1. QUY ĐỊNH BOX XUẤT BẢN :

       

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]

    ----•Nội dung cần:

    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)

    - Tác giả

    - Dịch giả

    - Đơn vị phát hành

    - Số trang ( nên có)

    - Giá bìa (nên có)

    - Ngày xuất bản (nên có)

    --- Quy định

    1 . Thành viên post có thể tự type hoặc copy từ nơi khác (để nguồn)

    2 . Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn

    3. Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ

    Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

[Cổ đại] Tình mẫu đơn - Lisa See (Hoàn)

Thảo luận trong 'Sách XB Hoàn'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. Nhã Linh

      Nhã Linh Well-Known Member

      Bài viết:
      722
      Được thích:
      481
      Chương 5
      Khổng Tử viết: Kính quỷ thần nhi viễn chi(1). Vào ngày Thất Tịch, người ta quên quỷ thần và tổ tiên. Ai ai cũng chỉ muốn vui hội, từ những trò đặc sắc tới buổi diễn kịch. Tôi thay tấm áo dài sa mỏng thêu đôi chim bay những đóa hoa mùa hạ gợi lên niềm hạnh phúc tôi cảm thấy khi ở bên người lạ.

      Bên dưới, tôi mặc tấm váy gấm dệt kim tuyến với dải hoa tuyết lê thêu quanh gấu, thu hút những ánh mắt xuống đôi hài chân bó bằng lụa màu hoa vãn . Khuyên vàng đu đưa tai và cổ tay nặng những vòng vàng vòng ngọc người nhà tặng tôi trong những năm qua. Tôi hoàn toàn quá trưng diện.

      Nhìn đâu tôi cũng thấy đàn bà con duyên dáng leng keng xủng xẻng khi họ đung đưa người qua phòng để chào hỏi người khác bằng dáng nhịp nhàng yểu điệu. bàn thờ được bày biện cho buổi lễ trong Liên Khai Đường, những nén nhang cháy trong các lư đồng ba chân tỏa khắp phòng mùi thơm nồng.

      Những chồng quả, cam, dưa, chuối, khế, long nhãn nằm các đĩa men Cảnh Thái Lam. Ở đầu bàn đặt bát sứ trắng đựng đầy nước và lá bưởi tượng trưng cho thanh tẩy của các dâu. Giữa bàn đặt mâm tròn, đường kính gần thước, với ô tròn ở giữa cùng sáu ô xung quanh.

      Ô giữa miêu tả nàng Chức Nữ và chàng Ngưu Lang với con trâu lội trong dòng suối gần đó làm chúng tôi nhớ tới nơi nàng tiên nữ che giấu tấm thân lõa lồ của mình. Các ô xung quanh thể các chị em của Chức Nữ. Mẹ lần lượt mời các chưa chồng đặt lễ vật cho mỗi nàng vào ô tương ứng.

      Sau nghi lễ, chúng tôi ngồi xuống dự bữa tiệc cực kỳ thịnh soạn. Mỗi món đều có ý nghĩa riêng. Nên chúng tôi ăn món “móng rồng ban quý tử”, giò lợn ướp với mười loại gia vị gia truyền om lửa, nghe đồn ăn món này sinh được con trai. Gia nhân đem vào cho mỗi bàn con gà Cái Bang.

      Bằng nhát đập mạnh, lớp đất sét nung ốp vào từng con gà bị đập vỡ và mùi hương của gừng, rượu và nấm lan tỏa trong phòng. Hết món này đến món khác được đem đến. Mỗi món được nêm gia vị để thỏa mãn vị giác: ngon, dở, thơm phức, nặng mùi, ngọt, chua, mặn, đắng.

      Để tráng miệng, gia nhân dọn cho chúng tôi bánh mạch nha làm từ gạo nếp, đậu đỏ, hạnh đào và rau hạnh để giúp tiêu hóa, giảm cân và kéo dài tuổi thọ. Đó là bữa xa xỉ nhưng tôi căng thẳng đến nỗi nuốt chẳng trôi. Bữa tiệc được tiếp nối bằng cuộc thi cuối cùng. Đèn lồng được hạ xuống và mỗi chưa chồng phải xâu kim dưới ánh sáng phát ra từ đầu nén nhang duy nhất.

      Nếu xâu được kim là đó sinh con trai khi lấy chồng. Người ta uống nhiều rượu Thiệu Hưng nên có khá nhiều tiếng cười vang lên mỗi khi có người thất bại. Tôi cố gắng hết mức để cười phụ họa theo, nhưng trong đầu dự tính xem nên gặp người lạ thế nào mà bị bắt gặp.

      Tôi chỉ có thể dự đoán, hy vọng và suy nghĩ từng nước , như tôi vẫn làm khi chơi cờ với cha. giống đêm đầu tiên, tôi muốn ngồi ở hàng trước, gần sàn diễn kịch nhất nhưng cũng là vị trí mà mọi người đàn bà đều có thể trông thấy. Tôi cũng thể nấn ná phía sau như tối qua.

      Nếu tôi lại làm thế, mẹ nghi ngờ gì đó. Bà biết là tôi quá thích vở kịch nên đến muộn lần nữa. Tôi phải tỏ vẻ như cố gắng làm bà hài lòng, đặc biệt là sau chuyện xảy ra chiều nay. Khi bộ óc tôi rà qua các khả năng, mắt tôi dừng lại ở chỗ Đàm Trắc.

      Tôi bắt đầu các nước cờ của mình. Phải, tôi có thể dùng con bé để khoác lên mình lớp áo ngây thơ Khi Liên xâu được kim và mọi người vỗ tay hoan hô, tôi tới chỗ Đàm Trắc, nó ngồi chênh vênh ghế mong mẹ tôi chọn nó lên chơi trò xâu kim ấy. Điều đó bao giờ xảy ra.

      Đàm Trắc đâu có đợi hôn lễ để mà lên chơi chứ; nó còn chưa được mai mối. Tôi vỗ vào vai nó. “ với chị nào,” tôi bảo. “Chị cho em xem thứ này.” Trắc tuột khỏi ghế và tôi nắm lấy tay nó, cố tình để mẹ trông thấy tôi làm gì. “Em biết là chị đính ước rồi đúng ,” tôi khi cùng Trắc về buồng mình.

      Con bé gật đầu, vẻ mặt rất nghiêm nghị. “Em có thích xem quà dẫn cưới của chị ?” Trắc kêu ré lên. Trong thâm tâm, tôi gần như làm y như thế nhưng vì lý do rất khác. Tôi mở những chiếc rương bằng da lợn và cho nó xem những súc sa mỏng, gấm lụa bóng láng và vải thêu kim tuyến nặng trĩu được người ta gửi đến.

      Khi tiếng chiêng xủng xoảng và tiếng trống thùng thình gọi chúng tôi ra vườn, Trắc đứng lên. Phía ngoài buồng tôi, đám đàn bà con tụ tập trong hành lang. “Em phải xem váy cưới của chị,” tôi vội . “Em thích cái khăn trùm đầu cho mà xem.” Con bé lại ngồi xuống, ngọ nguậy mông đầy háo hức đệm giường tôi.

      Tôi mang ra chiếc váy cưới bằng lụa đỏ thêu với hàng chục ly xếp xíu. Người phụ nữ cha tôi thuê làm nó chỉnh những đường may sao cho mẫu thêu hoa, mây và các biểu tượng may mắn đan cài nhau được sắp thẳng hàng cách hoàn hảo. Trong ngày cưới, hoa văn chỉ đứt đoạn nếu tôi bước quá dài.

      Tấm áo dài cũng tinh xảo tương xứng. Thay vì chỉ có bốn chiếc khuyết để cài, ở cổ, ngang ngực và dưới cánh tay, người thợ may làm hàng chục chiếc khuyết viền quanh xíu để khiến chồng tương lai của tôi lúng túng và kéo dài thêm đêm động phòng. Tấm khăn trùm đầu giản dị và trang nhã: khu vườn với những lá vàng mỏng rung lên khi tôi cử động và lung linh trong ánh sáng, với tấm mạng che mặt màu đỏ để tôi trông thấy tân lang cho đến khi chàng lật nó ra.

      Trước đây tôi luôn thích trang phục cưới của mình, nhưng xúc cảm khuấy động trong tôi lúc này rất u ám. Mục đích của việc gói mình như món quà là gì đây nếu ta có cảm xúc với người mà ta được đem trao tặng? “Đẹp đấy ạ, nhưng cha em hứa là em có ngọc trai và ngọc bích khăn trùm đầu,” Đàm Trắc khoe khoang.

      Tôi hầu như nghe nó gì, vì tôi tập trung ngóng xem chuyện gì diễn ra bên ngoài. Trống và chiêng vẫn mời gọi khán giả nhưng hành lang tĩnh lặng. Tôi bỏ bộ váy cưới của mình xuống, rồi cầm tay Đàm Trắc ra khỏi phòng. Chúng tôi thả bộ ra vườn. Tôi thấy các em họ mình tụ tập với nhau sau bức bình phong.

      thể tin nổi, bọn chúng dành sẵn chỗ cho tôi. Liên vẫy tôi nhập hội với bọn chúng. Tôi cười đáp lại và rồi cúi xuống thầm vào tai Đàm Trắc. “Nhìn kìa, bọn con chưa chồng muốn em ngồi với bọn họ kìa.” “Bọn họ ư?” Nó thậm chí đợi tôi khuyến khích thêm len lỏi qua những chiếc nệm để đến với mấy đứa con khác, ngồi xuống và ngay lập tức liến thoắng với bọn em họ tôi.

      Bọn chúng dành cho tôi ân cần nho và đó là cách tôi đền đáp lại chúng. Tôi giả bộ nhìn quanh để tìm chiếc nệm còn trống gần phía trước hay ở giữa nhưng dĩ nhiên, đến lúc này còn chiếc nào nữa cả. Tôi vờ tỏ vẻ thất vọng rồi tế nhị ngồi xuống chiếc nệm ở rìa sau khu vực dành cho phụ nữ.

      Cảnh mở màn đêm nay là cảnh tôi rất thích xem nhưng chỉ có thể nghe từ chỗ mình ở sau đám khán giả. Lệ Nương và Mộng Mai cùng nhau trốn nhà, chuyện chưa từng có trong văn hóa của chúng tôi. Khi họ thành hôn, Lệ Nương thú nhận rằng nàng là trinh nữ, dù hồn ma của nàng qua đêm với Mộng Mai.

      Khi là hồn ma, trinh tiết của thể xác trong phần mộ vẫn được giữ gìn. Đoạn này kết thúc khi Lệ Nương và Mộng Mai khởi hành đến Hàng Châu, nơi chàng hoàn tất việc học hành để ứng thí. phần ba cuối cùng của vở có rất ít đoạn tôi thích. Nó hầu như chỉ kể về thế giới bên ngoài khu vườn của Lệ Nương, với những cảnh chiến trận lớn nơi mọi người lại lại, nhưng nó làm khán giả sau tấm bình phong phía tôi hoàn toàn say mê.

      Xung quanh tôi, những người phụ nữ đắm mình vào câu chuyện. Tôi chờ cho đến khi thể chịu đựng thêm nữa; rồi với trái tim đập thình thịch, tôi chậm rãi đứng lên, vuốt phẳng váy áo và bước trở lại hướng khu dành cho phụ nữ, cố làm ra vẻ bình thường hết mức. Nhưng tôi về khu nhà dành cho con chưa chồng.

      Tôi rời khỏi con đường chính, rồi hối hả men theo bức tường phía Nam trang viên, qua các ao và vọng đình cho tới khi đến lối mòn ven bờ hồ. Tôi chưa từng lối này và chắc phải tiếp thế nào. Rồi tôi thấy Vọng Nguyệt Đình và có cảm giác rằng người lạ ở đó.

      Chỉ có vầng trăng lưỡi liềm soi sáng màn đêm và tôi lần tìm trong bóng tối cho tới khi thấy chàng. Chàng ngồi vắt vẻo lan can ở mé xa nhất của chiếc đình, nhìn ra mặt nước mà nhìn tôi. Ngực tôi thắt lại khi biết điều này. Lối được lát đá cuội theo mẫu hình con dơi tượng trưng cho phúc(1),hình mai rùa tượng trưng cho thọ và hình đồng tiền tượng trưng cho lộc.

      Vì thế mỗi bước mang lại niềm vui, tuổi thọ và thêm nhiều giàu sang. Ông bà tổ tiên chúng tôi xây dựng những con đường trải đá cuội này cũng vì lý do sức khỏe. Khi có tuổi, những viên đá cuội xoa bóp bàn chân lúc các cụ dạo bước. Đó hẳn là vào những ngày xa xưa khi phụ nữ được phép ra vườn, vì tôi thấy bề mặt này rất khó bước với đôi chân bó.

      Tôi tập trung để mỗi bàn chân tìm được chỗ bám hòn cuội, giữ thăng bằng trước khi nhích người lên phía trước, và ý thức được rằng như thế làm nổi bật thêm tao nhã trong dáng của mình. Tôi lưỡng lự trước khi bước vào Vọng Nguyệt Đình. Lòng can đảm của tôi dần mất .

      Với tôi, chỗ này luôn bị cấm vì ba mặt có nước vây quanh. chính xác hơn, là vì nó nằm ngoài tường bao quanh khu vườn nhà chúng tôi. Rồi tôi nhớ đến quả quyết của Lệ Nương. Tôi hít hơi bước vào giữa đình và dừng lại. Chàng mặc chiếc áo dài bằng lụa xanh thẫm.

      lan can, bên cạnh chàng là đóa mẫu đơn và nhành liễu. Chàng đứng lên, chỉ chăm chăm nhìn tôi. Tôi gắng hết sức để đứng yên chỗ. “Nhà nàng có vọng đình nhìn được ba hướng,” chàng bảo. “Nhà ta cũng có chiếc đình như thế, chỉ là vọng đình bên ao chứ phải bên hồ.” Chàng hẳn thấy bối rối của tôi, nên giải thích.

      “Từ đây nàng có thể ngắm trăng theo ba hướng: bầu trời, phản chiếu mặt nước và phản ảnh từ mặt hồ vào gương.” Chàng nhấc tay lên và uể oải trỏ vào tấm gương treo phía thứ trần thiết độc nhất trong đình: chiếc trường kỷ gỗ chạm khắc. tiếng “Ôi!” thốt ra khỏi miệng tôi.

      Đến tận lúc này tôi chưa bao giờ coi trường kỷ kê trong đình là vật gì khác ngoài nơi cho người lười biếng nghỉ ngơi, song giờ đây, thân tôi run rẩy với những ý nghĩ về trường kỷ, tấm gương và những đêm mệt mỏi mà tôi ước mong được trải qua trong vọng nguyệt đình ở nhà chàng.

      Chàng mỉm cười. Phải chăng chàng thấy điều gì đó hài hước trong nỗi ngượng ngùng của tôi, hay là chàng cũng nghĩ giống như tôi? hồi lâu sau, với tôi đó là khoảng thời gian thấp thỏm yên, chàng đứng lên đến bên tôi. “Nào. Cùng ta ngắm cảnh ngoài kia .” Khi ra đến lan can, tôi nắm chặt chấn song để giữ mình cho vững.

      đêm đẹp trời,” chàng bảo, nhìn ra mặt hồ trong vắt. Rồi chàng quay lại phía tôi. “Nhưng nàng còn đẹp hơn nhiều.” Tôi cảm thấy hạnh phúc choáng ngợp, rồi cơn sóng thẹn thùng và sợ hãi kinh khủng trào dâng lên. Chàng nhìn chăm chăm vào mặt tôi với ánh mắt dò hỏi.

      “Có gì ổn vậy?” Lệ dâng lên trong mắt nhưng tôi buộc mình nén lại. “Có lẽ chàng chỉ thấy điều chàng muốn thấy thôi.” “Ta thấy thực mà ta muốn hôn khô nước mắt.” Hai giọt lệ tràn ra và chảy xuống má tôi. “Giờ đây làm sao em còn có thể trở thành người vợ tốt nữa?” Tôi khoát tay cách tuyệt vọng.

      “Sau chuyện như thế này ư?” “Nàng làm gì sai đâu.” Nhưng dĩ nhiên là tôi làm! Tôi ở đây, phải ư? Nhưng tôi muốn về chuyện đó. Tôi bước ra xa, gập đôi bàn tay phía trước mình, và bằng giọng đều đều: “Khi chơi đàn tranh, em luôn mắc lỗi.” “Ta quan tâm đến đàn tranh.” “Nhưng chàng phải chồng em,” tôi đáp.

      Vẻ đau đớn choán lấy khuôn mặt chàng. Tôi làm tổn thương chàng. “Những mũi thêu của em quá rộng và vụng về.” Tôi thốt lên nhanh. “Mẹ ta ngồi trong phòng cả ngày để thêu thùa may vá. Nếu nàng là vợ ta, hai người cùng làm những việc khác.” “Tranh em vẽ kém cỏi.” “Nàng vẽ gì?” “Hoa, thứ bình thường ạ.” “Nàng phải là người thường.

      Nàng nên vẽ thứ bình thường. Nếu có thể vẽ thứ mình muốn nàng chọn gì?” Trước đây ai hỏi tôi điều đó. ra là chưa ai từng hỏi tôi điều gì giống như thế. Nếu có suy nghĩ, nếu đứng đắn, tôi trả lời rằng mình tiếp tục luyện tập vẽ hoa.

      Nhưng tôi suy nghĩ. “Em vẽ những thứ này: hồ nước, vầng trăng, chiếc đình.” “Vậy là phong cảnh.” Phong cảnh thực , chứ phải là phong cảnh trong những phiến đá cẩm thạch lạnh lẽo như ở thư phòng của cha tôi. Ý tưởng ấy hấp dẫn tôi. “Nhà ta ở đồi cao bên kia hồ,” chàng tiếp tục.

      “Mọi phòng đều có tầm nhìn. Nếu chúng ta thành thân, chúng ta bầu bạn cùng nhau ở đó. Chúng ta cùng du ngoạn, hồ, sông, ngắm nhìn thủy triều.” Những điều chàng làm tôi vừa vui vừa buồn, vì đó là cuộc sống tôi hằng khao khát mà bao giờ có được. “Nhưng nàng đừng lo,” chàng tiếp tục.

      “Ta chắc rằng chồng tương lai của nàng cũng hoàn hảo đâu. Nhìn ta này. Từ triều Tống, tham vọng của mọi người đàn ông là đạt được danh hiệu trong kỳ thi của triều đình, nhưng ta tham dự khoa cử và cũng muốn làm điều đó.” Nhưng chúng là nên như thế mà! đấng nam nhi ngày nay, người trung thành với nhà Minh, luôn luôn chọn cuộc sống hướng nội hơn là làm quan lại trong chế độ mới.

      Sao chàng lại thế? Chàng nghĩ tôi lỗi thời hay chẳng qua là ngốc nghếch ư? Chàng có nghĩ rằng tôi mong chàng buôn ? Kiếm tiền như lái buôn tầm thường và thấp kém. “Ta là thi nhân,” chàng bảo. Tôi nhoẻn miệng cười. Trực giác cho tôi biết điều đó ngay lần đầu tiên nhìn thấy chàng qua tấm bình phong.

      “Nghề nghiệp vĩ đại nhất chính là văn nghiệp.” “Ta muốn được thành thân với người đồng điệu, cuộc hôn nhân mà chúng ta chia sẻ cuộc đời, chia sẻ thi ca,” chàng thầm. “Nếu chúng ta là vợ chồng, chúng ta sưu tập sách, cùng đọc và thưởng trà bên nhau. Như ta với nàng từ trước, ta muốn nàng vì những thứ ở trong đây.” Chàng lại trỏ vào trái tim tôi nhưng tôi cảm thấy nó chỗ thấp hơn người mình.

      “Vậy nên, hãy với ta về vở kịch ,” chàng sau hồi lâu. “Nàng có buồn vì được xem Lệ Nương tái ngộ với mẹ ? Ta hiểu rằng các thích cảnh đó.” Đúng vậy. Tôi thích cảnh đó. Khi trận chiến nổ ra giữa giặc cướp và quân lính triều đình, Đỗ phu nhân và Xuân Hương tìm nơi trú tại quán trọ ở Hàng Châu.

      Đỗ phu nhân bị bất ngờ, hoảng sợ, khi thấy con mình, bà tưởng đó là hồn ma của nàng. Nhưng dĩ nhiên, đến lúc này ba hồn bảy vía của Lệ Nương được hợp nhất và nàng trở lại là bằng xương bằng thịt. “ nào cũng hy vọng mẹ nhận ra và thương mình, cho dù chết, cho dù hồn ma, cho dù trốn nhà ,” tôi .

      “Phải, đó là cảnh tả tình hay,” thi nhân của tôi đồng ý. “Nó cho chúng ta thấy tình mẫu tử. Còn những cảnh khác đêm nay...” chàng vểnh cằm vẻ lạnh nhạt. “Thời thế làm ta hứng thú. Quá lý tính, nàng đồng ý ư? Ta thích những cảnh trong hoa viên hơn nhiều.” Chàng coi thường tôi ư? “Mộng Mai đem Lệ Nương trở lại dương thế bằng đam mê,” chàng tiếp tục.

      “Chàng tin vào hồi sinh của nàng.” Cách lý giải của chàng về vở kịch giống với tôi đến nỗi tôi bạo dạn hỏi, “Chàng làm thế vì em chứ ạ?” “Tất nhiên ta làm.” Rồi chàng ghé mặt lại sát mặt tôi. Hơi thở chàng sực mùi hoa lan và xạ hương. Niềm khao khát chung mà cả hai cùng cảm thấy sưởi ấm khoảng trống giữa chúng tôi.

      Tôi nghĩ chàng hôn mình và đợi chờ cảm giác môi chàng đặt lên môi mình. Thân thể tôi ngập tràn nhựa sống và xúc cảm. Tôi cử động, vì tôi biết mình phải làm gì, cũng biết chàng mong đợi tôi làm gì. Điều đó hoàn toàn đúng. ai mong đợi tôi làm bất cứ điều gì giống như thế này, nhưng khi chàng bước ra xa và nhìn tôi với cặp mắt đen thẫm, tôi run rẩy vì khao khát.

      Chàng có vẻ hơn tôi nhiều tuổi lắm, nhưng chàng là đàn ông và chàng sống ở thế giới bên ngoài. Theo những gì tôi được biết, hẳn chàng phải có nhiều kinh nghiệm với đám ca kỹ ở phòng trà mà đôi khi tôi vẫn nghe thấy giọng hát vẳng qua hồ. Với chàng, tôi dường như là đứa trẻ và trong chừng mực nào đó chàng đối xử với tôi như với đứa trẻ, bằng cách lùi lại vừa đủ xa để tạo cho tôi cơ hội tự trấn tĩnh.

      “Ta chưa bao giờ khẳng định được rằng vở kịch ấy kết thúc có hậu hay ,” chàng bảo. Lời chàng làm tôi giật mình. từng ấy thời gian từ lúc tôi tới đây ư? Chàng hẳn cảm thấy lo lắng của tôi, vì sau đó chàng thêm, “Đừng lo, vẫn còn vài cảnh nữa.” Chàng cầm cành mẫu đơn mang theo lên, và đặt đóa hoa lên lòng bàn tay còn lại.

      “Mộng Mai đỗ Trạng nguyên.” Tâm trí và thân thể tôi cách xa, cách xa vở kịch và tôi buộc mình phải tập trung, tôi cho là chàng muốn thế. “Nhưng khi chàng đến bái kiến Đỗ thái thú với tư cách con rể, chàng bị bắt lại,” tôi . Khi chàng mỉm cười, tôi hiểu là tôi làm đúng.

      “Đỗ thái thú ra lệnh lục soát hành lý của Mộng Mai, và...” “Lính gác tìm thấy bức chân dung tự họa của Lệ Nương,” tôi nốt thay chàng. “Đỗ thái thú sai người đánh đập và tra tấn Mộng Mai, ông ta cho rằng chàng thư sinh xâm phạm ngôi mộ con mình.” “Mộng Mai khăng khăng rằng chàng đem Lệ Nương trở lại từ cõi và hai người thành thân,” chàng tiếp.

      “Lòng giận dữ, Đỗ thái thú ra lệnh xử trảm Mộng Mai.” Hương thơm của đóa mẫu đơn trong tay chàng lan tỏa khắp đầu tóc tôi. Tôi nhớ lại những điều mình ước giá như đêm qua mình làm, liền nhặt nhành liễu lan can lên. Tôi bắt đầu chậm rãi bước quanh chàng, miệng khe khẽ, vuốt ve chàng bằng lời mình.

      “Câu chuyện kết thúc buồn ư?” tôi hỏi. “Tất cả bị giải lên triều để trình bày việc với nhà vua.” Tôi trọn vòng, dừng lại liếc nhanh vào mắt chàng, rồi lại lượn quanh chàng, lần này, tôi để lá liễu quệt vào người chàng. “Lệ Nương được đưa tới bái kiến cha nàng,” chàng cáu bẳn .

      “Nhưng ông ta chấp nhận được rằng nàng còn sống, ngay cả khi ông ta nhìn nàng.” “Bằng cách này, Thang Hiền Tổ chứng minh nam giới bị lý tính hạn chế thế nào.” Tôi giữ giọng thấp trầm, hiểu rằng chàng thi nhân của mình phải chăm chú lắng nghe. “Khi điều gì đó kỳ diệu đến thế xảy ra, người ta thể dựa vào lý trí nữa.” Chàng thở dài và tôi mỉm cười.

      “Đỗ thái thú nhất quyết đòi Lệ Nương vượt qua nhiều cuộc kiểm tra.” “Nàng có bóng và để lại dấu chân khi bước dưới những tán cây trổ hoa.” “Đúng rồi,” tôi thầm. “Và nàng cũng trả lời những câu hỏi về Thất Tình - hỉ, nộ, sầu, kinh, ái, hận và vọng.” _ “Nàng trải qua những cảm xúc này chưa?” Tôi dừng lại trước chàng.

      phải tất cả.” Tôi thừa nhận. “Hỉ?” chàng đưa đóa mẫu đơn cầm trong tay tới má tôi. “Ngày hôm nay khi em vừa thức dậy.” “Nộ?” “Em rằng em hoàn hảo,” tôi trả lời khi chàng lướt những cánh hoa dọc theo xương hàm tôi. “Sầu?” “Hàng năm vào ngày giỗ bà nội em.” “Nhưng nàng thực tự trải nghiệm sầu,” chàng bảo, bỏ đóa hoa ra khỏi mặt tôi và quệt nó xuống cánh tay.

      “Kinh?” Tôi nghĩ về nỗi sợ hãi khi đến nơi này, nhưng tôi , “chưa bao giờ”. “Tốt lắm.” Chàng giữ cho đóa mẫu đơn chạm vào bên trong cổ tay áo tôi. “Ái?” Tôi trả lời, nhưng cảm giác đóa hoa mơn man da khiến tôi run rẩy, chàng mỉm cười. “Hận?” Tôi lắc đầu.

      Chúng tôi đều biết rằng tôi sống chưa đủ lâu và thấy chưa đủ nhiều để căm ghét ai đó. “Chỉ còn cảm xúc nữa,” chàng . Chàng đưa đóa mẫu đơn ngược lên theo cánh tay tôi rồi kéo ra, lại buông xuống dưới tai. Rồi chàng chầm chậm quệt đóa hoa xuống qua cổ tới phần của cổ áo và hướng vào yết hầu tôi.

      “Vọng?” Tôi nín thở. “Ta thấy câu trả lời gương mặt nàng,” chàng . Chàng ghé môi vào tai tôi. “Nếu chúng ta thành thân,” chàng thào, “của chúng ta chẳng bao giờ lãng phí thời gian uống trà và chuyện trò.” Chàng bước lùi lại và nhìn ra ngoài hồ. “Ta ước rằng...” Giọng chàng rung lên, những gì tôi thấy khiến chàng bối rối.

      Chàng cũng cảm nhận khoảnh khắc này sâu sắc như tôi vậy. Chàng hắng giọng và khó nhọc nuốt nước miếng. Khi chàng tiếp, cứ như là chưa từng có chuyện gì xảy ra giữa chúng tôi vậy. Tôi lại thả lỏng người ra. “Ước gì nàng có thể nhìn thấy nhà ta. Nhà ta ở ngọn Vu Sơn ngay phía bên kia hồ.” “Chẳng phải ngay phía kia sao ạ?” tôi hỏi, chỉ ngọn đồi phía bên kia hồ.

      “Kia là ngọn đồi, phải, nhưng Đảo, cũng đẹp như thế, che khuất tầm nhìn ngôi nhà. Nhà ta ở ngay sau mỏm hòn đảo. Ta ước nàng có thể nhìn thấy nó, để nàng có thể nhìn qua mặt hồ và nghĩ đến ta.” “Có lẽ em thấy nó từ chỗ thư phòng.” “Nàng phải! Trần lão gia và ta đàm đạo chuyện thời thế ở đó nhiều lần.

      Ta có thể nhìn thấy nhà mình qua cửa sổ. Nhưng dù nàng có thể trông thấy ngọn núi, làm sao nàng biết được đâu là nhà ta nhỉ?” Tâm trí tôi, trong trạng thái rất hỗn loạn, thể nghĩ ngợi đủ rành mạch để tìm ra giải pháp khả thi. “Ta chỉ cho nàng ngôi nhà để nàng có thể tìm được.

      Ta hứa ở đó nhìn ra ngoài hàng ngày để tìm bóng nàng, nếu nàng tìm ta.” Tôi đồng ý. Chàng dẫn tôi tới mé phải đình gần bờ hồ. Chàng cầm nhành liễu từ tay tôi mà đặt lên lan can cùng đóa mẫu đơn. Khi chàng ngồi xuống cạnh chúng và đu chân qua gờ, tôi hiểu rằng chàng có ý muốn tôi làm theo.

      Chàng nhảy xuống, đứng tảng đá và chìa tay lên phía tôi. “Đưa tay cho ta.” “Em thể.” Và tôi thực thể. Tối nay tôi làm nhiều việc phải phép, nhưng tôi theo chàng. Tôi chưa bao giờ ra ngoài Trần phủ. Riêng việc này, cả cha và mẹ tôi đều rất sắt đá.

      xa đâu mà.” “Em chưa bao giờ ra khỏi hoa viên. Mẹ em ...” “Mẹ là quan trọng, nhưng...” “Em thể làm thế này.” “Còn lời nàng vừa hứa sao?’ Ý chí tôi dao động. Tôi yếu đuối như em Chổi khi trước mặt nó là đĩa sủi cảo. “Nàng phải là , người phụ nữ duy nhất bên ngoài tường bao đêm nay.

      Ta biết rằng có nhiều phụ nữ thuyền hồ.” “Những người ca kỹ.” Tôi sụt sịt. “Hoàn toàn ,” chàng . “Ta đến những nữ thi sĩ và văn sĩ tham gia các thi xã, văn đàn. Giống như nàng, họ muốn trải nghiệm cuộc sống nhiều hơn những gì sẵn có trong hoa viên nhà họ.

      Khi rời khỏi khuê phòng, họ trở thành những nghệ sĩ sáng giá. Ta chỉ cho nàng thấy thế giới bên ngoài ấy, nếu nàng là vợ ta.” Chàng vẫn thành lời rằng đêm nay là giới hạn của giấc mơ ấy. Lần này, khi chàng dang rộng cánh tay, tôi ngồi xuống lan can rồi, cố ra vẻ duyên dáng hết mức đu chân qua tường đá và rướn người ra khỏi vòng an toàn của phủ đệ.

      Chàng dẫn tôi bước về bên phải dọc theo những phiến đá kè bờ. Điều tôi làm đây còn hơn cả tồi tệ. Bất ngờ thay, chẳng có gì khủng khiếp xảy ra cả. Chúng tôi bị bắt gặp và có bóng ma nào nhảy xổ ra từ sau bụi rậm hay gốc cây để dọa hay giết chúng tôi vì vi phạm này.

      Chàng nắm lấy khuỷu tay tôi, vì vài phiến đá trơn rêu. Tôi cảm thấy hơi ấm bàn tay chàng qua lớp lụa tay áo mình. Làn hơi ấm nâng váy tôi lên như thể cánh ve sầu được gió mang . Tôi ở bên ngoài. Tôi thấy những thứ trước đây mình chưa từng nhìn thấy. Đây đó, những dây leo và cành cây che phủ tường bao khu vườn, gợi lên những gì được che giấu bên trong.

      Liễu rủ hồ, những tua liễu chải vào mặt nước. Tôi quệt vào những khóm tầm xuân nở hoa bên bờ, mùi hương của chúng ngấm vào khí, vào y phục, vào tóc, vào da tay tôi. Những cảm xúc dồn qua người tôi gần như choáng ngợp: nỗi sợ bị bắt gặp, cảm giác hồ hởi vì ở bên ngoài và tình với người đàn ông mang tôi tới đây.

      Chúng tôi dừng lại. Tôi chẳng chúng tôi bước bên nhau được bao lâu. “Nhà ta ở kia,” chàng bảo, chỉ tay qua hồ, quá chiếc đình mới xây Đảo mà tôi có thể thấy từ thư phòng của cha. “Có ngôi chùa đồi. Đêm nay nó được đuốc thắp sáng. Nàng có thấy nó ? Các nhà sư mở cửa trong tất cả các kỳ lễ hội.

      Chỉ lên chút nữa, nhà ta ở bên tay trái.” “Em thấy rồi.” Mặt trăng dù chỉ mảnh như lưỡi liềm nhưng cũng đủ để vạch đường qua hồ từ mũi hài tôi tới ngưỡng cửa nhà chàng. Có cảm tưởng như thể ông trời đồng tình cho chúng tôi dành thời gian này bên nhau.

      Trong tình huống lạ thường này, lòng tôi rối bời cảm giác lạ kỳ. Đôi hài bó chân của tôi ướt sũng và tôi có thể cảm thấy nước dâng vào gấu váy mình. Tôi lùi bước ngắn khỏi mép nước, tạo ra những con sóng lăn tăn lan mặt hồ phẳng lặng. Tôi tưởng tượng ra những gợn sóng lăn tăn này va vào mạn những con thuyền chở các cặp tình nhân hồ và vỗ vào gờ những ngôi đình ngắm trăng ven hồ, nơi mấy đôi vợ chồng trẻ tìm chốn náu khỏi con mắt soi mói của những người khác trong nhà.

      “Nàng thích nhà ta,” chàng . “Nhà ta có hoa viên tuyệt đẹp, rộng như nhà nàng, những hòn non bộ , ngôi đình ngắm trăng, cái ao và cây mai mà vào xuân hoa lan tỏa khắp phủ mùi hương quyến rũ. Mỗi khi nhìn nó, ta lại nghĩ đến nàng.” Tôi ước gì chúng tôi được thành thân.

      Tôi ước gì việc đó diễn ra ngay lúc này. Tôi đỏ mặt nhìn xuống. Khi tôi ngẩng mặt lên, chàng nhìn vào mắt tôi. Tôi hiểu rằng chúng tôi có chung niềm khao khát. Và rồi khoảnh khắc đó trôi qua. “Chúng ta phải trở lại thôi,” chàng . Chàng cố kéo chúng tôi nhanh nhưng đôi hài tôi lúc này rất trơn, và tôi quá chậm chạp.

      Khi trở lại gần khu nhà hơn, thanh từ vở kịch trở nên ràng hơn trong ý thức của tôi. Tiếng kêu đau đớn của Mộng Mai khi chàng bị lính gác của Đỗ thái thú tra tấn còn đánh đập với tôi rằng vở kịch gần đến hồi kết. Chàng bế tôi lên đưa trở vào Vọng Nguyệt Đình.

      Chuyện là thế. Ngày mai tôi quay về chuẩn bị cho lễ thành hôn của mình và chàng quay về với mọi việc mà chàng trai làm để sẵn sàng chào đón tân nương. “Ta thích chuyện với nàng về vở kịch,” chàng bảo. Dường như đó giống những lời lãng mạn nhất mà chàng trai có thể ra, nhưng với tôi đúng là thế đấy, vì chúng thể rằng chàng quan tâm đến văn chương, chuyện của đám đàn bà trong khuê phòng, và chàng thực muốn biết tôi nghĩ điều gì.

      Chàng nhặt nhành liễu lên trao cho tôi. “Hãy giữ lấy,” chàng , “để nhớ đến ta.” “Còn đóa mẫu đơn?” “Ta giữ nó mãi mãi.” Tôi thầm mỉm cười, biết rằng bông hoa và tôi có chung tên gọi. Chàng đưa môi lại gần môi tôi, giọng chàng rưng rưng cảm xúc. “Chúng ta có ba đêm hạnh phúc.

      Thế là nhiều hơn những gì hầu hết các cặp vợ chồng có được trong đời. Ta ghi nhớ mãi mãi.” Khi mắt tôi tràn lệ, chàng , “Nàng phải về thôi. Ta rời nơi đây chừng nào chưa có khoảng cách an toàn giữa chúng ta.” Tôi bặm môi để nước mắt khỏi trào ra và quay .

      Tôi bước mình tới khu vườn chính, dừng lại bên bờ ao để nhét nhành liễu vào trong áo dài. Chỉ khi nghe thấy tiếng Đỗ thái thú kết tội con mình là giống người chết đến kinh tởm khi nàng được giải ra trước mặt ông ta, tôi mới nhớ ra rằng hài, tất chân và gấu váy tôi lấm lem.

      Tôi cần trở về buồng để thay mà bị ai trông thấy. “Chị đây rồi,” Chổi kêu lên và bước ra khỏi bóng tối. “Mẹ chị sai em tìm chị đấy.” “Chị... chị phải...” tôi nghĩ đến Liễu Nhi trong đêm đầu khi nó diễn vai Xuân Hương. “Chị phải về phòng...” Em họ tôi mỉm cười vẻ hiểu biết.

      “Em vừa tới buồng chị. Chị có ở đó.” Bắt được tôi dối, Chổi nhìn tôi vẻ ngờ vực. Tôi quan sát nụ cười nhoẻn rộng của nó khi ánh mắt nó dịch chuyển người tôi, từ gương mặt dọc xuống tới váy, gấu váy bẩn và đôi hài lấm lem. Nó che đậy bằng bộ mặt tươi tỉnh, khoác tay tôi vẻ trìu mến và với giọng dễ thương, “Vở kịch gần hết rồi.

      Em muốn chị bỏ lỡ đoạn kết.” Niềm hạnh phúc riêng khiến tôi nông nổi tin rằng nó muốn giúp tôi. Sức mạnh tiềm nổi lên khi tôi cho phép mình vượt qua lan can Vọng Nguyệt Đình rút vào góc khuất sâu, bởi tôi dứt ra khỏi Chổi và ngồi xuống chiếc nệm của mình ở sau đám khán giả mà lại để nó kéo , cách bất lực, ngu ngốc, và cùng với thứ vô hình lố bịch kèm theo niềm hạnh phúc trào dâng, qua chỗ ngồi của những người phụ nữ khác, qua bên phải mẹ và đến hàng nệm phía trước nơi tôi bị kẹt giữa con bé Đàm Trắc và em họ.

      Và bởi ngồi cạnh Trắc, lần nữa tôi lại thấy mình ở trước cái khe của bình phong cho phép tôi lén nhìn lên sân khấu. Tôi nhìn qua biển người tóc đen cho tới khi tìm thấy chàng thi nhân của mình ngồi cạnh cha tôi. Sau vài phút, tôi buộc mình nhìn chàng nữa mà nhìn lên sân khấu, nơi hoàng đế cố gắng hòa giải hai bên.

      Tuyên chiếu, phong tước. buổi tiệc mừng lớn dành cho đôi tình nhân trẻ, kết thúc thực có hậu, ấy thế mà chưa có gì hoặc mãi có gì được hòa giải giữa Đỗ thái thú và con mình. Những người đàn ông phía bên kia bình phong giậm chân hoan hô và hò reo tán thưởng.

      Phụ nữ bên phía chúng tôi gật gù trước chân lý của kết cục này. Như làm trong đêm đầu tiên, cha tôi bước ra sân khấu. Ông cảm tạ mọi người đến tệ xá để xem tác phẩm tầm thường này. Ông cảm tạ những người kép hát được mời tới và cả những người làm công bị lôi ra khỏi công việc thường ngày cho buổi diễn.

      “Đây là đêm của tình và định mệnh,” ông . “Chúng ta thấy truyện Lệ Nương và Mộng Mai kết thúc thế nào. Và chúng ta biết truyện Ngưu Lang và Chức Nữ kết thúc thể nào lúc khuya hơn. Giờ chúng ta hãy cùng duyệt trước truyện tình khác nữa.” Ôi chao! Ông sắp thông báo điều gì đó về hôn lễ của tôi.

      Chàng thi nhân của tôi cúi gằm mặt xuống. Chàng cũng muốn nghe điều này. “Nhiều vị biết rằng tôi may mắn có được người bạn tốt làm con rể tương lai.” Cha . “Tôi biết Ngô Nhân lâu. Với tôi, cậu ấy như con trai ruột vậy.” Khi cha nâng cánh tay chỉ vào người mà tôi sắp lấy làm chồng, tôi nhắm mắt lại.

      Nếu là ba ngày trước, tôi hẳn dõi hướng chỉ của ông để thoáng thấy chồng tương lai của mình, nhưng đúng lúc này tôi thể từ bỏ những xúc cảm dịu dàng tràn ngập lòng mình. Tôi muốn giữ chúng thêm lúc nữa. “Tôi thấy may mắn vì Nhân có chung tình với văn chương thơ phú,” cha tiếp tục.

      “Nhưng tôi thấy được may cho lắm, khi cậu ấy đánh bại tôi bàn cờ.” Những người đàn ông cười tán thưởng. Bên bình phong phía chúng tôi là im lặng. Tôi cảm thấy những cái nhìn chê trách và khinh bỉ từ những người phụ nữ phía sau chiếu thẳng vào lưng mình như những mũi dao.

      Tôi mở mắt ngó sang phải và thấy Đàm Trắc nhòm qua khe hở của tấm bình phong, miệng nó thốt lên tiếng ối hoảng hốt. Rổi nó ngoảnh . Chồng tương lai của tôi hẳn phải rất xấu xí gớm guốc. “Đêm nay, có nhiều vị là khách và chưa từng gặp con tôi,” cha tiếp, “nhưng cả gia đình tôi ở đây và họ biết con tôi từ lúc nó mới sinh.

      Ông hướng đến chồng tương lai của tôi và giãi bày trước mọi người. “Tôi chắc chắn nó người vợ hiền... ngoại trừ điều. Tên nó được phù hợp. Mẹ cậu cũng tên là Mẫu Đơn.” Cha nhìn qua đám đàn ông, nhưng ông với chúng tôi sau bình phong. “Từ giờ trở , chúng tôi gọi con là Đồng, Đồng, vì nó trùng tên với mẹ cậu, bạn trẻ của tôi ạ.” Tôi lắc đầu với vẻ hoài nghi.

      Cha đổi tên tôi mãi mãi và vĩnh viễn. Giờ tôi là Đồng, Đồng tầm thường, vì mẹ chồng tương lai, ai đó mà tôi chưa gặp nhưng cũng là người kiểm soát tôi cho tới ngày bà tạ thế. Cha làm việc này mà hỏi tôi, thậm chí báo trước cho tôi. Thi nhân của tôi đúng.

      Ba đêm tuyệt vời nâng đỡ tôi trong suốt cuộc đời. Nhưng đêm nay chưa kết thúc và tôi cự tuyệt để mình chìm vào thất vọng ngay lúc đó. “Hãy để đêm nay là đêm khánh chúc,” cha tôi tuyên bố. Ông ra dấu hướng về phía bình phong nơi phụ nữ ngồi. Gia nhân tới hộ tống chúng tôi về Liên Khai Đường.

      Tôi dựa người vào cánh tay Liễu Nhi và sẵn sàng để nó dẫn mình về khuê phòng khi mẹ đến bên. “Có vẻ như con là người được chọn đêm nay,” bà , nhưng vẻ nhân từ của lời giấu nổi thất vọng trong giọng bà. “Liễu Nhi, để ta đưa con về buồng.” Liễu Nhi buông tôi ra và mẹ nắm lấy cánh tay tôi.

      Tôi biết làm thế nào mà bà tỏ ra đẹp đẽ và thanh nhã đến thế được khi ngón tay bà bấu chặt vào da thịt tôi qua lớp áo dài. Những người khác rẽ ra để người đàn bà đứng đầu Trần phủ dẫn đứa con độc nhất của mình về Liên Khai Đường. Họ lê bước sau chúng tôi, lặng lẽ như những chiếc khăn quàng phấp phới trong gió.

      Họ biết tôi làm gì nhưng ràng là tôi ở nơi nào đó nên, vì tất cả đều thấy rằng chân tôi, phần riêng tư nhất của phụ nữ, bị lấm bẩn. Tôi biết điều gì khiến tôi ngoái lại nhưng tôi làm thế. Con bé Đàm Trắc cùng Chổi. Em họ tôi hơi có vẻ đỏm dáng và đắc thắng nơi khóe miệng nhưng Đàm Trắc còn quá trẻ và ngây thơ để che giấu cảm xúc của mình.

      Mặt nó đỏ bừng, hàm nghiến chặt, cả người nó đanh lại vì giận dữ. Tôi hiểu tại sao. Chúng tôi tới Liên Khai Đường. Mẹ dừng lại lát để bảo những người khác cứ vui vẻ ; bà trở lại sau giây lát nữa. Rồi thêm lời nào, bà đưa tôi về buồng ở khu nhà dành cho con chưa chồng, mở cửa và đẩy tôi vào trong.

      Sau khi bà đóng cửa, tôi nghe thấy tiếng gì đó chưa từng nghe thấy trước đây. Nó giống như tiếng lách cách của kim loại. Chỉ khi cố mở lại cửa để nhìn xem đó là gì tôi mới nhận ra rằng, lần đầu tiên mẹ dùng trong những chiếc khóa của bà để nhốt tôi lại. Cơn giận của mẹ làm thay đổi những lời chàng thi nhân thầm vào tai tôi, cũng như chúng làm biến đổi cảm xúc vẫn còn nấn ná da thịt tôi ở những chỗ chàng chạm đóa mẫu đơn vào.

      Tôi lấy nhành liễu chàng trao cho ra, và dùng nó vuốt ve lên má mình. Rồi tôi để nó vào ngăn kéo. Tôi cởi lớp bó chân ướt và quấn lại bằng lớp vải bó sạch . Từ cửa sổ buồng mình, tôi thể nhìn thấy cây cầu Ô Thước, nơi người ta vẫn là nơi đoàn tụ của Ngưu Lang và Chức Nữ, song tôi vẫn còn ngửi thấy hương thơm của những đóa tầm xuân vấn vương trong tóc và da dẻ mình.

    2. Nhã Linh

      Nhã Linh Well-Known Member

      Bài viết:
      722
      Được thích:
      481
      Chương 6
      Mẹ bao giờ nhắc lại chuyện áo, hài và tất chân tôi bị ướt và lấm bẩn nữa. gia nhân đem những thứ đó bao giờ mang chúng trở về nữa, còn tôi tiếp tục bị nhốt trong buồng. Trong suốt những tuần lễ dài đằng đẵng bị giam cầm, tôi bắt đầu nghi vấn mọi điều.

      Nhưng hơn hết, tôi chỉ là u sầu bị nhốt trong buồng có ai trò chuyện. Cả Liễu Nhi cũng bị cấm, trừ lúc mang đồ ăn và nước sạch cho tôi tắm gội. Tôi ở bên cửa sổ hàng giờ, nhưng tầm nhìn của tôi bị hạn chế trong khoảng trời nho phía và mảnh sân trong phía dưới.

      Tôi đọc lướt qua những bản Mẫu Đơn Đình của mình. Tôi tìm hồi “Kinh Mộng”, cố gắng giải đoán điều mà Mộng Mai và Lệ Nương làm cùng nhau trong hòn non bộ. Chốc chốc, tôi lại nghĩ đến người lạ. Những cảm xúc tràn đầy trong ngực thấm đẫm niềm khao khát của tôi và làm đầu óc tôi trống rỗng.

      Tôi ngẫm ngợi miên man về việc làm thế nào để giữ gìn được tình cảm của mình khi ra khỏi buồng này. buổi sáng, sau tuần tôi bị giam giữ, Liễu Nhi mở cửa, bước khe khẽ vào đặt xuống chiếc khay đựng trà và bát cháo điểm tâm. Tôi nhớ cảm giác khi có nó bầu bạn, nhớ cách nó chăm sóc mình, chải tóc, giặt giũ và bó chân cho tôi, cách nó trò chuyện để bầu khí giữa chúng tôi bớt tẻ nhạt.

      Những ngày vừa qua, nó rất lặng lẽ khi mang đồ ăn đến, nhưng giờ, nó lại mỉm cười bằng vẻ mà tôi chưa từng thấy trước đây. Nó rót trà, quỳ xuống ngước nhìn thẳng vào mắt tôi, chờ tôi đặt câu hỏi. “Kể cho ta chuyện gì xảy ra ,” tôi bảo, thầm mong rằng mẹ quyết định thả tôi ra hay bà cho Liễu Nhi ở chung với tôi trở lại.

      “Khi Trần lão gia sai em đóng vai Xuân Hương, em đồng ý, với hy vọng rằng trong những khán giả thấy em, đến gặp cha tiểu thư và hỏi xem ông có bán em ,” nó trả lời, mắt sáng lên vì vui sướng. “Tối qua có lời ướm hỏi và cha tiểu thư đồng ý. Chiều nay em dọn .” Tôi cảm thấy như Liễu Nhi vừa tát vào mặt mình.

      Có nằm mơ tôi cũng thể nào đoán được hay nghĩ đến chuyện này. “Nhưng em thuộc về ta cơ mà!” “ ra, cho đến tận hôm qua em vẫn còn là tài sản của cha tiểu thư. Kể từ hôm nay, em thuộc về Quan lão gia.” Nụ cười của nó khi chuyện này tháo tung khối giận dữ trong tôi.

      “Em được . Em thể nào muốn được.” Khi Liễu Nhi đáp lại, tôi biết là nó muốn . Nhưng sao lại thế được? Nó là a hoàn và người bầu bạn của tôi. Tôi chưa bao giờ nghĩ về xuất thân của nó hay cớ sao nó trở thành a hoàn của mình, nhưng tôi vẫn luôn tin rằng nó là của tôi.

      Nó là phần trong cuộc sống thường ngày của tôi, như chiếc bô trong phòng vậy. Nó ở chân giường khi tôi ngủ; nó là người đầu tiên tôi gặp lúc tỉnh dậy. Nó nhóm lò than trước khi tôi mở mắt và mang nước nóng cho tôi tắm. Tôi nghĩ nó cùng khi tôi về nhà chồng. Cứ tưởng là nó chăm sóc tôi khi tôi mang bầu và sinh con trai.

      Vì nó cũng tầm tuổi tôi, tôi nghĩ rằng nó ở bên mình cho tới khi tôi chết. “Hàng đêm khi tiểu thư ngủ, em nằm sàn dùng khăn tay che nước mắt,” nó thú nhận. “Trong nhiều năm, em mong cha tiểu thư bán em . Nếu em may mắn, chủ mới lấy em làm thiếp.” Nó ngừng lại, cân nhắc và rồi thêm bằng giọng rất thực tế, “Thiếp thứ hai, thứ ba hay thứ tư cũng được.” Chuyện a hoàn của mình có những khao khát thế này khiến tôi bàng hoàng.

      Nó vượt xa tôi trong những suy nghĩ, những khao khát. Nó xuất thân từ thế giới bên ngoài hoa viên của chúng tôi, cái thế giới bỗng dưng ám ảnh tôi, và tôi chưa từng hỏi nó về thế giới ấy. “Sao em có thể cư xử thế với ta? Lòng biết ơn của em ở đâu vậy?” Nụ cười của nó biến mất.

      Liễu Nhi trả lời vì muốn hay vì nó cảm thấy mình thuộc về tôi? “Em biết ơn nhà tiểu thư mang em về đây,” nó thừa nhận. Gương mặt nó khá xinh xắn, nhưng lúc đó tôi thấy nó ghét tôi nhiều đến mức nào, và có lẽ nó ghét tôi trong nhiều năm rồi. “Giờ em có thể sống cuộc đời khác, chứ phải cuộc đời của ả tỳ thiếp mà từ khi sinh ra em bị định đoạt.” “Nhà em quê ở Dương Châu, nơi ông nội tiểu thư tạ thế,” nó tiếp tục.

      “Giống như rất nhiều gia đình khác, nhà em cũng phải hứng chịu tai ương. Những người đàn bà già cả và xấu xí bị giết hại cùng với đàn ông trong nhà. Những người phụ nữ như mẹ em bị đem bán như bán cá muối, bỏ trong bao tải, tính theo cân. Chủ mới của mẹ em là tay lái buôn.

      Em là đứa con thứ tư bị bán . Từ đó, đời em như chiếc lá trong gió vậy.” Tôi lắng nghe. “Tay buôn bán tỳ thiếp nô tỳ ấy bó chân cho em và dạy em đọc, ca hát, thêu thùa và thổi tiêu,” nó kể tiếp. “Ở mặt đó của cuộc đời em khác gì tiểu thư nhưng ở những mặt còn lại rất khác biệt.

      Những người đó nuôi bọn con thay vì trồng trọt mùa màng.” Nó cúi đầu xuống và len lén liếc nhìn tôi. “Thu qua, xuân đến. Họ lẽ ra có thể giữ em cho tới khi em đủ lớn để bán vào làng chơi, chứ bán hạ giá thừa thãi ngoài chợ. Nhưng họ phải thu hoạch chút mùa màng.

      hôm, họ cho em mặc quần áo đỏ, đánh phấn trắng lên mặt em, rồi mang ra chợ. Cha tiểu thư khám răng em, cầm chân em lên; ông xoa nắn người em.” “Cha làm thế.” “Ông làm thế và em rất xấu hổ. Ông mua em bằng mấy súc vải. Những năm qua, em hy vọng cha tiểu thư lấy em làm thiếp thứ tư và em có thể sinh cho ông cậu con trai mà mẹ tiểu thư và những tỳ thiếp khác thể.” Ý nghĩ đó làm dạ tôi quặn thắt lại.

      “Hôm nay em tới chỗ người chủ thứ ba,” nó với giọng chút biểu cảm. Cha tiểu thư đổi em lấy thịt lợn và tiền. Đó là thỏa thuận hời và ông lấy làm vui vì điều đó. Đổi lấy thịt lợn ư? Tôi sắp được gả , đổi lấy những món dẫn cưới, có cả thịt lợn trong những món ấy.

      Có lẽ, xét cho cùng, Liễu Nhi và tôi khác gì nhau cả. Chẳng ai trong chúng tôi có quyền nêu ý kiến về tương lai của mình. “Em vẫn còn trẻ,” Liễu Nhi . “Em có thể bị chuyền tay nữa nếu em sinh được con trai hay còn làm chủ nhân vừa ý. Tay buôn phụ nữ kia dạy em rằng mua thiếp cũng như thêm cây vào vườn.

      số cây sinh trái, số cây sinh bóng mát, số cây để vui mắt. Em chỉ mong rằng mình bị nhổ và lại bị bán lần nữa.” “Em giống như nàng Hiểu Khánh vậy,” tôi ngạc nhiên thốt lên. “Em có nhan sắc hay tài năng như nàng. Nhưng em hy vọng tương lai mình tốt hơn, và mong rằng ở kiếp sau em sinh ra tại Dương Châu.” Đây là lần đầu tiên tôi hiểu ra rằng cuộc sống của tôi bên trong tường bao của trang viên nhà mình giống chút nào với những ở thế giới bên ngoài.

      Những điều kinh khủng và khiếp đảm xảy ra ngoài kia. Chuyện này được giữ kín với tôi, tôi biết ơn điều đó nhưng cũng lấy làm tò mò. Bà nội tôi ở ngoài kia và giờ đây bà được thờ cúng như người tuẫn đạo. Liễu Nhi xuất thân từ ngoài kia và tương lai nó được sắp đặt như tương lai của tôi: Làm người đàn ông của đời mình hạnh phúc, sinh con trai và nổi trội về công dung ngôn hạnh.

      “Em sắp rồi,” Liễu Nhi bất ngờ khi nó đứng thẳng lên. “Khoan .” Tôi đứng dậy, tới bên chiếc tủ và mở ngăn kéo ra. Tôi lướt ngón tay qua những món nữ trang của mình, tìm thứ nào đó tầm thường quá, cũng quý giá quá. Tôi dừng lại ở chiếc trâm bằng lông chim bói cá xanh tạo hình phượng hoàng sải cánh, đuôi chim uốn lượn cách thanh nhã phía sau.

      Tôi đặt nó vào tay Liễu Nhi. “Để cài khi em gặp chủ nhân mới nhé.” “Đa tạ tiểu thư,” nó rời khỏi căn buồng. đầy hai phút sau, vú Thiệu, vú già của tôi và cũng là nhũ mẫutrưởng nhà tôi, bước vào. “Từ bây giờ, tôi chăm nom cho tiểu thư.” Tôi thể nhận được tin nào tồi tệ hơn.

      Mẹ lên kế hoạch cho tôi và vú Thiệu, và bắt chúng tôi đảm bảo rằng nó được thực . Bây giờ vú Thiệu sống luôn trong buồng tôi. “Tiểu thư Đồng, tiểu thư chỉ chuẩn bị cho hôn lễ thôi chứ làm gì nữa,” vú Thiệu thông báo và điều đó là chắc chắn.

      Nghe cái tên mới ấy, tôi thầm rùng mình vì thất vọng. Vị trí của tôi thế gian này được chỉ định; bằng việc tên tôi được đổi từ người con thành người vợ, người con dâu. Trong bảy tuần kế tiếp, vú Thiệu mang đồ ăn tới nhưng dạ dày tôi trở thành vực sâu thống khổ và tôi lờ ăn hay bướng bỉnh đẩy ra.

      Thời gian trôi , thân hình tôi đổi thay rệt. Váy tôi mặc bắt đầu bám vào hông chứ bám vào eo, áo dài của tôi trở nên thùng thình lỏng lẻo. Mẹ tới thăm tôi lần nào. “Bà thất vọng vì tiểu thư,” hằng ngày, vú Thiệu nhắc nhở tôi điều ấy. “Làm sao mà tiểu thư lại do bà sinh ra cơ chứ? Tôi bảo bà rằng con hư là chuyện thường tình.” Tôi thông làu kinh sách nhưng hợp với mẹ.

      Việc của bà là kiểm soát tôi và chứng kiến tôi được gả vào gia đình tử tế. Mặc dầu vẫn muốn thấy mặt tôi, bà gửi các sứ giả tới. Sáng sáng, thím ba đến ngay trước bình minh để dạy tôi thêu thùa đúng cách. “ mũi thêu cẩu thả và vụng về nào nữa,” thím bảo, giọng vang như bạch ngọc.

      Khi tôi mắc lỗi, thím bắt gỡ các mũi thêu ra và bắt đầu lại. có trò tiêu khiển nào và cùng với chỉ dạy nỗ lực của thím ba, tôi học. Và mỗi khi thêu xuống mũi, tôi lại thấy đau đớn cho chàng thi nhân của mình. Ngay khi thím ba vừa ra khỏi, vú Thiệu để thím hai vào rèn tôi chơi đàn tranh.

      Mặc dù có tiếng là người khoan dung nhưng thím rất nghiêm khắc với tôi. Nếu tôi phạm lỗi, thím đánh vào ngón tay tôi bằng gióng trúc. Tiếng đàn của tôi tiến bộ nhanh đến ngạc nhiên, ràng và trong trẻo hơn nhiều. Tôi tưởng tượng từng nốt nhạc bay ra ngoài cửa sổ, vượt qua mặt hồ, vẳng tới nhà chàng thi nhân, ở đó, tiếng nhạc khiến chàng nghĩ đến tôi như tôi nghĩ đến chàng.

      “Sức mạnh lớn nhất của người đàn bà là sinh được con trai,” thím tư chỉ bảo. “Nó cho ta quyền uy, nhưng đồng thời cũng có thể lấy thứ ấy . Nếu sinh con trai cho chồng, cháu ngăn ta vào những chốn hoan lạc hồ hay mang tỳ thiếp về. Hãy nhớ rằng người phụ nữ tiết hạnh là người tiếp xúc với thế giới bên ngoài.

      Đó là lý do tại sao cháu ở đây.” Tôi lắng nghe điều thím . Nhưng thím chẳng gì với tôi về đêm động phòng hay làm thế nào tôi có thể mây mưa với ai đó mà tôi , mến hay hiểu. Tôi ngừng tưởng tượng những giờ khắc trước lúc ấy: mẹ, các thím và các em họ tắm gội và vận đồ cưới cho tôi; họ giấu trong tấm váy lót tôi mặc sát mình năm hạt ngũ cốc, miếng thịt và tim lợn; mọi người rơi lệ khi tôi được dẫn ra kiệu hoa; tôi bước qua ngưỡng cửa Ngô gia và thả rơi tấm váy lót đó cùng những vật giấu bên trong xuống sàn để đảm bảo có thể mau chóng và dễ dàng sinh được con trai; rồi được dẫn tới phòng tân hôn.

      Những suy nghĩ này, từng khiến tôi ngập tràn mong chờ hạnh phúc, giờ đây khiến tôi muốn trốn chạy. thực rằng tôi có cách nào thoát khỏi số phận khiến tôi cảm thấy còn tồi tệ hơn. Sau bữa tối, thím năm bỏ thời gian tụ tập buổi tối ở khu nhà dành cho phụ nữ để giúp tôi trau dồi thư pháp.

      “Viết lách là sản phẩm của thế giới bên ngoài, thế giới của những người đàn ông,” thím bảo. “Về bản chất nó là hoạt động cộng đồng, việc mà phụ nữ chúng ta nên tránh, nhưng cháu cần phải học để ngày nào đó có thể giúp con trai mình học hành.” Chúng tôi viết hết vô số tờ giấy, chép các bài thơ trong Kinh Thi, luyện nét theo Bút trận đồ và họa các bài trong Nữ tứ tự kinh cho tới khi các ngón tay tôi vấy mực.

      Ngoài việc hoàn thiện nét bút của tôi, các bài học của thím năm ràng và giản dị: “Điều tốt nhất cháu có thể làm là noi theo gương người xưa. Thơ ca thế gian này là để giúp cháu thanh thản chứ phải để làm sai lạc tâm trí, ý nghĩ và tình cảm của cháu. Hãy giữ mình tề chỉnh, năng dịu dàng nhưng đừng ý kiến gì cả, tắm gội siêng cần, và giữ cho tâm trí luôn hài hòa.

      Bằng cách đó cháu luôn tỏ ra đức hạnh hơn người.” Tôi vâng lời theo trách nhiệm, nhưng mỗi nét bút tôi hạ xuống lại là cái vuốt ve gửi đến chàng thi nhân ấy. Mỗi tiếng bút sột soạt là ngón tay tôi da thịt chàng. Mỗi chữ viết xong là món quà gửi tới chàng trai xâm chiếm tâm trí tôi.

      Tất cả mọi lúc, ban ngày cũng như ban đêm, khi có thím nào ở với tôi, vẫn còn vú Thiệu. Giống như Liễu Nhi, bà ta ngủ sàn dưới chân giường. Vú ở đó khi tôi thức giấc, ở đó khi tôi ngoài, ở đó khi tôi học, ở đó khi tôi ngủ. Theo hướng ngược lại, tôi cũng ở với bà ta như thế, nghe bà ta ngáy, đánh rắm, ngửi hơi thở và những thứ rơi khỏi người bà xuống bô, xem bà ta gãi mông, chùi chân.

      Làm việc gì bà ta cũng ngớt lời. “ người đàn bà, trở nên ngỗ ngược vì sách vở, mẹ tiểu thư nhìn ra điều này ở ,” bà ta với tôi, phủ nhận lời dạy của các thím. “Trong tâm tưởng, tiểu thư quá xa khỏi khu nội đường này. Ngoài kia rất nguy hiểm; phu nhân muốn tiểu thư hiểu điều đó.

      Hãy quên những gì tiểu thư học . Ôn Thị mẫu huấn(1) dạy chúng ta rằng đàn bà con chỉ nên biết vài chữ thôi, củi, gạo, cá, thịt. Những thứ ấy giúp tiểu thư cai quản gia đình. Mọi thứ khác đều rất nguy hiểm.” Khi hết cánh cửa này đến cánh cửa khác nhốt chặt tôi lại, trái tim tôi càng ngày càng rộng mở hơn.

      Giấc mộng đến dạo Mẫu Đơn Đình khiến Lệ Nương mắc bệnh tương tư. Những lần ghé qua các đình hóng mát trong Trần phủ cũng làm tôi ốm tương tư. Tôi kiểm soát được hành động của bản thân, quyết định xem mình sống với Ngô Nhân như thế nào sau này, nhưng còn cảm xúc của tôi vẫn tự do tự tại.

      Tôi bắt đầu tin rằng phần của bệnh tương tư là do xung đột giữa kiểm soát và khao khát. Người ta thể kiểm soát được tình . Tâm trí ta bị dằn vặt, bỡn cợt, cám dỗ và phấn khích trước sức mạnh choáng ngợp của cảm xúc, nó khiến ta cố gắng quên thế giới thực.

      Nhưng thế giới ấy vẫn tồn tại, vì vậy, phụ nữ phải nghĩ cách khiến chồng mình hạnh phúc, bằng cách làm người vợ hiền, sinh con trai, cai quản gia đình nền nếp, và xinh đẹp để chồng mình bị sao nhãng hoặc tới la cà với đám tỳ thiếp. Những khả năng này phải bẩm sinh có.

      Phụ nữ phải hấp thu chúng từ những người khác. Qua những bài học, những câu cách ngôn, những kỹ năng học được... phụ nữ được định hình... và bị kiểm soát. Mẹ kiểm soát tôi bằng những chỉ thị của mình ngay cả khi bà muốn gặp tôi. Các thím kiểm soát tôi bằng những bài học.

      Mẹ chồng tương lai kiểm soát tôi sau lễ thành thân. Những người phụ nữ đó, cùng kiểm soát từng giây phút của đời tôi, từ lúc tôi sinh ra cho đến ngày tôi chết. Ấy vậy mà trong từng nỗ lực kiểm soát, tôi lại nhào ra. Từng khoảnh khắc, chàng thi nhân ấy đều xâm chiếm ý nghĩ tôi, trong từng mũi thêu, tiếng đàn, từng bài tập chép.

      Chàng ở trong tóc, trong mắt, trong ngón tay, trong trái tim tôi. Tôi mơ màng nghĩ xem chàng làm gì, nghĩ gì, nhìn gì, ngửi gì, cảm thấy gì. Tôi sao nuốt trôi bữa ăn do những ý nghĩ về chàng. Mỗi làn gió thoảng hương hoa thổi qua cửa sổ, cảm xúc trong tôi lại dấy động. Chàng muốn người vợ kiểu truyền thống hay người kiểu mới, như chàng nhắc tới trong đêm gặp gỡ ở Vọng Nguyệt Đình? Liệu người vợ tương lai của chàng có như mong muốn ? Còn tôi sao? Giờ đây chuyện gì xảy đến với tôi? Ban đêm, khi ánh trăng hắt bóng lá trúc rải rác xuống mặt giường trải lụa, tôi lại day dứt trong những ý nghĩ u ám đó.

      Thi thoảng, tôi trở dậy, bước qua người vú Thiệu và tới bên chiếc ngăn kéo cất giữ nhành liễu chàng thi nhân trao trong đêm cuối bên nhau. Tuần qua tuần, những chiếc lá rụng rời tan vụn, cho đến khi chỉ còn lại cành khô. Trái tim bé của tôi chan chứa đau buồn. Cùng với thời gian, tôi chơi đàn khá hơn, nhớ được các phép tắc và thuần thục hơn trong chuyện thêu thùa.

      Sau hai tháng bị cấm cửa, thím ba tuyên bố, “Cháu sẵn sàng để làm hài tặng mẹ chồng rồi.” Tân nương nào cũng làm việc này để thể lòng kính trọng, nhưng nhiều năm qua, tôi rất sợ hãi trước nhiệm vụ này, biết rằng việc vá may ngay lập tức bộc lộ kém cỏi của mình.

      Giờ đây, tôi thậm chí còn kinh hoảng hơn. Dù những mũi thêu còn làm tôi hổ thẹn hay khiến gia đình phải chuốc nhục, nhưng tôi có cảm giác gì với người phụ nữ này và thấy chẳng cần thiết phải gây ấn tượng với bà ta. Tôi cố tưởng tượng bà là mẹ của chàng thi nhân đó.

      Tôi còn biết làm gì được hơn để bảo vệ mình khỏi nỗi tuyệt vọng ấy đây? Mẹ chồng tương lai trùng tên với tôi, Mẫu Đơn, thế nên tôi lồng loài hoa đó vào hoa văn trang trí. Đó là mẫukhó nhất. Tôi dành hàng giờ cho mỗi cánh hoa, mỗi chiếc lá cho đến khi đôi hài được hoàn tất tháng sau đó.

      Tôi đưa nó cho thím ba xem. “Hoàn hảo,” thím khen, và đó là . Có lẽ tôi dệt bằng những món tóc của mình hay làm chúng duyên dáng như thím, nhưng so với bất cứ chuẩn mực nào khác chúng tuyệt vời. “Cháu có thể gói vào được rồi.” Ngày mùng chín tháng Chín, khi chúng tôi tưởng niệm nàng Tía nàng bị mẹ chồng đối xử tàn tệ đến nỗi phải treo cổ trong căn nhà tiêu mà hàng ngày nàng phải dọn dẹp, cửa phòng tôi mở ra và mẹ bước vào.

      Tôi cúi người thấp xuống để tỏ ra lễ phép rồi đứng yên, tay chắp trước người, mắt nhìn xuống. “Ôi chao! Trông con...!” kinh ngạc trong giọng mẹ khiến tôi liếc nhìn lên. Bà hẳn vẫn còn giận dữ với tôi vì vẻ mặt bà trông khá lúng túng. Nhưng mẹ hoàn thiện nghệ thuật che giấu cảm xúc, nên nét mặt bà mau chóng bình thản lại.

      “Những món quà dẫn cưới cuối cùng tới rồi. Có lẽ con thích xem trước khi người ta cất chúng . Nhưng ta mong con...” “Xin mẹ đừng lo. Con thay đổi rồi ạ.” “Ta thấy điều đó,” bà bảo, nhưng tôi thấy niềm vui trong giọng bà. Chẳng những vậy, tôi thấy lo âu.

      “Nào. Tới xem . Rồi ta muốn con cùng chúng ta ăn điểm tâm.” Khi rời khỏi căn buồng, sợi chỉ xuyên suốt các cảm xúc của tôi với nhau. Nỗi đơn, thất vọng và tình kiên định dành cho chàng thi nhân. Tôi học cách trút nỗi buồn của mình qua tiếng thở dài. Tôi theo mẹ tới An Tọa Đường, giữ khoảng cách để tỏ lòng kính trọng.

      Lễ vật dẫn cưới được mang đến nhà chúng tôi trong những chiếc rương sơn mài trông như quan tài kính. Gia đình tôi nhận được những thứ lễ vật thường thấy: lụa và gấm, vàng, nữ trang, đồ gốm sứ, bánh, sủi cảo, rượu và thịt lợn. Vài món trong đó để dành riêng cho tôi; phần lớn là cho hòm bạc của cha.

      Các chú tôi nhận được những khoản lì xì rất hậu hĩ. Đây là bằng chứng vật chất rằng hôn lễ của tôi chẳng bao lâu nữa diễn ra. Tôi véo sống mũi để ngăn mình khóc. Khi làm chủ được cảm xúc, tôi nở nụ cười lặng lẽ. Cuối cùng, tôi được ra khỏi căn buồng cấm túc và mẹ quan sát xem có cử chỉ nào vượt ngoài khuôn khổ hay .

      Tôi phải thận trọng. Mắt tôi dừng lại gói bọc lụa điều. Tôi liếc nhìn mẹ và bà gật đầu để tôi biết mình có thể mở nó. Tôi lật các nếp gấp ra. Bên trong là bộ hai tập MẫuĐơn Đình. Đó là bản duy nhất tôi chưa có, bản do Thang Hiền Tổ đích thân xuất bản.

      Tôi mở bức thư ngắn kèm theo bộ sách. Đồng mến, chị mong được cùng em thức khuya, uống trà và chuyện trò về vở kịch này. Chữ ký dưới thư là của chị dâu chồng tương lai của tôi. Chị ấy về sống ở Ngô gia. Khoản dẫn cưới cũng khá, nhưng món quà này bảo tôi rằng ít nhất cũng có người có thể bầu bạn cùng tôi trong khu nhà nội đường của Ngô gia.

      “Con được giữ ạ?” tôi hỏi mẹ. Lông mày bà nhíu lại và tôi tưởng bà khước từ. “Cất về buồng rồi đến ngay Xuân Đình nhé. Con cần phải ăn.” Tôi áp chặt tập sách vào ngực, bước chầm chậm về buồng và đặt chúng lên giường. Rồi vâng lời mẹ, tôi tới Xuân Đình.

      Tôi bị nhốt hai tháng, và tôi nhìn căn phòng cùng mọi người bằng con mắt mới. Cảm giác căng thẳng vẫn sôi sục giữa các thím, các em họ, mẹ tôi với những người phụ nữ có mặt sáng nay, những người thiếp và con họ. Nhưng vì vắng mặt thời gian nên tôi thấy và cảm nhận làn sóng ngầm mà tôi chưa bao giờ nhận ra cách đầy đủ trước đây.

      Người đàn bà nào cũng mong có bầu ít nhất mười lần trong đời. Đàn bà trong Trần phủ khó mang bầu và khi họ dường như thể sinh con trai. Gánh nặng có con trai đè lên mọi người. Cứ tưởng các tỳ thiếp cứu dòng tộc suy vong, nhưng mặc dầu chúng tôi nuôi họ ăn, cho họ quần áo và nhà ở, cũng chẳng ai sinh được con trai.

      Theo lẽ tự nhiên, họ được phép ăn điểm tâm cùng chúng tôi, nhưng dù sao họ vẫn ở cùng chúng tôi. Các em họ dường như có thái độ mới mẻ với tôi. Chổi, con bé sắp đặt để tôi bị nhốt, gắp mấy chiếc bánh bao cho tôi. Liên rót trà và đưa cho tôi bát cháo được nêm cá muối và hành tươi của nó.

      Các thím đến chào mừng trở lại của tôi bằng bộ mặt tươi cười và giục tôi ăn. Nhưng tôi ăn miếng nào. Tôi phớt lờ ngay cả món bánh bao nhân đậu đãi mà vú Thiệu đưa từ bàn mẹ tới. Khi bữa ăn kết thúc, chúng tôi chuyển đến Liên Khai Đường. Mọi người chia thành các nhóm : thêu thùa, vẽ tranh và viết thư pháp, có cả nhóm đọc thơ.

      Những người tỳ thiếp tới, họ hôn lên má tôi, tỏ vẻ vui sướng, và bẹo má tôi cho ửng lên. Chỉ còn hai trong số những người thiếp của ông nội tôi còn sống và họ rất già. Phấn thoa mặt làm nổi bật những nếp nhăn của họ. Đồ trang điểm tóc làm họ trông trẻ hơn mà chỉ làm nổi bật màu bạc trắng.

      Eo họ bạnh ra, nhưng bàn chân họ vẫn nhắn và xinh đẹp như vào những đêm ông nội tôi xoa dịu tâm trí mình bằng cách nắm những vật mong manh đó trong tay. “Trông cháu càng ngày càng giống bà nội,” người thiếp được ông nội tôi sủng ái . “Cháu cũng tốt bụng và đôn hậu như bà ấy,” người còn lại thêm vào.

      “Đến thêu thùa cùng bọn ta ,” người thứ nhất tiếp. “Hay là việc gì khác cũng được. Bọn ta rất vui nếu có cháu bầu bạn, hãy làm bất cứ điều gì cháu muốn. Xét cho cùng, ở trong căn phòng này, mọi người đều là chị em mà. Lúc bọn ta trốn bọn Mãn Châu ở Dương Châu, bà nội cháu rất ràng về điểm này.” “Bà dõi theo tương lai của cháu từ thế giới bên kia,” người ít tuổi hơn bằng giọng khúm núm.

      “Bọn ta thay mặt cháu cầu khấn bà phù hộ.” Sau nhiều tuần quạnh, huyên thuyên và đua tranh sau việc thêu thùa, viết thư pháp và đọc thơ bộc lộ với tôi cảnh ảm đạm vô hình của những phụ nữ sống trong Trần phủ. Tôi cảm thấy nước mắt tụ lại từ nỗ lực trong việc cố gắng làm đứa con ngoan, trong việc lắng nghe và bảo vệ mình trước quan tâm giả tạo của họ và trong việc nhận ra rằng đời tôi là thế.

      Nhưng tôi thể chống lại mẹ. Tôi muốn đắm chìm trong cảm xúc. Tôi muốn chôn mình trong những ý nghĩ về tình . Tôi có cách trốn chạy khỏi cuộc hôn nhân ấy, nhưng có lẽ bằng cách đọc, viết và tưởng tượng, tôi có thể thoát khỏi nó giống như tôi làm ở nhà mình.

      Tôi phải đàn ông và chẳng bao giờ có thể đua tranh với họ trong nghiệp bút nghiên. Tôi có tham vọng viết bài bát cồ văn(1)_, kể cả nếu tôi có thể tham gia khoa cử. Nhưng tôi có lượng tri thức nhất định, những gì tôi học lúc ngồi trong lòng cha từ khi còn là và sau này khi ông đưa cho tôi những kinh sách, thơ ca để học.

      Đó là điều mà hầu hết các có, và tôi dùng chúng để cứu mình. Tôi làm thơ về bướm và hoa. Tôi phải tìm ra thứ gì đó chỉ có ý nghĩa với tôi mà còn nâng đỡ tôi trong phần đời còn lại. Ngàn năm trước, nhà thơ Hàn Dũ_(1) viết, “Đại phàm, vật bất đắc kỳ bình, tắc minh.

      _(2)” Ông so sánh nhu cầu thể cảm xúc của con người với sức mạnh tự nhiên thôi thúc cỏ cây xào xạc trong gió hay kim loại leng keng khi va đập. Ngay sau đó, tôi nhận ra điều mình làm. Đó là việc tôi làm nhiều năm rồi. Thế giới bên ngoài bị tước bỏ, tôi dành đời mình để tìm vào nội tâm và xúc cảm của tôi trở nên tinh tế.

      Chàng thi nhân ấy muốn biết suy nghĩ của tôi về Thất tình; giờ tôi tìm tất cả những đoạn trong Mẫu Đơn Đình thể những xúc cảm đó. Tôi nhìn vào nội tâm mình, rồi viết ra, phải những gì các nhà phê bình , cũng phải những gì các thím của tôi thường bàn, mà là cách tôi tự cảm nhận về những cảm xúc ấy.

      Tôi hoàn tất công trình này đúng dịp hôn lễ, để có thể tới nhà Ngô Nhân với thứ gì đó mãi nhắc nhở mình về ba đêm tình ở bên chàng thi nhân. Công trình của tôi cứu rỗi trong những năm tháng u ám sắp đến. Có thể tôi bị giam chân ở nhà chồng song tâm trí tôi lang thang tới Vọng Nguyệt Đình, ở nơi ấy, tôi có thể gặp lại chàng thi nhân của mình mà sợ bị quấy nhiễu hay bắt gặp.

      Chàng thi nhân của tôi chẳng bao giờ đọc nó, nhưng tôi luôn có thể tưởng tượng ra cảnh mình đưa nó cho chàng, khi ấy, tôi khỏa thân nằm giường chàng, phơi bày cả con tim cùng khối óc. Tôi bất ngờ đứng dậy làm chiếc ghế đổ vật xuống sàn. Tiếng động khiến cả đám đàn bà con quay sang nhìn chằm chằm vào tôi.

      Tôi thấy cách họ che giấu ghen ghét sau những khuôn mặt xinh đẹp toát lên vẻ lo lắng và quan tâm giả tạo. “Đồng,” mẹ gọi tôi bằng cái tên mới. Tôi thấy đầu mình như có kiến bò bên trong nhưng vẫn cố gắng kìm chế nét mặt mình. “Thưa mẹ, con có thể tới thư phòng cha ạ?” “Ông ấy ở đó đâu.

      Ông ấy lên kinh rồi.” Tin này làm tôi choáng váng. Ông trở lại kinh thành từ khi người Mãn Châu tiếp quản đất nước. “Kể cả nếu ông ấy có ở đó,” bà tiếp tục, “ta cũng cho phép. Ông ấy gây ảnh hưởng xấu đến con. Ông ấy nghĩ rằng con nên biết về Hiểu Khánh.

      Ôi, hãy xem những bài học kiểu đó mang lại cho con cái gì.” Bà trước mặt mọi phụ nữ sống trong Trần phủ. Bà coi thường và khinh rẻ tôi như thế đấy. “Đại biến qua rồi. Chúng ta phải nhớ chúng ta là ai: đàn bà phải ở trong nội đường, chứ lang thang ngoài hoa viên.” “Con chỉ đến tìm cái này thôi ạ,” tôi .

      “Mẹ cho phép con . Con trở lại sớm thôi.” “Ta cùng con. Để ta dắt tay con.” “Thưa mẹ, con khỏe mà. đấy ạ. Con trở lại ngay.” Hầu như mọi điều tôi với mẹ là dối trá, nhưng dù sao bà vẫn để tôi . Tôi rời Liên Khai Đường, cảm thấy đầu óc váng vất, và thơ thẩn qua các hành lang cho tới khi có thể bước ra ngoài vào khuôn viên.

      Giờ là tháng Chín. Hoa héo tàn, những cánh hoa tội nghiệp rụng rơi lả tả. Lũ chim thiên di tới vùng ấm áp hơn. Với những cảm xúc xuân tình dào dạt trong lòng, đau đớn khi trông thấy thứ gợi nhắc đến mong manh của tuổi xuân, cuộc đời và nhan sắc. Khi đến bờ ao, tôi khuỵu gối xuống để có thể nhìn bóng mình mặt nước trong vắt.

      Tương tư khiến khuôn mặt tôi gầy gò xanh xao. Người tôi trông bớt săn chắc như thể nó còn mang được sức nặng của tấm áo dài. Vòng vàng treo lỏng lẻo cổ tay. Ngay cả những chiếc trâm ngọc cũng dường như quá nặng so với khung người bỗng. Liệu chàng thi nhân ấy có nhận ra tôi nếu chàng thấy tôi lúc này? Tôi đứng lên, nấn ná chốc lát để nhìn bóng mình lần cuối rồi lần bước tới khi trở lại hành lang.

      Tôi bước ra cổng trước. Hơn mười sáu năm qua tôi tới đây nhiều lần nhưng chưa bao giờ bước qua hay được khiêng qua ngưỡng cửa. Điều đó chỉ xảy ra trong ngày tôi thành thân. Tôi lướt các ngón tay bề mặt cánh cổng. Cha từng giải thích với tôi rằng chúng tôi có cái phong hỏa môn.

      Mặt hướng ra bên ngoài được làm toàn bằng gỗ. Nó bảo vệ chúng tôi khỏi thời tiết, cũng che chở chúng tôi trước ma quỷ và trộm cướp bằng cách lừa chúng tưởng rằng chẳng có gì quan trọng và thú vị ở phía trong. Mặt trong cổng được ốp đá mài nhẵn để bảo vệ chúng tôi khỏi hỏa hoạn và cho chúng tôi thêm sức mạnh chống lại mọi tai ương có thể xâm nhập vào hoa viên.

      Chạm vào những phiến đá đó giống như chạm vào phần lạnh lẽo của thế gian. Từ chỗ đó, tôi tới từ đường cúng bà nội, đốt nhang và cầu bà phù hộ cho tôi mạnh mẽ. Cuối cùng tôi tới thư phòng cha. Khi bước vào trong, tôi có thể thấy rằng cha vắng mặt thời gian.

      Tôi ngửi thấy mùi thuốc lá sợi hay trầm hương thoảng trong khí. Chiếc khay đựng đá lạnh mùa hè được đem nhưng lò than được mang vào để sưởi ấm căn phòng trong cái giá lạnh mùa thu. hết, tinh thần của ông biến mất, chỉ trong căn phòng này, mà trong cả Trần phủ nữa.

      Ông là người quan trọng nhất trong Trần phủ. Thế nào mà tôi lại nhận ra vắng mặt của ông, dù ở trong buồng mình? Tôi bước đến chỗ mấy giá sách và lựa những tập thơ, những tập sách về lịch sử, thần thoại và tín ngưỡng hay nhất mà tôi có thể tìm thấy. Tôi lại lại ba lượt để chuyển sách về buồng mình.

      Sau đó, tôi trở lại thư phòng và ngồi lúc mép trường kỷ của cha, nghĩ xem liệu tôi có thể cần gì nữa. Cuối cùng, tôi chọn ba cuốn sách khác trong chồng sách để ở góc rồi rời thư phòng trở về buồng mình. Tôi bước vào và lần này đòng cửa lại cách tự nguyện. .

    3. Nhã Linh

      Nhã Linh Well-Known Member

      Bài viết:
      722
      Được thích:
      481
      Chương 7
      Tôi bỏ cả tháng tiếp theo để miệt mài nghiên cứu từng bản trong số mười hai bản Mẫu Đơn Đình sưu tập được và chép lại mọi chú giải tôi từng viết trong những bản đó lên lề giấy trong bản gốc hai tập do Thang Hiền Tổ xuất bản. Bản sách mà chị dâu của chồng tương lai gửi cho tôi.

      Sau khi hoàn tất việc ấy, tôi tập hợp những cuốn sách của cha quanh mình và đọc lướt chúng cho tới khi, tháng sau, tôi xác định được tất cả ngoại trừ ba trong số các tác giả gốc của những đoạn mượn ý trong tập và hầu hết tập hai. Tôi giải thích thuật ngữ, những ám chỉ, bình luận về nhạc, cách trình diễn hoặc cố so sánhMẫu Đơn Đình với các vở kịch khác.

      Tôi viết bằng kiểu chữ xíu, ken sít vào giữa các dòng văn bản. Tôi rời khỏi buồng mình. Tôi để vú Thiệu tắm gội và thay y phục, nhưng ngoảnh mặt với thức ăn bà ta mang tới. Tôi đói; trạng thái mê sảng dường như làm tôi nghĩ và viết ràng hơn. Khi các thím và em họ đến rủ tôi dạo ở hoa viên hay cùng họ uống trà, ăn bánh ở Xuân Đình, tôi hòa nhã cám ơn họ song từ chối.

      Chẳng đáng ngạc nhiên, quan điểm của tôi hợp với mẹ. Tôi kể với bà việc tôi làm và bà cũng hỏi. “Con thể trở thành người vợ hiền thảo nếu cứ trốn trong buồng với những cuốn sách của cha được,” bà bảo. “Tới Xuân Đình . Ăn điểm tâm và lắng nghe các thím của con ấy.

      Tới ăn trưa và học cách đối xử với tỳ thiếp của chồng. Cùng chúng ta ăn tối và hoàn thiện cách chuyện trò.” Bỗng dưng mọi người đều muốn tôi ăn, nhưng bao nhiêu năm qua, mẹ bảo tôi cẩn thận kẻo trở nên mũm mĩm như Chổi và ăn ít để người được mảnh mai trong lễ thành hôn.

      Nhưng làm mà sao ăn được khi người ta . nào cũng có trải nghiệm này. nào cũng hiểu chuyện này là thế. Trái tim tôi mơ về chàng thi nhân ấy, đầu óc tôi đầy ắp công trình ấy. Tôi chắc rằng nó bảo vệ mình trong nỗi đơn của cuộc hôn nhân. Còn dạ dày tôi ư? Nó trống rỗng và tôi bận tâm.

      Tôi bắt đầu nằm lì giường. Tôi dành cả ngày để đọc hai tập sách. Đêm đến, tôi đọc trong ánh đèn dầu lập lòe. Càng đọc, tôi càng nghĩ về những mối liên hệ mong manh Thang Hiền Tổ sử dụng để sáng tạo ra tổng thể sâu sắc hơn. Tôi ngẫm ngợi về những thời điểm quan trọng trong vở kịch, những ám thị, những chủ đề quán xuyến, và cách từng lời, từng hành động làm bừng sáng lên thứ ám ảnh tôi:tình .

      Chẳng hạn, cây mai là cây của cuộc sống và tình . Nó ở nơi Lệ Nương và Mộng Mai lần đầu gặp gỡ, nơi nàng được chôn cất và nơi chàng mang nàng trở lại cuộc sống. Ở ngay cảnh đầu tiên, vì giấc mộng, chàng đổi tên thành Mộng Mai. Nhưng cây mai cũng gợi nhắc tới Lệ Nương vì hoa mai mang vẻ đẹp mong manh, thanh tao và gần như trinh bạch.

      Khi thiếu nữ thành hôn, nhan sắc nàng bay mất và mãi mãi hình ảnh lãng mạn của nàng cũng bay mất. Nàng vẫn còn những bổn phận phải thực , sinh con, thờ cúng tổ tiên nhà chồng, trở thành quả phụ tiết hạnh, nhưng nàng bắt đầu trượt dốc tới cõi chết. Tôi lấy thỏi mực, mài xuống nghiên, đổ nước rồi viết những suy nghĩ của mình vào lề của tập bằng nét chữ nắn nót nhất của mình: Phần lớn những người đau lòng vì mùa xuân đều đặc biệt xúc động trước những đóa hoa tàn, giống như tôi lúc dạo bước ở hoa viên.

      Lệ Nương nhìn những cánh hoa mà hiểu rằng tuổi xuân và nhan sắc của nàng chỉ là phù du. Nàng đâu biết rằng cuộc đời mình cũng mong manh như thế. Vở kịch luôn thu hút trí tưởng tượng của tôi bởi cách nó khắc họa tình lãng mạn, rất khác so với những cuộc hôn nhân tình được sắp đặt trong Trần phủ.

      Tôi lớn lên cùng với chúng, và sắp có đám cưới như thế. Với tôi, tình là thứ cao quý, là tham vọng lớn nhất của con người, đàn ông hay đàn bà cũng vậy. Mặc dầu trải nghiệm của tôi về nó chỉ hạn chế trong ba đêm dưới ánh trăng lưỡi liềm, nhưng tôi tin rằng, nó khiến đời này có ý nghĩa.

      Tất cả bắt đầu bằng tình . Với Lệ Nương, nó bắt đầu từ chuyến ra thăm vườn hoa, rồi giấc mộng của nàng và bao giờ kết thúc. Hồn ma của Lệ Nương mây mưa với Mộng Mai. Họ chân thành trong tình , giống như tôi và chàng thi nhân của mình, đến nỗi chuyện ấy phải là chuyện gì xấu xa như giữa người đàn ông và tỳ thiếp của ta.

      Tình của họ trong trắng thánh thiện. Lê Nương luôn cư xử như nàng tiểu thư đài các. Khi viết những lời này, tôi nghĩ đến chính mình trong đêm cuối ở Vọng Nguyệt Đình. Tôi viết về những giấc mộng, của Lệ Nương, của Mộng Mai và cả của tôi nữa. Tôi cũng nghĩ đến bức chân dung tự họa của Lệ Nương và so sánh nó với những gì tôi làm.

      Ở lề , tôi nắn nót viết: bức tranh là hình hài bóng ảnh, hệt như mộng là bóng ảnh hình hài. Bức tranh giống như cái bóng hình hài. Nó thậm chí còn ảo hơn giấc mộng nữa. Cái bóng, những giấc mộng, hình phản chiếu trong gương và ao, ngay cả ký ức cũng mong manh và phù du, nhưng chúng thực chút nào ư? Với tôi chúng là thực.

      Tôi nhúng bút vào mực, miết bỏ mực dư rồi viết: Đỗ Lệ Nương tìm niềm vui trong giấc mộng; Liễu Mộng Mai tìm người thương trong tranh. Nếu coi những điều như vậy là ảo ảnh ảo ảnh thành thực. Tôi làm việc chăm chỉ và ăn ít đến nỗi tôi bắt đầu hồ nghi hiểu có phải mình từng gặp người lạ ở Ngự Phong Đình trong hai đêm hay .

      Có đúng là chàng thi nhân ấy và tôi rời Vọng Nguyệt Đình dạo bước ven bờ hồ hay chăng? Những điều đó là mộng hay thực? Đó phải là thực và trong thời gian rất ngắn nữa tôi bị đẩy vào cuộc hôn nhân với người tôi . Khi Lệ Nương tới thư phòng, nàng qua ô cửa sổ, và muốn bay ra ngoài để tìm gặp tình lang.

      Đương nhiên, nàng sợ đến nỗi dám làm thế. Lệ dâng lên trong mắt, lăn xuống má và rơi xuống trang giấy lúc tôi viết dòng này. Ảo tưởng về tình thiêu rụi tôi. Chút khẩu vị còn sót lại sau đợt giam cầm đầu tiên hoàn toàn rời bỏ tôi. Nàng Hiểu Khánh uống nửa cốc nước lê ép mỗi ngày; tôi chỉ nhấp vài ngụm.

      Tuyệt thực còn là vì kiểm soát cuộc đời tôi nữa. Thậm chí cũng phải vì chàng thi nhân của tôi và những cảm xúc dữ dội về tình và khao khát thiêu đốt trong tôi. vị hiền nhân từng viết: Chỉ khi trải qua tột cùng bất hạnh thi ca viết ra mới hay được.

      Cố Nhược Phác, nữ thi sĩ vĩ đại, hưởng ứng điều này khi bà bình chú: Các vị quan viên và học giả khắc cốt ghi tâm, nghĩ trắng cả đầu, và dùng cả đời để viết ra những dòng u ám và sầu muộn. Tôi tới chốn sâu thẳm bên trong bản ngã của mình. Ở nơi ấy, mọi điều trần tục bị tước bỏ và tôi chỉ còn cảm thấy xúc cảm dạt dào: thương, hối tiếc, khao khát, hy vọng.

      Tôi ngồi dựa lưng giường, mặc tấm áo dài thích thêm hình đôi chim uyên ương bay vườn hoa và đàn bướm, để tâm trí mình phiêu du tới Mẫu Đơn Đình. Những giấc mộng của Lệ Nương có làm tổn hại đến trinh bạch của nàng ? Những giấc mộng của tôi, chuyện tôi lang thang trong hoa viên, có làm tổn hại trinh bạch của tôi ? Phải chăng tôi còn trong trắng vì gặp gỡ người lạ và để chàng chạm vào mình bằng cánh mẫu đơn? Trong khi tôi viết đầy hưng phấn, công việc sửa soạn cho hôn lễ quay cuồng xung quanh.

      hôm, thợ may khoác thử áo cưới cho tôi, rồi đem sửa lại. Hôm khác, mẹ tới cùng các thím. Tôi giường, những cuốn sách bày rải rác xung quanh. Nụ cười nở mặt, nhưng họ vui. “Cha con ở kinh thành gửi thư về,” mẹ bằng giọng du dương. “Ông ấy trở lại phụng triều đình ngay khi con xuất giá.” “Bọn Mãn Châu bỏ rồi ạ?” tôi hỏi.

      Tôi bỏ lỡ cuộc thay triều đổi đại khi bị giam cầm ư? “, cha con phụng hoàng đế Thanh triều.” “Nhưng cha là trung thần của Đại Minh cơ mà. Làm sao cha có thể...” “Con cần phải ăn.” Mẹ ngắt lời tôi. “Hãy gội đầu, thoa phấn và sửa soạn đón cha về, đứa con phải phép nên làm thế.

      Cha con mang lại danh vọng cho nhà ta. Con cần phải tôn trọng ông ấy. Giờ hãy dậy !” Nhưng tôi dậy. Mẹ rời buồng nhưng các thím ở lại. Họ cố gắng lôi tôi ra khỏi giường và bắt đứng lên nhưng tôi trơn tuột và oặt oẹo như con lươn trong tay họ. Tâm trí tôi cũng bảng lảng thế.

      Làm sao cha có thể phụng hoàng đế nhà Thanh khi ông là bậc trung thần của Đại Minh? Mẹ tôi có rời phủ và theo ông tới kinh thành như bà từng theo ông đến Dương Châu ? Hôm sau, mẹ mời thầy toán mệnh tới để bàn cách làm má tôi nhuận sắc hơn trước hôn lễ. “Phu nhân có trà Long Tỉnh ?” ông ta hỏi.

      “Hãy hãm trà với gừng để bổ vị và tăng lực cho tiểu thư.” Tôi cố uống trà nhưng có tác dụng. cơn gió cũng có thể cản bước tôi. Ngay cả bộ đồ ngủ dường như cũng trở nên nặng nề. Ông ta kê cho tôi chục trái mơ chua, toa thuốc chung dành cho những thiếu nữ mà suy nghĩ bị coi là hơi đàn bà, nhưng tâm trí tôi theo hướng được kê đơn.

      Thay vì thế, tôi nghĩ tới việc được gả cho chàng thi nhân của mình, và những trái mơ muối tôi ăn khi mang bầu đứa con trai đầu lòng, chúng giúp tôi trong cơn ốm nghén. Thầy toán mệnh trở lại rưới tiết lợn lên giường tôi nhằm xua đuổi những linh hồn mà ông ta tin là quanh quất ở đấy.

      Xong xuôi, thầy bảo, “Nếu tiểu thư bắt đầu ăn uống trở lại, vào ngày hôn lễ, da và tóc tiểu thư vượt qua mọi mẫu mực nhan sắc ở trần gian.” Nhưng tôi hứng thú gì chuyện kết hôn với Ngô Nhân và tất nhiên là tôi quan tâm đến ăn uống để khiến ta hạnh phúc hơn trong lễ thành hôn của chúng tôi.

      Dẫu sao chuyện đó cũng chẳng quan trọng gì. Tương lai của tôi được định đoạt và tôi làm mọi việc cần làm để sửa soạn cho hôn lễ. Tôi hoàn thiện kỹ năng thêu thùa của mình. Giờ tôi có thể chơi đàn tranh. Hàng ngày vú Thiệu khoác lên người tôi những chiếc áo dài thêu hoa, bướm hoặc đôi chim bay như biểu bề ngoài của tình và hạnh phúc mà họ nghĩ rằng tôi thấy khi nghĩ về cuộc sống ở nhà chồng tương lai.

      Tôi ăn, ngay cả hoa quả; họa hoằn lắm chỉ vài ngụm nước quả ép. Tôi nuôi mình bằng cách thở khí công, bằng cách nghĩ về tìnhyêu, bằng cách nhớ lại cuộc phiêu lưu cùng chàng thi nhân bên ngoài tường bao hoa viên. Thầy toán mệnh dặn rằng phải giữ cho cửa mở ra sảnh lúc nào cũng đóng để ngăn ác quỷ xâm nhập, điều chỉnh lại lò trong bếp và đổi hướng giường tôi để tận dụng những lợi thế phong thủy.

      Mẹ và các gia nhân đảm nhiệm những việc này. Nhưng tôi cảm thấy chẳng có gì khác. Khi họ rời khỏi buồng, tôi tiếp tục viết. thể chữa trị trái tim khao khát bằng cách đổi hướng giường được. Vài ngày sau, mẹ đến cùng Triệu đại phu, ông ta bắt mạch cho tôi và : “Tim là trung tâm của nhận thức và tim con bà bị sung huyết vì quá nhiều ao ước.” Tôi vui khi chính thức được chẩn đoán mình mắc bệnh tương tư.

      ý nghĩ kỳ lạ lóe lên trong đầu tôi. Điều gì xảy ra nếu tôi chết vì tương tư như Lệ Nương? Liệu chàng thi nhân của tôi có tìm và mang tôi trở lại cuộc sống? Ý tưởng này làm tôi dễ chịu nhưng phản ứng của mẹ trước thông tin của đại phu hoàn toàn khác. Bà vùi mặt trong tay mà khóc.

      Đại phu dẫn bà ra xa giường tôi và hạ thấp giọng. “Chứng u uất này cũng dẫn đến rối loạn tỳ vị. Nó có thể khiến người ta chán ăn. Tôi muốn với bà rằng, thưa Trần phu nhân, con bà có thể chết vì sung khí.” y da! Các vị đại phu thường cố làm những bà mẹ kinh hãi.

      Đó là cách họ moi tiền. “Phu nhân phải bắt tiểu thư ăn,” ông . Và đó là điều họ làm. Vú Thiệu và mẹ ấn tay tôi xuống trong khi đại phu đút cơm vào miệng tôi rồi giữ cho hàm tôi ngậm lại. gia nhân mang ô mai sắc thuốc vào. Ông ta nhét những miếng sũng nước vào miệng tôi cho tới khi tôi nôn mửa ra hết mọi thứ.

      Ông ta nhìn tôi ngao ngán, nhưng lại bảo với mẹ tôi, “Phu nhân đừng lo, chứng ứ trệ này có thể là do ảnh hưởng của xúc cảm. Nếu tiểu thư xuất giá rồi tôi rằng, đêm mây mưa trị được bệnh cho ấy. Nhưng vì chưa thành thân nên tiểu thư phải ghìm lại những khao khát của mình.

      Thưa hiền mẫu, sau đêm động phòng, tiểu thư khỏi bệnh thôi. Nhưng có thể đủ thời gian đợi đến lúc đó. Tôi khuyên phu nhân thử cách khác.” Ông ta nắm lấy khuỷu tay bà, kéo bà lại gần và thào. Khi ông ta buông bà ra, vẻ mặt quyết tâm thể lay chuyển che nỗi sợ hãi của bà.

      “Thường , cơn giận có thể giải được chứng ứ trệ này,” ông ta buông thêm câu khích lệ. Mẹ tiễn đại phu ra khỏi buồng. Tôi ngả đầu lên gối, những cuốn sách bày quanh tôi giường. Tôi cầm tập Mẫu Đơn Đình lên, nhắm mắt lại và để tâm tưởng phiêu du qua hồ nước tới nhà chàng thi nhân.

      Liệu chàng có nhớ đến tôi như tôi nghĩ về chàng ? Cửa mở. mẹ bước vào cùng vú Thiệu và hai gia nhân. “Hãy bắt đầu với những cuốn đằng kia,” mẹ bảo, trỏ vào chồng sách tôi để bàn. “Còn ngươi, hãy lấy những cuốn sàn.” Mẹ và vú Thiệu tiến đến bên giường và thu hết những cuốn sách ở dưới chân tôi.

      “Chúng ta dọn hết đống sách vở này ,” mẹ thông báo. “Đại phu khuyên ta đốt chúng.” “!” Theo bản năng, tôi nắm chặt cuốn sách cầm trong tay. “Tại sao ạ?” “Triệu đại phu bảo làm vậy con khỏi bệnh. Ông ấy rất chắc chắn về điều này.” “Mẹ được làm thế!” tôi khóc.

      “Chúng là của cha cơ mà!” “Thế con đừng bận tâm,” mẹ trả lời thản nhiên. Tôi buông cuốn sách cầm xuống và toài người ra ngoài tấm chăn lụa cách điên cuồng. Tôi cố ngăn mẹ và những người khác lại, song tôi quá yếu. Bọn gia nhân mang những chồng sách đầu tiên .

      Tôi gào lên, tay vươn về phía chúng như thể tôi là kẻ ăn mày chứ phải là con được cưng chiều trong gia tộc chín đời khoa bảng. Đó là những cuốn sách của chúng tôi! Quý báu với bao kiến thức! Thiêng liêng biết bao, tình và nghệ thuật! Ở giường là những bản Mẫu Đơn Đình của tôi.

      Mẹ và vú Thiệu bắt đầu lấy cả chúng nữa. Nỗi khiếp sợ việc họ sắp làm khiến tôi rơi vào hoảng loạn điên cuồng. “Mẹ được làm thế! Chúng là của con!” Tôi vừa gào lên vừa thu lại tất cả các tập sách mình với tới được, nhưng mẹ và vú Thiệu khỏe lạ thường.

      Họ phớt lờ tôi, xua những nỗ lực cứu sách của tôi dễ dàng như xua con muỗi mắt. “Công trình của con, làm ơn, mẹ ơi,” tôi khóc. “Con vất vả biết bao.” “Ta biết con về việc gì. Con chỉ có công trình duy nhất: lấy chồng,” bà khi giằng lấy bảnMẫu Đơn Đình mà cha tặng tôi trong ngày sinh nhật.

      Tôi nghe thấy tiếng người bên ngoài, trong cái sân phía dưới buồng tôi. Mẹ bảo, “Con phải xem tính ích kỷ của mình gây ra chuyện gì.” Bà gật đầu với vú Thiệu, rồi hai người lôi tôi khỏi giườn, kéo lê tới bên cửa sổ. Bên dưới, bọn gia nhân đốt lò lên. Họ thả từng cuốn sách của cha vào ngọn lửa.

      Những dòng thơ của các thi sĩ thời Đường mà ông thích tan biến như khói trong trung. Tôi thấy tập sách của tác giả nữ cuộn cháy thành hư . Ngực tôi phập phồng cùng những tiếng nức nở. Vú Thiệu buông tôi ra và trở lại giường để thu nốt những cuốn còn lại. Khi vú Thiệu ra ngoài, mẹ hỏi, “Con có tức giận ?” Tôi tức giận.

      Tôi chẳng cảm thấy gì ngoài nỗi thất vọng. Sách vở và thơ ca thể đẩy lui cái đói, nhưng có chúng, tôi sống được. “Hãy bảo ta là con giận dữ ,” mẹ như khẩn cầu. “Đại phu bảo con nổi giận mà.” Khi tôi trả lời, mẹ quay và khuỵu gối xuống.

      Bên dưới, tôi dõi theo vú Thiệu khi bà ta thả những bản Mẫu Đơn Đình tôi sưu tầm vào lửa. Khi mỗi bản bị ngọn lửa ngốn ngấu, tôi lại quặn thắt trong lòng. Đó là những tài sản quý báu nhất của tôi. Giờ đây chúng biến thành những mảnh tro tàn cho gió cuốn lên và thổi giạt ra ngoài phủ.

      Công trình và mọi hy vọng của tôi biến mất. Tôi tê tái vì thất vọng. Giờ đây làm sao tôi có thể tới nhà chồng được nữa? Làm sao tôi có thể sống sót trong nỗi đơn? Bên cạnh tôi, mẹ khóc. Người bà gập ra phía trước cho tới khi chạm đầu xuống sàn, và rồi bà lê tới chỗ tôi, phủ phục như đầy tớ.

      Bà túm gấu váy tôi trong các ngón tay và vùi mặt vào lớp lụa. “Hãy giận dữ với ta con ơi.” Giọng bà đến nỗi tôi hầu như nghe thấy. “Con ơi, làm ơn .” Tôi đặt tay lên gáy bà, nhưng lời nào. Tôi chỉ nhìn vào ngọn lửa. Vài phút sau, vú Thiệu tới đưa mẹ .

      Tôi ở lại bên cửa sổ, cánh tay tì bậu cửa. Hoa viên ảm đạm trong mùa đông. Bão táp và sương mù vặt trụi cây cối. Những cái bóng kéo dài và và ánh sáng lờ mờ. Tôi đủ sức để di chuyển. Mọi thứ tôi làm bị phá hủy. Cuối cùng tôi vươn người lên. Đầu óc quay cuồng.

      Chân cẳng run rẩy. Tôi ngỡ như đôi bàn chân bé của mình mang nổi sức nặng bản thân. Tôi chậm chạp lê lết về giường. Tấm chăn lụa nhăn nhúm và nhàu nát vì nỗ lực cứu sách vô ích của tôi. Tôi kéo tấm chăn và trèo lên giường. Khi chân tôi trượt xuống dưới lớp lụa mát lạnh tôi cảm thấy như đụng phải vật gì đó.

      Tôi với xuống dưới lớp vải và kéo ra tập bản Mẫu Đơn Đình mà chị dâu tương lai gửi cho tôi. Trong cơn thanh tẩy điên rồ ấy, cuốn sách này và tất cả chữ viết lề được cứu thoát. Tôi nức nở trong nỗi biết ơn và đau buồn. Sau cái ngày khủng khiếp đó, thi thoảng tôi ra khỏi giường vào lúc đêm khuya, bước qua thân hình ngủ của vú Thiệu, tới bên cửa sổ, kéo sang bên tấm rèm nặng nề giữ cho cái lạnh mùa đông khỏi tràn vào.

      Tuyết rơi và ý nghĩ về những bông hoa từng tỏa hương bị nghiến nát dưới sắc trắng rét buốt làm tôi phiền muộn. Tôi ngước nhìn vầng trăng, dõi theo di chuyển chậm chạp của nó bầu trời. Đêm này qua đêm khác, sương làm ướt đẫm áo dài, chất nặng lên tóc tôi, làm những ngón tay tôi ớn lạnh.

      Tôi thể chịu đựng những ngày băng giá bất tận này thêm nữa. Tôi nghĩ về Hiểu Khánh, tưởng tượng xem hàng ngày nàng ăn vận như thế nào, vuốt váy cho sát người. Nàng ngồi giường để làm rối tóc, Hiểu Khánh cố giữ gìn nhan sắc nhưng những ý nghĩ về cuộc sống tương lai âu sầu ảm đạm làm tôi tê liệt, và tôi chẳng làm gì hết.

      Tôi thậm chí còn quan tâm đến bàn chân mình. Vú Thiệu rửa ráy và bó chân tôi hàng ngày cách vô cùng âu yếm. Tôi biết ơn nhưng cũng hết sức cẩn trọng với bà ta. Tôi giấu tập Mẫu Đơn Đình cứu được của mình trong lớp lụa quấn quanh người, sợ rằng bà tìm thấy rồi báo với mẹ và nó bị mang đốt.

      Triệu đại phu lại tới. Ông ta khám bệnh cho tôi, cau mày, rồi , “Thưa Trần phu nhân, bà hành động đúng. Phu nhân xua đuổi tai họa chữ nghĩa khỏi con mình. Việc đốt những cuốn sách gở đó giúp tránh cho ma quỷ vây quanh tiểu thư.” Ông ta bắt mạch tôi, theo dõi tôi hít vào thở ra, hỏi tôi vài câu vô nghĩa rồi tuyên bố, “Các thiếu nữ, nhất là vào thời điểm lễ cưới gần kề, dễ bị ma quỷ làm tổn hại.

      Các trẻ bị những thứ tà ma này làm cho mất trí. Càng đẹp càng dễ bị rùng mình ớn lạnh và sốt cao. tuyệt thực, giống như con phu nhân vậy, cho đến chết.” Ông ta bẹo cằm trầm ngâm, rồi tiếp. “Điều này, như phu nhân lường được, phải là điều mà người chồng tương lai muốn nghe.

      Và tôi có thể bằng kinh nghiệm rằng nhiều trong thành chúng ta dùng cách này để phải quan hệ chăn gối lúc được gả về nhà chồng. Nhưng thưa Trần phu nhân, phu nhân cần phải cảm tạ trời đất. Vì con phu nhân trong sạch trước cám dỗ như vậy. Tiểu thư có quan hệ bất chính với thần tiên hay ma quỷ.

      ấy vẫn trong trắng và sẵn sàng để lên kiệu hoa về nhà chồng.” Những lời này làm mẹ vui và tôi cảm thấy còn tệ hại hơn. Tôi thấy có cách nào thoát khỏi đêm động phòng hay những năm tháng bất hạnh đến sau đó. “Trà hãm từ tuyết tươi làm má tiểu thư hồng hào trong ngày hôn lễ,” Triệu đại phu khi dời gót.

      Hàng ngày, mẹ tới đứng bên giường tôi, mặt bà xanh xao khiếp đảm. Bà cầu xin tôi ra khỏi giường, tới thăm các thím và em họ, hoặc ăn chút gì đó. Tôi gắng gượng cười trước nỗi lo âu của bà. “Con khỏe mà mẹ. Mẹ đừng lo. Mẹ đừng lo.” Nhưng tôi an ủi được bà.

      Bà lại mời thầy toán mệnh tới. Lần này ông ta dùng thanh kiếm để chém khí xung quanh giường tôi, cố gắng xua đuổi lũ ác quỷ mà ông ta quả quyết là nấp ở đó. Ông ta treo tấm bùa hộ mạng bằng đá quanh cổ tôi để ngăn linh hồn khỏi bị lũ ma đói đánh cắp. Ông ta bảo mẹ đưa cho tấm váy của tôi, buộc những gói lạc vào trong đó, rồi bảo bà rằng mỗi hạt lạc làm ngục thất dành cho bọn ma quỷ tà dâm.

      Ông ta xướng lên những câu thần chú. Tôi kéo chăn lên mặt để ông ta thấy nước mắt rơi. Với các con , lấy chồng gần giống như là chết vậy. Chúng tôi lời từ biệt cha mẹ, các chú thím, em họ và những người hầu trông nom chúng tôi và bước vào cuộc đời hoàn toàn mới, ở đó, chúng tôi sống cùng gia đình thực của mình, tên chúng tôi được liệt vào danh sách trong từ đường nhà chồng.

      Như thế, hôn lễ giống như trải nghiệm cái chết và tái sinh mà sang thế giới bên kia. Tôi hiểu đó là những ý nghĩ lành mạnh, nhưng với hoàn cảnh bất hạnh tại, tâm tư tôi còn tồi tệ hơn thế. Bệnh tật đẩy tâm trí tôi vào những nơi chốn tối tăm mù mịt.

      Đôi khi, thậm chí tôi còn tưởng, hy vọng, rằng mình hấp hối chờ chết như Hiểu Khánh và những nàng thiếu nữ tương tư khác. Thả hồn mình theo những nàng thiếu nữ bất hạnh ấy, tôi dùng nước mắt để pha mực rồi cầm lấy bút. Những dòng thơ tuôn trào ra dưới ngòi bút: Ta học thêu hình hoa hình bướm Mong ngày vu quy nên thêu nhiều năm Người có biết chăng khi ta về cõi Hoa chẳng thơm, và bướm lượn vì ta.

      Trong nhiều ngày, tâm trí tôi nung nấu ngôn từ và cảm xúc. Tôi viết hoài viết mãi. Khi cảm thấy quá mệt mỏi và kiệt sức, tôi đưa bút cho vú Thiệu để bà ta chép hộ những bài thơ tôi làm. Bà ta vâng lời. Trong vài ngày sau đó, tôi đọc cho bà chép tám bài khác. Ngôn từ của tôi cứ từng chữ buông trôi, như những bông hoa đào bồng bềnh suối ra từ hang động nước chảy.

      Tháng chạp tới. Lò than ngày đêm đỏ lửa, nhưng tôi chẳng hề thấy ấm áp. Mười ngày nữa, tôi thành hôn. Ba tấc hài thơm đỡ gót mây Gấp ngang lụa chít tấm lưng gầy Mịt mù thế, người khôn bước Cậy gió dìu đưa tới chốn đây. Tôi lo rằng ai đó tìm thấy chúng và cười nhạo thống thiết của tôi hay rằng những thứ tôi viết ra chẳng hề ý nghĩa và chẳng lâu bền, chúng chỉ như tiếng kêu của loài trùng kiến.

      Tôi gấp những tờ giấy lại và tìm trong buồng chỗ để giấu chúng, nhưng tất cả đồ đạc của tôi sau này đều được đem tới nhà chồng. Tôi nhất quyết để ai tìm thấy những bài thơ của mình, nhưng tôi đủ sức mạnh ý chí để châm lửa đốt . Quá nhiều phụ nữ đốt những tác phẩm của mình vì nghĩ rằng rằng chúng đáng giá, để rồi sau này chỉ còn biết hối tiếc.

      Tôi muốn giữ lại những bài thơ này, tưởng tượng rằng, ngày kia, sau khi thành thiếu phụ có con cái, có thể tôi quên chàng thi nhân ấy. Tôi về thăm nhà, tìm lại những bài thơ đó, đọc chúng mà nhớ lại thuở con tương tư. Thế phải tuyệt vời nhất hay sao? Nhưng tôi chẳng bao giờ quên chuyện xảy ra.

      Điều này khiến tôi càng thêm quyết tâm tìm chỗ an toàn cho những bài thơ của mình. Bất kể tương lai như thế nào, tôi luôn có thể tới đây và hồi tưởng lại những xúc cảm của mình. Tôi buộc mình rời khỏi giường và ra ngoài hành lang. Mới chập tối, mọi người dùng bữa.

      Tôi lần tìm tới thư phòng của cha, quãng đường ấy dường như dài bất tận vì tôi phải bám vào tường, ôm chặt những cây cột hay níu lấy lan can để mình khỏi ngã. Tôi lấy ra cuốn sách chưa ai từng xem về lịch sử đắp đập ở các tỉnh miền Nam và kẹp các bài thơ của mình vào giữa những trang sách.

      Tôi cất cuốn sách về chỗ cũ và nhìn nó hồi lâu để ghi nhớ tên và vị trí của nó giá. Khi trở lại buồng mình, tôi cầm bút lên lần cuối cùng trước lễ cưới. Bên ngoài tập Mẫu Đơn Đình, tôi vẽ lại cảnh trong hồi “Kinh mộng” theo cách hiểu của mình, đây là cảnh Mộng Mai và Lệ Nương lần đầu gặp gỡ.

      Bức tranh của tôi vẽ hai người đứng trước hòn non bộ, chỉ khoảnh khắc trước khi họ biến mất vào trong động đá mây mưa. Tôi chờ cho tới khi mực khô rồi mở cuốn sách viết tiếp: Người ta khi sống, người ta vẫn khi chết. Nếu tình chấm dứt khi người chết đó phải là tình thực .

      Tôi gấp sách lại và gọi vú Thiệu. “Vú thấy tôi chào đời,” tôi bảo. “Giờ vú thấy tôi chuyển đến ngôi nhà mới. Tôi thể tin cậy ai khác.” Nước mắt chảy xuống khuôn mặt lạnh lùng của vú Thiệu. “Tiểu thư muốn tôi làm gì ạ?’ “Vú phải hứa nghe theo lời tôi, bất kể cha mẹ tôi gì chăng nữa.

      Họ lấy của tôi nhiều thứ, nhưng có những vật phải theo tôi về nhà mới. Vú hãy hứa là đem chúng tới sau lễ thành hôn ba ngày .” Tôi thấy lưỡng lự trong mắt vú Thiệu. Bà ta rùng mình cái rồi , “Tôi hứa.” “Hãy mang cho tôi đôi hài mà tôi làm cho Ngô phu nhân.” Vú Thiệu ra ngoài.

      Tôi nằm yên lặng, nhìn chăm chăm lên trần nhà, lắng nghe tiếng kêu của mấy con ngỗng lẻ đàn khi chúng bay ngang bầu trời. Chúng khiến tôi nghĩ đến những bài thơ của Hiểu Khánh và cách nàng gợi tả những thanh buồn thảm ấy. Rồi tôi nghĩ đến người phụ nữ vô danh viết nỗi tuyệt vọng của mình lên bức tường ở Dương Châu.

      Người ấy cũng nghe thấy tiếng kêu của bầy ngỗng. Tôi thở dài khi nhớ lại dòng thơ của bà, Giá huyết lệ ta nhuộm đỏ được mai hoa. Chẳng bao giờ ta khiến cây ra chồi... Mấy phút sau, vú Thiệu trở lại với đôi hài vẫn nằm trong tấm lụa. “Vú hãy để chúng vào chỗ an toàn.

      Đừng cho mẹ biết là vú lấy.” “Dĩ nhiên rồi, tiểu thư Mẫu Đơn.” Tôi được gọi bằng tên ấy từ khi cha đổi nó vào đêm diễn kịch cuối cùng. “Còn vật nữa,” tôi với xuống dưới tấm chăn và lấy bảnMẫu Đơn Đình còn sót lại ra. Bà ta lùi lại vẻ cảnh giác.

      “Đây là thứ quan trọng nhất trong số của hồi môn của tôi. Mẹ và cha biết và vú bao giờ được với họ. Vú hứa !” “Tôi xin hứa,” vú Thiệu thào. “Hãy giữ nó cho chắc. Chỉ vú mới có thể đem nó đến cho tôi. Ba ngày sau hôn lễ của tôi. Vú đừng quên đấy!” Cha từ Kinh thành trở về.

      Lần đầu tiên trong đời, ông đến tận buồng riêng thăm tôi. Ông lưỡng lự bên cánh cửa, bồn chồn bước vào trong. “Con ,” cha gọi, “Chỉ còn năm ngày nữa là tới hôn lễ của con. Mẹ con kể với ta rằng con chịu dậy tắm rửa trang điểm, nhưng con phải ra khỏi giường thôi.

      Con muốn bỏ lỡ hôn lễ của mình mà.” Khi tôi nghiêng đầu từ chối, ông bước tới, ngồi bên giường và cầm lấy tay tôi. “Ta chỉ cho con thấy chồng tương lai của con vào đêm diễn cuối cùng,” ông bảo. “Con vui với những gì con thấy ư?” “Con có nhìn đâu ạ,” tôi trả lời.

      “Ôi Mẫu Đơn, giờ ta ước là mình kể cho con nhiều hơn về cậu ấy, nhưng con biết mẹ con thế nào rồi đấy.” “ sao đâu, thưa cha. Con hứa làm điều cha mong đợi. Con làm cha mẹ phải xấu hổ. Con khiến Ngô Nhân hạnh phúc.” “Ngô Nhân là chàng trai tốt,” cha tiếp tục, phớt lờ lời tôi .

      “Chúng ta quen biết nhau từ khi cậu ấy còn là cậu bé và ta chưa từng thấy cậu ấy làm điều gì phải phép cả.” Ông mỉm cười dịu dàng. “Ngoại trừ lần. Đêm đó, sau buổi diễn kịch, cậu ấy lại gần ta. Ngô Nhân đưa cho ta vật gì đó để trao lại cho con.” Cha lắc đầu.

      “Có thể ta là chủ của nhà họ Trần này, nhưng mẹ con có những quy tắc riêng và bà giận dữ với ta vì buổi trình diễn. Vậy nên, ta đưa cho con lúc đó. Ngay cả khi ta biết thế là đúng. Vậy nên ta giữ vật ấy trong tập thơ. Ta hiểu cả hai đứa con, nên ta nghĩ đó là nơi xứng đáng nhất.” món quà từ năm tháng trước hay vào lúc này cũng chẳng thay đổi cách nhìn của tôi về chồng tương lai hay cuộc hôn nhân của mình.

      Tôi chỉ thấy nghĩa vụ và trách nhiệm, chứ hơn. “Và giờ chúng ta ở đây, chỉ vài ngày trước khi...” cha lắc đầu như thể giũ bỏ ý nghĩ khó chịu. “Ta nghĩ mẹ con bận tâm nến ta đưa nó cho con bây giờ.” Ông buông bàn tay tôi ra, luồn vào trong áo dài mình và lấy ra vật gì đó nhắn gập trong giấy thông thảo.

      Tôi đủ sức nhấc đầu khỏi gối nhưng tôi dõi theo khi ông mở tờ giấy ra. Bên trong là đóa mẫu đơn khô, ông đặt nó vào lòng bàn tay tôi. Tôi nhìn đóa mẫu đơn mà dám tin vào mắt mình. “Nhân chỉ hơn con hai tuổi,” cha bảo. “Nhưng cậu ấy làm được nhiều việc rồi.

      Cậu ấy là thi nhân.” “Thi nhân ư?” tôi lặp lại. Tâm trí tôi khó mà chấp nhận vật cầm trong tay, trong khi tai tôi dường như nghe những lời cha từ đáy mồ. “ thi nhân thành công,” cha thêm. “Tác phẩm của cậu ấy được xuất bản, dù cậu ấy còn rất trẻ.

      Cậu ấy sống ở núi Vu Sơn ngay bên kia hồ. Nếu phải tới kinh thành ta chỉ cho con thấy nhà cậu ấy từ cửa sổ thư phòng rồi. Nhưng ta còn con ...” Cha về người lạ của tôi, thi nhân của tôi. Đóa hoa khô tôi cầm trong tay chính là đóa hoa chàng dùng vuốt ve tôi ở Vọng Nguyệt Đình.

      Mọi điều tôi kinh sợ đều chỉ là nhầm lẫn. Tôi sắp được lấy người tôi . Số phận mang chúng tôi lại với nhau. Chúng tôi thực cặp uyên ương bầu bạn suốt đời. Người tôi co giật thể kiểm soát được và lệ tuôn trào ra. Cha nhấc tôi lên như thể tôi nặng hơn chiếc lá và ôm tôi trong tay mình.

      “Ta rất tiếc,” ông cố an ủi tôi. “Các đều sợ lấy chồng nhưng ta biết với con việc đó lại tệ đến thế.” “Con khóc vì buồn hay sợ. Ôi cha ơi. Con là hạnh phúc nhất đời.” Ông dường như nghe tôi vì ông bảo, “Con hạnh phúc với Ngô Nhân thôi mà.” Ông đặt nhàng tôi xuống gối.

      Tôi cố đưa đóa hoa lên mũi để xem mùi hương có còn vương lại hay , nhưng tôi quá yếu. Cha cầm lấy đóa hoa đặt lên ngực tôi. Nó tưởng chừng nặng như hòn đá trái tim tôi. Mắt cha ngân ngấn nước mắt. lý tưởng khi cha và con được hội ngộ trong miền hạnh phúc.

      “Ta cần với con vài chuyện,” ông với giọng khẩn bách. “Đó là bí mật của gia đình chúng ta.” Ông trao tôi món quà cưới lớn nhất đời. “Con biết là ta từng có hai người em nữa,” ông bảo. Tôi quá hân hoan, vì Ngô Nhân là chàng thi nhân của tôi, lâu nữa chúng tôi thành thân và sống cuộc đời huyền diệu, tôi phấn chấn đến nỗi khó có thể tập trung vào những người cha tới.

      Tôi thấy tên những người chú này ở từ đường nhưng chẳng ai tảo mộ họ trong dịp tết Thanh Minh cả. Tôi vẫn tưởng họ mất lúc mới sinh, đó là lý do tại sao mọi người rất ít nhắc đến họ. “Họ chỉ là những đứa bé khi cha ta nhận chức ở Dương Châu,” cha tiếp tục.

      “Cha mẹ giao phó cho ta trông nom gia đình và tòa trang viên này khi họ vắng mặt, nhưng họ dẫn theo hai đứa con trai . Mẹ con và ta tới thăm họ ở Dương Châu nhưng chúng ta chọn lúc tồi tệ nhất. Bọn Mãn Châu tấn công.” Ông ngừng lại để thăm dò phản ứng của tôi. Tôi hiểu sao ông lại kể cho tôi chuyện nghiệt ngã nào đó trong khoảnh khắc tuyệt vời này.

      Khi tôi gì, ông tiếp lời. “Cha ta, các em và ta bị dồn vào khu vực có cổng ngăn cùng những người đàn ông khác. Chúng ta biết chuyện gì xảy ra với những người phụ nữ và cho đến tận hôm nay mẹ con vẫn chưa về chuyện đó nên ta chỉ có thể kể với con điều ta trông thấy.

      Là con trai, ta và hai em có bổn phận bảo vệ tính mạng của cha. Bọn ta đứng vây quanh ông, che chắn ông chỉ với bọn lính mà còn với những tù nhân liều lĩnh khác, những kẻ đó dễ dàng nộp ông cho quân Mãn Châu nếu họ cho rằng việc đó cứu được họ.” Chuyện này còn hơn tất cả những gì tôi từng biết.

      Song tâm trí tôi lúc này cũng lo lắng như nó hạnh phúc vậy. Mẹ và bà nội ở đâu? Như thể nhìn thấu suy nghĩ ấy trong đầu tôi, cha bảo, “Ta được chứng kiến lòng dũng cảm của mẹ ta nhưng ta tận mắt nhìn thấy các em trai ta chết. Ôi Mẫu Đơn ơi, con người có thể rất độc ác.” Đột nhiên, dường như ông nghẹn lời.

      Còn tôi lại băn khoăn, sao ông lại kể với tôi mọi chuyện này? Sau hồi lâu, ông tiếp tục. “Khi con gặp họ, hãy với họ là ta rất tiếc. Hãy với họ là chúng ta hết sức thể lòng thành kính. Đồ cúng hậu hĩnh rồi nhưng họ vẫn chưa ban cho gia tộc đứa con trai.

      Mẫu Đơn ơi, con con ngoan. Hãy xem có cách nào giúp được .” Tôi bối rối và nghĩ rằng cha cũng vậy. Trách nhiệm của tôi là sinh con trai cho nhà chồng chứ phải cho nhà cha đẻ. “Cha,” tôi nhắc ông. “Con sắp được gả vào nhà họ Ngô cơ mà.” Ông nhắm mắt lại và quay mặt .

      “Dĩ nhiên rồi,” ông cộc cằn . “Dĩ nhiên rồi, hãy thứ lỗi cho ta.” Tôi nghe thấy tiếng người bên dưới. Đám gia nhân bước vào và mang các thứ đồ đạc, y phục, vải vóc và của hồi môn, mọi thứ trừ chiếc giường của tôi, để đem tới nhà chồng tương lai. Rồi mẹ, các chú thím, em họ và tỳ thiếp bước vào vây quanh giường tôi.

      Cha hẳn nhầm lẫn khi tính số ngày còn lại trước hôn lễ. Tôi cố đứng lên để có thể khấu đầu đáp lễ họ cho phải phép, nhưng người tôi yếu ớt và mệt mỏi ngay cả khi trái tim tôi ngập tràn hạnh phúc. Gia nhân treo chiếc sàng con và mảnh gương lên cửa buồng tôi để biến mọi điều bất lợi thành cát tường may mắn.

      Tôi được phép ăn trong suốt thời gian cử hành hôn lễ nhưng tôi cần nếm chút thực phẩm đặc biệt mà mọi người chuẩn bị cho bữa điểm tâm ngày cưới. Tôi đói nhưng cố hết sức vâng lời, vì mỗi miếng điềm báo về cuộc sống hòa hợp lâu dài với người chồng tương lai.

      Song ai mời tôi món sườn lợn mà tôi tưởng ăn để lấy sức sinh quý tử, đồng thời cố gặm vào xương để bảo vệ tinh lực của phu quân. Họ có lẽ muốn tôi ăn hạt sen, hạt bí và hạt hướng dương để sinh nhiều con trai. Nhưng họ cũng chẳng mời tôi những thứ này. Thay vào đó, cả gia đình đứng quanh giường tôi mà khóc.

      Họ đều buồn bã khi thấy tôi xuất giá, nhưng tôi rất hăm hở. Tôi thấy người lâng lâng và bẫng đến nỗi tưởng mình có thể bay . Tôi hít hơi sâu để giữ người cho vững. Tôi được ở bên chàng thi nhân ấy trước khi mặt trời lặn. Từ giờ đến lúc đó, tôi tận hưởng mọi phong tục tập quán truyền thống khi gia tộc gả con .

      Đêm nay, rất, rất khuya đêm nay, và trong những lần gần gũi nhiều năm tới, tôi khoản đãi phu quân bằng hồi ức về những khoảnh khắc tươi đẹp này. Những người đàn ông bỏ , các thím và em họ lau rửa tay chân cho tôi, họ chỉ quên thêm lá bưởi vào nước. Họ chải tóc tôi và ghim lên đó những chiếc trâm ngọc trâm vàng mà quên phủ tấm khăn trùm đầu lên.

      Họ thoa phấn trắng lên mặt tôi mà màng tới các lọ son làm má môi tôi ửng lên. Họ đặt đóa mẫu đơn ép khô vào tay tôi. Họ mặc cho tôi chiếc váy lót bằng lụa trắng in kinh Phật. Với rất nhiều nước mắt quanh mình, tôi đủ sức chỉ ra rằng họ quên buộc tim lợn vào chiếc váy lót.

      Tiếp theo họ giúp tôi mặc váy cưới. Tôi mỉm cười với họ. Tôi nhớ họ lắm. Tôi khóc, đó là việc nên làm. Tôi ích kỷ và bướng bỉnh giấu công trình của mình trong khi thời gian ở cùng gia đình còn nhiều nữa. Nhưng trước khi họ mang áo váy cưới ra, thím hai gọi những người đàn ông trở vào.

      Tôi dõi theo đám gia nhân khi họ tháo cánh cửa khỏi khung và mang nó tới cạnh giường. Họ nhàng nâng tôi lên cánh cửa. Cả bộ rễ khoai sọ được đặt quanh tôi làm biểu tượng cho khả năng sinh nở. Trông tôi như vật hiến tế thần linh vậy. Có vẻ như tôi phải bộ tới kiệu hoa.

      Nước mắt biết ơn từ khóe mắt tôi chảy xuống thái dương và vào trong tóc. Tôi ngờ mình lại có thể hạnh phúc đến thế. Người ta khênh tôi xuống lầu. đám rước tuyệt đẹp kéo dài phía sau khi chúng tôi di chuyển dọc theo các hành lang có mái che. Chúng tôi phải tới từ đường để tôi có thể cảm tạ tổ tiên Trần gia che chở, song chúng tôi dừng lại ở đó.

      Chúng tôi tiến thẳng đến chiếc sân trong ngay trước An Tọa Đường ở phía trước cổng chính. Người ta đặt tôi xuống và bước sang bên cạnh. Tôi nhìn phong hỏa môn và nghĩ, chỉ còn lúc nữa thôi. Cánh cổng kia mở ra. Tôi bước vào kiệu hoa. lời từ biệt lần cuối với cha mẹ rồi tới nhà mới của mình.

      Lần lượt từng người trong gia tộc, từ cha mẹ tới những gia nhân thấp hèn nhất, ngang qua tôi thi lễ. Rồi lạ lùng và kỳ quặc là họ bỏ tôi lại mình. Trái tim tôi nguôi dịu. Xung quanh là những thứ thuộc về tôi: lụa và đồ thêu chất đầy ngực tôi, gương lược, chăn gối và y phục nữa.

      Giờ là khoảng thời gian sân vườn hoang tàn và lạnh lẽo trong năm. Tôi nghe thấy tiếng pháo nổ. Tôi nghe thấy tiếng chiêng hay giọng người xướng lên trong các nghi lễ. Tôi nghe thấy tiếng những phu kiệu đưa tôi về nhà chồng. Những ý nghĩ âu sầu xổ tung, đánh bẫy tôi như đám dây nho rối.

      Cùng với nỗi đau buồn và hoảng sợ, tôi nhận ra rằng phải mình sắp đến với Ngô Nhân. Theo tục lệ dành cho những con chưa chồng, gia đình mang tôi ra, để tôi chết bên ngoài. “Mẹ ơi, cha ơi,” tôi gọi nhưng giọng yếu ớt đến nỗi thể nghe được. Tôi cố cử động nhưng tay chân tôi vừa quá nặng vừa quá vô phương cựa quậy.

      Tôi nắm chặt bàn tay và cảm thấy đóa mẫu đơn tan vụn thành bụi. Giờ là tháng Chạp, trời lạnh buốt nhưng tôi vẫn sống hết ngày và đêm đó. Khi ánh hồng bắt đầu loang bầu trời, tôi cảm thấy mình như viên ngọc trai chìm dưới những con sóng. Trái tim tôi như viên ngọc tan vỡ.

      Tâm trí tôi giống như phấn phai, hương tan, mây giạt . Sinh lực của tôi trở nên mỏng manh như thứ lụa nhất. Khi trút hơi thở cuối cùng, tôi nghĩ tới những dòng trong bài thơ cuối cùng mình viết: Dùng dằng nửa tỉnh nửa mơ Luyến hoa, hồn mộng lập lờ dưới trăng

    4. Nhã Linh

      Nhã Linh Well-Known Member

      Bài viết:
      722
      Được thích:
      481
      Chương 8
      Tôi chết vào giờ dậu ngày mùng bảy tháng chạp năm Khang Hy thứ ba. Chỉ còn năm ngày nữa là đến hôn lễ. Trong những khoảnh khắc đầu tiên của cái chết, nhiều việc xảy ra trong vài tuần lễ cuối cùng trở nên sáng . Hiển nhiên là tôi có ý niệm rằng mình sắp chết, nhưng mẹ hiểu điều đó khi bà vào buồng tôi lần đầu tiên sau thời gian dài.

      Khi tới Xuân Đình, các em họ, các thím, những người thiếp cố ép tôi ăn vì nhận thấy tôi tự bỏ đói mình. Trong những ngày cuối cùng, tôi bị việc viết lách ám ảnh y hệt nàng Lệ Nương bị ám ảnh bức chân dung tự họa. Tôi nghĩ rằng các bài thơ của mình nảy nở từ tình , nhưng từ trong sâu thẳm chắc hẳn rằng tôi biết mình sắp chết.

      tất cả, điều mà cơ thể biết và điều trí óc chọn để tin tưởng là hai thứ hoàn toàn khác nhau. Cha tới để đưa tôi đóa mẫu đơn vì tôi sắp chết và khuôn phép thành vấn đề nữa; tôi sung sướng phát ra rằng mình sắp lấy chàng thi nhân ấy, nhưng quá cận kề cái chết nên còn có thể phục hồi.

      Rèm trong buồng tôi được gỡ xuống, phải để tôi đem đến nhà mới mà bởi chúng trông giống lưới đánh cá và người thân muốn tôi tái sinh vào kiếp cá. Cha kể với tôi về các chú vì ông muốn tôi mang thông điệp tới họ ở thế giới bên kia. “ ngày nào đó con được gặp họ,” ông .

      Ông thể thẳng thắn hơn thế, nhưng tôi hiểu. Người nhà đặt rễ khoai sọ quanh người tôi. Khoai sọ được tân nương mang theo tới nhà mới nhưng nó cũng được cúng cho người chết để cầu cho trong nhà sinh con trai, cháu trai. Theo truyền thống, con chưa chồng được đem ra ngoài khi “chỉ còn hơi thở nữa”.

      Nhưng làm sao người ta đoán biết được điều này? Nhưng chí ít , khi chết, tôi cũng phải là đứa trẻ sơ sinh. Nếu tôi bị bỏ cho chó ăn hay chôn trong nấm mộ nông choèn và mau chóng bị quên lãng. Khi còn , chúng tôi biết những điều xảy đến với mình sau khi chết từ cha mẹ, những truyện kể và các phong tục thờ cúng tổ tiên.

      Tất nhiên nhiều hiểu biết của tôi về cái chết là từ Mẫu Đơn Đình. Mặc dù vậy người sống thể biết hết tất cả nên tôi hoang mang, lạc lõng và thiếu tự tin khi bắt đầu hành trình của mình. Tôi nghe rằng chết là bóng tối nhưng điều đó phải những gì tôi trải nghiệm.

      Phải mất bốn mươi chín ngày để đẩy tôi khỏi dương gian và kéo tôi vào cõi . Mỗi linh hồn có ba phần và mỗi phần tìm nơi chốn riêng của mình sau khi chết. phần ở lại cùng thể xác bị chôn vùi, phần thứ hai tới thế giới bên kia trong khi phần còn lại vẫn ở dương gian chờ được đặt vào bài vị.

      Tôi bị giằng xé giữa khiếp sợ, đau buồn và bối rối khi ba phần hồn của tôi bắt đầu hành trình riêng của chúng, mỗi phần lúc nào cũng nhận thức đầy đủ về hai phần kia. Chuyện này sao có thể xảy ra được? Ngay cả lúc bay qua bầu trời, tôi biết rằng người ta bắt đầu than khóc ở sân trong khi phát ra xác tôi.

      Nỗi buồn lớn lao tràn ngập lòng tôi khi thấy họ hàng và các gia nhân chăm sóc mình giậm chân thương tiếc. Họ xõa tóc, tháo bỏ châu báu trang sức, mặc tang phục trắng. gia nhân chỉnh lại chiếc sàng con và tấm gương treo cửa buồng tôi. Tôi nghĩ rằng những món đó được đặt ở đấy để bảo vệ tôi khi đến nhà Ngô Nhân trong lễ thành hôn, nhưng thực ra chúng dùng để sửa soạn cho cái chết của tôi.

      Giờ đây chiếc sàng con để phần thiện lọt qua trong khi tấm gương biến họa thành phúc cho gia tộc tôi. Mối quan tâm trước hết của tôi là về phần hồn ở lại thân xác. Mẹ và các thím cởi bỏ y phục mặc thi thể và tôi thấy người mình hốc hác khủng khiếp đến mức độ nào.

      Họ lau rửa thi thể số lẻ lần và quấn xác tôi trong mấy lớp áo liệm. Họ mặc cho tôi quần áo có đệm lót để tôi được ấm áp trong mùa đông, rồi xỏ tay chân tôi vào những tấm áo choàng lụa và áo gấm được may làm của hồi môn. Họ rất cẩn thận để chắc chắn rằng có mẩu lông thú nào dính y phục, vì sợ tôi bị tái sinh làm kiếp thú.

      Ở lớp ngoài cùng, tôi mặc tấm áo choàng lụa có đệm lót với ống tay thêu hoa văn hình lông chim bói cá rất sặc sỡ và tinh xảo. Như bất cứ linh hồn nào rời bỏ thân xác, tôi mê mụ , nhưng vẫn mong họ dùng trang phục cưới của tôi để làm lớp áo liệm. Tôi là tân nương và tôi muốn có trang phục cưới ở thế giới bên kia.

      Mẹ đặt miếng ngọc mỏng vào miệng tôi để bảo toàn thi thể. Thím hai cất tiền và gạo vào các túi để tôi có thể dỗ dành lũ chó hung dữ gặp đường tới cõi . Thím ba che mặt tôi bằng mảnh lụa trắng mỏng. Thím tư buộc những sợi dây màu quanh eo tôi để ngăn tôi kéo theo đứa trẻ nào trong gia tộc và quanh bàn chân tôi để giữ người tôi khỏi giật nẩy nếu bị lũ ác quỷ dày vò trong hành trình của mình.

      Gia nhân treo mười sáu dải phướn trắng bằng giấy lên mặt ngoài cổng chính Trần phủ để hàng xóm láng giềng biết rằng mười sáu tuổi vừa qua đời. Các chú tôi khắp thành tới các miếu thổ địa và thánh thần để thắp nến và đốt vàng mã cho phần hồn tới cõi của tôi dùng làm lộ phí qua Quỷ Môn Quan.

      Cha tôi mời các nhà sư, chỉ vài người chứ nhiều vì tôi là con , để tụng kinh bảy ngày lần. Khi sống ai được tùy ý lang thang và khi chết cũng vậy. Giờ đây việc của gia đình là trói tôi lại để tôi bị cám dỗ mà lang thang vơ vẩn. Ngày thứ ba sau khi chết, thi hài tôi được nhập quan cùng với tro, vôi và những đồng xu.

      Rồi cỗ quan tài mở được đặt vào góc sân chờ thầy toán mệnh tìm ngày và nơi chốn thích hợp để đem chôn. Các thím để bánh vào trong tay tôi, các chú xếp những cây gậy cạnh người tôi. Họ thu gom y phục, vải bó chân, tiền bạc cùng thực phẩm, tất cả đều làm bằng giấy, đem đốt để chúng có thể cùng tôi tới thế giới bên kia.

      Nhưng tôi là , và tôi nhanh chóng biết rằng họ gửi thiếu. Vào đầu tuần lễ thứ hai, phần hồn tới cõi của tôi đến Xứng Kiều, nơi quỷ quan bắt đầu thực bổn phận mà hề thương xót. Tôi đứng trong hàng ngay sau người đàn ông họ Lý, quan sát khi những người trước chúng tôi được cân trước khi được chuyển đến tầng tiếp theo.

      Trong bảy ngày, ông Lý run rẩy và choáng váng, thậm chí còn khiếp hãi hơn cả tôi trước những điều chúng tôi nhìn và nghe thấy. Khi đến lượt ông ta, tôi quan sát trong nỗi kinh hoàng khi ông ta ngồi lên chiếc cân và mọi hành động xấu xa ông ta làm trong đời khiến nó hạ xuống đến vài thước.

      trừng phạt ông ta diễn ra ngay lập tức. Ông ta bị xé toạc làm nhiều mảnh và nghiền nát thành bụi. Rồi ông ta được gom lại và đưa cùng lời cảnh cáo. “Đây mới chỉ là ví dụ cho đau đớn đợi ngươi thôi, Lý lão gia,” gã quỷ sứ tuyên bố với vẻ tàn nhẫn.

      “Chớ khóc lóc hay cầu xin được khoan dung. Quá muộn rồi. Người tiếp theo!” Tôi chết điếng người. Lũ quỷ gớm guốc với bộ mặt khủng khiếp và tiếng kêu chói tai vây quanh và dẫn tôi tới chiếc cân. Tôi hơn khí, đó mới là dấu hiệu của người tốt thực , nhưng những điều xấu tôi làm khi còn sống chỉ thôi nên tôi tiếp tục hành trình của mình.

      Suốt thời gian tôi đứng xếp hàng tại Xứng Kiều, bằng hữu và hàng xóm láng giềng chia buồn với cha mẹ tôi. Đàm đại nhân gửi cha tôi tiền vàng để tôi chi tiêu ở cõi . Đàm phu nhân mang nến, hương và thêm đồ vàng mã để đốt cho tôi được sung túc. Đàm Trắc săm soi các đồ cúng, ước đoán giá trị của chúng, và những lời buồn rầu rỗng tuếch với các em họ tôi.

      Nhưng nó mới chỉ lên chín tuổi. Nó biết được gì về cái chết chứ? Vào tuần lễ thứ ba, tôi qua Ác Cẩu Thôn nơi người đoan chính được đón chào với những cái vẫy đuôi và liếm lưỡi còn kẻ xấu bị cắn xé giữa những hàm răng hùng hổ và lởm chởm cho đến khi máu chảy thành sông.

      lần nữa, dù xấu xa nhiều khi còn sống nhưng tôi cũng thấy vui vì có những chiếc bánh mà các thím đặt trong quan tài để dỗ dành lũ súc vật hai cẳng, bốn cẳng hay nhiều hơn nữa và vì có những cây gậy mà các chú cho để xua đuổi những con vật thực bất kham. Tuần thứ tư, tôi tới Gương Báo Ứng và được bảo hãy nhìn vào mà xem kiếp sau của mình là gì.

      Nếu tôi từng là kẻ xấu xa độc ác thấy con rắn trườn trong đám cỏ, con lợn dầm mình trong phân rác hay con chuột rỉa thịt xác chết. Nếu tôi là người tốt thoáng thấy cuộc sống mới tốt đẹp hơn cuộc sống vừa qua. Song khi tôi nhìn vào gương, hình ảnh u và ra hình thù gì.

      Phần hồn còn lại của tôi lang thang, nấn ná dương gian cho tới khi bài vị được điểm và tôi tới nơi an nghỉ cuối cùng. Những ý nghĩ về Ngô Nhân chưa bao giờ rời bỏ tôi. Tôi tự trách mình bướng bỉnh chịu ăn uống và đau lòng cho đám cưới bao giờ được tổ chức nữa, nhưng tôi chưa từng tuyệt vọng về chuyện chúng tôi được ở bên nhau.

      ra tôi tin tưởng vào sức mạnh tình của chúng tôi hơn bao giờ hết. Tôi mong Ngô Nhân tới nhà, gục người quan tài khóc lóc, rồi hỏi xin cha mẹ tôi đôi hài bó chân tôi gần đây. Chàng mang đôi hài đó về nhà cùng với ba nén nhang cháy. Ở mỗi góc đường, chàng gọi tên tôi và mời tôi theo.

      Khi về tới nhà, chàng đặt đôi hài lên ghế cùng với hương. Nếu thắp hương trong hai năm và tưởng nhớ đến tôi hàng ngày, chàng được thờ tôi như thờ người vợ. Nhưng chàng làm những việc đó. Vì có bạn đời là trái lẽ tự nhiên ngay cả với người chết, tôi bắt đầu mơ về đám cưới ma.

      dễ dàng và lãng mạn như lễ Vấn Hài nhưng tôi quan tâm, miễn là nó mau mau chóng khiến tôi kết hôn với Nhân. Sau khi đám cưới ma được tổ chức, với bài vị thế chỗ cho người, tôi mãi mãi ra khỏi nhà họ Trần và nhập vào nhà chồng, tôi thuộc về nơi ấy. Khi nghe thấy gì về chuyện này nữa, phần hồn thứ ba ở cùng thể xác hay tới cõi của tôi quyết định tới thăm Nhân.

      Cả đời tôi sống hướng nội. Khi chết tôi cảm thấy mình hướng nội, hướng nội, hướng nội cho tới khi còn gì cả. Giờ tôi còn ràng buộc với gia đình và Trần gia trang. Tôi có thể tới bất cứ nơi nào, nhưng tôi biết đường lối trong thành, cũng biết cách tìm đường, và khó mà bước đôi gót sen của mình.

      Tôi thể hơn mười bước mà lắc lư trước gió. Song vì tất cả những đau đớn và nhầm lẫn của mình, tôi phải tìm Nhân. Thế giới bên ngoài vừa đẹp đẽ vừa xấu xí hơn nhiều so với những gì tôi hình dung. Những quầy hàng trái cây nhiều màu sắc xen giữa những quầy bán lợn mổ để nguyên con và các phần thịt pha.

      Những kẻ ăn mày với những vết lở loét dịch và tay chân què cụt nài xin người qua lại cái ăn và tiền. Tôi thấy những phụ nữ (từ những gia đình danh giá!) vừa dạo phố vừa cười đường tới quán ăn và quán trà như thể chuyện đó chẳng là gì. Tôi lạc đường, tò mò và hào hứng.

      Thế giới chuyển động ngừng với những cỗ xe ngựa lăn qua các phố, lũ trâu ì ạch kéo xe chở muối, cờ phướn tung bay các tòa nhà và quá nhiều người xô đẩy trong dòng thác người cuộn xoáy. Những người bán hàng rong bán cá, kim chỉ và rổ rá bằng giọng rao nhức óc.

      Các khu nhà xây dựng hành hạ tai tôi bằng tiếng quai búa và la hét. Người ta tranh cãi về thời thế, giá vàng và những món nợ thua bạc. Tôi bịt tai nhưng bàn tay tôi, chỉ còn là làn hơi, thể ngăn được những thanh khàn khàn và dày vò đó. Tôi cố gắng ra khỏi con phố nhưng là linh hồn tôi thể lái người rẽ ngoặt được.

      Tôi trở lại nhà mình và thử con phố khác. Lần này tôi tới khu mua sắm, người ta bán quạt, tơ lụa, ô dù giấy, dao kéo, đá chạm, tràng hạt và trà ở đấy. Biển hiệu và những bộ lễ phục kiểu này kiểu nọ lấp lánh dưới ánh mặt trời. Tôi tiếp tục , qua đền miếu, xưởng dệt và xưởng đúc tiền, thanh của những cỗ máy dập thoi vào tai tôi cho tới khi nước mắt trào ra.

      Những con phố ở Hàng Châu được lát đá cuội, đôi gót sen của tôi thâm tím bầm dập cho tới khi máu hồn rỉ qua hài lụa. Người ta bảo rằng hồn ma cảm thấy đau đớn thể xác nhưng phải vậy. Nếu tại sao lũ chó ở cõi lại cắn xé hết tay đến chân kẻ xấu hay quỷ sứ cứ ăn trái tim của kẻ đê tiện hết lần này tới lần khác? Sau đường thẳng dài nữa chẳng dẫn tới đâu, tôi trở lại nhà mình.

      Tôi bắt đầu theo hướng mới, bước dọc mé ngoài tường bao cho đến khi tới mặt nước trong veo của Tây Hồ. Tôi ngắm bờ đê, các phá nước với những gợn sóng lung linh và những sườn đồi xanh tươi. Tôi lắng nghe lũ bồ câu gù mưa và lũ ác là cãi vã. Tôi thoáng thấy Đảo và nhớ Nhân chỉ nhà chàng ở núi Vu Sơn, nhưng tôi tìm ra cách nào để tới đó cả.

      Tôi ngồi tảng đá. Những tấm váy liệm rủ từ người xuống mép nước, nhưng giờ tôi thuộc thế giới của các linh hồn nên chúng bị ướt hay vấy bùn. Tôi còn lo lắng về chuyện hài lấm bẩn hay chuyện gì như thế. Tôi để lại bóng người hay dấu chân. Chuyện này khiến tôi cảm thấy tự do hay đơn kìm nổi ư? Cả hai.

      Vầng dương lặn xuống sau đồi, chuyển bầu trời thành đỏ thẫm và làm hồ nước tím sẫm. Linh hồn tôi run rẩy như lau sậy trước gió. Màn đêm buông xuống Hàng Châu. Tôi chỉ còn mình bờ, tách biệt với mọi người và mọi vật tôi biết, càng lúc càng đắm chìm sâu hơn vào nỗi thất vọng.

      Nếu Nhân tới nhà tôi để dự tang lễ và tôi thể tới nhà chàng vì bị những góc đường và tiếng động ngăn trở làm sao tôi tìm thấy chàng được? Trong các ngôi nhà và chốn bán buôn quanh hồ, người ta hạ đèn lồng xuống và thổi tắt nến. Người sống ngủ nhưng bờ hồ chập chờn đầy xao động.

      Linh hồn của cây cối, tre trúc hít thở và run rẩy. Lũ chó trúng bả tới bên hồ tuyệt vọng uống nước lần cuối trước khi giãy chết. Những hồn ma đói, những người chết đuối dưới hồ hay chống lại quân Mãn Châu, chịu cạo trán và bị xử chém đầu, lê lết qua bụi cây thấp.

      Tôi cũng thấy những người giống mình: những người mới chết và lang thang trước khi ba phần hồn tìm thấy nơi an nghỉ. Chúng tôi chẳng bao giờ có lại được những đêm yên bình đầy mộng đẹp. Những giấc mộng! Tôi giật mình. Nhân cũng hiểu Mẫu Đơn Đình gần như tôi vậy.

      Mộng Mai và Lệ Nương gặp gỡ nhau lần đầu trong mộng. Chắc chắn là từ khi tôi chết Nhân cố gắng đến với tôi trong mộng, chỉ tôi là biết chỗ và cách gặp chàng. Giờ tôi biết chính xác nơi cần đến nhưng tôi phải tìm đúng đường để tới đó.Tôi cố thử xoay vòng tròn vài lần ở góc trang viên, mỗi lần đều mở rộng vòng xoay cho đến khi tôi vươn ra đủ rộng để thực được điều đó.

      Tôi rón rén dọc mép nước, bước qua các tảng đá, quan tâm tới các vũng nước , gạt ra bên cạnh những đóa tầm xuân và những vạt cây bụi cản đường khác cho tới khi tới được Vọng Nguyệt Đình. Đúng lúc mảnh nhất của vầng dương vươn lên núi, tôi nhận ra Nhân đợi mình.

      “Ta tới đây, hy vọng gặp được nàng,” chàng . “Nhân.” Khi chàng vươn tới vào, tôi né ra. Chàng ôm tôi hồi lâu mà gì cả, rồi chàng hỏi, “Thế nào mà nàng lại chết và rời bỏ ta?” Tôi có thể chạm vào nỗi đau của chàng. “Chúng rất hạnh phúc.

      Nàng quyết định rằng ta ư?” “Em có biết chàng là ai đâu. Làm sao mà em biết được ạ?” “Ban đầu ta cũng biết đó là nàng,” chàng trả lời. “Ta biết vợ tương lai của mình là con của Trần lão gia và tên là Mẫu Đơn. Ta muốn cuộc hôn nhân sắp đặt, nhưng giống như nàng, ta phải chấp nhận số phận.

      Khi chúng ta gặp gỡ, ta cho rằng nàng là trong những người cháu trong nhà, hoặc vị khách. Trái tim thay đổi và ta nghĩ, hãy để mình có được ba đêm này, tin rằng chúng gần nhất với điều mà ta mong muốn trong hôn nhân.” “Em cũng có cảm giác ấy.” Lòng đầy nuối tiếc, tôi tiếp lời, “Giá mà em ra tên mình.” “Ta cũng có tên mình đâu,” chàng buồn rầu .

      “Thế còn đóa mẫu đơn sao? Nàng có nhận được ? Ta đưa nó cho cha nàng. Lúc đó nàng phải biết đó là ta chứ.” “Cha trao nó cho em khi quá muộn để cứu em.” Chàng thở dài, “Mẫu Đơn.” “Nhưng em vẫn hiểu sao chàng biết đó là em?” “Ta biết cho đến khi cha nàng thông báo về lễ cưới của chúng ta.

      Với ta, mà ta sắp lấy làm vợ có khuôn mặt và giọng . Nhưng khi cha nhắc đến tên nàng đêm đó, ta nghe theo cách hoàn toàn mới. Rồi ông bảo nàng cần phải đổi tên, vì tên ấy trùng với tên mẹ ta, hiểu sao ta cảm thấy, hiểu rằng, ông về nàng. Dung mạo nàng giống mẹ ta, nhưng cả hai có chung tính đa cảm.

      Ta hy vọng khi ông thông báo và chỉ vào ta nàng trông thấy.” “Em nhắm mắt lại. Sau khi gặp chàng, em sợ nhìn thấy người là chồng mình.” Rồi tôi nhớ lại, lúc mở mắt ra, mình thấy Đàm Trắc cùng cái miệng tròn vo, cong cớn của nó. Nó thấy chính xác đó là ai.

      bảo tôi trong đêm diễn kịch đầu tiên rằng nó có tình ý với chàng thi nhân của tôi. Chẳng có gì lạ khi nó tỏ ra giận dỗi lúc chúng tôi trở lại khu vực phụ nữ. Nhân vuốt ve má tôi. Chàng sắp sửa làm hơn thế nữa, nhưng tôi cần phải làm sáng tỏ chuyện gì xảy ra. “Thế nên chàng nhất quyết đó là em dựa vào trực giác ư?” tôi bướng bỉnh hỏi.

      Chàng mỉm cười và tôi nghĩ, nếu chúng tôi thành thân đây là cách chàng đáp lại mỗi lần tôi thể từ bỏ cố chấp của mình. “Chuyện đó rất đơn giản,” chàng . “Sau lời thông báo, cha nàng cho giải tán đám phụ nữ. Khi những người đàn ông đứng dậy, ta mau chóng tách khỏi họ và vội vã chạy băng qua hoa viên, cho tới khi thấy đám các nàng.

      Nàng ở ngay phía trước. Đám phụ nữ đối xử với nàng như thể nàng dâu mới.” Chàng cúi xuống thầm vào tai tôi. “Ta nghĩ chúng ta may mắn làm sao khi phải là những người xa lạ trong đêm tân hôn. Ta hạnh phúc, với khuôn mặt của nàng, đôi gót sen của nàng, phong thái của nàng.” Chàng lại ngẩng lên và , “Sau đêm đó, ta mơ về tương lai của chúng ta.

      Chúng ta sắp sửa có những ngày tháng đắm mình trong văn chương và tình . Ta gửi Mẫu Đơn Đình cho nàng. Nàng có nhận được ?” Làm sao tôi có thể với chàng rằng, chính nỗi ám ảnh với nó khiến tôi lìa đời. Quá nhiều nhầm lẫn. Quá nhiều sai sót. Và kết quả là bấy nhiêu bi kịch.

      Vào lúc đó tôi hiểu rằng từ ngữ nghiệt ngã nhất đời này, chính là giá như. Giá như tôi bỏ vở kịch trong đêm đầu tiên, tôi thành thân và gặp Nhân trong đêm tân hôn mà chẳng có rắc rối gì xảy ra cả. Giá như tôi mở mắt khi cha chỉ vào Nhân. Giá như cha đưa đóa mẫu đơn cho tôi vào sáng hôm sau hay tháng hoặc thậm chí tuần trước khi tôi chết.

      Sao số phận có thể tàn nhẫn đến thế? “Chúng ta thể thay đổi chuyện xảy ra, nhưng có lẽ tương lai chúng ta cũng vô vọng,” Nhân . “Mộng Mai và Lệ Nương tìm thấy con đường riêng của họ, đúng nhỉ?” Tôi chưa hoàn toàn hiểu mọi thứ ở thế giới mộng ảo này diễn ra như thế nào, tôi được phép làm gì, nhưng vẫn , “Em rời bỏ chàng.

      Em ở cùng chàng mãi mãi.” Nhân siết chặt tay quanh người tôi và tôi vùi mặt vào vai chàng. Tôi muốn được như thế này mãi, nhưng rồi chàng đẩy ra và chỉ vào vầng dương mọc. “Ta phải rồi,” chàng bảo. “Nhưng em có bao nhiêu điều muốn với chàng. Đừng rời bỏ em,” tôi năn nỉ.

      Chàng mỉm cười. “Ta nghe tiếng gia nhân trong sảnh. mang trà cho ta.” Rồi giống như vào đêm diễn kịch đầu tiên, chàng đề nghị chúng tôi gặp lại. Rồi sau đó, chàng biến mất. Tôi ở ngay tại đấy cả ngày đến đêm, chờ chàng tới gặp tôi trong giấc mộng của chàng.

      Những giờ chờ đợi đó khiến tôi có nhiều thời gian suy nghĩ. Tôi muốn là hồn ma đắm say trong tình . Trong Mẫu Đơn Đình, Lệ Nương mây mưa cùng Mộng Mai lần đầu tiên trong mộng và sau đó, khi nàng là hồn ma, nàng cũng mây mưa với chàng. Khi trở lại làm người, nàng vẫn còn trong trắng và muốn để trinh tiết của mình bị tổn hại trước hôn lễ.

      Nhưng điều đó có thể xảy ra trong đời thực ? Ngoài Mẫu ĐơnĐình ra, hầu hết các truyện ma khác đều liên quan đến những nữ hủy hoại, làm tổn thương hoặc giết hại tình lang của mình. Tôi nhớ tới truyện mẹ kể, trong đó hồn ma nữ giữ mình khỏi chạm vào chàng thư sinh với lời lẽ “Bộ xương mốc meo từ nấm mồ này hợp với người sống.

      Quan hệ với hồn ma chỉ đẩy chàng nhanh tới cái chết mà thôi. Em dám làm hại chàng.” Tôi cũng thể mạo hiểm làm tổn hại Nhân. Giống như Lệ Nương, tôi được chuẩn bị để làm người vợ. Ngay cả khi chết, nhất là khi chết, tôi thể để phu quân coi mình là gì đó thấp kém hơn vị tiểu thư đài các.

      Như Lệ Nương nhận định, Hồn ma có thể bị đam mê lừa dối; phụ nữ phải chú ý đầy đủ đến lễ nghi. Đêm đó, khi Nhân trở lại Vọng Nguyệt Đình, chúng tôi chuyện về thơ và hoa, về cái đẹp và về chữ tình, về tình trường cửu và tình nhất thời của các trong lầu xanh.

      Khi chàng lúc tảng sáng, tôi cảm thấy thất vọng. Suốt quãng thời gian ở cùng chàng, tôi muốn vươn tay vào trong áo dài của chàng và chạm vào da thịt chàng. Tôi muốn thầm những thông điệp của trái tim vào tai chàng. Tôi muốn nhìn và chạm vào thứ giấu trong quần chàng, tôi muốn chàng lột bỏ những lớp vải liệm cho tới khi tìm thấy vị trí khao khát được đụng chạm ngay cả trong cái chết.

      Đêm hôm sau, chàng mang theo bút, nghiên, giấy, mực. Chàng cầm tay tôi và chúng tôi cùng mài mực vào nghiên, rồi tới bên hồ, ở đó chàng khum bàn tay tôi lại để tôi mang nước về hòa mực. “Hãy ta hay,” chàng bảo. “Hãy cho ta biết cần phải viết gì.” Tôi nghĩ đến trải nghiệm của mình trong những tuần cuối cùng, rồi bắt đầu đọc.

      Liệng ngang trời trong cơn trằn trọc mãi Những núi non tươi mát dưới sương Hồ mờ xa Chàng cuốn em vào chàng qua những đám mây. Khi những từ cuối cùng bật khỏi môi tôi, chàng để bút xuống và cởi tấm áo choàng có đệm lót với ống tay thêu hình lông chim bói cá của tôi ra.

      Chàng viết bài thơ tiếp theo, chữ viết của chàng thanh lệ như bàn tay mơn trớn. Chàng đặt tên bài thơ là “Tiên nữ ghé thăm,” và đó là về tôi. Thôi giã từ thôi, thôi nhớ thương Đêm ơi ngập ngúa bấy đêm trường! Nàng theo sương khói về trong mộng, Ta nhớ Tầm Dương, tay phím buông... ...Dấu tiên mờ mịt, lìa Lưu Nguyễn Hồn bướm miên man, hẹn Chúc Lương Nức nở đàn ai, sầu vỡ giấc.

      Khuây ngồi rạc bóng trước trăng suông... Chúng tôi cùng làm mười tám bài thơ. Tôi đọc dòng và chàng làm dòng tiếp theo, thường mượn lời từ vở kịch mà chúng tôi thích. “Đêm nay em đến với chàng bằng cả thể xác và cả tình , là của chàng trong mọi khát khao,” tôi dẫn lời Lệ Nương sau hôn lễ bí mật của nàng.

      Mỗi dòng là nỗi niềm riêng tư được bộc bạch. Mỗi dòng mang chúng tôi đến gần nhau hơn. Và mỗi bài càng lúc càng ngắn hơn khi hết lớp này đến lớp khác bộ đồ liệm của tôi rơi xuống đất. Tôi quên những âu lo. Tất cả thu lại thành những từ lạc thú, rì rầm, quyến rũ, trào dâng, mây.

      Bình minh ló rạng và chàng bị tách khỏi tôi. Đơn giản là qua rồi. Vầng dương cao và tôi ở dưới những lớp áo liệm còn lại. Người chết cảm thấy nóng hay lạnh theo cách thông thường. Hơn thế, chúng tôi cảm thấy điều gì đó sâu sắc hơn, điều gì đó kết nối với xúc cảm của những cảm giác này.

      Tôi sao kìm được mà run lên, nhưng tôi mặc lại y phục. Cả ngày đến đêm tôi chờ Nhân trở lại nhưng chàng đến. Thế rồi bỗng dưng có những sức mạnh khủng khiếp kéo tôi khỏi Vọng Nguyệt Đình. Tôi chỉ mặc mỗi đồ lót và tấm áo dài thêu hình chim bay thành đôi những bông hoa.

      Tôi chết năm tuần và ba phần hồn tôi bắt đầu quằn quại tách rời nhau cách thể đừng được. phần hồn ở lại thân xác tôi mãi mãi, phần lang thang bắt đầu giạt vào bài vị trong khi phần ở cõi đến Vọng Hương Đài. Ở nơi này, người chết rất buồn và khao khát được cho cơ hội cuối cùng nhìn lại nhà cửa và lắng nghe những người thân.

      Từ rất xa, tôi lần dọc theo bờ Tây Hồ tới khi trở lại nhà mình. Ban đầu mọi thứ tôi có thể thấy được chỉ là những điều vặt vãnh: gia nhân đổ bô trong buồng mẹ, mấy người thiếp tranh cãi về chiếc đĩa hình đầu sư tử, con vú Thiệu giấu các hình thêu của nó vào giữa những trang giấy trong bản Mẫu Đơn Đình của tôi.

      Nhưng tôi cũng thấy nỗi buồn của cha mẹ và cảm thấy đau nhói vì ân hận. Tôi chết vì quá đa tình. Tôi rời bỏ dương thế vì tình cảm dạt dào làm tôi choáng ngợp, hủy hoại sức khỏe và che mờ suy nghĩ. Bên dưới, mẹ khóc và tôi nhận ra rằng bà đúng. Lẽ ra tôi nên tránh xa Mẫu Đơn Đình.

      mang lại cho tôi quá nhiều đam mê, thất vọng và hy vọng và giờ đây, tôi ở chốn này, bị chia lìa khỏi gia đình, người thân và chồng mình. Là trưởng nam, cha tôi gánh vác mọi nghi lễ. Bổn phận và trách nhiệm chính của ông giờ đây là chứng kiến tôi được chôn cất cách hợp thức và bài vị của tôi được điểm.

      Người nhà và các gia nhân chuẩn bị thêm vàng mã, mọi thứ mà họ nghĩ là tôi có thể cần cho cuộc sống mới. Họ làm y phục, thực phẩm, phòng ốc và sách để tôi giải trí. Họ cho tôi kiệu vì ngay cả khi chết mẹ cũng muốn tôi ra ngoài. Trong đêm trước lễ tang, những đồ cúng này được đốt phố.

      Vọng Hương Đài, tôi thấy vú Thiệu lấy gậy đập vào đống lửa và những lá giấy khi chúng xoắn lại khi cháy nhằm xua những linh hồn muốn lấy đồ của tôi. Lẽ ra cha tôi nên bảo trong các chú của tôi làm việc này để tỏ ra rằng ông thực hữu ý và mẹ tôi nên vãi gạo quanh rìa đống lửa để dụ những hồn ma đói nài xin cái ăn, bởi vì vú Thiệu xua đuổi được những linh hồn và hầu như mọi thứ đều bị lấy trộm trước khi tôi có cơ hội nhận được.

      Khi quan tài tôi tới phong hỏa môn, tôi thấy Nhân. Thậm chí khi chú hai đập chiếc chén có lỗ thủng ngay phía chỗ đặt đầu tôi, từ bây giờ, tôi chỉ được phép uống phần nước mà tôi lãng phí khi sống, tôi vẫn thấy hân hoan. Tiếng pháo xua đuổi những điềm gở liên quan đến tôi ở quanh trang viên.

      Tôi được đặt vào chiếc kiệu, phải kiệu hoa cho lễ vu quy mà là kiệu xanh dùng cho người chết. Đám rước khởi hành. Chú tôi ném tiền vàng làm lộ phí cho tôi tới cõi . Nhân cúi đầu bước giữa cha tôi và Đàm đại nhân. Theo sau họ là những chiếc kiệu chở mẹ tôi, các thím và các em họ.

      Tại nghĩa trang, quan tài tôi được hạ huyệt. Gió xạc xào thổi qua hàng dương thành những khúc ca ma mị. Mẹ, cha, các chú thím và em họ, mỗi người nhặt nắm đất ném lên quan tài. Khi đất che phủ hết mặt gỗ sơn, tôi cảm thấy phần hồn thứ ba biến mất khỏi mình mãi mãi. Ở Vọng Hương Đài, tôi quan sát và lắng nghe.

      Chẳng ai cử hành lễ cưới ma. Họ cũng bày biện yến tiệc ở mộ địa để giới thiệu tôi với những người bạn mới và dọn đường cho thông hiểu giữa tôi và những người xóm giềng mới. Mẹ tôi ốm yếu vì đau buồn tiếc thương đến nỗi các thím phải giúp bà trở lại kiệu.

      Cha dẫn đầu đám rước và lần nữa Nhân và Đàm đại nhân ở bên cạnh ông. ai hồi lâu. An ủi gì khi người cha vừa mất đứa con độc nhất? gì được với chú rể vừa mất dâu của mình? Cuối cùng, Đàm đại nhân cũng với cha tôi: “Con ngài phải là người duy nhất bị vở kịch khủng khiếp này tiêm nhiễm.” Đây là kiểu an ủi gì thế? “Nhưng nàng vở kịch ấy,” Nhân lẩm bẩm.

      Những người khác nhìn chàng chằm chằm và chàng thêm, “Cháu nghe người ta về tiểu thư như vậy, Trần lão gia. Nếu cháu may mắn lấy được tiểu thư, cháu đời nào ngăn nàng khỏi vở kịch cả.” Khó mà miêu tả được cảm xúc của tôi lúc thấy chàng ở đó khi mà ngay mới đây thôi chúng tôi còn ở trong vòng tay nhau, làm thơ, đểtình chan chứa giữa chúng tôi.

      Nỗi tiếc thương của chàng là thực và lần nữa tôi lại ngập tràn trong nỗi hối tiếc vì bướng bỉnh và ngu ngốc mang tôi đến chốn này. “Nhưng tiểu thư chết vì tương tư, giống như đáng thương trong vở kịch kia!” Đàm đại nhân thốt lên. Có vẻ như ông quen có ai đó bất đồng ý kiến với mình.

      “Đúng là khuynh hướng mô phỏng nghệ thuật trong đời thực phải lúc nào cũng là điều dễ chịu,” cha tôi thừa nhận. “Nhưng cậu ấy đúng. Con tôi thể sống thiếu văn chương và cảm xúc. Còn ngài, Đàm đại nhân, chẳng lẽ ngài bao giờ muốn tới khu nhà của phụ nữ để trải nghiệm chiều sâu thực của chữ tình ư?” Trước khi Đàm đại nhân trả lời, Nhân , “Con lão gia thiếu văn chương hay tình cảm, thưa Trần lão gia, nàng tới thăm cháu trong mộng ba đêm liền.” ! Tôi kêu lên ở Vọng Hương Đài.

      Chàng hiểu tiết lộ chuyện này nghĩa là gì ư? Cha tôi và Đàm đại nhân lo lắng nhìn chàng. “ thực là, chúng cháu gặp nhau,” Nhân , “Vài đêm trước, chúng cháu ở với nhau trong Vọng Nguyệt Đình nhà lão gia. Khi nàng tới thăm cháu lần đầu, tóc nàng được được vấn lên chuẩn bị cho đám cưới.

      Ống tay áo choàng ngoài thêu màu lông chim bói cá.” “Cậu miêu tả hoàn toàn chính xác,” cha tôi khẳng định với vẻ ngờ vực. “Nhưng sao cậu lại biết nó nếu trước đây cậu chưa từng gặp nó?” Nhân để lộ bí mật của chúng tôi ư? Liệu chàng có hủy hoại tôi trong con mắt của cha ? “Trái tim cháu nhận ra nàng,” Nhân đáp.

      “Chúng cháu cùng làm thơ, Liệng ngang trời trong cơn trằn trọc mãi... Khi tỉnh giấc cháu chép lại mười tám bài thơ.” “Nhân, cậu lại tỏ ra mình là người tình cảm rồi,” cha bảo. “Tôi thể đòi hỏi người con rể tốt hơn.” Nhân thò vào ống tay áo lấy ra mấy tờ giấy gấp lại.

      “Cháu nghĩ là lão gia thích đọc cái này.” Nhân là người tuyệt vời song chàng phạm lỗi khủng khiếp, gần như thể sửa chữa. Khi còn sống, tôi nghe kể rằng nếu người chết xuất trong giấc mơ của người sống mà người này kể lại với ai chuyện đó, hoặc tệ hơn, nếu người này chép lại và đưa ra những gì người chết , linh hồn bị xua .

      Đây là lý do tại sao những hồ ly tinh, hồn ma và thậm chí cả những tinh linh bất tử năn nỉ tình nhân trần thế của họ đừng tiết lộ với người đời tồn tại của họ. Nhưng con người thể giữ được bí mật. Và dĩ nhiên linh hồn, bất kể ở dạng nào, “biến mất.” Linh hồn đâu? Song chuyện tới thăm chàng trong mộng trở nên gần như bất khả.

      Tôi bị hủy hoại. Tuần lễ thứ sáu sau khi chết, lẽ ra tôi qua sông Nại Hà. Lẽ ra vào tuần lễ thứ bảy, tôi tới địa hạt của Pháp Luân Vương, ở đó tôi bị giải ra trước vị phán quan quyết định số phận mình. Nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra hết; tôi vẫn ở lại Vọng Hương Đài.

      Tôi bắt đầu ngờ rằng có gì đó lầm lẫn nghiêm trọng. Tôi chưa từng thấy cha nhắc tới đám cưới ma với Nhân. Cha quá bận rộn sửa soạn chuyển tới Bắc Kinh để nhận chức vụ mới. Tôi nên đau đớn trước hành động này - sao ông có thể cho phép mình tuân phục vua Mãn Châu? - và tôi đau đớn.

      Tôi nên lo lắng cho tâm hồn ông khi ông quyết định đem đạo đức đánh đổi lấy tiền tài, và tôi lo lắng . Nhưng tôi còn lo âu nhiều hơn chuyện ông cố bẫy người nào đó, phải Ngô Nhân, chấp nhận tôi làm vợ ma. Cha có thể dễ dàng ném chút tiền ra ngoài cổng, chờ ai đó ngang qua nhặt lên và với người đó rằng ta nhặt “quà dẫn cưới”, và điều đó có nghĩa là ta nhận tôi làm vợ.

      Nhưng chuyện này cũng xảy ra. Mẹ tôi bảo bà theo cha tôi tới Bắc Kinh, quyết tâm bao giờ rời khỏi trang viên nhà họ Trần chẳng hề dao động. Điều này khiến tôi lấy làm an ủi. Với mẹ, niềm vui và tiếng cười của những ngày hạnh phúc ở Xuân Đình trước khi tôi nhốt mình trong phòng còn nữa, thay vào đó chỉ là nước mắt và phiền muộn.

      Bà ở hàng giờ trong nhà kho cất giữ đồ đạc của tôi, tìm hơi người tôi còn vương lại áo quần, chạm vào những chiếc bút tôi cầm, nhìn những món đồ tôi thêu làm của hồi môn. Tôi chống lại mẹ khá lâu; giờ lúc nào tôi cũng mong ngóng bà. Bốn mươi chín ngày sau khi tôi chết, cả gia đình tụ tập ở từ đường để điểm lên bài vị của tôi và chào từ biệt lần cuối cùng.

      Người chủ trò và vài kép hát tụ tập ở sân trong. người đặc biệt nào đó, thư sinh hay người thuộc giới trí giả, thường được trao vinh dự điểm những nét kiểu cách lên bài vị. Khi việc này kết thúc, phần hồn thứ ba của tôi được chuyển vào trong bài vị ấy, ở đó nó dõi theo gia đình và người thân.

      Nghi thức điểm bài vị cho phép tôi được thờ cúng như các vị tổ tiên và cho tôi nơi trú ngụ ở trần gian mãi mãi về sau. Bài vị được điểm cũng là vật để qua đó người thân của tôi gửi đồ cúng cho tôi ở thế giới bên kia, thỉnh cầu phù hộ của tôi, an ủi tôi nhỡ khi tôi gặp phải những hiềm khích có thể xảy ra.

      Trong tương lai, khi gia đình tôi bắt tay vào vụ buôn bán mới, đặt tên cho con trẻ hay cân nhắc lời cầu hôn, họ hỏi ý kiến tôi qua bài vị. Tôi chắc rằng Đàm đại nhân, người có phẩm cấp cao nhất mà cha tôi quen ở Hàng Châu, điểm lên bài vị. Nhưng cha tôi chọn người có ý nghĩa với tôi hơn bất cứ ai: Ngô Nhân.

      Trông chàng còn quẫn trí hơn trong ngày tôi nhập thổ. Tóc chàng rối bù như thể chàng hề ngủ nghê gì. Đau đớn và nuối tiếc ngập tràn trong mắt chàng. Giờ đây tôi được phép vào giấc mơ của chàng, và chàng hiểu quá rằng mình mất tất cả. Phần hồn sắp cư ngụ trong bài vị của tôi đến bên chàng.

      Tôi muốn chàng biết tôi ở cạnh bên, nhưng cả chàng và mọi người đều nhận thức được diện của tôi. Tôi còn mong manh hơn cả làn khói hương. Bài vị của tôi dựng ban thờ. Nó được khắc tên tuổi, giờ sinh và giờ mất của tôi. Gần bài vị là đĩa tiết gà trống và bút.

      Nhân nhúng bút vào tiết gà. Chàng nhấc bút lên để truyền sinh khí cho bài vị, do dự rồi buông bút xuống, rên rỉ và chạy ra khỏi từ đường. Cha tôi cùng đám gia nhân đuổi theo chàng. Họ đưa chàng ngồi dưới gốc cây ngân hạnh. Họ mang trà cho chàng. Họ an ủi. Rồi cha nhận ra mẹ vắng mặt.

      Tất cả chúng tôi theo ông về từ đường. Mẹ nằm sàn, khóc nức nở và giữ chặt bài vị của tôi. Cha nhìn mẹ bất lực. Vú Thiệu cúi xuống cố cạy lấy bài vị trong tay bà nhưng mẹ buông ra. “Lão gia ơi, hãy để tôi giữ nó,” mẹ nức nở. “Bài vị cần được điểm,” ông bảo.

      “Nó là con tôi, để tôi làm cho,” bà năn nỉ. “Làm ơn mà.” Nhưng mẹ phải người xuất chúng. Bà phải là văn sĩ, cũng phải bậc trí giả. Rồi trước nghi hoặc vô cùng của tôi, cha mẹ trao nhau cái nhìn cảm thông sâu sắc. “Dĩ nhiên rồi,” ông .

      “Thế hoàn hảo.” Rồi vú Thiệu choàng tay qua người mẹ và dẫn bà . Cha tôi cho người chủ trò và mấy kép hát về. Những người còn lại trong gia đình cũng giải tán. Nhân trở về nhà. Mẹ khóc suốt đêm. Bà chịu buông bài vị ra mặc dầu vú Thiệu dỗ dành mãi. Làm sao tôi lại nhận ra mẹ thương mình nhiều tới nhường nào.

      Có phải đó là lý do cha cho phép bà điểm lên bài vị của tôi ? Nhưng thế có ý nghĩa gì cả. Đây là bổn phận của cha. Sáng hôm sau, ông dừng lại bên cửa buồng mẹ. Khi vú Thiệu mở cửa, ông thấy mẹ khuất dưới chăn, rên rỉ buồn bã. Ánh mắt ông đượm vẻ đau đớn.

      với phu nhân là ta phải tới kinh thành,” ông thào với vú Thiệu. Ông miễn cưỡng quay . Tôi theo ông tới cổng trước, ở đó ông lên chiếc kiệu để tới nơi nhậm chức mới. Sau khi kiệu khuất, tôi trở lại buồng mẹ. Vú Thiệu quỳ sàn cạnh giường chờ đợi.

      “Con ta rồi,” mẹ rên rỉ. Vú Thiệu ấp úng tỏ vẻ cảm thông và vuốt những sợi tóc bết dính ra khỏi gò má ướt đẫm của mẹ. “Đưa bài vị cho tôi nào, Trần phu nhân. Hãy để tôi đưa nó cho lão gia. Ông ấy phải cử hành nghi lễ.” Bà ta nghĩ gì thế? Cha rồi mà.

      Mẹ biết điều đó nhưng bà siết chặt tay quanh bài vị, chịu buông nó ra, chịu buông tôi ra. “Phu nhân hiểu nghi lễ mà,” vú Thiệu cứng rắn . đúng như con người mình, vú dựa vào truyền thống để làm nguôi ngoai nỗi buồn của mẹ tôi. “Đây là bổn phận của người cha.

      Giờ phu nhân đưa nó cho tôi nào.” Khi thấy mẹ tôi dao động, vú thêm, “Phu nhân hiểu là tôi đúng mà.” Mặc dù muốn, mẹ đưa bài vị cho vú Thiệu. Khi bà ta rời buồng, mẹ vùi mặt vào chăn rồi lại khóc. Tôi theo người vú già của mình khi vú bước tới nhà kho sau trang viên và nhìn cách bất lực khi thấy bà ta cất bài vị lên chiếc giá cao phía sau bình củ cải muối.

      “Quá nhiều rắc rối với chủ rồi,” vú và khò khè cổ họng như thể muốn nhổ vị thức ăn tồi tệ. “ ai muốn thấy cái vật gở này.” Bài vị được điểm tôi thể vào đó được và phần hồn lẽ ra phải cư ngụ tại bài vị tái hợp cùng tôi ở Vọng Hương Đài

    5. Nhã Linh

      Nhã Linh Well-Known Member

      Bài viết:
      722
      Được thích:
      481
      Chương 9
      thể xa hơn Vọng Hương Đài nên tôi có cơ hội biện hộ cho mình trước các vị phán quan ở địa ngục. Nhiều ngày trôi qua, tôi nhận ra rằng mình vẫn có những nhu cầu và mong muốn như khi còn sống. Cái chết dập tắt tình cảm của tôi mà còn làm chúng dữ dội thêm.

      Thất tình mà ở trần gian chúng tôi tới, hỉ, nộ, sầu, kinh, ái, hận và vọng, cùng tôi tới cõi . Tôi thấy những tình cảm sơ khai này thống trị và bền lâu hơn bất cứ sức mạnh nào khác trong vũ trụ: mạnh mẽ hơn sống, dai dẳng hơn cái chết, uy quyền hơn thứ thần linh có thể điều khiển, lơ lửng bên chúng ta, có bắt đầu và cũng có kết thúc.

      Và khi tôi bị cuốn vào chúng, gì mãnh liệt hơn nỗi buồn tôi cảm thấy về cuộc đời mất . Tôi nhớ Trần gia trang. Tôi nhớ mùi gừng, trà xanh, hoa nhài và mưa mùa hạ. Sau nhiều tháng chán ăn, đột nhiên tôi thấy thèm ăn ngó sen om tương ngọt, thịt vịt đông, cua hồ và tôm he.

      Tôi nhớ tiếng họa mi, tiếng chuyện trò của đàn bà con trong nội đường, tiếng nước vỗ bờ. Tôi nhớ cảm giác vải lụa chạm vào da thịt và làn gió ấm thổi qua cửa sổ khuê phòng. Tôi nhớ mùi giấy mực. Tôi nhớ những cuốn sách. Tôi nhớ khả năng bước vào những trang sách và vào thế giới khác.

      Nhưng nhớ nhất là gia đình, người thân. Hàng ngày tôi nhìn qua lan can để quan sát. Tôi thấy mẹ, các thím, các em và những người tỳ thiếp trở lại với công việc thường ngày. Tôi vui khi cha về thăm nhà, gặp gỡ những người trẻ tuổi ở Phong Nhã Đường vào những buổi chiều, uống trà với mẹ tôi vào buổi tối.

      Tuy vậy tôi chưa từng thấy họ về tôi. Mẹ nhắc tới chuyện bà chưa điểm lên bài vị của tôi vì nghĩ cha làm rồi. Ông đến nó vì nghĩ bà làm. Dĩ nhiên điều đó có nghĩa là cha cũng mời Nhân trở lại để điểm lên bài vị cho tôi. Với bài vị bị giấu như thế, tôi có thể kẹt mãi ở đây.

      Khi quá sợ hãi lo lắng về chuyện đó, tôi tự an ủi rằng Đỗ thái thú cũng chuyển vì được thăng quan ngay sau cái chết của Lệ Nương và cũng quên điểm lên bài vị nàng. Giữa tôi và Lệ Nương có quá nhiều điểm tương đồng, chắc chắn là tôi cũng được mang trở lại cuộc sống bằng tình đích thực.

      Tôi bắt đầu tìm nhà Nhân. Cuối cùng, sau vô số nỗ lực, tầm mắt tôi tìm đường bằng cách lướt qua mặt nước Tây Hồ, ngang qua Đảo và băng sang bờ Bắc. Tôi xác định vị trí ngôi miếu có đuốc thắp rất sáng trong đêm diễn kịch, rồi từ đó xác định vị trí nhà Nhân. Tôi được coi là Ngọc nữ sánh đôi với Kim đồng, nghĩa là hai gia tộc chúng tôi môn đăng hộ đối, nhưng nhà họ Ngô chỉ có vài khoảnh sân, chiếc đình nghỉ mát, và trăm hai mươi người.

      trai của Nhân nhậm chức ở tỉnh xa, sống cùng vợ và con , vậy nên trong nhà chỉ có Nhân, mẹ chàng và mười gia nhân. Tôi quan tâm chuyện này ư? , tôi tương tư và chỉ nhìn những gì muốn nhìn, mà đó là trang viên nhưng trang nhã. Cửa chính sơn son và mái ngói xanh hòa hợp cách tuyệt vời với những cây liễu mọc quanh khu nhà.

      Cây mai mà Nhân kể với tôi mọc ở sân giữa nhưng trụi lá. Và kia là Nhân, chàng dành cả ngày sáng tác trong thư phòng, dùng bữa cùng bà mẹ góa, lang thang trong hoa viên và dọc các hành lang tối tăm khi đêm về. Lúc nào tôi cũng ngắm nhìn chàng và quên mất gia đình mình. Đó là lý do tôi bất ngờ khi vú Thiệu đến gọi cửa Ngô gia.

      Vú già của tôi được dẫn vào sảnh đường và bảo ngồi đợi. Rồi gia nhân đưa Nhân và mẹ chàng vào. Ngô phu nhân là quả phụ nhiều năm và gần như toàn mặc đồ tối màu. Tóc bà lốm đốm những sợi bạc, khuôn mặt đượm vẻ đau khổ vì mất chồng. Vú Thiệu cúi chào mấy lần, nhưng bà ta chỉ là gia nhân nên họ những lời xã giao và Ngô phu nhân mời trà.

      “Khi tiểu thư sắp mất,” vú Thiệu , “tiểu thư đưa tôi vài thứ, bảo tôi mang đến nhà ta. Đầu tiên là...” Vú Thiệu lật góc của tấm khăn lụa phủ chiếc giỏ tre rồi đem ra gói cũng được bọc trong lụa. Bà ta cúi đầu và chìa ra cái gói đặt trong lòng bàn tay.

      “Tiểu thư dự định biếu phu nhân vật này đẻ thể lòng hiếu thảo.” Ngô phu nhân nhận cái gói và chầm chậm mở ra. Bà cầm chiếc hài tôi làm lên và xem xét nó bằng con mắt sắc sảo của mẹ chồng. Những đóa mẫu đơn tôi thêu nổi bật nền xanh thẫm. Ngô phu nhân đưa cho con trai và , “Đường kim mũi chỉ của vợ con rất khéo.” Nếu tôi còn sống, bà có vậy với tôi ? Hay là bà phê bình tôi, như các bà mẹ chồng vẫn làm? Vú Thiệu lại thò tay vào thúng và lấy ra bản Mẫu Đơn Đình của tôi.

      Đây là thực về cái chết: Đôi khi ta quên mất điều ta từng nghĩ là quan trọng. Tôi cầu vú Thiệu mang tập của Mẫu ĐơnĐình tới nhà mới ba ngày sau hôn lễ. Vú làm thế vì những lý do hiển nhiên, và tôi quên lời hứa của bà ta, quên cả công trình của tôi nữa.

      Ngay cả khi thấy con vú giấu mẫu thêu của nó trong những trang sách, tôi cũng nhớ ra. Sau khi vú Thiệu giải thích rằng tôi thức khuya để đọc và viết, rằng mẹ tôi đốt sách và rằng tôi giấu tập trong chăn đệm, Nhân cầm cuốn sách trong tay và mở ra. “Con trai ta xem vở kịch ấy, và rồi nó lùng sục khắp thành để tìm ấn bản đặc biệt này,” Ngô phu nhân giải thích.

      “Ta nghĩ là tốt hơn cả nếu để con dâu ta tặng chúng cho tiểu thưMẫu Đơn. Nhưng đây chỉ là tập . Thế tập hai đâu?” “Như tôi thưa chuyện, mẹ tiểu thư đốt rồi,” vú Thiệu nhắc lại. Ngô phu nhân thở dài và mím môi vẻ tán thành. Nhân đọc lướt qua các trang, thỉnh thoảng lại dừng.

      “Mẹ có thấy ạ?” chàng hỏi, chỉ vào những chữ bị nước mắt tôi làm nhòe. “Hồn cốt nàng lấp lánh trang giấy.” Chàng bắt đầu đọc. lúc sau chàng ngẩng lên rồi , “Con thấy khuôn mặt nàng trong từng con chữ. Mực trông đậm và tươi. Mẹ này, mẹ còn có thể cảm thấy mồ hôi tay nàng giấy nữa.” Ngô phu nhân nhìn con trai mình với ánh mắt đầy thương cảm.

      Tôi cảm thấy chắc chắn rằng Nhân đọc những suy nghĩ của tôi về vở kịch và biết chàng phải làm gì. Vú Thiệu giúp chàng bằng cách bảo chàng điểm lên bài vị của tôi. Song vú Thiệu nhắc gì đến tấm bài vị chưa được điểm và Nhân có vẻ hy vọng hay hứng thú chút nào.

      Đúng hơn là nét mặt chàng càng thêm rầu rĩ. Nỗi đau sâu sắc đến nỗi tôi cảm thấy như thể tim mình tan ra từng mảnh. “Chúng ta biết ơn bà,” Ngô phu nhân với vú Thiệu, “Con trai ta tìm thấy vợ mình trong nét bút của tiểu thư. Như thế, tiểu thư vẫn như còn sống.” Nhân gấp sách lại và bất ngờ đứng lên.

      Chàng cho vú Thiệu lạng bạc, bà ta cất vào túi. Rồi, thêm lời nào, chàng thẳng bước ra khỏi phòng, kẹp cuốn sách của tôi dưới nách. Đêm đó tôi ngắm Ngô Nhân trong thư phòng khi chàng càng lúc càng chìm sâu vào u sầu. Chàng gọi gia nhân sai lấy rượu. Chàng đọc những gì tôi viết, nhàng lật giở các trang giấy.

      Chàng ôm đầu, uống rượu và để nước mắt rơi xuống má. Quẫn trí trước phản ứng này, đây hoàn toàn phải điều tôi muốn, tôi tìm Ngô phu nhân và thấy bà trong buồng ngủ. Chúng tôi có chung tên gọi và cùng thương Nhân. Tôi phải tin rằng bà làm bất cứ điều gì để xoa dịu tâm trí con trai.

      Trong việc này chúng tôi phải tương đồng. Ngô phu nhân chờ tới khi cả nhà trở nên yên ắng, rồi bà bước theo hành lang đôi gót sen nhắn. Bà khẽ khàng mở cửa thư phòng, Nhân gục đầu xuống bàn và ngủ thiếp . Ngô phu nhân cầm cuốn Mẫu Đơn Đình và bình rượu rỗng lên, thổi tắt ngọn nến lung linh rồi rời phòng.

      Trở lại buồng ngủ, bà nhét gọn công trình của tôi vào giữa hai tấm áo dài màu sắc tươi tắn. Vì là quả phụ, bà bao giờ mặc chúng nữa, và rồi bà đóng ngăn kéo vào. Nhiều tháng trôi qua. Vì thể rời Vọng Hương Đài nên tôi gặp tất cả những người dừng lại tại đây hành trình qua bảy tầng địa ngục.

      Tôi thấy những quả phụ tiết hạnh mặc tầng tầng lớp lớp áo liệm gặp những người chồng mất từ lâu trong niềm vui sum họp và biết rằng họ được quý trọng và vinh danh trong nhiều chục năm tới. Tuy nhiên tôi gặp bà mẹ nào mất lúc sinh nở. Họ tới thẳng Tụ Huyết Trì, ở đó những người phụ nữ chịu đau khổ ở địa ngục vĩnh cửu vì nỗi nhục sinh nở thất bại.

      Nhưng với những người khác qua con đường này, Vọng Hương Đài cho người mới chết cơ hội chào từ biệt những gì bên dưới và cùng lúc nhắc nhở họ về bổn phận giờ đây, khi trở thành trong những người được thờ cúng trong từ đường. Từ giờ trở , họ trở lại chỗ này để nhìn xuống trần gian, đánh giá những điều hậu duệ của mình làm, ban phước hay trừng phạt.

      Tôi thấy những vị tổ tiên giận dữ mắng nhiếc, trêu chọc hay làm bẽ mặt người ở lại trần gian; tôi thấy những vị khác, phốp pháp vì đồ cúng, đền đáp gia đình bằng những vụ mùa bội thu và vô số con trai. Nhưng hầu hết thời gian tôi quan sát những người mới chết. ai trong số họ biết nơi họ dừng lại khi qua hết bảy tầng địa ngục.

      Liệu họ có bị đưa đến trong mười nha môn với các ngục thất khác nhau? Liệu họ có chờ hàng trăm năm trước khi được phép trở lại trần gian trong thân xác khác? Liệu họ có được tái sinh mau chóng, làm người đàn ông có học nếu may mắn, hay đầu thai làm phụ nữ, làm cá, làm sâu bọ nếu may? Hay Quan có vẫy họ tới Tây Phương Cực Lạc, cách đây mười tỉ dặm, ở đó, họ thoát khỏi vòng luân hồi và được ở bến bờ của hạnh phúc của niềm vui, yến tiệc và vũ hội bất tận mãi mãi về sau? Vài nàng thiếu nữ tương tư khác mà khi còn sống tôi nghe tiếng, đến gặp tôi: Thương Tiểu Linh, nàng đào hát chết sân khấu; Vũ Nương, cái chết của nàng tạo cảm hứng cho Thang Hiền Tổ làm thơ tán tụng; Kim Phượng Điển, câu chuyện của nàng gần giống với tôi ngoại trừ việc cha nàng là lái buôn muối; và mấy người nữa.

      Chúng tôi xót thương. Khi còn sống, chúng tôi đều biết nguy cơ bắt nguồn từ những trang bản thảo của vở kịch ấy, việc đọc, đọc bất cứ cái gì, có thể gây tai họa, nhưng mỗi chúng tôi đều mê mẩn trước quyến rũ của cái chết khi mình còn trẻ đẹp, tài năng. Chúng tôi đều bị cám dỗ bởi nỗi đau và niềm vui khi suy ngẫm về các thiếu nữ tương tư khác.

      Chúng tôi đọc Mẫu Đơn Đình, chúng tôi làm thơ về nó và chúng tôi chết. Chúng tôi nghĩ rằng những gì mình viết ra sống qua tàn phá của thời gian và mục nát của thân xác, bằng cách ấy minh chứng cho sức mạnh của vở kịch. Những nàng thiếu nữ tương tư ấy muốn biết về Nhân và tôi với họ rằng mình tin tưởng hai điều: thứ nhất, Nhân và tôi là đôi trời sinh; hai là tình mang chúng tôi trở lại với nhau.

      Các nàng thiếu nữ nhìn tôi thương hại và thào với nhau. “Bọn chị đều có những tình nhân trong mộng,” cuối cùng nàng đào hát tiết lộ, “Nhưng chỉ thế mà thôi, những giấc mộng.” “Chị cũng tin chàng thư sinh của mình là ,” Vũ Nương thừa nhận. “Ôi Mẫu Đơn ơi, bọn chị cũng giống như em.

      Khi sống, bọn chị có quyền được . Bọn chị đều sắp sửa lấy người chồng xa lạ trong gia đình xa lạ. Bọn chị hy vọng về tình nhưng bọn chị khao khát nó. nào mà chẳng gặp chàng trai trong mộng chứ?” “Để chị kể với em về tình của chị.

      Trong những giấc mộng, bọn chị vẫn thường gặp nhau tại ngôi miếu. Chị rất chàng,” thiếu nữ khác . “Chị cũng nghĩ mình giống Lệ Nương,” con người lái buôn muối thêm. “Chị mong rằng sau khi chết, chàng trai ấy tìm ra chị, đem lòng chị và mang chị trở lại với cuộc sống.

      Bọn chị có tình thực chứ phải bổn phận hay nghĩa vụ.” Nàng thở dài. “Nhưng chàng chỉ là giấc mộng và giờ chị ở đây.” Tôi nhìn những gương mặt xinh đẹp của họ. Vẻ buồn bã đó bảo với tôi rằng mỗi người bọn họ đều có câu chuyện gần như tương tự.

      “Nhưng em thực gặp Nhân mà,” tôi . “Chàng chạm vào em bằng đóa mẫu đơn.” Họ nhìn tôi ngờ vực. “Thiếu nữ nào cũng có những giấc mộng,” Vũ Nương lặp lại. “Nhưng Nhân là thực.” Tôi chỉ qua lan can xuống địa hạt trần gian phía dưới. “Các chị nhìn xem.

      Chàng đó.” Cả chục nàng thiếu nữ, ai mười sáu tuổi, nhìn theo ngón tay tôi chỉ qua gờ lan can tới nhà Nhân. Chàng viết trong thư phòng. “Đó là chàng trai. Nhưng làm sao bọn chị biết được đó là người em gặp.” “Làm sao bọn chị biết được em có gặp chàng hay ?” Ở thế giới bên kia, đôi khi chúng tôi có thể trở ngược thời gian để hồi tưởng những trải nghiệm của mình hay nhìn chúng bằng con mắt của người khác.

      Đây là lý do khiến địa ngục khủng khiếp. Người ta được cho cơ hội trải nghiệm lại những tội ác của mình mãi mãi. Nhưng lúc này đây, tôi nhớ lại những hồi ức hoàn toàn khác, thiếu nữ có thể thấy chúng. Tôi mang họ trở lại Ngự Phong Đình, Vọng Nguyệt Đình và lần cuối cùng linh hồn tôi tới thăm Nhân.

      Họ khóc trước vẻ đẹp và chân thực trong câu chuyện của tôi, và phía dưới chúng tôi cơn bão đổ xuống Hàng Châu. “Chỉ có cái chết mới khiến Lệ Nương chứng minh được niềm đam mê bất diệt của nàng,” tôi khi các thiếu nữ lau khô mắt. “Các chị thấy. ngày kia Nhân và em thành thân.” “Làm sao việc đó xảy ra được?” nàng đào hát hỏi.

      “Làm sao có thể múc trăng dưới nước, làm sao có thể hái hoa từ chốn hư ?” tôi hỏi lại, dẫn lời Mộng Mai. “Chàng thư sinh biết cách mang Lệ Nương về từ cõi chết nhưng chàng làm được. Nhân cũng tìm ra cách.” Các nàng thiếu nữ đáng và duyên dáng nhưng họ tin tôi.

      “Có lẽ em gặp gỡ và chuyện trò với chàng trai này, nhưng bệnh tương tư của em giống hệt bọn chị.” Vũ Nương . “Bọn chị đều tuyệt thực đến chết.” “Tất cả những gì em có thể hy vọng là cha mẹ em xuất bản những bài thơ của em,” con người buôn muối gợi ý.

      “Bằng cách này em có thể sống lại đôi chút. Đó là điều xảy ra với chị.” “Cả với chị nữa.” Các nàng khác phụ họa rằng gia đình cũng xuất bản thơ của họ. “Hầu như các gia đình thờ bọn chị,” con người buôn muối tiết lộ, “nhưng bọn chị nhận được chút cấp dưỡng vì thơ bọn chị được in.

      Bọn chị biết tại sao nhưng đúng là như thế đấy.” Đây khó có thể coi là tin tốt lành. Tôi giấu những bài thơ của mình trong thư phòng cha và mẹ Nhân giấu tập của Mẫu Đơn Đình trong ngăn kéo của bà. Các nàng lắc đầu thất vọng khi tôi kể chuyện này. “Có lẽ em nên những chuyện này với Hiểu Khánh,” Vũ Nương gợi ý.

      “Chị ấy có nhiều kinh nghiệm hơn chúng ta. Có lẽ chị ấy giúp được em đấy.” “Em rất mong gặp chị ấy,” tôi hồ hởi . “Em còn coi trọng lời khuyên của chị ấy hơn. Lần sau các chị hãy rủ chị ấy theo nhé.” Nhưng họ đưa Hiểu Khánh tới. Còn Thang Hiền Tổ cũng tới thăm mặc dù các thiếu nữ tương tư bảo rằng ông ở gần đó.

      Thế nên hầu như tôi chỉ mình. Khi còn sống, tôi nghe kể nhiều điều về thế giới bên kia: đúng có, sai có. Hầu hết mọi người gọi nó là địa ngục nhưng tôi thích gọi nó là thế giới bên kia hơn, bởi vì nó thực ở dưới đất, dù số phần đúng là thế .

      Nằm ngoài khái niệm về địa lý, nơi tôi ở có vẻ như thuộc về phía bên kia, song đó chỉ là tiếp nối. Cái chết chấm dứt liên hệ của chúng tôi với gia đình và địa vị chúng tôi khi sống cũng chẳng thay đổi. Nếu là nông dân ở trần gian ở đây tiếp tục làm việc cánh đồng; nếu từng là địa chủ, thư sinh, trí giả tại đây đọc sách, làm thơ, uống trà và đốt trầm.

      Phụ nữ vẫn bó chân, vâng lời và tập trung chú ý vào gia đình; đàn ông vẫn trông nom địa hạt bên ngoài, tới các nha môn ở chốn Tào Địa Phủ. Tôi tiếp tục học thêm về những điều có thể và thể làm. Tôi có thể bay, lướt và tan biến. có vú Thiệu và Liễu Nhi, tôi học cách chăm sóc chân mình bằng đồ bó chân vàng mã mà người thân đốt cho tôi dùng ở thế giới bên kia.

      Tôi có thể nghe từ khoảng cách rất xa, nhưng tôi ghét tiếng ồn. Tôi thể lượn những góc hẹp. Và khi nhìn qua lan can, tôi có thể thấy rất nhiều thứ nhưng thể nhìn vượt qua khỏi địa giới Hàng Châu. Sau nhiều tháng ở Vọng Hương Đài, bà lão tới thăm tôi. Bà tự giới thiệu là bà nội của tôi nhưng trông bà giống người phụ nữ có khuôn mặt nghiêm nghị trong bức chân dung treo ở từ đường nhà chúng tôi chút nào cả.

      “Ôi chao! Sao chúng nó lại vẽ tổ tiên mình như thế?” bà chép miệng. “Ta chưa bao giờ trông đáng ghét như thế cả.” Bà nội vẫn đẹp. Tóc bà được ghim bằng những đồ trang sức vàng, ngọc trai và ngọc bích. Áo dài của bà may bằng loại tơ nhất. Đôi gót sen của bà còn nhắn hơn tôi.

      Khuôn mặt hằn những đường mảnh nhưng nước da sáng. Bàn tay bà được ống tay áo thủy tụ kiểu cổ che kín. Trong bà tao nhã và quý phái nhưng khi bà ngồi xuống bên cạnh và tì tay lên đùi tôi, tôi cảm thấy sức mạnh đáng ngạc nhiên. Trong vài tuần tiếp theo, bà tới thăm tôi thường xuyên nhưng bao giờ cùng ông nội và luôn lảng tránh những câu hỏi về ông.

      “Ông bận ở nơi khác,” bà . Hoặc, “Ông giúp cha cháu trong vụ đàm phán ở kinh thành. Đám người trong triều xảo quyệt còn cha cháu lại thực tế.” Hay “Có lẽ ông tới thăm tỳ thiếp... trong giấc mơ của ả. Đôi khi ông thích làm thế vì trong mơ những người thiếp ấy vẫn trẻ đẹp chứ phải những bà lão.” Tôi thích nghe những lời bình phẩm tinh quái của bà về những người thiếp, vì khi còn sống tôi luôn nghe kể rằng bà rất tốt bụng và hào hiệp với họ.

      Bà là tấm gương cho những người vợ cả noi theo nhưng ở đây bà thích trêu chọc và giễu cợt. “Đừng có nhìn chàng trai dưới kia nữa!” hôm bà gắt với tôi, lúc đó là vài tháng sau khi bà tới thăm tôi lần đầu. “Làm sao bà biết cháu nhìn ai ạ?” Bà thúc khuỷu tay vào tôi.

      “Ta là tổ tiên! Ta thấy tất cả! Hãy nghĩ về điều đó, cháu ạ.” “Nhưng chàng là chồng cháu,” tôi cộc lốc đáp lại. “Cháu xuất giá bao giờ đâu,” bà vặn lại. “Cháu nên vui vì điều đó!” “Vui sao ạ? Số trời định Nhân và cháu ở bên nhau.” Bà nội tôi khịt mũi.

      “Ý nghĩ lố lăng. Các cháu được trời định cho ở bên nhau. Đơngiản là cháu có cuộc hôn nhân sắp đặt, giống như mọi khác. Chẳng có gì đặc biệt cả. Và nếu cháu quên, cháu ở đây.” “Cháu ngại,” tôi . “Cha sắp sửa thu xếp đám cưới ma cho cháu.” “Cháu nên cân nhắc cẩn thận hơn những gì cháu thấy bên dưới.” “Bà thử cháu.

      Cháu hiểu...” “, cha cháu có những ý định khác.” “Cháu thể trông thấy cha khi ông ấy ở kinh thành, nhưng thế sao ạ? Ngay cả khi cha thu xếp đám cưới ma cho cháu, cháu vẫn đợi Nhân. Đó là lý do tại sao cháu bị kẹt ở đây, bà nghĩ vậy sao ạ?” Bà lờ câu hỏi của tôi.

      “Cháu nghĩ rằng chàng trai này đợi cháu ư?” Mặt bà nhăn lại như thể vừa mở bình đậu hũ thối. Bà là bà nội tôi, bậc tổ tiên đáng kính, nên tôi thể cãi lại bà. “Đừng nghĩ nhiều về ta như thế,” bà bảo, vỗ vào mặt tôi qua ống tay áo thủy tụ che kín bàn tay.

      “Cháu là cháu ngoan. Ta rất thích những thứ hoa quả cháu cúng ta suốt những năm qua.” “Thế tại sao bà phù hộ cháu ạ?” “Ta làm gì có hại cho cháu.” Đây là lời giải thích lạ lùng, nhưng bà vẫn thường những điều tôi hiểu. “Giờ hãy chú ý,” bà nội ra lệnh.

      “Cháu cần nghĩ tới lý do tại sao cháu bị kẹt ở đây.” Suốt thời gian này, những ngày trọng đại đến rồi . Cha mẹ quên tính phần tôi trong đồ cúng tết Nguyên Đán diễn ra chỉ vài ngày sau khi tôi mất. Ngày mười ba tháng Giêng sau tết, lẽ ra họ phải thắp đèn mộ tôi. Tết Thanh Minh, lẽ ra họ phải tảo mộ, đốt pháo và đốt tiền vàng cho tôi dùng ở cõi .

      Vào ngày mùng tháng Mười, ngày lập đông, lẽ ra họ phải đốt áo choàng có đệm lót, mũ len và hài cao cổ bằng giấy để giữ ấm cho tôi. Suốt cả năm, lẽ ra người nhà phải cúng cơm, rượu, thịt và tiền vàng vào mùng và ngày rằm hàng tháng. Tất cả những đồ cúng đó phải được bày trước bài vị được điểm để tôi nhận được ở cõi .

      Nhưng vì vú Thiệu mang nó ra và ai hỏi đến, tôi kết luận rằng mọi người vẫn quá đau buồn vì cái chết của tôi đến nỗi dám nhìn lên bài vị. Rồi, khi đến tiết Khổ Nguyệt, diễn ra trong những ngày tối tăm và khắc nghiệt nhất của mùa đông, tôi khám phá ra điều khiến tim tôi tan nát.

      Ngay trước ngày giỗ đầu của tôi, cha về thăm nhà và mẹ chuẩn bị món chè đặc biệt với nhiều ngũ cốc, đậu phộng và hoa quả, nêm bằng bốn loại đường khác nhau. Cả gia đình tập trung ở từ đường và cúng chè cho bà nội cùng những người khuất khác. lần nữa, bài vị của tôi được mang ra khỏi chỗ giấu trong nhà kho và tôi nhận được đồ cúng.

      Tôi hiểu rằng mình bị “lãng quên”; hàng đêm, mẹ vẫn những giọt nước mắt cay đắng vì tôi. bỏ bê này nghĩa là có gì đó tồi tệ hơn nhiều. Bà nội tôi, hẳn ở đâu đó ăn chè cùng ông nội, thấy chuyện xảy ra và đến bên tôi. Bà là người năng thẳng thắn nhưng tôi muốn nghe, cũng muốn chấp nhận những điều bà .

      “Cha mẹ thờ cúng cháu đâu,” bà giải thích. “Cha mẹ thờ cúng con cái là trái với tự nhiên. Nếu cháu là con trai, cha cháu đánh lên quan tài để phạt cháu tội bất hiếu vì chết trước cha, nhưng rốt cuộc cha cháu mủi lòng và chăm lo chu cấp cho cháu. Nhưng cháu là con , mà lại còn chưa lấy chồng.

      Gia đình đời nào thờ cúng cháu cả.” “Vì bài vị của cháu chưa được điểm sao ạ?” Bà nội khịt mũi. “, vì cháu chết khi chưa lấy chồng. Cha mẹ nuôi cháu cho nhà chồng cháu. Cháu thuộc về họ. Cháu được coi là người họ Trần. Và ngay cả khi bài vị của cháu được điểm, nó cũng bị để khuất sau cánh cửa, trong ngăn kéo hay ở ngôi miếu đặc biệt, đó cũng là điều xảy ra với các tới thăm cháu.” Tôi chưa từng nghe bất cứ chuyện gì như thế trước đây, và sau thoáng, tôi tin lời bà nội.

      Nhưng rồi ngay sau đó, tôi giũ bỏ những suy nghĩ tồi tệ của bà ra khỏi đầu óc mình. “Bà nhầm rồi ạ.” “Vì trước khi chết, ai với cháu rằng chuyện này xảy ra ư? Chà! Nếu cha mẹ đặt bài vị của cháu lên bàn thờ gia tiên, họ có nguy cơ phải bị những vị tổ tiên khác trừng phạt.” Bà giơ tay lên.

      phải ta, nhưng có những người khác ở đây giữ gìn lề lối truyền thống. ai muốn thấy vật gở như thế bàn thờ gia tiên cả.” “Cha mẹ thương cháu,” tôi khăng khăng. “ người mẹ con đốt sách của con để giữ cho con sống.” “Đúng vậy,” bà nội đồng tình.

      “Nó muốn làm thế, nhưng đại phu hy vọng việc đó chọc giận cháu, để cháu rời khỏi con đường lầm lạc ấy.” “Và cha dựng vở kịch cho sinh nhật cháu nếu cha cháu như viên ngọc quý.” Ngay khi lời bật khỏi miệng, tôi cảm thấy chúng sai.

      “Vở kịch phải dành cho cháu,” bà nội bảo. “Nó dành cho Đàm đại nhân. Cha cháu vận động để được bổ nhiệm.” “Nhưng Đàm đại nhân thích vở kịch đó mà.” “Thế kẻ đạo đức giả. Người thế lực thường thế.” Liệu bà có ám chỉ rằng cha tôi cũng là kẻ đạo đức giả ? “Trung quân là mở rộng tự nhiên của lòng trung thành giữa những cá nhân với nhau,” bà nội tiếp.

      “Ta e rằng cha cháu, con trai ta, có cả hai điều đó.” Bà gì nữa, nhưng nét mặt bà khiến tôi quay nhìn phía sau, để cuối cùng nhìn thấy, và hiểu ra điều tôi lờ khi còn sống. Cha phải là trung thần của nhà Minh hay người chính trực như tôi vẫn luôn tưởng thế, đối với tôi, điều này chỉ là thứ yếu.

      Khi sống, tôi biết rằng cha lấy làm tiếc vì tôi là con . Mặc dầu vậy, ở trong lòng, tôi tin tưởng, thực tin tưởng rằng ông mến, thương và quý trọng tôi, song thực về bài vị của tôi cùng mọi điều nó hàm ý, rằng tôi là con chưa chồng được nuôi cho gia đình khác, chứng minh ngược lại.

      ai chăm lo cho tôi bằng cách thờ cúng bài vị ở dương thế, linh hồn tôi lâm vào rắc rối lớn. Tôi giống như miếng lụa lẻ bị xé ra. Tôi bị bỏ rơi, quên bẵng, điều này giải thích tại sao tôi bị kẹt ở Vọng Hương Đài. “Chuyện gì xảy ra với cháu ạ?” tôi khóc.

      Chỉ năm qua mà áo dài của tôi phai màu và tôi càng gầy gò hơn. “Cha mẹ có thể gửi bài vị của cháu vào ngôi miếu, nhưng đây là ý tưởng tồi, vì những chỗ đó chỉ để bài vị của con chưa chồng mà còn của đám tỳ thiếp và làng chơi nữa.” Bà nội lướt qua Vọng Hương Đài và ngồi xuống cạnh tôi.

      đám cưới ma mang vật gở khỏi Trần phủ...” “Cháu vẫn có thể lấy Nhân. Bài vị của cháu được dùng trong nghi lễ. Mọi người biết nó chưa được điểm,” tôi vẻ hy vọng. “Nó được điểm và được thờ cúng ban thờ của nhà họ Ngô.” “Nhưng cha cháu chưa thu xếp việc đó.

      Nghĩ xem, Mẫu Đơn, nghĩ xem. Ta bảo cháu nhìn, nhìn cách thực ấy. Cháu thấy gì? Cháu thấy gì ngay bây giờ nào?” Thời gian ở đây rất lạ: đôi khi nhanh, đôi khi chậm. Giờ là nhiều ngày sau đó, và có thêm nhiều chàng trai trẻ tới thăm cha tôi. “Cha cháu có hẹn.

      Ông ấy là người quan trọng.” “Cháu nghe hả cháu?” Công chuyện thuộc về thế giới bên ngoài. Tôi chủ tâm nghe các cuộc chuyện trò của cha, nhưng giờ tôi để ý lắng nghe. Ông hỏi han các chàng trai. Ngay lập tức tôi sợ rằng ông thu xếp đám cưới ma cho tôi với ai đó, phải Nhân.

      “Cậu trung thành và hiếu nghĩa chứ?” ông hỏi hết người này đến người kia. “Cậu khóc trước mồ mả chúng ta vào dịp tết và cúng bái ở từ đường nhà chúng ta hàng ngày chứ?” Và “Ta cần có cháu trai. Cậu có thể sinh con trai để chăm lo cho chúng ta sau khi cậu chết ?” Sau khi nghe những câu hỏi này, ý định của cha trở nên ràng.

      Ông sắp nhận nuôi trong số họ. Cha sinh được con trai, nỗi hổ thẹn cho bất cứ người đàn ông nào và thảm họa khi đến dịp cúng bái tổ tiên. Nhận nuôi người vì mục đích hiếu nghĩa cũng là bình thường và cha có thể chấp nhận được, nhưng vị trí của tôi trong trái tim ông sắp sửa bị người khác hoàn toàn thay thế! “Cha cháu làm nhiều điều cho cháu,” bà nội .

      “Ta thấy nó quan tâm đến cháu thế nào, dạy cháu đọc, viết và đặt vấn đề. Nhưng cháu phải là con trai mà nó cần đứa con trai.” Cha thể tận tâm, tình và nhiều ân cần với tôi trong những năm qua, song giờ đây tôi thấy việc tôi là con làmtình của ông dành cho tôi bớt nhiều.

      Tôi khóc và bà nội ôm lấy tôi. Gần như thể chấp nhận được chuyện này, tôi nhìn xuống nhà Nhân, hy vọng gia đình chàng cúng chè cho tôi. Đương nhiên là họ làm thế. Nhân đứng dưới mái hiên trong cơn mưa như trút nước, sơn son lại cổng trước nhà chàng làm biểu tượng hồi sinh của năm mới, trong khi đó, ở thư phòng cha tôi, chàng trai mắt ký vào bản khế ước nhận con nuôi.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :