng rốt cuộc hỏi:

      “Dám hỏi, quý danh của nương là gì?”

      Là quá đường đột, là kinh ngạc vô cùng, là khiếp đảm, hơn cả là niềm sung sướng hỗn loạn. ra, chàng sớm biết, nàng là con .

      Trong nháy mắt đó nàng hiểu, hiểu ý tứ của chàng.

      Chàng đến hỏi cưới nàng, chàng hỏi tên nàng, bởi vì chàng muốn đến tận cửa cầu thân. Trong khúc từ sách cổ đều từng xướng như vậy, tài tử giai nhân, vừa gặp . Nàng mới mười bốn tuổi, trong trái tim đắn đo như chú nai con, nện lên thình thịch. Nàng chưa từng nghĩ cuộc hội ngộ với con người như vậy, tuổi nàng còn quá , nàng chưa từng nghĩ, sớm gặp được người như vậy.

      Rốt cuộc đời mình, ra còn có nhân duyên gặp gỡ người như vậy.

      Giọng nàng lí nhí như muỗi, chung quy vẫn cho chàng:

      “Ta họ Mộ.”

      Mộ thị trăm năm danh gia vọng tộc, trong họ rất nhiều người làm quan tại triều, sợ chàng đoán nhầm, lại bổ sung thêm câu:

      “Tên húy của thân sinh ta, gọi Thượng Đại Hạ Quân.”

      Sau cùng xấu hổ ra tên tự của chính mình, bởi vì quá ngượng ngùng, cho nên thanh càng như muỗi, đến nỗi gần như chẳng nghe thấy gì:

      “Ngày đó ta sinh ra, ánh trăng chảy tràn đất tựa thanh sương, cho nên tên của ta . . . tên của ta . . .”

      Chỉ câu nhàng như vậy, trong mắt chàng bừng sáng rực, nom như vầng hào quang xán lạn phi thường:

      “Ta biết.”

      Chợt, chàng rút thanh đoản kiếm bên người tặng cho nàng. Thanh đoản kiếm này hết sức tinh xảo, chuôi kiếm khảm những viên ngọc minh châu, ngay chính giữa bề mặt khắc bốn chữ triện (1 kiểu viết chữ Hán) thếp vàng : “Sống chết ngàn xa”, lật qua mặt kia lại thêm bốn chữ ”Cùng người thề nguyện”.

      Sống chết ngàn xa, cùng người thề nguyện, nắm tay trọn kiếp, bên nhau đến già.

      Nàng xấu hổ đến mức đỏ bừng cả mặt, vội vàng quay . Qua đến đầu đường ngoảnh nhìn lại, vẫn thấy chàng đứng lặng dưới ngọn đèn Bạn Hương Các, y phục trang nhã, tuấn tú như ngọc, nhìn nàng, miệng nở nụ cười. Nàng dám nhìn nữa, chỉ vội vã bước về đằng trước, đầy trời những hạt tuyết li ti, lả tả bay xuống tới tấp. Nàng rất nhanh, trái tim cũng đập cực kỳ gấp gáp, khuôn mặt nóng bừng, trong lòng cũng ấm áp.

      Bởi vì biết chàng đến, nhất định đến.

      Ngay mùa xuân năm ấy, Lục tỷ được gả cho Tứ hoàng tử Định Thuần làm trắc phi. Mới đầu cha rất vừa lòng, nhưng nghe Tứ hoàng tử tại điện Dục Thanh quỳ trọn nửa ngày, Hoàng Đế chung quy cũng đáp ứng, mà cha lại thể chấp thuận. Cho nên cả nhà đều , Tứ hoàng tử lòng si mê như thế, nhất định bạc đãi Lục tỷ.

      Năm thứ hai cũng có người tới cửa cầu hôn nàng, mà nàng trốn sau tấm bình phong lén nhìn ra, chẳng phải chàng.

      Mẹ cũng từng hỏi qua ý của nàng, nàng chỉ cúi đầu quay mặt vách tường , đến lúc mẹ sốt ruột, mới thưa:

      “Mẹ, con còn . . .”

      Mẹ biết là nàng vừa lòng, hơn nữa nàng cũng chỉ mới mười lăm, cũng thôi, sau cố tìm lý do mà khéo léo từ chối đám hỏi kia.

      Nàng rốt cuộc vẫn thể đợi được chàng, mãi đến sau cùng, tru di tam tộc, đêm ấy cửa nát nhà tan, nàng cũng thể nào đợi được chàng.

      Nàng chưa từng hỏi tên của chàng, nàng biết tên chàng.

      Nàng nào biết, Định Thuần.

      Mà chàng, cũng chẳng biết tên nàng.

      Chàng biết, nàng là Như Sương, ánh trăng thanh thuần, khắp trời như sương.

      Chàng chỉ cho rằng, ánh trăng chảy tràn đất, chính là lâm nguyệt.

      Lục tỷ của nàng, tên tự là Lâm Nguyệt.

      Nàng chưa bao giờ nghĩ tới, xảy ra hiểu lầm như vậy, để rồi đánh mất.

      Nàng luôn luôn chờ, cứ ngỡ rằng đợi được chàng, cho đến tận ngày tru di tam tộc, thời điểm ở trong ngục giam, nàng vẫn từng nghĩ, biết cuộc đời này, có hay cơ hội gặp lại chàng.

      Nàng luôn cho rằng, chàng thực đến, nhất định đến, bởi vì nàng hiểu, chàng lòng hứa hẹn, chàng đến.

      . . .

      Nàng cũng biết ra là chàng, mà chàng lại càng biết ra chính là nàng.

      ~ HẾT~


      ********************************

      [1]Thời hồng hoang: thời kỳ đất trời chưa hình thành như truyền thuyết Nữ Oa vá trời^^

      [2] “Kêu nửa ngày, chẳng hiểu sao vẫn nghe ai trả lời, chàng bỗng nhiên nổi hứng, cầm đũa gõ vào cái đĩa, hòa thanh cùng gió tuyết ngoài cửa sổ kia . . . Đoạn ngửa mặt cười sảng khoái, đôi con ngươi sáng ngời, dưới bóng đèn tựa như đêm thâu chưa vãn, đen thẳm sâu hút khôn lường, lấp lánh hào quang muôn ngả, tựa hồ có vật gì chợt vỡ tan . . .” (Chương 24) TT hic ra là nhớ đến ngày đầu tiên gặp chị đây mà, ký ức đẹp như thế . . .

      Ngoại truyện

      “Hết thảy pháp hữu vi

      Như giấc mộng hão huyền

      Như sương hay chớp điện

      Quán chiếu thế liền thôi . . .”

      (Bài kệ Lục Như trong kinh Kim Cương-Phật-dịch:Đông Y Lâm)

      làn khói chờn vờn lùa vào trong điện sâu, tiếng đọc kinh rì rầm, vài câu chứ ngẫu nhiên vượt tấm mành mà truyền ra.

      mặt đất, hoa văn song cửa sổ dài hẹp in lên như những con chữ đầu cuối, nền gạch đen trong suốt như gương, những hoa văn góc cạnh cũng như chỉ muốn trồi lên.

      Nhóm nội quan im hơi lặng tiếng đến cực điểm, chỉ nghe đàn hương thấp thoáng xa xôi, phảng phất đâu đây bóng dáng chùa am thâm tịch.

      “Vương gia, thỉnh bên này.”

      Vương Tùng – vị tân thái giám chấp bút ban Ti Lễ cung kính khom mình, có vẻ hết sức ân cần:

      “Thái Hậu làm công khóa(giờ tụng niệm) trong Phật Đường, Vương gia cứ khoan thai mà ngồi đây, nô tì kêu người bẩm trình Thái Hậu.”

      “Dự Thân Vương gật đầu, hỏi:

      “Hoàng Thượng đâu?”

      Hoàng Thượng vừa mới ngủ ạ. Ôi chao, vị tiểu chủ nhân này quả thực khó chiều, lăn qua quật lại mãi làm mấy bà vú cũng vật vã mồ hôi, sau cũng vẫn phải nhờ cậy đến Thái Hậu, mới dỗ được ngủ. Cái cổ họng bé xíu kia mà khóc đúng là vang dội, lão thái phó cũng , tương lại Vạn Tuế gia chúng ta nhất định vị đế vương uy phong lẫm liệt, kinh chấn thiên hạ.”

      Mới ngồi chốc lát, nghe có thanh vang lên từ trong mành sổ, rồi tiếng áo váy lướt sàn sạt, làn hương khí đạm nhạt quen thuộc đột ngột bay tới.

      Chàng đứng dậy hành lễ:

      “Thần kính gặp Thái hậu.”

      “Vương gia cần đa lễ, mời ngồi.”

      Cánh tấm mành, cũng nghe có giọng dịu dàng. Chàng thân là Nhiếp chính Vương, cư cách cao quý, mà vị Thái hậu trẻ tuổi này thường ngày cũng nhân lễ của chàng, thậm chí thái độ còn vô cùng khách sáo.

      Nhóm nội quan đều lui cả ra ngoài, chàng đem toàn bộ từng việc từng việc của buổi nghị triều hôm nay mà tấu lên, cách mành, chỉ thấp thoáng thấy nàng thân vận đồ tang trắng thuần màu, lại khỏi cụp mắt xuống. Bơit vì tiên đế băng hà còn chưa qua năm, cho nên cả hoàng cung đều mang tang phục. Mà cái bóng trắng thuần kia, chẳng khác nào đóa hoa đổ quyên bên rèm, dính chút son phấn bụi trần, nhưng lại rực rỡ nở trong tầm mắt.

      vài kiện triều chính tấu xong, có khoảng lặng ngắn ngủi, nàng chợt hỏi:

      “Sao hôm nay ngài đến muộn thế?”

      Chàng hơi chần chừ:

      “Hôm nay phải cùng mấy vị nội thần bàn bạc công trình thủy lợi . . .”

      câu còn chưa xong, bỗng thấy nàng tha thướt đứng dậy, vươn cánh tay trắng nõn mà vạch tấm mành lên. Chàng gì, chỉ đứng lên, im lặng lùi về sau mấy bước. Nàng chầm chậm tới trước mặt chàng, đột nhiên nở nụ cười xinh đẹp:

      “Lệ Nhi khóc cả nửa ngày, vừa mới ngủ, ngài muốn nhìn nó cái sao?”

      Tiểu Hoàng Đế vừa mới đầy tháng ở trong noãn các phía đông, say giấc trong nôi, tã lót bao bọc thế nhưng lại là loại vải bố trong dân gian, chính là do Như Sương tự mình mệnh nội quan lặng lẽ đến hỏi mấy gia đình nghèo khó xin về, sau khi đưa vào cung chưng qua ba lần phơi ba lần, sau đó lại tự tay thêu cái đường mối ghép, trông chẳng khác nào mấy thứ đồ sơ sinh rẻ tiền trong thiên hạ. Chỉ khác điều là, bên ngoài cái tã lót dân gian ấy lại được đắp chiếc mền gấm dệt kim tuyến hoa văn rồng vàng nho , đây là vật dụng của Hoàng Đế, trong thiên hạ nào có tôn quý được đến thế.

      Ước chừng là ấm quá, khuôn mặt nhắn của em bé đỏ bừng, chàng bất tri bất giác nở nụ cười, vươn tay muốn kiểm tra khuôn mặt đứa bé xem thế nào, lại sợ tay mình lạnh, làm nó giật mình tỉnh giấc.

      Như Sương đứng ở bên người chàng, khẽ giọng :

      là nhẫn tâm . . . tới nông nỗi ngày hôm nay rồi, vậy mà còn chịu lo liệu tính toán gì cho hai mẹ con ta cả.”

      Bộ dạng chàng dường như là sợ hãi cả kinh, từ từ đứng dậy, nhìn nàng.

      Nàng bật cười:

      “Đừng nhìn ta như vậy, Ngô Chiêu Nghi ngày hôm trước hạ sinh con trai, chàng lại phái người tráo đứa con sơ sinh rồi đưa ra cung, chuyện như vậy, lừa gạt kẻ khác còn được, chẳng nhẽ còn đòi giấu giếm cả ta?”

      Chàn nhíu mày song có vẻ nhẫn nhịn:

      “Đó là con của Tứ ca.”

      “Giữ nó lại, chính là mầm họa.”

      được!”

      Chàng chợt đột phát:

      “Ta thể!”

      Giọng hơi to, kinh động đến thân hình sơ sinh trong nôi giật thót cái, bỗng “oa” tiếng khóc òa lên.

      Nàng ôm lấy đứa bé, mặt vừa vỗ về, mặt trừng mắt nhìn chàng:

      “Vì Lệ Nhi, thể giữ lại cái mầm họa kia được.”

      được!”

      Sắc mặt chàng u đáng sợ:

      “Mộ Như Sương, nếu dám làm cái chuyện đó, từ đây về sau, chúng ta ân đoạn nghĩa tuyệt. buông rèm chấp chính ngày, ta liền bước vào triều nửa bước.”

      Như Sương cười phì, dần dần cũng dỗ đứa đứa bé ngủ lại, bấy giớ mới khẽ quở trách:

      “Nhìn cái dáng vẻ của chàng kia, chẳng khác nào muốn ăn thịt người ta. Động tí là lại cứ cáu kỉnh giận giữ, nhẫn tâm. Chàng nếu mà quẳng gánh trách nhiệm, cả cái triều đình to như vậy, ngàn lời vạn chữ, bảo người ta thân đàn bà con làm sao bây giờ? Lệ nhi vừa mới đầy tháng, chàng chút cũng thương nó sao?”

      Cúi xuống hôn lên mặt đứa bé, chợt :

      “Kìa! Chàng xem, là Lệ Nhi cười đó.”

      Quả thực cười, trẻ sơ snh vừa tròn tháng, ngủ mơ vô tư vô lự cười ngây ngô, tựa hồ có thể làm tan chảy toàn bộ băng tuyết đời, nụ cười khiến cho lòng người ta mềm nhũn.

      Như Sương nhu hòa :

      “Ta biết chàng đành lòng, nhưng đứa bé kia thực thể giữ, có nó có Lệ Nhi, mà có Lệ Nhi thể có nó. Dù chúng ta chịu nhiều khổ sở nữa cũng được.”

      Lời nàng như tiếng thầm:

      “Lệ Nhi còn , làm sao thể vì nó mà lo liệu tính toán?”

      Dự Thân Vương chỉ cảm thấy nỗi phiền chán hiểu nổi:

      “Việc này ngày khác sau.”

      Như Sương cũng chẳng thúc ép gì nữa, cười lại hỏi:

      “Hôm nay dùng cơm trưa tại đây nhé? Ta kêu phòng bếp làm món, trời lạnh, bụng đói cưỡi ngựa về, triều hẳn còn đống người chờ chàng thương nghị, tất lại ăn cơm nổi, sau nữa lại đói cho đau dạ dày mà xem.”

      Dự Thân Vương vốn chẳng muốn ở lại cung Từ Ninh này lâu quá:

      “Thái Hậu nếu có chuyện gì nữa, thần thỉnh cáo lui trước.”

      Bèn đứng dậy dợm bước , nhưng nàng tay ôm đứa , tay lại kéo ống tay áo chàng, chỉ :

      “Lệ Nhi, con bảo hoàng thúc ở lại cùng hai mẹ con ta ăn bữa cơm . Ôi, rốt cuộc mệnh con sao khổ thế, cha con còn nhẫn tâm như vậy, vứt bỏ hai người chúng ta xó thôi.”

      Dự Thân Vương trông nàng điềm đạm đáng , trong ánh mắt còn lấp lánh ngấn lệ, xem chừng sắp phát khóc rồi, Cuối cùng cũng thể nào cưỡng lại nổi cái giọng nũng nịu êm ái của nàng, chỉ đành ở lại.

      Lúc chàng ra khỏi cung, canh giờ tối muộn, vào động ngày ngắn, lúc trở lại trong phủ đến lúc phải thắp đèn. Ngoài phủ như thường lệ ngựa xe động nghẹt, tên tả quan Tây Qua cứ từng chiếc từng chiếc chạy qua chạy lại sắp xếp con ngõ chật ních kiệu quan, xe ngựa, xa xa thấy đầu ngựa nghi trượng của Nhiếp chính Vương, trong ngõ lại khỏi loạn bát nháo hồi. Ngu vệ canh cửa nhanh chóng bước ra nghênh đón.

      Dự Thân Vương xuống ngựa, nội quan xách đèn bên cửa thấy chàng, vội vàng khoanh tay cung kính nép bên. Chiếc đèn lồng đan lớn vừa mới thắp, vốn là quốc tang, ánh nến sáng trưng chiếu rọi cả dưới đế đèn có hàng chứ màu lam dẹt mà “Sắc tạo phủ Nhiếp chính Vương “. Còn cây đèn khác chưa đốt, trong bóng tối vừa buông, bóng đèn trắng như tuyết thoảng lay động trong gió, tựa như con ngươi của con quái thú, lập lòe chớp tắt .

      Xử lý xong xuôi mấy công vụ gấp rút, gã tổng quản ngó quanh thấy trống vắng mới bẩm báo:

      “Vương gia, Trì quản hạt trở về.”

      Nguyên có công trong cuộc san bằng phản loạn, Trì Tấn Nhiên năm nay tuổi mới đôi mươi được phong làm quản hạt, lúc này chỉ mang thường phục, tiến vào hành lễ với Dự Thân Vương. Dự Thân Vương phất tay, a hoàn nội quan vừa đứng đầy gian lập tức lui sạch.

      “Vú nuôi nay, là người từ nuôi nấng em thuộc hạ lớn lên, cho nên bên dám hé môi, đảm bảo đáng tin cậy. Vấn đề là thời còn chưa tìm được nơi nào tốt, chắc phải từ từ mà tìm cách.”

      Trong giọng Dự Thân Vương còn đượm vài phần mệt mỏi:

      cần, cứ để đứa bé sơ sinh đó ở lại trong phủ này .”

      Trì Tấn Nhiên lấy làm kinh hãi:

      “Ở lại trong phủ . . .?”

      “Ở trong phủ!”

      Dự Thân Vương nhanh chóng đưa ra quyết định:

      “Ngươi cho nhóm trợ lý, thay ta viết tờ thông cáo bẩm trình cho phủ Tông Nhân, là ta thu nhận đứa con nuôi . . . để cho phủ Tông Nhân nhớ mà ghi chép vào trong gia phả.”

      Trì Tấn Nhiên ngờ chàng có ý định như thế, lưỡng lự :

      “Chỉ sợ trong cung . . .”

      Dự Thân Vương :

      ta dám, chỉ cần để đứa bé ở bên người ta, ta dám, ta thời vẫn còn kiêng kỵ địa phận của ta, nhất thời, ta còn chưa dám manh động.”

      Trì Tấn Nhiên lo nghĩ, tuy là thấy ổn lắm, nhưng tình thế bức bách trước mặt, qảu thực còn thượng sách. Vì thế trầm mặc chốc lát, lại hỏi:

      “Nếu muốn ghi trong phả hệ, vậy Vương gia cần đặt cho nó cái tên, để ghi vào trong tờ trình nữa.”

      Theo quy chế hoàng tử bấy giờ đều phải đặt tên ứng với bộ “mộc” (木), vì vậy tiểu Hoàng Đế mới gọi “Lệ” (棣)[1], đó là thành quả dày công chọn lựa ba tháng của bộ Lễ, từ trong sách cổ mà lọc ra hơn mười con chữ, tiếp đó trình lên cho Nhiếp chính Vương cùng Thái Hậu coi qua, Thái Hậu lại tự tay khoanh vào chữ “Lệ” này. Từ đó về sau, trong thiên hạ, phàm là gặp chữ ấy đều phải khuyết bút kiêng kỵ thành kính, trong vạn dân đều được phép gọi thẳng, bởi đây là tên tự của Hoàng Đế.

      Mà đứa bé trong phủ này, tuy là sống sót qua trăm cay nghìn đắng, cho dù thân là thế tử của Nhiếp chính Vương, cũng được đặt tên theo bộ “mộc”, bằng , chính là vượt quá giới hạn, bởi dòng dõi hoàng thân quốc thích chỉ có thể lấy theo bộ “nhật” (日).

      “Vậy gọi là “Diệu”(曜) .”

      Dự Thân Vương nhanh chóng quyết định.

      “Trong “nhật” có “diệu”.[2]

      Chàng ngẩng đầu lên, nhìn đêm tối mịt mù bên ngoài cửa sổ, như thở dài tiếng:

      “Đêm dù dài, cũng luôn luôn đến thời điểm hừng đông.”

      *****************************

      [1] Lệ đây là trong “cây đường lệ” chứ phải là nước mắt đâu nha, mà vốn có cuộc tranh cãi nảy lửa giữa phiên “đệ” và “lệ” nhưng mình thấy chữ lệ nghe sang hơn^^.

      [2] Ý Dự Thân Vương muốn “trong mặt trời có hào quang.”

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :