1. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Cô gái mang trái tim đá - Andrew Davidson (end)

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. thuytinhtim_1102

      thuytinhtim_1102 Well-Known Member

      Bài viết:
      1,916
      Được thích:
      3,133
      Chương 8
      Lớn lên ở Engelthal, điều khó khăn nhất đối với tôi là làm thế nào để hạ giọng mình xuống. Tôi hiểu im lặng là phần thể thiếu trong đời sống tinh thần của chúng tôi, tuy thế tôi rất hay bị chỉnh vì tội "quá cởi mở". Thực ra tôi chỉ làm những gì đứa trẻ hay làm mà thôi.

      Ở Engelthal chỉ thanh mà tất cả mọi thứ đều câm lặng. Mọi mặt của cuộc đời chúng tôi đều được tóm gọn trong Thể chế Giáo hội, tài liệu chỉn chu đến mức dành hẳn năm chương chỉ để về quần áo và giặt giũ. Thậm chí cả những tòa nhà của chúng tôi cũng có chút tinh tế nào vì sợ làm vấy bẩn tâm hồn chúng tôi. Chúng tôi phải ngồi trong phòng ăn theo đúng thứ tự như khi đứng hát đồng ca. Trong suốt bữa ăn, chúng tôi vẫn được nghe đọc sách để nuôi dưỡng cả thể chất lẫn tinh thần. Chúng tôi phải nghe những đoạn trích trong Kinh Thánh và rất nhiều đoạn về thánh Augustine, thỉnh thoảng là Cuộc đời của thánh Dominic, Hào quang truyền thuyết, hoặc Thánh Trudperter Hohelied. Ít nhất việc nghe đọc sách cũng giúp chúng tôi sao nhãng khỏi bữa ăn nhạt nhẽo - gia vị bị cấm và chúng tôi được ăn thịt nếu cho phép đặc biệt, chỉ được đưa ra vì những lý do về sức khỏe.

      Bất cứ khi nào phải ở nhà nguyện chính để dự thánh lễ Mass, tôi dành toàn bộ thời gian của mình trong phòng viết. Gertrud thể rất ngay từ đầu là bà ưa diện của tôi chút nào. Tuy thế, với tư cách thủ thư của tu viện, mẫu mực nếu bà cứ thẳng tay xả cục tức lên đầu tôi. Về điều này, có trợ lý của bà là xơ Agletrudis lo rồi.

      Agletrudis là hành tinh bụ bẫm quay xung quanh Gertrud, siêu sao của phòng viết; tất cả những hành động của ta đều được tính toán sao cho luôn làm hài lòng chủ nhân của mình bằng cách hành hạ tôi. Mục đích cả đời của ta là tiếp quản phòng viết sau khi Gertrud chết. Tôi là cái gì chứ, ngoài vật cản to tướng con đường của ta?

      Từ rất lâu trước khi tôi đến, mối quan ngại tài chính thâm nhập vào phòng viết. Cung cấp sách cho những công dân giàu có, thường là để đổi lấy đất đai sau khi họ chết, thành tập tục. Gertrud, bất chấp mọi vẻ thần thánh tự tạo của mình, bao giờ phản đối sắp đặt này bình diện kinh tế nhưng ghét việc bán sách vì lý do: chuyện đó ảnh hưởng đến việc sử dụng phòng viết cho mục đích riêng của bà. Hồi nghiệp còn non trẻ, Gertrud quyết định soạn tác phẩm vĩ đại đời đời lưu giữ truyền thuyết về bà: bản Kinh Thánh bằng tiếng Đức. Tuy bà chưa bao giờ hẳn chuyện đó ra, tôi chắc chắn rằng bà mơ mộng nó được biết đến dưới cái tên Die Gertrud Bibel.

      Đây chính là vấn đề căn bản với diện của tôi: tôi là - người lớn chưa hoàn thiện - người lấy mất khoảng thời gian quý báu bà dành cho công việc thực của mình. Tôi vẫn còn nhớ những lời Gertrud khi bà đặt tôi dưới quản lý của Agletrudis. "Tu viện trưởng tin rằng đứa trẻ này có thể làm được gì đó. Chỉ cho nó vài kỹ năng cơ bản, tốt nhất là ở bên phòng ấy, nhưng cấm cho nó sờ vào cái gì. Những ngón tay chuối mắn ấy xứng đáng được chạm vào những dụng cụ của Chúa. Và hết, kéo nó tránh xa cuốn Kinh Thánh của ta ra."

      Thế là, thời gian đầu, tôi chỉ được phép ngồi nhìn. có thể hình dung được đối với đứa trẻ chuyện này buồn tẻ đến thế nào đấy, nhưng vì tôi dành phần lớn tuổi thơ thu thập thông tin trong khi ngồi yên lặng ở góc phòng, nên chuyện này cũng chẳng có gì mới với tôi cả. Tôi bị mê hoặc bởi cách những chiếc bút lông trở thành phần phụ trợ cho ngón tay người viết. Tôi tìm hiểu công thức làm mực và biết được rằng thêm thần sa hoặc chu sa vào làm mực có màu đỏ. Tôi quan sát cách các nữ tu dùng dao để gọt đầu bút chì mỗi khi những con chữ hăm dọa đánh mất độ nét. Ngay lập tức tôi biết mình ở đúng vị trí.

      Có những thứ ngày nay chúng ta coi là hiển nhiên vào thời đó lại rất đặc biệt. Ví dụ như giấy. Chúng tôi tự làm mà nhận hàng từ người cung cấp giấy da trong vùng. Rồi chúng tôi phải chuẩn bị sẵn sàng cho giấy được đem vào sử dụng. Các xơ phân loại giấy theo chất lượng tốt xấu rồi theo lông và da động vật để cho thớ giấy được đều khi mở rộng cuốn sách, và thỉnh thoảng Gertrud cũng chỉ thị rằng cuốn sách cần được thêm vài trang màu "để có chút khí thế". Chỉ riêng cuốn sách cũng cần đến da của vài trăm con vật. Làm sao bị cuốn hút chứ?

      Tôi có thể chỉ trích Gertrud vì rất nhiều thứ nhưng chắc chắn đối với tận tụy bà dành cho công việc . Nếu nhiệm vụ được giao là dịch cuốn sách, mỗi việc bàn luận về cách diễn đạt câu thôi đôi khi cũng kéo dài hơn cả giờ đồng hồ. Hầu hết các xơ làm việc trong phòng đó, dù có càu nhàu về thái độ độc tài của Gertrud, đều cảm thấy rằng bà hoàn thành nhiệm vụ mà Chúa chỉ định riêng bà làm. Các xơ bao giờ dám ho he chút nào, cả trong thời kỳ soạn cuốn Die Gertrud Bibel căng thẳng nhất.

      Cũng có mấy ghi chép băn khoăn nhiệm vụ dịch lớn lao như thế được ai chỉ định và liệu công việc đó có xúc phạm thánh thần , nhưng những xơ này cũng đủ khôn ngoan để chất vấn người cai quản phòng viết - hoặc chỉ đơn giản là sợ dám hỏi. Thế nên họ cũng chẳng dám ca thán gì, chỉ cố tập trung vào số trang hiếm hoi của cuốn Kinh Thánh được Gertrud chấp nhận. Trong khi tất cả mọi người đều tham gia vào quá trình soạn sách, bà luôn là người có tiếng cuối cùng.

      Gertrud chỉ cho phép những người chép sách lành nghề nhất làm việc với những cuốn sách da bê thượng hạng. Bà cứ lảng vảng xung quanh họ, giật nẩy cả cái cổ cò mỗi khi lo rằng từ nào đó có thể bị viết sai hoặc mực có thể bị nhòe. Khi dấu chấm cuối cùng được đặt sau câu cuối cùng của trang bản thảo, có thể thấy vai Gertrud thả lỏng và nghe tiếng khí kẹt trong phổi bà thoát ra nhõm. Rồi bà lại soàm soạp nuốt thêm ngụm khí đầy nữa.

      Những khoảnh khắc thư giãn này kéo dài lâu. Gertrud phải mang cuốn sách đến chỗ những người chuyên viết đề mục để đánh dấu số chương và số tiết bằng mực đỏ, và trong khi quá trình này diễn ra, những người minh họa vẽ thử hàng tá bức ký họa để đưa vào những góc trống trang giấy. Khi quyết định cuối cùng được đưa ra, những bức tranh được đặt vào đúng chỗ.

      Những trang sách hoàn thành quả là công trình diệu kỳ. Gertrud dành cả tiếng đồng hồ kiểm tra kiểm tra lại rồi mới chịu xếp nó lại và chuyển sang trang khác. Từng tờ từng tờ , cuốn sách hoàn chỉnh dần ra, nhưng vẫn luôn có những công đoạn khác cần hoàn thành. Bất cứ khi nào chúng tôi có đơn đặt hàng bản thảo từ các nhà quý tộc, Gertrud hướng ánh nhìn nhớ nhung trìu mến về phía tình đầu của mình, nhưng bà cũng phải nghe lệnh của tu viện trưởng như tất cả những người khác thôi.

      hiểu sao, chuyện tôi được phép tham gia vào bất cứ nhiệm vụ nào của phòng viết lại đến tai tu viện trưởng. Tôi có thể hình dung được xơ Christina đứng đằng sau vụ này. Với tiếng thở dài cam chịu và bài giải thích dài lê thê rằng mình rất phản đối chuyện này, Gertrud cho tôi biết là "dưới chỉ thị của Tu viện trưởng, bây giờ ta phải cho phép những ngón tay bé tí ngu ngốc của ngươi được bắt đầu luyện tập." Bà cho tôi vài mảnh giấy da cũ, nham nhở lỗi chép sai, và bảo tôi nỗ lực làm việc .

      Tôi chìm đắm vào công việc. Tôi luyện tập bất cứ mẩu giấy da bê vứt nào mà tôi tìm thấy và, khi kỹ năng của tôi tiến bộ, tôi miễn cưỡng được cho những cây bút lông tốt hơn và được dành nhiều thời gian để luyện tập kỹ năng dịch hơn. Tôi biết tiếng Đức, Latin, Hy Lạp và Aramaic, tiếng Ý trong cuốn Kinh Thánh của Paolo, và chút tiếng Pháp. Tôi đà đọc hết từng cuốn trong phòng viết và trưởng thành của tôi luôn là nguồn ngạc nhiên sững sờ đối với các xơ, dù tôi chẳng bao giờ nhận được lời tán dương nào từ Gertrud cả. Xơ Agletrudis luôn tìm được niềm vui trong việc bới móc mọi sai sót của tôi và khi tôi quay lưng lại tiếp tục làm việc, lọ mực của tôi bị đổ cách bí , những cuốn sách của tôi biến mất cách bí , hoặc những chiếc bút lông ngỗng của tôi bị tòe ngòi cách bí . Mỗi lần tôi chỉ ra những tai nạn "ngẫu nhiên" với Gertrud, bà chỉ cười khẩy và thề sống thề chết cho trong sáng của xơ Agletrudis.

      Tuy thế, cuối cùng Gertrud cùng trợ lý cũng thể phủ nhận tài năng của tôi được nữa. Tôi dần trở thành người dịch được nhiều ngôn ngữ nhất, và cũng là người dịch nhanh và chính xác nhất. khó chịu của Agletrudis đối với tôi còn là ưa đơn thuần nữa mà biến thành cảm giác ghen ghét đầy đe dọa, cả Gertrud cũng bực bội ra mặt khi bà bắt đầu nhận ra tôi có giá trị đến thế nào đối với Die Gertrud Bibel. Bà chẳng còn là phụ nữ trẻ trung gì nữa, và nếu muốn đảm bảo cuốn Kinh Thánh được hoàn thành khi bà còn sống, bà cần phải đẩy nhanh tiến trình lên. Cuối cùng, bà cũng chịu để tôi bắt đầu đóng góp chút ít.

      Có cả cuộc sống bên ngoài phòng viết nữa. Lớn dần lên, tôi phát ra cách trèo qua những cánh cổng tu viện và cuối cùng tìm được đường đến với thế giới bên ngoài. Tôi tìm rắc rối; tôi chỉ muốn biết ngoài kia có gì thôi. Lẽ tự nhiên điểm dừng đầu tiên của tôi là căn nhà thuộc về cha Sunder và huynh trưởng Heinrich. Khi tôi xuất , cha Sunder hề che giấu vẻ hài lòng về hành động của tôi. Ông dọa kéo tôi về lại tu viện và báo cho tu viện trưởng biết, nhưng chẳng hiểu sao chúng tôi lại cùng nhau ngồi uống nước trái cây. Rồi chúng tôi ăn chút. Và trước khi ông kịp nhận ra, thời gian trôi qua dài đến nỗi khó xử nếu cố giải thích tại sao ông lại mang tôi về ngay lập tức. Thế là, sau khi tôi hứa quay lại nữa, huynh trưởng Heinrich và cha Sunder cho phép tôi lẩn lại vào tu viện. Tôi quay trở lại vào đêm hôm sau. lần nữa tôi lại bị mắng té tát, nhưng chúng tôi cuối cùng còn ăn nhiều thức ăn và uống nhiều nước ép hơn. Mô hình tôi cứ phá vỡ lời hứa còn họ cứ mắng nửa vời ấy kéo dài trong vài tuần cho tới khi chúng tôi cùng nhau bỏ cái trò đóng kịch ấy .

      Mỗi khi đến bên rặng núi trông sang căn nhà của họ, tôi luôn cảm thấy rất phấn khởi. Ngôi nhà gỗ của họ trở thành ngôi nhà thứ hai, ngôi nhà bí mật của tôi. Vào những tối mùa hè chúng tôi thường chơi trốn tìm giữa những bụi cây. Đó là quãng thời gian hạnh phúc nhất của tôi, liếc nhìn từ phía sau bụi rậm hai người đàn ông trạc ngũ tuần đáng bậc cha chú giả vờ tìm thấy tôi.

      Engelthal là cộng đồng bé, thế nên việc người khác biết về những chuyến viếng thăm "vụng trộm" của tôi là điều thể tránh khỏi. Tôi nghĩ ai thấy chuyện này nguy hiểm cả, và dù đó là bí mật mở giữa các nữ tu sĩ, tôi thực lòng tin rằng Gertrud, Agletrudis và cả tu viện trưởng đều hề biết. Nếu họ mà biết, những chuyến thăm thú của tôi bị dập ngay lập tức chỉ vì lý do bảo vệ tài sản.

      Tu viện trưởng mất trong đêm hồi tôi chỉ là đứa trẻ mới lớn, và cần phải bầu ra nữ tu viện trưởng mới càng sớm càng tốt. Những tu viện dòng thánh Dominic là những tổ chức rất dân chủ; xơ Christina, người vừa mới hoàn thành Cuốn sách về các xơ tại Engelthal và bắt đầu cuốn Khải huyền, đạt được số phiếu gần như tuyệt đối. Thế là bà sở hữu danh xưng mẹ Christina. Hiển nhiên tôi rất hài lòng với kiện này, nhưng đó đồng thời cũng là vấn đề đối với xơ Agletrudis. Mọi chuyện mới nhanh chóng chuyển sang chiều hướng bất lợi cho ta làm sao kia chứ, về khát vọng leo lên chức thủ thư tu viện ấy. chỉ vì diện của thần đồng trong phòng viết, mà còn bởi vị nữ tu viện trưởng mới từ lâu luôn là người bảo hộ lớn nhất cho bé ấy. Khi tôi chính thức cất lời tuyên thệ theo đạo lâu sau khi mẹ Christina nhậm chức, đây hẳn trở thành giọt nước làm tràn cái thùng mang tên xơ Agletrudis. Tôi có thể cảm nhận được căm ghét bùng cháy trong mắt ta khi tôi thề phục vụ thánh Dominic và tất cả các tu viện trưởng cho tới chết.

      Tuy thế, trong mắt những nữ tu sĩ khác, tôi lại thấy ủng hộ và tình thương. Đối với họ, có vẻ như tất cả mọi thứ trong cuộc đời tôi được đặt vào đúng chỗ - nhưng đó phải những gì tôi cảm thấy. Tôi thấy mình như kẻ mạo danh trong ngôi nhà của Chúa vậy.

      Tôi được nuôi dưỡng trong bầu khí vô cùng thiêng liêng, nhưng tôi chẳng cảm thấy mình thánh thiện chút nào. Thế nên rất nhiều xơ trong số chúng tôi, gồm cả Gertrud và Agletrudis, đều thấy những ảo giác thần bí, nhưng tôi . Điều này làm tôi luôn có cảm giác kém cỏi. Tôi có năng lực ngôn ngữ, đúng, nhưng đó cũng chỉ là những gì họ thấy - năng lực, chẳng phải quà tặng hay thiên khải của Chúa. chỉ mỗi việc thiếu kết nối với Chúa mới làm tôi cảm thấy xứng, mà còn vì những nữ tu sĩ khác đều có vẻ quá chắc chắn về con đường của họ trong khi có rất nhiều thứ tôi hiểu gì cả. Tôi cảm thấy hoang mang trong cả tâm hồn và nhận thức; tôi thiếu chắc chắn mà dường như tất cả mọi người đều có.

      Mẹ Christina trấn an tôi rằng tôi nên quá lo lắng về việc thiếu ảo giác. Mỗi nữ tu sĩ chỉ nhận được lời nhắn khi sẵn sàng, bà , và vấn đề nằm ở việc kêu gọi Chúa đến với mình mà phải làm bản thân trở nên thuần khiết hơn để Chúa muốn tới. Khi tôi trả lời rằng tôi biết phải làm gì nữa để bản thân được trong sáng hơn, mẹ Christina khuyên tôi nên chuẩn bị sẵn sàng đón nhận Chúa Vĩnh Hằng bằng việc bỏ vẻ phàm tục ăn sâu vào trong máu tôi . Tôi gật đầu, như thể khẳng định lời giải thích này làm sáng tỏ mọi thứ, nhưng thực tế nó để lại trong tôi cảm giác bối rối khác gì cảm giác của con bò lạc.

      Tôi nghĩ về những ý tưởng này cả đời, nhưng chẳng thể ngộ ra. Ý tưởng, khái niệm. Những kiến thức thông thường quá mơ hồ mà tôi thể nắm bắt. Mẹ Christina hẳn nhìn thấy nét mặt tôi khi ấy, vì bà nhắc tôi nhớ rằng tôi cũng có khả năng ngôn ngữ thể lý giải và dù năng lực này mang đến những ảo giác kỳ bí, nó thực làm tôi trở nên độc đáo. Ngày càng ràng là, bà , Chúa chắc chắn phải có dự định tuyệt vời cho tôi. Nếu tại sao Người lại ban cho tôi món quà tuyệt diệu đến như thế? Tôi hứa nỗ lực nhiều hơn và thầm mong ngày nào đó tôi cũng trưởng thành để có niềm tin vào bản thân mình như bà có.

      lâu sau khi bước vào tuổi đôi mươi, tôi gặp Heinrich Seuse lần đầu tiên và cũng là duy nhất. Ông đường từ Straburg tới Koln, nơi ông học tại studium generale(22) . Ông , dù tiện đường nhưng khó bỏ qua cơ hội đến thăm Engelthal vĩ đại. Nguyên văn lời ông là thế đấy.

      Hiển nhiên ông biết cách uốn lưỡi để bỏ bùa mẹ Christina, nhưng Gertrud lại là chuyện khác. Ngay khi nghe phong thanh chuyện Seuse nghiên cứu dưới chỉ dẫn của Eckhart, bà từ chối gặp ông luôn.

      Eckhart là chủ đề khá tế nhị. Dù là học giả thành công với những bài viết về thần học bằng tiếng Latin, ông có vẻ nổi tiếng hơn, hay đúng hơn là tai tiếng hơn, với những bài thuyết giảng bất thường bằng tiếng Đức mẹ đẻ. Khi Eckhart về giống nhau siêu hình giữa bản chất của Chúa và linh hồn con người, những ý tưởng của ông dường như xa rời khỏi đạo lý Thiên Chúa chính thống, và đây phải thời dành cho những ý tưởng như thế. có quá nhiều xung khắc giữa các dòng tu và giới tăng lữ về việc Giáo hoàng chuyển đến Avignon rồi.

      Khi tôi đọc những bài viết của Eckhart và hỏi Gertrud về ông, phản ứng của bà khá dữ dội. Dù thừa nhận chưa thực đọc tác phẩm nào của ông, bà cũng nhấn mạnh mình cũng chẳng có lý do gì phải đọc cả. Bà nghe đủ những quan điểm nhơ bẩn của Eckhart đến nỗi chẳng cần phải đến nguồn rác nữa. Bà nhổ tên ông ra khỏi miệng như thể nó là quả thối. "Eckhart là người đàn ông đầy triển vọng, nhưng ông ta tự đẩy bản thân tới chỗ tàn lụi. Ông ta bị coi là kẻ dị giáo, chóng thôi, nhớ lời tôi đấy. Ông ta thậm chí còn thừa nhận rằng Chúa rất tốt đẹp nữa."

      Cũng có phần lạ là thái độ của Gertrud thành ra lại có lợi cho tôi. Vì bà từ chối gặp Seuse, tôi được chọn để dẫn ông thăm thú phòng viết. Tôi khá sốc vì diện mạo của ông. Ông gầy đến nỗi tôi khó mà tin được xương ông có thể chống đỡ được sức nặng cơ thể, mà bản thân nó cũng lắm rồi. Da ông vàng vọt và đầy vết đồi mồi, và tôi có thể thấy từng mạch máu mặt ông nổi ngay dưới lớp da. Quầng thâm đen tụ dưới mắt ông, như thể ông chưa bao giờ được ngủ vậy. Tay ông, chi chít vảy mà ông hay gảy theo thói quen, trông như đôi găng tay thịt đổ đầy những mảnh xương ghép lỏng lẻo với nhau.

      miêu tả của tôi làm ông trông có vẻ khủng khiếp nhưng thực tế ông hoàn toàn ngược lại. Làn da mỏng mảnh của ông dường như chỉ để cho ánh sáng của tâm hồn chiếu rọi qua. Cách ông vẫy những ngón tay mảnh khảnh khi làm tôi liên tưởng đến những cây non rung lên trước mỗi cơn gió . Và nếu ông trông như chẳng bao giờ ngủ, cách ông làm người nghe hiểu được đó chỉ là bởi ông thường xuyên phải nhận những thông điệp quan trọng thể bỏ qua. Mặc dù ông chỉ hơn tôi vài tuổi, tôi thể có cảm giác là ông biết những bí mật mà tôi chẳng bao giờ nắm được.

      Tôi dẫn ông qua phòng viết và rồi, lát sau, qua những mảnh đất trải dài thuộc về Engelthal. Khi chúng tôi an toàn tránh xa khỏi những đôi tai nhan nhản khắp mọi ngóc ngách của tu viện, tôi liền nêu lên chủ đề Meister Eckhart, và đôi mắt Seuse sáng bừng lên như thể tôi vừa đưa cho ông chìa khóa dẫn vào Thiên đường. Ông liến láu tất cả mọi điều ông biết về người đàn ông sắp trở thành thầy giáo của mình. Tôi chưa bao giờ nghe những lời lẽ rối rắm mà lại sáng lạn đến thế, và giọng của Seuse trở nên cuồng loạn trong niềm vui tôn giáo.

      Tôi hỏi vì sao xơ Gertrud lại rằng Meister Eckhart thậm chí còn thừa nhận Chúa rất tốt đẹp. Seuse giải thích rằng quan điểm của Eckhart là bất cứ cái gì tốt cũng đều có thể tốt hơn, và mọi thứ có thể trở nên tốt hơn ấy đều có thể trở nên tốt nhất. Chúa thể được miêu tả là "tốt", "tốt hơn" hoặc là "tốt nhất" được vì Người ngự trị tất cả mọi vật. Nếu người rằng Chúa rất thông thái, người đó dối vì bất cứ cái gì thông thái cũng đều có thể trở nên thông thái hơn. Bất cứ điều gì người đó về Chúa cũng đều chính xác, kể cả gọi Người là Chúa. Chúa là " thượng đẳng" và là "Đấng siêu việt", Seuse , hơn hết thảy mọi từ ngữ và hơn tất cả mọi hiểu biết. Điều tốt nhất người có thể làm là giữ im lặng, vì bất cứ khi nào huyên thuyên về Chúa, ta cũng mắc tội dối trá. Người thầy chân biết rằng nếu ta có được vị Chúa mình có thể hiểu được, ta bao giờ coi Người đó là Chúa.

      Buổi chiều hôm đó tâm trí tôi được mở mang những khả năng mới, và trái tim tôi được tiếp thêm những hiểu biết mới. Tôi thể tưởng tượng nổi tại sao Gertrud lại muốn ngăn cho những cuốn sách của Eckhart gia nhập vào tủ sách của chúng tôi. Thứ mà ai đó có thể gọi là dị giáo ấy, tôi chỉ thấy chúng như những giả thiết hợp lý về bản chất của Chúa. Tôi bị thuyết phục rằng những gì tôi học được trong suốt tuổi trẻ của mình quá hạn chế. Nếu những tham luận của Eckhart đến được tai tôi, còn những gì tôi được nghe nữa? Tôi nhận ra điều đó khi Seuse vào buổi chiều hôm ấy, với những tia sáng lấp lánh lên trong mắt, "Đau khổ làm tình của bạn trở nên mạnh mẽ."

      Trong cơn bộc phát, tôi thú với Seuse rằng tôi cực kỳ mong muốn được đọc tác phẩm nào đó của Eckhart. Điều này khiến Seuse thoáng cười, nhưng ông gì cả. Tôi băn khoăn biết có phải vì ông cảm thấy thú vị khi tôi dám ra ước nguyện ngược lại với lập trường của tu viện , nhưng tôi cũng nghĩ thêm gì đến nó nữa cho tới khi ông rời chỗ chúng tôi vài ngày sau đó. Tôi rất muốn được dành thêm nhiều thời gian với ông, nhưng Gertrud, có lẽ đánh hơi được điều này, đảm bảo cho công việc ở phòng viết của tôi nhiều gấp đôi bình thường.

      Tôi được phép chào tạm biệt Seuse ở cổng, khi ông khởi hành đến Koln. Khi chắc chắn bị ai nhòm ngó, ông dúi vội vào lần áo chùng của tôi cuốn sách .
      Hyunnie0302Jenny Nguyen thích bài này.

    2. thuytinhtim_1102

      thuytinhtim_1102 Well-Known Member

      Bài viết:
      1,916
      Được thích:
      3,133
      Chương 9
      Từ khi tôi viết những chữ đó ra, chúng cứ ám ảnh tôi. Vứt cái vẻ thương hại khỏi mặt , con mụ Nhật lùn. Tôi luôn bị thôi thúc sửa lại bức vẽ ngày hôm qua bằng cây cọ vẽ ngày hôm nay và che những điều làm tôi cảm thấy hối tiếc, nhưng tôi khao khát xóa những từ ấy đến nỗi tôi bị thuyết phục là cần phải để chúng lại.

      Sayuri Mizumoto phải con mụ và cũng nhìn tôi với vẻ thương hại. Điều đó quá hiển nhiên. Tôi những lời lẽ khủng khiếp ấy vì tôi phát điên lên với việc Marianne Engel cả tuần liền thèm đến thăm tôi.

      Tôi cảm thấy xấu hổ về cách mình đối xử với Sayuri và sợ rằng câu đó khiến tôi bị coi là kẻ phân biệt chủng tộc. Sao lại thể chứ? Nhưng tôi đảm bảo với bạn rằng tôi chọn từ "Nhật lùn" chỉ bởi vì tôi muốn kiếm cho mình lợi thế có thể làm Sayuri cảm thấy yếu đuối. Tôi dùng từ đó phải vì tôi nghĩ người Nhật là dân tộc thấp kém, mà vì tôi cho rằng có thể Sayuri cũng nghĩ bản thân thấp kém, bởi là Nhật kiều. (Khi trở nên thân thiết với hơn, tôi phát ra chẳng có chút phức cảm tự ti dân tộc nào.) Và cũng như từ "Nhật lùn" có hàm ý phân biệt chủng tộc, từ "con mụ" có hàm ý khinh miệt phụ nữ, nhưng là tôi ghét hầu hết đàn ông cũng như hầu hết phụ nữ. Thực ra là tôi có đủ khả năng trở thành người ghét tất cả mọi sinh vật sống.

      Hay ít nhất, tôi cũng từng. Tôi tin rằng mình thay đổi từ cái hôm tôi đả kích Sayuri. Tuy thể tuyên bố rằng mình thương sâu sắc tất cả mọi người, nhưng tôi có thể tự tin khẳng định giờ tôi ít ghét người hơn hồi xưa. Điều này có thể được coi là tuyên bố yếu ớt về trưởng thành cá nhân, nhưng tôi nghĩ thỉnh thoảng những điều này nên được đánh giá bằng cả quá trình chứ chỉ bằng tình hình tại.

      Bác sĩ Gregor Hnatiuk, trong cơn giận dữ ngút trời, trông đẹp biết bao. Ông ta phóng thẳng vào phòng tôi bắt tôi phải xin lỗi Mizumoto. Hiển nhiên ông ta sau thời đại: ông ta nghe về những lời sỉ nhục của tôi, nhưng chưa biết gì về việc tôi chuộc lỗi bằng tiếng Nhật. Tuy thế, cảnh tượng mồ hôi sáng lấp lánh vầng trán khi ông ta cố bảo vệ danh dự cho người phụ nữ kiều diễm ngoạn mục.

      Đó là lúc tôi nhận ra người ông ta mê mẩn là ai.

      Tôi giải thích tất cả căng thẳng được xóa bỏ và thêm rằng nhờ đó mà Sayuri còn tìm thêm được người bạn mới biết tiếng Nhật nữa. Điều này làm Gregor nguôi ngoai phần nào, nhưng ông ta vẫn thấy cần bồi thêm cú chua cay nữa. " ngày nào đó thấy rằng cái miệng to tướng của mình là cánh cổng chính dẫn đến mọi bất hạnh đấy."

      "Phải, Gregor, tôi nghe câu đó trước đây rồi," tôi . "Từ Sayuri ấy."

      Bầu má sóc chuột của ông ta đỏ ửng. Hiển nhiên chỉ cần nghe thấy tên cũng quá đủ để ông ta bối rối, và cách ông ta quay ngoắt người biến ra khỏi phòng khẳng định mọi nghi ngờ của tôi.

      Trước ngưỡng cửa ông ta đột ngột dừng lại, quay lưng lại : "Marianne Engel được tiếng Nhật à?"

      Dưới đây là bản dịch cuộc đối thoại giữa Marianne Engel và Sayuri Mizumoto.

      Marianne Engel: Mizumoto. Rất hân hạnh được gặp mặt. Tôi là Marianne Engel.

      Sayuri Mizumoto: Vậy ư? Tôi cũng rất vui được gặp . Rất mong được chiếu cố. được tiếng Nhật ư?

      Marianne Engel: chút. Tôi từng sống mấy năm tại trang trại hoa oải hương ở Hokkaido. Có phiền nếu tôi hỏi, tên Hán tự của có phải là "Hoa Loa Kèn Bé " ?

      Sayuri Mizumoto: A, đúng đấy. Tiếng Nhật của tốt quá.

      Marianne Engel: , chưa đến mức ấy đâu. Và họ của có nghĩa là "Nguồn Nước", có phải ?

      Sayuri Mizumoto: Vâng, đúng vậy.

      Marianne Engel: Tên của rất hợp với người bạn của tôi. Xin hãy chăm sóc ấy hộ tôi. Xin hãy bỏ quá cho thái độ tốt của ấy.

      Sayuri Mizumoto: Vâng, tôi cố hết sức.

      Câu hỏi đặt ra là: làm thế nào tôi biết được nội dung cuộc đối thoại mà khi nó diễn ra lần đầu, tôi hiểu gì cả?

      Câu trả lời là: Sayuri giúp tôi. đảm bảo với tôi nó rất trung thành với bản gốc nhưng thực tôi chẳng có cách nào biết được, ngoại trừ việc tin . Tôi tin , khá tin, dù tôi vẫn có nỗi sợ hãi dai dẳng rằng cả bản dịch này là mớ sai sót mà Titivillus tống vào cái bao của nó để mang về cho Satan dùng chống lại tôi vào Ngày Phán xét Cuối cùng. Nhưng đây cũng là cơ hội tôi phải chớp lấy.

      Tôi rất hài lòng được thông báo rằng những lời lẽ tàn nhẫn của tôi phá hỏng tình bạn ngày càng được củng cố giữa chúng tôi. Trong thời gian chúng tôi ở cùng nhau, tôi biết được về tuổi thơ của Sayuri (hay là, ít nhất, cũng là phiên bản của về chuyện đó), như tôi viết lúc trước.

      Nhưng điều lớn lao nhất tôi học được sau bao năm tháng qua là Sayuri Mizumoto là phụ nữ tuyệt vời. Còn từ nào để diễn tả người phụ nữ giúp dịch cuốn sách mà trong đó bị gọi là con mụ Nhật lùn chứ?

      Sayuri và Marianne Engel quyết định cùng giúp tôi thực chương trình phục hồi chức năng. Bác sĩ Edwards có chút lo ngại về ý tưởng đó, nhưng cuối cùng đồng ý khi Sayuri gợi ý rằng người bạn có thể giúp chương trình trở nên dễ dàng và dễ chịu với tôi hơn.

      Tôi đứng được và thậm chí còn được vài bước nữa, nhưng Sayuri muốn tôi bước cơ. Quá trình này đơn giản như khi tôi nhảy khỏi giường và loạng choạng dọc hành lang. mang đến sợi xích đặc biệt để chân tôi có thể đu đưa trong khi khom người xuống trước tôi, kéo chân tôi theo vòng tròn. , hoặc Marianne Engel, ấn tay vào gan bàn chân tôi để mô phỏng lực cản của mặt đất, và tôi phải đẩy lại. Nghe có vẻ đơn giản; nhưng chẳng dễ chút nào đâu.

      Cuối mỗi buổi luyện tập, Sayuri bắt tôi đứng càng lâu càng tốt. Tôi chẳng bao giờ đứng được lâu, nhưng luôn hét "Chiến đấu! Chiến đấu! Chiến đấu!" để khích lệ tôi. Khi thể cố thêm được nữa, tôi được đặt lại vào giường và chúng tôi tổng kết lại những tiến bộ đạt được trong ngày hôm đó.

      Thỉnh thoảng Marianne Engel cầm lấy tay tôi và tôi thấy khó tập trung xem Sayuri gì.

      Marianne Engel đến trong bộ quần áo bụi bặm đến nỗi tôi phải ngạc nhiên vì sao họ lại cho vào. hẳn lẻn qua trạm gác của các y tá, dù tôi cũng chẳng biết sao việc đó lại trót lọt trong khi phải kéo lê hai giỏ thức ăn. Lúc ngồi xổm xuống để dỡ chúng ra, tôi thấy đám bụi rớt ra từ khoeo gối .

      "Tôi nghĩ nhiều về câu chuyện của Francesco và Graziana," tôi thốt lên, vừa nhớ ra mình chưa hề cập nhật với Marianne Engel về việc phát triển nhân cách tới chuẩn lý tưởng của tôi. " lãng mạn."

      cười phá lên trong khi lôi hai chai rượu Scotch ra khỏi cái giỏ lạnh. "Đây là dành cho bác sĩ Edwards, Mizumoto và các y tá. Tôi mong rằng dối tôi, nhưng có lẽ thích câu chuyện tối nay hơn."

      Tôi để ý thấy có chút máu khô bám quanh rìa những móng tay bầm giập của khi lấy thức ăn ra khỏi giỏ lạnh. Cá và khoai tây chiên, xúc xích và khoai tây nghiền. dẻ sườn bò đút lò kèm bánh pudding Yorkshire béo ngậy. Những cái sandwich xíu: thịt lợn hun khói và trứng, pho mát và rau. Bánh quy và mứt dâu. Bánh sữa Kaiser. Những dây tỏi và hành. Pho mát trộn kem thảo mộc. Pho mát bơ Đức, pho mát Thụy Sĩ, pho mát Gouda, pho mát hun khói Gruyère, cả pho mát Emmenthal nữa. Xa lát dưa chuột tươi với xốt sữa chua nằm trong chiếc bát xinh xắn vẽ hình Hansel và Gretel. Những củ khoai tây đỏ mũm mĩm, được bổ làm bốn để khoe phần thịt trắng bên trong; những đọt măng tây xanh mum múp, bơ chảy; những quả cà tím béo tròn được nhồi đầy trông như những bà bầu mắn đẻ. Những lát thịt cừu mỡ màng xếp chồng lên nhau như bức tượng đài khiêu khích bệnh xơ vữa động mạch. chồng cải muối đứng lẻ loi dường như được thêm vào phút cuối vì ai đó nghĩ là đủ rau. Mấy quả trứng nướng, dù ai mà thèm ăn trứng nướng chứ? Rồi, phong cách ẩm thực quay ngoắt sang kiểu Nga: varenyky (bánh hấp, theo kiểu của dân chuyên) phủ hành, và holubtsi (cơm cuốn cải bắp) chan xốt cà chua cay nồng.

      Marianne Engel thả quả trứng vào miệng, như thể bao ngày rồi chưa được ăn, và nhồm nhoàm nhai nuốt như con dã thú. Làm sao người đói đến chừng này lại nếm thử thức ăn trong lúc nấu chứ? Khi thuần hóa cơn đói ngấu nghiến của mình, tuyên bố. "Câu chuyện về Vicky Wennington với những cơn bão dữ dội, tình ân cần và cái chết trong nước biển mặn chát!"

      Tôi ngồi nghiêm chỉnh lại, háo hức nghe, và cắn thêm miếng holubtsi nữa.
      Hyunnie0302Jenny Nguyen thích bài này.

    3. thuytinhtim_1102

      thuytinhtim_1102 Well-Known Member

      Bài viết:
      1,916
      Được thích:
      3,133
      Chương 10
      Trong xã hội London, gì quan trọng hơn là sở hữu cái tên thuộc về dòng họ danh giá, và Victoria D'Arbanville sinh ra mang trong những cái họ lâu đời và đáng kính trọng nhất. Tuổi thơ của chuỗi những bài học để hỗ trợ cho trưởng thành sau này: được dạy tiếng Pháp, tiếng Ý, tiếng Đức, tiếng Latin và chút tiếng Nga; có thể bàn luận về thuyết tiến hóa của Darwin mà cần công khai đến mối quan hệ giữa người và vượn; và có thể hát những khúc opera hay nhất của Monteverdi, dù thích Cavalli hơn. Cha mẹ ra cũng chẳng quan tâm con họ thích loại nhạc nào; họ chỉ quan tâm xem làm thế nào để cưới được quý ông lịch lãm, vì đó là điều mà những thiếu nữ thời nữ hoàng Victoria cần phải làm.

      Victoria chưa bao giờ nghi ngờ rằng mình cũng làm theo đúng như thế, cho đến cái ngày gặp Tom Wennington. phải Thomas nào đó đâu, người đàn ông này là Tom đích thực. Họ cùng dự buổi dạ tiệc trang trọng, Tom - mặc bộ com lê xộc xệch - cùng người bạn. Sau bữa ăn, cánh đàn ông rút về phòng khách nơi chủ đề chính là Nghị viện và Kinh Thánh. Tom cũng chẳng biết gì nhiều mà góp chuyện mặc dù nếu bị ép buộc có thể nêu chút ý kiến về đất cát. người nông dân, từ đầu đến chân, như cha ông vậy.

      Tom là người đàn ông thô kệch hơn bất cứ người đàn ông nào Victoria từng biết, nhưng niềm vui sướng của mỗi khi tình cờ gặp , vô tình mà hữu ý, trong suốt những tuần tiếp theo, là thể chối cãi. Về phần mình, Tom cũng kéo dài thời gian ở lại London thêm tháng so với dự định ban đầu; gồng mình chịu đựng các bữa tiệc, các buổi uống trà, và các buổi biểu diễn opera chỉ để tìm cơ hội gặp Victoria. Cuối cùng bạn của Tom, dù giàu có và hào phóng, cũng bắt đầu hết cả com lê để cho Tom mượn. Tom, biết ruộng đồng của thể tự sinh sôi, quyết định hoặc về nhà mình hoặc lấy hết can đảm bám trụ lại. Tiện đây, đó là câu mà Victoria dạy .

      Nhà D'Arbanville hoảng sợ tột độ khi họ đoán được con mình quan tâm đến cái , cái ... nông dân này! Nhưng đến lúc đó quá muộn. Victoria chỉ giỏi trích lời Phu nhân Macbeth mà còn biết ứng dụng khả năng lập kế hoạch của bà. Khi nhanh chóng nhận ra Tom hiểu được những từ hoa mỹ mình , Victoria sắp xếp chuyến bí mật đến nhà máy hàng đầu trong lĩnh vực sản xuất máy nông nghiệp chạy bằng hơi nước của cả London.

      Tom bước vào cái thế giới xa lạ là London chỉ vì mê mụ Victoria, nhưng chưa bao giờ quên rằng Victoria biết chút gì về cuộc sống của . Qua chuyến này, chỉ cho thấy rất sẵn lòng học nghề nông. Những câu hỏi của đối với người quản lý thực vật chứng tỏ rằng bỏ nhiều công sức nghiên cứu về những thứ đó trước cả khi bước chân vào nhà máy, và đây chính là điều thuyết phục Tom rằng có người phụ nữ nào khác dành cho ngoài .

      Khi Tom cầu hôn, biết những tháng ngày bó gối trong phòng khách của mình kết thúc. Vâng, trả lời ngay lập tức, thèm chơi trò do dự. kết thúc cuộc đời làm Victoria, và sẵn sàng bắt đầu cuộc đời mới với tư cách là Vicky đáng của .

      phản đối của cha mẹ yếu trông thấy khi họ biết Tom sở hữu diện tích đất rộng bao la, và đôi trẻ nên duyên trong hôn lễ quá hoành tráng so với ý thích của . Vicky chuyển đến sống tại trang trại Wennington bát ngát, với phía nhìn ra cánh đồng và phía trông về biển Bắc. Đó là địa điểm khá lạ lùng đối với ngôi nhà, nhưng bà cố nội của Tom khăng khăng phải có được chỗ nhìn ra "nơi đất dừng lại và hòa vào biển cả".

      Vicky nhắc nhở Tom nếu quên cạo râu còn Tom trêu Vicky rằng gót giày của quá cao đối với vợ người nông dân, nhưng cũng thầm run rẩy trước hàm râu lởm chởm ram ráp của cũng rất cái cách đôi ủng thành thị làm hông lúc lắc. Mùi mồ hôi của có thể làm rùng mình sung sướng, còn mùi nước hoa thoang thoảng của khiến phải lấy vội chiếc khăn mùi soa lấm lem ra lau gáy. Khi còn ở London, cơ thể chỉ lặng lẽ tồn tại, nông trại của họ, Vicky ăn sâu bám rễ vào đất mẹ. nhóm lửa để đun những ấm nước khổng lồ cho Tom tắm mỗi tối. thổi ống bễ, mỉm cười, người đẫm mồ hôi, và tưởng tượng cảm thấy thế nào trước gần gũi của . Chính trong những lần tắm tối này mà lần đầu tiên Vicky cảm thấy đôi tay của mình. quên luôn những bài học piano thuở còn thơ khi kỳ cọ đất bẩn cho chồng.

      Đến mùa gặt, Vicky thụ thai. mập lên trông thấy vào mùa đông và sinh em bé khi mùa xuân đến, Vicky gọi cậu bé là Alexander; Tom gọi cậu bé là Al. Bầu khí thôn quê trở nên ngọt ngào hơn bao giờ hết.

      Sáng sáng họ thường cùng nhau đứng vách đá, bế em bé tay, nhìn những ngư dân đến rồi . Họ làm điều này rất thường xuyên sau đám cưới, và mọi việc cũng có gì thay đổi trong suốt mùa hè đầu tiên của đứa bé. Tom nhắm mắt lại và tưởng tượng mình mặt nước. Khi còn trẻ, từng mơ được gia nhập Hải quân Hoàng gia, nhưng từ bỏ ý định khi người cha mất và để lại trang trại cho .

      Tuy nhiên, Tom vẫn có chiếc thuyền thường vào những ngày Chủ nhật. Vào ngày như thế đầu tháng Mười , cũng như bao ngày khác, Tom rủ Vicky cùng . Vụ mùa mới thu hoạch và họ có đủ thời gian rảnh để dành ngày cho nhau. với mình hơi mệt chút và muốn ở lại chăm sóc em bé. "Nhưng cứ ," . "Vui nhé."

      Từ vách đá, Vicky bế Alexander tay, nhìn Tom lái chiếc thuyền ra khỏi cảng và tiến dần về phía đại dương, bóng hình mỗi lúc dần cho đến khi khuất hẳn. kéo áo khoác chặt hơn và kéo chăn lên cằm con. luồng gió lạnh căm căm thổi tới; cảm thấy rét thấu xương trong lúc vội vã quay về nhà. Tháng Mười rồi, nghĩ, có gió cũng là bình thường thôi.

      Luồng gió buốt giá kéo theo cơn bão, đột ngột và dữ dội. Trong trang trại, Vicky thiếp cùng với cơn đau đầu, tay ôm chặt con bên ngực. cứ trở mình mãi cho đến khi cả hai choàng tỉnh bởi tia chớp đánh thẳng xuống cánh đồng. Vicky ngồi bật dậy còn Alexander òa lên khóc. mặc vội quần áo rồi chạy về phía rìa vách đá, để em bé lại cho giúp việc trông.

      Vicky đảo mắt suốt dọc chân trời để tìm chiếc thuyền bé của chồng. Chẳng có gì ngoài nước biển xám xịt cuộn lên giận dữ.

      Ít phút sau, người tá điền ra đưa Vicky vào nhà, e ngại cơn gió mạnh có thể kéo cả bay khỏi rìa vách đá. Dưới đáy vực là những tảng đá sắc nhọn có thể xé toạc con người. Khi Vicky ở yên trong nhà, họ cố trấn an . " Wennington là thủy thủ giỏi. ấy tìm được chỗ trú trong cái vịnh và ngồi ở nơi an toàn đợi cơn bão qua . ấy trở lại khi bão tan thôi." Vicky gật đầu cho qua chuyện, mong muốn tin đó là .

      Đó là cơn bão khủng khiếp nhất trong ký ức của những người còn sống và nó gào thét trong suốt ba ngày liền. Vicky dật dờ từ nhà ra vách đá, đứng mãi cho tới khi có người tá điền đến với là Alexander khóc và cần được chăm sóc.

      Cơn bão cuối cùng cũng qua . Bầu trời u ám rạng dần và ánh mặt trời chiếu rọi qua khe hở giữa các đám mây. Vicky lại quay về chỗ của mình rìa vách đá, và đứng đó cả ngày liền, đợi người chồng trở về. Nhưng vẫn xuất .

      Ngày tiếp theo tổ chức đội cứu hộ. Tom được mọi người quý hết mực và tất cả những chiếc thuyền có thể sử dụng được đều bơi xuôi ngược bờ biển để tìm .

      có chút dấu hiệu nào của Tom. có dấu hiệu của bất cứ cái gì. Chỉ có những con sóng đơn, trải dài. Cứ như đại dương xóa bỏ mọi chứng cứ về tồn tại của . Sau ba ngày tìm kiếm, những người đánh cá ngại ngần từ bỏ mọi nỗ lực. Họ cũng phải nuôi sống gia đình mình. Họ hứa với Vicky là tiếp tục để mắt tới mọi dấu hiệu.

      từ bỏ - thể từ bỏ dễ dàng thế được. thuê thủy thủ kèm theo thuyền, và hai người cùng nhau tìm kiếm thêm sáu tuần nữa. Vicky dần trở nên thân thuộc với tất cả những rìa đá nhấp nhô nơi bờ biển. Tuy nhiên, đến giữa tháng Mười hai, những cơn gió lạnh như băng thổi Vicky và người làm thuê ra khỏi biển cả. đến lúc phải quay về từ chuyến tìm người mất tích để quan tâm chăm sóc đến những người còn sống. Bé Alexander cần mẹ nó.

      Những người tá điền vẫn tiếp tục công việc của mình nhưng thiếu chỉ dẫn của Tom. Điều duy nhất làm họ cảm thấy lòng là vụ gặt xong trước khi cơn bão ập tới. Giáng sinh là kiện thê thảm, cây thông được dựng lên, con ngỗng nào được chế biến. Năm đó, bắt đầu hứa hẹn với ra đời của Alexander vào mùa xuân, kết thúc trong đau buồn.

      Dần dần, Vicky trở lại cuộc sống vốn có của mình nhưng vẫn chỉ vận toàn đồ đen. Người trong vùng gọi là Góa phụ Wennington. nhận được vài lời trả giá khá hời cho trang trại, nhưng cương quyết bán. đúng khi từ bỏ mảnh đất thuộc về gia đình Tom hàng bao thế hệ, và cũng muốn từ bỏ ngôi nhà nơi và được mãnh liệt. Hơn nữa, cũng muốn quay trở lại xã hội London. Móng tay dính quá nhiều đất rồi.

      Nhưng hơn tất cả, mảnh đất là tất cả những gì Alexander biết về cha mình. Mảnh đất này là Tom. Trong suốt mùa đông đơn đầu tiên, Vicky nghiên cứu cách điều hành trang trại, học tất cả những gì có thể, vì người chồng mất tích và đứa con thơ dại của họ. cần phải làm cái gì đó, bất cứ cái gì, để hạn chế tối đa những suy nghĩ về đánh cắp Tom trắng trợn của biển cả. Nhưng mỗi buổi sáng, khi mặt trời mọc, Vicky lại đứng bên rìa vách đá tiếng đồng hồ. "Tom chết rồi," người dân trong vùng . "Sao ấy lại thể chấp nhận điều đó chứ? tội nghiệp!"

      Khi mùa xuân đến, Vicky bắt đầu điều hành trang trại. Lúc đầu các tá điền khá e dè tuân theo chỉ dẫn của nhưng khi thấy ràng là biết mình làm gì, họ thôi xì xào nữa. Họ kết luận rằng tiền nhà Wennington vào tay Vicky cũng tốt như khi ở trong tay Tom. làm việc rất chăm chỉ để chứng tỏ bản thân, và dù vụ mùa thành công bằng năm trước đó, nó cũng đến nỗi nào. Vào lễ tưởng niệm đầu tiên kiện Tom mất tích, Vicky tháo bỏ khăn tang, nhưng mỗi sáng vẫn luôn đến rìa vách đá. Đó phải điều có thể lý giải cho người khác, nhưng tin rằng bằng cách nào đó những đợt thủy triều mang tình của đến với Tom.

      Năm tháng qua , trang trại ngày càng trở nên giàu có. Vicky được biết đến như nông dân giỏi và nữ doanh nhân tài ba. có những nhân công tốt nhất vì luôn trả lương hậu hĩnh nhất. luôn trả lương hậu hĩnh nhất vì luôn thu được nhiều nhất. Cuối cùng bắt đầu mua những trang trại láng giềng, với giá cả hợp lý, và khi quản lý những mảnh đất mới này, chúng đều gia tăng sản lượng thường xuyên.

      Trong suốt hai mươi hai năm, Vicky miệt mài làm việc. Bà trở thành người chủ đất giàu có nhất trong cả vùng, còn Alexander trở thành thanh niên khỏe mạnh, cả về thể chất lẫn tinh thần, và giỏi giang. Rồi ngày, cậu gặp thiếu nữ thông minh, mạnh mẽ đến từ thành phố gần đó. Cậu , cầu hôn và được chấp nhận. Vicky biết rằng con trai mình hạnh phúc.

      Trong suốt hai mươi hai năm, sáng nào bà cũng dành giờ đứng vách đá nhìn xuống những ngọn sóng quằn quại mời gọi phía dưới. Ba trăm sáu mươi lăm ngày năm. Tất cả mọi người đều biết bà đợi chồng mình trở về. Tám nghìn ngày. Mưa, gió, mưa tuyết, tuyết, nắng nôi cũng ảnh hưởng gì đến Góa phụ Wennington. Tám nghìn giờ. lần bà rời bỏ chỗ đứng đơn của mình bên rìa thế giới, nơi mặt đất hòa vào biển cả.

      Vào mùa thu sau lễ cưới của Alexander, trận bão khủng khiếp. Đó, thực , là trận bão tệ nhất từ sau trận bão cướp Tom . lạ lùng, bão đến vào đúng tuần lễ đó, vào đầu tháng Mười , khi bà mất ông. Gió thét gào, nhưng thậm chí cơn bão hung bạo cỡ đó cũng đủ sức khiến Vicky rời khỏi vách đá. ra bà thích những ngày bão tố nhất, vì chúng làm bà cảm thấy mình được đến gần bên người chồng mất tích nhất. Vicky đứng hai tay dang rộng, ôm lấy cơn mưa khi nó ập xuống da thịt mình. Bà thầm tên ông. "Tom, Tom, Tom, Tom..." Tóc bà tung bay, và rồi bà thét vào trận bão. "Em , em , em , em luôn ."

      Alexander đứng nhìn từ phía trang trại, vừa phấn khích vừa lo lắng. chấp nhận nghi lễ của mẹ mình vì biết nó là phần thể thiếu, nhưng lần này khác. Bình thường, mẹ luôn yên lặng và đăm chiêu nhìn ra xa; ngày hôm ấy, mẹ giật lên như thể là con rối của trận bão. Alexander chạy vội ra ngăn mẹ lại. "Mẹ! Con chưa bao giờ cản mẹ. Nhưng giờ mẹ phải vào , ngoài này quá nguy hiểm."

      Vicky gào lên trong cơn bão. "!"

      Alexander dốc hết sức chống lại cơn bão. Chống lại mẹ mình. "Mẹ có đứng nhìn bao lâu nữa cũng chẳng có kết quả gì đâu."

      Vicky lắc đầu. "Hiển nhiên là có chứ."

      Alexander siết chặt cổ chiếc áo mưa. gào lên dưới lần mũ áo mưa cao su màu vàng. " ai nghi ngờ tình của mẹ cả."

      Vicky quay mặt khỏi con mình, hướng về phía biển. Bà nhàng, nhàng đến mức con mình thể nghe thấy. "Mẹ chỉ muốn nhớ về ông ấy."

      Cơn mưa như trút xói đất thành những rãnh nước quanh chân bà. Đất bắt đầu long ra và Alexander cảm thấy nó dịch chuyển. vết nứt toác ra giữa họ: hai mươi hai năm đứng suốt tại vị trí làm mòn nền đá. Alexander hoảng loạn với tay về phía mẹ mình, mắt mở to vì hoảng sợ. gào lên bắt mẹ nắm lấy tay mình. Vicky đưa tay về phía con trai nhưng khi tay gần như ở trong tay con, bà dừng lại. Bà còn sợ hãi nữa và mỉm cười. Bà để tay mình buông thõng bên sườn.

      "Vì Chúa, mẹ ơi!"

      Alexander thể thêm được gì nữa. Tiếng gió mưa gầm rú và tiếng sấm nổ chớp giật ầm ầm khắp nơi, nhưng chưa bao giờ thấy mẹ mình bình thản và đẹp đến vậy. Như thể bà chờ đến lượt mình, và cuối cùng giây phút đó cũng tới. Đất sụt dưới chân bà và đứng nhìn mẹ mình biến mất cùng rìa vách đá vỡ vụn.

      Thi thể của bà bao giờ được tìm thấy. Tất cả dân làng đều rằng cuối cùng bà trở lại bên Tom dấu của mình, dưới những con sóng đại dương.
      Hyunnie0302Jenny Nguyen thích bài này.

    4. thuytinhtim_1102

      thuytinhtim_1102 Well-Known Member

      Bài viết:
      1,916
      Được thích:
      3,133
      Chương 11.1
      Bên cạnh giường tôi, chiếc bàn , là bông loa kèn bằng thủy tinh xuất vào buổi sáng sau hôm câu chuyện về Vicky được kể. Tôi rất lúng túng hiểu vì sao nó lại ở đó, vì Marianne Engel rời bệnh viện từ lâu trước khi tôi ngủ. Khi tôi hỏi các y tá xem ai trong số họ để bông loa kèn thủy tinh lại họ đều thề là phải mình. Hơn nữa, Maddy còn khẳng định chắc chắn rằng suốt đêm hề có ai qua phòng trực của y tá. Thế có nghĩa là hoặc các y tá dối, hoặc Marianne Engel lẻn vào với trợ giúp của bóng tối.

      Câu hỏi thứ hai về bông loa kèn thủy tinh là: Nó tượng trưng cho cái gì?

      Tại sao, bạn hoàn toàn có thể hỏi tôi, tại sao tôi lại nghĩ nó mang ý nghĩa nào đó? vài thứ, trong đó có những món được làm từ công nghệ thổi thủy tinh, đơn giản là nhìn rất hay. (Và tôi có cần phải nhắc bạn nhớ là khoa bỏng cấm mang hoa vào nhỉ?) Tuy nhiên, tôi chắc chắn rằng nó thực mang ý nghĩa nào đó; càng dành nhiều thời gian với Marianne Engel, tôi càng tin rằng mọi thứ đều liên quan đến nhau cách thể lý giải.

      "Ồ," bác sĩ Edwards , " chút bí phải lúc nào cũng xấu. Nó khiến người ta có lòng tin."

      "Đừng với tôi là chị theo đạo đấy, Nan. Tôi nghĩ là tôi chịu nổi đâu."

      "Tín ngưỡng của tôi, có hay có, cũng chẳng việc gì đến . có cuộc sống riêng của mình, như bữa tiệc tối qua ấy, và tôi cũng có cuộc sống của tôi." Có chút... ghen tị pha lẫn giận dữ và làm mình làm mẩy? gọi như thế nào được nhỉ?... trong giọng của bà.

      lạ khi Nan có vẻ khó chịu với bữa cơm do chính bà chỉ định. Là kẻ cơ hội, tôi coi đây là bàn đạp cho tôi hỏi bà câu khiến tôi bận lòng bấy lâu: vâng, tôi biết là tình trạng gia tăng chuyển hóa các chất trong cơ thể khiến tôi cần phải hấp thụ thêm nhiều calo, nhưng lý do bà cho phép Marianne Engel làm việc đó là gì.

      "Mọi người đều phải ăn," Nan thản nhiên .

      Câu trả lời của bà, dĩ nhiên, phải câu trả lời đúng nghĩa. Thế là tôi hỏi lại. Nan, như thỉnh thoảng vẫn thế, dành vài giây cân nhắc lợi hại của việc . Tôi rất thích khi bà làm thế. Như tôi mong đợi, bà dối. "Tôi cho phép những bữa ăn này vì rất nhiều lý do. Đầu tiên, rất tốt cho nếu hấp thụ được càng nhiều chất dinh dưỡng càng tốt. Tôi cũng làm việc này vì các y tá nữa vì có vẻ xử phải phép hơn từ khi Marianne Engel đến. Nhưng hết, tôi làm việc này vì tôi chưa bao giờ gặp người nào cần bạn đến như ."

      ra điều đó làm Nan cảm thấy nhõm. Tôi hỏi bà nghĩ gì về việc Marianne Engel giúp tôi tập vật lý trị liệu, và bà thừa nhận chính xác những gì tôi nghi ngờ, rằng bà thích ý tưởng đó lắm.

      "Chị lo lắng là tôi bắt đầu phải phụ thuộc vào ấy nhiều quá," tôi , "và ấy làm tôi thất vọng."

      "Chẳng phải chuyện ấy cũng làm lo lắng sao?"

      "Phải," tôi trả lời.

      Vì Nan quyết định cho tôi nghe , điều nhặt nhất tôi có thể làm là trả lời thẳng thắn như vậy.

      Mọi thứ dường như tiến triển gần giống như cái lẽ phải thế. Giờ đây khi tôi thực có khát vọng cải thiện bản thân và nỗ lực để thực điều đó, tôi có thể cảm thấy mình ngày càng mạnh mẽ hơn. NGƯƠI CÓ CHẮC ? Nhưng để sẵn sàng đối mặt với thế giới thực ngoài kia phải cần đến cả sức mạnh thể chất lẫn tinh thần.

      Maddy đặt tôi ngồi vào xe lăn rồi đẩy tôi vào phòng chung nơi có bốn bệnh nhân bỏng khác. người đàn ông đứng bục trong lễ phục áo sơ mi và cà vạt: Lance Whitmore là bệnh nhân xuất viện. phải chịu những vết bỏng gần (nhưng hoàn toàn) tệ bằng tôi. Vết thương của khó nhìn thấy hơn - chỉ có bên cằm phải và phần cổ mới cho thấy từng bị bỏng - nhưng người có chi chít sẹo lồi mà cho chúng tôi xem sau buổi thuyết trình, nếu chúng tôi có muốn xem liệu vài năm sau khi hồi phục chúng tôi được những gì. Tôi chẳng cần; phải đối mặt với những tháng ngày tại đủ lắm rồi.

      diện của Lance vừa có tác dụng củng cố tinh thần vừa là nguồn thông tin đáng tin cậy. ở bên ngoài ba năm và rất sẵn lòng truyền thụ chút kinh nghiệm trong việc hòa nhập thành công, cứ như nhà diễn thuyết của Hội Cai Rượu ấy.

      "Hãy nhìn vào từ chấn thương trong từ điển," Lance bắt đầu, "và các bạn thấy có rất nhiều định nghĩa. Về mặt y khoa, đây là từ chỉ những tổn thương gây ra cho cơ thể do tác động bên ngoài, trong trường hợp của chúng ta là do lửa. Dĩ nhiên, cũng có các nghĩa tương tự, và các bạn cũng bị tổn thương - do người ta vô tình hay hữu ý - khi các bạn rời khỏi đây. Người khác thực hiểu những gì xảy đến với chúng ta đâu."

      Bài diễn văn của Lance diễn ra như người ta đoán trước: lại về những "thách thức" và "cơ hội" mình gặp phải, và những gì làm để có lại cuộc sống của chính mình. Khi bài diễn văn kết thúc, để mọi người được tự do thảo luận.

      Câu hỏi đầu tiên đến từ nữ bệnh nhân cứ gãi suốt từ đầu đến cuối buổi chuyện. muốn biết liệu "những vùng da bị lóc" của có luôn "ngứa đến phát điên" thế này .

      "Cảm giác ngứa cuối cùng cũng hết thôi. Tôi hứa đấy." loạt tiếng xì xào nhõm rộ lên giữa đám đông. Thậm chí cả tôi, người thề giữ im lặng, cũng phải thở phào biết ơn. "Các bạn thể làm gì khác ngoài việc cố gắng chịu đựng cho qua thời kỳ khó khăn, quả là bất hạnh, nhưng tôi luôn luôn thấy dễ chịu hơn mỗi khi nhớ về điều mà Winston Churchill từng ."

      "Chúng ta bao giờ đầu hàng?" nữ bệnh nhân bị ngứa gợi ý.

      "Ồ, vâng," Lance cười, "Nhưng tôi nghĩ về câu 'Nếu chúng ta phải qua Địa ngục... cứ thôi.'"

      bệnh nhân khác hỏi, "Khi ra ngoài xã hội cảm thấy thế nào?"

      "Thực rất khó khăn, nhất là trong thời kỳ đầu. Hầu hết mọi người đều giả vờ nhìn thấy bạn, nhưng họ vẫn thầm. vài người còn ngang nhiên kháy bạn nữa, thường là mấy cậu choai choai. Điều thú vị ở đây là rất nhiều người nghĩ nếu bạn bị bỏng hẳn là do bạn bị quả báo. Suốt bao thế hệ ông bà ta dạy như vậy, đúng ? Lửa là dấu hiệu trừng phạt của thánh thần. khó cho mọi người phải đối mặt với thứ phi logic như chúng ta - bị bỏng, nhưng vẫn sống - vì thế chúng ta hẳn làm việc gì đó rất sai trái, nếu họ phải chấp nhận rằng những điều như vậy cũng có thể xảy đến với họ." ngừng lại. "Có ai ở đây nghĩ những vết bỏng của mình là kết quả của trừng phạt nào đó ?"

      Chúng tôi nhìn nhau cho tới khi bệnh nhân rụt rè giơ tay lên, giây sau lại thêm người nữa. Tôi giơ tay đâu, dù Lance có đợi bao lâu nữa.

      "Điều này cũng hoàn toàn bình thường thôi," trấn an chúng tôi. "Sao lại là tôi? Ngày nào tôi cũng hỏi mình câu này nhưng chưa lần nhận được câu trả lời. Tôi sống tốt. Tôi lễ nhà thờ, đóng thuế, tình nguyện tham gia câu lạc bộ nam sinh vào cuối tuần. Tôi , và , là người tốt. Vậy-sao-lại-là-tôi?" Ngừng lại. "Chẳng có lý do nào cả. khoảnh khắc đen đủi, với hậu quả cả đời."

      bệnh nhân khác hỏi, "Mọi người có hỏi về những vết bỏng của ?"

      "Có bọn trẻ con, vì chúng vẫn chưa biết cách cư xử phải phép. số người lớn nữa, và tôi rất cảm kích. Mỗi người bạn gặp trong suốt quãng đời còn lại băn khoăn về chuyện đó, vì thế thỉnh thoảng dẹp thắc mắc ấy khỏi đường của mình để có thể đến với những điều khác cũng là việc tốt."

      bàn tay dè dặt giơ lên, "Thế còn chuyện ấy sao?"

      "Tôi rất thích chuyện ấy." Câu của Lance khiến vài người cười khúc khích, và tôi đoán đọc bài phát biểu này đủ nhiều để hoàn thiện câu trả lời mà luôn luôn gặp phải. "Với mỗi người khác nhau việc chăn gối cũng khác. Da bạn là phần khá tuyệt vời của chuyện ấy, phải ? Cơ quan lớn nhất trong cơ thể, với diện tích bề mặt lên đến ba mét vuông, và mang lại rất nhiều khoái cảm. Giờ đây chúng ta mất khá nhiều đầu dây thần kinh rồi, quả rất tệ nhỉ."

      Người bệnh vừa nêu câu hỏi liền thở dài nặng nề, nhưng Lance giơ cao tay lên để thể rằng mình vẫn còn vài điều muốn . "Da là đường chia cắt giữa người với người, nơi bạn kết thúc và nơi người khác bắt đầu. Nhưng trong quan hệ tình dục, tất cả đều thay đổi. Nếu da là hàng rào ngăn cách người với người tình dục là cánh cổng mở cơ thể của bạn ra cho đối phương."

      Chưa bao giờ trong đời tôi lại có ý nghĩ đấy, với bất cứ ai. Càng phải với Marianne Engel.

      Lance đằng hắng. "Tôi rất may mắn: vợ tôi ở lại bên tôi. thực tế, những vết bỏng làm chúng tôi đồng cảm hơn, và điều đó cũng được vận vào đời sống tình dục nữa. Tôi buộc phải trở thành người tình tuyệt vời hơn, vì tôi phải trở nên ngày , ừm, sáng tạo hơn. Đó là tất cả những điều tôi muốn về chuyện đó."

      "Điều gì là khó khăn nhất đối với sau khi xuất viện?"

      "Quả là câu hỏi khó, nhưng tôi nghĩ đó là việc phải mặc trang phục tạo áp suất hai mươi ba tiếng mỗi ngày. Chúng tuyệt vời, các bạn biết đấy, trong việc hạn chế tạo sẹo nhưng - Chúa ơi! - cảm giác giống như bị chôn sống vậy. Bạn luôn mong đợi được tắm, dù rất đau đớn, để có thể thoát ra khỏi cái thứ kinh khủng ấy." Lance nhìn vào mắt tôi thoáng, rồi tôi có cảm giác đặc biệt đến tôi. "Tôi mặc bộ đồ của mình trong mười tháng đầu tiên từ khi ra viện nhưng với số bạn ở đây có thể là năm, hoặc lâu hơn."

      tiếp tục, "Chỉ sau khi rời khỏi đây các bạn mới nhận ra rằng vết bỏng tồn tại vĩnh viễn. Đó là kiện dai dẳng, việc liên tục tái diễn. Các bạn rơi thẳng từ cảm giác hạnh phúc lâng lâng vì biết mình còn sống xuống hố sâu tuyệt vọng khi bạn chỉ ước được chết. Và chính khi bạn bắt đầu nghĩ rằng chấp nhận con người mới của mình, điều đó cũng thay đổi luôn. Vì việc bạn là ai phải điều bất di bất dịch đâu."

      Lance có vẻ hơi bối rối, như thể nhỡ đưa mình vào chủ đề mà bản thân muốn tới. đưa mắt nhìn khắp phòng, đăm đăm nhìn xuống mọi ánh mắt trong vài giây, trước khi kết thúc buổi chuyện. "Những phương pháp điều trị bỏng đại thể tưởng tượng nổi, còn các bác sĩ tuyệt vời, và tôi rất biết ơn vì được sống. Nhưng như thế vẫn chưa đủ. Da bạn là dấu hiệu nhận biết nhân dạng bạn, hình ảnh mà bạn trưng ra với mọi người. Nhưng nó bao giờ khẳng định bạn thực là ai. Vì bị bỏng chẳng hề làm bạn kém - hoặc nhiều - tính người hơn. Chỉ là bạn bị bỏng mà thôi. Vì thế trong hoàn cảnh kỳ dị này, bạn hiểu ra điều mà hầu hết mọi người bao giờ hiểu được, rằng da chỉ là nước sơn chứ phải nét tinh túy của con người. Xã hội chỉ giỏi khua môi múa mép về chuyện tốt gỗ hơn tốt nước sơn, nhưng ai có thể hiểu được điều đó bằng chúng ta?"

      " ngày nào đó, nhanh thôi," Lance , "các bạn bước ra khỏi nơi đây và phải quyết định xem mình sống nốt quãng đời còn lại như thế nào. Bạn được đánh giá bởi cái mà người khác nhìn thấy, hay bởi cái tinh túy trong tâm hồn các bạn?"

      HAI LỰA CHỌN NGHÈO NÀN.

      Gregor mua bịch kẹo đủ loại để chúc mừng tôi nhân lễ Halloween. Vì chúng tôi là đàn ông nên chúng tôi đả động gì đến cuộc chuyện hôm trước giữa hai người, và mấy cái kẹo là cách ông ta ngỏ ý rằng chúng tôi nên dĩ hòa vi quý. Nếu địa điểm phải là bệnh viện, tôi tin chắc ông ta mang đến cả bịch sáu lon bia rồi.

      Buổi tối đó cho thấy đột phá trong tình bạn của chúng tôi. Gregor kể cho tôi nghe câu chuyện ngượng chín người về lễ Halloween tệ nhất của ông ta, khi ông ta hóa trang - trong nỗ lực sai lầm để tạo ấn tượng với sinh viên y khoa mình mê mẩn - thành bộ gan người. Ông ta mất nhiều công sức để chế bộ trang phục của mình trông càng càng tốt, gồm cả ống cao su giả làm ống gan được gài vào chiếc túi bí mật đựng rượu vodka trong thùy trái lá gan. Lý lẽ ông ta đưa ra là làm thế giúp ông ta có thể hút rượu cả tối, bất cứ khi nào người phụ nữ kia làm ông ta hồi hộp quá mức. (Có lẽ lần đầu tiên trong lịch sử, người đàn ông lọc rượu khỏi gan rồi hấp thụ nó vào cơ thể.) may là ông ta thẹn đến nỗi nhanh chóng say bí tỉ. Cuối buổi tối hôm đó, Gregor và người ấy thấy mình gác xép của họa sĩ chép tranh của Jackson Pollock. Câu chuyện kết thúc với cảnh Gregor phải trả cho ông họa sĩ mấy trăm đô la sau khi nôn vào trong những bức vẽ của ông ấy, dù tôi cũng chẳng hiểu việc đó có tạo được khác biệt gì cho bức tranh hay .

      Tôi cố vượt mặt Gregor bằng câu chuyện về Giáng sinh đáng xấu hổ nhất của mình, về nỗ lực thành trong việc quyến rũ tinh tại cửa hàng tạp hóa, người kết hôn với già Noel lạm dụng chất kích thích. Gregor đáp trả bằng câu chuyện lễ Noel của ông ta, khi ông ta nhỡ tay bắn mẹ mình bằng khẩu súng hơi mới được tặng sau hàng tháng trời thề thốt rằng an toàn là mối quan tâm hàng đầu của ông ta. Cuối cùng, hiểu sao chúng tôi quyết định cùng chia sẻ câu chuyện đáng xấu hổ nhất thời thơ ấu, vào các ngày lễ hoặc . Tôi là người kể trước.

      cậu bé bình thường, tôi phát ra nghịch cái ấy của mình thích thú biết bao, nhưng vì lúc ấy phải sống với bà mợ nghiện cùng ông cậu nghiện, nên tôi chẳng có ai để san sẻ những khám phá sinh học của mình cả.

      Tôi cũng biết láng máng, từ việc nghe lỏm mấy người lớn hút đá, rằng có những bệnh hoa liễu. Bạn chắc chắn muốn mắc phải trong số đó đâu, vì những điều rất xấu xảy đến với súng của bạn. (Mợ Derbi, khi thấy bản thân thể tránh đến cái ấy của tôi, luôn gọi nó là súng.) Tôi cũng biết các bệnh hoa liễu được truyền qua chất dịch tiết ra trong khi giao hợp. Mình lẽ ra cũng có thể làm vài nghiên cứu, tôi nghĩ, nhưng tôi biết các thủ thư đến độ chẳng thể liều lĩnh bị bắt quả tang tìm mấy cuốn sách như thế. Hơn nữa, điều này cũng dễ hiểu: vì người ta có thể mắc bệnh hoa liễu khi xuất tinh và giờ đây khi tôi có khả năng xuất tinh, tôi phải cẩn thận để tránh bị lây nhiễm. Vì thế tôi bắt đầu xem xét các lựa chọn.

      Tôi có thể dừng việc thủ dâm. Nhưng việc đó quá.

      Tôi có thể phủ bụng bằng chiếc khăn tắm để hứng dòng tinh dịch tội lỗi. Nhưng thể giấu chiếc khăn to như thế và lén lút giặt sạch nó cũng khó.

      Tôi có thể thủ dâm vào chiếc tất. Nhưng tất cả những đôi tất của tôi đều được dệt bằng vải bông thưa, và chất dịch có thể rỉ qua đó và thấm vào lỗ chân lông da tôi.

      Tôi có thể thủ dâm vào những cái túi đựng sandwich có mép dán. Phải rồi, việc này những nghe có vẻ y học mà còn hợp với tôi kinh khủng. Hiển nhiên, đây là cách tôi chọn.

      lâu sau tôi bộ sưu tập túi căng phồng dưới gầm giường, nhưng tôi thể cứ chất cả đống vào thùng rác chung được - nếu ai đó phát ra, hay nếu con chó ăn vụng nào đó rải mấy cái túi chứa chất mặn mặn ấy bãi cỏ trước cửa? Thế là tôi quyết định tốt nhất là vứt chúng vào thùng rác nhà khác; càng xa ngôi nhà di động của chúng tôi càng tốt.

      Địa điểm lý tưởng là khu nhà giàu trong thị trấn, cách xa bãi đỗ xe lưu động cả về khoảng cách lẫn địa vị xã hội. Tuy nhiên điều tôi lường tới là người giàu ở đây rất nghi ngờ những thằng nhóc cứ lén lút quanh thùng rác nhà họ. lâu sau đó, chiếc xe cảnh sát xuất và tôi phải đứng trước hai ông sĩ quan lực lưỡng, cố gắng giải thích những hành vi đáng ngờ của mình.

      Tôi hề muốn phản bội bản chất đích thực của nhiệm vụ của tôi, nhưng các ông cảnh sát cầu tôi đưa cho họ túi đồ mua sắm mà tôi cầm. Tôi van xin họ để tôi , rằng chẳng có gì trong túi trừ "bữa trưa" của tôi cả. Khi dùng vũ lực để lấy cái túi, họ tìm thấy bốn mươi gói chứa chất màu trắng nguồn gốc và bắt tôi trả lời chính xác rằng tôi buôn bán loại ma túy dạng lỏng nào.

      Hoảng sợ trước viễn cảnh bị hỏi cung tại đồn cảnh sát địa phương trong khi họ phân tích thành phần hóa học của chất lỏng dạng sữa này, tôi thú nhận tôi loanh quanh để tìm chỗ vứt mấy cái túi đựng bánh sandwich có mép dán chứa đầy tinh dịch của mình.

      Hai ông cảnh sát lúc đầu chẳng hề tin, nhưng khi câu chuyện của tôi trở nên chi tiết hơn, họ đứng lặng như trời trồng - cho tới khi họ bật cười. cần phải , tôi chẳng ấn tượng gì trước cách họ phản ứng với tình trạng khủng hoảng sức khỏe của tôi. Sau khi cười đời, hai người bỏ cái túi của tôi vào thùng rác gần nhất rồi đưa tôi về nhà.

      tinh thần đồng chí vừa xây dựng giữa chúng tôi, Gregor khoác lác rằng ông ta có câu chuyện hay chẳng kém, nếu muốn là hay hơn.

      Khi còn , Gregor chẳng khác gì đứa vô học, dù tôi cho ông ta điểm tối đa vì ông ta bao giờ tin rằng mình có thể tự chuốc bệnh hoa liễu. Khi ông ta khám phá ra trò thủ dâm, ông ta nghĩ thế này: Nếu thủ dâm bằng nắm tay khô cong thích thế này rồi, còn thế nào nữa nếu dùng thứ gì đó trông có vẻ giống đạo hơn?

      Thế là Gregor bắt đầu các thí nghiệm của mình. Ông ta thử dùng nước rửa tay trong nhà tắm cho tới khi phát ra thực tế phũ phàng của bỏng xà phòng. Tiếp theo ông ta thử dùng kem thoa tay, khá công hiệu cho tới khi cha ông ta bắt đầu vặn hỏi tại sao ông con có ham muốn bất thường về làn da mềm mại. Cuối cùng Gregor, luôn có đầu óc sáng tạo và căn bếp chất đầy bát đựng hoa quả tú ụ, bắt đầu nghiên cứu những khả năng mà cái vỏ chuối có thể mang lại. Chẳng phải chính tự nhiên chế tạo vỏ chuối đặc biệt cho việc phục vụ cái ống bơm da thịt này?

      Vỏ chuối có xu hướng rất xấu là hay bị rách trong khi hành nhưng, bao giờ chịu đầu hàng, Gregor quyết định giải quyết yếu điểm tự nhiên này bằng băng dính trong. Rất thành công, nhưng ông ta cũng lại phải đối mặt với vấn đề khó khăn từng gây phiền hà cho tôi: đó là công đoạn xóa dấu vết.

      Ông ta quyết định vứt vỏ chuối vào bồn cầu rồi xả nước, nhưng chiếc vỏ thứ tư làm mấy cái ống đồng loạt đình công. Khi cha của Gregor phát ra tình trạng tắc nghẽn, rất tự nhiên, cụ bắt tay vào xử lý cái ống bơm. Gregor trốn trong phòng ngủ của mình, cầu Chúa ra tay khiến những cái vỏ trôi khỏi ống thay vì cứ dồn ứ lại. Nếu Người giúp con, thưa Chúa, con bao giờ thủ dâm vào vỏ chuối nữa. Khi cha của Gregor thể tự thông cái ống, cụ gọi thợ sửa ống nước trong vùng đến, mang theo dụng cụ thông toilet và những hiểm họa lơ lửng đầu.

      Chúa đáp lại lời cầu nguyện của Gregor. Vỏ chuối gánh tội cuối cùng cũng trôi, và lời nhận xét duy nhất của người thợ sửa ống nước là mẹ Gregor nên xem xét việc thêm chút chất xơ vào khẩu phần ăn của gia đình. Gregor giữ lời hứa với Chúa bằng việc từ bỏ việc lạm dụng hoa quả mãi mãi - hay ít nhất ông ta cũng đảm bảo như vậy, bên giường bệnh của tôi.

      Chúng tôi trêu chọc lẫn nhau và hứa giữ bí mật của cả hai Marianne Engel bước vào phòng, bó trong những dải băng xác ướp, đôi mắt xanh biển/xanh lục sáng lấp lánh giữa những dải băng trắng quấn quanh mặt, mái tóc sẫm màu thả hờ xuống lưng. ràng ngờ đến có mặt của chuyên gia tâm thần trong phòng tôi, chứ đừng là người từng điều trị cho trong quá khứ. Nó làm chết lặng/cứng đơ giữa đường, như tử thi cứng đờ ba nghìn (hoặc bảy trăm) năm tuổi sống dậy tức . Gregor, nhận ra mái tóc và đôi mắt lẫn vào đâu được của , lên tiếng trước. "Marianne, tuyệt khi gặp lại . khỏe ?"

      "Tôi khỏe." Hai từ cụt lủn phát ra. Có lẽ sợ bộ trang phục của mình làm bị ném ngay lại vào phòng tâm thần, vì việc lảng vảng quanh khoa bỏng trong bộ dạng quấn băng tử tế nhất cũng bị coi là dở hơi và thảm nhất trò đùa tồi tệ.

      Trong nỗ lực làm được thoải mái, Gregor , "Halloween là ngày lễ thích của tôi, thậm chí còn hơn cả lễ Giáng sinh ấy. Bộ hóa trang của tuyệt." Ông ta dừng lại để cho cơ hội đáp lại nhưng chẳng gì cả, thế nên ông lại tiếp tục, "Điều này rất thú vị đối với các bác sĩ tâm thần, biết đấy. Nhìn những bộ hóa trang của mọi người cũng là cách để ta có cái nhìn qua về những ước mơ thầm kín của họ. Tôi ấy à, tôi hóa trang thành Bolshevik khát máu."

      Marianne Engel căng thẳng kéo mấy dải băng xoắn xuýt quanh eo mình. Gregor nhận thấy nỗ lực kéo dài cuộc hội thoại chẳng đến đâu cả, thế là ông ta nhã nhặn xin phép rồi thẳng tiến ra khỏi cửa.

      cả người sau khi ông ta , đút cho tôi những thanh sô la và kể tôi nghe những câu chuyện ma - thể loại truyền thống, phải chuyện về những người quen của . kể câu chuyện nổi tiếng về hai đứa trẻ, sau khi nghe đài báo có kẻ tay móc sắt vừa trốn khỏi nhà thương điên gần đấy chạy vội khỏi Đường Tình Nhân để rồi phát ra cái móc gãy treo lủng lẳng tay nắm cửa khi chúng trở về nhà; câu chuyện về trẻ nhờ xe về nhà và quên mất áo khoác, mấy ngày sau khi người lái xe mang chiếc áo đến nhà trả biết rằng người xin nhờ ấy chết từ mười năm trước, cũng đoạn đường gặp ; câu chuyện về người đàn ông ngồi chơi xếp hình bên bàn bếp khi xếp xong lên bức tranh ngồi bên bàn bếp hoàn thành trò chơi xếp hình, với mảnh cuối cùng lộ ra khuôn mặt kinh dị đứng nhìn từ ngoài cửa sổ; câu chuyện về trông trẻ cứ phải nghe những cuộc điện thoại mỗi lúc khó chịu hơn, cảnh báo về những nguy hiểm xảy đến với đứa trẻ mà chăm sóc cho tới khi, nhờ tổng đài lần theo số điện thoại gọi đến, mới biết cuộc gọi đó được thực từ chính trong ngôi nhà, vân vân.

      Vừa kể, Marianne Engel vừa phủ tấm ga giường thừa lên đầu và chiếu đèn ngược lên mặt bằng chiếc đèn pin mượn ở bàn y tá. Trông ảo đến quyến rũ. ở lại quá cả giờ thăm cho phép - mấy y tá từ lâu thôi áp đặt luật lệ với Marianne Engel - và lúc nửa đêm, dường như cảm thấy bối rối vì vắng mặt của chiếc đồng hồ quả lắc điểm mười hai (hay có lẽ là mười ba) tiếng giữa phòng.

      Điều cuối cùng , trước khi rời vào sáng sớm, là "Đợi đến Halloween sang năm nhé. Chúng ta đến bữa tiệc rất tuyệt vời."

      Việc thu hoạch da của tôi diễn ra thưa dần. Những cuộc phẫu thuật vẫn chiếm vị trí chủ đạo trong cuộc sống của tôi, dĩ nhiên là thế, nhưng những mơ mộng tự sát giờ hầu như còn nữa và tôi trở thành học sinh siêu sao của Sayuri. Tôi có thể dối rằng đó là vì tính cách mạnh mẽ của tôi, và vì tôi quyết tâm giữ lời với Nan. Tôi có thể dối rằng tôi làm việc này vì bản thân. Tôi có thể dối rằng tôi làm việc này vì tôi nhìn thấy ánh sáng chân lý. Nhưng lý do chính khiến tôi làm việc này là để tạo ấn tượng với Marianne Engel.

      DỄ THƯƠNG LÀM SAO. Con rắn cái khẽ hất đuôi và đánh lưỡi, háo hức mơn trớn tôi từ cả hai phía. TA BĂN KHOĂN XEM MỌI CHUYỆN THẾ NÀO KHI NGƯƠI RỜI BỆNH VIỆN.

      Tôi tốt nghiệp khóa học lê vài bước lúc, có sử dụng khung tập bằng nhôm. Tôi thấy mình như thằng ngốc, nhưng Sayuri trấn an rằng tôi sớm được chuyển sang dùng gậy buộc vào cẳng tay thôi.

      thứ giúp tôi rất nhiều là đôi giày chỉnh hình được chế tạo riêng cho tôi. Đôi đầu tiên làm chân tôi đau đớn nên các chuyên gia chế đôi thứ hai khắc phục mọi nhược điểm. Lợi ích lớn nhất của đôi giày, tuy thế, lại nghiêng về mặt tinh thần nhiều hơn thể chất. Giày là cứu tinh vĩ đại cho người đàn ông bị mất ngón chân: chúng như những món hóa trang bằng da giúp đôi chân tàn phế trông được bình thường.

      Tôi phải thừa nhận Sayuri biết chính xác những gì làm. Lúc đầu những bài tập rất chú trọng đến việc kéo giãn cơ để giúp tôi lấy lại cảm giác vận động. Rồi chúng tôi viện đến Thera-Bands, những sợi dây co giãn giúp tạo sức cản, trước khi chuyển sang chương trình luyện tập nâng những vật . Sức nặng được tăng dần lên theo mỗi tuần, và thỉnh thoảng tôi còn hỏi Sayuri xem liệu mình có thể nâng những vật nặng hơn so với bài tập đề ra chút được .

      Vì giờ có thể được vài bước ra khỏi giường, tôi bắt đầu tập tễnh về phía toilet của mình mỗi khi cần tỉnh táo. Bạn có thể nghĩ đây là bước tiến lớn trong việc tin tưởng bản thân nhưng đây thực cú đấm tâm lý khi nhận ra mình còn tiểu đứng được nữa. Tôi thấy tình trạng này khiến tôi giống hoạn quan quá chừng.

      Tôi vào viện được gần tám tháng và Giáng sinh đến gần. Marianne Engel làm tất cả những gì có thể, treo các vòng hoa, chơi nhạc của Handel và than vãn vì được phép thắp những cây nến Mùa Vọng trong phòng điều trị bỏng.

      Vào đêm ngày mùng sáu tháng Mười hai, Marianne Engel đặt đôi giày chỉnh hình mới của tôi lên bậu cửa sổ và giải thích rằng đêm nay thánh Nicholas nhét quà vào trong những đôi giày của trẻ . Khi tôi chúng tôi chưa bao giờ có tập tục này hồi còn ở khu nhà lưu động, nhắc tôi nhớ rằng thế giới hề bắt đầu và kết thúc với những kinh nghiệm của bản thân tôi. Khá hợp lý. Khi tôi chỉ ra rằng tôi còn là đứa trẻ nữa, chỉ suỵt tôi cái. "Trong mắt Chúa, chúng ta đều là những đứa trẻ."

      Khi Connie lấy đôi giày của tôi xuống vào buổi sáng hôm sau - "Những thứ này làm cái quái gì ở đây vậy?" - thấy chúng được ních đầy những tờ trăm đô la.

      Tôi rất cảm động trước việc làm ấy, hơn cả những gì tôi có thể tưởng tượng. Phản ứng của tôi vì bản thân món tiền này, mà vì những tình cảm Marianne Engel gửi gắm vào hoàn cảnh tại của tôi. Kỳ nghỉ lễ đặt tôi vào tình huống khó xử: làm sao tôi có thể tặng lại những món quà Giáng sinh chứ? Dù đúng là tôi có chút tiền giấu trong nhà băng dưới cái tên giả nhưng tôi chẳng có cách nào để lấy được nó ra cả. Có lẽ thế, là, tôi bao giờ có thể rút được số tiền đó ra, thậm chí cả khi tôi xuất viện, vì nhân dạng giả mà tôi dùng để lập tài khoản được đính bức ảnh bao giờ có thể là khuôn mặt của tôi nữa.

      Marianne Engel nhận ra thứ tôi cần và, thay vì bắt tôi hỏi xin tiền hay mặc kệ tôi, tìm ra cách trao quà đáng . món quà! Từ thánh Nicholas! Và thế là tình thế tiến thoái lưỡng nan của tôi được giải quyết. Gần như vậy. Tôi vẫn phải tìm cách đem những món quà từ cửa hàng về bên giường mình, nhưng tôi có kế hoạch sẵn rồi.

      Tôi cầu Gregor ghé qua vào cuối buổi tập của tôi với Sayuri. Khi cả hai tập trung ở đó, tôi bắt đầu: "Cứ thoải mái nếu muốn, nhưng hai người thực có thể giúp được tôi chuyện này. Tôi mong hai người có thể mua sắm hộ tôi."

      Gregor hỏi tại sao tôi lại cần cả hai người. Bởi vì tôi muốn trao cho mỗi người món quà, tôi giải thích, và tôi hầu như thể bảo họ tự mua quà cho mình được. Sayuri mua món quà tôi định tặng Gregor, và Gregor mua món quà tôi định tặng Sayuri. Những món quà còn lại, hai người có thể mua cùng nhau.

      "Đừng lo lắng," Sayuri , "Tôi việc mua sắm cho lễ Giáng sinh."

      Nghe thấy thế, Gregor cũng nhanh chóng đồng ý. Tôi đưa cho mỗi người chiếc phong bì chứa danh mục những thứ tôi muốn họ mua, thay mặt tôi, cho mỗi người. Khi họ rời phòng Gregor liếc lại về phía tôi, nụ cười lạ lùng thoáng khuôn mặt.
      Hyunnie0302Jenny Nguyen thích bài này.

    5. thuytinhtim_1102

      thuytinhtim_1102 Well-Known Member

      Bài viết:
      1,916
      Được thích:
      3,133
      Chương 11.2
      Marianne Engel vẫn chưa đọc xong phần Địa ngục cho tôi nghe. Đọc lâu phần là vì chẳng bao giờ đọc quá nhiều liền lúc, có vẻ thích tận hưởng vẻ đẹp của những con chữ hơn, nhưng cũng vì cứ luôn nhảy sang đọc bằng tiếng Ý. Tôi chẳng bụng dạ nào mà bắt dừng lại mỗi khi làm thế vì quá chú tâm vào câu chuyện và, hơn nữa, thứ tiếng Ý thốt ra từ miệng tuyệt. Cuối khổ thơ, tôi phải chỉ cho thấy là tôi chả hiểu gì cả, và ngày hôm sau đọc lại đoạn ấy, thường là đọc hết bằng tiếng .

      Voltaire viết rằng Dante là lão điên có quá nhiều kẻ nịnh nọt, và danh tiếng của ông cứ tiếp tục tăng cao chỉ vì hầu như chẳng có ai thực đọc hết trường ca Thần khúc. Tôi gợi ý lý do ít người đọc Dante là vì chẳng có ai thực thấy cần đọc cả. Trong thế giới Tây phương, Địa ngục là ý niệm của tất cả mọi người về Địa ngục; với tư cách là tác phẩm văn học, chỉ có Kinh Thánh là thấm sâu vào nhận thức chung của xã hội hơn Địa ngục mà thôi.

      " có biết," Marianne Engel hỏi, "rằng Địa ngục của Dante được sáng tác dựa Ánh sáng trôi chảy của Thượng đế của Mechthild von Magdeburg ?"

      " trong Ba Vị Chủ Nhân của phải ?"

      "Phải," đáp.

      Tôi thừa nhận, cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên, rằng tôi biết rất ít ( là: chút nào) về người phụ nữ này, vì thế Marianne Engel lại tiếp tục quá trình giáo dục tôi, Mechthild sinh ra tại Saxony vào đầu thế kỷ mười ba và khi còn thường xuyên được chính Chúa Thánh Thần viếng thăm hằng ngày. Hai mươi tuổi, trở thành Beguine tại Magdeburg, sống cuộc đời cầu nguyện và hành xác đầy ngoan đạo; hấp dẫn, khi tăng cường độ hành hạ bản thân, những ảo giác của cũng ngày càng đến thường xuyên hơn. Khi miêu tả lại cho giáo sĩ nghe xưng tội, ông tin chắc về nguồn gốc thần thánh của chúng và bảo viết lại.

      Das flieBende Licht der Gottheit, tên tiếng Đức của tuyệt tác đó, có ảnh hưởng rất lớn đến lớp nhà văn tiếp theo, gồm cả Meister Eckhart và Christina Ebner. ràng Dante Alighieri cũng đọc bản dịch tiếng Latin, và rất nhiều học giả tin ông sử dụng trật tự cuộc sống ở thế giới bên kia trong tác phẩm của Mechthild làm nền móng ý tưởng cho Thần khúc: Thiên đường ở cùng, Luyện ngục ở ngay dưới, và Địa ngục ở tận đáy. Trong Địa ngục sâu thẳm của Mechthild, Satan bị xích bởi tội lỗi của chính trong khi đau buồn, bệnh tật và đổ nát chảy thẳng ra khỏi trái tim và cái miệng bốc cháy của . Điều này giống cách đáng ngờ với Satan của Dante, con quái vật có ba bộ mặt bị nhốt trong tảng băng ở nơi sâu nhất giữa Địa ngục, miệng nhai bộ ba kẻ tội đồ (Judas, Cassius và Brutus) với dòng mủ cứ mãi chảy khỏi ba cái miệng của nó.

      "Có những người," Marianne Engel , "tin rằng 'Matilda' mà Dante gặp trong Luyện ngục thực ra chính là Mechthild."

      "Đó có phải những gì nghĩ ?" tôi hỏi.

      "Tôi tin," khẽ cười, "rằng tác phẩm của Dante thường bị ảnh hưởng bởi các nhà văn khác."

      Khi đọc cho tôi nghe câu chuyện về cuộc hành trình của Dante, tôi thấy thân thuộc và tôi rất thích dù (hay có lẽ là vì?) nó được đọc giữa phòng điều trị bỏng. Tôi có cảm giác rất thoải mái khi Marianne Engel đọc cho tôi, trong cách luồn tay vào những ngón tay tôi khi đọc thơ. Tôi sửng sốt trước kết hợp những ngón tay đẹp đẽ và xấu xí của chúng tôi, và tôi muốn cứ đọc cho tôi nghe mãi - có lẽ vì tôi sợ rằng khi kết thúc, còn tiếp tục dẫn tôi, tay trong tay, ra khỏi Địa ngục của chính tôi nữa.

      Khi tôi trình bày với Marianne Engel lý thuyết của tôi là chẳng ai cần đọc Địa ngục để biết hình ảnh tượng trưng về Địa ngục cả, chỉnh tôi ngay. "Dù điều đó có thể đúng với hầu hết mọi người, nhưng biết rất vì tôi đọc cho nghe bản dịch tiếng Đức rồi."

      "À há." Tôi ngờ tới việc đó. " dịch lúc nào vậy?"

      "Tôi đoán là mười hoặc hai mươi năm sau khi Dante viết xong tác phẩm ấy. tốn thời gian. Tôi khá chắc mình là người đầu tiên dịch phần Địa ngục, nhưng bao giờ xác thực được việc đó đâu."

      "Thế đọc cho tôi nghe lúc nào vậy?" tôi hỏi.

      "Khi hồi phục từ lần bỏng đầu tiên."

      Địa ngục được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1314. Nếu Marianne Engel hoàn thành bản dịch của hai mươi năm sau, có lẽ đó là năm 1334. Cứ chiếu theo lời tuyên bố của khi trước là sinh vào năm 1330, lúc đó cũng hơn ba mươi rồi.

      Khi tôi nghiên cứu kỹ về những con số này, tôi quên nhận ra rằng chúng lố bịch và hoàn toàn có khả năng xảy ra. Tôi chỉ chỉ ra rằng, ít nhất có những điều rất vô lý xảy ra trong giai đoạn lịch sử rất có lý. Đây là điều làm tôi ngạc nhiên về tình trạng thần kinh của : những câu chuyện điên rồ của vô cùng nhất quán.

      sống ở thời Trung cổ nên tôi cần phải nghiên cứu rất nhiều trong suốt quá trình viết cuốn sách này để kiểm tra những gì , hoặc những gì tôi nhớ là , có trái ngược với . Điều thú vị ở đây là tất cả những kiện tuyên bố là có thể diễn ra đúng như những gì miêu tả, nếu về những kiện xảy ra từ thời cổ xưa ấy bằng ngôi thứ nhất.

      Dù vẫn phải chịu điều khiển của nhà thờ, Engelthal là thể chế dân chủ với các nữ tu viện trưởng đều được bầu bằng cách bỏ phiếu. Tất cả những hoạt động thường nhật được viết trong cuốn Thể chế Giáo hội. Những miêu tả của Marianne Engel về kiến trúc, các bài kinh cầu, các cuốn sách được nghiên cứu, và nghi lễ khi ăn đều chính xác. Christina Ebner ở trong tu viện đó và bà viết Cuốn sách về các xơ tại Engelthal và Khải huyền. Friedrich Sunder là giáo sĩ địa phương, làm lễ xưng tội cho các nữ tu, và ông cũng viết cuốn Ân điển-cuộc đời. Có cuốn sách tên là Cuộc đời nữ tu Gertrud tại Engelthal, được viết với giúp đỡ của huynh trưởng Heinrich và Cunrat Fridrich.

      Mặc dù ghi chép nào về việc Heinrich Seuse đến thăm Engelthal nhưng cũng chẳng có bằng chứng nào ngược lại cả. Nếu ông thực có đến vào đầu những năm 1320, như Marianne Engel , điều này xảy ra khi ông đường từ Straburg đến Koln để tầm sư Meister Eckhart học đạo. Thế nên ai dám là ông đến thăm tu viện từng được coi là trung tâm trọng yếu nhất của Chủ nghĩa Thần bí Đức?

      Thế nhưng. Dù có xây dựng quãng đời của hay nghiên cứu các hình tượng tôn giáo Đức hoàn hảo đến đâu chăng nữa, Marianne Engel hoặc vẫn bị tâm thần phân liệt, hoặc bị khủng hoảng thần kinh, hoặc cả hai. Tôi thể quên được điều này. Sáng tạo và điều hành những vũ trụ tưởng tượng là biểu của những bệnh nhân này: chỉ những gì họ làm, mà còn về họ là ai nữa. Và có vài dị biệt trong câu chuyện của Marianne Engel; ví dụ, chẳng có ghi chép nào về xơ tên là Marianne Engel trong bất cứ tài liệu có nào tại Engelthal, cũng như chẳng có gì đề cập đến Die Gertrud Bibel, và tôi cố dùng những thiếu sót này để bắt Marianne Engel thừa nhận câu chuyện của .

      " siêng học quá nhỉ?" . "Đừng lo, việc thể tìm được thông tin về tôi hay về cuốn Die Gertrud Bibel cũng có lý do cả thôi. đến lúc chúng ta về chuyện đó, tôi hứa đấy."

      Những người hát mừng Giáng sinh an lành ghé qua để hát về những đêm tĩnh lặng, đêm thánh. Noel Sally Ann mang bánh quy và sách đến. Các đồ trang trí treo khắp hành lang.

      Cảm giác mong đợi mùa Giáng sinh mới lạ lùng làm sao. Thường tôi luôn ghét Giáng sinh; nó luôn để lại trong miệng tôi dư vị của cái bánh hoa quả mốc. (Tôi điều này có ý ám chỉ già người Nhật nào đâu.) Suốt thời thơ ấu, những Giáng sinh của tôi luôn gắn liền với việc nhà Grace đốt hết tiền mua quà cho tôi vào ma túy tổng hợp; đến lúc trưởng thành, Giáng sinh có nghĩa là vui vẻ với người phụ nữ đội mũ phớt đỏ.

      Tôi vẫn tập tành, vẫn trải qua các ca trị liệu định kỳ, nhưng kiện hấp dẫn nhất là cuộc gặp gỡ với những người phụ nữ quan trọng trong đời tôi: Nan, Sayuri và Marianne Engel. Tôi biết gì về lịch điều trị, và lạ lùng thay, chẳng ai muốn cho tôi biết cả. Trong trái tim bé luôn coi mình là cái rốn vũ trụ, tôi tưởng tượng đó bữa tiệc đầy bất ngờ. Tôi thể sai lầm hơn.

      Sayuri đến đầu tiên. Tôi từ trước là dường như lúc nào cũng vác cơ thể bé của mình theo sau nụ cười rạng rỡ, nhưng vào ngày hôm ấy, chỉ có cái cơ thể bé của là có mặt thôi. Khi tôi hỏi liệu mọi việc có ổn , trả lời ổn cách chẳng mấy thuyết phục. Thay vì tiếp tục chủ đề, tôi hỏi xem mua quà của tôi cho Gregor chưa. bảo rồi và ít nhất, tôi có thể tin . Tôi định hỏi thêm vài câu nữa Marianne Engel và Nan bước vào phòng như những con ngựa tranh nhau phi về đích. Marianne Engel nhìn thẳng vào tôi và luôn: "Khi ra khỏi đây, về với tôi."

      " nhanh thế chứ," Nan nghiêm giọng , trước khi chuyển chú ý sang tôi. "Như cũng biết, được ra viện trong vài tháng tới..."

      "... và sau đó đến sống ở nhà tôi." mất kiên nhẫn trong giọng Marianne Engel để lộ ra rằng nghĩ cuộc chuyện này chẳng cần thiết tí nào.

      "Bình tĩnh." Nan giơ tay lên trước khi ném cho Marianne Engel cái nhìn tức tối. "Đó phải quyết định của ."

      " ấy chẳng có nơi nào khác để cả."

      Nan phản đòn. "Tôi sắp xếp chỗ ở Phoenix Hall rồi."

      " ấy muốn đến sống ở đó." Điều này rất đúng, tôi muốn, nhưng bác sĩ Edwards từ lâu khuyên tôi đến đó vì nơi ấy có những nhân viên được đào tạo với tay nghề cao, những chương trình giới thiệu việc làm và nguồn cung ứng y tế dồi dào. Thêm nữa, ở đó còn có các tư vấn viên, kể đến các bệnh nhân bỏng khác cũng cùng phải đối mặt với những vấn đề như tôi.

      "Tôi có làm việc với những bệnh nhân ở Phoenix," Sayuri , "thế nên nếu đến đó, chúng ta vẫn có thể tiếp tục những bài tập vận động cho ."

      "Tôi thuê ," Marianne Engel . "Tiền thành vấn đề. có thể làm việc đó ở nhà tôi."

      Lời gợi ý này làm Sayuri nhìn bác sĩ Edwards với vẻ mặt khó xử. "Tôi biết quy định của bệnh viện về vấn đề này thế nào."

      Nan trả lời rằng bên cạnh vấn đề quy định, Phoenix Hall có cả đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, tất cả đều rất sẵn sàng làm hết sức mình. Marianne Engel đáp lại rằng cung cấp cho tôi tất cả những gì tôi cần. "Nếu Mizumoto quá bận rộn, chúng tôi thuê người khác. Nhưng chúng tôi mong có được ấy, vì chúng tôi thích ấy."

      xoay người nhìn thẳng vào tôi, và cuối cùng cũng chịu hỏi xem tôi muốn gì. " có muốn đến chỗ Phoenix Hall này ?"

      "."

      " có muốn đến nhà tôi ?"

      "Có."

      Marianne Engel lại hướng chú ý của mình về phía bác sĩ Edwards. "Đấy. Thảo luận xong."

      tôi cần thời gian để suy nghĩ nghe có vẻ thận trọng. Sau rốt, tôi chọn Marianne Engel chứ phải các bác sĩ giúp tôi hồi phục trong suốt bao tháng trời. Câu trả lời vội vã của tôi, cách nhàng nhất, rất phi logic.

      Tuy nhiên, nếu có điều gì đó mà tôi có thể chắc chắn, đó là việc tất cả mọi người trong căn phòng ấy đều lòng mong những điều tốt đẹp nhất cho tôi. Tôi biết rằng Marianne Engel và Nan tranh luận về việc sắp xếp chỗ ở cho tôi hàng tuần liền; vì tôi hầu như ngày nào cũng thấy cả hai người bọn họ nên điều này chỉ có thể xảy ra nếu họ cùng nhau giấu chuyện để giảm thiểu căng thẳng cho tôi.

      "Vẫn còn nhiều thời gian trước khi đưa ra quyết định chính thức," Nan , ám chỉ cuộc đối thoại này đến hồi kết thúc. Chẳng ai cảm nhận được sức nặng của từ chính thức mà bà ra cả.

      Có rất nhiều mối quan ngại khá thực tế mà tôi thể lờ khi tính đến chuyện sống với Marianne Engel. trong những vấn đề đó là, dù mình có nhiều tiền, có lẽ cũng thể chu cấp cho tôi được.

      Cưu mang người bị bỏng là chuyện hết sức tốn kém. Ngoài phí tổn điều trị của tôi - tiền trả cho Sayuri, tiền thuốc, thiết bị tập luyện - còn có cả chi phí sinh hoạt nữa. Thức ăn. Quần áo. Giải trí. Vật dụng cá nhân. phải trả phí tổn cho cuộc sống của tôi, vừa là bệnh nhân, vừa là người đàn ông. Mặc dù những chương trình hay tổ chức từ thiện của chính phủ có thể đóng góp phần nào cho việc chăm sóc nhưng tôi rất nghi ngờ việc Marianne Engel lại chịu hỏi xin trợ giúp của họ; tính cách của luôn như thế, tôi đoán chắc là kiêu hãnh, các thủ tục giấy tờ và các vấn đề riêng tư làm chẳng buồn ngó ngàng đến chuyện đó. tuyên bố mình có đủ khả năng tài chính để nuôi sống tôi, nhưng tôi rất khó lòng chấp nhận điều đó là được - tập tiền trăm đô nhét đầy trong chiếc giày đủ để thuyết phục tôi tin vào của cải của . Liệu chỗ tiền này có phải chỉ là điều huyễn hoặc như hầu hết các góc cạnh khác trong cuộc sống của ? Liệu tôi có phải tin rằng dành dụm tiền của trong suốt bảy trăm năm hay ?

      Việc đến sống với chỉ gặp vấn đề về tài chính, mà còn có cả vấn đề đạo đức nữa. Vì lời đề nghị của xuất phát từ niềm tin "trái tim cuối cùng" của là dành cho tôi, tôi ràng lợi dụng, lừa dối phụ nữ rối loạn tâm thần. Là người còn tỉnh táo, tôi chỉ biết hơn, tôi còn phải hành động theo đúng cái thực tế mà tôi biết kia nữa. Và bất luận thế nào, tại sao tôi lại phải đặt mình vào tình trạng phụ thuộc người phụ nữ đầu óc bình thường mà tôi cũng chẳng quen thân gì cho cam? Dù tình cảnh của tôi giờ thay đổi và thể chất của tôi cũng yếu hơn so với trước kia, nhưng từ hồi niên thiếu tôi luôn sống tự lập. Thậm chí cả trước đó nữa: dù mang vai trò giám hộ, nhà Grace chỉ giỏi mỗi việc quản lý bộ sưu tập ma túy của họ mà thôi. thực tế, tôi phải tự chăm sóc bản thân ngay từ khi sáu tuổi.

      Vậy là tôi sai lầm trong việc chấp nhận lời đề nghị của Marianne Engel, và Nan đúng. Tôi thay đổi quyết định nóng vội của mình và cuối cùng cũng đến Phoenix Hall thôi.

      Chiều đó khi Gregor đến để đưa quà của Sayuri, ông ta chúc mừng quyết định chuyển đến sống cùng Marianne Engel của tôi. Khi tôi thông báo với ông ta mình thay đổi quyết định, ông ta giật nẩy người rằng tôi đưa ra quyết định đúng đắn duy nhất rồi. "Tôi nghĩ tiến bộ của dưới hướng dẫn của bác sĩ Edwards đáng ngạc nhiên. Tôi rất ngưỡng mộ bà ấy."

      Tôi biết quá Gregor để có thể được khi nào ông ta hết những gì mình nghĩ. Đây là trong những lúc đó. "Nhưng...?"

      Gregor nhìn trái, rồi lại nhìn phải, để chắc chắn có ai xung quanh. "Nhưng mà thậm chí khỉ cũng còn có thể rơi khỏi cây mà."

      Tôi chả hiểu câu này có ý nghĩa gì cả, thế là Gregor giải thích: Thậm chí cả các chuyên gia cũng có thể mắc sai lầm. "Dù tiến sĩ Edwards là bác sĩ điều trị cho , và là người tài giỏi,thích tôi cũng nghĩ rằng nên đánh giá thấp ảnh hưởng của Marianne Engel tới hồi phục của mình. ấy đến đây hằng ngày, ấy giúp tập luyện, và hiển nhiên là ấy rất quan tâm đến . Chúa mới hiểu tại sao. Nhưng tôi cho bất cứ chuyện gì mà biết đâu."

      ÔNG TA NGHĨ BẠN HÂM DỞ CỦA NGƯƠI THỰC CÓ TÌNH CẢM VỚI NGƯƠI ĐẤY.

      Câm miệng lại, đồ khốn. Tôi chỉnh Gregor. " ấy có hơi ảo tưởng."

      "Cứ việc phủ nhận điều đó," ông ta , "nhưng ấy thích ."

      DỄ THƯƠNG.

      Tôi định tiếp tục tranh luận về vấn đề đó. Tôi có hứng. "Thế ông làm gì?"

      "Là tôi tôi cũng lo lắng về việc sống với Marianne Engel," ông ta , "nhưng cũng có phải tay khá khẩm đâu cơ chứ. Nếu hai người có thể chịu nổi nhau, tôi nghĩ nên làm thế."

      "Dù ấy thích tôi - tôi rằng ấy thích tôi đâu nhé - tôi thực hiểu cảm giác của mình với ấy." Tôi ngừng lại. "Tôi biết."

      "Nếu chấp nhận lời đề nghị của ấy, là thằng ngu nhất trần đời," Gregor , "ngoài việc là kẻ dối trắng trợn nữa."

      Khi cứ nằm lì cái giường trong bệnh viện, bạn bắt đầu có cả danh mục trong đầu về tất cả những tiếp xúc giữa người với người. Tôi chạm vào mu bàn tay của Gregor, lần đầu tiên chúng tôi chạm vào nhau, và , "Cám ơn ông vì mang quà của Sayuri đến."

      KHOẢNH KHẮC CẢM ĐỘNG...

      Tôi nhấn chuông gọi ý tá mang thêm morphine.

      ... GIỮA NHỮNG KẺ THUA CUỘC.

      Sáng Giáng sinh, Marianne Engel xuất trong phòng tôi với túi quà và chiếc va li màu bạc rồi nhét ngay xuống gầm giường tôi. Chúng tôi ở bên nhau vài giờ, chuyện như thường lệ về mọi thứ hoặc những chuyện đầu cuối, trong khi đút cho tôi quýt và bánh hạnh nhân. Như mọi khi, ra ngoài vài lần để hút thuốc lá, nhưng tôi nhận thấy có những lúc khi quay lại người hề ám khói thuốc. Khi tôi hỏi có phải làm việc gì khác , lắc đầu bảo . Tuy thế, nụ cười tố giác .

      Vào đầu giờ chiều, Sayuri và Gregor đến, theo sau là Connie, mới vừa hết ca. Bác sĩ Edwards bao giờ làm việc vào Giáng sinh, còn Maddy và Beth đều xin nghỉ để dành thời gian cho gia đình. Khi thấy còn ai đến nữa, Marianne Engel lôi túi quà ra khỏi góc phòng và chúng tôi bắt đầu trao quà cho nhau.

      Mấy y tá mua cho tôi vài cuốn sách về các chủ đề cuốn hút tôi, ví dụ như kiến trúc nội thất của các tu viện Đức thời Trung cổ cùng những tác phẩm của Heinrich Seuse và Meister Eckhart.

      "Mua quà cho chẳng dễ chút nào. Tôi phải ba hiệu sách khác nhau đấy," Connie . Ngay khi nhận ra điều này có vẻ nghe giống lời phàn nàn, vội thêm vào, " phải tôi khó chịu gì đâu, đấy!"

      Gregor tặng tôi bộ dụng cụ văn phòng phẩm, vì tôi tiết lộ với ông ta mấy tuần gần đây mình viết lách, còn Sayuri tặng tôi mấy que kem vị oải hương mà tôi rất vui sướng đem ra chia cho tất cả mọi người. Marianne Engel có vẻ thích món quà này nhất và thấy rất buồn cười khi kem làm lưỡi tím ngắt.

      Tôi tặng mấy y tá những chiếc đĩa nhạc của các ca sĩ họ thích. Món này có vẻ cá tính cho lắm, nhưng tôi biết cuộc sống ngoài bệnh viện của họ như thế nào. Về phần Sayuri, tôi trao cho món quà tôi nhờ Gregor chọn hộ: đôi vé xem lễ hội phim của Akira Kurosawa sắp tới.

      "Tôi nảy ra ý tưởng này khi bác sĩ Hnatiuk kể tôi nghe. Ông ấy thích Kurosawa, biết đấy."

      Marianne Engel nhìn tôi, nhướng mày tỏ ý buộc tội vì tôi chẳng tinh tế gì cả.

      Tiếp theo là món quà của tôi cho Gregor, được Sayuri chọn: phiếu giảm giá bữa tối cho hai người tại nhà hàng Nga với cái tên cực kỳ nhạt nhẽo là Rasputin. Tôi hỏi Sayuri rằng ăn thức ăn đúng kiểu Nga bao giờ chưa, và bảo là chưa. Tới lượt tôi nhướng mày nhìn về phía Gregor. Khi họ cám ơn tôi về những món quà, tôi càu nhàu rằng "Giáng sinh chẳng là Giáng sinh nếu thiếu những món quà ấy." ai có vẻ hiểu tôi về cái gì, chỉ để chứng minh rằng có thêm nhiều người cần đọc sách của Louisa May Alcott.

      Tiếp, đến lượt Marianne Engel tặng quà. Các y tá được tặng thẻ spa, Connie nhét ngay thẻ vào chỗ đĩa CD. Sayuri được tặng ngôi chùa Phật bằng thủy tinh nâu tinh xảo trong khi Gregor được tặng cặp chân nến làm bằng sắt uốn. Họ đều rất ấn tượng về chất lượng của những món đồ thủ công này, và Marianne Engel khoe rằng những món quà đó đều là tác phẩm của hai người bạn .

      Về phần Marianne Engel và tôi, chúng tôi đều quyết định trao quà cho nhau sau đó, cách bí mật. Và có lẽ tôi là người duy nhất để ý thấy, nhưng có vẻ như Sayuri và Gregor cũng có ước định tương tự.

      lát sau, Gregor , "Chúng ta sẵn sàng tiếp chưa nhỉ?" Tất cả mọi người nhìn Marianne Engel, gật đầu. Giáng sinh thực là mùa của những điều kỳ diệu, khi cán bộ y tế lại trông chờ vào hướng dẫn của người tâm thần phân liệt. Sayuri đặt tôi ngồi vào xe lăn còn Gregor đẩy tôi dọc hành lang, và khi tôi hỏi rằng chúng tôi đâu, chẳng ai chịu trả lời thẳng cả. Tôi nhanh chóng nhận ra rằng chúng tôi hướng tới quán cà phê. Có lẽ ở đó có vài dịch vụ Giáng sinh, ông già Noel làm thuê hoặc vài người tình nguyện hát thánh ca, mặc dù việc chưa từng nghe gì về những thứ đó làm tôi thấy hơi kỳ quái. Sau hàng tháng trời ru rú trong bệnh viện, giờ tôi chú ý tới từng việc nhất.

      Khi những cánh cửa của quán cà phê trượt ra, tôi choáng ngợp bởi mùi vị của tất cả những món ăn thế giới. Bên bức tường xa xa, nhóm phục vụ tình nguyện bận dọn dãy bàn ngồn ngộn thức ăn. Ba mươi hay bốn mươi người lại quanh phòng, dưới những dải biểu ngữ đỏ treo lơ lửng trần, và vài người trong số họ ra hiệu về phía chúng tôi. Lúc đầu, tôi tưởng họ đều chỉ về tôi nhưng khi những tình nguyện viên vẫy tay với Marianne Engel, tôi nhận ra rằng mới là trung tâm chú ý, chứ phải tôi. Các bệnh nhân bắt đầu thong thả về phía chúng tôi; người đàn ông ho sù sụ, phụ nữ tóc xoăn với hai cánh tay băng bó, cậu bé dễ thương có chân tập tễnh. Phía cuối phái đoàn là nhóc đầu trọc, tay cầm chùm bóng bay, thêm cả đoàn người nhà theo sau cổ vũ.

      Tất cả mọi người đều cám ơn Marianne Engel vì những gì làm; lúc này tôi vẫn chưa biết đó là việc gì. Sau khi Gregor đẩy tôi ra phía mấy bàn thực phẩm và giúp tôi ra khỏi xe lăn, ông ta giải thích rằng chủ trì kiêm chủ chi cả bữa tiệc. Việc này, xét theo thiếu thận trọng thường ngày của , phải nhiệm vụ nhặt gì. Thậm chí cả khi thấy những bữa ăn ngoại cỡ mà mang vào phòng tôi, tôi cũng hầu như thể đoán được còn những gì nữa.

      Gà tây, thịt lợn hun khói, ngỗng nướng, gà, bánh bao nhân thịt, cà ri dê, lợn rừng, thịt hươu, thịt băm, cá chép (cá chép á? ai ăn cá chép?), cá tuyết đại dương, cá ê fin, cá tuyết hầm, sò, thịt nguội, tá đủ loại xúc xích, trứng rán, xúp đuôi bò, cháo thịt, cháo hành, nhiều pho mát hơn cả chỗ sữa bạn vắt được từ vú bò, đậu phộng, đậu đỏ, hành, dưa chuột muối, củ cải Thụy Điển, cà rốt, khoai tây, khoai lang, khoai lang ngọt hơn, khoai lang ngọt nhất, bắp cải, cà rốt, củ cải vàng, bí, bí đỏ, cơm gạo basmati, cơm gạo trắng, cơm gạo lứt, cơm gạo hoang, cơm gạo trồng, món khai vị kiểu Ý, thịt nhồi, bánh mì trộn, bánh vòng, bánh sữa, bánh pho mát, salad xanh, salad Caesar, salad đậu, salad trộn mì ống, salad trộn thạch, salad rắc kem và táo, mì spaghetti, mì fettuccini, mì macaroni, mì rigatoni, mì cannelloni, mì tortellini, mì guglielmo marconi (chỉ để kiểm tra xem bạn có đọc ấy mà(23) ), chuối, táo, cam, dứa, dâu, việt quất, hạt trộn, bánh thịt băm, bánh pudding Giáng sinh, bánh mì Giáng sinh, bánh quy sữa dừa, bánh hồ đào, sô la, sô la khúc cây, sô la hình con ếch, đậu đa vị Betty Bott, kẹo mềm, đường, gia vị, tất cả mọi thứ ngon miệng, bánh lễ Hiển linh, bánh hoa quả, bánh gừng hình người, bánh Giáng sinh kiểu Ý Torte Vigilia di Natale, những món ngon lành cành đào, rượu nam việt quất, rượu trứng, sữa, nước nho, nước táo, nước cam, đồ uống cồn, cà phê, trà, bạn--nước-cá-chùa tôi--nước-cà-chua, nước khoáng đóng chai.

      Tất cả mọi người trong bệnh viện hẳn chất đầy đĩa của họ , hai, ba lần rồi, và Marianne Engel quyến rũ mỗi vị khách bằng vẻ duyên dáng và lập dị của mình. Chẳng hại gì khi khoác lên người bộ đồ tinh và trông cực kỳ dễ thương. Nhạc nổi lên, mọi người vui vẻ chuyện với nhau, tất cả đắm chìm trong khí lễ hội. Những bệnh nhân bình thường chẳng bao giờ thèm gặp nhau giờ bù khú chuyện trò, có lẽ là so đo bệnh tật. Tiếng ho bị nhòa bởi tiếng cười, và những tiếng reo thích thú của lũ trẻ, mỗi em đều được nhận món quà dưới gốc cây thông Noel bằng nhựa. Hiển nhiên Marianne Engel được phép mang cây thông vào nhưng cây thông giả quá đủ rồi. Nếu hoa có thể giết người, cứ tưởng tượng xem cây họ tùng bách có thể làm gì.

      Trong buổi chiều ấy, tôi trở thành ngôi sao của bệnh viện khi người ta xì xào bàn tán rằng bạn tôi là người tổ chức tất cả mọi thứ. người đàn ông đến chuyện với tôi, nở nụ cười rạng rỡ đến nỗi tôi bị sốc khi nghe ông rằng người vợ suốt sáu mươi năm chung sống của mình vừa mới qua đời. Khi tôi rất tiếc khi biết chuyện đó, ông lắc đầu và đập mạnh tay lên vai tôi. "Đừng uổng công thương cảm tôi, cậu nhóc. Tôi cũng khá ổn rồi, tôi cậu nghe điều này nhé. Cậu vớ được người phụ nữ như thế đừng hỏi xem mình làm gì để xứng đáng với điều đó. Hãy chỉ hy vọng rằng ấy tự nhiên tỉnh trí lại mà thay đổi ý định thôi."

      Trong suốt bữa tiệc, cảm giác thanh thản lạ lùng trào dâng trong tôi. Ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên, Marianne Engel thể thứ tình cảm cuồng nhiệt mê muội với tôi đến nỗi tôi nghĩ rằng nó biến mất đột ngột như khi đến vậy. Mọi mối quan hệ cuối cùng rồi cũng đổ vỡ, lẽ tự nhiên là thế. Chúng ta chẳng thấy gương tày liếp hàng ngàn lần rồi còn gì, thậm chí cả với những cặp chắc chắn " cùng nhau vượt qua tất cả."

      Tôi từng biết người phụ nữ cứ thích tưởng tượng ra Tình trong lốt con chó to khỏe, con chó luôn chạy theo bắt cái que mỗi khi nó được ném rồi trở về vẫy tai đầy sung sướng. Trung thành tuyệt đối, hoàn toàn vô điều kiện. Và tôi cười vào mặt , thậm chí cả tôi cũng biết tình phải như thế. Tình thứ gì đó rất mỏng manh luôn cần được nâng niu bảo vệ. Tình mạnh mẽ và tình cũng cứng cỏi. Tình có thể vỡ nát chỉ bởi vài từ ngữ nặng nề, hoặc bị ném thương tiếc bởi những hành động bất cẩn. Tình giống con chó trung thành chút nào; tình giống con vượn cáo chuột hơn.

      Phải, đó chính xác là tình : loại động vật có vú bé, dễ bị kích động với đôi mắt luôn mở to sợ hãi. Đối với những người hình dung nổi con vượn cáo chuột, hãy thử tưởng tượng ra hình ảnh thu của danh hài Don Knotts hoặc Steve Buscemi mặc áo lông thú. Tưởng tượng ra con vật dễ thương hết mức sau khi bị bóp mạnh đến nỗi tất cả ruột gan đều dồn lên cái đầu ngoại cỡ và mắt lòi hết cả ra. Con vượn cáo trông yếu ớt đến nỗi bạn thể lo ngại rằng con dã thú có thể bất thình lình xông tới vồ nó mất.

      Tình của Marianne Engel dành cho tôi dường như được xây dựng dựa nền tảng mong manh đến nỗi tôi nghĩ nó sụp đổ ngay giây phút chúng tôi bước qua cánh cửa bệnh viện. Làm sao tình dựa quá khứ giả tưởng có thể tồn tại trong tương lai thực chứ? thể nào. Thứ tình đó đáng bị vồ lấy và nghiền nát trong bộ hàm của cuộc sống thực tại.

      Đó là nỗi sợ của tôi, nhưng ngày Giáng sinh chỉ ra cho tôi thấy rằng tình của Marianne Engle hề yếu đuối. Nó mạnh mẽ, vững chãi và vĩ đại. Tôi tưởng nó chỉ có thể lấp đầy căn phòng trong khoa điều trị bỏng của tôi, nhưng nó bao trùm cả bệnh viện. Quan trọng hơn, tình của chỉ dành riêng cho tôi; nó được hào phóng chia sẻ với cả người lạ - những người nghĩ là bạn từ thế kỷ mười bốn của mình.

      Cả cuộc đời tôi phải nghe biết bao câu chuyện dớ dẩn về tình : rằng càng cho nhiều, càng nhận được lắm. Điều này đối với tôi hơn vi phạm các nguyên tắc toán học cơ bản. Nhưng nhìn Marianne Engel phóng khoáng chia sẻ tình của làm thức tỉnh trong tôi những cảm xúc lãng mạn kỳ cục nhất: đối lập của ghen tuông.

      Tôi thấy ấm lòng khi nhận ra tình là bản chất tự nhiên của tâm hồn chứ phải phút lầm lạc do ảo tưởng. Tình của phải con vượn cáo chuột, loài động vật được đặt tên như thế vì những nhà thám hiểm Bồ Đào Nha khi đến Madagascar thấy những đôi mắt to sáng lấp lánh ló ra từ rừng rậm khi họ ngồi quanh đống lửa trại. Tin rằng những đôi mắt đó thuộc về linh hồn những người đồng hành khuất, họ đặt cho loài động vật cái tên Latin "lemur," nghĩa là "linh hồn của người chết."

      Khi cái đùi gà tây cuối cùng yên vị trong dạ dày thực khách, Marianne Engel cảm ơn và trao cho những người phục vụ những chiếc phong bì có ghi "chỉ là chút tiền công cho việc làm thêm ngày lễ." Vừa đẩy tôi về phòng, vừa rằng đây là lễ Giáng sinh tuyệt vời nhất của . Tôi bảo đó đúng là lời tuyên bố ra trò, nếu cho là trải qua tới bảy trăm lễ Giáng sinh .

      Sau khi giúp tôi lên giường, Marianne Engel ngồi phịch xuống đầy thỏa mãn. Tôi rằng bữa tiệc tốn của khoản kha khá; phẩy tay phản đối và lôi chiếc va li bạc từ dưới gầm giường của tôi lên. "Mở ra ."

      Chiếc va li chật cứng những cọc tiền năm mươi và trăm đô la. Trong quãng đời đóng phim khiêu dâm và nghiện ngập, tôi thỉnh thoảng cũng thấy những túi đầy tiền, nhưng chẳng cái nào giống thế này cả. Tôi nhẩm tính trong đầu, cố gắng ước lượng. Rất khó khăn trong việc tính toán - tôi vẫn còn quá sửng sốt vì tồn tại của chỗ tiền đó - thế là Marianne Engel liền giải vây giùm tôi. "Hai trăm nghìn đô la."

      Hai trăm nghìn đô la. để cái va li cả ngày dưới gầm giường. Bất cứ ai cũng có thể xách . Tôi bảo là đồ ngốc; cười đáp rằng thậm chí cả thánh cũng có lúc sai lầm. Và thực , hỏi, ai có thể lục tìm va li tiền dưới gầm giường trong ngày lễ Giáng sinh chứ?

      " nghĩ tôi cưu mang nổi ," cứ như thể chẳng thể sai về điều đó được. sai . Khi tôi gật đầu, liền thêm, "Tôi sẵn sàng nhận quà của mình rồi đây."

      Trong suốt mấy tuần qua tôi cố nặn ra hàng tá phiên bản khác nhau cho cùng bài phát biểu ngắn ngủn, như cậu học sinh trung học bàn mưu tính kế mời bạn của mình tới buổi vũ hội, nhưng khi phút giây trọng đại đến, tôi chỉ cảm thấy bất an. Rụt rè. Xấu hổ. Tôi muốn tỏ ra khéo léo, nhưng y như cậu học sinh trung học đó, tôi cứ câm như hến. Quá muộn để trốn chạy, và tôi biết rằng món quà của mình - có ba thứ - là quá riêng tư. Quá ngu ngốc. Hàng giờ lao động của tôi thành vô ích: ảo tưởng kiêu hãnh nào thuyết phục tôi chuẩn bị những món quà ấy chứ? nghĩ chúng trẻ con; nghĩ tôi quá sấn sổ, hoặc còn e dè. Tôi mong sét đánh xuống phòng tôi, xuyên qua chiếc tủ đầu giường nơi những món quà ngốc nghếch của tôi được giấu trong ngăn kéo.

      Tôi viết ba bài thơ cho . Con rắn ký sinh trong xương sống cười chế nhạo những nỗ lực quá ngạo mạn của tôi.

      Cả cuộc đời, tôi từng làm thơ, nhưng tôi chưa bao giờ cho ai xem. Tôi giấu những gì mình viết, và giấu cả bản thân trong những trang viết mà tôi giấu - chỉ con người đủ sức đối diện với thế giới thực mới tạo ra thế giới ảo để trốn tránh. Thỉnh thoảng khi tôi nhận ra mình thể thôi viết lách dù rất muốn, cơn rùng mình chạy dọc sống lưng tôi, như thể có người đàn ông khác đứng quá gần mình ở nhà vệ sinh công cộng vậy.

      Thỉnh thoảng tôi cũng cảm thấy có gì đó cực kỳ thiếu nam tính trong việc viết lách, và thơ ca là thứ tồi tệ nhất. Khi bị chìm đắm trong những ảo giác do cocaine tạo ra, tôi luôn đốt hết những tập thơ của mình và nhìn những trang giấy cháy rụi hết tập này đến tập khác, nhìn ngọn lửa khạc tàn tro xám xịt vào trung. Khi những con chữ thành tro than của tôi cuộn lên Thiên đường, tôi cảm thấy rất hài lòng vì biết rằng nội tâm mình lại được an toàn: đội ngũ các nhà khoa học pháp y giỏi nhất của FBI cũng thể ráp nối những cảm xúc của tôi lại nữa. Vẻ đẹp của việc giữ cảm xúc nhất của mình trong những trang viết nằm ở chỗ tôi có thể đốt nó ngay lúc nào mình muốn.

      Tán tỉnh để đưa phụ nữ lên giường là chuyện an toàn, vì những lời của tôi biến mất cùng lúc với hơi thở thoát ra; viết bài thơ tặng người phụ nữ là chế cho ấy thứ vũ khí mà sau này dùng để tấn công mình. Đem tặng những bài viết của mình có nghĩa là nó được phơi bày mãi mãi trước cả vũ trụ, sẵn sàng quay lại trả thù mình bất cứ lúc nào.

      Vì thế tôi gạt nó ra khỏi đầu. Hôm nay là Giáng sinh, tôi bị kẹt trong chiếc giường xương, tôi nợ Marianne Engel món quà, và tôi có món quà thay thế nào cả. Tôi chỉ có những nét nguệch ngoạc trẻ con làm bẩn cả trong sáng của tờ giấy trắng mà thôi. Từ ngữ của tôi là những chữ tượng hình của Ai Cập cổ đại trước khi người ta phát ra hòn đá Rosetta, từ ngữ của tôi là những lính bị thương tập tễnh trở về nhà, còn chút đạn dược, từ trận chiến thất bại; từ ngữ của tôi là những con cá hấp hối, quẫy đạp điên cuồng khi cái lưới được đổ ra và cá chất boong tàu như ngọn núi trơn nhẫy cố vươn thành thảo nguyên.

      Từ ngữ của tôi trước đây, và bây giờ, xứng đáng được đem tặng cho Marianne Engel.

      Nhưng tôi lựa chọn nào khác, thế là tôi với tay ra chỗ ngăn kéo và - ĐỒ THUA CUỘC - dồn hết lòng can đảm giả tạo yếu ớt của mình. Tôi lôi ba tờ giấy ra, nhắm tịt mắt lại, và chìa mấy bài thơ về phía Marianne Engel, mong chúng đừng mủn ra tay tôi.

      "Đọc cho tôi nghe ," .

      Tôi bảo rằng mình thể. Đây là những bài thơ, và giọng tôi là sản phẩm của cuộc thương lượng thất bại thảm hại nơi ngã tư đường(24) . con chó Địa ngục dữ tợn xé toác cổ họng tôi và để lại phía sau chiếc ghi ta vỡ vụn với những dây đàn hoen gỉ. Giọng của tôi - - cực kỳ phù hợp cho thơ với ca rồi.

      "Đọc cho tôi nghe ,".

      Giờ rất nhiều năm trôi qua. Bạn cầm cuốn sách này trong tay, vì thế hiển nhiên tôi vượt qua được nỗi sợ dám cho người khác đọc những gì mình viết ra. Nhưng ba bài thơ tôi viết cho Marianne Engel vào ngày Giáng sinh đó được ghi lại trong câu chuyện này. Bạn có đủ bằng chứng buộc tội tôi rồi.

      Khi tôi đọc xong, trườn lên giường. " là tuyệt vời. Rất cám ơn . Giờ tôi kể nghe chúng ta gặp nhau như thế nào nhé."

      Chú thích

      (23) Guglielmo Marconi là tên nhà vật lý nổi tiếng người Ý.

      (24)Truyền thuyết Hy Lạp kể rằng vào đêm trăng sáng, nếu bạn mang đàn ghi ta ra ngã tư đường, vừa đánh vừa cầu mong ác quỷ đến ác quỷ xuất và cho bạn khả năng chơi được bất cứ loại nhạc cụ nào, làm được bất cứ việc gì thế giới này. Nhưng để đổi lại, bạn phải trao linh hồn vĩnh hằng của mình cho nó.
      Hyunnie0302Jenny Nguyen thích bài này.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :