1. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Cô gái mang trái tim đá - Andrew Davidson (end)

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. thuytinhtim_1102

      thuytinhtim_1102 Well-Known Member

      Bài viết:
      1,916
      Được thích:
      3,133
      Chương 4
      Ngày sinh chính xác của tôi giờ cũng chẳng mấy quan trọng, nhưng theo như tôi biết nó rơi vào ngày nào đó năm 1300. Tôi chưa bao giờ biết cha sinh mẹ đẻ của mình là ai, họ bỏ tôi trong cái giỏ tại cổng chính tu viện Engelthal vào giữa tháng Tư khi tôi mới được vài ngày tuổi. Thông thường đứa trẻ bị bỏ rơi được thu nhận và nuôi dạy ở đây - xét cho cùng Engelthal phải trại trẻ mồ côi - nhưng do số phận, tôi được xơ Christina Ebner và cha Fredrich Sunder tìm thấy vào chính cái đêm họ bàn luận xem cái gì được coi là dấu hiệu của Chúa.

      Xơ Christina vào tu viện năm mười hai tuổi và bắt đầu thấy ảo giác hai năm sau đó. Khi tìm thấy tôi bà mới ngoài hai mươi và là nhà thần học tiếng tăm. Cha Sunder ngót năm mươi tuổi, là giáo sĩ trong vùng, ông bước vào đời sống tôn giáo muộn hơn hết thảy những người khác. Cho tới lúc đó, ông làm giáo sĩ nghe các xơ Engelthal xưng tội được khoảng hai mươi năm. Nhưng điều quan trọng nhất cần biết về họ là bản chất gốc của họ, vì nếu họ quá giàu tình cảm, mọi chuyện có thể hoàn toàn khác.

      Có hai lời nhắn để lại trong cái giỏ chứa tôi. viết bằng tiếng Latin, viết bằng tiếng Đức, nhưng cả hai đều có nội dung như nhau. đứa trẻ của định mệnh, đứa con thứ mười trong gia đình tử tế, được đem tới như món quà dành cho Chúa Cứu thế và tu viện Engelthal. Xin hãy đối xử với con bé như Chúa mong muốn. Rất hiếm người dân thường nào biết viết ngôn ngữ, gì đến hai, vì thế tôi nghĩ bản thân tồn tại của hai lời nhắn này giúp khẳng định tôi là con nhà lành rồi.

      Theo tôi biết, xơ Christina và cha Sunder nhanh chóng quyết định rằng xuất của đứa trẻ trong đêm đó chứ chẳng phải đêm nào khác phải trùng hợp ngẫu nhiên, và cũng chẳng hại gì đến chuyện bản thân xơ Christina cũng là đứa con thứ mười trong gia đình. Khi họ mang tôi tới trước bà trưởng tu viện, bà khá do dự khi phải đối phó với những lý lẽ kết hợp của cả hai người. Liệu bà trưởng tu viện có thể phớt lờ khả năng xuất của tôi trước cổng được bề sắp đặt? Khi phải xử lý những thông điệp của Chúa, tốt nhất cứ cẩn thận là hơn. Hầu hết các xơ trong tu viện đều cảm thấy thế, mặc dù vẫn có người phản đối quyết liệt việc giữ tôi ở lại. Đó là xơ Gertrud, thủ thư của tu viện - "bậc thầy ghi chép" - cai quản phòng viết ở Engelthal. cần nhớ tên bà ấy, cả tên trợ lý của bà nữa, xơ Agletrudis. Cả hai người đều tác động đến cuộc đời tôi, và thường là những tác động hay ho cho lắm.

      Engelthal được coi là trong những trung tâm tâm linh quan trọng nhất tại Đức. có thể nghĩ điều này khiến thời thơ ấu của tôi bị gò bó, nhưng hề như thế. Các xơ chăm sóc tôi rất chu đáo, có lẽ tôi giúp họ quên những công việc thường nhật. Tôi luôn thấy vui khi làm họ mỉm cười, vì ngay khi nhận ra mình cười, họ cố hết sức để khép miệng lại. Tôi có cảm giác như mình phá vỡ quy tắc nào đó vậy.

      Tôi luôn cảm thấy gần gũi với xơ Christina và cha Sunder, những người trở thành cha mẹ thay thế của tôi, điều này thể trong cách tôi thường dùng để gọi cha Sunder. Theo nguyên tắc, tất cả mọi người phải gọi ông là "cha", nhưng khiêm tốn của ông lớn đến nỗi ông luôn cầu mọi người gọi mình là "huynh". Vì thế với tất cả những người khác, ông là huynh trưởng Sunder, nhưng với tôi ông luôn là cha. Tôi cho rằng ông cho phép thế có lẽ vì tôi thấy được góc khác trong con người ông mà ai nhận ra - ừm, ngoại trừ huynh trưởng Heinrich, người sống cùng ông trong căn nhà gần ngọn đồi trong rừng. Lúc nào tôi cũng nghe thấy tiếng cười của cha Sunder trong khi hầu hết những người khác chỉ nhìn thấy nét mặt nghiêm nghị của ông.

      Tất cả những bà xơ khác khi đến tu viện đều trải qua thời thơ ấu ở nơi khác, còn từ đầu tiên tôi là với cha Sunder. "Gott(18-) ." Chúa ơi, là lời mở đầu đầy vinh quang cho ngôn ngữ. Thử nghĩ mà xem, làm sao ông có thể trưng ra với tôi cái mặt nạ mộ đạo khủng khiếp thường sử dụng trước đông người được? Nó chẳng phù hợp chút nào khi ông chơi đùa với em bé, và khi ông nghĩ đến lúc cần đeo cái mặt nạ ấy lên với tôi quá muộn. Nhưng dù chỉ là đứa trẻ, tôi cũng hiểu rằng ông phải giữ gìn hình ảnh, và bí mật của ông được tôi giữ kín.

      Cha Sunder luôn mặc áo rơm và rất hay tự xỉ vả bản thân, gọi chính mình là kẻ tội đồ - chủ yếu là vì "những tội ác thời trai trẻ của ông", gì cũng được - và luôn cầu xin tha thứ. Ông tin rằng mình bị "ô nhiễm" bởi những việc làm trước khi theo đạo. Ông hay làm những trò này trước mặt tôi nhưng, khi ông làm thế, huynh trưởng Heinrich lặng lẽ đứng nơi góc phòng với đôi mắt long lên sòng sọc.

      Dù trách cứ bản thân nhưng cha Sunder bao giờ ngần ngại tha thứ cho người khác. Và ông có giọng , giọng ngọt ngào nhất bạn có thể tưởng tượng được. Khi ông , ta thể nghĩ rằng chỉ mình ông mà cả Chúa cũng ta.

      Xơ Christina - tôi thậm chí biết phải bắt đầu từ đâu. Bà quả người phụ nữ lạ lùng. Bà sinh vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh, dấu hiệu đầu tiên của những ân huệ đến trong đời bà. Mọi người đều trong tất cả những đại diện của Chúa trái đất này, bà là trong mười lăm người được ưu ái nhất. Khi còn , tôi chưa lần nghi ngờ tính chân thực của điều đó, chỉ đến mãi sau này tôi mới tự hỏi làm sao điều như thế lại có thể đem ra định lượng được. Những ảo giác và tài văn chương của xơ Christina làm tu viện nức tiếng thơm. Bà sáng tác luôn tay và viết nên hai kiệt tác - Khải huyền và Sách về các xơ tại Engelthal, lịch sử về những vị nữ tu có vai trò trọng yếu trước thời chúng tôi. Các tác phẩm của bà khơi nguồn cảm hứng sáng tác cho những người khác trong tu viện. Ví dụ, xơ Gertrud của phòng viết cho ra lò Cuộc đời nữ tu Gertrud tại Engelthal với giúp đỡ của huynh trưởng Heinrich và huynh trưởng Cunran nhưng, thành , tôi luôn có cảm giác cuốn sách ấy được viết với nỗ lực chính là thêm mắm thêm muối cho cái truyền thuyết của chính bà mà thôi.

      Gertrud có thói quen rất kỳ lạ là ngừng nuốt khí. thể để ý và cũng thể ghét được. Người ta mẹ bà sinh tám cậu con trai trước khi sinh bà, toàn là đẻ khó, nhưng khi sinh Gertrud tốn chút sức lực nào. Có lẽ bạn băn khoăn chuyện đó có ảnh hưởng gì, nhưng ngay từ đầu nó đặt Gertrud ngang hàng với Chúa vì ra đời của Người cũng được cho là hề đau đớn - việc sinh nở cũng thuần khiết như thụ thai. Mọi người đều em bé sơ sinh Gertrud bao giờ bú mẹ; bé có vẻ thích húp khí soàm soạp như thể hút trực tiếp dòng sữa ngọt ngào thần thánh từ đó vậy. Tôi luôn ngờ rằng việc bà cả đời nuốt khí chẳng qua chỉ để ai quên được câu chuyện ấy mà thôi.

      Trong tất cả những cuốn sách được viết vào thời kỳ cảm hứng này, cuốn sách tôi thích nhất là Gnaden(19) - cuộc đời của Friedrich Sunder. Ừm, tôi thích nó nhưng thích những việc xảy đến với nó chút nào. Sau khi cha Sunder mất, cuốn sách bị đem chỉnh lý và rồi toàn bộ phần đề cập đến tôi bị xóa bỏ, ấy là chưa kể còn những gì gì nữa. phải lòng tự tôn của tôi bị xúc phạm, mà tôi - vẫn - bị xúc phạm vì họ hủy hoại ý định của ông.

      Dù thế nào nữa, họ là những người sống quanh tôi khi tôi còn . lần tôi hỏi xơ Christina khi nào tôi được phép ra ngoài sống, bà trả lời là bao giờ - nhưng đó phải chuyện đáng phiền não mà là món quà cần được ăn mừng. Chúa rất rộng lượng khi hé lộ kế hoạch của Người cho tôi ngay từ khi tôi mới ra đời, ngay lập tức đặt tôi vào Engelthal. nữ tu nào khác, kể cả bản thân Christina, được phép dành cả đời mình trong vinh quang được phụng Chúa. "Con mới may mắn làm sao," bà , báo hiệu câu chuyện đến hồi kết thúc.

      Mọi người đều kỳ vọng khi trưởng thành tôi cũng bắt đầu cầm bút. Kỳ vọng này được nhen nhóm khi tôi biết rất sớm và học tiếng Latin cũng dễ dàng như tiếng mẹ đẻ vậy. Hiển nhiên là tôi thể nhớ được, nhưng họ tôi hầu như phải tập từng từ đơn trước khi bắt đầu câu hoàn thiện. phải hiểu, thời đó, trẻ con về cơ bản được coi như người lớn chưa hoàn thiện. Bản chất của đứa trẻ phải thứ có thể phát triển, vì tâm tính được xác định ngay từ lúc mới sinh; thời thơ ấu là quá trình giúp trẻ bộc lộ bản thân, phải để phát triển bản thân, vì thế khi khả năng ngôn ngữ của tôi xuất , nó nghiễm nhiên được coi như luôn tồn tại, được Chúa đặt sẵn ở đó, chờ được khám phá mà thôi.

      Tôi những vị khách đến thăm Engelthal. Dân địa phương đến chữa trị trong bệnh xá, và chúng tôi tất đón họ vào. phải chỉ từ góc độ tình cảm, mà còn là nhu cầu chính trị nữa. Tu viện phát triển nhanh chóng mỗi khi các nhà quý tộc hiến tặng những vùng đất xung quanh, và chúng tôi cũng thừa hưởng luôn cả các tá điền. Có cả những khách viếng thăm khác, những mục sư lang bạt mong muốn được đến xem Engelthal là chỗ thế nào mà có thể tạo ra những ảo giác kỳ diệu đến thế giữa các nữ tu, hay những người, thực tế hơn, chỉ mong được tá túc qua đêm. Tôi thích ông nông dân bệnh tật kém gì nhà quý tộc, vì mỗi người đều mang đến cho tôi những câu chuyện về thế giới bên ngoài.

      Xơ Christina thường chiều chuộng tôi mỗi khi có khách. Tôi được ngồi yên trong góc phòng, chăm chú lắng nghe những cuộc đối thoại, chẳng bị ai để ý. Gertrud phản đối, dĩ nhiên, và luôn khinh khỉnh chõ cái mũi dài mảnh xuống nhìn tôi. Thị lực suy giảm khiến bà khó tỏ vẻ coi thường cách ràng.

      Gertrud xem những vị khách này khác gì những kẻ xâm phạm công việc chính của mình vì, với tư cách nữ thủ thư của tu viện, thỉnh thoảng bà cũng phải dịch. Mà bà lại chẳng giỏi cho lắm - tiếng Pháp và tiếng Ý cố lắm cũng chỉ xoàng xoàng - nhưng vị trí của bà đòi hỏi mấy cái đó. Hầu hết khách đến thăm chúng tôi đều được tiếng Latin hoặc tiếng Đức nhưng tôi thích nhất những người mang đến ngôn ngữ lạ. Chính trong những cuộc đối thoại này mà khả năng nghe của tôi được mài sắc. Thử thách đặt ra chỉ là hiểu được từ mà còn phải nắm được những khái niệm ngoại lai nữa. Ví dụ, tôi biết Giáo hoàng Clement chuyển giáo hội đến Avignon - nhưng tại sao? Và nơi đó ở đâu? Trông nó như thế nào? đêm tôi tình cờ nghe thấy cuộc cãi vã đầu tiên. người khách nước ngoài dám nghi ngờ tôn nghiêm của Giáo hoàng quá cố Boniface và Gertrud nhảy chồm chồm lên để bảo vệ Đức Giáo hoàng. Đối với con bé như tôi, chuyện đó gây sốc.

      Tôi nhớ như in cái đêm năng lực của mình được bộc lộ. người khách ngoại quốc ngồi giữa chúng tôi và Gertrud, như thường lệ, lại vật vã với việc chuyển ngữ. Tôi chẳng thấy có gì khó hiểu cả, vì tôi có thể nắm được tất cả những gì họ . quan trọng đó là ngôn ngữ gì, đơn giản là tôi hiểu được thôi. Vào đêm đó vị khách là người Ý, ông già nghèo khổ, nhếch nhác. Bất cứ ai cũng có thể thấy rằng ông còn trụ được ở thế giới này lâu nữa, và ông nỗ lực hết sức để mọi người hiểu được tình huống ông gặp phải. Gertrud vung tay lên đầy khinh bỉ và tuyên bố rằng giọng của ông thô tục đến nỗi thể hiểu được.

      Có lẽ vì ông lão trông quá yếu ớt, hay có lẽ vì tiếng nấc hấp hối nơi ngực ông. Có lẽ vì ông vừa húp từng thìa cháo vừa ngớt lời cám ơn các bà xơ, thốt lên lời than trách nào dù chẳng ai hiểu được ông. Hay có lẽ vì tôi có cảm giác là nếu có ai đó chuyện với ông trong cái đêm định mệnh ấy, có thể sau này chẳng có ai chuyện với ông nữa. Dù vì lý do gì, tôi cũng phá vỡ luật im lặng của mình và bước ra khỏi góc phòng. Dùng phương ngữ Ý của ông, tôi hỏi, "Tên ông là gì ạ?"

      Ông nhìn lên qua chiếc thìa với niềm vui khó tả khuôn mặt. "Paolo," ông trả lời, rồi hỏi vì sao tôi hiểu được tiếng địa phương của ông. Tôi biết bằng cách nào hay tại sao, tôi , tôi hiểu được, thế thôi. Tôi với ông rằng tôi thường nghe người nước ngoài chuyện và sau khi họ khỏi tôi lưu giữ những cuộc chuyện bằng ngôn ngữ của họ vào tâm trí trước khi ngủ. Ông nghĩ điều đó tuyệt vời. Khi tôi hỏi ông từ đâu tới, ông trả lời mình sống phần lớn cuộc đời tại Firenze nhưng ông sinh ra tại miền Nam nổi tiếng với giọng địa phương đặc sệt. Giọng của ông, ông giải thích, là kết hợp khủng khiếp của cả hai nơi đó. Ông cười khi thế, và tiếng cười làm xơ Christina bừng tỉnh khỏi ngạc nhiên tột độ. Bà bắt đầu ướm câu hỏi cho tôi, vừa để kiểm tra kỹ năng dịch của tôi vừa nhằm moi thông tin. Qua tôi, câu chuyện của ông lão được kể lại.

      Paolo sống trọn đời mình với người vợ mà ông rất mực quý. Bà mới mất và ông biết mình cũng sớm theo vợ thôi. Đây là lý do cho cuộc hành trình của ông, vì ông chưa bao giờ biết đến những đất nước khác ngoài quê hương mình và ông muốn chết mà có bất cứ ý niệm gì về thế giới cả. Ông sợ cái chết, bởi ông là con chiên ngoan đạo và trông đợi phần thưởng cuối cùng của mình. Ông hỏi xem liệu mình có thể nghỉ đêm tại tu viện trước khi tiếp tục chuyến . Xơ Christina chấp thuận, vì bà có đủ quyền hạn để ra quyết định nhân danh tu viện trưởng, và Paolo rất cảm kích trước tốt bụng của bà. Lần đầu tiên trong đời, tôi cảm thấy mình quan trọng.

      Paolo lấy quyển sách từ trong túi ra giơ về phía tôi. ràng ông muốn trao nó cho tôi. "Tôi chẳng mấy dịp cần đến thứ này nữa đâu."

      Xơ Christina bước tới trước để từ chối thay tôi. " với ông ấy rằng ông quá nghèo nên chúng ta thể lấy những gì ông có được. Nhưng hãy cám ơn ông ấy." Tôi dịch, và Paolo gật đầu tỏ ý hiểu. Ông cảm ơn các xơ lần nữa trước khi đến bên chiếc giường được dọn sẵn.

      Xơ Christina bảo tôi hôm sau đến gặp bà và tu viện trưởng trong phòng tăng hội sau giờ cầu kinh buổi sáng. Tôi hỏi liệu có phải tôi bị phạt vì lên tiếng hay nhưng xơ Christina bảo đảm với tôi là .

      Khi tôi đến phòng họp vào sáng hôm sau, tu viện trưởng ngồi bên bàn làm việc còn xơ Christina đứng phía sau bà. Gertrud đứng ở góc phòng với vẻ mặt vô tư. Tu viện trưởng là người tốt nhưng bà vẫn làm tôi thấy sợ. Bà quá già, cái cằm xị nhăn nheo như da chó săn.

      "Ta nghe xơ Christina là tối qua nhận được thiên khải," bà làu bàu. "Marianne con của ta, thể hiểu tại sao con lại biết tiếng Ý. Con đạt được kỳ tích đó bằng cách nào vậy?"

      Xơ Christina gật đầu trấn an, làm tôi thêm can đảm. "Khi con nghe các ngôn ngữ, con cứ thế là hiểu được thôi ạ," tôi . "Con biết tại sao mọi người lại làm được thế."

      "Con cũng hiểu được những ngôn ngữ khác chứ? Đây khả năng tuyệt vời."

      "Cho phép con được ," Gertrud xen vào. Bà già gật đầu đồng ý. "Phán xét của Người đúng đắn, thưa Tu viện trưởng. Luôn luôn là thế. Nhưng, con nghĩ chúng ta nên cẩn thận xét xem năng lực kỳ dị ấy đến từ đâu. Con cho rằng chúng ta cần phải cẩn trọng, vì chúng ta biết quá ít về ra đời của đứa trẻ này. Có gì bảo đảm rằng năng lực này đến từ Chúa, mà phải từ... Thực thể khác?"

      Tôi chẳng có tư cách gì để đấu lại Gertrud trong tình huống này nhưng, may mắn, xơ Christina có. "Thế xơ nghĩ nó có thể đến từ đâu, thưa xơ Gertrud?"

      "Những cái tên đó tốt nhất nên thốt khỏi miệng, nhưng xơ hẳn biết rất rằng có những lực lượng mà những linh hồn chính trực như chúng ta luôn phải đề cao cảnh giác. Tôi đây là trường hợp đó, tôi chỉ đề xuất rằng chúng ta cần phải khôn ngoan xem xét mọi khả năng."

      Tu viện trưởng đáp lại lời cáo buộc. "Cho tới khi chúng ta có lý do để tin khác , chúng ta hãy cứ cho rằng đây thực là thiên khải của Chúa chứ phải mưu của Kẻ thù."

      Tôi có thể đoán chắc rằng Gertrud còn muốn nữa, nhưng biết ý mà dừng lại. "Vâng, thưa Tu viện trưởng. Dĩ nhiên ạ."

      Bà già lại tiếp tục. "Ta cho rằng đây chỉ là thiên khải mà còn là lời kêu gọi nữa. Có phải tất cả mọi người đều được các ngôn ngữ đời ? Có phải tất cả mọi người đều có thể làm phiên dịch ? . Khi tài năng tuyệt diệu như thế được phát , nghĩa vụ của chúng ta là phải đảm bảo rằng nó được đem ra phụng công cuộc vinh danh Chúa. Con đồng ý chứ, xơ Gertrud?"

      "Con đồng ý rằng chúng ta, tất cả mọi người, nên làm những gì có thể để phụng Người." Cách Gertrud rặn những từ này ra khỏi miệng khác gì mụ hà tiện nhón từng cắc ra khỏi ví của mụ vậy.

      "Ta rất vui khi con thế," tu viện trưởng tiếp tục, "vì ta quyết định để con đưa đứa trẻ vào phòng viết. ràng con bé có năng khiếu ngôn ngữ, và việc đào tạo được tiến hành ngay lập tức."

      Tôi thảng thốt. Giá có thể thấy trước viễn cảnh mình bị đem cho Gertrud dạy dỗ, tôi bao giờ bước ra khỏi góc nhà ấy. Cái mà vị nữ tu viện trưởng coi là "phần thưởng" dành cho tôi thực là đòn nặng nề nhất trong tất cả những đòn trừng phạt, và tôi chắc chắn rằng phẫn nộ của tôi chỉ thua mỗi của Gertrud thôi. Cuối cùng chúng tôi cũng có chung niềm tin: rằng đây đúng là ý tưởng khủng khiếp.

      "Marianne chẳng qua chỉ là đứa trẻ," Gertrud cự lại, "chắc chắn nó chưa sẵn sàng cho những trách nhiệm ấy. Dù nó có thể có vài kỹ năng cơ bản, nhưng vẫn còn nhiều phẩm chất khác nữa cần cho công việc. kiên nhẫn, ví dụ thế, và tập trung chú ý từng chi tiết mà đứa trẻ chưa thể có được."

      "Nhưng con bé học," tu viện trưởng đáp lại, "theo con."

      "Con khẩn khoản xin được bàn luận thêm về vấn đề này. Con hiểu những gì Người nghĩ nhưng..."

      Tu viện trưởng ngắt lời bà. "Ta rất vui khi thấy con hiểu. Con muốn ta ngược lại ý Chúa chứ con , xơ Gertrud?"

      "Vâng, dĩ nhiên là rồi, thưa Tu viện trưởng." Gertrud chắp tay ra sau lưng, và tôi có thể nghe thấy tiếng móng tay bà đâm sâu vào lần vải áo chùng. Xơ Christina tiến lên trước, đặt bàn tay lên vai tôi, và hỏi xem liệu - với cho phép rộng lượng của tu viện trưởng - có thể cho chúng tôi được vài phút riêng tư . Tu viện trưởng chấp thuận đề nghị rồi rời gót. Gertrud cũng ra khỏi phòng, giận dữ nuốt khí trong khi cố hết sức đóng sầm cửa lại lối ra. Bà thành công cho lắm.

      Xơ Christina . "Ta biết con thích thú ý tưởng này lắm, nhưng ta thực tin rằng xơ Gertrud là phụ nữ tốt và rất thánh thiện, con có thể học được rất nhiều từ bà ấy. Dù bây giờ con chưa thể hiểu được, nhưng tài năng của con rất xuất chúng và bất ngờ. Chúa hẳn dành cho con kế hoạch vĩ đại và lương tâm ta cho phép mình làm lơ chuyện này. Chúng ta phải tin vào soi rạng này và nhớ rằng Chúa cho phép điều gì xảy ra ngẫu nhiên cả."

      có thể hình dung rằng đứa trẻ làm sao hiểu được những điều như thế, dù nó có được nuôi dưỡng trong tu viện nữa. Làm sao mà kế hoạch của Chúa lại bao gồm cả việc cho Gertrud huấn luyện tôi chứ? Tôi rền rĩ cho đến khi mặt đỏ bừng và nước mắt chảy dài xuống má. Xơ Christina cứ để tôi xả ra hết và thậm chí còn chịu ăn mấy cú đấm giận dỗi của tôi nữa. Tuy nhiên, bà cũng tránh mấy cú đá của tôi, thế nên tôi đoán tự hy sinh bản thân của bà cũng có giới hạn. Khi cuối cùng tôi cũng kiệt sức và ngồi phịch xuống sàn nhà, bà liền ngồi xuống bên cạnh tôi.

      Tôi với bà là tôi ghét bà, nhưng cả hai chúng tôi đều biết đó phải . Bà vuốt tóc tôi và thầm với tôi rằng mọi thứ ổn thôi, chỉ cần tôi tin vào Chúa. Và rồi bà lấy thứ gì đó ra khỏi áo chùng của mình, cuốn sách bà giấu trước đó.

      "Sáng nay khi đến đánh thức Paolo, ta thấy ông ấy ra bình an trong giấc ngủ. chút đau đớn, ta tin thế, nét mặt của ông rất thanh thản. Nhưng ràng tối qua ông ấy muốn con giữ cuốn sách này, nên ta hoàn thành nốt tâm nguyện cuối cùng của ông là đưa nó cho con bây giờ."

      Xơ Christina trao cho tôi cuốn Kinh Thánh viết bằng tiếng Ý, cuốn sách đầu tiên tôi có thể gọi là của mình. Rồi bà dẫn tôi tới phòng viết, để tôi có thể bắt đầu phụng ý Chúa.

      Chú thích

      (18-) Tiếng Thụy Điển, nghĩa là "tốt đẹp".

      (19) Ân điển (tiếng Đức).
      Hyunnie0302Jenny Nguyen thích bài này.

    2. thuytinhtim_1102

      thuytinhtim_1102 Well-Known Member

      Bài viết:
      1,916
      Được thích:
      3,133
      Chương 5.1
      Làm sao tôi có thể miêu tả được cuộc đời ở thời Trung cổ mà Marianne Engel là của , khi mà - dĩ nhiên - cũng như tôi, còn sống ở thế kỷ mười bốn nữa? Thách thức chỉ nằm ở tính thiếu chân thực trong câu chuyện, mà còn bởi tôi còn có thể chỉ viết bằng giọng của chính mình nữa: bây giờ tôi phải viết theo cả giọng của . Tôi rất nỗ lực để viết lại câu chuyện về Engelthal chính xác theo những gì kể, nhưng nếu việc ghi lại những lời có gì sai sót rất mong được lượng thứ. Tôi cố hết sức rồi.

      Câu chuyện cũng đặt ra câu hỏi rằng Marianne Engel thực ra điên đến mức độ nào. tin rằng mình được nuôi dạy trong tu viện thời Trung cổ , hay chỉ cố mua vui cho bệnh nhân bỏng? Khi tôi cố bắt thú nhận chỉ bịa chuyện, nhìn tôi như thể chính tôi mới là kẻ điên và, vì tôi muốn lại đến nữa, nên tôi cũng khó lòng bắt khác được. Cuối cùng, tôi quyết định cứ để kể chuyện cho tới khi bị lột trần.

      Tôi phải người duy nhất nghĩ ngợi về tình trạng thần kinh của vị khách này. Bác sĩ Edwards đến thăm tôi với mục đích xa xôi là khuyên tôi hạn chế các cuộc viếng thăm tiếp theo của người phụ nữ mới xuất trong cuộc đời tôi đây. Cuộc trò chuyện bắt đầu bằng lời cảnh báo về những rủi ro sức khỏe Marianne Engel có thể mang tới; do cứ lén lút vào khi các y tá để ý và chẳng thèm quan tâm đến nội quy đồng phục dành cho khách thăm bệnh, ai mà biết được mang các thể loại vi trùng gì đến? Tôi gật gù tán thành ý kiến này nhưng bẻ lại rằng việc trông đợi cái gì đó - ai đó - đến thăm hiển nhiên hại gì đến quá trình hồi phục của tôi.

      "Có thể là thế, nhưng cần phải tập trung vào việc hồi phục, chứ phải là quan tâm tới..." Nan dừng chút để soạn ra cụm từ mang tính chính trị, "... những vấn đề chẳng có ích gì cho cả."

      Bà mới nhanh nhảu làm sao khi cho tôi biết tôi cần gì, tôi nghĩ.

      "Tôi làm nghề này lâu rồi và tôi thấy gia tăng căng thẳng có thể gây hại cho bệnh nhân thế nào."

      Tôi hỏi liệu có phải bà lo lắng vì khách của tôi là bệnh nhân thường xuyên của bệnh viện , và Nan khẳng định chuyện đó chẳng có lợi cho Marianne Engel chút nào. Tuy nhiên, bà cũng mau miệng thêm rằng họ , hay thể, viện cớ này để cấm cửa Marianne Engel; vì được đánh giá là đủ khả năng hòa nhập xã hội, thế nên cũng đủ điều kiện đến thăm bệnh nhân. Tuy nhiên, tôi thấy Nan có thể dùng ảnh hưởng của mình để gây khó dễ hết mức.

      "Tôi muốn với chị," tôi đề nghị, "nếu chị cho phép ấy tiếp tục đến, tôi tập luyện với Sayuri chăm chỉ hơn."

      "Kiểu gì cũng vẫn phải làm thế thôi."

      "Nhưng mà tôi làm thế," tôi , "và chị chỉ nhận được cái chị đáng nhận được thôi."

      Nan hẳn xét thấy bà có vụ thương lượng nào tốt hơn cái tôi đề nghị, vì bà chấp nhận. Tuy nhiên, bà thể thêm vào, "Tôi bắt buộc phải thích chuyện đó đâu nhé."

      ", chị cần phải thích đâu," tôi . "Chị chỉ cần để ấy yên thôi."

      lâu sau cuộc gặp với bác sĩ Edwards, Connie đến cùng tay hộ lý để đưa tôi tới căn phòng biệt lập, cách xa các bệnh nhân bỏng khác. Tôi hỏi chuyện gì xảy ra - chắc chắn có nhầm lẫn gì rồi. đâu, trấn an tôi, tôi có phòng riêng, theo chỉ thị của bác sĩ Edwards, dù biết tại sao. với tôi rằng tôi nên cố hưởng thụ riêng tư của mình khi còn có thể vì nếu điều này là nhầm lẫn, nó nhanh chóng bị sửa chữa thôi. Thay vì mang tôi ra khỏi chiếc giường xương, họ chỉ làm mỗi việc là đẩy cả cái giường ấy xuống hành lang rồi vào căn phòng hơn, nhưng rất đẹp và trống .

      Trống , ấy là, cho tới khi Sayuri đến vẽ ra bài tập mà muốn tôi bắt đầu luyện tập hằng ngày. "Bác sĩ Edwards bảo tôi là rất háo hức được tập những bài tập khó hơn," vừa vừa đặt cái ván dài bằng thành giường lên giường, dựng nghiêng cách xa tôi. tấm ván xẻ cái rãnh lấy chỗ cho đặt hai quả bóng bạc nặng cân vào. Tôi phải đẩy quả bóng lên tận đỉnh ván, và rồi lại nhàng đỡ lấy khi nó lăn xuống chân ván. Cứ thế lặp lặp lại.

      Tôi từng kéo những thiết bị quay phim nặng hàng chục cân quanh giường vào mỗi thước phim, thế mà giờ đây tôi lại phải hạ mình đẩy quả bóng lên cái ván gỗ. Tệ hơn, ngay cả nhiệm vụ đơn giản này cũng khiến tôi phải tập trung hết sức mình. Tôi có thể nhìn thấy khuôn mặt băng bó của mình phản chiếu mặt cong của quả bóng bạc, và tôi càng đẩy quả bóng ra xa bao nhiêu, hình ảnh phản chiếu của tôi càng chạy ra xa bấy nhiêu. Sayuri tán thưởng mọi thành công của tôi. "Hoàn hảo!" Khi chúng tôi kết thúc, nhàng đẩy quả bóng như thể nó là - ừm, như thể nó là quả bóng nặng cân vậy. những làm tôi nóng mắt vì khỏe hơn tôi, người phụ nữ Nhật Bản bé này còn làm tôi nóng mắt hơn khi khẽ cúi đầu chào rời khỏi phòng.

      Sau đó, khi bác sĩ Edwards tới bên giường bệnh của tôi, tôi hỏi về căn phòng riêng. Tại sao, tôi vặn vẹo, tôi lại được xài sang đến thế? Nó chẳng có vẻ gì là phần thưởng cho thái độ tốt của tôi, hay cho luyện tập khắt khe tôi vừa bắt đầu và còn phải tiếp tục cả.

      Nan, theo lời bà, tiến hành nghiên cứu mà bà rất mong được xuất bản về ảnh hưởng của phòng riêng trong việc chữa trị cho bệnh nhân bỏng so với phòng chung. Bà hy vọng trường hợp của tôi có thể cung cấp thêm số góc nhìn sâu sắc về những bệnh nhân được chuyển phòng trong quá trình điều trị, và may mắn làm sao khi ngẫu nhiên lại còn phòng trống. Khi tôi hỏi liệu điều này có đồng nghĩa với việc lúc nào đó tôi có thể bị chuyển lại về phòng chung , bà chỉ là vẫn chưa biết được.

      Tôi trấn an bà rằng tôi rất vui được làm con chuột thí nghiệm bé bỏng bị cách ly cho bà chừng nào bà muốn, nhưng có chua thêm: "Chị chắc là còn điều kiện nào nữa chứ?"

      Bà nghĩ chút, rồi quyết định hé thêm - điều mà tôi đoán từ trước: " cứ thoải mái tiếp nhận những cuộc viếng thăm của Engel, nhưng tôi thấy ấy có lý do nào để đến thăm những bệnh nhân khác."

      Tôi rằng tôi rất cảm kích quan tâm của bà dành cho những người khác, và bà gật đầu. Khi cả hai đều thấy là chẳng còn gì để thêm, bà lại gật đầu cái nữa rồi nhanh chóng rời phòng.

      Những chuyến thăm của Marianne Engel càng thêm phần thú vị vì giờ chỉ có hai chúng tôi, chẳng cần phải kéo rèm nhựa, và vì các bác sĩ thôi bắt mặc đồng phục bảo vệ nữa. Quần áo thường ngày của được chấp nhận, phần vì tôi dần trở nên khỏe hơn và việc mặc đồng phục còn bắt buộc nữa, nhưng, có lẽ quan trọng hơn, đó là vì đội ngũ y tá bác sĩ quá ngán cái cảnh cứ phải tranh luận với rồi. Marianne Engel là vị khách mà tất cả bọn họ đều đồng lòng phản đối nhưng tôi lại đấu tranh để được có, cho nên tôi nghĩ họ quyết định là có rủi ro gì tôi tự mà chịu lấy.

      Giờ đây khi có thêm nhiều gian riêng, những cuộc chuyện trò của tôi với Marianne Engel ngày càng đa dạng: làm thế nào để nấu món mì lasagna chay; những trò chơi gì được tổ chức tại lễ hội ở Hamburg; vẻ đẹp buồn bã của bản giao hưởng cung D thứ dành cho kèn Oboe của Marcello; tập quán định cư của thổ dân da đỏ vùng duyên hải phía Tây nước Mỹ; vì sao người ta lại hát trong các ban nhạc rock; giá trị của văn học Canada tương quan so sánh với văn học Nga; khí hậu khắc nghiệt hình thành phẩm chất con người như thế nào; lịch sử nạn mại dâm ở châu Âu; vì sao người ta lại đam mê ý tưởng trong album "Heavyweight Champion of the World" của ban nhạc rock Reverend and The Makers; những cuộc hội thoại có thể diễn ra giữa thành viên của giáo phái Nhân chứng Jehovah với nhà khảo cổ học; và cả kẹo cao su giữ được hương vị trong cổ họng bao lâu. Những năm tháng thăm thú thư viện quả rất có ích cho tôi.

      Tôi hỏi về Ba Vị Chủ Nhân của , và hỏi kháy rằng liệu những đấng phù trợ ấy có được nhiều nữ tu Trung cổ biết đến . nghiêm túc trả lời rằng hề có chuyện đó nhưng thực tế Heinrich Seuse cũng có Ba Vị Chủ Nhân mà ông cần có được đồng thuận (với cùng bài kinh tiếng Latin dùng) khi muốn chuyện với họ.

      Phản ứng của tôi khá hiển nhiên: "Các vị bảo hộ của hai người có giống nhau ?"

      "." Vị chủ nhân đầu tiên của Seuse là thánh Dominic, người sáng lập dòng Dominica, chỉ cho phép chuyện ở thời gian và địa điểm thích hợp. Vị chủ nhân thứ hai, thánh Arsenius, chỉ chấp nhận những cuộc chuyện liên quan đến các vấn đề vật chất. Vị chủ nhân thứ ba, thánh Bernard xứ Clairvaux, chỉ cho phép Seuse được khi việc đó làm ông ấy bị rối loạn cảm xúc.

      "Còn những vị chủ nhân của ?"

      rằng chủ nhân của mình là Meister Eckhart, nhà thần học nổi tiếng hoạt động suốt thời xơ Marianne còn trẻ; Mechthild von Magdeburg, lãnh tụ tinh thần của người Beguine, người sáng lập Engelthal; và cha Sunder, người nhắc đến trước đó.

      Khi cuộc trò chuyện cuối cùng cũng xoay quanh nghiệp khiêu dâm của tôi, nó hầu như chẳng còn đặc biệt nữa; chỉ là chút gia vị cho cuộc chuyện trời dưới biển. Tuy vậy, rất tò mò về công việc đó và đặt nhiều câu hỏi làm tôi phải trả lời hết công suất. Khi kết thúc, tôi hỏi công việc kiếm sống của tôi có làm phiền lòng .

      " hề," trả lời, và nhắc tôi nhớ rằng thậm chí cả thánh Augustine cũng sống cuộc đời hoan lạc trước khi cất lời khẩn nài nổi tiếng với Chúa, "Hãy cho con trở nên thánh thiện - nhưng cứ từ từ thôi."

      Điểm khác biệt, tôi chỉ ra cho , là tôi đến với tôn giáo để trốn tránh quá khứ của mình. Marianne Engel nhún vai tỏ vẻ bàng quan. biết có phải nghĩ tôi sai và rồi tôi có niềm tin vào Chúa , hay đơn giản là quan tâm. Nhưng việc chuyển chủ đề trò chuyện cũng gợi lên vấn đề về đức hạnh và tôi bèn ướm hỏi liệu có biết chuyện xảy ra với cái ấy của tôi trong đám cháy .

      "Tôi được các bác sĩ thông báo là nó bị mất," trả lời.

      Thế là biết, nhưng nghĩ gì? "Và...?"

      "Và đáng tiếc."

      Phải, đáng tiếc. "Tôi cứ tưởng thích chuyện với các bác sĩ."

      "Tôi cần biết về những vết thương của nên thể tránh chuyện đó."

      Đó là dấu chấm hết cho cuộc trò chuyện ngày hôm ấy về của quý bị mất của tôi; quá nhiều so với những gì tôi định rồi.

      Mỗi lần đến thăm, Marianne Engel lại ăn mặc chỉn chu hơn lần trước, thành ngưòi phụ nữ mới. Cổ tay lủng lẳng các loại vòng từ khắp nơi thế giới: Aztec, Maya, Tonka Toy, Ojibwa. Ngón tay đeo đầy nhẫn nhựa, những con voi màu vàng tên là Duke Elliphant và Ellaphant Gerald. Đôi giày thể thao của đính đầy hạt xê quin khiến tôi liên tưởng tới cả đàn cá nhiệt đới bơi loạn xạ. Khi ra khỏi phòng để hút thuốc, nâng vạt váy màu tím lên để nhún gối chào. Tôi hỏi nguyên cớ gì làm thay đổi gu thẩm mỹ thế nhận được câu trả lời là vì tất cả mọi người đều nghĩ rằng điên, nên cũng mặc cho giống thế luôn.

      thú vị: đây là câu nhận xét khôi hài đầu tiên của về tình trạng thần kinh của bản thân. Tôi nghĩ có lẽ đó là khai mào mà tôi trông đợi, thế là tôi hỏi - chỉ ra rằng cũng hỏi bác sĩ về những vết bỏng của tôi - là được chẩn đoán ở trong tình trạng nào. dập luôn chủ đề ấy bằng việc như đinh đóng cột rằng các bác sĩ chẳng qua hiểu nổi quyến rũ đặc biệt của thôi.

      thò tay vào ba lô lấy ra cuốn sách bìa da. muốn đọc to cho tôi nghe, thế. Địa ngục của Dante. lựa chọn tuyệt vời cho phòng bỏng, tôi nhận xét, và thêm rằng dù rất văn học, nhưng đây là tác phẩm kinh điển mà tôi chưa bao giờ đọc.

      mỉm cười như thể biết điều gì đó mà tôi biết. linh cảm mạnh mẽ, , rằng tôi chỉ thấy cuốn đó phù hợp với sở thích của mình mà còn rất thân thuộc nữa.

      Marianne Engel kể câu chuyện cuộc đời hồi thế kỷ thứ mười bốn. Giờ, nếu có thể làm thế này chắc độc giả cũng phiền nếu tôi cung cấp chút thông tin về cuộc đời của Sayuri mà tại thời điểm này trong thời gian nằm viện dưỡng bệnh tôi chưa biết. Để biện minh cho việc nhảy khỏi trình tự thời gian, tôi phải Mizumoto chỉ kể cho tôi nghe những chuyện này sau khi chúng tôi trở nên thân thiết - và ít nhất câu chuyện của cũng có .

      Sayuri là con thứ ba, con thứ hai, của Toshiaki và Ayako Mizumoto. Vị trí con út quả là bất hạnh, vì điều đó có nghĩa khi còn bé là người thứ năm được tắm mỗi tối. Các gia đình Nhật Bản có truyền thống dùng chung bồn tắm và, dù họ rửa ráy trước khi vào bồn rồi, nước vẫn cứ đen dần sau mỗi lần tắm. Người cha vào trước, rồi đến các thành viên nam từ lớn nhất đến nhất. Xong xuôi mới đến lượt phụ nữ tắm, lại theo trình tự từ lớn nhất đến nhất. Điều này có nghĩa là cha, trai, mẹ, chị đều dùng bồn tắm trước Sayuri. Suốt cả quãng đời thơ ấu của mình, hằng đêm luôn phải ngâm mình trong dòng nước tích tụ chất bẩn của cả gia đình.

      Đám cưới của Toshiaki và Ayako là sản phẩm của omiai, cuộc hôn nhân sắp đặt. Nếu phải cuộc hôn nhân ngập tràn tình , nó ít nhất cũng làm tròn trách nhiệm, bằng chứng là ba đứa trẻ. Toshiaki làm việc chăm chỉ ở cơ quan, quán rượu và quán karaoke; Ayako quán xuyến việc nhà, giữ tay hòm chìa khóa và sắp sẵn thức ăn đợi chồng khi ông ta về nhà trong tình trạng say xỉn và hát hò ầm ĩ. Họ hoàn thành những nghĩa vụ cần thiết để được xếp vào danh sách những gia đình Nhật Bản bình thường, và cả Toshiaki lẫn Ayako đều mong muốn con cái của mình sau này cũng đáp ứng được những cầu ấy.

      Đứa con trai đầu lòng của họ, Ichiro - cái tên, tiện đây luôn, nghĩa là Đứa Con Đầu Lòng - vào trường đại học tốt. Vì thế, ta nhận được công việc tốt với đồng lương hậu hĩnh ở công ty tên tuổi sau khi tốt nghiệp; mọi diễn ra như thế. Thực ra , Ichiro chẳng cần phải chú tâm học hành sau khi được nhận vào trường làm gì, vì việc được nhận vào trường mới quan trọng, học hành á, đến mức ấy. Sau khi kiếm được công việc tốt, ta làm việc vài năm rồi cưới Nhật Bản con gia đình tử tế ở độ tuổi hợp lý. Rất ngẫu nhiên, độ tuổi hợp lý của Nhật Bản luôn hơn hai lăm, vì đó là khi ấy trở thành cái "bánh Giáng sinh". Những cái bánh Giáng sinh, như mọi người đều biết, trước ngày hai lăm được thèm muốn nhưng sau đấy rất nhanh hỏng và bị bỏ . Vợ của Ichiro mới hai ba, thế nên ấy còn lâu mới đến ngày hết đát. Toshiaki và Ayako rất hài lòng; Ichiro thừa kế căn nhà và chăm sóc phần mộ của bố mẹ sau khi hai cụ qua đời.

      Chị của Sayuri, Chinatsu - cái tên đáng , nghĩa là Nghìn Mùa Hè - cũng theo học ở ngôi trường tốt, rồi làm nhân viên văn phòng vài năm và kết hôn lúc hai mươi tư tuổi rưỡi. Vừa kịp. bỏ việc và bắt tay vào kế hoạch sinh con luôn. lần nữa, hai ông bà lại rất hài lòng.

      Và rồi đến lượt con út nhà họ, bé rắc rối Sayuri ấy. (Tên có nghĩa là Hoa Loa Kèn Bé . Quả , người Nhật đúng là những bậc thầy đặt tên.)

      Sayuri hơn Chinatsu vài tuổi. Cha mẹ bao giờ dám gọi tai nạn nhưng, thỉnh thoảng thôi, họ cũng hớ ra là "nằm ngoài kế hoạch". Cha mẹ , nếu bị ép buộc, cũng thừa nhận rằng những thứ nằm ngoài kế hoạch có thể khá phiền nhiễu nhưng, mặt khác, nếu hai đứa trẻ trước tốt rồi đứa thứ ba hẳn phải tốt hơn phần ba. Tuy nhiên, khả năng toán của Sayuri phát triển đến độ đủ cho họ biết rằng thêm vào hai thực ra có thể làm tăng gấp rưỡi chất lượng, chứ phải chỉ phần ba đâu.

      Ichiro và Chinatsu đều những con đường đúng đắn và làm những gì đáng được trông đợi. Hình mẫu được xây dựng vững chắc, được gấp lại gọn gàng và cất như chiếc áo kimono đẹp đẽ; khuôn mẫu cư xử đúng mực gần như trở thành vật thừa kế truyền đời. Tất cả những gì Sayuri phải làm, để tiếp tục hoàn thiện cuộc đời hoàn hảo của bố mẹ , ấy là noi gương chị. Nhưng điều này, bất hạnh, lại là điều bao giờ muốn. Nếu làm thế, lý luận, chỉ bị đày đọa suốt thời thơ ấu mà cả đời cũng phải vật vã trong cái bồn tắm gia đình bẩn thỉu.

      Vấn đề là Sayuri chắc thực muốn làm gì, thế nên khôn ngoan im miệng và chờ thời cơ. học hành cực chăm thời trung học, nhưng sau lưng bố mẹ, dành toàn bộ thời gian còn lại của mình để học tiếng . Họ mảy may hay biết rằng mỗi tối thứ Ba hằng tuần, trong lúc họ hồn nhiên cho là con mình ở sân tập bóng chuyền thực ra lại được phụ nữ người Úc tên Maggie phụ đạo tiếng . Mỗi thứ Bảy Sayuri đều xem phim, phải để giải trí mà để học như Jodie Foster, Susan Sarandon, và ( may) Woody Allen. Vào những chiều Chủ nhật, thường đến bảo tàng địa phương để săn khách du lịch Mỹ và khi dồn được người vào góc rồi, hỏi xem liệu ta có thể chuyện với trong năm phút để luyện tiếng được . Các du khách đều đồng ý, vì ai có thể từ chối nhiệt tình đáng thế chứ? Cùng lúc đó, Sayuri ngoan ngoãn điền đơn xin vào những trường đại học thích hợp tại Nhật Bản và được nhận vào trường. Cha mẹ rất hạnh phúc. Giờ Sayuri chỉ còn phải lo tốt nghiệp, làm nhân viên văn phòng vài năm, và bay khỏi giá bánh trước năm hai lăm tuổi.

      Ngay sau lễ tốt nghiệp trung học phổ thông, Sayuri đến đại sứ quán Úc cùng Maggie để lấy visa lao động. tuần sau, Sayuri gọi điện thoại đường dài cho cha mẹ mình từ tít sân bay Sydney. Chẳng cần phải , họ thất vọng tràn trề, chỉ vì hành động liều lĩnh và bất kính của mà còn vì đủ can đảm lời tạm biệt trước khi rũ áo ra .

      Thực ra , Sayuri làm thế phải do thiếu can đảm, mà còn thừa là đằng khác. Nếu cố cãi lý với cha mẹ, họ bao giờ để . Đó cuộc tranh luận mà thể thắng nhưng cũng muốn thua, vậy nên chỉ làm những gì cần làm để bắt đầu cuộc sống mong muốn. Lúc đầu cha mẹ Sayuri tưởng con đùa - nó thể gọi cho họ từ Úc được? Nó có ý định ở lại đó chứ? Khi cuối cùng cũng chịu chấp nhận , họ hết đe dọa rồi lại thuyết phục . Sayuri cúp máy, vì nếu tiếp tục nghe cũng chẳng thay đổi được gì.

      ở Úc năm, chuyển hết công việc này đến công việc khác: phục vụ bàn, sơn nhà cửa, hái quả, gia sư tiếng Nhật, vân vân và vân vân. Da thêm rám nắng nhưng nụ cười của ngày càng tươi, còn tiếng ngày càng tiến bộ. Vấn đề lớn nhất gặp phải khi ở những nước phương Tây là thường phải mua sắm ở khu quần áo dành cho trẻ em để tìm những bộ vừa với mình, vì hơi người kể cả với phụ nữ Nhật Bản. (Đây là lý do trong thời gian ở nước ngoài trông cứ như con búp bê.) Sayuri gọi cho cha mẹ mỗi tháng lần - mỗi lần trạm điện thoại khác nhau - để báo cho họ biết vẫn khỏe và lễ phép nghe khi họ khẩn khoản khuyên quay về. Thỉnh thoảng Ichiro viện cả sức nặng của giọng huynh trưởng đưa vào cuộc thoại. Sayuri cũng lờ mệnh lệnh của ta luôn.

      Khi visa của Sayuri hết hạn, quay trở lại Nhật Bản. Mẹ khóc nức nở còn cha thét lên, mặc dù phần trong ông cũng ngưỡng mộ những gì làm được. Sayuri thông báo với họ rằng theo học tại trường đại học của Mỹ để lấy học vị. Trong suốt năm tiếp theo, làm thêm ba việc lúc, đỗ những kỳ thi năng lực tiếng cần thiết và được nhận vào khoa vật lý trị liệu trường đại học Michigan. Khi đến lúc phải ra lần nữa, mẹ lại tuôn thêm dòng sông nước mắt Nhật Bản. Tuy nhiên, đến lúc này, người cha chấp nhận ý nghĩ điên rồ của con út. Khi Toshiaki đề nghị đỡ phần học phí, Sayuri ôm chặt ông lâu. Chẳng biết phải làm gì, ông bèn cố ưỡn ngực đứng thẳng hết mức.

      Sayuri hoàn thành khóa học với tấm bằng xuất sắc và được nhận vào bệnh viện nơi rốt cuộc gặp tôi. Rất lâu trước khi tôi xuất , trả được hết từng đồng học phí cha chu cấp.

      Bác sĩ Hnatiuk cứ vài ngày lại đến phòng tôi lần để đưa sách tâm lý học. Tôi bắt đầu thấy thích ông ta. Tôi chẳng biết mình thay đổi thái độ với ông ta từ khi nào vì tôi chưa từng phun ra câu: "Này, rốt cuộc sóc chuột cũng đến nỗi tệ lắm đâu nhỉ." Ông ta cứ thầm tiếp cận tôi. Quan trọng nhất là ông ta lôi cái quan hệ bác sĩ-bệnh nhân ra áp dụng với tôi nữa, mà cứ để cuộc trò chuyện diễn ra tự nhiên. điều quan trọng khác là ông ta cũng thích cái gargoyle Marianne Engel tặng tôi, trong khi Beth lại gọi nó là "thứ đồ thó xấu xí". Tuy nhiên, điều thực làm tôi thấy có hứng thú với Gregor là, trái ngược với vẻ ngoài nhu nhược, ông ta là người sống đam mê và tận tâm với công việc. chiều nọ, ông ta kể tràng giang đại hải về những tên luật sư mà theo ông ta là kẻ thù lớn nhất của tâm lý trị liệu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông ta kể tôi nghe bọn họ đấu tranh cho quyền lợi của bệnh nhân như thế nào - đúng là đáng hoan nghênh - nhưng lại còn lên đến mức mặc kệ bệnh nhân ăn phân của mình nữa chứ. "Cứ mặc kệ bọn luật sư biến phân thành thức ăn dinh dưỡng."

      Vài tuần trôi qua, Gregor bất ngờ thay đổi ngoại hình. Ông ta vứt đôi giày moca cùng chiếc quần nhung tăm siêu phản cảm và bắt đầu mặc những bộ quần áo dường như hợp với mình hơn. Dù chúng thể được coi là "phong cách", nhưng chung cũng tạm chấp nhận được. Ông ta cũng chăm chỉ luyện tập thể thao đến độ đôi gò má hồng hào trông còn giống như hậu quả của việc phi lên cầu thang nữa, và ông cũng giảm được chút mỡ thừa quanh bụng.

      Gregor chẳng bao giờ hỏi vì sao tôi đọc sách tâm lý, nhưng ông ta luôn sẵn sàng trả lời mọi câu hỏi của tôi về bệnh tâm thần phân liệt. Dù tôi chưa bao giờ đả động đến tên trong bất cứ cuộc chuyện nào, ngày tôi hớ ra (thực ra cũng hẳn là lỡ miệng cho lắm) rằng tôi thực những nghiên cứu này vì sợ người bạn của tôi TA PHẢI BẠN NGƯƠI có thể mắc chứng này. TA CHỈ LÀ CON ĐIÊN.

      "Tôi biết rồi," Gregor . "Marianne Engel."

      Gregor có vẻ thỏa mãn vì chứng tỏ bản thân mình hơn tôi bậc, nhưng tôi đoán chắc ông ta cũng được thông báo về việc này khi bác sĩ Edwards cố thuyết phục tôi hạn chế các cuộc viếng thăm của . Gregor đúng là có điều trị cho vài lần, ông ta , là người cuối cùng chữa cho khi phải nhập viện vì " chuyện với các hồn ma" nơi công cộng. "THẤY CHƯA?" Tôi hỏi sao ông ta lại chuyện này với tôi từ trước. Ông ta dẫn lại lời thề Hypocrate, và chua thêm là đả động đến nữa ngoài những điều .

      "Vả lại," ông ta . "Tôi cũng khẳng định hay phủ nhận đấy có phải ca tâm thần phân liệt hay ."

      Gregor cũng bảo rằng ông ta chưa bao giờ hé lộ nội dung những cuộc trò chuyện giữa tôi và ông ta cho bất kỳ ai. Tôi ông ta thích buôn gì buôn, vì tôi phải bệnh nhân của ông ta. Đáp lại, ông ta bảo rằng chúng tôi vẫn ở trong bệnh viện mà tôi là bệnh nhân còn ông ta là bác sĩ, vì thế ông ta coi lý do này là đủ cho việc bảo mật thông tin rồi. Tôi bày tỏ suy nghĩ rằng các bác sĩ tâm thần nhìn chung đều vô tích và rằng tôi thực chẳng quan tâm đến những gì họ (ám chỉ ông ta) nghĩ về tôi.

      "Ồ, có lẽ đúng là rất nhiều người trong chúng tôi đáng ra có thể làm tốt hơn thế," Gregor thừa nhận, "nhưng chúng tôi cũng có lúc xuất thần đấy. Ví dụ nhé, trong số những vấn đề nhân cách của , tôi có thể chẩn đoán được vấn đề lớn nhất."

      "Thế đó là gì vậy?"

      " nghĩ mình thông minh hơn hết thảy những người khác."

      Trừ quãng thời gian Marianne Engel biến mất gần cả tuần liền, giờ đến phòng điều trị bỏng gần như hằng ngày. giúp tôi tập luyện, đặt hai tay dưới lòng bàn chân của cái chân còn lành lặn của tôi và giúp tạo độ cản khi tôi cố đạp như chàng cua rơ chân.

      "Tôi chuyện với bác sĩ Edwards," . "Bà ấy cho phép tôi mang cho chút thức ăn."

      Vì giờ chuyện với bác sĩ của tôi, tôi hỏi liệu có cho phép tôi được về ca của với trong những bác sĩ điều trị cho . ra là, bác sĩ Hnatiuk.

      trả lời là muốn tôi bàn luận về vấn đề của với bất cứ ai, và cảm thấy bị xúc phạm khi tôi dám đề nghị việc ấy. Trong tất cả mọi người, , lẽ ra tôi phải là người biết chắc bị điên.

      khoảng lặng lúng túng giữa chúng tôi, cho tới khi Marianne Engel phá tan nó, "Paracelsus(20) đơn thuốc điều trị bỏng gồm mỡ lợn rừng, dòi bò trong sọ người đàn ông bị treo cổ và phần xác ướp. Cả đống đó được nướng chín lên." Rồi bắt đầu giảng cho tôi nghe về lịch sử ghép da, suốt từ thời khởi thủy với những người Hindu cổ đại cho tới thời đại. Tôi kéo dải băng quấn chân tôi lên cho thấy những miếng da ghép tại của mình, gồm cả mấy mảng da của người da màu nữa. Vì các bác sĩ dùng chiếc máy nghiền ép chỗ da này thành tấm lưới có thể trải rộng bề mặt lớn hơn, sản phẩm cuối cùng trông khác gì bàn cờ biến dạng.

      "Nếu là kẻ phân biệt chủng tộc," , lướt ngón tay tấm thân bàn cờ của tôi, "chắc thấy việc này khó chịu lắm."

      Những ngón tay của nhàng nấn ná vùng hoang địa ấy. Chúng lướt từ thân tới cổ tôi, ngừng lại nơi bả vai để uốn theo những đường cong. "Cảm giác khoác lên mình tấm da của người khác như thế nào vậy?"

      "Tôi có đáp án hay ho cho câu hỏi đó đâu," tôi trả lời. "Đau lắm."

      " có thể nhớ những câu chuyện của họ ? có thể cảm nhận được tình mà họ cảm nhận ?"

      Thỉnh thoảng tôi cũng gặp khó khăn trong việc đoán xem liệu Marianne Engel có chờ câu trả lời hay chỉ trêu tôi thôi. " có nghiêm túc đấy?"

      "Điều đó làm tôi nghĩ về chúng ta," tiếp tục . "Điều đó làm tôi muốn khâu mình vào như những tấm da kia vậy."

      Tôi đằng hắng.

      " có biết là," hỏi, "da của tôi cũng bị đóng dấu ?"

      Tôi cũng phần nào nắm được ý . Khi mặc áo phông, tôi thể để ý đến những cụm từ Latin được xăm quanh bắp tay . cánh tay trái là dòng chữ Certum est quia impossibile est. Khi tôi hỏi nó có nghĩa gì dịch ra là "Điều đó hiển nhiên vì điều đó thể xảy ra." cánh tay phải là dòng chữ Quod me nutrit, me destruit. Câu này, bảo, có nghĩa là, "Thứ nuôi dưỡng tôi cũng hủy diệt tôi."

      "Tôi hiểu," tôi thú .

      cười, "Ồ, đó là vì vẫn chưa nhìn thấy tôi tạc tượng thôi."

      Rồi Marianne Engel thực cái hành động nhặt này. chạm vào khuôn mặt tôi.

      là chuyện nhặt, được ai đó chạm vào mặt ấy, đúng ? Nhưng hãy nghĩ đến những con quái vật bị lửa thiêu, bị hắt hủi thế giới này. Nghĩ đến những con người mà da họ còn nhớ được xúc cảm thương. Ngón tay lướt khuôn mặt hoang tàn của tôi, luồn xuống dưới những dải băng để chạm vào đống tàn tích của mặt tôi. Những ngón tay ấy trìu mến du ngoạn lên đôi má băng bó của tôi, vất vả chạm đến môi tôi. Chúng dịu dàng nghỉ lại đó, trong giây lát. Tôi khép mí mắt cháy rụi của mình lại, những vết sẹo túm tụm tại những nơi mà vài tuần trước các vết thương được khâu kín. Trái tim tôi đập loạn xạ trong lồng ngực và, cùng lúc, những lỗ chân lông bị bít chặt của tôi thi nhau làm việc quá tải, mà giọt mồ hôi nào ra cả.

      "Khuôn mặt tôi thế nào?"

      "Như hoang mạc sau trận bão."

      Tôi có thôi thúc mãnh liệt muốn với rằng trước vụ tai nạn tôi rất đẹp, nhưng tôi gì. Để làm gì chứ? Và rồi, tôi chạm vào má bằng bàn tay lành lặn của mình. hề lùi lại: . hề lùi lại.

      "Có nhiều điều tốt lành đến." Marianne Engel thầm, trước khi đứng dậy tới các góc phòng để chuyện với Ba Vị Chủ Nhân vô hình. Có vẻ như, dù bằng tiếng Latin, xin phép làm gì đó. "Jube, Domine benedicere."

      Khi trở lại bên giường tôi, nở nụ cười chứng tỏ lời khẩn cầu của mình được chấp nhận. " có muốn xem những hình xăm khác của tôi ?"
      Hyunnie0302Jenny Nguyen thích bài này.

    3. thuytinhtim_1102

      thuytinhtim_1102 Well-Known Member

      Bài viết:
      1,916
      Được thích:
      3,133
      Chương 5.2
      Khi trở lại bên giường tôi, nở nụ cười chứng tỏ lời khẩn cầu của mình được chấp nhận. " có muốn xem những hình xăm khác của tôi ?"

      Tôi gật đầu, và bắt đầu bằng việc túm gọn mớ tóc rối bù của mình rồi búi lên cao để lộ gáy. hình thập tự được xăm ở đó, là kết nối của ba sợi thừng có điểm dừng. bảo tôi chạm vào nó. Tôi làm theo. Tôi lướt tay theo chiều dài hình xăm, rồi chiều rộng; đóng dấu chữ thập da .

      cởi giày ra. Xung quanh mắt cá chân trái là hình chuỗi tràng hạt, được xăm sao cho cây thập tự nằm ngang cổ chân . Bằng cách này, , luôn sẵn sàng sám hối. Nhưng lại mỉm cười, và ràng cả cũng quá coi trọng vấn đề này.

      Tiếp theo, cởi quần ra - hành động tôi hoàn toàn ngờ tới, vì chẳng hiểu sao phim ảnh đóng đinh vào đầu tôi quan niệm phụ nữ luôn cởi đồ từ xuống. mặc đồ lót, nên thứ còn lại người chỉ là chiếc áo phông hình Beethoven say bí tỉ. (Chú thích? "Bản giao hưởng thứ chín của Beethoven.")

      Hình xăm con rắn trải dài hết chân phải của , ở đúng chỗ con rồng thêu quần. Nó quấn quanh , đúng như cách Kinh Thánh thể hình ảnh con rắn quấn quanh thân cây Trí tuệ của Thiện và Ác. Marianne Engel đứng đối diện tôi, và tôi có thể thấy thân con rắn xuất đầu tiên ở đầu gối, bò dần lên và quấn hai vòng quanh đùi , với cái đầu hình thoi ngả vào xương chậu của , xiên về phía đạo.

      Mắt dán chặt vào tôi. cởi chiếc áo hình Beethoven ra, dù phải vật vã mới kéo được nó ra khỏi đầu, cho tới khi trần như nhộng đứng giữa phòng tôi, trừ cái vòng cổ hình đầu mũi tên lủng lẳng cổ.

      Tôi có những giây phút bị kích thích trong phòng điều trị bỏng. Maddy cố hết sức trêu chọc tôi với cặp mông nhún nhảy của , và thỉnh thoảng còn ngoẹo cổ lại kiểm tra xem có xi nhê gì nữa. Nhưng đây là lần đầu tiên tôi thấy mình bị kích thích giới tính cách trọn vẹn. Về mặt tâm thần, ít nhất cũng là thế; cơ thể tôi vẫn sản xuất hoóc môn dồn máu tạo cương cứng. Tôi chỉ có chỗ cho dòng máu ấy đổ vào thôi. Tôi tưởng tượng máu tụ lại chỗ ấy, làm vùng háng của tôi đỏ bừng lên.

      hình thập tự nữa, lớn hơn nhiều so với hình xăm gáy , nằm bụng. Nó được xăm theo kiểu chữ thập Celtic, với bốn cạnh tụ lại điểm nút tròn ở trung tâm. Toàn bộ hình thập tự được bao quanh bởi hình ô van, dài và hẹp, phủ từ đỉnh xương chậu cho tới tận đáy lồng ngực của . Ba chữ cái in hoa lớn - "IHS" - được viết ngay chóp đường cong của hình ô van.

      ngực trái của hình xăm Trái tim Thiêng liêng lớn, đỏ rực và được bao quanh bởi vòng hoa mão gai. Trái tim bị nuốt chửng trong biển lửa vàng rực bùng cháy, lan tận lên vai .

      về phía giường, để tôi có thể quan sát thân thể đầy hình xăm của được hơn, và bảo tôi chạm vào hình xăm tên Chúa. Tôi chạm vào, da gà nổi lên dưới bàn tay còn lành lặn của tôi.

      quay người lại, ngồi lên mép giường, quay lưng về phía tôi. Đôi cánh thiên thần trải dài từ vai cho tới mông, nơi đầu nhọn của chiếc cánh đáp xuống. Đôi cánh phủ kín lưng và tôi thể giơ tay về phía chúng. Như thể tôi nghĩ mình có quyền chạm vào da , như thể tôi có quyền chạm vào vì nó là của tôi. Mất thoáng tôi mới nhận ra là phải thế - thể làm thế được, thế là tay tôi dừng lại giữa trung. Nó cứ lơ lửng ở đó bối rối hồi cho tới khi Marianne Engel , hề quay lại: "Tôi muốn chạm vào tôi."

      Thế là tôi nốt phần còn lại của quãng đường, lướt ngón tay lên những đường nét của hình xăm đôi cánh. Chúng là kết hợp hoàn hảo của những nét kim xăm vừa mạnh mẽ vừa rất đỗi tinh tế, chi tiết đến nỗi người ta tưởng là lông . Giờ đây lưng của rung lên, và trái tim tôi cũng vậy.

      lúc sau, ngượng ngùng nhìn tôi qua vai. cười - hồi hộp, phấn khích - và tôi ngừng lại, phá vỡ mối liên kết qua những đầu ngón tay giữa hai người. đứng dậy rồi mặc quần áo vào. Chúng tôi lời nào. Khi mặc quần áo xong, rời khỏi phòng luôn.

      có tài liệu đủ sức thuyết phục nào chỉ ra đâu là thời điểm tốt nhất để tháo băng cho bệnh nhân bỏng, do việc teo cơ làm cho tình hình thể tránh khỏi phức tạp. Cuối cùng, bác sĩ Edwards quyết định mạo hiểm chọn ngẫu nhiên ngày để tháo lũ nhện máy ra khỏi chân tôi.

      Việc tháo băng làm Sayuri, vốn luôn nóng lòng kéo tôi ra khỏi giường, sung sướng vô vàn. vỗ tay hai lần trong trạng thái vô cùng phấn khích. " sẵn sàng chưa? genki(21) chưa? đến lúc rồi!"

      Maddy và Beth đứng sẵn sàng giúp đỡ, với đồng phục xanh da trời và đôi găng tay màu vàng to sụ. Họ kéo giãn cơ của tôi trong vài phút trước khi giúp tôi đạp chân để làm giảm cứng cơ chân. Rồi mỗi y tá quàng tay ra sau lưng tôi để đỡ tôi đứng dậy, giữ cho đến khi tôi đỡ chóng mặt. Từng chút , họ thả lỏng tay ra cho tới khi tự tôi phải chống đỡ sức nặng của chính mình.

      Lần đầu tiên từ khi bị tai nạn, tôi đứng. Sayuri oang oang đếm giây - "sáu... bảy... tám!" - trước khi chân tôi chuyển từ spaghetti chưa chín thành spaghetti chín. Ngay lập tức, máu dồn xuống người tôi như vừa nhớ ra trọng lực có tác dụng gì và ộc ra khỏi những vùng da bị lóc của tôi. Những dải băng quấn chân tôi nhuốm đỏ, xấu hổ vì vô dụng của mình; thời điểm tôi bất tỉnh tới.

      Cánh phụ nữ đặt tôi trở lại giường và hân hoan với những nỗ lực của tôi. Khi đầu óc tôi bình tĩnh lại sau cú nâng thẳng vừa xong, tôi nhìn thấy bác sĩ Edwards đứng ở cửa phòng, nụ cười nở môi.

      Trước khi cố đứng vững, đáng ra tôi - với thái độ trượng phu, hợm hĩnh nhất có thể - là kết quả thế quái nào chẳng được. Đứng là hành động ngu ngốc mà trẻ con cũng thèm chơi. Nếu bạn cho phép mình quan tâm đến việc mình đứng được hay , ai biết bạn còn quan tâm đến cái gì nữa? Dù muốn vui vẻ vì những trò vỗ tay reo hò, nhưng tôi thấy chúng có vẻ rất . Những người phụ nữ tự hào về tôi và, trái với phán xét có vẻ đúng đắn hơn của mình, tôi cũng tự hào về bản thân mình.

      Thay vì phủi sạch thành quả của mình, tôi trở thành thằng ngốc cười nhăn nhở. Tôi cám ơn mọi người vì giúp đỡ và điều duy nhất khiến tôi nuối tiếc là Marianne Engel ở đó để nhìn thấy những gì tôi làm được.

      Tôi hy vọng mình có thể ngủ ngon đêm đó, nhưng . Giấc ngủ đến cùng cơn ác mộng.

      Đêm đó tôi mơ thấy Sayuri dựng tôi dậy rồi đột ngột buông tôi ra. Cơ thể xiêu vẹo của tôi sụp xuống; tôi có thể cảm thấy con rắn ở xương sống cuộn mình lại rồi uốn éo vặn vẹo. NGƯƠI NGHĨ MÌNH CÓ THỂ TỰ ĐỨNG ĐƯỢC SAO? Nan ném phi tiêu về đống đổ nát vô dụng là tôi trong khi các y tá đập tay ăn mừng thất bại của tôi. Tôi nhìn xuống cái giường xương của mình. Lửa cháy, hàng ngàn ngọn nến cháy. Tôi muốn vươn tay ra dập tắt chúng nhưng cứ như thể có ai đó tháo hết cơ tay của tôi, biến tôi thành con rối dây. Lửa hóa thành những khuôn mặt cười giận dữ nhìn tôi và lưỡi lửa chẻ đôi liếm những tấm ga chiếc giường xương, khiến chúng trông như những tấm vải liệm cháy bùng bùng. Xương vỡ nát xung quanh tôi, kêu răng rắc giận dữ như giàn giáo sụp đổ.

      Nhóm bác sĩ y tá cứ tiếp tục cười. trong số họ bằng giọng Đức khàn đục: "Alles brennt, wenn die Flamme nur heik genug ist. Die Welt ist nichts als ein Schmelztiegel." Hình như trong mơ, tôi cũng có khả năng như Marianne Engel trong đời thực: khả năng đa ngôn ngữ. Tất cả mọi thứ cháy nếu lửa đủ nóng. Thế giới chỉ là lò lửa hừng hực cháy.

      Tôi bị mắc kẹt dưới những mảnh xương trong khi tấm vải liệm tiếp tục cháy. Những khuôn mặt trong lửa vẫn giữ nguyên nụ cười đầy căm hờn của chúng, những cái lưỡi phản trắc cứ liếm, liếm, liếm. TA TỚI ĐÂY VÀ NGƯƠI CHẲNG THỂ CẢN ĐƯỢC ĐÂU. Tôi nghe tiếng những mũi tên rít trong gió. Tôi cảm thấy chúng cắm ngập vào tay tôi, tôi cảm thấy chúng cắm ngập vào chân tôi.

      Tôi giấc mơ dài về lửa cháy, khi cuối cùng cơn ác mộng cũng kết thúc và tôi tỉnh lại, bồng bềnh của chiếc giường hơi làm tôi bối rối. Phải mất lúc tôi mới chắc chắn mình mơ hay tỉnh.

      Tôi kể với Marianne Engel về việc đứng được tám giây trong ngày đầu tiên cố gắng, và đứng được những mười ba giây vào ngày thứ hai. cố gắng tỏ ra thán phục đúng cách đối với những thành tựu của tôi, nhưng hiển nhiên là bị rối trí vì chuyện gì đó.

      "Có chuyện gì vậy?"

      "Hả? , , có gì cả." chạm tay lên cái u nằm thù lù, lớn lên từng ngày, vai tôi. "Cái gì thế?"

      "Cái này gọi là giãn mô."

      Tôi giải thích với là dưới da tôi có quả bóng hơi làm bằng silicone, và hằng ngày các bác sĩ tiêm thêm chút muối vào đó. Khi quả bóng hơi phình ra da tôi cũng giãn theo, giống như khi người ta tăng cân ấy. Cuối cùng, quả bóng hơi bị hút cạn và tôi được thêm mảnh da nữa, mảnh da ấy được cấy từ vai tôi xuống điểm nhận nào đó cổ.

      " tuyệt, ước gì trong lần đầu tiên tôi có thể làm điều tương tự cho ."

      "Cái gì cơ?"

      "Đừng bận tâm." chạm vào chỗ u lần nữa, rồi mỉm cười. " biết , phát triển đó làm tôi nghĩ đến những đinh nhọt do Dịch hạch Đen gây ra."

      "Cái gì?"

      "Tôi có người bạn..." dần nín bặt như thể đánh mất suy nghĩ của mình trong trung. ngồi đó vài phút, nhìn đăm đăm vào khoảng , nhưng thay vì ngồi yên, tay vung vẩy còn nhiều hơn lúc nghịch điếu thuốc chưa hút hay chạm vào cái vòng cổ. Trông chúng như muốn xòe ra và tiết lộ câu chuyện giấu giếm tôi.

      Cuối cùng, hất đầu về phía chiếc bàn đầu giường tôi. đó là chồng sách tâm lý học mà luôn kìm nén để hỏi gì về chúng. " tìm hiểu tôi," . "Liệu tôi có nên thuê vài bộ phim khiêu dâm của để hiểu hơn ?"

      Điều này - dù tôi nghĩ thẳng ra với dưới bất cứ hình thức nào - là điều mà tôi bao giờ muốn làm. Tôi bắt hứa bao giờ được xem bất kỳ bộ phim nào của tôi cả.

      "Tôi với là tôi quan tâm rồi mà," . " thấy xấu hổ à?"

      Tôi bảo đảm với là tôi chả xấu hổ gì đâu; tôi chỉ muốn xem chúng thôi. Đó là , nhưng phải tất cả: tôi muốn xem chúng bởi vì tôi muốn biết tôi trước đây, rồi đem so sánh với tôi bây giờ. Tôi muốn nhìn thấy vẻ đẹp của tôi, làn da mềm mại của tôi, thân hình cường tráng của tôi, và rồi lại phải nhìn lên cái thứ kinh tởm nằm chiếc giường trước mặt . Tôi nhận ra điều này rất vô lý, và dĩ nhiên cũng biết tôi từng có thời bị bỏng, nhưng tôi muốn điều đó trở nên thực tế với hơn nữa. Nếu có thể chấp nhận tôi như thế này, có lẽ chỉ vì có gì để so sánh cả.

      Marianne Engel về phía cửa sổ và nhìn chằm chằm ra ngoài trong giây lát, trước khi quay lại buột miệng: "Tôi ghét phải rời xa , và tôi muốn luôn được ở bên giường . Tôi cần hiểu là khi tôi nhận chỉ thị điều đó hoàn toàn nằm ngoài khả năng của tôi."

      Đây là trong những lúc hiếm hoi tôi hiểu được chính xác nghĩ gì: bí mật muốn chia sẻ, nhưng biết rằng đó là loại bí mật mà hầu hết mọi người hiểu được. Bật mí là vấn đề sống còn nhưng lại luôn lo rằng điều đó quái dị đến độ khó có thể ra. Chẳng hạn giống như khi giải thích rằng có con rắn ký sinh trong xương sống của bạn ấy.

      "Khi chuẩn bị làm việc," Marianne Engel bắt đầu, hít sâu, "tôi thường ngủ đá trong ít nhất mười hai tiếng đồng hồ, nhưng thường là lâu hơn. Đó là công đoạn chuẩn bị. Khi nằm tảng đá, tôi có thể cảm nhận được nó. Tôi có thể cảm nhận được tất cả những gì thuộc về nó, mọi thứ bên trong. Nó rất... ấm áp. Cơ thể tôi chìm vào những đường nét của nó rồi tôi cảm thấy mình trọng lượng, như trôi vậy. Tôi gần như... mất khả năng cử động. Nhưng điều đó tuyệt vời; nó hoàn toàn trái ngược với tê liệt. Nó giống như thức tỉnh, siêu thức tỉnh, đến nỗi tôi thể cử động vì cảm giác ấy hoàn toàn lấn át."

      " có ý gì khi mình có thể cảm nhận được những gì bên trong tảng đá?" tôi hỏi.

      "Tôi thu nhận những giấc mơ của tảng đá, và những con gargoyle trong đó cho tôi biết những gì tôi cần làm để giải thoát chúng. Chúng cho tôi nhìn mặt và chỉ cho tôi cách biến chúng trở nên trọn vẹn. Khi có đủ thông tin, tôi liền bắt tay vào làm. Cơ thể tôi tỉnh táo, nhưng tôi có ý niệm gì về thời gian, có gì trừ công việc. Nhiều ngày trôi qua tôi mới nhận ra mình hề ngủ và cũng gần như ăn gì. Như thể tôi cố đào nạn nhân sống sót ra khỏi trận tuyết lở của thời gian tích tụ qua hàng thế kỷ rồi bất ngờ đổ ập xuống núi cùng lúc. Những con gargoyle vẫn luôn ở trong tảng đá nhưng, chính giây phút này, chúng thể chịu nổi việc phải ở lại thêm chút nào nữa. Chúng ngủ vùi cả mùa đông trong tảng đá, và cái đục trong tay tôi mang mùa xuân đến. Nếu tôi đục đúng chỗ những gargoyle ra như những bông hoa bừng nở bờ sông lởm chởm đá. Tôi là người duy nhất có thể làm điều đó, vì tôi hiểu ngôn ngữ của chúng và cũng là người duy nhất có thể trao cho chúng những trái tim cần thiết để bắt đầu cuộc đời mới."

      ngừng lại, dường như đợi tôi gì đó, bất cứ điều gì - nhưng người ta làm sao có thể đáp lại những lời tuyên bố như thế chứ? Vì muốn câu trả lời nhanh gọn và tôi cũng muốn tiếp tục , nên tôi rằng đó có vẻ là quá trình cực kỳ sáng tạo.

      ", ngược lại là đằng khác. Tôi là cái ống dẫn cho nước chảy ra chảy vào. Đó là vòng tròn, vòng tròn nước cuộn chảy giữa Chúa, những con gargoyle và tôi, vì đó chính là Chúa - vòng tròn mà tâm ở khắp mọi nơi và chu vi xác định. Và trong suốt thời gian tôi đục đẽo, giọng của gargoyle ngày càng to hơn. Tôi làm nhanh hết mức vì tôi muốn giọng đó dừng lại, nhưng nó cứ thúc giục tôi, đòi tôi giúp nó được tự do. Tiếng chỉ câm lặng khi tôi hoàn thành, và rồi tôi kiệt sức tới mức đến lượt tôi chìm vào giấc ngủ. Đó là lý do tôi mất hút năm, sáu ngày liền. Phải mất ngần ấy thời gian để giải phóng gargoyle và để tôi có thể hồi phục. Tôi thể quyết định lúc nào gargoyle sẵn sàng sinh ra và tôi cũng thể từ chối nguyện vọng của nó. Vì thế hãy tha thứ cho tôi những khi tôi xuất , vì tôi lựa chọn nào khác."

      Ừm, được rồi. Ít nhất bây giờ tôi cũng biết làm gì với những trái tim mà nghĩ là ở trong ngực mình. Chúng nằm trong những bức tượng tạc.

      Tôi từng chắc chắn rằng Marianne Engel bị tâm thần phân liệt, nhưng căn cứ vào thói quen làm việc của giờ tôi phải tính đến khả năng có thể bị khủng hoảng tinh thần. Mọi bằng chứng đều dẫn đến hướng đó: khi tôi gặp lần đầu, trông mệt mỏi và vận toàn đồ đen; giờ rạng rỡ trong cả cách ăn mặc và tính cách. Những người bị tâm thần phân liệt thường có xu hướng lảng tránh các cuộc trò chuyện, thỉnh thoảng còn ngồi yên hàng giờ liền, nhưng Marianne Engel lại hoàn toàn trái ngược. Và còn bản chất công việc của nữa. Rất nhiều nạn nhân khủng hoảng tinh thần trở nên nổi tiếng trong lĩnh vực nghệ thuật vì chính tình trạng bệnh lý của họ thắp lên ngọn lửa nhiệt tình cần thiết để sáng tạo ra những kiệt tác. Đây, dĩ nhiên, chính là việc Marianne Engel làm: sáng tạo tượng đài. Nếu những thói quen chạm khắc của phải đặc điểm của người loạn thần kinh, tôi cũng chẳng tưởng tượng được đó là cái quái gì nữa.

      Nhưng cũng có rất nhiều bằng chứng về bệnh tâm thần phân liệt. miêu tả những tiếng phát ra từ tảng đá, trao cho những chỉ dẫn. coi bản thân mình là sợi dây kết nối với các đấng thần linh, và sản phẩm của là quỹ đạo trao đổi thông tin giữa Chúa, những gargoyle và bản thân . Chưa kể đến cái "quá khứ" ở Engelthal và niềm tin Địa ngục là ấn phẩm văn hóa thích hợp cho phòng điều trị bỏng nữa. Tóm lại, hiếm có kiện nào trong đời động chạm cách này hay cách khác đến Thiên Chúa giáo và, như từ trước, những người mắc chứng tâm thần phân liệt thường bị ám ảnh bởi các vấn đề tôn giáo.

      Thống kê cũng đưa ra dấu hiệu bệnh lý nữa. Bệnh tâm thần phân liệt hay gặp ở nam giới hơn nữ giới, nhưng hơn tám mươi phần trăm bệnh nhân tâm thần phân liệt nghiện thuốc lá nặng, và Marianne Engel thường xuyên nhảy khỏi phòng bỏng để hít chút nicotine. Và trong khi chuyện với tôi, mắt luôn bồn chồn, ánh nhìn cứ luôn khóa chặt lấy mắt tôi: điều này chỉ bắt đầu có ý nghĩa sau khi tôi đọc cuốn sách của Gregor rằng những bệnh nhân tâm thần phân liệt rất hiếm khi chớp mắt.

      Từ chối điều trị là tình trạng chung của cả hai bệnh lý, nhưng với những lý do khác nhau. người khủng hoảng tinh thần có thể từ chối dùng thuốc vì khi dùng liều cao ấy tin rằng cần phải dùng liều thấp nữa, hoặc ấy quá nghiện liều cao đến nỗi liều thấp chỉ đơn giản là cái giá phải trả. Những người tâm thần phân liệt, mặt khác, lại có xu hướng từ chối dùng thuốc vì họ tin mình bị đầu độc - lời tuyên bố Marianne Engel đưa ra chỉ lần.

      Giờ đây rất nhiều bác sĩ nghiêng theo giả thuyết là cả hai tình trạng bệnh lý này cùng song song tồn tại thường xuyên hơn nhiều so với những chẩn đoán thông thường, vì thế có thể người ta áp dụng cả hai chẩn đoán lúc.

      Cùng lúc lật các trang sách về sức khỏe tâm thần để hiểu hơn, tôi càng ngày càng hiểu bản thân mình, và tôi cũng hoàn toàn thoải mái với những gì đọc được.

      Tôi luôn so sánh mất mát của với mất mát của tôi, tự nhủ rằng thể nào hiểu được nỗi đau thể xác của tôi trong khi tôi thực có thể hiểu được bản chất nỗi đau tinh thần của . Và trong khi rất nhiều chứng bệnh thần kinh có thể chữa khỏi nếu được điều trị đúng cách chẳng có viên thuốc nào có thể khiến tôi trở lại bình thường. người điên điên dở dở vẫn có thể hòa mình vào đám đông nhưng tôi luôn luôn nổi bật với tư cách là ngón tay cái cháy dở nhô lên khỏi nắm đấm loài người; điều này làm tôi có cảm giác mình là kẻ chiến thắng trong cuộc thi hề tồn tại.

      Ngày hôm sau Marianne Engel xuất trong bộ váy trắng giản dị với xăng đan hở ngón, nhìn người ta có thể lầm tưởng là phụ nữ đến từ làng chài bên bờ Địa Trung Hải. mang tới hai giỏ thức ăn, trắng xanh da trời, và tôi có thể chúng nặng đến thế nào theo cách khệ nệ xách vào phòng. Cúi người xuống, cái đầu mũi tên vòng cổ của nảy ra nảy vào trong cổ áo hình chữ V như miếng mồi gắn dây câu. "Cuối cùng tôi cũng có thể thực được lời hứa là cho ăn rồi."

      Tôi giải thích chút về việc bác sĩ Edwards cho phép khách thăm bệnh mang đồ ăn vào phòng điều trị bỏng. Ngoài lợi ích tinh thần của buổi picnic (nó là thế mà), còn có cả lợi ích thể chất nữa. Cùng với việc sức khỏe khá lên, cơ thể tôi xảy ra tình trạng gọi là tăng chuyển hóa: cơ thể bình thường chỉ cần hai nghìn calo ngày sau vụ bỏng nặng có thể tiêu thụ đến bảy nghìn calo. Dù các ống thông mũi họng hằng ngày vẫn cung cấp chất dinh dưỡng vào thẳng dạ dày nhưng thế vẫn chưa đủ cho tôi và tôi được phép, thậm chí còn được khuyến khích, ăn thêm thức ăn ngoài.

      Trước đây Marianne Engel cũng mang đồ ăn đến cho tôi, nhưng ràng bữa ăn hôm nay thịnh soạn hơn rất nhiều. mở hai cái giỏ ra - đựng đồ nóng còn chất đầy đá để làm lạnh - và bắt đầu bày thức ăn ra. Có cái bánh mì focaccia tròn mới nướng, vẫn còn vương mùi củi cháy, chai dầu ô liu và giấm balsamic. phết lớp màu đen lên mặt chất màu vàng rồi nhúng mẩu bánh focaccia vào hỗn hợp chất lỏng lốm đốm đó. đọc câu kinh quen thuộc trước khi nâng miếng bánh bỏ vào miệng tôi: "Jube, Domine benedicere."

      cũng mang cả pho mát nữa: Camembert, Gouda, pho mát xanh, pho mát sữa dê Iran. hỏi tôi thích loại nào và khi tôi chọn loại làm từ sữa dê, toét miệng cười. Tiếp, vài cái bánh bốc khói trong giấy gói trông giống như bánh kếp nhưng mùi kinh chịu nổi. Bánh ngọt Gordonzola phải ai cũng ăn được, giải thích, nhưng mong là tôi thích nó. Tôi thích . Những miếng dưa lưới tròn nằm ngoan ngoãn giữa những lát thịt muối prosciutto mỏng dính, sắc vàng mọng nước lấp ló qua màu đỏ của thịt.

      tiếp tục khai phá hai cái giỏ. Những quả ô liu xanh mọng đến chói mắt, bị nhồi ớt ngọt đến căng tròn, nằm ườn thỏa mãn trong cái tô vàng. đĩa đầy cà chua tẩm giấm đen với pho mát bocconcini tròn trắng như tuyết. Hàng ổ bánh mì pita và những chiếc chén tràn đầy món khai vị hummus và xốt tzatziki. Hàu, cua, sò điệp chìm đắm trong cái chết êm ái giữa biển nước xốt marinara; những lát chanh đứng thăng bằng rìa đĩa như những chiếc phao cứu sinh chờ được ném xuống. Xúc xích lợn rắc hạt tiêu đen. Những miếng chả lá nho, cố ra vẻ phong trần nam tính trong bộ com lê xinh màu xanh, được ướp thơm bằng rượu vang đỏ. Những khoanh mực ống dày dặn. Thịt soulvaki được nướng xiên cùng những củ hành phết bơ ngọt ngào và hạt tiêu om. miếng thịt cừu vai nấu kỹ đến nỗi nó rời ra nếu bạn chỉ cần vừa nhìn nó vừa nghĩ đến cái nĩa vây quanh là gia đình khoai tây nướng bé mà hạnh phúc.

      Tôi ngồi như bị mắc kẹt giữa ngồn ngộn thức ăn, dám cử động vì sợ hất đổ cái đĩa nào đó. "Chúng ta thể nào ăn hết chỗ này được."

      "Hết hay phải vấn đề." lấy cái chai ra khỏi giỏ lạnh. "Hơn nữa, tôi chắc chắn các nữ y tá rất vui vẻ giúp đỡ chúng ta xử lý chỗ còn lại. với họ là tôi uống rượu chứ, nhỉ? Tôi thích rượu nho Hy Lạp vì có thể nếm được cả vị đất trong đó."

      Mấy y tá nhanh chóng đứng lố nhố quanh cửa như bầy chim hải âu háu đói. Tôi có cảm giác hãnh diện kỳ lạ rất đàn ông, cái cảm giác ta có được khi bị bắt gặp hẹn hò với phụ nữ xinh đẹp. Đám y tá cười rúc rích và bình phẩm vài câu trước khi bỏ trực ca. Marianne Engel đưa từng miếng vào miệng tôi. "Thử cái này ... rất thích. Nữa nhé."

      Chúng tôi rất nỗ lực, nhưng số phận định sẵn là chúng tôi bao giờ có thể ăn hết được. Khi chúng tôi cuối cùng cũng chịu thua, mang ra cái bình giữ nhiệt bằng kim loại mỏng và đổ cà phê Hy Lạp vào hai tách . Cà phê đặc quánh đến mức mất đến ba mươi giây mới đổ xong. Rồi mang món tráng miệng ra: bánh baklava phết mật ong dày đến nỗi trào cả ra ngoài như tổ ong làm từ thiện. Kem gelato ba màu, xanh trắng đỏ. Và dĩ nhiên cả món bougatsa, cảm hứng cho tên con chó của - bánh ngọt nâu nhạt với kem trứng phết giữa những lớp bánh phyllo.

      " có thích nghe câu chuyện ?" Marianne Engel . "Nó kể về tình đích thực, tình em sâu nặng và những mũi tên tìm được đến đích."

      "Lại về nữa à?"

      ", đó là câu chuyện về người bạn tốt Francesco Corselini của tôi."

      Chú thích

      (20) Paracelsus (1493-1541) là nhà vật lý học, thực vật học, giả kim, thiên văn học và huyền bí học thời Phục hưng.

      (21) Genki: khoẻ (tiếng Nhật).
      Hyunnie0302Jenny Nguyen thích bài này.

    4. thuytinhtim_1102

      thuytinhtim_1102 Well-Known Member

      Bài viết:
      1,916
      Được thích:
      3,133
      Chương 6
      Nếu có điều Graziana biết chắc đó là Francesco quý của người đàn ông tốt. là thợ rèn ở thành phố quê hương Firenze của họ và luôn nỗ lực trau dồi tay nghề, luôn cố gắng rèn cái móng ngựa tốt hơn hay thanh kiếm mạnh mẽ hơn. Thỉnh thoảng làm quên thời gian và chỉ dừng lại khi Graziana xuất bên xưởng để gợi ý nên quan tâm đến lửa trong lò rèn ít thôi và quan tâm đến lửa trong lòng vợ nhiều hơn. đùa là hẳn phải làm điều gì đó rất tệ trong kiếp trước nên giờ mới phải chăm chỉ đến vậy để chuẩn bị cho hậu dưới Địa ngục. cười, hứa đến ngay, và Graziana cũng cười theo. biết chồng mình chẳng bao giờ phải xuống Địa ngục.

      Francesco bao giờ được biết đến với vai trò "người làm kiếm giỏi nhất nước Ý" hay "người thợ rèn vĩ đại của thành Firenze", nhưng với điều đó chẳng quan trọng. muốn được làm thương nhân tốt, người thợ rèn đáng tin cậy kiếm những đồng tiền chân chính, nhưng khát khao của là được làm người chồng tuyệt vời. làm những món quà xinh đẹp cho Graziana tại xưởng rèn của mình - chân nến, bát đĩa và những món trang sức tuyệt diệu nhất. luôn tự hào rằng thành công lớn nhất của là đôi nhẫn cưới làm cho mình và Graziana. Trong căn phòng ở nhà họ, có cả bộ sưu tập đồ kim loại cho đứa con sắp được thụ thai của hai chị. mơ về ngày mình là người cha tuyệt vời của những đứa con sinh ra.

      chàng Francesco này phải người đàn ông đẹp ngất ngây, nhưng vợ cũng chẳng phải tuyệt thế giai nhân gì. Đối với số phụ nữ hơi lông lá quá, hai cánh tay rắn chắc của vươn ra từ thân hình được vỗ béo bởi quá nhiều bia và mì sợi. Graziana thường gọi là L'Orsacchiotto - Con Gấu - và chọc chọc vào bụng , và Francesco đáp lại, "Tập luyện ghê lắm mới được thế đấy. Đây là kiểu cơ bắp thả lỏng."

      Graziana có mái tóc dày và đôi mắt đen nhưng những điểm còn lại của chẳng có gì nổi bật. Tuy nhiên, Francesco luôn với rằng là người phụ nữ đẹp nhất nước Ý, tin như thế. Họ là đôi thanh mai trúc mã và hầu như ngày nào lại cám ơn Chúa vì cho làm vợ mình.

      Họ hạnh phúc. tốt bụng. tận tụy. Cần phải thêm gì nữa ?

      bất hạnh, có.

      Đó là năm 1347 và căn bệnh quái lạ tràn đến từ Trung Hoa, căn bệnh khủng khiếp nhất người ta từng biết. Nó càn quét khắp những bến cảng, vào sâu trong thành phố và vùng đồng quê nước Ý, giết người như đám cháy rừng thiêu rụi cây cối. Ở các thị trấn, chuông nhà thờ đổ ngớt vì người ta tin rằng tiếng chuông đánh đuổi bệnh tật. Rất nhiều người tin rằng mùi của người chết làm căn bệnh đó lan tràn, nên họ luôn ra đường với những chiếc khăn tay tẩm nước hoa che kín mặt. Trầm hương đốt khắp nơi, hòa lẫn với mùi hôi thối của xác chết...

      chiều muộn, Graziana thấy sốt. về phòng nghỉ chút. Khi thức dậy vào tối hôm đó, phát ra cục hạch to bằng quả trứng ở háng, và những cục khác sưng lên dưới hai nách. biết rằng Dịch hạch Đen tấn công mình.

      Trong bếp, Francesco chuẩn bị thức ăn. thét bảo , ngay lập tức, vì bị nhiễm bệnh. "Gavoccioli!" gào lên. Sưng bạch hạch đấy. bắt phải cứu lấy chính mình, vì tất cả mọi người đều biết rằng có thuốc chữa, có hy vọng nào cả. khẩn khoản, " ! ngay !"

      Căn bếp chìm trong tĩnh lặng. Graziana nằm giường, nghe im lặng trùm lên khoảng cách giữa và người chồng. Rồi nghe thấy bắt đầu gõ xoong chảo để giấu tiếng khóc. Vài phút trôi qua; Francesco bước xuống hành lang về phía . la hét, chửi ầm lên bắt tránh ra xa, nhưng đứng trước cửa phòng với khay mì sợi và chút rượu.

      "Em thấy khá hơn nếu em ăn gì đó, chỉ chút thôi cũng được," Francesco . bước vào phòng, đặt cái khay xuống và ngồi bên cạnh . Rồi cúi xuống hôn .

      Graziana cố đẩy ra. Đó là lần đầu tiên và duy nhất trong đời có ý từ chối nhưng Francesco dùng sức mạnh của người thợ rèn trong để áp đảo và hôn trả lại tất cả những kháng cự vào miệng . Sau vài giây nhận ra có chống cự cũng vô ích nên chấp nhận những nụ hôn của . Thế là xong.

      Tối đó họ ăn chút rồi nằm. Qua cửa sổ, trăng tròn nhìn họ trìu mến. "La luna è tenera," Francesco . Mặt trăng dịu dàng. nhắm mắt lại và ôm chặt hơn. Điều cuối cùng Graziana nhìn thấy vào tối hôm đó là khuôn mặt ngủ. Khi thức dậy vào sáng hôm sau, khuôn mặt là thứ nhìn thấy đầu tiên trong ngày mới. bị sốt rất cao, mồ hôi đổ đầm đìa, và mạch đập nhanh như ngựa phi nước đại.

      "Nhìn này," dịu dàng , "những đốm đen xuất da em rồi." Graziana bắt đầu khóc, nhưng Francesco mỉm cười vuốt tóc . "Đừng khóc. Chúng ta có thời gian cho nước mắt đâu. Hãy để chúng ta nhau khi còn có thể."

      Buổi chiều hôm ấy, bệnh tình của Graziana đến lúc cực kỳ nguy kịch. Trong suốt ba ngày, họ nằm cùng nhau. Trong suốt ba ngày, Graziana hấp hối trong vòng tay khi kể cho nghe câu chuyện về những con thiên nga, về những điều kỳ diệu và tình vĩ đại. Nửa đêm thứ ba kể từ khi ngã bệnh, Francesco bị những tiếng thở nặng nhọc của đánh thức. quay mặt về phía .

      " đến lúc rồi."

      , " sớm gặp lại em."

      Francesco hôn Graziana lần cuối, mang hơi thở cuối cùng của vào tận sâu trong lồng ngực. "Ti amo," . Em .

      Sau khi ra , Francesco tháo chiếc nhẫn cưới khỏi ngón tay . giờ cũng ốm rất nặng, nhưng vẫn cố gồng mình ra khỏi giường. hầu như thể đứng nổi, tập tễnh vì buồn nôn và sốt, nhưng vẫn cố ép mình về phía lò rèn. Vẫn còn việc nữa cần phải làm.

      nhóm lửa và đốt lò. nung chảy cả hai chiếc nhẫn cưới, của và của , rồi đổ chúng vào chiếc khuôn hình mũi tên. Khi đầu mũi tên hoàn thành, đặt nó lên cán tên. nhìn xuống dọc chiều dài mũi tên, đảm bảo nó thẳng và chuẩn như bất cứ mũi tên nào từng làm.

      Francesco giật cây cung treo tường xuống. Nó từng thuộc về cha , cung thủ vĩ đại, người hy sinh chiến trường khi Francesco và trai Bernado còn . Cây cung này, cây cung được người đồng đội của cha mang trở lại Firenze, là tài sản duy nhất của cha mà Francesco có được. Ngoài kỷ vật này, thậm chí còn có chút ký ức nào về ông.

      quay về phòng ngủ, bên xác Graziana. với tay qua ô cửa sổ mở và đặt cây cung ra ngoài. Giờ tảng sáng và nhờ cậu bé ngang qua gửi lời nhắn tới cho trai , vốn sống tại khu khác trong thành phố. tiếng sau, Bernado đứng ngoài cửa sổ phòng ngủ của Francesco.

      Francesco khẩn nài người đừng lại gần thêm chút nào nữa, sợ rằng lây bệnh sang cho mình. Francesco xin ân huệ cuối cùng.

      "Bất cứ điều gì," Bernado . " trân trọng nguyện ước cuối cùng của em."

      Sau khi Francesco thỉnh cầu xong, ngồi lên giường, quay mặt ra cửa sổ. Giữa những tiếng sụt sịt, Bernado nâng cung lên và đặt mũi tên vào vị trí. hít hơi sâu, dồn hết sức và cầu xin linh hồn người cha dẫn đường cho mũi tên trúng đích. Bernado buông dây cung và để mũi tên bay . Đường tên chính xác và cái chết đến ngay lập tức.

      Francesco ngã ngửa xuống giường, bên cạnh Graziana của , với đầu mũi tên được làm từ chiếc nhẫn cưới của hai người găm chắc vào tim. chết như sống, trong tình .
      Hyunnie0302Jenny Nguyen thích bài này.

    5. thuytinhtim_1102

      thuytinhtim_1102 Well-Known Member

      Bài viết:
      1,916
      Được thích:
      3,133
      Chương 7
      ai có thể quy kết tôi quá lãng mạn được, vì ngay sau khi Marianne Engel kể xong câu chuyện điều đầu tiên tôi thốt ra là: " thấy việc cả hai cùng chết vì bệnh dịch là quá bi thảm hả?"

      Tôi để các bạn tự tưởng tượng tông giọng của khi , thấy câu chuyện tình này "bi thảm" chút nào.

      Sau khi , tôi ngồi phân tích câu chuyện này từ rất nhiều khía cạnh khác nhau. Nó viển vông: nước Ý thời Trung cổ, hy sinh, cống hiến và những chiếc nhẫn cưới được bắn xuyên qua Trái Tim Người Chồng Đích Thực Của Tâm Hồn. Theo logic, tôi tới kết luận là điểm cốt lõi của câu chuyện phải ở việc đôi ấy chết vì căn bệnh hiểm nghèo mà ở chuyện có điều sâu sắc nào đó trong hành động của Francesco. Tuy nhiên, nếu ở trong bếp nấu mì mà vợ bắt đầu rên la vì những cục u to bằng con voi của ấy, tôi phi ra cửa sau ngay tắp lự.

      Suốt mất ngày trời, tôi đợi Marianne Engel quay lại, háo hức muốn thông báo với rằng sau khi suy nghĩ kỹ càng tôi nhận thấy Francesco cũng phải ngốc vô phương cứu chữa cho lắm. Tôi muốn cho thấy tôi phát triển với tư cách con người, như mấy ông sính dùng thuật ngữ tâm lý học hay , vì cần được cập nhật thông tin về những phát triển này. Khi đến, tôi băn khoăn biết có phải bị gọi phục vụ bọn gargoyle hay do tôi làm cụt hứng với mấy câu nhận xét chẳng chút lãng mạn nào của mình. Và cái bộ não to bằng quả óc chó của tôi bắt đầu hoạt động lại: Cụt hứng quái gì? Làm sao tôi lại có thể cho phép bản thân, dù chỉ trong giây lát, nghĩ rằng chúng tôi là đôi cơ chứ? DỞ HƠI.

      Beth đến bên giường tôi mang theo cái gói mà vừa được người đưa thư chuyển đến. Tôi xé toạc ra thấy lời nhắn viết cuộn giấy da nâu. Chữ trông như được viết bằng bút lông ngỗng, từ hàng thế kỷ trước, bay bướm với thư pháp thất truyền từ lâu.

      Người dấu của tôi.

      Tôi làm việc trong vài ngày tới.

      Những linh hồn lại chế ngự tôi lần nữa.

      Gargoyle khao khát được chào đời.

      Sớm gặp lại ,

      M.

      Tôi thấy rất thanh thản vì phải tại tôi làm gì hợp ý nên mới đến; lý do chỉ đơn giản là đợt chạm khắc nữa.

      bộ phim truyền hình ti vi. Edwards lại bị mất trí nhớ lần nữa, còn chị biệt tăm biệt tích của Pamela quay trở lại sau chuyến từ thiện tại châu Phi. Tôi đẩy quả bóng lên tấm ván. Tôi nhìn khuôn mặt phản chiếu của mình lớp bạc lăn . Tôi đạp chân. Thêm nhiều lớp da nữa được thu hoạch. Morphine tiếp tục từng giọt . Con rắn tiếp tục liếm đáy sọ tôi. TA TỚI ĐÂY VÀ NGƯƠI CHẲNG THỂ CẢN ĐƯỢC ĐÂU. Và còn nữa: THẰNG ĐỂU, ĐỒ THUA CUỘC, ĐỒ HAY THAN VÃN, THẰNG NGHIỆN, QUỶ SỨ, QUÁI VẬT, ÁC MA, ĐỒ KHỐN, QUÁI THÚ, VŨ PHU, TINH, ĐỒ HẾT THỜI, CHẲNG LÀ CÁI GÌ RA HỒN, LÀ CÁI GÌ RA HỒN. ĐƯỢC , ĐÁNG , PHẢI NGƯỜI.

      A, con rắn ngu ngốc biết cái quái gì? Marianne Engel gọi tôi là "Người dấu của tôi".

      Tôi nghĩ về Francesco làm việc trong hơi nóng lò rèn. Tôi nghĩ về Graziana ăn mì sợi giường bệnh, chỉ chút để cảm thấy đỡ hơn. Tôi nghĩ về những người nhau khi cái chết đến gần, tôi cố gắng tưởng tượng mình trân trọng người nào đó đến mức chết vì họ; tôi, người thấy việc sống cho chính bản thân mình khó khăn lắm rồi. Và tôi cố gắng hình dung chuyện gì xảy ra khi cuối cùng tôi cũng được rời khỏi khoa bỏng, và mối quan hệ của tôi với Marianne Engel thay đổi như thế nào.

      Bệnh viện là môi trường biệt lập nơi tôi thấy lập dị của đa dạng sắc màu, nhưng đó cũng là nơi lập dị ấy có khả năng ảnh hưởng đến cuộc sống hằng ngày của tôi theo cách tiêu cực. Tôi được bảo vệ bởi thời gian biểu đều đặn, và nhóm bác sĩ chịu đựng vì tôi đấu tranh cho những cuộc viếng thăm của và vì tôi chẳng có người bạn nào khác - ngoại trừ, có lẽ, Gregor. Vì mới chỉ gặp trong môi trường bó hẹp, hạn chế, tôi bắt đầu băn khoăn thế này: ở đời thực, Marianne Engel còn điên tới mức nào nữa?

      Khi về những trái tim trong ngực mình, hay cuộc sống của bảy trăm năm về trước, đó quả là chuyển hướng tuyệt vời khỏi đơn điệu thường ngày. Thỉnh thoảng tôi hơi khó chịu, nhưng trong lòng tôi thường thấy rộn ràng khi nghĩ cảm thấy "mối liên hệ thần bí" với tôi. Nhưng tôi đối xử với như thế nào nếu gặp tôi trước vụ tai nạn? nghi ngờ gì nữa, tôi chắc chắn phẩy tay xua và tiếp tục con đường riêng của mình. Chỉ là mụ điên khác thôi. Trong bệnh viện, dĩ nhiên, tôi thể bỏ đâu được cả.

      đến lúc tôi có thể bỏ được, nếu tôi muốn.

      Marianne Engel của tu viện, lần gặp gần đây nhất là đứa trẻ sống ở đầu thế kỷ mười bốn, bắt đầu công cuộc tập huấn của mình trong phòng viết tại Engelthal. Những trụ sở như thế được lập ra từ vài trăm năm trước, khi Charlemagne ra lệnh xây dựng các thư phòng để lưu giữ những bản thảo quan trọng. Lúc đầu, dĩ nhiên, việc viết sách hầu như chỉ để lưu giữ Lời của Chúa.

      Công việc viết lách hề đơn giản. ấy - hoặc, trong trường hợp ở Engelthal, ấy - chỉ được cung cấp những dụng cụ đơn giản: dao, phiến mài mực, phấn, dao cạo, bọt biển, đầu mẩu bút chì, thước kẻ và dùi đục. Để giữ an toàn cho các cuốn sách, được phép đốt nến trong phòng viết. Nếu trời trở lạnh, người viết thậm chí còn thể sưởi ấm tay mình được. Giá trị của các cuốn sách lớn đến mức những phòng viết thường được đặt tại tầng cao nhất của tòa tháp bất khả xâm phạm; bản thân những cuốn sách chứa đựng những đoạn cảnh báo về hậu quả của trộm cắp và phá hoại. Điển hình đoạn còn viết rằng kẻ trộm sách bị ốm nặng, sốt cao, bị bánh xe nghiền nát và bị treo cổ. phải chỉ chịu trong số những hình phạt này mà phải chịu lần lượt từng cái .

      Đó là đời sống khắc khổ, nhưng người viết phải luôn tự nhắc bản thân mình rằng mọi từ chép ra vừa là điểm cộng cho vào Ngày Phán xét Cuối cùng vừa là vũ khí chống lại quỷ Satan. Kẻ thù đội trời chung này, tuy nhiên, phải loại bị tấn công mà trả đũa, và thế là cử Titivillus, quỷ sứ bảo hộ cho nghệ thuật thư pháp, phản đòn.

      Titivillus là tên tiểu quỷ lắm mưu nhiều kế. Dù người chép có ý định tốt đẹp đến đâu chăng nữa, công việc viết lách cứ lặp lặp lại tẻ nhạt vô cùng. Tâm trí lang thang nơi nào đó và vài lỗi sai xuất . Nhiệm vụ của Titivillus là đổ đầy sai sót vào cái bao của mình hàng nghìn lần ngày. Những bản thảo lỗi được mang đến cho Satan, chúng được ghi lại vào Cuốn sách Sai sót và được dùng để chống lại những ghi chép về Ngày Phán xét Cuối cùng. Vì thế việc ghi chép đặt người viết vào tình thế ngặt nghèo: viết chính xác được điểm cộng, viết chính xác bị điểm trừ.

      Nhưng mưu của Ác quỷ thành. Biết được việc làm của Titivillus, những người chép sách càng nỗ lực hoàn thành bản thảo chuẩn xác hơn. Cuối cùng Titivillus còn cách nào đổ đầy cái bao của mình nữa và bị giáng xuống làm kẻ suốt đời lẩn quất trong nhà thờ, ghi lại tên của những người phụ nữ ngồi buôn chuyện trong thánh lễ Mass.

      Trường hợp nào cũng thế, những bản thảo điển hình được viết bởi thầy ký Trung cổ theo kiểu chữ thường Gothic - điều thú vị ở đây là nó giống hệt kiểu chữ Marianne Engel dùng ghi chép thường ngày. Điều này ra cũng chẳng chứng tỏ được điều gì, nhưng tôi thấy mình tắc trách nếu đả động gì đến nó.

      Sáu ngày trôi qua kể từ khi Marianne Engel gửi lời nhắn. Năm ngày kể từ lần gần nhất các miếng thịt của tôi được lóc từ chỗ này đắp sang chỗ khác cơ thể. Bốn ngày kể từ khi tôi có thể tự đứng được trong ba mươi bảy giây. Ba ngày kể từ lần chuyện cuối cùng giữa tôi và Gregor. Hai ngày kể từ khi tôi tự đứng được trong bốn mươi sáu giây, được Sayuri Mizumoto sinh lực tràn trề đỡ. ngày kể từ khi tôi lại trở về tình trạng chúi đầu chúi mũi toan tính tự tử.

      Khi Gregor ghé thăm, tôi có thể thấy ngay rằng ông ta vẫn tập luyện, nhưng dưới cằm vẫn còn chút mỡ thừa chưa tống khứ được. Bộ râu dê mới tỉa của ông ta cũng giúp che được phần nào chỗ đó, và tôi khen ngợi ông ta hết mực về những cải thiện ngoại hình và hỏi người phụ nữ may mắn là ai.

      Ông ta vội trả lời là chẳng có người phụ nữ nào cả. Cứ rối rít cả lên. Nhận thấy mình vô tình để hớ, ông ta thay đổi chiến thuật và cố đánh trống lảng như chẳng có chuyện gì nghiêm trọng, nhưng chỉ tổ lộ tẩy mà thôi.

      Đó là đặc tính kỳ lạ nhưng rất cố hữu ở những người luôn thấy bản thân mình kém hấp dẫn. Họ xấu hổ nếu ta úp mở rằng họ có thể thích ai đó; vì họ cảm thấy xứng đáng được nhận quan tâm từ người khác, họ cũng từ chối quan tâm đến người khác luôn.

      Chúng tôi vẫn chưa đủ thân thiết để tôi có thể tò mò thêm nên khi Gregor cố thay đổi chủ đề, tôi để ông ta yên.

      Sayuri nhảy bổ vào phòng tôi, ra những lời phải được viết bằng chữ in nghiêng. "Chào buổi sáng! có thể dành chút thời gian về việc chữa trị được ?"

      Tôi với là tôi có thời gian. Giọng tôi khác nào tiếng huỵch nặng nề xen lẫn những tiếng kim loại leng keng, như khay đầy dao kéo rơi độp xuống đất. Đó chính xác là điều tôi mong đợi.

      "Sốc quá!" Sayuri thảng thốt kêu lên, lấy tay che miệng trước khi vỗ về tôi rằng nụ cười là thang thuốc bổ, và bắt đầu giải thích rằng hôm nay đến để làm vài bài kiểm tra thể lực và độ tinh nhạy của tôi. Những khả năng của cơ thể tôi, giải thích, "vẫn chưa xác định được," cho nên dùng thiết bị gọi là máy đo góc để đo độ linh hoạt các khớp xương của tôi. nâng cánh tay tôi lên rồi gập ở khuỷu, nguệch ngoạc ghi kết quả vào cuốn sổ . Rồi kiểm tra chân tôi, nhận ra chân phải của tôi (cái chân bị nát bấy) hầu như có phản ứng gì. cẩn thận ghi vào cuốn sổ của mình. "Có chút vấn đề."

      Tiếp, để đo cảm giác ở các vùng khác nhau cơ thể tôi, chọc cái gậy đáng ghét vào tôi và hỏi cảm giác thế nào. Tôi với là tôi có cảm giác như dùng cái gậy đáng ghét chọc vào tôi ấy. Ôi, cái cách cười; tôi mới là nghệ sĩ tấu hài tài ba làm sao.

      Sayuri đặt chiếc bút chì của mình vào bàn tay còn lành lặn của tôi và bảo tôi viết gì đó vào cuốn sổ của . Tôi viết, nét chữ run rẩy, ấy ở đâu? (Đây là ví dụ khác cho thấy tôi sinh ra dưới ngôi sao may mắn khi ngọn lửa tha cho bàn tay phải của tôi trong khi tôi bẩm sinh thuận tay trái.) Sayuri mảy may để tâm đến những từ tôi viết ra; chỉ quan tâm đến độ linh hoạt của tôi thôi. chuyển chiếc bút sang tay trái của tôi, cái bàn tay thiếu ngón rưỡi, và bảo tôi viết câu khác. Tôi cố nguệch ra mấy chữ Khốn nạn. Sayuri nhìn thành quả văn chương của tôi và nhận xét rằng ít nhất cũng nhận được mặt chữ.

      tóm gọn mọi thứ bằng việc rằng tôi sớm có chương trình tập luyện, khá là hấp dẫn đấy! "Chúng ta cùng nỗ lực để được chính đôi chân của mình, dạo quanh khắp nơi, trước cả khi kịp nhận ra ấy chứ!"

      Tôi rằng tôi biết quá mình phải như thế nào rồi, thế nên làm thế quái nào mà tôi thấy hứng thú với chuyện đó được?

      Sayuri chỉ ra - với phong thái vô cùng dịu dàng - là dù tôi biết khi ở trong cơ thể cũ của mình, tôi phải học khi ở trong cơ thể mới này. Khi tôi hỏi xem liệu tôi còn có thể lại như người bình thường , nhàng rằng có lẽ tôi nhìn nhận vấn đề hơi nhầm lẫn chút và tôi cần tập trung vào những bước đầu tiên thay vì cả quá trình.

      "Chỉ là đống tri thức Đông phương rẻ tiền chẳng liên quan gì đến cuộc sống của tôi."

      Tôi đoán đó là lúc nhận ra tôi cố kiếm cớ cãi nhau nên tiến lại gần tôi bước. rằng việc tôi có thể được tốt đến mức nào phụ thuộc vào rất nhiều thứ, nhưng đóng vai trò quan trọng nhất vẫn là ý chí của tôi. "Số phận của nằm cả trong tay thôi."

      Tôi với rằng tôi ngờ việc tôi tiến bộ đến đâu thực chẳng liên quan gì đến cả, vì kiểu gì cũng được nhận đủ số tiền thôi.

      "Như thế công bằng," trả lời, trao cho tôi chính mào đầu mà tôi trông đợi. Tôi chớp ngay lấy thời cơ và giải thích cho cái thực " công bằng" là gì. " công bằng" nghĩa là trong khi có thể về nhà vào mỗi buổi tối, ăn sushi và xem Godzilla trong suất chiếu muộn tôi vẫn phải nằm lay lắt giường bệnh với cái ống hút phân. Cái ấy ấy, tôi chỉ ra cho , mới là công bằng.

      Sayuri nhận ra rằng đôi co với tôi cũng chẳng ích lợi gì, nhưng vẫn rất dịu dàng. " cảm thấy sợ và tôi có thể hiểu điều đó. Tôi biết khó khăn khi muốn tưởng tượng ra kết cục trong khi thậm chí còn chưa tưởng tượng nổi khởi đầu. Nhưng mọi thứ đều trở nên tốt đẹp thôi. Chỉ cần có thời gian."

      Tôi đốp lại thế này: "Vứt cái vẻ thương hại khỏi mặt , con mụ Nhật lùn."

      Ngày hôm sau Marianne Engel đến bên giường dúi mẩu giấy vào tay tôi. "Học cái này ," , và luyện cho tôi từng chữ cho tới khi tôi thuộc lòng.

      giờ sau, Sayuri Mizumoto vào phòng, đầu ngẩng cao. liếc Marianne Engel cái, rồi nhìn chằm chằm vào tôi. "Các y tá muốn gặp tôi."

      Tôi cố hết sức để cúi đầu chào , dù gập người xuống chẳng dễ dàng gì. Tôi bắt đầu những từ vừa học: "Mizumoto san, konoaidawa hidoi kotoba wo tsukatte hontouni gomennasai. Yurushite kudasai." (Dịch qua thế này Tôi thực xin lỗi vì hôm trước những lời phải với . Xin hãy tha thứ cho tôi.)

      Hiển nhiên tôi chộp được đúng lúc bất ngờ. trả lời. "Tôi chấp nhận lời xin lỗi của . học những từ đấy bằng cách nào vậy?"

      "Đây là... bạn của tôi, Marianne. ấy dạy tôi." Đúng là thế , nhưng điều đó cũng giải thích được tại sao Marianne Engel biết tiếng Nhật. Tôi hỏi, dĩ nhiên, nhưng trong suốt tiếng vừa rồi từ chối trả lời bất cứ câu hỏi nào mà chỉ chăm chăm sửa lỗi phát cho tôi. Tôi cũng biết làm thế nào mà, sau khi đến bệnh viện trong vòng bảy ngày, lại biết tôi sỉ nhục Sayuri. Có lẽ y tá cho , hoặc là bác sĩ Edwards.

      Rất ngẫu nhiên, đây là lần đầu tiên hai người phụ nữ gặp nhau. Marianne Engel bước về phía Sayuri, cúi gập người chào, và ."

      Sayuri mở to mắt ngạc nhiên xen lẫn thích thú và cúi chào lại."

      "Marianne Engel gật đầu."

      " ""Sayuri mỉm cười.""

      ""Marianne Engel lắc đầu tỏ ý tán thành."

      "

      ""

      Marianne Engel cúi đầu lần nữa."

      "

      Sayuri giơ tay lên che miệng, cố nén tiếng khúc khích."

      "

      Sayuri có vẻ rất hài lòng khi thấy hành động thô lỗ hôm trước của tôi tạo nên cuộc gặp gỡ bất ngờ. xin phép ra khỏi phòng với nụ cười tươi tắn môi, cúi chào Marianne Engel lần nữa.

      Marianne Engel ghé sát miệng vào tai tôi, thầm. "Tôi muốn nghe thêm bất cứ câu chuyện nào về việc sỉ nhục Mizumoto nữa. Dùng miệng lưỡi của con quái thú thể làm giảm nỗi đau của được đâu. phải để trái tim mình luôn mở rộng đón nhận thương, và hãy tin tôi. Tôi hứa đưa chúng ta đến tự do nhưng tôi thể làm điều đó mình được."

      rời khỏi giường, kéo chiếc ghế từ góc phòng ra, ngồi phịch xuống, với nét mặt mệt mỏi của người vợ thất vọng trước kém cỏi của chồng. Bài diễn văn ngắn kỳ dị của làm tôi cất tiếng hỏi câu tôi luôn muốn nhưng lại quá ngại chưa thể thốt ra: " muốn gì ở tôi?"

      " gì cả," trả lời. "Tôi muốn làm bất cứ cái gì cho tôi cả."

      "Tại sao?" tôi hỏi. "Điều đó nghĩa là gì chứ?"

      "Chỉ bằng việc làm gì cả mới có thể chứng tỏ tình của mình được."

      "Tôi hiểu."

      " hiểu," . "Tôi hứa đấy."

      Với câu này, Marianne Engel kết thúc cuộc chuyện về những gì sắp xảy ra trong tương lai và quyết định quay lại kể câu chuyện quá khứ của mình. Tôi chả tin chút nào - sao tôi có thể chứ? - nhưng ít ra nó cũng khiến tôi cảm thấy tẻ nhạt như cuộc trò chuyện vừa nãy.
      Hyunnie0302Jenny Nguyen thích bài này.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :