1. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Cô gái mang trái tim đá - Andrew Davidson (end)

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. thuytinhtim_1102

      thuytinhtim_1102 Well-Known Member

      Bài viết:
      1,916
      Được thích:
      3,133
      Chương 17
      Ngày xửa ngày xưa ở Nhật Bản, có bé tên là Sei, con người thợ thổi thủy tinh Yakichi. Lúc đầu cha rất thất vọng khi thấy phải con trai, nhưng nỗi thất vọng của ông tan biến ngay khi ông ôm vào lòng. Kể từ giây phút đó, ông luôn hết lòng vì cũng vậy.

      Yakichi hãnh diện chứng kiến Sei từ bé hiếu động trở thành thiếu nữ thông minh tuyệt vời. Vẻ xinh đẹp của là điều phải bàn cãi, và trong nét đẹp ấy, Yakichi có thể nhìn thấy hàng lông mi và gò má người vợ khuất của mình. Người mẹ mất khi Sei còn và điều này càng làm tình cha con giữa họ thêm sâu nặng.

      Trước ngưỡng cửa trưởng thành, Sei quyết định theo bước cha mình. Yakichi cảm thấy cực kỳ vui sướng trước quyết định của con và niềm hạnh phúc của ông giờ trọn vẹn: cuối cùng những tri thức của ông cũng phải theo ông xuống mồ. Sei nhận lấy chức danh Thợ Thổi Thủy Tinh Học Việc và thể năng lực nổi trội cũng như luôn có những tiến bộ vượt bậc. có đôi bàn tay tinh tế và quan trọng hơn, có thể hình dung ra vật đó trước cả khi nó được thổi. Kỹ năng lúc nào cũng có thể học được, Yakichi biết thế, nhưng Sei được ban cho khả năng tưởng tượng ngay từ khi mới sinh. có thể nhìn thấy những vật đẹp đẽ ở nơi người khác chỉ thấy hư .

      Sei học hành nghiêm túc dưới chỉ dẫn của cha mình, biết cách đốt lò sao cho đủ nóng và thổi thế nào cho đủ mạnh. học cách đọc chỉ dẫn từ những đốm sáng rực rỡ của mảnh thủy tinh được đốt nóng. chăm chỉ học cách phát triển khả năng điều khiển hơi thở của mình; vì biết rằng với hơi thở, mình có thể sáng tạo cả thế giới. tưởng tượng mình thổi sống vào thủy tinh, và cứ mỗi tuần trôi qua, Sei càng cảm thụ hơn vẻ đẹp của những đồ vật mà có thể vẽ nên trong trí tưởng tượng.

      Yakichi bắt đầu đưa Sei đến chợ phiên cuối tuần trong vùng, ở đó ông có quầy hàng bán những món đồ họ làm ra. Đàn ông bắt đầu bu lại như kiến. Họ muốn xem đồ thủy tinh nhưng ra, dĩ nhiên, họ đến để ngắm người thiếu nữ quyến rũ ấy. "Bản thân cháu mới giống thủy tinh làm sao," ông lão thể kìm được thế, rồi chạy biến như con cua bò ngang bờ biển khi nhận ra rằng những từ đó vuột khỏi mấy cái càng của mình.

      Rất nhanh chóng, hàng của họ bán hết veo trước giờ ăn trưa. Hầu hết những món đồ ở đó đều được cánh đàn ông mua - thậm chí để làm quà tặng vợ - đơn giản vì họ muốn được sở hữu chiếc bình chứa hơi thở của Sei.

      Yakichi rất hài lòng. Công việc kinh doanh phát đạt hơn bao giờ hết, tài chính cũng tốt, và Sei dần trở thành thợ thổi thủy tinh giỏi. Nhưng dù thành công như vậy, Yakichi chỉ ước kiếm được người chồng cho con mình. Dù là người cha cưng con hơn trứng, ông vẫn muốn hưởng tất cả những gì cuộc đời ban tặng, và ông nghĩ, đám cưới "ra tiền" củng cố thêm lợi ích dòng họ.

      Thế là ông bắt đầu sàng lọc trong đám đàn ông hay qua lại gian hàng của mình. Họa sĩ, chủ đất, ngư dân, nông dân, binh lính và samurai, đủ cả. Chắc chắn rồi, ông mỉm cười nghĩ thầm, chẳng thiếu gì người đến cầu hôn. Xét cho cùng, Sei có nhan sắc, tài năng, sức khỏe và nhân cách tốt đẹp, lại còn chung thủy nữa. trở thành người vợ đảm và người mẹ tốt, bất cứ ai cũng có thể thấy thế, và việc dàn xếp đám cưới có lợi là quá dễ dàng.

      Khi Yakichi đến gần con để gợi ý điều đó, rất choáng váng. "Con biết truyền thống là như thế," khóc nấc lên, "nhưng con chưa bao giờ nghĩ cha lại đòi hỏi điều đó ở con. Con kết hôn vì tình , và chỉ vì tình mà thôi."

      Sức mạnh trong lời buộc tội của con làm Yakichi bất ngờ, vì từ trước đến nay chưa bao giờ làm trái ý ông. Cưới xin là để củng cố địa vị gia đình, ông lão nghĩ vậy; cưới xin phải vì tình . Nhưng Sei cứ khăng khăng tin như vậy, và vì rất quý , Yakichi cũng chấp thuận. Nhưng ông vẫn lo ngại vì chưa có ai trong trái tim con mình cả.

      Nhưng, như thường thấy trong các chuyện tương tự, Sei nhanh chóng gặp thanh niên và toàn tâm toàn ý . Lúc đầu, Yakichi rất bất mãn khi thấy Sei chọn Heisaku, nông dân chân chất tiền chẳng tương lai. Tuy nhiên, cậu trai ấy lại có trái tim trong sáng, chân . Vì thế, biết đâu...

      Yakichi nhớ về người vợ khuất của mình. Dù đám cưới của họ là do hai bên gia đình sắp đặt, họ vẫn rất may mắn và Sei sinh ra là kết tinh của tình hai người. Hạnh phúc khi nghĩ đến may mắn của chính bản thân, Yakichi quyết định thể để con chịu bất hạnh. Ông chúc phúc cho Sei và Heisaku.

      Chính lúc này trong những tác phẩm đẹp nhất của Sei - bông hoa bằng thủy tinh - được tên đầy tớ của daimyo, chúa đất địa phương, tặng cho . Mọi người trong vùng đều căm ghét và kinh sợ tên chúa đất này vì tính khí tàn độc của . chẳng hơi đâu mà quan tâm đến hoa thủy tinh và tức giận truy vấn hàm ý của đồ vật vớ vẩn này.

      Tên đầy tớ, luôn luôn chớp thời cơ để tìm kiếm ân sủng của chủ, , "Con nghĩ ngài có lẽ muốn biết, thưa chủ nhân, rằng bông hoa thủy tinh này được tạo nên bởi người phụ nữ đẹp nhất thế gian." Tai tên daimyo dựng đứng lên và tên đầy tớ mau mắn thêm thắt, "Và ấy vẫn chưa kết hôn." Tên đầy tớ, thấy đấy, gần đây nghe lỏm được chuyện tên daimyo về khát vọng sinh con đẻ cái của , rằng chỉ người phụ nữ đẹp và tài năng nhất mới có thể xứng đáng mà thôi.

      Tên daimyo nhanh chóng lập kế hoạch hành động. gửi thông điệp rằng muốn có bức tượng thủy tinh lớn, và nghe đồn Sei và cha là những người thợ thổi thủy tinh lành nghề nhất Nhật Bản. Vì lý do này, bức thông điệp cho biết, muốn triệu tập họ.

      Tên daimyo coi việc đặt làm tượng thủy tinh cũng hão huyền như đặt làm thang bắc lên mặt trăng vậy. chỉ khoái sở hữu đất đai lâu đài với gia súc, đồng ruộng mà thôi. Và người phụ nữ đẹp. Phải, điều đó rất hấp dẫn . Nhưng Sei và Yakichi chẳng mảy may biết, trong đầu họ chỉ có niềm hân hoan vui sướng mà thôi. Họ tưởng tượng ra đây có thể là trong những nhiệm vụ vinh quang đầu tiên của mình - ngắn gọn, giấc mơ thành thực của họ. Vì thế hai cha con chất hành lý lên cái xe hàng và hướng về phía lâu đài của tên chúa đất.

      Họ được đưa vào chính điện, nơi tên chúa đất sốt ruột đợi, và hàng lông mày của nhướng cao lên khi nhìn thấy Sei. Ánh mắt dõi theo khắp căn phòng; với Sei, như con gián trườn da vậy. có thể thấy ngay đây chẳng phải người tử tế, khi ngồi đó lật qua lật lại bông hoa thủy tinh của bàn tay nhớp nhúa. Nhưng cảm giác của mình đâu có quan trọng, tự nhủ, và tất cả những gì có thể làm là cố gắng hết sức để thể mình.

      Cha con Sei trình cho tên daimyo những tác phẩm đẹp nhất của họ và giới thiệu chi tiết cho . cho xem mấy con sếu pha lê và cá gai bong bóng thủy tinh với làn da trong suốt. trưng ra những cốc rượu sake nhuộm màu và những chiếc ly nặng trịch. bày những cái đĩa cùng ngựa đồ chơi và những chiếc chuông gió cứ ngân lên thánh thót mỗi khi gió thổi qua. Khi hai cha con xong xuôi, các tác phẩm thủy tinh bảy sắc cầu vồng ra trước mặt tên chúa đất.

      Tên chúa đất rất ấn tượng, chắc chắn rồi, nhưng bởi người nghệ sĩ, chứ phải những tác phẩm nghệ thuật. Sei là trong những hấp dẫn nhất từng thấy. vỗ hai tay vào nhau khi Sei và cha mình cúi gập người xuống. "Ta quyết định rồi," thông báo.

      Hai cha con nín thở, việc rất bất thường đối với thợ thổi thủy tinh. Họ hy vọng, chờ đợi nhưng những lời được ra lại nằm ngoài mong đợi của họ. Vừa chỉ tay vào bông hoa thủy tinh, tên chúa đất vừa , "Sei rất thích hợp trở thành vợ ta và sinh con cho ta. ta phải thấy mình may mắn và hạnh phúc đến chừng nào."

      Sei biết đây là kẻ rất quyền thế và chống lại là việc hề đơn giản. Tuy nhiên, cũng thể kiềm chế. "Nhưng tôi người khác rồi."

      Yakichi ngay lập tức xin thứ lỗi về bất nhã của con mình. Tuy thế, khi bị ép phải khai, ông cũng xác nhận những lời . Tên chúa đất giận điên lên và vô tình bông hoa thủy tinh vỡ nát trong nắm tay . Ai dám đọ với vị lãnh chúa cơ chứ? ra lệnh phải nêu tên của "kẻ kia" ra.

      Sei cất tiếng, " ấy chỉ là nông dân, nhưng tình tôi dành cho ấy rất chân thành."

      Tên chúa đất hỏi, "Tên là gì?"

      sợ rằng nếu mình ra, Heisaku bị truy sát. nhìn xuống chân mình trong giây lát rồi ngẩng đầu lên đối mặt với ánh nhìn của tên chúa đất. "Tên của người quê mùa xứng làm lãnh chúa bận tâm."

      Tên chúa đất choáng váng trước mạnh bạo của . Rồi cười phá lên, chướng tai và hiểm ác. " tên nông dân? Ngươi dám coi tên nông dân hơn ta sao? Ngươi dám giấu tên của sao?" Tên chúa đất nhìn xuống thấy tay mình chảy máu do vết cắt của bông hoa thủy tinh. Dòng máu làm trấn tĩnh lại vì nhớ ra mình là ai.

      "Ngươi cưới gã nông dân đó đâu," tuyên bố chắc nịch, "và ngươi phải cám ơn ta cứu vớt đời ngươi. Ngươi kết hôn với ta."

      Sei với giọng cũng chắc nịch kém. "Tôi kết hôn với ngài, tôi kết hôn với người nông dân đó hoặc kết hôn với ai cả."

      Cú phản đòn của tên chúa đất nhanh gọn và tàn nhẫn. "Tốt lắm. Thế cứ cưới . Cưới tên nông dân này ta xử tử cha ngươi. Nhưng cưới ta cha ngươi sống."

      Sei đứng như trời trồng, vì chưa bao giờ tưởng tượng mình rơi vào tình thế này. Chưa bao giờ tưởng tượng lại có gã đàn ông đê tiện đến thế. Tên chúa đất tiếp, "Trong vòng tuần, ngươi phải trở lại đây và từ thôi. 'Có' nghĩa là ngươi kết hôn với ta và cha ngươi sống. '' nghĩa là ngươi từ chối ta và cha ngươi chết. từ thôi. Nghĩ kỹ , Sei." xong những lời này, tên chúa đất ném những vụn hoa xuống chân Sei rồi hùng hục lao ra ngoài sân điện.

      Hai cha con người thổi thủy tinh được thả khỏi lâu đài để có thời gian suy nghĩ về câu trả lời của mình. Chẳng có chỗ nào cho họ trốn cả; họ thể cứ thế thu vén đồ đạc rồi rời được; vì họ bị truy ra đến cùng ở bất cứ nơi đâu. Yakichi khẩn nài xin Sei hãy . Ông có tuổi và chắc cũng chỉ sống được vài năm nữa, ông lý luận, trong khi lại có cả cuộc đời trước mặt. Người cha chấp nhận ra để con phải sống đời khổ hạnh.

      Sei cương quyết nghe. từ chối ra quyết định có thể hại chết cha mình. Tuy thế, biết đời mình hoài phí nếu phải sống với tên chúa đất hung bạo.

      Đêm đó, Sei tài nào ngủ được. trằn trọc mãi giường, xem xét vấn đề từ mọi khía cạnh, nhưng dường như chẳng có lối thoát nào khả dĩ cả. Rồi, ngay trước khi bình minh ló rạng, ý tưởng chợt đến và biết mình phải làm gì. Khi Yakichi thức dậy, ông thấy con mình mất, và trong phòng của , lời nhắn viết rằng trở lại vào tuần tới để đối mặt với tên chúa đất.

      Đầu tiên, Sei đến chỗ nông dân giải thích tình hình. với Heisaku rằng là tình đích thực của nhưng thể thêm lời nào với được nữa. Những lời cuối cùng với là, "Nếu lắng nghe tiếng gió kỹ, nghe thấy em thầm tiếng ." Rồi mất.

      Nhiều ngày trôi qua, và Yakichi bắt đầu cho rằng con mình bỏ trốn. Dù rất đau lòng vì thể lời tạm biệt, ông vẫn cảm thấy thanh thản vì sống. Khi tuần hết, người cha đến trước mặt tên chúa đất rằng con mình biến mất và ông sẵn sàng nộp mạng thay .

      Tên chúa đất chuẩn bị ra lệnh hành quyết người cha hai người phụ nữ, cạo trọc đầu và khoác áo cà sa giản dị, bước vào sân điện. Cả Yakichi cũng phải mất lúc mới nhận ra người phụ nữ trẻ hơn là Sei. Ông bật khóc khi thấy Sei quay trở lại để cưới kẻ xấu xa này.

      "Cái gì thế này?" tên chúa đất lớn tiếng hỏi. "Sao ngươi lại cạo đầu? Người đàn bà cùng ngươi là ai?"

      Nhưng cả Sei và người phụ nữ đều lời nào.

      Tên chúa đất nổi điên lên, "Thái độ xấc xược này là sao hả? Ta ra lệnh cho các ngươi phải ."

      Tuy nhiên, Sei và người phụ nữ vẫn tiếp tục im lặng.

      "Câu trả lời của ngươi là gì? Ngươi có định trở thành vợ ta và cứu mạng cha ngươi ? Hay ta giết vì tính ích kỷ của ngươi? Trả lời câu hỏi của ta - có hay , ngươi có chịu cưới ta ?"

      Vẫn thế, cả Sei và người phụ nữ đều chịu trả lời.

      Tên chúa đất giậm chân thình thịch. "Xử trảm lão già này!" ra lệnh. Nhưng Sei giơ tay ra ngăn hai tên lính tiến đến chỗ cha mình. bước về phía tên chúa đất và đưa mẩu giấy ra.

      ra hiệu cho viên cận thần trong điện cầm lấy tờ giấy, như thể tự tay cầm hạ thấp giá trị của vậy, và gầm gừ, "Đọc to vào, để tất cả mọi người có thể nghe thấy những lời lẽ của con ranh hỗn xược nhất thế gian này!"

      Viên cận thần liếc qua lời nhắn giấy và đằng hắng. Ông muốn đọc. Nhưng ông chẳng có lựa chọn nào khác:

      tuần trước, ngài bắt tôi làm vợ ngài. Câu trả lời có báo hiệu cuộc hôn phối của chúng ta còn câu trả lời đưa cha tôi vào chỗ chết. Tôi lời nào, vì giờ tôi trở thành mugon no gyo no ama-san.

      Những từ cuối cùng nghẹn lại trong cổ họng viên cận thần. Ông biết từ này làm tên chúa đất khó chịu đến thế nào, vì mugon no gyo có nghĩa là "lời thề câm lặng" và ama-san nghĩa là "ni ".

      Người cận thần đằng hắng lần nữa và tiếp tục đọc:

      Tôi thề mãi mãi sống trong câm lặng và nghèo khổ, và tôi cũng cạo đầu mình để thể cống hiến trọn vẹn. Tôi chuyển tới sống tại ngôi đền ngọn núi cao nhất trong vùng. Đó là nơi chúng tôi cảm thấy mình được gần với Phật tổ nhất. Tôi thể cưới ngài vì tôi thuộc về Vạn vật rồi. Tôi thể trả lời câu hỏi của ngài vì lời thề của tôi cho phép tôi làm việc đó. Vì thế, nhận được câu trả lời nào, ngài phải thả cha tôi ra và tôi quay trở về đền thờ núi để trọn đời cống hiến cho Thần Phật.

      Tên chúa đất choáng váng. Đầy quyền uy là thế, vẫn biết là nên mạo phạm Phật tổ. nghĩ lúc rồi trả lời.

      "Ta phải chúc mừng ngươi vì kiện này," . "Ta cản ngươi quay lại đền đâu. Cứ làm thế ."

      Sei cúi đầu để giấu nụ cười có thể để lộ vị ngọt chiến thắng.

      "Nhưng trước khi để ngươi ," tên chúa đất tiếp tục, "ta muốn ngươi khẳng định, lần nữa, lời thề im lặng suốt đời của mình."

      Sei lại cúi đầu lần nữa ám chỉ mình giữ lời. "Tốt," tên chúa đất thêm, "vì nếu ngươidám , mạng cha ngươi tàn, và ngươi trở thành vợ ta. Còn nếu tên nông dân của ngươi dám lai vãng lại gần ngôi đền để thăm ngươi, ta giết cả lẫn cha ngươi và bắt ngươi làm vợ ta. rồi chứ?"

      Tên chúa đất để lời tuyên bố chìm vào khoảng trong giây lát. "Liệu ta có thể tin lời ngươi, tin Lời thề Thiêng liêng của ngươi, rằng ngươi bao giờ , bao giờ gặp lại tên nông dân ấy nữa được chứ?"

      Sei đứng lặng yên lúc, rồi gật đầu. Tên chúa đất bèn , "Ta xong."

      lối ra khỏi cung điện, Sei nhìn thấy Heisaku nấp chỗ rui mái nhà. Phải đến nhường nào mới liều mạng làm việc ngốc nghếch đến thế. Heisaku nhìn xuống với ánh mắt buồn bã vô hạn, vì giờ thực hiểu được tình huống ngặt nghèo mà họ gặp phải. Sei nhìn về phía và thầm Aishiteru, "Em ." Hơi thở thợ thổi thủy tinh của mang những lời đó đến tai người nông dân, và đúng như những gì Sei hứa: nếu lắng nghe kỹ, có thể nghe thấy tiếng thầm trong gió.

      Yakichi và Sei được hộ tống trở lại ngôi đền. Cha chào tạm biệt, nhưng Sei, dĩ nhiên, thể gì cả. chỉ khóc những giọt nước mắt thầm lặng và Yakichi hứa gửi quà cho sớm nhất có thể. Rồi ông cũng mất.

      Món quà cuối cùng cũng tới: bộ dụng cụ thổi thủy tinh đầy đủ. Những vị ni khác rất vui vẻ để sử dụng những món đồ này, vì họ thực cái đẹp và cũng vì họ xem những tác phẩm của Sei như cách thờ phụng Phật tổ. Hơn nữa, những đồ vật đó là nguồn thu nhập để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của họ. Thậm chí cả các ni cũng biết rằng dù nghèo khó là đức hạnh, nó cũng vô cùng bất tiện.

      Sei được phép dùng phòng trống trong ngôi đền, và hằng ngày làm việc chăm chỉ để tạo nên tất cả các loại đồ vật, từ đồ dùng cho bữa ăn đến những tác phẩm nghệ thuật. Ngày nối ngày thành tuần, tuần nối tuần thành tháng. Những tác phẩm của ngày càng tinh xảo khi kỹ thuật của trở nên điêu luyện hơn. Và trong suốt thời gian ấy, chậm rãi thổi bức tượng thủy tinh mang hình hài của Heisaku.

      Sei tạc bức tượng đó mỗi khi thấy cần phải , như cách thể tình của mình. Điều này có nghĩa là ngày nào cũng tạc tượng. dồn hết tình thương vào nó, từng chút từng chút . Bức tượng bắt đầu với cổ chân phải của . Dần ra đến gót chân. Rồi những ngón chân. Cứ thêm được chút nào - mắt cá chân, bắp đùi dưới, bắp đùi , cẳng chân dưới, cẳng chân , đầu gối - thầm khi thổi phần đó. Aishiteru. thanh ấy được gói trọn trong những bong bóng thủy tinh. Aishiteru. "Em ."

      Hàng dặm xa, Heisaku có thể cảm thấy những từ ngữ đó trong tai mình. Chúng lướt dọc sống lưng rồi khắc sâu vào trái tim . ngừng đường cày ngước mắt nhìn về phía ngọn núi xa xa. Và cứ thế hàng năm trôi qua. Mỗi lần Sei thấy cần phải cất lên tiếng thương của mình, thổi phần của bức tượng, gửi hơi thở thầm của dành cho Heisaku vào xương hông, vào ngón tay, vào vai, vào tai... của . Aishiteru, aishiteru, aishiteru.

      Khi bức tượng chàng thanh niên hoàn thành, tình của vẫn còn dang dở. Vì thế bắt đầu tạc phong cảnh xung quanh , đầu tiên là cánh đồng hoa loa kèn bằng thủy tinh làm chỗ đứng cho . Sau đó, khi những bông hoa loa kèn được thổi xong, phải tìm tiếp thêm những thứ khác. Có lẽ, nghĩ, mình làm cái cây che bóng cho người dấu của mình... Tạo những chiếc lá thôi cũng đủ làm mình cảm thấy cuộc đời dễ chịu hơn rồi.

      Cuộc đời cứ thế trôi cho đến buổi sáng, như những buổi sáng khác, khi Sei tắm rửa tại con suối núi. Dòng nước lạnh làm da cảm thấy sảng khoái nhưng khi bắt đầu gội đầu, thấy cổ đau nhói. Còn chưa kịp phản ứng gì, tay chân bắt đầu co cứng lại.

      Sei bị côn trùng đốt rất nhiều lần, nhưng đây là lần đầu tiên bị loại ong bắp cày kỳ dị này đốt, và như số phận sắp đặt, bị dị ứng nặng. Cổ họng nghẹn lại, cơ thể chịu phản ứng, và thể cử động được nữa. Cơ thể tê liệt của trôi theo dòng suối cho đến khi bị tảng đá lớn chặn lại. Hai tiếng liền nằm đó, để cho dòng nước lạnh giá của dòng suối trườn khắp da thịt mình.

      Cuối cùng, ama-san khác tìm thấy và lôi ra khỏi nước. Mắt Sei chớp lấy lần và làn nước lạnh băng làm tim đập yếu đến mức thể nhận thấy được. Thêm nhiều ama-san nữa được gọi đến nhưng ai thấy dấu hiệu sống nào, và bất chấp lời thề câm lặng của họ, buổi sáng ấy tiếng khóc nức nở vang động cả ngọn núi tĩnh lặng.

      Sei bị liệt toàn thân nhưng vẫn có thể nhìn thấy mọi thứ, cho tới khi những ni khác vuốt mắt lại vì tưởng chết. Thậm chí ngay cả khi cơ thể ấm lại chút, chất độc vẫn làm bất động. Trong suốt ba ngày, các ama-san lặng lẽ cầu nguyện cho . Yakichi nhận được thông báo đến để chôn cất con mình, người hy sinh cả tính mạng để ông có thể tiếp tục sống.

      Tên daimyo cũng đến, để chắc chắn đây phải trò bịp. nghe tin Sei được chôn cất nên lấy làm nghi ngờ vì mọi người đều biết các nhà sư đều phải được hỏa táng để ngọn lửa thanh tẩy tâm hồn. Nếu xác thịt còn ở lại, linh hồn tiếp tục nhớ thương tồn tại của nó dương gian và thể thanh thản sống Thiên giới. Dù vậy nguyện ước của Sei là được địa táng, vì muốn tiếp tục tồn tại mãi mãi như phần của mảnh đất nơi Heisaku luôn cày cấy.

      Yakichi cũng đưa Heisaku đến cùng mình, nhưng rằng thợ thổi thủy tinh học việc mới. Nỗi sợ tên chúa đất buộc ông phải dối. Ai biết được làm gì nếu nhận ra đây chính là chàng trai đánh bại để giành được tình cảm của Sei?

      Tên chúa đất chính là kẻ đóng nắp quan tài sau khi chắc chắn người ở bên trong là Sei. thể cử động được, Sei nằm đó nghe giọng kinh tởm của . "Được, ta rất hài lòng. ta thực chết rồi." Sei vô cùng biết ơn Trời Phật vì mắt được vuốt cho khép lại, vì khủng khiếp nếu cảnh tượng cuối cùng nhìn thấy lại là bộ mặt của kẻ ghê tởm này.

      Sei nghe tiếng những sợi thừng kéo căng khi quan tài của được vùi vào trong đất và cơ thể trở về với đất mẹ. Yakichi xúc xẻng đất đầu tiên đổ vào huyệt mộ và Heisaku đổ xẻng thứ hai. Trong lúc ấy, Sei vẫn nghe tiếng đất đá đập vào nắp quan tài của mình.

      Và rồi điều kỳ diệu xảy ra. cảm thấy chất độc trong mạch máu tan dần và cơ thể bắt đầu thả lỏng. có thể mở mắt nhưng chỉ nhìn thấy bóng tối. có thể duỗi ngón tay ngón chân nhưng vẫn chưa đủ khỏe để nâng tay chân lên để đập vào nắp quan tài. Nhưng biết nếu mình thét gọi, những người ở có thể nghe thấy tiếng . cảm thấy mình sắp được trở lại, và hân hoan vì cuối cùng mình chết. Tất cả những gì phải làm là thét gọi...

      Rồi Sei nhớ đến lời hứa của mình. Chỉ cần thốt ra câu thôi để cứu mạng mình, trở thành vợ của tên chúa đất. Cha bị xử tử, Heisaku cũng vậy. Tên chúa đất ở ngay cạnh họ, vì thế thể phủ nhận việc phản bội lời hứa của mình. chẳng thể phủ nhận việc Heisaku đến đền thờ.

      Và thế là, Sei đành ngậm miệng lại chấp nhận bị chôn sống. lắng nghe tiếng đất đổ lên mộ mình, thanh ngày xa dần với mỗi xẻng đất chất chồng phía . Khi tất cả những thanh cùng ngừng lại lúc, biết rằng huyệt mộ bị lấp kín và mình nằm sâu dưới ba tấc đất.

      Phía mặt đất, Yakichi và Heisaku khóc than trước cuộc đời nghiệt ngã của Sei. hy sinh quá nhiều để bảo vệ những người mình thương và phần thưởng dành cho là thế này đây. Về phần tên chúa đất, chẳng quan tâm gì đến người phụ nữ vừa được chôn trước mắt; chỉ thấy thỏa mãn vì ta bao giờ có thể lừa thêm lần nào nữa.

      Vì tên chúa đất chưa từng đến ngôi đền đó bao giờ và có thể sau này bao giờ quay lại, quyết định thám hiểm xung quanh trước khi trở về lâu đài của mình. Các ama-san cố dẫn theo con đường cách xa xưởng thủy tinh của Sei nhưng thành. Khi vào trong xưởng, choáng váng trước bức tượng thủy tinh mang hình dáng "người thợ học việc" mới của Yakichi đứng giữa cánh đồng hoa loa kèn còn dang dở. Tên chúa đất chẳng ngu dại gì: nhận ra ngay lập tức đây là bức tượng của tên nông dân Sei hết mực thương , và cũng biết thằng nhãi giả làm thợ học việc chính là tình cả đời của Sei.

      Ánh sáng tràn qua những ô cửa sổ của ngôi đền và đổ nắng lên bức tượng. Vẻ đẹp thuần khiết của nó, quan tâm và tỉ mỉ, tất cả đều như cười nhạo tên chúa đất. nhặt thanh củi bàn dụng cụ và thề phá hủy bức tượng trước, rồi diệt trừ tên nông dân bằng xương bằng thịt sau. Tên chúa đất nhào tới, vung thanh gỗ như cái lưỡi hái để chém xuyên qua những bông hoa thủy tinh bao quanh bức tượng. Đòn ra mạnh mẽ, và hàng chục bông hoa bị vỡ với chỉ cú chém.

      tiếng nổ lớn phát ra khi những cánh hoa và cành hoa thủy tinh bắn tung tứ phía, tạo nên làn sóng thanh khủng khiếp. Tất cả những lời thầm thương Sei gửi gắm trong những bông hoa loa kèn cùng đồng loạt ào ra. Áp lực mạnh đến nỗi những mảnh thủy tinh như cưỡi ngọn gió lốc. Chúng cứa khắp người tên chúa đất, làm biến dạng đến nỗi ai có thể nhận ra được nữa. thanh như sấm rền đến nỗi tai của điếc đặc còn lông tóc bạc trắng ngay lập tức.

      thanh chấn động cả xưởng thổi thủy tinh và lan ra khắp bầu trời Nhật Bản. Người ở khắp mọi nơi đất nước đều có thể nghe thấy, và rồi tất cả mọi người đều đồng ý rằng đó là thanh đẹp nhất họ từng nghe. Nó giống như tiếng của tình đích thực.

      Tên chúa đất vẫn sống, nhưng chỉ còn là kẻ quặt quẹo người chẳng ra người ngợm chẳng ra ngợm, sẹo và thương tích chằng chịt. giận dữ và ghen tuông của chính hủy hoại . chẳng còn uy hiếp ai được nữa và cũng chẳng còn lòng dạ nào làm hại Heisaku hay Yakichi.

      Heisaku và Yakichi, về phần họ, chất bức tượng lên xe và mang nó trở lại làng. Heisaku chuyển đến sống cùng nhà với ông lão với tư cách là người con trai ông chưa từng có, và họ dần trở thành bạn tốt. Xét cho cùng, họ cũng được gắn kết lại bởi tình của người phụ nữ họ cùng đánh mất.

      Suốt những tháng năm còn lại trong cuộc đời hai người, bức tượng thủy tinh đứng sừng sững giữa ngôi nhà của họ. Heisaku phần nào cảm thấy hơi kỳ cục khi hằng ngày cứ nhìn thấy bản thân mình, nhưng nó có tác dụng rất lớn. Mỗi khi nỗi tiếc thương Sei trở nên quá sức chịu đựng, Heisaku vàYakichi bẻ mảnh của bức tượng - ngón tay, lọn tóc, cánh hoa loa kèn còn sót lại.

      Aishiteru, aishiteru, aishiteru. Từ mỗi mảnh thủy tinh vỡ, tiếng thầm của Sei làm nguôi ngoai nỗi đau buồn của họ.
      Hyunnie0302Jenny Nguyen thích bài này.

    2. thuytinhtim_1102

      thuytinhtim_1102 Well-Known Member

      Bài viết:
      1,916
      Được thích:
      3,133
      Chương 18
      ràng biết câu trả lời, Marianne Engel vẫn cứ vờ vịt hỏi tôi xem hôm nay là ngày gì.

      "Thứ Sáu Tuần Thánh," tôi trả lời.

      "Theo tôi." Chúng tôi trèo vào xe của và chưa đầy nửa tiếng sau tôi nhận ra chính xác nơi chúng tôi định đến: ngọn đồi nơi tôi gặp tai nạn. Khi chúng tôi đến nơi, chẳng dấu hiệu gì cho thấy nơi đây từng xảy ra vụ tai nạn. Cây cối còn che giấu cả toán lính đánh thuê được gửi tới để tiêu diệt tôi nữa. Những cây cột gỗ thay mới, dây cáp cũng chăng lại, và giờ cũng bạc phếch chẳng khác gì những cái còn lại. Chẳng có vết bánh xe hay đất cát bị xới tung lên; chỉ là khúc cua khác mà thôi. Khi tôi hỏi tại sao biết chính xác địa điểm này, Marianne Engel chỉ mỉm cười và cho Bougatsa nhảy ra khỏi ghế sau. Nó khoái chí nhảy vòng quanh, và phải quát lên khi nó ra quá gần rìa đường.

      lấy chiếc túi bằng da trong cốp xe và cầm tay dẫn tôi tới dải phân cách giữa mặt đường và vách đá. Nơi đây tôi thấy dấu hiệu đầu tiên chứng tỏ tai nạn của tôi thực xảy ra. Vẫn còn vùng đất cháy sém ở dưới đáy vực, chấm đen chẳng khác gì dấu chấm bạn có thể thấy ở cuối câu này, ngay bên cạnh con suối cứu mạng tôi.

      Những chiếc mô tô phóng vụt qua, ràng họ rất băn khoăn hiểu chúng tôi nhìn gì. "Xuống nào," rồi dẫn tôi qua những chiếc cọc gỗ mới. Bougatsa chạy trước chúng tôi, sung sướng tìm thấy lối xuống đáy vực nơi chúng tôi có thể dễ dàng theo sau, và xa phía bên góc đường tôi thấy miếng nhựa đỏ vỡ vụn, cái vỏ đèn xi nhan gãy rời khỏi chiếc ô tô. Chiếc xe ô tô của tôi. Bụng tôi thót lại.

      Khi chúng tôi trèo xuống, có hàng chục bậc đá giúp đôi giày chỉnh hình của tôi dễ bám, nhưng tôi vẫn khó giữ thăng bằng. Tôi cố bắt chân mình cử động như trước vụ tai nạn, nhưng có vẻ khả thi: đầu gối mới phục hồi của tôi quá yếu ớt. Khi tôi với Marianne Engel mình thể xuống được, kiên quyết chấp nhận. đứng ngay phía trước tôi, hai chân giẫm mạnh xuống sườn dốc để tôi có thể đặt tay mình lên lưng . Tư thế này thừa sức chứng minh rằng tôi có thể xuống dốc được và có làu bàu gì nữa hết.

      Khi chúng tôi xuống tới chỗ đất cháy sém, tôi thấy vài cụm cỏ, vừa lún phún mọc lên. ngày nào đó vùng đất này tươi tốt trở lại, tôi thầm nghĩ.

      "Gì đấy?" hỏi.

      " có gì," tôi . "Chỉ là tôi chưa bao giờ nghĩ mình lại quay lại chỗ này, thế thôi."

      "Cũng tốt khi quay lại nơi mình từng phải chịu đau đớn mà."

      " sai rồi." Tôi có thể nhớ lại toàn bộ: những mảnh kính vỡ văng tung tóe; cần tay lái lướt vụt qua tôi; tiếng động cơ gầm rú, những bánh xe quay tròn mãi cho tới khi dừng hẳn; ánh lửa xanh xẹt qua trần xe; cách những ngọn lửa bùng lên; mùi khét của tóc tôi; và cả việc da thịt tôi bắt đầu nổ lốp bốp và phồng rộp lên nữa. Tôi có thể nhớ tất cả những thứ biến tôi từ con người thành tôi bây giờ.

      " có tán thành hay cũng quan trọng. Người ta thể trở nên hoàn thiện nếu cứ phớt lờ những bất hạnh của mình ." Marianne Engel mở túi lấy cái chân nến bằng sắt mà rằng được Francesco chế tác rồi cắm ngọn nến vào cái miệng há hốc của nó. đưa cho tôi bao diêm và bảo tôi châm nến lên. "Nhưng việc kỷ niệm năm nay vẫn sống rất quan trọng đấy."

      Tôi bảo thực ra đây phải lễ kỷ niệm năm: dù đúng là tai nạn của tôi xảy ra vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh, nhưng hiển nhiên là ngày lễ đó mỗi năm lại rơi vào ngày khác nhau.

      " nên nghĩ về thời gian theo cái nghĩa đen ấy," Marianne Engel vừa vừa hôn lên khuôn mặt thủy tinh dẻo của tôi. "Chỉ ngày có gì quan trọng trong cả thời gian vĩnh hằng chứ?"

      "Tôi nghĩ là mọi ngày đều quan trọng," tôi . "Đặc biệt là những ngày khi ta gần chết."

      Câu ấy lẽ ra nghe có vẻ đầy kịch tính, tôi nghĩ thế, nếu đúng vào lúc đó, con Bougatsa nhảy tưng lên trung để vồ như điên mấy con bọ vo ve quanh đầu nó.

      "Nhưng chết đâu," Marianne Engel . " tôi nghe nào, thế cuộc sống của trước khi bị tai nạn có tốt ?"

      "Cũng hẳn."

      "Thế việc bắt đầu lại từ đầu món quà đáng trân trọng đấy."

      thực tâm tin rằng tôi bắt đầu lại từ đầu và tôi cũng nghĩ thế, nhưng hoàn toàn, và tôi cảm thấy lương tâm cắn rứt khi nghĩ đến việc tôi sắp làm với số tiền vừa rút từ tài khoản Jack lập cho mình.

      Vài hôm sau, khi Marianne Engel rời khỏi pháo đài, dẫn con Bougatsa dạo, là lúc tôi quyết định tiến hành nhiệm vụ bí mật của mình. Tôi trùm chiếc áo mưa màu xám dài thượt lên bộ quần áo tạo áp suất, và dù được phép làm thế, tôi cũng tháo mặt nạ và cái banh miệng ra. Tôi đội mũ và đeo kính đen, dựng cổ áo lên bằng đôi tay đeo găng trông chẳng khác tội phạm, rồi tôi nhìn vào gương để thấy bức tranh biếm họa về tên biến thái ngó lại mình. Tôi nghĩ thế là quá hoàn hảo rồi, so với cái nơi mà tôi sắp đến.

      "Tới hiệu đồ chơi tình dục gần nhất." Giọng tôi, rú lên như tiếng động cơ của cái mô tô gỉ sét, làm người lái xe taxi phải xoay gương chiếu hậu để nhìn tôi được hơn. Ông ta dường như suy nghĩ lại xem có nên cùng với người đàn ông xác định được nhân dạng tới nơi đồng mông quạnh hay , nhưng đổi ý ngay khi tôi giơ thẻ tín dụng ra. Người lái xe khởi động ô tô và chúng tôi phóng qua mặt tiền của nhà thờ thánh Romanus, nơi cha Shanahan đổi tấm bảng nhựa trắng thành: "Ngày Thứ Sáu Của Bạn Có Tốt Đẹp Như Lẽ Ra Nó Phải Thế ?"

      Khi chúng tôi tới Triple-XXX Velvet Palace, tôi bảo người lái xe đợi chút. Ông ta gật đầu; ông ta thấy tôi tập tễnh nhảy vào xe và biết tôi chẳng chạy xa được. Bước vào cửa hiệu cứ như là được về nhà vậy. Mùi cao su tổng hợp latex, mùi da, mùi chất bôi trơn quen thuộc dậy lên. Bên tay phải tôi là bộ sưu tập dụng cụ kích thích hậu môn và dương vật nhân tạo khổng lồ, bên tay trái tôi là tập hợp các bộ đồng phục của nữ phục vụ người Pháp và nữ sinh trung học Nhật. Hàng dãy tạp chí treo đầy tường, nhưng thứ tôi thực muốn tìm là chồng đĩa video ở phía sau kia. Liếc qua mấy cái vỏ, tôi nhanh chóng thấy đĩa phim của chính mình: Doctor Giving Bone, I Presume (Tôi đoán bác sĩ cho xương). (Tôi luôn coi đây là trong những tên phim thú vị nhất của mình.) Tôi đặt nó trước mặt ông thu ngân hói đầu đeo mục kỉnh. " lựa chọn hoàn hảo," ông ta bằng giọng chút hào hứng.

      Trở về tháp chuông, tôi nhét cái đĩa vào đầu video. Màn hình ti vi màu xanh dương ấm áp lên và theo sau là logo công ty sản xuất phim cũ của tôi. Kịch bản, như mọi phim khiêu dâm khác, luôn đọng lại cái gì đó đầy khao khát; thậm chí cả tôi - tác giả, diễn viên, đạo diễn, kiêm nhà sản xuất - cũng nó là cái gì. Bộ phim mở ra với cảnh người phụ nữ, Anne, chuẩn bị đến lượt kiểm tra sức khỏe. Khi tự mình mặc đồng phục khám bệnh được, nhờ mấy y tá giúp, và như bình thường, theo sau là các cảnh đồng tính nữ nóng bỏng. Vị bác sĩ (tôi) tình cờ bắt gặp mấy trò này, và mảy may lo lắng về những hành động trái luân thường đạo lý hay dễ dẫn đến bệnh hoa liễu, quyết định liệu pháp trị liệu thích hợp nhất cho Anne là quan hệ qua đường hậu môn mà dùng các biện pháp bảo vệ.

      Tôi nghĩ về cái ngày bộ phim được bấm máy. Đồ ăn được đặt ở tiệm đồ ăn nhanh Trung Hoa của Sun Lee, ngay cuối phố, và người ta đưa đồ ăn đến khá muộn. Boyce Burgess phụ trách máy quay còn Irdman Dickson lo phần thanh, ấy thế mà, dù chúng tôi phải quay tất cả các cảnh trong buổi chiều hôm đó, Irdman lại say bí tỉ. Với tư cách đạo diễn, lẽ ra tôi khiển trách ta nặng nề nếu tôi lúc đó phê cocaine. Thực ra, nếu coi kỹ phim, bạn thấy cái thìa vàng dây chuyền của tôi nảy ra khỏi cổ áo bác sĩ khi tôi vỗ mông Anne qua cái bàn khám bệnh. Vì cố say xỉn của Irdman, thanh khá tệ và ở vài chỗ còn chả nghe ra cái gì. Thỉnh thoảng cũng có thể nghe được vài câu: gì đó về việc đo nhiệt độ của Anne bằng cái "cặp nhiệt độ cỡ bự của tôi". Tôi nghĩ việc hầu hết các đoạn hội thoại đều nghe được có khi lại là điều hay.

      Cái cảnh mở màn này, đáng tiếc làm sao, lại là phần thông minh nhất trong cả bộ phim. Từ đoạn này trở , câu chuyện trở nên cực kỳ ngớ ngẩn. trong những tình nhân của tôi là bác sĩ tâm lý, cứ suốt ngày lải nhải về chứng thù địch với phụ nữ của tôi mỗi khi tôi đét đít . Trong khi đó, Anne dần mắc chứng hoang tưởng về các loại bệnh tật/cuồng dâm, luôn tin rằng bệnh dị ứng mèo của chỉ có thể trị dứt bởi hàng loạt liều dương vật.

      Tất cả những trò này rất hài hước nếu gì đến hình ảnh của tôi lúc ấy. Tóc tôi hất lên hất xuống với mỗi cú huých của vùng xương chậu, da tôi bừng sáng rực rỡ khi những giọt mồ hôi trườn từ cổ xuống ngực. Cơ tay của tôi cuộn lên mỗi khi tôi phát vào mông tình nhân ngu ngơ đáng của mình, cho ta ra rồi lại lôi ta vào. Nụ cười của tôi kéo dài tới tận mép của cái miệng phải đeo thiết bị banh hàm và mặt tôi căng ra trong trạng thái đợi chờ tuyệt diệu khi tôi chuẩn bị lên đỉnh.

      Tôi phải tắt bộ phim : tôi muốn phát bệnh khi phải nhìn thân thể đẹp đẽ từng là của mình, rồi đem so với cái thứ khốn nạn tôi trở thành. Tôi muốn phát bệnh khi thấy, mãi mãi được đóng khung trong những thước phim, những giọt mồ hôi làn da mượt mà của tôi. Tôi, người bao giờ có thể đổ mồ hôi được nữa. Đây có phải những gì Fred Astaire cảm thấy khi trở thành ông già còn khả năng nhảy múa ? Hình ảnh trai tráng của con người trở thành thứ tra tấn họ dứt khi họ về già; hình ảnh đó xử tử cả Fred Astaire lẫn tôi.

      Khi tôi ấn nút thoát, cái đĩa õng ẹo trượt khỏi đầu video như cái lưỡi lè ra trêu tức tôi. Tôi mang nó xuống lò sưởi trong phòng khách, đặt nó lên chồng báo. Châm que diêm, tôi đứng nhìn ngọn lửa bùng lên nuốt chửng cái đĩa phim.

      Đó là lần cuối cùng tôi xem bộ phim cũ của mình.

      Sayuri đến chỗ chúng tôi hoặc hai lần mỗi tuần, luôn luôn mỉm cười khi giúp tôi tập những bài tập với độ khó ngày càng tăng. Kết quả có gì phải bàn cãi: các cơ co cứng cơ thể tôi bắt đầu thư giãn, lưng tôi bắt đầu chuyển dần từ hình dấu hỏi sang dấu chấm than. Tâm điểm của liệu pháp điều trị này là kiềm chế ham muốn sử dụng những cơ khỏe nhất thay vì những cơ thích hợp của cơ thể tôi. Sayuri tập trung giúp tôi đúng cách và bên cạnh với hai tay đặt lên mạng sườn tôi, bắt tôi giữ thẳng đầu. sửa cách tôi vung tay, giúp tôi tăng khả năng giữ thăng bằng và luôn nhắc tôi nhớ dồn đều sức nặng xuống cả hai chân. Việc này trở nên cực kỳ khó khăn mỗi khi phải lên xuống cầu thang.

      thành thục những chuyển động cơ bản, chúng tôi bắt đầu lập kế hoạch bộ với tốc độ nhanh hơn và với quãng đường xa hơn. Bougatsa cũng đòi theo, vừa chạy quanh vừa sủa ăng ẳng. Sayuri ném cho nó quả bóng để nó chạy đuổi theo, nhưng chủ yếu là để tống khứ nó cho có thêm thời gian để ý đến tôi. Khi quay trở về nhà, chúng tôi tập bằng các dụng cụ Marianne Engel mua cho tôi. Có ghế tạ, máy Nautilus và chiếc xe đạp tại chỗ. Sayuri tự quyết định món nào được áp dụng vào quá trình hồi phục của tôi.

      luôn luôn kiểm tra quần áo bảo vệ của tôi mỗi khi đến và thỉnh thoảng lại tìm được vài chỗ cần sửa chữa. Khi những vết sẹo mặt tôi dần lành lại dưới tác dụng liên tục của áp suất, cái mặt nạ của tôi cũng phải chỉnh lại theo. Sayuri đánh giấy ráp cho phù hợp, và cũng phải mang đến bệnh viện mấy lần để sửa lại. lần, cái mặt nạ được sửa xong nhưng lại sai sót; khi tôi chỉ cho Sayuri xem, mấp máy vài từ bằng tiếng Nhật: "Saru mo ki kara ochiru." Khi tôi hỏi câu ấy nghĩa là gì, trả lời, "'Thậm chí cả khỉ cũng có lúc rơi khỏi cây.' Nó nghĩa là..."

      Tôi cắt ngang. "... nghĩa là thậm chí cả các chuyên gia cũng có lúc mắc sai lầm. Ừm, tôi nghe thấy câu này trước đây rồi."

      Khi hỏi là ở đâu, tôi bảo nên hỏi bạn trai mình ấy. Cần phải là, tôi tin mình gặp ai khi đỏ mặt lại có thể đáng đến như Sayuri.

      khía cạnh của câu chuyện thời Trung cổ luôn làm tôi thắc mắc hơn bất cứ chuyện gì: việc Gertrud dịch bản tiếng Đức của Kinh Thánh. Chuyện này, xin nhớ giùm tôi, xảy ra đúng hai trăm năm trước khi Martin Luther bắt tay thực bản dịch nổi tiếng của mình. Nhà thờ phản đối kịch liệt tác phẩm của Luther, thế sao họ lại có thể cho phép xơ Gertrud làm thế chứ?

      Tôi tiếp cận vấn đề theo cách tôi vẫn luôn làm, và kết quả bất ngờ đầu tiên trong nghiên cứu của tôi là phát ra khi cuốn Die Luther Bibel xuất , có hàng loạt bản dịch Kinh Thánh bằng tiếng Đức rồi; Luther chỉ đơn giản là người đầu tiên dịch sang ngôn ngữ của lớp người bình dân mà thôi. Những bản dịch trước là những bản dịch bám sát nguyên tác với các thành ngữ khó hiểu và hầu như chỉ những độc giả có thể đọc bản tiếng Latin mới hiểu được.

      Bản Kinh Thánh bằng tiếng Đức cổ nhất là bản dịch theo phong cách Gothic của Ulfilas hồi thế kỷ thứ tư, ra đời trước bản tiếng Latin hàng chục năm. Là người xuất chúng, Ulfilas nhận thấy cần phải lập cả bảng chữ cái để viết cuốn sách của mình nên ông sáng tạo rất nhiều thuật ngữ Thiên Chúa giáo bằng tiếng Đức đương thời. Chỉ phần bản viết tay của cuốn Kinh Thánh này, được biết đến với tên Codex Argenteus hay Silver Bible, là còn tồn tại, được lưu tại Thư viện Quốc gia Uppsala. Sau đó là bản viết vào thế kỷ thứ chín ở Fulda, với bản dịch bốn cuốn đầu tiên trong Kinh Cựu ước bằng tiếng Đức thời Thượng cổ và bản đầy đủ hơn, nhưng chính quy, dịch Kinh Thánh vào khoảng năm 1260. vài đoạn trong Kinh Thánh, ví dụ như Kinh cầu Chúa, từ lâu được dịch sang tiếng Đức, nhưng chẳng có bằng chứng nào xác thực có người hoàn chỉnh cả bản Kinh Thánh bằng tiếng Đức tại thời điểm Gertrud được cho là dịch nó cả - dù người ta cũng rằng lâu sau đó, vào năm 1350, bản Kinh Tân ước hoàn chỉnh xuất tại Augsburg.

      Đến đây mọi thứ đều logic: có lẽ thời điểm đầu thế kỷ mười bốn rất thích hợp cho người ta bắt tay vào thực cả dự án đồ sộ, vậy tại sao đó phải là xơ Gertrud của tu viện Engelthal nhỉ?

      Thực , có rất nhiều lý do, nhưng có lẽ gì bằng sùng đạo cuồng nhiệt của chính Gertrud - hay ít nhất, là nỗ lực hết mình tỏ ra ngoan đạo. Bà muốn tiến hành dưới bất cứ hình thức nào có thể bị coi là báng bổ thánh thần, và hành vi dị giáo cũng chỉ dừng ở mức dịch Kinh Thánh trái phép. Trước khi khởi nhiệm vụ kinh thiên động địa thế này Gertrud bắt buộc phải được cho phép của cấp , và có thể việc đề nghị đó được chấp thuận là gần như thể. Nhưng đó mới chính là cốt lõi của vấn đề - "gần như là thể" chứ có phải " thể" đâu.

      Tu viện trưởng của Engelthal là phụ nữ có tuổi; liệu từng trải của bà có cho phép bà chấp nhận bản dịch mà bất cứ nhà chức trách có đầu óc nào cũng từ chối ? Những chuyện kỳ lạ vẫn hay xảy ra. Tuy nhiên, thế có người nghĩ là Gertrud phải được phép của tu viện, mà thực ra điều đó cũng chẳng cần thiết. Có lẽ bà ra ngoài để tìm quan chức giáo hội có kế hoạch của riêng mình; nên nhớ rằng Nhà thờ khét tiếng với những trò thao túng chính trị sau cánh gà. Có thể nhân vật quyền cao chức trọng nào đó thông qua công trình của Gertrud với tư cách là phần của kế hoạch lớn hơn, và Gertrud hẳn rất vui mừng bỏ qua việc bà chỉ là con tốt thí miễn là được phép thực tác phẩm của mình. Đó thực canh bạc đầy bất trắc, nhưng lách luật với giúp đỡ của vị tai to mặt lớn bao giờ chẳng dễ dàng hơn.

      Tất cả chỉ là giả thiết mà thôi, hiển nhiên rồi. Lý do Gertrud cho rằng bà có thể thực dự án đó vẫn là câu hỏi chưa có lời giải đáp thỏa đáng, nhưng tôi có thể đưa ra khả năng khác: có lẽ tôi đánh giá thấp khát vọng được đời sau nhớ đến của bà. Hư danh vừa là nguồn động lực mạnh mẽ vừa là kẻ lừa gạt tài tình, và cái ý tưởng để lại di sản vĩnh cửu có thể khiến người cẩn trọng nhất cũng trở nên liều lĩnh. Có lẽ bà tự thuyết phục bản thân rằng mình chẳng làm gì sai trái dù được cho phép. Xét cho cùng, bà dịch từ bản tiếng Latin được viết vào thế kỷ thứ tư, và niềm tin vững như kiềng ba chân vào bản dịch tuyệt vời của mình có lẽ đẩy bà tới mức rốt cuộc đánh cược vào việc cuốn Kinh Thánh của bà hay đến độ thể bị phạt. Ta có thể hình dung bà lý luận rằng tồn tại của cuốn Die Gertrud Bibel đủ để miễn tra cứu nguồn gốc bí của nó, và vì tác phẩm phải kéo dài cho tới cuối đời, có lẽ bà cũng sẵn lòng chấp nhận mạo hiểm. Các nhà chức trách còn làm gì được với bà già biết chỗ của mình Thiên đường được sửa soạn xong cả rồi chứ?

      Khi cuối cùng tôi cũng hỏi Marianne Engel việc dịch cuốn Die Gertrud Bibel là do ai thông qua, tôi mong nhận được câu trả lời chắc chắn hoặc lời đáp đầy mâu thuẫn có thể vùi dập câu chuyện đó lần và mãi mãi. Nhưng câu trả lời của chẳng hề trùng khớp.

      "Hồi đó tôi còn quá nên chẳng mảy may thắc mắc gì, mà Gertrud cũng chẳng bao giờ . Bà lúc nào cũng giữ bí mật về chuyện đó và nữ tu nào được hé lộ câu gì ngoài phòng viết cả."

      "Chẳng lẽ họ phản kháng à," tôi hỏi, "nếu họ tin là có gì đó chính đáng?"

      "Có lẽ họ phải đối chất Thiên đường vì những gì mình làm," , "nhưng tôi nghĩ ở đây mặt đất này họ sợ Gertrud và Agletrudis hơn."

      Marianne Engel có vẻ rất hài lòng về chuyện tôi thực quan tâm đến mọi khía cạnh của câu chuyện kể, và điều đó thúc đẩy hỏi liệu tôi có muốn nghe tiếp .

      "Dĩ nhiên," tôi .
      Hyunnie0302Jenny Nguyen thích bài này.

    3. thuytinhtim_1102

      thuytinhtim_1102 Well-Known Member

      Bài viết:
      1,916
      Được thích:
      3,133
      Chương 19
      Sau lưng tôi là cuộc sống duy nhất tôi từng biết, và trước mặt tôi trải ra cuộc sống tôi chẳng thể nào tưởng tượng nổi. Vừa , tôi vừa ngoái lại nhìn hình bóng cha Sunder dần khuất trong màn đêm. Ông luôn diện trong cuộc đời tôi từ những hồi ức đầu tiên, vậy mà giờ ông còn bên tôi nữa. Chỉ khi đó tôi mới nhận ra là cả tôi lẫn đều có chút ý tưởng nào về nơi chúng ta đến cả.

      dẫn đường, vờ như biết mình làm gì, đưa chúng ta ra xa khỏi Engelthal. Tôi ngờ rằng lo lắng biết liệu có toán nữ tu chạy theo truy lùng chúng ta ; có lẽ điều bận lòng hơn cả là tôi có thể nhụt chí mà quay trở lại. Thế nên cứ tiếp tục tiến về phía trước, dù thực tế vẫn phải chịu đau đớn vì những vết bỏng, và tôi phải hộc tốc để theo kịp . Chân tôi ngập trong bùn nhưng tôi quyết tâm cho thấy dù nhanh thế nào, tôi cũng bắt kịp được. Tôi nghĩ điều đó rất quan trọng với mình vì chính tôi cũng biết đó có phải .

      Tôi có thể thấy chiến tranh dạy quên những đau đớn thể xác và tiến bước chỉ bằng ý chí bản thân. Tôi giúp đỡ quá trình hồi phục của , tôi biết những nỗ lực này còn vượt xa tất cả những gì làm khi được đưa đến Engelthal, và tôi rất ngưỡng mộ sức chịu đựng của - cho tới khi, sức chịu đựng ấy bất thình lình suy kiệt.

      trượt chân xuống bùn và loạng choạng ngã. cố đứng ngay dậy nhưng được: ngay khi đứng lên được, lại mất thăng bằng lần nữa. Lần này, khi ngã xuống, lấy tay chống, nhưng vùng da co rúm ngực làm rên lên đau đớn. Theo bản năng, thu tay lại và chúi mặt xuống bùn.

      Tôi cúi xuống đỡ và hành động tức của là đẩy tôi ra. Rồi, có lẽ nhận ra để tiếp tục tiến bước chúng ta phải phối hợp cùng nhau, để tôi giúp đứng dậy. , cố ra vẻ đùa cợt, "Tôi nghĩ con quỷ cố kéo tôi xuống đấy."

      lúc sau, hồi phục nên chúng ta có thể rời tới trú dưới gốc cây. Rồi chúng ta ngồi đó, thân lấm đầy bùn, chờ mưa tạnh. Chúng ta rúc vào nhau để lấy hơi ấm và đây là lần đầu tiên tôi ở gần cơ thể khác, gì đến cơ thể người đàn ông, nhưng nó lại chẳng giống với những gì tôi từng tưởng tượng. Tôi biết giây phút này thế nào cũng đến và từng nghĩ nó hồi hộp khủng khiếp, nhưng tôi chỉ cảm thấy nỗi sợ mơ hồ rằng mình sai lầm khi quyết định rời khỏi Engelthal.

      Đây là điểm khởi đầu của cuộc sống chung giữa hai chúng ta: trong làn mưa lạnh giá, thể tiến lên phía trước, đợi buổi sáng đến và có lẽ - có lẽ - mặt trời mang tới chút nắng ấm. Có lẽ, tôi nghĩ, đây là dấu hiệu để tôi quay lại. Tôi trở lại trước khi bất cứ ai biết là tôi biến mất, và tôi giả ốm trong phòng. hay hai ngày gì đấy, tôi trở lại làm việc, và đời cứ thế trôi như trước.

      Nhưng . Agletrudis còn lâu mới ỉm hành động của tôi , và tôi cũng thể để mặc người đàn ông đau yếu bên vệ đường được, đặc biệt lại là người tôi cảm thấy thực phải có trách nhiệm. Tuy nhiên, tôi vẫn thể nghĩ tới bình lặng của tu viện và vị trí của tôi ở đó. Nhà tôi là ở phòng viết, giữa những cuốn sách. Nhưng dưới cái cây, trong cơn bão, với người đàn ông tôi hầu như biết nhưng cũng là người tôi đặt cả tương lai vào: sao đó có thể là kim chỉ nam của đời tôi cơ chứ?

      Và chẳng có cách nào khác ngoài việc đợi cho đêm tối qua .

      Rồi mặt trời cũng mọc nhưng vẫn chưa thể xuyên qua những đám mây xám xịt, cơn mưa thưa dần nhưng vẫn chưa chịu tạnh hẳn. Chúng ta bắt đầu tiếp, nhưng vẻ mạnh mẽ của tan biến. Mọi nỗ lực bước đều là thách thức, và mọi bước thành công đều là niềm hân hoan lớn. Tôi luôn ở cạnh với mỗi thắng lợi bé này, tôi quàng tay qua người , lo ngại rằng nếu lại ngã xuống đứng dậy được nữa.

      Rồi may mắn cũng đến với chúng ta, dưới hình dạng chiếc xe bò. Tiếng chân bò gõ lọc cọc trước mặt chúng ta, bèn vẫy tay ra hiệu cho người đàn ông dừng lại. hỏi người đó về đâu - câu trả lời là Nürnberg, tới chợ - nhưng khi xin được nhờ, người nông dân thẳng thừng từ chối. Có chỗ nào để ngồi giữa đống lợn thế này cơ chứ, ông ta , chỉ vào chỗ hàng chở.

      "Hai con giá bao nhiêu?" hỏi.

      Người nông dân ra giá và lấy số tiền tương ứng trao cho ông ta, rồi chậm rãi trèo lên chiếc xe bò. cố nâng con lợn lên nhưng đủ sức bèn gọi tôi và cả hai ta hợp lại đủ để làm việc đó. Ngay khi con lợn chạm chân xuống đất, nó vội rú lên eng éc và chạy biến vào rừng, và chúng ta lại cho con thứ hai kết cục tương tự. quay về phía người lái xe há hốc mồm và , "Giờ có chỗ cho chúng tôi rồi đấy."

      Người nông dân càu nhàu thừa nhận rằng ông ta nên làm thế. Tôi có thể thấy ông ta chẳng vui vẻ gì khi có bạn đồng hành là người, nhưng ông ta cũng thừa biết cho ông ta cứ thế lái mà bỏ chúng ta lại đâu. Vì ông ta nhận tiền rồi, tặc lưỡi đồng ý có vẻ dễ dàng hơn là tiếp tục tranh cãi.

      Những con lợn chen lấn nhau trong suốt chuyến , đâm bổ vào chúng ta với vẻ tò mò, dò la chúng ta với mấy cái mũi khụt khịt của chúng. Lúc đầu tôi còn cố xua chúng , nhưng những nỗ lực cuối cùng cũng nguội vì tôi nhận ra chúng chẳng còn chỗ nào để cả. Nếu tôi đẩy được con ra, ngay lập tức con khác nhảy vào thế chỗ. Chúng kêu eng éc liên tục nhưng tiếng ồn cũng chẳng là gì so với mùi hôi, và khi cuối cùng chúng ta cũng tới được ngoại ô Nürnberg, tôi tin chắc Chúa viện đến phân lợn để gửi thông điệp của Người.

      Người nông dân thả chúng ta xuống nhà trọ, tôi đoán có lẽ ông ta có thâm thù gì đó với người chủ. Chúng ta hiển nhiên là hai người lạ, lại bốc mùi, cố xin thuê phòng. Chủ nhà trọ có vẻ do dự, chẳng biết xử trí thế nào với người đàn ông bị bỏng và nữ tu cùng bầy gia súc, lại còn định thuê chung phòng nữa chứ. Nhưng dúi cho ông ta thêm ít tiền và tôi đề nghị cầu Chúa chúc phúc cho ông ta, đảm bảo với ông ta rằng dù trông tôi có thế nào Chúa cũng vẫn cứ nghe lời cầu nguyện của tôi như bình thường. Ông ta cuối cùng cũng dè dặt kiếm cho tôi và phòng cuối dãy, biệt lập khỏi những phòng trọ khác, và chúng ta chỉ được phép vào ở nếu chịu tắm rửa giặt giũ tại con suối gần đó trước.

      Chỉ có chiếc giường duy nhất trong phòng và điều này nhấn mạnh chuyện tôi cố gắng hết sức để nghĩ tới. Hiển nhiên là có tính nhục dục trong những cuộc trò chuyện giữa chúng ta tại Engelthal. Tôi biết tôi bỏ chỉ để sống như em , nhưng tôi chẳng biết chút gì về quan hệ nam nữ cả. Những gì tôi nghĩ hẳn lộ hết mặt. ra giữa phòng và trải vài mảnh vải ra, rằng quen nằm đất từ những ngày ở trong đội lính đánh thuê rồi. chẳng nhìn tôi lấy lần khi tôi cởi bộ đồ ướt nhoẹt của mình ra và trèo lên giường, và tôi vẫn luôn luôn ghi tâm tốt bụng đó của .

      Dù thực rất mệt mỏi, tôi vẫn tài nào ngủ được. Có lẽ nghe thấy tiếng chân tôi cứ cọ vào giường bồn chồn lo lắng, hoặc có thể là do hơi thở của tôi được thoải mái. Dù vì lý do gì nữa, sau vài phút gọi, "Marianne?"

      Tôi gần như hoảng sợ đến nỗi dám trả lời nhưng cuối cùng cũng đáp lại. "Vâng."

      " phải khởi đầu thực tốt đẹp, nhưng dù gì nữa nó vẫn là khởi đầu," . "Tôi hứa nó trở nên tốt đẹp hơn. Còn tối nay cứ ngủ và biết rằng em an toàn rồi."

      thể tưởng tượng được những lời đó làm tôi trấn tĩnh đến mức nào đâu, và để đáp lại, tôi làm điều tôi có thể. Tôi đưa cho sợi dây có mặt là đầu mũi tên - đủ can đảm để tự tay đeo nó vào cổ - và rằng cha Sunder ban phúc để nó luôn bảo vệ .

      "Thế tôi đeo nó mãi mãi, và đeo nó đầy kiêu hãnh," , "và tôi cám ơn em."

      Chúng ta ngủ cho tới tận tảng sáng hôm sau và quyết định ở lại thêm đêm nữa để hồi phục trước khi tiếp tục cuộc hành trình. Chúng ta phải tự quyết định tương lai của mình và thậm chí cả điều này cũng làm tôi lo sợ, vì chúng ta có thể tự do chọn lựa điều gì xảy ra tiếp theo trong cuộc đời mình. Tự do lựa chọn là việc thể làm từ khi gia nhập đội quân condotta, và là điều tôi chưa từng biết tới.

      Người chủ nhà trọ chuẩn bị bữa tối cho chúng ta và tôi thực ngạc nhiên khi thấy thức ăn có thể ngon đến thế. Hãy nhớ, các nữ tu luôn được dạy rằng khiêm tốn của họ được đo đếm bởi đạm bạc trong việc nấu nướng. và tôi chuyện luôn miệng khi ăn. Chúng ta đều muốn tới nơi nào đó rộng lớn chút, để hòa vào đám đông càng nhiều càng tốt, vì những lý do rất hiển nhiên. Hai thành phố lớn nhất vùng là Nürnberg, nhà trọ của chúng ta nằm ven nơi này, và Mainz. Có rất nhiều công trình được xây dựng tại Mainz, phần lớn là các nhà thờ mới, vì thế đó là điểm lợi cho chúng ta. Ngoài nghề cung thủ ra nghề duy nhất được đào tạo bài bản là thợ xây, thế nên đó là việc định làm để kiếm sống. chẳng dễ dàng gì, vì bỏ nghề hơn chục năm rồi và vẫn còn chưa hồi phục khỏi những vết bỏng, nhưng chúng ta chẳng còn lựa chọn nào tốt hơn cả. để dành được chút tiền từ hồi còn làm lính và huynh trưởng Heinrich cũng dúi vào tay tôi ít tiền trước khi chúng ta rời , vì thế chúng ta cũng có thể chống chọi được thời gian.

      lý do nữa cho việc chọn Mainz: nó có cân bằng lạ lùng giữa đời sống tâm linh và thế tục. Những cư dân ở đó giành được quyền tự bầu chính quyền của mình và tự điều hành các vấn đề tài chính, thay vì để cho Nhà thờ gánh toàn bộ trách nhiệm. Dù vị trí của tôi ở Engelthal chẳng quan trọng cho lắm, tôi vẫn cảm thấy khá hơn nếu chúng ta tới sống ở thành phố có chút tự trị. Nürnberg quá gần Engelthal cả về địa lý và lịch sử - xét cho cùng, chính từ Nürnberg mà Adelheit Rotter lãnh đạo những người Beguine thành lập tu viện đấy thôi.

      quyết định lựa chọn Mainz, giờ chúng ta phải tìm cách đến đó. Tôi thể xa hơn trong bộ quần áo nữ tu của mình, vì tôi lại có cảm giác mình lừa dối mọi người. Dù vẫn chưa biết phải gọi mình là gì, nhưng tôi cũng hiểu mình còn là nữ tu nữa. Chúng ta tìm được cửa hàng bán loại quần áo thịnh hành thời đó, và đó cũng là nơi tôi học thêm được về trang phục. Tôi thử chiếc áo choàng kiểu Pháp với ống tay áo rộng thùng thình, loại áo tôi được dạy là "cửa sổ dẫn tới Địa ngục" vì chúng cám dỗ đàn ông khám phá bên trong. Kiểu quần áo như thế dành cho tôi. Cuối cùng tôi quyết định mặc quần bó và chiếc áo thụng giản dị. Tôi gói mấy cái áo choàng nữ tu của mình rồi cất vào trong túi đeo vai thay vì ném chúng . Dù có muốn nữa, tôi cũng chẳng thể nào ném chúng như đống rác được.

      Chúng ta tiến vào Mainz từ hướng Đông, qua những cánh cổng mở ra phía sông Rhine. thể tưởng tượng nổi điều đó cuốn hút tôi đến thế nào đâu. Mọi người cứ hò hét ầm ĩ! Tôi biết cũng hẳn là thế, nhưng hãy nhớ rằng tôi sống cả đời trong tu viện. Chúng ta luồn qua đám đông gần chỗ những sạp bán thức ăn, và qua đám người say xỉn loạng choạng bước ra khỏi mấy quán rượu. Chẳng ai cúi chào tôi như cách họ luôn làm nếu tôi mặc áo choàng tu sĩ. Tôi chỉ là công dân khác mà thôi.

      Chúng ta tiến về phía khu dân nghèo của thành phố, tìm kiếm những chỗ trọ rẻ hết mức. Cuối cùng chúng ta cũng tìm được nhà trọ ở khu định cư cho người Do Thái đằng sau cửa hàng của cặp vợ chồng có tuổi. Họ hơi bối rối vì hiểu tại sao chúng ta lại muốn sống ở đó, vì người phụ nữ nhận ra ngay tôi là người theo Thiên Chúa giáo. Tôi đảm bảo với họ rằng tôi bao giờ muốn cải đạo, và thế là quá đủ. Tôi nghĩ chân thành của chúng ta là rất ràng và họ có thể thấy chúng ta chỉ là đôi trẻ . Chúng ta có thực như thế hay lại là chuyện hoàn toàn khác - tôi vẫn chưa chắc chắn lắm - nhưng ít nhất đó cũng là những gì chúng ta cho bà chủ nhà thấy. Chúng ta trả trước vài tháng tiền thuê nhà và họ thậm chí còn cho chúng ta ít bánh mì làm quà nữa.

      Chúng ta thám thính thành phố lúc, vì vẫn chưa thực sẵn sàng bắt tay vào công cuộc tìm việc. Tôi luôn chắp tay cầu nguyện trong suốt tuần đầu tiên, cầu mong chúng ta có tình cảm với thành phố này, và quan trọng hơn, cầu mong chúng ta tiếp tục có tình cảm với nhau. Mainz chỉ rộng độ đến hai kilomet, quá lớn, nhưng cũng phải có đến hai mươi nghìn dân. mật độ khá lớn vào thời đó. Có khu dân cư trung tâm với cái chợ ở góc Đông Bắc thành phố, và khi đến đó lần đầu tiên chúng ta lạc vào lễ hội sôi động chưa từng thấy. Tòa thị chính đặt ở đó, cùng với bệnh viện được dựng lên để tôn vinh các thánh thần, tôi từng gợi ý chuyển đến đó khi mới bị bỏng. Có vườn cây ăn quả ở góc phía Tây, và cả trại nuôi lợn do các tăng lữ dòng Antonite điều hành nữa. Vì lý do nào đó, họ tin rằng chăn lợn là bổ sung hoàn hảo cho việc chăm lo người ốm của mình.

      Số lượng các hội thánh ở Mainz quả là đáng ngạc nhiên. Có các tu sĩ dòng Franciscan, dòng Augustinian. Dòng Teutonic, dòng Carthusian, dòng Magdalen, và... tôi biết, nhiều đến nỗi thể nhớ nổi. Nhưng tôi hứng thú nhất với dòng Beguine, những nữ tu thực thụ mà chẳng cần theo hội thánh đặc thù nào. Cứ xem hoàn cảnh của tôi , có thể thấy tôi cảm thấy có gì đó rất gần gũi với họ - họ thực thuộc về Giáo hội nhưng cũng chẳng thuộc về giới trần tục. Họ dường như có mặt ở khắp nơi phố và điều đó làm tôi cảm thấy thoải mái hơn chút. Dù rời bỏ Engelthal, tôi hề có ý định rời bỏ Chúa.

      Thánh đường của thánh Martin vượt trội hơn hẳn những nhà thờ khác trong thành phố. Nó được xây dựng dưới chỉ đạo của Tổng giám mục Willigis vào khoảng năm 1000, vì ông cần nơi tôn nghiêm sau khi quyền được tấn phong tại Mainz của các vị vua Đức được củng cố. Nhưng ngay trước hôm chính thức khánh thành, nhà thờ thánh Martin bị cháy. Từ đó nó hình như trở nên khoái lửa, vì thực tế, đến khi chúng tôi tới bị lửa thiêu hai lần rồi. Tôi luôn nghĩ rằng chuyện ấy có gì đó rất hợp lý. Bị thiêu ba lần, hồi sinh ba lần.

      Nhà thờ thánh Martin mang vẻ đẹp diệu kỳ. Nó có những cánh cửa bằng đồng sáng loáng với bức tượng đẹp mê hồn tạc cảnh Chúa bị đóng đinh, có cả những cánh cửa sổ trang trí họa tiết gân lá khiến cả gian giữa thánh đường ngập tràn những sắc màu kỳ ảo trong những ngày nắng rực rỡ. Bục chính cho dàn đồng ca được đặt sau cánh ngang còn bục phụ đặt ở hướng Đông. Mộ của số vị Tổng giám mục như - Siegfreid von Epstein, tôi nghĩ thế, và Peter von Aspelt đặt tại đây. Trong thời gian chúng ta ở Mainz, nhà thờ còn được đặt thêm ngôi mộ của Tổng giám mục xứ Bucheck. Ta thể nào bước chân vào nơi đây mà cảm thấy sức nặng của lịch sử.

      Sau khi chúng ta kết thúc cuộc hành trình khám phá thành phố, liền bắt tay vào tìm việc. biết mình phải bắt đầu lại từ con số , nhưng luôn tin chắc mình có thể xoay xở tất cả. Mỗi buổi sáng dậy sớm để đến những nhà thờ xây dựng, và mỗi ngày đều bị bọn họ từ chối. Rồi bắt đầu đến những ngôi nhà tư nhân xây dựng dở dang, nhưng những công trình này cũng từ chối nốt. trở thành con chó săn ngộ nghĩnh nổi tiếng quanh khu công trình xây dựng, nhưng dù có làm gì nữa, cũng chẳng ai chịu nhận cả.

      Vấn đề đầu tiên là tại chịu dối. Khi những người quản lý hỏi kinh nghiệm, luôn thà rằng mình làm thợ xây thời gian rồi. Khi họ hỏi làm gì trong khoảng thời gian đó. trả lời rằng lính. Nếu bị vặn hỏi chính xác là kiểu lính nào, giữ im lặng. Nhưng lý do khiến bị từ chối, hết lần này đến lần khác, là vì những vết bỏng của . Chúng nhiều như bây giờ đâu, nhưng cứ thử hình dung ra độ mê tín ở cái thời đó biết. Ai biết người bị bỏng dính líu đến cái gì, đặc biệt là nếu ta chịu ra? Hẳn là ta làm chuyện gì đó rất xấu xa, hiển nhiên rồi.

      Đêm đêm lê bước về nhà, nhưng dừng lại chút trước cửa phòng chúng ta. rũ quần áo cho thẳng thớm, nắm chặt tay lại rồi xòe tay ra vài lần trước khi hắt ra nụ cười. Tôi biết điều này vì tôi thường nhìn qua ô cửa sổ . Trước khi bước vào, tôi chỉnh lại tư thế ngồi để thể biết là tôi chứng kiến cảnh ấy.

      Chuyện tôi khó thích nghi với cuộc sống mới lại khác. Tôi cảm thấy bị đè bẹp bởi sức nặng của tự do. còn phải cầu kinh theo lịch nữa, tôi đến thăm thú các nhà thờ trong vùng vào những lúc rảnh rỗi, nhưng cầu kinh khi đó rất khác vì tôi thực bị bắt buộc. Tôi bắt đầu tự học nấu nướng, điều tôi chưa từng làm khi còn ở tu viện. Tôi ngập trong rau xanh và hoa quả, nghĩ mình thể phạm sai sót, cho tới khi, sau vài tuần, thích món gì đó "có chất" hơn. Có nghĩa là món gì được nấu chín, món gì liên quan đến thịt thà ấy. Nấu chín quá, nấu chưa kỹ, kết hợp hoàn hảo cả hai trạng thái, tôi luôn phá hỏng hầu như tất cả mọi thứ tôi châm lửa vào. cười xòa trước những cố gắng của tôi, giấu những mẩu thức ăn thừa vào trong túi áo và rằng tôi ngày càng tiến bộ. lại đối xử tốt với tôi nữa rồi. Cuối cùng bà chủ nhà của chúng ta, người chịu nổi cái mùi phát ra từ trong bếp thêm chút nào nữa, chỉ cho tôi đủ ngón nghề để có thể tự xoay xở được.

      Nhưng nấu nướng còn khá dễ dàng nếu so với việc thực bổn phận của người . Chúa ơi, khủng khiếp! Nhưng lần nữa lại hết sức kiên nhẫn, ràng còn kiên nhẫn hơn cả những gì tôi có thể mong đợi nữa. Có lẽ phần là do những vết bỏng của ; vài đêm yếu đến nỗi chịu được việc bị đụng chạm nữa. trong sáng gì và tôi phải ngây thơ lắm mới tin vào điều ngược lại, nhưng chưa bao giờ xin lỗi việc mình gần gũi nhiều phụ nữ trước tôi. Trước và sau khi chúng ta gặp nhau là hai chuyện hoàn toàn khác, thế thôi. Cùng với việc tôi bỏ lại cuộc sống trước kia của mình ở phía sau, tôi phải chấp nhận rằng cũng có thể làm thế. Phần lớn thời gian việc đó cũng quá khó khăn, dù thỉnh thoảng tôi cũng phải tống ghen tuông của mình vào tủ quần áo những lúc để ý.

      Kinh nghiệm của trong chuyện tình dục thực có ích. Lạ lùng thay, đó cũng y hệt như chuyện tôi dành cả đời để cố gắng, nhưng thất bại, để có thể toàn tâm toàn ý với tình tâm linh. Tôi bao giờ phải dẫn lối chỉ đường, tôi chỉ cần nhận. mang đến cho tôi thứ cảm xúc xác thịt tôi chưa từng nghĩ mình có thể sở hữu. Tôi phát ra rằng tôi... Nhìn tôi này, bao nhiêu năm trôi qua, mà tôi vẫn còn đỏ cả mặt. Tôi vẫn thể về chuyện đó. Cứ cho là tôi luôn sống theo đúng lời thề của mình, nhưng sau vài tháng ở cùng tôi nhận ra cuộc đời đức hạnh hầu như chẳng phải cuộc sống đích thực.

      Dù sao, tôi cũng thích nghi được với cuộc sống ngoài tu viện. Tôi vẫn đến nhà thờ thánh Martin nhưng chẳng mấy chốc tôi chuyển sang cầu nguyện cho sức khỏe của và mong chóng tìm được việc làm, nghĩa là giờ đây tôi cầu nguyện cho những gì tôi mong xảy ra chứ phải cho những gì Chúa mang lại. Ngoài nhà thờ, tôi bắt chuyện với mấy Beguine phố và kết bạn được với vài người.

      Giáo hội về cơ bản coi việc mấy kẻ vô danh tiểu tốt cứ đòi xía vào việc của Chúa là hợp tí nào, nhưng tôi thấy thế. Những người Beguine làm việc phố và thực đúng lời thề sống trong nghèo khó của họ; họ hoàn toàn tương phản với những người sống trong nhà thờ, vì tôi phát ra rằng phần lớn các linh mục đều xứng đáng và thậm chí có người còn biển thủ của công nữa. Người Beguine tự cung tự cấp bằng những đồ thủ công và những công việc trong bệnh viện, bằng lòng với những món tiền người dân tự nguyện quyên góp, thay vì áp chế thuế má bắt buộc. Hằng đêm họ quay trở lại nghỉ tại dãy nhà của mình để lại bắt đầu quy trình vào sáng hôm sau, và thành tâm của họ có gì phải bàn cãi. Chẳng bao lâu sau tôi nhận ra rằng lý do chính để Giáo hội chống lại người Beguine là vì những kẻ vô danh tiểu tốt này biến Giáo hội thành kẻ xấu.

      Những người Beguine thể hiểu tôi là ai. Tôi có thể hàng giờ về Kinh Thánh và tôi có thể đọc được cả tiếng Latin lẫn tiếng Đức. Tôi học tất cả sách của các học giả và chuyên gia. Tôi biết về Mechthild von Magdeburg, nữ tu sĩ có tầm ảnh hưởng lớn tới những người Beguine, và tôi cũng chẳng lạ gì kiệt tác của bà, Ánh sáng rực rỡ dịu dàng của Chúa Thánh Thần. Tôi biết tất cả những thứ này nhưng tôi thể - bao giờ - cho họ biết là bằng cách nào và tại sao. Tôi gây ấn tượng tốt nhưng lại rất khó hiểu. Cái họ quan tâm nhất, tuy thế, lại là tri thức khổng lồ của tôi về việc làm sách. Tôi biết nhiều hơn cả các chuyên gia của họ, những người soạn những cuốn Kinh Thánh cho dân nghèo được họ phân phát khắp nẻo đường góc phố.

      Mùa đông đến gần: vẫn chưa tìm được việc làm, và những lời từ chối liên tục thành gánh nặng vai . Những người quản lý thi công ngày trở nên thù địch với mỗi chuyến viếng thăm của , và hằng đêm lại lê bước về nhà với vẻ mệt mỏi hơn. bắt đầu cằn nhằn bản thân vì đủ khả năng để "làm chuyện bất cứ người đàn ông tử tế nào cũng phải làm được". Tôi lại được thêm bài học nữa về thế giới bên ngoài, bài học về lòng kiêu hãnh đàn ông. Tôi muốn giúp nhưng mọi gợi ý đều chỉ làm giận dữ. Dù biết giận dữ với chính bản thân mình chứ phải với tôi, tôi vẫn thấy mọi việc dễ dàng hơn chút nào.

      trở ngại lớn khác là có giấy tờ tùy thân, lẽ ra là thứ phải có với bất cứ người thợ nào ở tuổi . Đó phải lỗi của , đâu có dự liệu chuyện cả cha lẫn mẹ đều mất khi còn đâu, nhưng như thế cũng chẳng giải quyết được vấn đề. Vấn đề nằm ở chỗ đó. Hội thợ nề rất cứng rắn và chỉ đơn giản là đáp ứng được những cầu của họ. Phải làm cái gì đó, và phải nhanh chóng, vì chỗ tiền tiết kiệm của chúng tôi chẳng thể nào tồn tại mãi được.

      Thế là tôi ra hai quyết định, và tôi chẳng quyết định nào cho cả. Điều đầu tiên tôi làm là đề nghị được giúp đỡ những người Beguine. phải với tư cách thành viên, mà là với tư cách lao động tự do.

      Việc soạn Kinh Thánh cho dân nghèo của họ cũng phức tạp gì, chỉ là những tấm gỗ có in tranh và chữ, nhưng tôi vẫn thấy nó rất ấn tượng. Rất ít người biết đọc nên tranh ảnh là phương thức duy nhất để truyền tải những câu chuyện tôn giáo đến với quần chúng nhân dân. Những câu chuyện trong Kinh Cựu ước và Kinh Tân ước được đặt cạnh nhau để người đọc có thể nghiền ngẫm mối liên hệ giữa chúng: thay vì coi khinh người đọc, những người Beguine cố gắng lôi kéo họ vào công cuộc suy nghĩ tìm hiểu tác phẩm. Tuy nhiên, tôi biết mình vẫn có thể cải thiện chất lượng bản thảo và gợi ý phối hợp số cảnh thích hợp hơn. Những người Beguine xuôi theo ngay, vì thế tôi cung cấp số bản mẫu và họ phải công nhận rằng tôi có thể làm được. Khi họ tiếp tục cảnh giác khi cho người ngoại đạo tham gia vào công việc của mình, tôi quyết định đây là lúc phải với họ về cuộc sống của tôi khi ở Engelthal.

      Biết được điều này, họ vẫn chưa thể đưa tôi vào hàng ngũ của mình cách nhanh chóng được. Họ thẳng ra, dĩ nhiên, nhưng có lẽ họ nghĩ nếu họ từ chối tôi, có lẽ chút nào đó của Engelthal tan biến theo. Dù có khả năng trả công cho tôi, họ vẫn tặng bánh mì và củ cải thay thế. Viêc này thực làm mọi chuyện trở nên dễ dàng hơn vì khi trở về sau chuyến săn việc tôi có thể với , cách thành , rằng chỗ thức ăn đó là đồ cứu tế nhân đạo. Tôi phải rằng tôi có việc làm trong khi .

      Việc thứ hai tôi làm, tôi chưa bao giờ với cho đến tận bây giờ. Hãy nhớ rằng đó là chuyện từ rất lâu rồi, và tôi mong tha thứ cho tôi.

      buổi sáng nọ, thức dậy chuẩn bị cho chuyến tìm việc thường nhật của mình. Tôi vô tư hỏi rằng định đến những nhà thờ nào, bảo bắt đầu với nhà thờ thánh Christoph rồi tới nhà thờ Poor Clares và nhà thờ thánh Quintin. Sau đó , thực cũng biết.

      Khi ra khỏi cửa, gót chân lê nặng nhọc nền đá, tôi mặc chiếc áo choàng nữ tu lần đầu tiên kể từ khi rời khỏi Engelthal. Tôi đến nhà thờ thánh Quintin, biết rằng phải lúc lâu nữa mới đến đó.

      "Đây nhà thờ rất đẹp," tôi với người quản lý công trình. "Gian trung tâm có vẻ khá thấp còn lối giữa các hàng ghế lại rất cao. hiệu ứng thú vị."

      Ông ta cảm ơn tôi, nhưng cũng thừa biết rằng tôi đến đó phải chỉ để về kiến trúc. Khá nhã nhặn - vì ai lại muốn sỉ nhục nữ tu cơ chứ? - ông ta hỏi lý do thực của chuyến viếng thăm này là gì. Tôi đến đây vì người bạn, tôi trả lời, người đàn ông rất cần việc. người đàn ông đầy vết bỏng. Người quản lý đảo mắt trả lời, vâng, người đàn ông như thế ngày nào cũng mò đến đây ăn vạ, thứ lỗi cho cách dùng từ của ông ta, nhưng họ có đủ công nhân rồi. Hơn nữa, vẻ ngoài của người đó làm những công nhân khác sợ chết khiếp.

      Tôi dùng giọng ngọt như mía lùi của mình, giọng tôi đặc biệt dùng khi về Chúa. "Nhưng chắc chắn con người thể chỉ được đánh giá bởi vẻ bề ngoài đâu. Tôi biết rằng người đàn ông này có cả trái tim tuyệt vời lẫn kinh nghiệm làm thợ nề."

      Người quản lý trả lời, lại rất nhã nhặn, rằng kinh nghiệm làm việc của dường như bị gián đoạn trong nhiều năm khi làm loại lính gì đó, người lính đánh thuê nếu ông ta nhầm.

      Tôi xác nhận cũng phủ nhận hoài nghi của người quản lý công trình nhưng tôi bóng gió, cách khá bí , "Có những người lính chiến đấu nhân danh Chúa, làm những việc rất cần thiết nhưng bao giờ khoe khoang nơi công cộng. Thế tôi muốn hỏi ngài lần nữa, để xây dựng nhà thờ to đẹp thế này, chắc chắn phải có chỗ cho công nhân nữa chứ? Thậm chí cả với những người có lỗ hổng trong tiểu sử chứ? Bản thân tôi có thể đảm bảo cho nhân cách của ấy."

      Ông ta nhìn tôi từ đầu đến chân và hỏi, chính xác là, tôi từ đâu đến vậy. Tôi trả lời rằng tôi đến từ Engelthal, hề là tôi còn là nữ tu tại đó nữa. Tôi biết người này có bị ấn tượng bởi việc đó . Ông ta hẳn có nghe về Engelthal, vì cuối cùng ông ta cũng gật đầu. Ông ta cân nhắc xem có giúp được gì nhưng cũng thêm rằng mình thể hứa chắc điều gì.

      "Tôi thực cám ơn quan tâm của ngài. Trong trường hợp ngài tìm được chỗ cho ấy xin đừng với ấy rằng tôi đến đây. ấy là người có lòng tự trọng cao và rất tốt nếu để ấy tin rằng bền bỉ của mình được đền đáp." Tôi cúi đầu chào, và để cho chắc chắn, thêm với người quản lý xây dựng rằng tôi cầu nguyện cho ông ta.

      Sau khi thay quần áo bình thường, tôi thẳng tới thánh đường thánh Martin. phải để cầu nguyện cho linh hồn người quản lý, như tôi , mà cho chính bản thân tôi. Chuyện tôi giả dạng với bộ quần áo của Giáo hội làm tôi phát buồn nôn. Khi rời thánh đường, tôi hề có cảm giác mình được tha thứ. Tôi cầu xin dấu hiệu, nhưng chẳng có gì xuất cả.

      Cho tới buổi tối hôm ấy, khi bước qua ngưỡng cửa kiệt quệ nhưng miệng nở nụ cười và người đầy bụi đất. "Hôm nay người quản lý nhận tôi rồi."

      Sau nhiều tuần tạo được ấn tượng tốt ở nơi làm việc. Khi công việc ở nhà thờ thánh Quintin xong xuôi, người quản lý giới thiệu tới nhà thờ thánh Stephan. Suốt mùa đông mọi chuyện cứ thế diễn ra, chuyển chỗ làm hết từ nhà thờ này tới nhà thờ khác. có chút danh tiếng và cũng kết bạn được với vài người, và hằng ngày đều vui mừng khôn xiết mang vốc tiền đầy về nhà. Tôi đun nước và đổ thùng đầy để tắm rửa cho . vẫn còn nhiều sẹo và các cơ vẫn còn khá cứng, tôi xoa bóp cho đến khi các khớp xương của trở nên mềm dẻo. Công việc rất nặng nhọc với bất cứ ai, nhưng những thương tích của khiến nó còn nặng nhọc gấp đôi. Tuy thế, mỗi ngày cũng trở nên khỏe mạnh hơn. Tôi luôn cố gắng cho ăn tất cả những gì chúng ta có, thông thường chỉ là củ cải và bánh mì đen, những miếng thịt lườn rẻ tiền, và tất cả những gì tôi bí mật đem về từ chỗ những người Beguine.

      Chúng ta luôn có vừa đủ tiền để tiếp tục ở trọ. Bà chủ nhà vẫn luôn dạy tôi cách nấu nướng và còn giới thiệu tôi với số người bạn của bà nữa. Cũng phải mất thời gian họ mới chấp nhận tôi, vì những mối liên hệ với người Thiên Chúa luôn gây rắc rối cho những người Do Thái sống ở Mainz - người ta vẫn nhắc đến cuộc thảm sát người Do Thái trong cuộc Thập tự chinh thứ nhất của Emich, và chuyện tổng giám mục từng cố đuổi tất cả những người Do Thái ra khỏi thành phố. Nhưng vì họ đều sống và kinh doanh trong cùng thành phố, việc tránh mặt mọi loại người là thể. Tôi nghĩ họ quyết định rằng vì tôi chưa bao giờ quá câu nệ chuyện tôn giáo với họ, họ có thể chấp nhận tôi với tư cách công dân bình thường.

      Thế là bây giờ tôi quen biết vài người Do Thái cùng mấy cộng người Beguine, và cũng có đồng nghiệp ở khắp các công trình trong thành phố. Tôi ngừng cầu nguyện để xin dấu hiệu cho thấy tôi đúng khi rời Engelthal. Tôi biết mình có dấu hiệu đó rồi.

      Vào mùa xuân, người bạn thợ đá của đưa ra lời đề nghị bất thường và đáng ngạc nhiên. ta "quá chán ngán cái việc gõ đầu lũ trẻ ranh ngu ngốc rồi" và muốn có bạn đồng hành. Nếu phiền mức giá hơi thấp, ta xin Hội Thợ đá ngoại lệ đặc biệt để nhận làm thợ học việc. ta cảnh báo rằng dễ dàng gì và thu nhập của giảm sút nghiêm trọng, nhưng cuối cùng có được giấy tờ tùy thân. Chúng ta chỉ bàn bạc vài phút trước khi quyết định rằng lời đề nghị như thế bao giờ có lại lần hai. Có chút khó khăn trong việc thuyết phục Hội Thợ đá nhưng cuối cùng họ cũng đồng ý, và trở thành người thợ học việc lớn tuổi nhất thành Mainz như vậy đấy.

      ngập chìm trong công việc, đến sớm về muộn. làm tất cả những gì được nhờ, bao giờ phàn nàn, và cẩn thận chú ý tới tất cả những lời chỉ dẫn. Việc cảm quan bẩm sinh với đá bị bỏ phí. Những bài học của từ cha cũng bị mai theo thời gian.

      Niềm tin vào tương lai tốt đẹp hơn món quà kỳ diệu. Chúng ta vẫn chưa có tiền, nhưng chúng ta cũng bắt đầu về việc tìm nơi ở mới. " ngôi nhà , có lẽ thế." Niềm tin cho chúng ta cái cớ để mơ mộng và giấc mơ là thứ rất cần thiết vì thu nhập giảm sút ảnh hưởng tới mọi mặt đời sống của chúng ta, ràng nhất là trong khẩu phần ăn hằng ngày. Nếu có mấy món "từ thiện" từ những người Beguine, có lẽ chúng ta thể qua khỏi.

      Dù bụng trống rỗng, chúng ta vẫn khắp thành phố và chỉ trỏ vào những ngôi nhà thuộc về chúng ta. ngày nào đó.

      "Và khi chúng ta có nhà," , "tôi xin em cho tôi vinh hạnh được lấy em làm vợ."
      Hyunnie0302Jenny Nguyen thích bài này.

    4. thuytinhtim_1102

      thuytinhtim_1102 Well-Known Member

      Bài viết:
      1,916
      Được thích:
      3,133
      Chương 20
      Quá khứ của chúng tôi dừng tại đây.

      Khi tôi nài nỉ hỏi khi nào chúng tôi cưới, Marianne Engel , " phải đợi thôi."

      * * *

      Tôi quay lại bệnh viện để thực thêm mấy cuộc phẫu thuật tái tạo. Cho tới lúc này, đó hầu hết là những ca phẫu thuật chỉnh hình: những nỗ lực để khiến tôi trông, thay vì hoạt động, tử tế hơn. Tôi hỏi Nan những cuộc phẫu thuật phục hồi diện mạo của tôi còn kéo dài đến bao giờ nữa, bà bảo biết. Tôi hỏi cuối cùng trông tôi khá hơn đến mức nào, và bà trả lời chuyện đó còn tùy vào mỗi bệnh nhân.

      Tôi luôn luôn cảm thấy rằng, dù Marianne Engel có quan tâm đến tôi thế nào nữa, những lúc tôi vắng mặt khỏi pháo đài là thời gian có thể làm việc mà bị gián đoạn. Việc tôi taxi về nhà sau vài ngày nằm viện và thấy kiệt sức nằm dài giường, người vẫn bám đầy bụi đất cũng chẳng còn bất thường nữa, và tôi hé nhìn vào xưởng ở tầng hầm để thấy con quái vật mới gian giảo giương mắt nhìn tôi. Rồi tôi kiểm tra cái bát nước uống và thức ăn tôi để dành cho Bougatsa trước khi rời nhà và chúng luôn luôn sạch trơn; tôi ngờ rằng nó nuốt hết tất cả mọi thứ ngay cái giây phút tôi bước chân ra khỏi cửa rồi, nhưng tôi chẳng thể làm được gì hơn. chung , những chuyến khám bệnh cũng có cái lợi, vì việc tạc tượng trong thời gian tôi vắng có nghĩa là chúng tôi có nhiều gian cho nhau hơn khi tôi quay về.

      Nhưng vẫn có những lúc phải tạc tượng còn tôi vào viện, và tôi dần biết tự chăm sóc bản thân - và hơn. Dù cố ngơi tay để tắm cho tôi, tôi có thể thấy rất khó chịu: đục đẽo bức tượng sâu bao nhiêu, cọ người tôi mạnh bấy nhiêu. Khi xong việc, lại quay về tầng hầm và tôi mang thức ăn đến cho . " biết đấy, có thể tạc tốt hơn - và nhanh hơn - nếu thỉnh thoảng chịu ăn chút gì đó."

      " phải chỉ có mỗi chuyện giải thoát gargoyle đâu. Tôi còn phải trui rèn tinh thần của mình nữa."

      "Thế nghĩa là sao?"

      "Thế giới trần tục ru ngủ cơ thể bằng đồ ăn và vật chất tiện nghi," . "Chúng làm cơ thể thỏa mãn nhưng lại là kẻ thù của tinh thần. Kiêng khem là cái cương giúp tinh thần có cơ hội thắng thế trong cuộc tranh đấu có điểm dừng với cơ thể."

      Lại cuộc tranh luận mà logic chỉ là kẻ lạ mặt; vì thế, đó lại là cuộc tranh luận khác mà tôi chắc chắn thua. Thế là tôi đổ gạt tàn thuốc lá của , rót đầy chai nước, và để lại đĩa hoa quả bổ sẵn mà tôi biết vẫn nằm chỏng chơ khi tôi xuống lần tới.

      cuồng nhiệt của Marianne Engel luôn luôn tàn dần rồi lụi hẳn vài ngày sau. xin lỗi cho quãng thời gian ở bên tôi, nhưng tôi biết là mình cũng chẳng có gì đáng phàn nàn, cách thực tâm, vì nhiều nhất mỗi tháng thường cũng chỉ có - hai đợt làm việc như thế này. Nó thanh toán cho đủ mọi thứ, bao gồm cả các hóa đơn của tôi nữa, và tất cả thời gian còn lại của là dành cho tôi: bất cứ ai có người vợ phải làm việc công sở từ chín giờ sáng đến năm giờ chiều cũng bảo tôi im cái miệng hay lèo nhèo .

      Thêm vào đó, mỗi đợt làm việc của còn là cơ hội tuyệt vời để tôi gọi cho bạn bè cũ và sắp xếp mua thêm morphine bằng thẻ tín dụng của tôi.

      Mọi người trong siêu thị cố nhìn chúng tôi, nhưng thể. Marianne Engel vẫy tay chào bà lão mồm há hốc chạy vội như vừa bị bắt quả tang làm điều gì đó thiếu đạo đức lắm, nhưng vẫn thể cố ngoái đầu lại tới hai lần.

      Về mặt lý trí tôi có thể thông cảm với những biểu thái quá dành cho tôi, nhưng về mặt tình cảm tôi lại ghét điều đó vô cùng. Tôi chẳng còn là kẻ mờ nhạt, vì tôi giờ trở nên nổi bật theo đúng nghĩa đen của từ này rồi. Việc mặt tôi bị giấu sau lớp mặt nạ thủy tinh dẻo và những bộ quần áo tạo áp suất chỉ làm tôi, theo cách nào đó, càng thêm "hấp dẫn" mà thôi. Như trong bất cứ bộ phim kinh dị chất lượng nào, điều bạn phải tưởng tượng luôn luôn đáng sợ hơn những gì bạn thực thấy.

      Tôi nghe thấy tiếng bà mẹ ở lối số tám bảo con mình đừng nhìn. Cậu bé, năm hay sáu gì đấy, nấp cái thân thể bé của mình vào chân mẹ cho an toàn nhưng mắt vẫn rời khỏi tôi. Người mẹ , "Tôi xin lỗi. Nó, ừm, tò mò và, à, rất thân thiện..."

      "Chị nên xin lỗi vì việc đó! Thân thiện mấy cũng thừa mà!" Marianne Engel cúi xuống để nhìn thẳng vào mắt cậu bé. "Cháu dễ thương quá. Cháu tên gì vậy?"

      "Billy."

      "Có phải đó là tên gọi tắt của William ?"

      "Vâng."

      "Đó là cái tên rất hay." Marianne Engel hất đầu về hướng tôi đứng. "William, cháu có nghĩ bạn trông đáng sợ ?"

      " chút," Billy thầm.

      "Chú ấy thực tệ đến thế đâu, khi cháu làm thân với chú ấy."

      Tôi biết Marianne Engel làm cho ai cảm thấy bất tiện - Billy, mẹ của Billy, hay là tôi - thế là tôi rằng chúng tôi cần phải tiếp. Tôi quên mất ảnh hưởng của giọng như cóc kêu của tôi với những người mới nghe lần đầu. Sau khi Billy giật lùi lại phía sau, cậu bé hỏi với giọng pha lẫn tò mò và sợ sệt. "Có chuyện gì với chú vậy ạ?"

      Người mẹ mắng cậu bé, giải thích với cậu ta rằng câu hỏi đó lịch chút nào. Tôi phẩy tay cho qua, nhưng Marianne Engel lại hỏi xem chị ta có tò mò chút nào về chuyện đấy . Mẹ Billy lúng búng trong miệng trước khi nhả ra hai từ "Ờ, có..."

      "Dĩ nhiên là có rồi. Nhìn cậu bé ! William chỉ hỏi câu mà tất cả mọi người ở đây nghĩ trong đầu mà thôi." Marianne Engel xoa đầu cậu bé, để nó biết rằng mọi người hề chỉ trích nó.

      "Nó mới nhà trẻ thôi," người mẹ .

      "Tôi bị bỏng trong vụ cháy." Tôi chỉ muốn cuộc chuyện kết thúc cho nhanh để chúng tôi tiếp, nhưng Billy lại hỏi thêm câu nữa: "Thế có đau ạ?"

      "Có." Tôi cố kìm nén ham muốn tự nhiên là cảnh báo cậu bé đừng có dại mà nghịch diêm. "Chú nằm viện thời gian dài."

      "Oài," Billy , "chắc chú rất vui khi phải ở đó nữa."

      Bà mẹ kéo tay con mạnh đến nỗi cậu bé thể lờ mẹ mình được nữa. "Chúng tôi thực phải rồi." Chị ta hề nhìn lại, nhưng Billy quay lại vẫy tay với chúng tôi trong lúc mẹ nó kéo nó xuống lối .

      Khi chúng tôi rời siêu thị, Marianne Engel dốc toàn bộ số tiền thừa của vào tay những người ăn xin dật dờ gần đó. Suốt dọc đường toàn về những bức tượng dang dở trong xưởng của mình vì, hiển nhiên rồi, Ba Vị Chủ Nhân của gần đây lại mới thông báo rằng cần phải hoàn thành chúng.

      Tôi rất bình thường cho tới khi chúng tôi ra được chỗ ô tô, nhưng trong khi lên xe, tôi quệt mạnh cả mảng lớn da bỏng vào cửa hành khách. Cơ thể tôi ngay lập tức phản ứng với sai lầm bằng việc truyền những cơn co giật đau điếng người từ bó dây thần kinh này đến bó dây thần kinh khác, và con rắn cái trong xương sống bắt đầu đớp lấy phần sau xương sọ của tôi như thể nó là con chuột đồng chỉ chực bị nuốt chửng. MẸ KIẾP! MẸ KIẾP! MẸ KIẾP! Tay tôi bắt đầu run lẩy bẩy vì đói morphine khẩn cấp và tôi khẩn khoản xin Marianne Engel tiêm cho tôi liều càng nhanh càng tốt. lấy dụng cụ ra khỏi hộp đồ nghề của tôi (tôi bao giờ rời nhà mà thiếu nó cả) và đâm kim tiêm vào người tôi.

      Morphine như kẻ quá khích đường thực nhiệm vụ; nó len vào mọi ngóc ngách trong cơ thể để chuyển hóa, mang đến những giấc mơ tẩm sữa-và-mật ong chậm chạp chảy qua mạch máu bạn. Con rắn trở nên lờ đờ trong dòng sữa ngọt và từ từ rơi vào trạng thái bất động, nhưng tôi biết mụ ta trở lại. Con rắn đó luôn luôn trở lại.

      Lần cuối cùng máu tôi sạch trong, nhiễm trùng là khi nào nhỉ? Hồi tôi ngoài hai mươi chăng, tôi nghĩ thế.

      Marianne Engel suốt mấy ngày liền cứ lại lại trong nhà với cốc cà phê và điếu thuốc lá, xỉ vả bản thân vì thể tẩy trần cái dụng cụ là cơ thể và nhận được những chỉ dẫn mới. Cuối cùng cũng chấp nhận rằng đến lúc phải hoàn thành những bức tượng dang dở chật cứng trong xưởng của mình. " thể bỏ mãi được, tôi nghĩ vậy. Những Chủ Nhân thế."

      Khi tạc những bức tượng này, bị ám bởi những nguồn năng lượng ma quỷ như khi tạc bức tượng từ đầu. lên cầu thang để giúp tôi tập luyện hoặc dạo với Bougatsa. Khi tắm cho tôi vào buổi sáng, tôi cũng cảm thấy mình là kẻ quấy rầy công việc chính của . khác biệt, giải thích, đến từ bản thân mà là từ những bức tượng kinh dị. bị ngừng tạc lần rồi, chúng giờ cũng hiểu rằng chúng có nhiều thời gian hơn chúng vẫn tưởng. "Chúng hiểu được dù tôi làm gì với chúng, chúng cũng vẫn là đá thôi. Chúng biết mình cần phải gào thét với tôi để có được cái mình muốn."

      Vài tuần sau, hoàn chỉnh được vài tác phẩm còn dang dở của mình. Đầu con chim, trước đây được đặt chễm chệ đôi vai người mà phần dưới vẫn chưa hề được động chạm đến, giờ được cho thêm cái thân người và hai chân sau của con dê. Con quái vật biển cố vùng vẫy khỏi đại dương đá granite có phần thân còn lại và những ngọn sóng bạc đầu. Xe tải thi nhau mang chúng đến triển lãm của Jack để bán, vì thuốc lá và quần áo tạo áp suất thể tự trả tiền cho mình được.

      Khá bất ngờ khi sau vài tuần, Marianne Engel đề nghị tôi theo vào xưởng, khu vực trong nhà ràng rất riêng tư của . loanh quanh lúc, gì cả, nhìn tôi, cố hết sức để ra vẻ bình thường. Điều này thực đối lập với những lúc tôi thấy chìm đắm vào công việc. lấy cái chổi và quét vài cục đá vào trong góc nhà, rồi lúng búng, "Tôi mong tức giận."

      tới khối đá được phủ vải trắng. Tôi để mắt đến nó; giữa đống tượng kỳ cục của , giấu tác phẩm nghệ thuật cho tới khi nó được hoàn thành cũng là việc bình thường. Tôi có thể thấy vật giống như người dưới lớp vải, nó làm tôi nghĩ đến hình ảnh đứa trẻ hóa trang thành ma trong lễ hội Halloween. Khi giật mảnh vải che ra, , "Tôi tạc tượng ."

      bức tượng về tôi mới hoàn thành nửa. , phải nửa - chính xác hơn, đó chỉ là những đường nét cơ thể tôi mà thôi. Chưa có chi tiết nào được đục đẽo cả, nhưng cũng thể mơ hồ nhận ra dáng hình tôi: hai vai khom xuống y như người ; cột sống cong vẹo hình con rắn, cái đầu nhìn rất chuẩn, trong sai khác về tỷ lệ với những phần còn lại của cơ thể. Giống như soi gương vào buổi sáng, trước khi tỉnh táo mở mắt vậy. Tôi lắp bắp tôi hề tức giận khi tạc tượng tôi, nhưng cảm thấy khá bối rối. Tại sao?

      "Chúa truyền đạt ý chỉ của mình qua tôi," nghiêm túc , rồi bật cười để tôi biết rằng đùa. Tôi cũng cười theo, nhưng có vẻ thuyết phục cho lắm.

      "Tôi muốn ngồi làm mẫu cho tôi, nhưng hãy nghĩ kỹ trước khi chấp nhận," , chỉ vào những gargoyle chưa hoàn thành nằm ngổn ngang quanh mình. "Tôi muốn phải chịu chung số phận với những cái này."

      Tôi gật đầu - để rằng tôi suy nghĩ về chuyện đó, chứ phải tôi đồng ý - và chúng tôi lại lên cầu thang. Tôi cố tập trung bước với dáng chuẩn, nhưng khi tôi ngoái nhìn bức tượng đá trong góc nhà, tôi thể nghĩ rằng mình thực cần phải chỉnh tư thế tử tế.

      Jack đâm sầm qua cửa chính, lặc lè dưới sức nặng của thứ um tùm lá, bà ném thẳng nó vào góc trong phòng khách. "Lần cuối cùng đến đây, tôi thấy mấy người chẳng có cây cối gì cả. Chẳng có cái gì là sinh vật sống ở đây à?" Jack nhìn tôi, rồi thêm, "Lạy Chúa, trông vẫn chưa khá lên được chút nào à?" Bà hướng ngay quan tâm của mình về phía Marianne Engel, vốn vui thích nhìn cảnh bà vào. " nữa, tôi tìm được vài mối lẻ muốn mua các tác phẩm độc đáo rồi. Họ chẳng thích tác phẩm nào bày ngoài cửa hàng cả, vì thế họ muốn biết liệu sáng tác cái gì đó mới . Tôi với họ là luôn luôn tạo ra những thứ mới mẻ."

      "Nhà tử tế chứ?" hỏi.

      "Phải, họ đều là những gia đình tử tế. Tôi luôn luôn tìm những nhà tử tế, và lũ quái vật của được chăm sóc rất cẩn thận. Dù chúng chỉ là mấy cục đá vớ vẩn. biết thừa chứ nhỉ, có phải vậy ? Ồ, và đại học Princeton có mấy chỗ cần sửa chữa."

      Marianne Engel lắc đầu. "Giờ tôi có hứng thú ngay."

      "Phải rồi. Bận rộn chăm sóc Khoai Tây Chiên quá mà," Jack . "Chúa ơi. Marianne, đó là khoản lớn và để nó tuột khỏi tay đấy. Khi nghệ thuật gặp từ thiện, nó bị định sẵn là trở thành thứ ra gì mà."

      Marianne Engel ôm Jack chặt, vài lời bào chữa cho tôi, nhưng chủ yếu chỉ cười khúc khích trước cơn thịnh nộ của Jack. Điều này chỉ làm Jack thêm tức giận. "Nhớ lúc mang Bougatsa về chứ?" bà . "Nó cũng chỉ là kẻ đầu đường xó chợ thôi."

      Trong cái kiếp trước được cho là của chúng tôi ấy, tôi tạc tặng Marianne Engel bức tượng thiên thần - nó vẫn giá sách của - trong khi ở kiếp này tạc tặng tôi bức tượng quỷ. tương xứng có vẻ khá giống với đảo lộn trong công việc của chúng tôi: thời đó, là người làm việc với sách vở còn tôi làm việc với đất đá.

      Lời nhận xét đó có vẻ khá hàn lâm, tôi nghĩ thế, nhưng phản ứng của tôi về chuyện tạc tượng mình hoàn toàn mang tính bản năng. Được nghệ sĩ tạc tượng quả rất đáng phổng mũi, dĩ nhiên, nhưng nó cũng làm tôi cảm thấy xấu hổ khi nghĩ rằng hình dáng xấu xí của mình mãi mãi bị lưu lại. Lần đầu tiên, tôi hiểu được cảm giác sợ hãi của người man di, rằng những chiếc máy quay giam cầm cả linh hồn lẫn hình ảnh họ.

      "Làm thế nào vậy?" tôi hỏi. "Tôi phải làm gì?"

      " phải làm gì cả," trả lời. " chỉ phải ngồi ở đó thôi."

      Câu trả lời làm tôi nhớ tới cuộc chuyện giữa chúng tôi sau khi bắt tôi xin lỗi Sayuri, khi tôi " phải làm gì" để chứng tỏ tình của mình với . Tôi hiểu muốn gì, nhưng nếu đây là những gì muốn , làm sao tôi có thể từ chối được? "Được thôi, tôi làm."

      "Tạc tượng từ chính cuộc sống để đổi gió cũng hay lắm," . "Cuối cùng tôi cũng có thể đưa những đường nét vào trong đá, thay vì kéo nó ra."

      bắt đầu cởi quần áo ra và tôi hỏi làm gì. vẫn luôn tạc tượng trong bộ dạng này, , và cũng có ý định thay đổi thói quen đó lúc này; tôi có khó chịu với việc đó ? Tôi bảo khó chịu gì hết, nhưng tôi thực cũng chắc lắm. Có gì đó trong cảnh ở trần tác động đến tôi, diễn viên phim cấp ba kiêm kẻ quyến rũ phụ nữ khét tiếng giải nghệ, theo cách chính tôi cũng thể lý giải nổi. Có gì đó rất nguyên thủy và quyến rũ trong cái vẻ trần trụi của ...

      Nhưng tôi thể bắt phải làm gì trong nhà được. Ngay khi trút bỏ quần áo, tháo bộ đồ tạo áp suất ra khỏi người tôi và lướt ngón tay lên những nếp gấp khuôn mặt đầy vết bỏng của tôi, như thể những ngón tay của cố ghi nhớ con đường. "Tôi màu đỏ của những vết sẹo của . có biết rằng hồi xưa những gargoyle thường được sơn màu sắc rực rỡ để làm nổi bật những đường nét của chúng ?"

      về phía bức tượng và lướt ngón tay lên đó, đúng cái cách làm với tôi mấy phút trước. Nhìn những ngón tay chuyển động, tôi hình dung ra cảnh dòng sông dịu dàng chảy qua tảng đá trong hàng ngàn năm. chỉ vào những nét chạm khắc sâu hoắm dưới mắt con quái vật của . " thấy cách những đường nét này được khắc để làm nổi bóng, để tạo chiều sâu chứ? Cho dù có ngước nhìn lên những gargoyle này, người dân bình thường cũng chẳng thể thấy được các chi tiết này đâu."

      "Thế sao còn làm?"

      "Chúng tôi làm để Chúa thưởng thức."

      Bị đem ra làm mẫu tạc tượng khiến tôi cảm thấy mình còn trần trụi hơn cả việc đóng bất cứ bộ phim khiêu dâm nào, và tôi chỉ có thể chịu nổi lần ngồi mẫu đầu tiên vì độ ngắn của nó. Tôi chỉ có thể bỏ bộ quần áo tạo áp suất của mình ra khoảng mười lăm phút lúc, giới hạn mà Marianne Engel luôn tôn trọng. Việc tiến triển nhanh chậm cũng chẳng quan trọng gì; tôi tin chúng tôi phải mất hàng năm để hoàn thành bức tượng này.

      Cuối mỗi đợt chạm khắc khoe thành quả của và chúng tôi về bất cứ những gì mình nghĩ. dịp nọ, bâng quơ trong khi dụi mẩu thuốc lá, "Đừng quên là chúng ta còn bữa tiệc Halloween sắp đến đấy nhé."

      Đây là lần đầu tiên tôi nghe về vụ này, tôi .

      " phải thế," phản bác. "Năm ngoái ở khoa bỏng tôi hứa là chúng ta tham dự mà, nhớ chứ?"

      "Chuyện đó xưa lắm rồi."

      " năm phải là dài, nhưng tôi thương lượng với chút vậy. có chịu nếu tôi kể cho nghe câu chuyện nữa ?"

      "Về cái gì," tôi hỏi.

      "Tôi nghĩ rất thích câu chuyện này," . "Đó là về Sigurðr, người bạn Viking của tôi."
      Hyunnie0302Jenny Nguyen thích bài này.

    5. thuytinhtim_1102

      thuytinhtim_1102 Well-Known Member

      Bài viết:
      1,916
      Được thích:
      3,133
      Chương 21
      Đối với cậu bé có thể trở thành trẻ mồ côi, Iceland vào thế kỷ thứ chín là trong những nơi tệ nhất. Cha mẹ của Sigurðr Sigurðsson đến đây theo làn sóng di dân đầu tiên của người Na Uy và quyết định rằng vùng đất này có vẻ đẹp kỳ lạ thích hợp với việc gây dựng gia đình. Nhưng khi Sigurðr mới được chín tuổi, cha cậu mất tích những tảng băng trôi và, lâu sau đó, mẹ cậu vĩnh viễn bao giờ tỉnh lại sau giấc ngủ. Cậu bé tiếp nhận phần đất đai của gia đình và quyết tâm cho đời thấy mình có thể làm được những gì, nhưng cậu thất bại: cậu còn bé quá, và chẳng mấy chốc phải kiếm sống bằng cách nhặt nhạnh từ những xác cá voi chết dạt vào bờ.

      Thực ra, có thể sở hữu kỹ năng đó cũng chẳng phải chuyện hay: thịt được dùng làm thức ăn, mỡ làm đèn, còn xương để làm tất cả những vật dụng gia đình người ta có thể nghĩ ra. Tất cả những thứ này, Sigurðr có thể đem bán lấy tiền tự trang trải cuộc sống. Tuy nhiên, cậu bé vẫn cảm thấy tồn tại của mình thiếu cái gì đó; dù vẫn chỉ là đứa trẻ, cậu biết cứ sống lay lắt nhờ những xác chết là đủ, và cậu luôn mong được trở nên mạnh mẽ và can đảm.

      Vì thế, những khi xẻ thịt xác cá voi bị sóng đánh lên bờ, Sigurðr lại lặn. bờ vực trông xuống cái vịnh hẹp, với cả đại dương bao la trải dài trước mặt, cậu tận hưởng giây phút cả thế giới xung quanh mình dường như đều tan biến vào hư . Rồi chân cậu đẩy cậu bay vào trung và khoảnh khắc trọng lượng ngắn ngủi khi trận chiến giữa đại dương và bầu trời bất phân thắng bại, và Sigurðr - chỉ trong phút giây đẹp đẽ ngắn ngủi này - tưởng tượng bản thân trôi dần tới mảnh đất thiên đường Valhalla.

      Nhưng đại dương luôn luôn thắng, và cậu xé gió rơi xuống như con dao bị thả độp xuống đất. Mặt nước chồm lên chào đón cậu, và khi rẽ sóng lướt qua mặt nước trong veo, cậu cảm thấy như mình trở về nhà. Sâu xuống dưới là nơi cậu lặn, tìm kiếm gì đó dưới đáy biển, trước khi trồi lên khỏi mặt nước với cảm giác được thanh tẩy. Nhưng cảm giác đó chẳng bao giờ tồn tại đủ lâu cả.

      Khi chơi với những cậu con trai khác, vì vẫn còn chút thời gian rỗi cho việc này, cậu luôn luôn cảm thấy bị tách khỏi chúng theo cách nào đó. Cậu thích chơi đấu vật và chạy thi y như những đứa trẻ khác, và cậu thậm chí còn thích đánh nhau đến rớm máu trong vài cuộc thi đấu nữa, nhưng rồi cũng đến lúc tất cả thanh niên khác đều tìm được các thiếu nữ để cùng chơi trò "đấu vật". Sigurðr, Sigurðr tội nghiệp, vẫn chỉ hài lòng với việc đấu vật cùng mấy cậu trai, và chẳng mấy chốc mọi người bắt đầu băn khoăn tại sao cậu lại chẳng có chút hứng thú nào trong việc tìm vợ cả.

      Sigurðr quen dần với việc dành cả buổi tối ở những quán rượu trong vùng để cố gắng thể nam tính, nhưng dù cậu có cố dán mắt vào bộ ngực của các phục vụ đến mấy nữa, mắt cậu cuối cùng vẫn cứ lang thang tới những đốt ngón tay lông lá của phục vụ quầy rượu. Từ đó, mắt cậu lướt dần xuống những đường cong mạnh mẽ mông của Hodbroddr và rồi, luôn luôn là như thế, ánh mắt cậu dừng lại nơi người đàn ông, lớn hơn cậu ấy chút, tên là Einarr Einarsson.

      Einarr là tảng đá granite được ngụy trang thành người, với bộ ngực nở nang và hai cẳng tay có thể thuần hóa bất cứ người đàn ông nào - đấy là Sigurðr thích tưởng tượng ra thế. Mắt Einarr làm Sigurðr nghĩ tới dòng nước lạnh như băng nơi cậu hay ngụp lặn, và mái tóc rực lửa của giống như cuồng nhiệt trong trái tim chàng trai trẻ vậy. Einarr có nghề thợ mộc, nhưng cũng là Viking.

      Hai người quen biết nhau sơ sơ, do dân cư nơi đây khá thưa thớt, nhưng chẳng qua lại gì mấy cho tới buổi tối Sigurðr dồn hết can đảm để ra bắt chuyện. Cậu ưỡn ngực cao hơn bình thường, hạ giọng xuống, và chỉ cười tiếng cười đàn ông nhất của mình. Tuy nhiên, Einarr nhận ra ngay ngồi trước mặt phải người đàn ông mà chỉ là cậu bé độc.

      Có gì đó ở Sigurðr, quá đáng thương và cũng quá lạc quan, chạm vào góc tâm hồn tốt đẹp của Einarr. biết cậu mất cả cha lẫn mẹ, và cũng thấy cậu lang thang bờ biển với những cái túi đựng thịt cá voi. Thay vì đuổi cậu , lắng nghe, và khi Sigurðr những chuyện linh tinh vớ vẩn - mà những chuyện đó nhiều lắm - Einarr chỉ gật đầu. thấy nên nặng với người phải chịu quá nhiều đau khổ trong đời.

      Cái đêm trong quán rượu đó là mở đầu cho rất nhiều đêm khác. Mối quan hệ giữa họ khá lạ lùng, nhưng chẳng hiểu sao khá tốt đẹp, vì Einarr rất mến những nét tính cách của Sigurðr mà những người bạn Viking của có. Chàng trai trẻ, dù đặc biệt thông minh, luôn có những lúc mong muốn điều tốt đẹp hơn đến. Sigurðr muốn phá hủy, cậu muốn sáng tạo - chỉ là cậu biết phải làm như thế nào thôi. Cậu thường với Einarr rằng nghề mộc của tuyệt vời. Trong khi Einarr ngoài mặt càu nhàu, thâm tâm cũng đồng ý như vậy - đó là nghề kiếm sống khá tốt - và cũng nghĩ có lẽ cậu bé này có thể còn làm được tốt hơn, nếu được hướng dẫn đúng cách.

      Chẳng mấy chốc Einarr nhờ Sigurðr giúp mình ở cửa hàng đồ gỗ, và lời đề nghị được chấp nhận đầy háo hức. Thực ra, đó phải quá trình học việc chính thức, vì có gì cho thấy sau này Sigurðr trở thành thợ mộc, nhưng đó cũng là cách hay để giúp cậu bận rộn. Trái tim Sigurðr đập nhanh hơn bình thường khi cậu lần đầu tiên đến căn nhà dài của Einarr.

      Ngôi nhà mang đậm phong cách Iceland, xây dựng bằng bất cứ loại vật liệu nào tìm được. Những tảng đá xù xì đặt làm móng cho các cột gỗ thẳng tắp. Các bức tường trát bằng đất trộn than bùn với những kẽ hở được lấp đầy gỗ sồi Iceland. Einarr tự hào khoe đặc điểm lẫn với nơi đâu của ngôi nhà: ở trong góc, đào cái rãnh dưới bức tường để lấy nước từ dòng suối gần đó. Chẳng cần phải xa để lấy nước sạch, vì tất cả những gì cần làm là nhấc tấm ván sàn lên và múc xô nước, thế là xong.

      Từng phân của ngôi nhà đều được chất đầy gỗ: số loại là gỗ Iceland bản địa, số được nhập từ Na Uy, và số là gỗ dạt vào bờ. Tất cả đều được giữ trong nhà để luôn trong tình trạng khô ráo sẵn sàng làm việc. Những bức tường treo đầy vật dụng bằng sắt, giũa, nạo, dao và đục, và có hàng giá đựng dầu được dùng cho công đoạn cuối cùng.

      Hầu như tất cả các ghế băng, giá để đồ, và thậm chí cả nông cụ đều được khắc những họa tiết tinh xảo. Sigurðr dịu dàng lướt tay lên những vết khía xoắn xuýt lại với nhau của trong những đồ vật đó, cái nôi dựa vào tường. Từ bốn góc của nó, những cây cột dựng đứng lên ; đầu mỗi cây cột đều được chạm trổ hình rồng với cái đầu vừa khít nắm tay của cha mẹ bé để họ có thể đu nôi cho em bé ngủ.

      "Nó là cho con trai tôi, Bragi."

      Sigurðr biết Einarr kết hôn và làm cha. cần phải nhắc cậu về chuyện này nữa. " là tốt," cậu trả lời, rồi chỉ về phía cái thùng đầy ứ những ống mảnh bằng gỗ. "Chúng là gì vậy?"

      Einarr rút cái ống đưa ra trước mặt mình, chiêm ngưỡng độ dài của nó, trước khi đưa cho Sigurðr.

      "Tôi giỏi làm cung tên, nhưng có thể chế chiếc cung thẳng và chắc chắn lại là chuyện khác."

      "Einarr lại khoe khoang phải ?"

      phụ nữ bế đứa bé sơ sinh bú mẹ vào nhà mà ai hay biết. Màu xanh da trời trong mắt thậm chí còn rực rỡ hơn của Einarr và tóc , được buộc gọn bằng chiếc chun sặc sỡ, có những lọn vàng óng lấp lánh do được nhuộm với kiềm.

      "Cậu hẳn là Sigurðr. mừng quá, cuối cùng cũng được gặp cậu."

      "Đây là Svanhildr," Enairr . "Cái mỏ neo của tôi."

      "A, cái giữ cho được vững vàng phải ?" người vợ hỏi.

      "," người chồng trả lời, "cái luôn kéo tôi xuống ấy."

      Svanhildr đập mạnh vào vai cái, và Einarr giơ tay ra - phải để đánh lại, mà để đỡ lấy đứa bé để nó bị mất thăng bằng.

      "Cậu nhóc may mắn này," Enairr , "là Bragi."

      Svanhildr trao đứa bé cho chồng, chỉnh lại chiếc vòng nạm đá quý quanh cổ, và hất vạt chiếc váy tạp dề xuống. Chuỗi chìa khóa đeo bên eo đồng loạt kêu leng keng cùng những viên đá trang trí dây chuyền, và kết quả là mọi cử động của đều ồn ào. lại vỗ chồng cái nữa, trước khi ôm lấy đứa trẻ. Nhìn nét mặt , bất cứ ai cũng có thể thấy rằng đây là người phụ nữ rất hài lòng với cuộc sống tại.

      Người đàn ông và cậu bé làm việc suốt buổi chiều - hầu như là thế, Einarr hướng dẫn cách sử dụng các dụng cụ - rồi Sigurðr trở về nhà sau khi từ chối lời mời ở lại ăn cơm tối của Svanhildr.

      Ngày hôm sau, khi Svanhildr đón cậu nơi ngưỡng cửa nhà dài, Sigurðr trao cho cái túi. "Tôi mang ít thịt cá mập đến," cậu .

      "Cậu tốt bụng," , nhã nhặn cầm chiếc túi sao cho nó trông có vẻ nặng hơn trọng lượng . "Tôi ủ men chỗ này, và khi nào xong xuôi cậu ăn với chúng tôi nhé."

      Sau khi ngập ngừng lúc, Sigurðr lúng búng, "Tìm được xác cá voi rất tốt, nhưng cá mập cũng hữu ích lắm."

      "Ừ. Thôi vào ." đá đống gỗ qua bên. "Ấy là, nếu cậu tìm được chỗ giữa cái đống gỗ này. Thỉnh thoảng tôi cứ có cảm giác là mình sống trong rừng ấy."

      lần nữa hai người đàn ông lại dành cả ngày cùng nhau; lần này là bài học về cách bảo quản dụng cụ. Khi Svanhildr mời Sigurðr ở lại ăn tối, cậu chấp nhận. dọn món thịt gà hầm với rong biển, và trong khi hai người đàn ông ăn uống, ngồi đưa nôi cho tới khi Bragi ngủ.

      Họ ngồi quanh đống lửa trong nhà cho tới tận tối muộn, những cột khói cứ đều đặn bốc qua lỗ thông hơi trần nhà. Svanhildr đun chảo bia và khi những cốc bia của họ gần cạn, nhúng chiếc muôi có hình con ngỗng vào chảo để lại đổ đầy cốc. Khi Sigurðr khen ngợi hương vị tuyệt hảo của món đồ uống, Svanhildr giải thích rằng bí mật nằm ở kết hợp giữa vị cây bách và hoa mua mọc ở đầm lầy. "Người ta hay rằng người đàn ông hạnh phúc hay là phụ thuộc vào chất lượng thức ăn của ta," giải thích tiếp, "nhưng trong trường hợp của Einarr nó có vẻ phụ thuộc vào chất lượng bia rượu của ấy nhiều hơn."

      Einarr làu bàu đồng ý rồi lại uống thêm ngụm đầy nữa.

      Đêm đó, khi Sigurðr quay trở lại nhà mình, cậu lơ đãng chùi tay vào tấm da cá mập mà cậu định tặng cho Einarr. Cậu cắt nó ra từ lớp vây vì cậu biết nó có thể được dùng để làm giấy ráp tốt, nhưng cậu tìm được lúc nào thích hợp để tặng cả. Khi cậu về đến cái lán xác xơ của mình, những ngón tay của cậu tê cứng đến nỗi cậu để ý rằng chúng nhuốm đầy máu.

      Vào các buổi chiều sau đó, Sigurðr nhận ra dù thực thích nghề mộc, cậu lại khá có tài vẽ. Cậu tìm các loại phẩm màu - màu đen từ than đá, màu trắng từ bột xương, màu son từ đất đỏ - và sơn chúng lên các tác phẩm gỗ hoàn thành. Sigurðr hài lòng gấp ba: bởi kỹ năng cậu học, bởi bản thân những màu sắc đó, và bởi nụ cười gương mặt của Einarr.

      Einarr cũng cảm thấy rất hài lòng. chỉ vì những bức tranh của Sigurðr tôn thêm vẻ đẹp cho tác phẩm của , mà còn vì chàng trai trẻ đó thực người đồng hành tốt - chưa hẳn là người bạn, nhưng chắc chắn chỉ là đồng nghiệp đơn thuần. Để chứng tỏ điều này, ngày nọ Einarr đưa cho Sigurðr cái gói dài, được bọc vải len và buộc dây da. Bên trong là thanh kiếm với chuôi hình rồng chạm trổ tinh tế. "Nếu cậu có thanh kiếm tử tế rất tốt," Einarr , "chứ phải là con dao chặt cá cậu dùng bây giờ."

      Sigurðr gật đầu, vì cậu cũng chẳng biết phản ứng thế nào. Từ khi cha mẹ mất, đây là món quà đầu tiên cậu được nhận.

      "Nào," Einarr với Sigurðr, "cậu có muốn học cách sử dụng ?"

      Einarr sửa các thiếu sót trong động tác kỹ thuật của Sigurðr, và cậu học sinh rất nhanh chóng thấm nhuần các bài dạy. Einarr cảm thấy rất ấn tượng. "Cơ thể của cậu tự nó biết phải chuyển động thế nào rồi, tuyệt. Có rất nhiều thứ có thể dạy được, nhưng khả năng đánh hơi nguy hiểm nằm trong số đó đâu."

      Sigurðr cúi gằm mặt nhìn xuống chân mình. Cậu muốn để Einarr thấy khuôn mặt mình đỏ bừng lên vì lời khen.

      "Cậu cần đặt cho nó cái tên," Einarr . "Tôi gợi ý tên là Sigurðsnautr. Vì nếu có lúc nào cậu đâm thanh kiếm này vào ai đó món quà ta thể mau quên được đâu."

      Khi Sigurðr trở về nhà vào tối hôm đó, cậu lật lật lại thanh kiếm tay. Cậu rất thích cái tên - "Món quà của Sigurðr." Cậu cẩn thận buộc hai đầu đoạn dây da dùng để bó cái gói lại với nhau và đeo vào cổ. Từ ngày đó trở , cậu bao giờ tháo nó ra, nhưng cậu luôn cẩn thận chú ý để sợi dây được giấu kín trong lần áo chùng của mình. Chẳng có lý do nào để khoe nó ra cả; biết rằng thứ từng ở tay Einarr giờ luôn chạm vào da cậu là vui lắm rồi. Suy nghĩ đó thỉnh thoảng cũng làm Sigurðr nổi da gà, như bị trận gió phương Bắc quật vậy.

      Khi cái ngày Einarr phải cùng đoàn Viking lên đường đột kích những vùng đất khác cuối cùng cũng đến, Sigurðr những tưởng đây là lúc cậu phải quay lại với cuộc sống đơn độc của mình. Nhưng Svanhildr mời cậu đến ăn bánh ngọt và uống bia vào mỗi buổi sáng và - chính cậu cũng thấy ngạc nhiên - Sigurðr luôn xuất . Bragi ngày khôn lớn và chẳng mấy chốc cho thêm cụm từ vào cái vốn từ ngày càng nhiều thêm của cậu nhóc. Cậu biết mẹ, cha và gỗ, nhưng ngày nọ cậu ngước mắt nhìn vào người thanh niên miệng chật ních bánh ngọt và gọi: "Sig Sig."

      Dù Einarr là người chất tiền vào mấy cái rương trong nhà, Svanhildr mới là tay hòm chìa khóa. Nếu trù liệu cẩn thận hộ gia đình Viking thể chống chọi nổi với những mùa đông khắc nghiệt, và Sigurðr ngày càng thêm ngưỡng mộ công việc của Svanhildr. biết tất cả những phương thức dự trữ thịt - hun khói, ướp muối, ngâm giấm, và còn nhiều hơn nữa - để chồng mình chán ngấy vì những bữa ăn ngày nào cũng như ngày nào. thời gian sau, Sigurðr bắt đầu phụ giúp làm bữa sáng, thái thịt thành những lát mỏng trong khi chuẩn bị nước muối để ngâm chúng.

      Trong suốt đợt vắng nhà của chồng mình, lần nào Svanhildr tỏ vẻ lo sợ quay về - nhưng khi nghe tin chiếc thuyền trở về, chạy thẳng ra bờ biển và nhảy vào vòng tay háo hức ngóng trông của Einarr. hôn nồng nàn, véo hai cái vào mặt, và rồi nhàng hôn bằng hết chỗ máu đọng môi . Sigurðr chắc lắm, nhưng gần như cứ khi nào Svanhildr rút tay lại sau cú véo đầu tiên, Einarr lại chìa cằm ra để chuẩn bị đón cú tiếp theo.

      Sigurðr giúp chồng mang chiến lợi phẩm về nhà dài và sửng sốt trước đa dạng của những món đồ: kim loại quý hiếm cùng những túi đầy tiền vàng, đồ trang sức, dụng cụ cướp được từ những công xưởng ngoại quốc, và những chai rượu chưa bị vỡ chuyến hải trình trở về nhà. Nhưng trong tất cả những thứ này, hiển nhiên Svanhildr mong đợi cái gì đó hơn thế kia. Rồi Einarr lấy bìa sách nạm đá quý giật ra từ bản Kinh Thánh ở tu viện nước , ấn nó vào tay Svanhildr. ngắm nghía nó lúc trước khi bổ sung món đồ trang sức lòe loẹt ấy vào chuỗi vòng đá quý của mình, và cuối cùng Sigurðr cũng hiểu bộ sưu tập bùa ngải đủ chủng loại của đến từ đâu. Khắp mọi nơi.

      Họ uống bia và rượu cho tới tận khuya, đến khi Sigurðr say đến nỗi thể lê về nhà, bất tỉnh nhân chiếc ghế băng kê sát tường. Cậu nằm ngủ ở đó, rồi bỗng bị đánh thức bởi tiếng ồn của trận đánh nhau trong lúc đầu óc quay cuồng - hay ít nhất cậu cũng tưởng thế, rồi mới nhận ra mình nghe trộm cuộc vui của chủ nhà.

      Einarr hùng hục vào trong vợ mình từ phía sau, tay kéo hông lại. Có vẻ như Svanhildr cố hết sức tìm lối thoát, và cũng đúng là thế , nhưng hẳn: đó là phần trong cuộc chơi của họ. Khi cuối cùng cũng thoát ra được, Einarr tóm lấy hai chân đá lung tung của rồi lật người lại. Khi vào trong từ phía , móng tay bấu khắp lưng , làm chảy cả máu. cắn vào cổ mạnh đến nỗi phải túm tóc lôi ra. gầm lên đau đớn, rồi cười cách quái lạ và chồng mình có mùi như cá ươn và làm tình như . Enairr gầm gừ lại rằng thể lại tử tế vào sáng hôm sau được đâu.

      Phải mất lúc lâu Sigurðr mới ngủ lại được.

      Khi cậu tỉnh dậy, hiển nhiển là Einarr - những vết răng cắn vẫn còn hằn cổ họng - tắm rửa sạch ở con suối gần đó rồi. Bragi chạy lăng xăng, làm quen lại với cha mình, trong khi Svanhildr - với những vết bầm giập dọc hai cánh tay - van nài con thôi trong khi kiên nhẫn gỡ đống tóc rối bù của Einarr với chiếc lược làm bằng xương cá voi. Cứ chốc chốc, lại quàng tay quanh người thầm , "Ég elska þig. Ég elska þig. Ég elska þig." Em . Em . Em .

      Khi Sigurðr giả bộ ngáp lớn cho biết mình dậy, Svanhildr buông ngay chồng ra và lấy xô nước mát cho vị khách rửa ráy. Khi mang xô nước lại, Bragi trèo vào lòng Sigurðr. Bây giờ, vốn từ vựng của cậu bé tiến bộ thêm chút và cậu sung sướng thét lên "Chú Sig!"

      lâu sau Einarr, lần thứ hai, nêu ra đề nghị thay đổi cả cuộc đời Sigurðr: lần này, đề nghị cậu gia nhập đội Viking. Như Einarr giải thích, những chuyến hải trình rất buồn tẻ và nhớ cuộc sống quê nhà; có lẽ có người bạn theo cùng làm dịu nỗi nhớ đó.

      Lời đề nghị đưa ra có phần nài nỉ, vì Sigurðr thường e rằng mình đủ nam tính. Các buổi sáng, cậu thường lặn ngụp dưới nước để tìm xác động vật; các buổi chiều cậu phụ việc, khi cậu cảm thấy đơn, cậu lại giúp vợ người đàn ông khác làm việc nhà. Sigurðr chỉ hứa xem xét đề nghị đó nhưng cậu biết chắc mình chấp nhận, và lý do lớn nhất là vì Einarr coi cậu là người bạn.

      Sigurðr nhanh chóng nhận ra mình bị mấy người Viking soi mói. Có chút khó chịu - những thầm đồn thổi về chuyện Sigurðr là fudlogi, người đàn ông sợ làm tình với phụ nữ - nhưng ai muốn xúc phạm Einarr. Khi tồn tại của người phụ thuộc vào chiếc thuyền dài, chẳng hay ho gì khi làm phiền lòng người thợ mộc bậc thầy. Hơn nữa, người Viking tin rằng bất luận thế nào, cảm giác khó chịu với kẻ khác cũng gây ảnh hưởng gì lắm, miễn là kẻ đó biết tấn công. Người đàn ông bất lực giường cũng thua trong các cuộc đánh nhau, nhưng chẳng có bằng chứng nào cho thấy Sigurðr từng đầu hàng người đàn ông nào khác, người ta chỉ đồn rằng cậu cũng ngại làm chuyện đó thôi. Sau vài bài kiểm tra sức mạnh cũng như kỹ thuật sử dụng vũ khí của Sigurðr, họ đồng ý cho cậu thử cùng trong chuyến viễn du dọc bờ biển nước .

      Chiến thuyền trông đáng ngưỡng mộ, với mặt ngoài phủ da bò và những cánh buồm bằng len dày, phía mũi thuyền là hình con mãng xà dữ tợn. Họ lái thuyền dưới ánh mặt trời và dưới những vì sao, người Viking ngồi những chiếc rương rỗng đầy khi họ quay trở về nhà. Hiển nhiên có những thành viên của đoàn Viking rất háo hức với trận chiến sắp đến. Họ chuẩn bị cho cuộc bao vây bố ráp với những bài tụng niệm bằng cách tát bôm bốp vào mặt nhau, rạch da của chính họ để làm dịu cơn khát máu của những thanh kiếm. số thậm chí còn tưởng tượng ra mình bị các linh hồn động vật nhập vào người, và để trí tưởng tượng bay xa hơn bằng cách dùng thêm chút berserkjasveppur - những cây nấm berserker giúp tăng hưng phấn - trước khi đổ bộ lên bờ biển nước .

      Einarr khuyên Sigurðr đừng quan tâm đến mấy cái đó. dùng nó trong cuộc tấn công đầu tiên của mình, nhưng chúng chỉ làm mất tập trung. Tuy nhiên, thú nhận rằng mình thỉnh thoảng cũng dùng trong xưởng gỗ khi muốn tìm cảm hứng làm việc. Sau khi ăn vài cây nấm, , rất dễ hình dung ra những họa tiết mượt mà mà người ta thể nghĩ đến trong lúc tỉnh táo.

      Sigurðr nhanh chóng nhận ra việc chiến đấu đối với cậu dễ dàng và áp đảo người chỉ là nhiệm vụ đơn giản; họ cứ thế nộp cống vật để cho qua chuyện thôi, đặc biệt là mấy lão thầy tăng ấy. Cuộc tấn công thu được thắng lợi lớn và Sigurðr, với giúp đỡ của Einarr, làm tròn nhiệm vụ của mình. Cậu được mời tham gia vào cuộc tấn công thứ hai, rồi thứ ba, và sau đó cậu trở thành thành viên thường trực. Lần đầu tiên trong đời, cậu cảm thấy mình là phần của cái gì đó. Từ gia đình, cậu có tới hai - gia đình của Einarr và hội những người em Viking - và cậu tin rằng tính đàn ông mới được phát huy này của cậu giúp cậu có thể bước vào thiên đường Valhalla lúc cuối đời.

      Mọi việc cứ tiếp diễn trong nhiều năm. Vào những đợt nghỉ giữa các cuộc tấn công, Sigurðr và Einarr cùng trui rèn khả năng sử dụng vũ khí và củng cố kỹ năng mộc của nhau. Tác phẩm chạm trổ của Einarr ngày càng trở nên sáng tạo hơn, có lẽ nhờ những cốc bia uống mỗi ngày thường xuyên hơn hoặc do những cây nấm dùng mỗi khi cần tìm cảm hứng. Khả năng sơn vẽ của Sigurðr cũng ngày càng tiến bộ. Hai người ở cùng nhau nhiều hơn, và thường , mỗi ngày mới đến họ lại có thiện cảm với nhau hơn hôm trước.

      thể tránh khỏi, dĩ nhiên rồi, Sigurðr Einarr. chỉ là đam mê đơn thuần lúc đầu, mà là tình cảm chân hơn, sâu đậm và đẹp đẽ hơn. Einarr chắc chắn cũng biết điều này, nhưng giả vờ nhận thấy những ánh mắt thỉnh thoảng lưu luyến nhìn mình của Sigurðr. Đây là cách họ giải quyết vấn đề: vờ như nó hề tồn tại. Chẳng hay ho gì khi về nó cả, vì thế họ quyết định gì hết, và chuyện đó cứ lơ lửng giữa họ như đêm dài dằng dặc mà bình minh bao giờ đến.

      Đối với Svanhildr, tình dành cho Einarr cũng lớn dần theo năm tháng; tuy nhiên, niềm say mê cuộc sống Viking luôn vẫy gọi lên đường bất chấp những ngày vắng nhà, và lại đeo bộ mặt ủ rũ vào những tuần trước mỗi cuộc hành trình cướp phá. Đến hôm tình trạng này trở nên tồi tệ hơn tất cả những lần trước đó. gắt lên mỗi khi Einarr xin lấy thêm cốc bia tươi, càu nhàu với thánh thần vì những lý do đâu, và thậm chí còn òa khóc khi Bragi xước đầu gối khi nghịch thanh kiếm đồ chơi.

      Khi Einarr thể chịu nổi thêm nữa, chộp lấy vai và lắc cho tới khi thể im lặng được nữa.

      "Vấn đề nằm ở ấy," . "Và những chuyến của , trong khi em phải ở nhà với con."

      nụ cười lên khuôn mặt Einarr.

      "Thôi ! Em có ý định chửa đẻ nữa đâu," la thét. "Em có tuổi rồi."

      "Nhưng quá già nhỉ," Einarr . "Hiển nhiên rồi."

      Đêm trước khi những người đàn ông phải rời , Einarr dọn thịt lợn hun khói và những cốc bia tươi nhất của cho họ nhưng chẳng năng gì. Sáng hôm sau, ra biển tiễn Einarr. chỉ tát vào miệng ở ngưỡng cửa thay lời tạm biệt.

      Những cuộc tấn công diễn ra như thường lệ. Danh tiếng của người Viking gần như đủ để chiến thắng bất cứ trận chiến nào trước cả khi lưỡi gươm tuốt ra khỏi vỏ và khi họ tới mục tiêu cuối cùng, thuyền họ chở nặng lắm rồi. Họ nhiều lần tấn công dễ dàng các ngôi làng nước , nhưng gần đây người dân học được vài mánh tự vệ để gỡ gạc chút danh dự. Họ mong đánh bại người Viking, nhưng họ thực mong muốn ít nhất cũng diệt được vài kẻ.

      Khi những người Viking ào ra khỏi thuyền và chạy qua bãi cát, đợt cung tên bất ngờ xé toạc bầu trời lao về phía họ. Sigurðr rất giỏi quan sát: cậu phát ra mũi tên mang mối nguy hiểm đặc biệt. Cậu sẵn sàng tránh khỏi đường bay của nó nhưng rồi nhận ra nếu cậu làm thế, mũi tên đâm vào người đứng sau cậu.

      Einarr.

      Và thế là cậu tránh.

      Mũi tên xuyên qua lớp áo da ngực cậu, cậu thét lên đau đớn rồi ngã xuống đất, những ngón tay bấu chặt lấy cuống tên.

      Sau chút bất ngờ đầu tiên, những người Viking dần lấy lại thế thượng phong và dân làng trở thành mồi ngon cho những kẻ tấn công, như mọi khi. Nhưng trận chiến còn liên quan gì đến Einarr Einarsson hay Sigurðr Sigurðsson nữa, họ quay trở lại bờ biển. Mũi tên cắm sâu vào ngực của Sigurðr, ngập tới ngọn, và thể rút ra mà xé toạc vết thương.

      Sigurðr biết điều này. Cậu rất sợ nhưng vẫn cố thu hết can đảm kể cả khi cậu cảm thấy ánh mắt Einarr nhìn mình như băng bám những mái chèo hờ hững. "Einarr?"

      "Ừ."

      "Tôi sắp chết rồi."

      "Cậu chết đâu."

      "Hãy nhớ đến tôi."

      "Sao tôi có thể quên người ngốc đến nỗi tin rằng cậu ta sắp chết vì vết thương phần mềm chứ?" Einarr đáp lại.

      "Einarr?"

      "Cái gì?"

      "Có điều tôi muốn với ."

      "Với người sắp chết cậu hơi nhiều đấy."

      "," Sigurðr khăng khăng tiếp tục. "Ég elska"

      Einarr ngắt lời cậu. "Mấy trò lắp bắp này làm cậu cứ như đàn bà ấy. Cố giữ sức ."

      Nét mặt của Einarr cho Sigurðr biết cuộc tranh luận đến đây là chấm dứt, vì thế cậu nhắm mắt lại và để người bạn đưa mình lên lại thuyền dài. Ở đó Einarr cắt bỏ những phần da xung quanh mũi tên và Sigurðr cứ liên tục rú lên đau đớn với mỗi nhát dao. Khi vết thương bị khoét đủ sâu, Einarr dùng cái kẹp gắp đầu mũi tên ra và cầm nó lên để Sigurðr, sắp bất tỉnh đến nơi, có thể thấy những sợi thịt bám chặt lấy nó.

      "Svan hẳn chăm cậu rất tốt," Einarr , "chỗ gần tim cậu có mỡ bám đấy."

      Trong suốt chuyến về nhà, Einarr thường xuyên thay băng và kiểm tra xem vết thương của Sigurðr có bị nhiễm trùng nhưng có vẻ như nếu chưa đỡ hơn ít ra nó cũng nặng thêm. Gần như trước khi Sigurðr kịp nhận ra, cậu thấy mình tỉnh lại, trước mặt là Svanhildr cầm bát xúp hành tỏi tây.

      "Đồ nóng rất tốt cho cậu đấy," .

      "Tôi có thể mà. người đàn ông ốm yếu ở lại nhà của phụ nữ mang bầu chẳng hay gì đâu."

      có vẻ buồn cười trước câu ấy. "Cậu cũng là người trong nhà cả mà, và chúng tôi nghe bất cứ điều gì tương tự như vậy nữa đâu."

      "Nhưng em bé..."

      "Uống nào. Nếu ngửi được mùi hành ở vết thương của cậu, tôi có thể biết được nội tạng cậu có bị tổn thương hay ."

      Trong suốt những ngày tiếp theo, Einarr và Bragi luôn cầu khấn nữ thần chữa trị, và Svanhildr vẫn tiếp tục chăm sóc vết thương của Sigurðr. Thầy pháp địa phương ban phước cho loạt cổ ngữ Rune khắc lên xương cá voi để đổi lấy trong những rương châu báu quý giá nhất của Einarr và rải xương quanh chiếc ghế băng nơi Sigurðr ngủ.

      Việc ấy có vẻ có tác dụng: vết thương của Sigurðr còn mùi hành. Việc đầu tiên cậu làm, khi chắc rằng cậu sống, là tiến thẳng tới xưởng để đục lỗ xuyên qua chiếc xương trị bệnh. Cái này, cậu đem đưa cho Svanhildr.

      "Tôi cảm thấy rất vinh hạnh," cậu , "nếu luồn cái này vào cùng những viên đá chuỗi vòng cổ. bắt buộc phải làm thế đâu, nhưng mà..."

      ngắt lời cậu bằng việc quàng tay qua cổ cậu, và gật đầu lia lịa.

      Việc phục hồi cũng dễ dàng gì. Sigurðr vẫn chưa thể giơ tay lên thoải mái và thỉnh thoảng cậu vẫn phải chịu những cơn đau nhói bất ngờ, cậu cũng nhanh chóng chán cái cảnh được chăm sóc thái quá rồi. Cậu cùng Einarr hoàn thành công việc mới nhất của : chiếc thuyền dự định đưa Bragi câu cá ở vịnh. Cậu quyết tâm sơn vẽ toàn bộ con thuyền; dù việc trang trí thực cần thiết. Nhưng cậu thấy rất vui khi lại được cảm nhận cây cọ trong tay mình. Công việc kéo dài đằng đẵng, nhưng Einarr chẳng mảy may phàn nàn về chậm chạp của bạn mình.

      Svanhildr thai nghén cũng vất vả lắm, dù tuổi tác của thực phù hợp với việc mạo hiểm này. Khi đến lúc vượt cạn, Bragi bé chạy mời các bà mụ trong khi hai người đàn ông ở lại an ủi . cậu bé nữa, khỏe mạnh xinh xắn được đặt tên là Friðleifr, nhanh chóng trở thành thành viên mới trong gia đình.

      Khi chắc chắn hai mẹ con mẹ tròn con vuông, những người đàn ông quyết định uống mừng may mắn. Thậm chí cả Bragi cũng được cho phép thức khuya và được chuốc vài cốc bia đặc, vì cậu giờ phải trông đứa em, cha cậu thấy rằng đến lúc cho cậu uống như người đàn ông.

      Căn phòng được thắp sáng bởi cái lò sưởi dài và những chiếc đèn mỡ cá voi, Einarr cười khi người bạn - giờ, tự hào nhấn mạnh, người bạn trưởng thành của - loạng choạng đổ ập lên băng ghế kiêm giường ngủ của cậu. ", vẫn chưa hẳn là người đàn ông," đùa, trong khi Sigurðr hét lên rằng bia làm ngực Bragi mọc lông, hay ít nhất lưỡi cậu cũng mọc lông vào sáng hôm sau.

      Chỉ vài phút sau cậu ngáy khò khò và Einarr, cảm thấy thỏa mãn khi cả vợ và cậu con mới sinh của mình đều chìm vào giấc ngủ, liền quay lại xưởng gỗ. trở vào nhà với cái túi và ném nó về phía Sigurðr; bên trong rất nhiều nấm khô. "Giờ chúng ta có thể thực ăn mừng được rồi. Thần thánh luôn mỉm cười với chúng ta."

      Mỗi người ăn ít berserkjasveppur - Sigurðr thích món này nhưng cũng ăn chút vì muốn từ chối bạn mình điều gì - trước khi Einarr đổ chỗ còn lại vào chảo bia bếp lò. "Chúng ta đun chỗ còn lại. ngon lắm, nhưng tác dụng của nó ..."

      Họ uống đến tận khuya, Einarr cố gắng miêu tả vẻ đẹp của những hình ảnh tự do bay lượn xung quanh mình, còn Sigurðr cười phá lên trước những nỗ lực của . Thỉnh thoảng Svanhildr bối rối ngẩng đầu lên trước những câu nhận xét của Sigurðr, nhưng lại ngủ tiếp mà lời nào. Hai người đàn ông uống cho đến tận khi bát nấm sạch bách, rồi ăn nốt chỗ vụn nấm lép nhép sót lại ở đáy bát.

      "Cậu tốt khi tặng Svanhildr miếng xương cá voi cổ ngữ để đeo vào vòng cổ của ấy," Einarr lè nhè . "Tôi nghĩ là mình luôn nhớ tới việc đó."

      " ấy chăm sóc tôi," Sigurðr . " cũng thế."

      " đến lúc ấy cần vật của cậu để đeo quanh cổ rồi."

      "Tôi quý ấy," Sigurðr .

      "Tôi biết."

      "Bragi," Sigurðr thêm. "Bragi, tôi cũng quý cậu bé nữa."

      "Tôi có thứ dành cho cậu." Einarr lại vào trong xưởng, và lần này quay lại với cái đầu mũi tên cắm vào ngực Sigurðr. ngồi phịch xuống, sát Sigurðr hơn trước. "Đưa cái vòng cổ của cậu cho tôi."

      "Tôi biết..." Sigurðr thầm . "Tôi nghĩ lại để ý đến nó."

      "Tôi để ý nó ngay từ đầu rồi, nhưng tôi nhớ lại khi rút cái này" - giơ đầu mũi tên ra - "khỏi ngực cậu."

      Sigurðr lôi sợi dây da ra, và khi nó ở trong tay Einarr, xoắn nó lại và , "Nó vẫn y như cái ngày tôi dùng nó để buộc Sigurðsnautr."

      Sigurðr nhìn chằm chằm vào đống lửa, dám nhìn bạn mình, trong khi Einarr luồn đầu mũi tên vào sợi dây. Rồi đưa cho Sigurðr.

      Sigurðr định với lấy nó, nhưng rồi đổi ý và cúi đầu xuống chút. Einarr hơi do dự, rồi choàng cái vòng cổ qua đầu Sigurðr. Sigurðr có thể cảm nhận bàn tay cọ vào tóc cậu, có lẽ thậm chí còn lướt qua cả gáy cậu nữa. Sau bao nhiêu năm tưởng tượng những ngón tay của Einarr ở đó, giờ chúng thực ở đó rồi.

      Họ bất động trong vài giây, mắt nhìn thẳng vào nhau.

      Sigurðr rướn lên trước chút, và Einarr lùi lại. Họ gần nhau. Sigurðr đằng hắng, cảm thấy họng nghẹn lại vì bia sôi và nấm, rồi giọng cậu lạc khi thốt ra những từ cậu đợi suốt bao nhiêu năm để ra. "Ég elska þig."

      Mắt Einarr hơi nheo lại, nhưng ngoài đó ra, nét mặt hề thay đổi.

      Sigurðr rướn lại gần hơn chút nữa. Và Einarr vẫn lùi lại. Thế là Sigurðr lấn tới, áp miệng mình lên miệng Einarr, và hôn .

      Einarr phản ứng gì. Sigurðr coi đó là dấu hiệu chấp nhận bèn hôn cuồng nhiệt hơn.

      Rồi Sigurðr thấy Einarr giật lùi lại, theo sau là cú đập mạnh vào thái dương cậu. Cú đấm làm cậu văng khỏi ghế và chỉ kịp ngước mắt lên để thấy Einarr lao về trước, chân vung mạnh. Cú đá trúng mạng sườn của Sigurðr và rút hết khí ra khỏi phổi cậu. Dùng cánh tay cầm kiếm, Einarr đấm thẳng vào giữa bụng của Sigurðr, và cứ đấm liên tục thế. Những đợt tấn công mù quáng, điên cuồng loạn xạ, hầu hết những cú đấm đều trượt.

      Sigurðr cố thoái lui nhưng Einarr huých vai vào ngực cậu, hất Sigurðr ngã vào cái đèn, làm nó đổ xuống. Cậu cố lợi dụng lực xoay để lăn , nhưng Einarr đuổi theo với những cú đấm còn điên loạn hơn. Quá nhiều cú đấm đá, quá nhanh, và ở khắp mọi chỗ - vào quai hàm của Sigurðr, sượt qua vai cậu, thẳng vào cổ họng cậu, và ở chỗ yếu nhất ngực cậu nơi mũi tên đâm vào. Cậu hầu như thở nổi, vì tấn công hung bạo và cả diễn ra trước mắt nữa.

      Em bé sơ sinh Friðleifr, giờ gào khóc trong cái nôi rồng, nhận ra có chuyện gì đó vô cùng tệ hại xảy ra trong cái thế giới cậu hầu như chưa biết gì. Svanhildr bật dậy và thét gọi chồng mình dừng lại, còn Bragi lăn khỏi cái ghế ngủ của cậu, quay cuồng hiểu vì sao cuộc đánh nhau lại diễn ra và vì chỗ bia vẫn chảy trong huyết quản cậu. Cậu vẫn chưa đứng vững được còn sàn nhà chao đảo như con thuyền trong bão.

      Einarr còn nghe ra bất cứ tiếng kêu thét nào nữa. Ảo giác do berserkjasveppur mang lại khiến cứ tưởng tượng ra con quái vật nào là thẳng tay đánh chúng, như thể chúng là những sinh vật duy nhất thực tồn tại trong căn phòng.

      Sigurðr hề đánh trả với lý do ai cũng có thể đoán được. Thương tích của cậu hạn chế các cử động, đúng thế, nhưng thực chỉ có vậy: khi cậu nhìn thấy Bragi loạng choạng đứng dậy và nghe tiếng thét của Svanhildr, cậu hoàn toàn mất hết ý chí chiến đấu. Cậu nhận ra điều, dù tỉnh táo nhưng rất rành, rằng phút giây yếu lòng của cậu biến cậu thành kẻ phản bội những người gần gũi cậu nhất, với gia đình nhận chăm sóc cậu bé nơi nương tựa và cho cậu cuộc sống của người đàn ông. Trong khoảnh khắc ham muốn, Sigurðr vượt qua cái giới hạn bất thành văn mà cậu và Einarr mất hơn mười năm gây dựng.

      Vì thế Sigurðr cứ nằm bất động; cậu để Einarr đấm cho cái giới hạn ấy quay lại mới thôi.

      Khi thấy Sigurðr phản kháng, Svanhildr rất lo lắng cho tính mạng của cậu và đổi hướng đến bên chiếc nôi rồng nữa. giữ chặt cánh tay phải của Einarr khi thu tay lại để chuẩn bị cho cú đấm nữa, và chồng theo bản năng tung nắm đấm tay trái ra. trúng đòn mạnh, văng ra đập đầu vào đống gỗ.

      Bragi biết nên đối đầu trực tiếp với cha mình; cậu con trai vẫn còn chơi đùa với kiếm đồ chơi thể nào địch nổi Viking. Việc chú Sig bị đánh làm cậu rất hoảng sợ, nhưng Bragi còn thấy mối nguy hiểm khác nữa: mỡ cá voi tràn khỏi cái đèn bị đổ lúc nãy, làm chồng đồ gỗ mới khắc bắt lửa, và ngọn lửa lan rộng ra.

      Bragi bắt đầu thét ầm lên rằng nhà cháy, nhưng thậm chí cả điều này cũng đủ làm cha cậu tĩnh trí lại. Những cú đấm của Einarr, dù vẫn trượt nhưng hề giảm , tiếp tục trút như mưa xuống người Sigurðr và khuôn mặt kẻ tấn công chẳng biểu lộ gì ngoài cơn thịnh nộ đầy đáng sợ.

      Những băng ghế dọc tường cũng bén lửa và ngọn lửa leo dần lên các cành sồi Iceland nhô khỏi mấy bức tường. Chẳng có cách nào ngăn lửa lại và - thể tệ hơn, Bragi thấy - lửa hướng về phía mẹ mình, nằm bất động nơi ngã xuống. Máu rỉ ra trán , chảy xuống cặp mắt nhắm chặt.

      Bragi lắc mẹ mình, nhưng mẹ phản ứng lại. Khi cậu nhận ra thể lay mẹ dậy, cậu vòng tay xuống nách mẹ và cố đứng vững. Cậu dùng hết bình sinh để kéo, nhưng cậu vẫn còn say và còn quá bé nên chỉ kéo được mẹ ra chút, vài phân lần. Tuy thế, cậu vẫn kéo mẹ ra. Cậu phải kéo mẹ ra.

      Khi Bragi kéo Svanhildr ra cửa, Einarr vẫn tiếp tục đợt tấn công hung hãn của . Cho dù có muốn Sigurðr cũng còn phản công được nữa: mặt cậu ngập trong vũng máu, xương sườn bị gãy vô số kể, và chân cậu giật lên với mỗi cú đấm trúng đích. Tuy nhiên, cậu vẫn cố qua kẽ những chiếc răng gãy.

      "Cháy, Einarr," cậu thốt lên. "Vợ! Bragi!"

      Cậu cứ lặp lặp lại mấy từ đó cho tới khi cuối cùng nó cũng đến tai Einarr. Einarr ngưng đấm đá và bối rối nhìn xung quanh, như người biết mình vừa tỉnh dậy tại nơi nào. nhìn thấy Bragi đứng ở cửa ra vào của ngôi nhà dài, bên dưới là Svanhildr nhưng thể xa hơn, họ bị chặn lại bởi hàng rào lửa.

      chạy vụt đến chỗ họ và đá đổ cánh cửa bốc cháy. tóm lấy Bragi và ném cậu ra, nhưng thể làm thế với Svanhildr - thể khi bất tỉnh nằm đó được - thế nên vác lên vai và chúi người xuống. Cách duy nhất để thoát là phóng thẳng qua cửa; họ có thể bị bỏng, nhưng họ sống.

      Sigurðr, thương tích đầy mình nằm sàn, nhìn Einarr và Svanhildr biến mất sau màn lửa và biết rằng cậu thể theo họ được. Cậu thể tưởng tượng nổi mình có thể lê được phân nào, gì đến cả quãng đường cần thiết để thoát khỏi đám cháy, và nghĩ:Tất cả mọi thứ kết thúc như thế này đây. Trong biển lửa.

      Lửa tí tách nhảy múa quanh cậu như cười nhạo, và cậu nghĩ đây thanh cuối cùng mình nghe thấy. Rồi cậu nghe thấy tiếng đứa bé khóc.

      Quần áo Sigurðr bắt lửa và cậu cảm thấy da mình nổ lộp bộp như bong bóng. Dùng những ngón tay gãy nát của mình, cậu dập hết chỗ lửa đó; cậu có thể làm tay mình cháy rụi khi làm thế, nhưng cậu còn cảm giác gì nữa và điều đó cũng chẳng quan trọng. Máu rỉ từ khóe mắt và đọng lên râu của cậu, nhưng cậu chỉ lau và bắt đầu bò về nơi phát ra tiếng khóc của Friðleifr.

      Bên ngoài, trong ánh lửa bùng lên từ nhà dài, Svanhildr tỉnh lại và điên cuồng ôm chặt lấy Bragi. Khi nhận ra rằng Friðleifr ở đó với họ, buông tay ra và gào khóc thảm thiết. bắt đầu loạng choạng về phía ngôi nhà, và Bragi phải giữ lại; cậu thể để mẹ mình bước vào cái địa ngục nơi chẳng hy vọng gì thoát ra được.

      Einarr, tĩnh trí lại, cũng lao về phía ngôi nhà chìm trong lửa. Trái tim thúc giục chạy bổ vào trong, nhưng bản năng gốc cho phép điều đó. làm được gì khác, thể tiến về phía ngọn lửa hay tránh xa khỏi nó, quỳ xuống đất và úp mặt vào đôi bàn tay. Svanhildr tiếp tục gào thét về phía ngôi nhà cháy và Bragi tiếp tục giữ chặt lại cho tới khi mục tiêu cuồng nộ của chỉ nhằm vào ngôi nhà nữa. Cậu thả mẹ mình ra và chạy thẳng đến chỗ Einarr, đấm đá đến khi kiệt sức gục xuống bên cạnh chồng mình.

      Enairr hề đưa tay lên đỡ cho tới khi sụp xuống, rồi giơ tay lên với tới chỗ . Giây phút lòng bàn tay chạm vào , giật mình tránh ra, và biết mình nên thử nữa làm gì.

      Buổi sáng hôm sau, nhà dài chẳng còn gì ngoài nhúm tàn than cháy dở vương vãi những tảng đá làm móng nhà. Những người khác tới - nông dân, Viking, thương nhân - bắt đầu lục lọi chỗ đổ nát. Einarr muốn làm việc này chút nào, nhưng vẫn biết mình buộc phải làm thế.

      về phía chỗ trước kia là cái nôi rồng, nhưng nó còn ở đó nữa: chỉ có đống cột cháy thành than, và cái cột đầu rồng chưa bị thiêu trụi cùng những cột khác vẫn ỉ cháy.

      Có tiếng thét cất lên từ người trong đội tìm kiếm: xác của Sigurðr được tìm thấy. phải nơi trận đánh nhau xảy ra, mà có lẽ phải xa chỗ đó đến hơn chục mét. Thi thể bị bám tro khủng khiếp đến nỗi Einarr cũng thể nhận ra đây là bạn mình; nó có mang hình dạng con người, nhưng bị thiêu rụi đến tận xương.

      Cảnh đó làm Einarr phát buồn nôn, nhưng địa điểm tìm thấy xác làm bối rối. Thay vì hướng về phía cửa, Sigurðr bò về phía góc nhà chỗ có rãnh nước. Điều này có thể hiểu được nếu chỗ đó đủ rộng để có thể thoát ra - nhưng nó quá . Sigurðr còn chẳng nạy tấm ván sàn lên nữa; cậu nằm hẳn lên nó.

      tiếng động.

      Einarr và những người đàn ông đứng quanh cái thân xác cháy rụi cứ nhìn nhau hết người này đến người khác, như thể để xác nhận rằng mình điên, rằng thực thanh phát ra từ xác chết.

      Yếu ớt. tiếng rên rỉ.

      Ở bên dưới. Tiếng động phát ra từ bên dưới những tấm ván sàn.

      Hai người đàn ông kéo xác Sigurðr qua bên, luồng hơi đầy tro bụi bay ra từ cái sọ, và Einarr bắt đầu giật tấm ván lót nền lên. Chúng cháy sém nhưng bị lửa thiêu rụi; ràng Sigurðr dùng thân mình ngăn lửa lại. Khi những tấm ván được gỡ ra, Einarr nhìn thấy thứ trôi dòng nước, bọc kỹ trong lần chăn ấm và được buộc chặt bằng sợi dây mặt đầu mũi tên của Sigurðr là em bé mới sinh. Cậu bé Friðleifr run bần bật và nửa chìm nửa nổi trong làn nước lạnh, nhưng vẫn sống.

      Einarr đỡ đứa trẻ lên và ôm chặt lấy nó, chặt hơn bất cứ cái ôm nào trước đó.

      Những ngày sau đó, Einarr và Bragi dành hết thời gian ở bên cái vịnh thích của Sigurðr, đào cái huyệt khổng lồ. Khi cái huyệt đủ to, họ nhờ những người Viking khiêng chiếc thuyền của Bragi tới - chiếc thuyền Sigurðr sơn với những màu sắc rất rực rỡ. Trong lúc đưa nó xuống huyệt, vài người Viking làu bàu rằng Sigurðr chẳng phải chiến binh vĩ đại đến mức xứng đáng được hưởng ngôi mộ là con thuyền đẹp thế này, nhưng chẳng ai dám lớn lên cả. Họ cứ để Einarr và gia đình vĩnh biệt người đàn ông cứu mạng con họ.

      Bên cạnh thi thể của Sigurðr thuyền, họ đặt vào đó cơ man nào là đồ vật: cốc bia ưa thích của cậu và cái muỗng hình con ngỗng trong bếp, cả hai đều được lôi ra từ đống tro tàn; cọ vẽ và phẩm màu của cậu; Sigurðsnautr; và cái đầu rồng duy nhất bị thiêu trụi từ nôi của Friðleifr. Rồi Svanhildr tháo chuỗi vòng cổ của ra và nhàng đặt lên bộ ngực tàn tạ của Sigurðr, chỉ giữ lại mảnh có khắc cổ ngữ mà cậu tặng cho .

      Svanhildr và Einarr cũng định đặt cả chiếc vòng cổ có hình đầu mũi tên vào mộ nhưng cuối cùng quyết định làm thế. Nó dành cho Friðleifr, làm lá bùa bảo vệ cậu khi cậu trưởng thành.

      Einarr tự tay xúc đất lấp huyệt. Bragi và Svanhildr, với đứa bé bấu chặt lấy ngực , ở suốt đêm bên cạnh . Khi ánh mặt trời đầu tiên xuất , xẻng đất cuối cùng được đổ xuống, Einarr kiệt sức ngồi phịch xuống, nhìn vào đại dương nơi mặt trời mọc lên như ánh nhìn phán xét của thần Odin. Bragi ngủ thiếp và Einarr, thể cứ tiếp tục giữ cái bí mật khủng khiếp ấy thêm giây phút nào nữa, thú nhận với Svanhildr lý do vì sao trận đánh nhau đó lại xảy ra.

      Khi kết thúc, Svanhildr chạm vào chồng mình lần đầu tiên từ sau khi ngôi nhà dài bị cháy. thể lời tha thứ nào, nhưng nắm lấy tay .

      " hiểu vì sao lại làm thế," Einarr , nước mắt chảy xuống hai má. " rất quý cậu ấy."

      Họ ngồi đó gì trong lúc lâu, Einarr vẫn khóc, cho tới khi cuối cùng Svanhildr cũng chịu lên tiếng. "Friðleifr là cái tên đẹp," , "nhưng có lẽ đẹp bằng Sigurðr."

      Einarr bóp tay mạnh hơn và gật đầu, rồi lại tiếp tục khóc.

      "Chúng ta được phép quên," Svanhildr , nhìn xuống khuôn mặt say ngủ của em bé mới thoát chết tựa vào ngực ấy. "Kể từ hôm nay, đứa trẻ này mang tên người bạn của chúng ta."
      Hyunnie0302Jenny Nguyen thích bài này.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :