1. QUY ĐỊNH BOX TRUYỆN SƯU TẦM :

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]
    ----•Nội dung cần:
    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)
    - Nguồn
    - Tác giả
    - Tên editor +beta
    - Thể loại
    - Số chương
    Đặc biệt chọn canh giữa cho đoạn giới thiệu
    ---- Quy định :
    1. Chỉ đăng những truyện đã có ebook và đã được public trên các trang web khác
    2 . Chỉ nên post truyện đã hoàn đã có eBook.
    3. Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn
    4 . Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Cô Gái Mang Trái Tim Đá - Andrew Davidson (33 chương)

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây (Sưu Tầm)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. Amy's

      Amy's Member

      Bài viết:
      58
      Được thích:
      2
      Chương 31
      Thở ra. Hít vào. Tôi tập trung vào nhịp thở của mình. điềm tĩnh. tập trung. Nhắm. Trấn tĩnh nào. Tôi gọi tên mục tiêu. "Tim."

      Tôi biết mình tưởng tượng mũi tên trông như thế nào khi nó bay khỏi tôi. Tôi ngạc nhiên khi thấy mắt mình thực tập trung vào mục tiêu ở phía cuối mũi tên chứ phải vào bản thân mũi tên.

      Xuyên qua cơn bão, mũi tên của tôi bay vút như thể nó được sợi dây thép dẫn đường, chút xao động. Tất cả mọi người đều biết câu chuyện cung thủ bậc thầy có thể chẻ đôi mũi tên cắm giữa hồng tâm. Đó là cách mũi tên của tôi xuyên vào ngực , chính cái điểm bị tên bắn trước đây. Lần đầu tiên khi bị bắn, cuốn sách của Dante làm chậm tốc độ của mũi tên để cứu mạng được mang đến với tôi. Lần thứ hai này mũi tên chẳng gặp phải vật cản gì, và bị mang khỏi tôi.

      Đầu ngật ra sau vì áp lực của mũi tên và miệng thở hắt ra hơi thở cuối cùng với ngạc nhiên tột độ. Cằm nẩy lên ngực hai lần trước khi đầu rủ xuống thân thể còn sức sống. gục xuống khỏi hai bàn tay bị đóng đinh, và bức tường nhà huynh trưởng Heinrich cứ tiếp tục bốc cháy xung quanh . Mũi tên của tôi giúp phải chịu thêm bất cứ đau đớn nào nữa, và vì điều này, qua làn nước mắt, tôi thầm cảm tạ Chúa.

      Bọn lính đánh thuê gào rú lên hiểu vì sao và Kuonrat đòi được biết kẻ nào cẩu thả đến mức, hoặc ngu đến mức, bắn mũi tên chết người trái với nghiêm lệnh của . Mặt tím ngoét đến nỗi trong những tên lính của tỏ lòng thương hại.

      Lẽ ra tôi nên cảm tạ Chúa vào lúc khác và dành thời gian để chạy trốn. Khi xem xét mũi tên, chúng nhanh chóng nhận ra nó đến từ bất cứ cây cung của tên lính nào, và góc tên cho thấy nó được bắn ra từ đỉnh đồi. đội được cử lên, và bọn lính ngay lập tức tiến dần đến chỗ núp của tôi. Chúng vẫn chưa nhìn thấy tôi, nhưng chúng biết tôi ở đâu.

      Tôi vứt cung tên , vì tôi biết mình bao giờ bắn thêm lần nào nữa. Ngựa của tôi ở gần kề, sườn đồi rất trơn và những cành cây đủ rậm rạp để làm chậm bước chân người. Khi bọn lính lồm còm bò lên đỉnh đồi, tôi có thể tháo dây buộc ngựa và biến ngay trước khi chúng có thể vươn tay ra bắt. Tôi có nhiều lợi thế thời gian so với bọn chúng, nhưng chúng cũng phải mất vài phút mới có thể tụt xuống dốc và trèo lại lên ngựa được. Tôi cũng có lợi thế khác nữa. Tôi quen địa thế vùng này từ khi còn , còn bọn lính lại . Với cơn bão tuyết vẫn tiếp tục gầm rú, tôi nghĩ mình có cơ hội.

      Lẽ ra tôi phải nghĩ chín hơn. Khả năng cưỡi ngựa của bọn chúng thảy đều giỏi hơn tôi rất nhiều, và những con ngựa được cho ăn tốt hơn cũng như được nghỉ dưỡng nhiều hơn. Tôi chưa được quá vài phút bọn chúng đuổi theo gần sát nút. Tôi biết rằng nếu mình cứ tiếp tục chạy như thế, bọn chúng tóm được tôi chỉ trong phút chốc. Con đường dẫn đến ngã ba, với hướng theo ngả an toàn, và hướng còn lại chạy thẳng đến vách đá dựng đứng nhìn xuống sông Pegnitz. Khi còn thi thoảng tôi vẫn dọc theo gờ đá này, nhưng chỉ là những khi tôi cảm thấy đặc biệt liều lĩnh hoặc muốn kiểm tra cái ý tưởng là Chúa thực kế hoạch dành cho tôi.

      Thời điểm tuyệt vọng cần đến giải pháp liều lĩnh, vì thế, dù biết con đường quá hẹp cho ngựa của mình có thể lách qua, tôi vẫn chọn lộ trình bất trắc đó. Con vật cảm nhận được mối nguy hiểm và tôi phải thúc gót chân vào sườn nó để bắt nó từng bước , lẩm nhẩm bài kinh cầu quen thuộc tôi vẫn đọc khi còn . Khi con ngựa bắt đầu lồng lên, tôi lại quát nó để nó tiến lên vài bước. Chẳng được bao lâu chân nó húc phải gốc cây cụt đóng băng và cả tôi lẫn nó cùng loạng choạng ngã sang bên.

      Khi chúng tôi trượt xuống dốc, con ngựa cố bám những móng guốc tuyệt vọng vào đá, nhưng chẳng ăn thua gì. Nó chới với ngã sang bên, hoảng sợ và biết phải làm gì, quăng tôi xuống đất. Khi tôi đầu hàng cú ngã thể tránh khỏi đó, tôi cảm thấy mình hoàn toàn trọng lượng trong giây phút ngắn ngủi. tuyệt vời, như thể tôi trôi trong cân bằng hoàn hảo giữa tuyết và Thiên đường vậy, và tôi thấy mình nhìn thẳng vào mặt con ngựa. Mắt của ngựa thường rất đen và bình lặng - khi tôi còn , các nữ tu từng đùa rằng ngựa là loài có thể nhìn thấu được mọi bí mật của Chúa, thậm chí cả khi nữ tu viện trưởng thể - nhưng giờ đây mắt nó trắng dã vì sợ hãi. Khoảnh khắc đó lướt qua nhanh, và được thay thế bởi vòng xoáy của tuyết và bụi cây khi chúng tôi tiếp tục rơi xuống sâu hơn.

      Khi chúng tôi cuối cùng cũng dừng lăn, phải mất lúc đầu óc tôi mới đủ tỉnh táo để xem xét chúng tôi trượt xuống tuyết như thế nào và tôi bắt đầu hốt hoảng với ý nghĩ biết cú rơi ảnh hưởng gì đến con chúng ta. Khi đứa trẻ đạp vào bụng tôi gần như ngay lập tức, có lẽ tức giận trước tất cả những chuyện vừa xảy ra, tôi coi đó là dấu hiệu chứng tỏ rằng con vẫn còn khỏe và chưa bao giờ cảm thấy hạnh phúc hơn trong cả quãng thời gian gian khổ ấy.

      Bọn lính đuổi theo chúng tôi đến bên bờ vực, chúng đủ khôn ngoan để dừng lại nơi đường còn an toàn. Ít nhất tên trong bọn cũng rút cung ra, trước khi nhận định rằng khoảng cách và cơn bão tuyết thể khiến bắn trúng. như tôi, ràng thiếu niềm tin vào Chúa.

      Những tên lính đánh thuê tìm ra lối khác xuống núi, nhưng tôi biết để làm được thế chúng cũng phải mất đến mười lăm phút. Có lẽ, tôi nghĩ, cú rơi của mình là cú rơi may mắn giúp cuộc đào thoát của tôi được thành công. phấn khích nhất thời của tôi xẹp xuống khi tôi cố nâng con ngựa lên chỉ để thấy cái chân của nó bị bẻ quặt hẳn sang bên. ràng nó chẳng thể được thêm với tôi nữa. Tôi thậm chí còn chẳng có được lựa chọn là giải thoát cho nó bằng cách giết chết nó, vì tôi còn cung tên nữa rồi. Nhưng dù sao tôi cũng thể làm việc đó được. ngày giết chóc thế là quá đủ rồi.

      trước bọn lính mười lăm phút lợi lộc gì trong khi bọn chúng có ngựa còn tôi ? bên là vách đá nơi tôi vừa ngã xuống, và bên còn lại là dòng Pegnitz. Bình thường nước chẳng mấy khi đông hoàn toàn, nhưng thậm chí cả khi mặt sông đóng băng vẫn an toàn với sức nặng của người. Tôi chẳng có cách nào vượt sông, và trèo lại lên vách đá cũng chẳng giúp ích gì. Tất cả những gì tôi có thể làm là chạy dọc theo bờ sông và hy vọng vào những điều tốt đẹp nhất. Nhưng điều này cũng rất lố bịch, bởi vì cuối cùng bọn lính cũng đuổi kịp tôi từ đằng sau. Việc bắt được tôi giờ chỉ còn là vấn đề thời gian.

      Kuonrat cắt đầu Brandeis khỏi người ấy mà thèm suy nghĩ, và vừa cười vừa ra lệnh giết . Tôi biết khi mình bị bắt, như từ trước, phải may mắn mới có thể chết nhanh chóng. Cưỡng hiếp có vẻ là khả năng dễ xảy ra hơn.

      Lớp băng mỏng mặt nước bắt đầu trông có vẻ cứng hơn. Khả năng vượt sông an toàn là rất , nhưng tôi vẫn phải thử. Nếu tôi có thể vượt qua sông bằng cách nào đó, bọn lính thể đuổi theo được. Chúng buộc phải để tôi , bởi vì thậm chí cả tên lính nhất trong bọn chúng cũng có thể dễ dàng làm vỡ mặt băng. Tại sao bọn chúng lại phải mạo hiểm? Bọn lính đánh thuê biết tôi là ai, có chăng chỉ là ả lẳng lơ sống cùng cựu lính, và tôi sống hay chết hại gì đến chúng? Kuonrat chứng minh được quan điểm của , và cái chết của hai kẻ đào ngũ là quá sức tưởng tượng của . hẳn cảm thấy sung sướng lắm rồi.

      Cái túi chứa bức tượng Morgengabe và những cuốn sách của tôi trở thành gánh nặng cần thiết khi vượt sông, nhưng tôi thể chịu đựng được việc phải mất những đồ vật quý giá đến thế. Vì thế tôi giấu cái túi trong hốc đá gần đó, tâm niệm rằng nếu còn sống tôi chắc chắn quay lại lấy nó.

      Tôi bước bước đầu tiên lên mặt băng và nó có vẻ khá cứng, nhưng băng luôn cứng nhất khi ở gần bờ. Ngay phía cuối dòng sông, tôi có thể nhìn thấy những vùng nước mênh mông trông như những tấm chăn đen ngòm trải nền tuyết trắng. Thêm vài bước nữa, và tôi nghe thấy tiếng rắc . Tuyết điên cuồng thổi táp vào mặt tôi, giờ tôi ở cách bờ được khoảng năm mét rồi, liệu chân tôi có còn chạm đáy được nữa hay ?

      Tôi tiếp tục với những bước , lướt chân nọ trước chân kia. Tôi với tốc độ nhanh nhất mà mình dám, nhưng thế vẫn chưa đủ. Tôi nghe tiếng vó ngựa của bọn lính đánh thuê càng lúc càng gần hơn, vì thế tôi bắt bản thân phải nhảy nhanh đến giữa dòng. Càng xa bờ càng an toàn, tôi tự nhủ, và điều quan trọng nhất và duy nhất lúc này là phải tránh xa tầm tên bắn.

      Tôi cảm thấy băng dần nứt ra, từng chút , nhiều hơn lúc trước, và hai cánh tay của tôi theo bản năng lập tức vòng quanh bụng. Tôi ngoái lại nhìn và thấy bọn lính chạy đến bên bờ sông, ở đó chúng tìm ra con ngựa què của tôi. Khi nhìn thấy tôi, bọn chúng giương cung ngắm về phía tôi và tôi nhận ra mình vẫn chưa đủ xa. Vài mũi tên bắn ra nhưng gió rất mạnh nên đều bay tản mất. Tôi biết bọn lính rút kinh nghiệm từ đợt bắn đầu tiên và chỉnh hướng ngắm cho lượt bắn thứ hai. Chẳng mấy nghi ngờ gì là tôi bị bắn trúng.

      Lượt bắn thứ hai chẳng bao giờ tới. Kuonrat ra hiệu lệnh và những tên cung thủ hạ cung xuống. Chuyện lo lãng phí cung tên rất hợp với tính cách ; nghĩ tôi đáng được sống nếu có thể vượt sông ư, tôi cũng nghi ngờ điều đó. Khả năng hợp lý nhất, chỉ khoái làm khán giả cho trò nhìn phụ nữ băng mỏng thôi.

      Cái cách bọn lính đứng khiến tôi hiểu rằng chúng đợi tôi cho tới khi thể được nữa thôi. Biết mình thể quay đầu lại, tôi bước thêm bước về phía bờ xa kia. Băng dưới chân tôi lún xuống và tôi quỳ sụp, quăng cả hai tay ra phía trước để giữ thăng bằng, tôi tự nhủ rằng nếu tôi có thể vượt quá nửa sông, tôi sống, vì đó là nơi băng mỏng nhất. Tôi tự nhủ rằng nếu tôi có thể vượt qua lằn ranh tưởng tượng đó, đứa con chưa ra đời của tôi sống.

      Câu hỏi đặt ra là làm thế nào tốt nhất. Tôi có nên nằm sấp bụng xuống rồi để người mình từ từ trôi ? Ý tưởng này, việc phân đều trọng lượng cơ thể, nghe rất hợp lý. Nhưng rồi tôi băn khoăn, nếu điều này chỉ làm tăng nguy cơ gặp phải chỗ băng mỏng có thể làm toàn bộ băng ở gần đấy sụp xuống theo phản ứng dây chuyền và nuốt chửng lấy toàn bộ người tôi sao - và, dĩ nhiên là thế rồi, tôi cũng dám mạo hiểm để bụng mình phải chịu thêm bất cứ áp lực nào nữa. Cơ thể tôi , nhưng lòng tin của tôi tranh luận rằng tôi nên làm thế. Xét cho cùng, chính hơi thở của Chúa đưa mũi tên của tôi tới chính xác ngực . Liệu hơi thở đó có lướt lưng tôi, đưa tôi ra khỏi hiểm nguy ? Nếu có giây phút nào ta phải nép mình dưới che chở của Chúa chính là lúc này đây.

      Tôi nhìn qua sông tới bờ bên kia, tưởng tượng mình là mũi tên và con đường trước mặt tôi là đường tên bay. Tôi khẽ rướn người lên và cảm thấy băng tan ra dưới chân. Tôi căng chân ra, ấn gót chân xuống băng để tạo càng nhiều ma sát càng tốt. Tôi giơ đầu gối lên và dồn vai về phía trước. Tôi đọc bài kinh ngắn và nhìn về tự do nơi bờ bên kia, tập trung vào nó như mục tiêu của mình vậy. Và rồi tôi thả người ra, hoàn toàn phó mặc bản thân cho Chúa chở che.

      Tôi chỉ tiến được vài bước băng nứt ra và tôi rơi về phía trước như phá cửa sổ xông ra ngoài. Dòng nước lạnh giá thấu tận xương tôi và sức nặng quần áo bị ngấm nước kéo tụt tôi xuống. Ý nghĩ đầu tiên của tôi là đứa trẻ, và hai cánh tay tôi đập loạn xạ, cố bám lấy tất cả mọi thứ vớ được. Tôi nghĩ nếu bám được vào thành hố, tôi có thể trèo lên. Nhưng những tảng băng tôi bám vào cứ thế vỡ ra, và cái hố càng lúc càng rộng ra mỗi lần tôi cố bám lấy nó. Tôi có thể cảm nhận được hơi ấm dần rời xa tôi. Khỏi đứa con của tôi. Sau vài phút đầu óc tôi vẫn bấn loạn, nhưng cơ thể tôi ngừng phản kháng rồi.

      Dòng chảy của sông kéo tôi trôi ra xa. Dù tôi biết mình mới là người di chuyển, nhưng cái hố dường như trôi đầu tôi cho tới khi chẳng còn mặt hố nào nữa, chỉ có tảng băng cứng phía . Chắc nó quá cứng, nhưng khi tôi lấy tay đẩy nó, chẳng có gì xảy ra cả. Chẳng có gì bên dưới để tôi đạp chân lấy đà, chỉ có nước. Hy vọng duy nhất của tôi là nín thở cầu nguyện cho dòng nước cuốn tôi đến chỗ khác.

      Cảm giác khi cơ thể mình hoàn toàn ngừng hoạt động kỳ lạ. Huyết mạch nuôi dưỡng bạn, phục vụ bạn trung thành suốt cả cuộc đời, giờ còn đáp lại mệnh lệnh của tâm hồn bạn nữa. Giống như có ai đó ấn nút ngắt điện vậy. Tôi nhanh chóng nhận ra dù dòng chảy có mở ra cho tôi lối thoát, cũng quá muộn rồi. Tay tôi còn đủ sức để bám vào đâu, và dù có bám vào được, tôi cũng thể nhấc mình ra khỏi dòng nước lạnh giá này nữa rồi.

      Điều đáng sợ nhất là tôi nhận ra mình thể bảo vệ con chúng ta khỏi nguy hiểm nữa. Điều này làm tinh thần tôi hoàn toàn suy sụp. Tôi nhắm mắt lại, bởi vì đây là việc người ta luôn làm khi ở dưới nước và sắp chết. Thân thể tôi cứ thế rơi xuống, và mọi nỗi sợ của tôi đồng loạt biến mất. Khoảnh khắc khi ta chấp nhận từ bỏ mọi thứ đẹp đến nao lòng. Theo cách này dễ dàng hơn, tôi nghĩ vậy và cảm thấy được an ủi chút, trong những giây cuối cùng trước khi tất cả mọi thứ đều chìm vào bóng tối.

      Chuyện xảy ra tiếp theo - tôi có thể cho nghe, nhưng tôi thể giải thích được. thể giải thích được cách chuẩn xác, phải theo cách có thể hiểu được. Bẩm sinh, tôi được ban cho khả năng ngôn ngữ đặc biệt và tôi hoàn thiện nó trong suốt bảy trăm năm, nhưng những từ ngữ có thể dùng để miêu tả chuyện xảy ra ngày hôm đó lại hề tồn tại. tồn tại trong tiếng , tồn tại trong bất kỳ ngôn ngữ nào tôi biết.

      Khi tôi tỉnh lại, có vẻ gì là thức tỉnh cả, vì thực ra tôi có ngủ đâu. Dường như tôi rơi vào trạng thái vô thức, và giờ đây tôi tỉnh táo trở lại. Nhưng phải tỉnh táo mà chúng ta dùng để hiểu thế giới xung quanh: nó là thứ vĩ đại hơn, thứ rộng vô biên và sâu vô độ. Tôi vẫn còn ở dưới mặt băng, vẫn bị dòng Pegnitz cuốn , nhưng cùng lúc ấy tôi cũng ở trong làn nước của chính dòng sông ấy. Tôi ở trong dòng nước của cả thế giới, của cả vũ trụ, nhưng thậm chí tôi "ở" trong nước cũng đúng bằng cách tôi là phần của nó. Tôi tan vào dòng nước; tôi biến thành chất lỏng rồi.

      Khi người ta chết và có thể quay trở lại bằng cách nào đó, họ luôn luôn về tia sáng cuối đường hầm. Đây phải chuyện tôi trải nghiệm. Có ánh sáng nhưng đó phải là đường hầm, ánh sáng ở khắp xung quanh người tôi. Những luồng sáng phản quang nâng đỡ tôi, giúp tôi nổi lên mặc dù chẳng hề có đáy biển để tôi phải thoát ra. Nó ở trong tôi và xuyên qua tôi; tôi là nước và tôi là ánh sáng. Tôi có cảm giác mình là luồng sáng lỏng trôi , quầng sáng bình thản có sức nóng cũng chẳng lạnh lẽo. Tôi còn chút cảm giác nào về cơ thể của chính mình nữa.

      Thời gian tồn tại khi cơ thể còn tồn tại, bởi vì chỉ có cơ thể mới thực có ý niệm về thời gian. Chúng ta hiếm khi để ý đến cảm giác bẩm sinh của bản thân về thời gian cho tới khi nó bị lấy . Đó là lý do những người bị bệnh mất trí bấn loạn đến thế khi họ nhận ra tình trạng mình mắc phải. phải vì họ mất ký ức - tất cả chúng ta đều cùng mất ký ức; đó là bởi vì họ mất thời gian.

      Tôi bắt đầu nhận thấy những diện. thể gọi đó là những bóng ma hay linh hồn, bởi vì chúng thậm chí còn có được hình dạng đó nữa. Chúng tồn tại chỉ bởi vì tôi cảm nhận được chúng. Nhưng cảm nhận lần nữa lại phải từ chính xác, bởi vì làm sao tôi có thể cảm nhận được thứ có thực thể? Như ánh sáng và nước, chúng đều ở trong tôi. Tôi có thể cảm thấy chúng rệt đến mức tôi biết rằng chúng chỉ ở trong tôi, mà chúng luôn ở đó từ trước rồi. Tôi luôn lờ chúng , trong cả cuộc đời mình, như cách tự vệ. Việc đó giống như lắng nghe cuộc chuyện - thể tập trung vào từ ngữ được ra nếu cũng dỏng tai nghe tiếng đồng hồ tích tắc trong phòng và tiếng ô tô ngoài cửa, tiếng bước chân cuối hành lang cùng tiếng thở của người đàn ông ngồi bên cạnh người phụ nữ nhấp từng ngụm trà. thể làm tất cả những việc này cùng lúc, vì thế chỉ có thể tập trung vào lời của người thôi. Đó là cách con người giải quyết với tất cả những giọng vô tận họ có thể đón nhận. nghe những suy nghĩ của chính mình, và đóng những suy nghĩ khác lại.

      Nhưng giờ đây tôi có thể thấu hiểu được tất cả những giọng bên trong tôi. Tôi có thể nghe được mọi diện đó, và chúng nghe như tiếng của những vòng tròn bằng vàng vậy. Tôi có thể nếm được chúng, và chúng có vị như an ủi. Chúng chạm vào tôi, và va chạm có cảm giác như nhạc.

      Thấy ? Tôi ước gì mình có thể diễn tả được nó, nhưng tôi thể. Nó thể diễn tả được. Người nào nghĩ rằng có thể miêu tả được Chúa Vĩnh Hằng người đó chưa bao giờ thực trải nghiệm điều đó cả.

      Ba vật tách khỏi ra khỏi vật chủ và tiến về phía trước. Dù họ có hình thù thực , tôi vẫn có thể nhận ra họ từng là ai, dù trong đời tôi mới chỉ gặp trong số họ, cha Sunder. Người thứ hai là Meister Eckhart và người thứ ba là Mechthild von Magdeburg.

      Tôi biết đây phải trò lừa bịp mà là món quà đáng được trân trọng. Nó tự nhiên, thậm chí còn làm tôi cảm thấy rất thanh thản, khi cha Sunder rằng ông rất vui được gặp lại tôi. từ ngữ nào ra; dường như tôi có thể cảm nhận được những suy nghĩ của ông quyện vào tôi. Meister Eckhart và xơ Mechthild von Magdeburg cũng giao tiếp với tôi cùng bằng cách ấy. Cuộc "trò chuyện" của chúng tôi là tấm kính vạn hoa với những rung động rực rỡ.

      Họ đến đó để mang tôi , họ giải thích như vậy, bởi vì tôi vẫn chưa sẵn sàng. Tôi chưa thực chết và vẫn còn nhiều việc phải làm. Họ giúp tôi đạt đến cái ngưỡng khi tôi sẵn sàng chết, và để thực mục tiêu đó, họ được chỉ định làm những Chủ Nhân của tôi.

      Tại sao con lại bị đưa xuống Địa ngục? tôi giao tiếp với họ. Con giết người đàn ông con nhất.

      Mọi việc diễn ra như vậy. Tội của Eve là ăn trái cấm, và vì điều này ấy bị trừng phạt bằng Sa ngã của Nhân loại. Với tội ác của đời con, phải cần đến chuộc tội nào?

      Con được phép quyết định điều này.

      Nhưng đó là việc con phải làm. Con đường con chọn đưa con ra khỏi Cuộc đời của Chúa và đặt con vào bàn tay Thần Chết. Con có sám hối ?

      . Thậm chí trước diện của Chúa Vĩnh Hằng, tôi vẫn có thể nhớ được khoảng thời gian tôi sống với . Đúng là con phản lại lời thề nữ tu của mình, phản lại nữ tu viện trưởng và Chúa Tối cao khi làm chuyện đó, nhưng con chưa bao giờ phản bội bản thân. Con vẫn luôn trung thực với trái tim mình, và con bao giờ hối cải vì tình của mình. Đó là điều tuyệt vời nhất con từng làm.

      Ba Vị Chủ Nhân của tôi hiểu rằng tôi vẫn giữ vững tình mình dành cho , dù cận kề cái chết. Chắc chắn họ thấy điều này trước đây, và chắc chắn họ thấy điều này lần nữa.

      Trái tim của con luôn tự chủ, món quà tuyệt diệu nhất và cũng đáng nguyền rủa nhất của con. Vì vậy con phải sám hối bằng chính trái tim của mình.

      Cứ để vậy .

      Con học được cách trao trọn vẹn trái tim của mình cho người đặc biệt, nhưng con vẫn chưa học được cách chia sẻ trái tim vượt cái tôi của mình và người khác.

      Con thừa nhận đây là .

      Con quay trở lại thế giới của mình, và ngực của con ngập tràn hàng ngàn trái tim mới. Con phải trao chúng , cho tới khi chỉ còn lại .

      Làm sao con có thể làm được điều này?

      Những trái tim này phải được lấy ra khỏi ngực con và chết thay con, trong khi đó chúng tìm sống ở những người khác. Làm thế con mới có thể vượt được bản ngã trần tục và sẵn sàng đến với Chúa.

      Con biết cách.

      Con học.

      Vậy khi nào con chỉ còn lại trái tim cuối cùng?

      Trái tim đó con thể tự trao được. Trái tim cuối cùng phải được trao cho người của con. ta phải nhận lấy nó, nhưng ta cũng được giữ nó. ta phải thả nó , để giải phóng cho con. Chỉ bằng cách này con mới có thể đến được bên Chúa.

      Con hiểu được tại sao người của con lại liên quan đến chuyện này.

      Người của con hiểu được.

      Đây là lúc mọi thứ kết thúc. Tôi bị kéo ra khỏi Chúa Thánh Thần, nước và ánh sáng ngừng chảy xuyên qua tôi, và tôi bị ném thẳng lại vào dòng nước lạnh giá tối đen của sông Pegnitz.

      Khi tỉnh lại, tôi thấy mình nằm ngửa và thể mở nổi mắt ra được. Mắt tôi bị băng bao kín và phải mất năm phút nỗ lực hết mình tôi mới có thể chớp chớp mắt được. Khi đó là sáng sớm và cơn bão tan. Tôi cố cất tiếng nhưng thể phát ra được thanh nào, vì toàn thân tôi đều bất động. Thân thể tôi lạnh chưa từng thấy.

      Tôi bắt đầu rung lắc các ngón chân và ngón tay, cho tới khi tôi có thể bắt toàn bộ các chi hoạt động. Tôi cố đứng dậy, loạng choạng. Tôi ở phía sau cái lán nào đó, và cách tôi độ trăm mét là trang trại . Tôi lật đật chạy về phía đó, loạng choạng chỉ vì hai chân đông cứng mà còn vì quần áo cũng cứng hết vì băng. Khói cuộn lên từ ống khói và tôi biết mình có thể được đến nơi nếu ấm áp đầy hứa hẹn kia . Tôi gõ cửa vài lần cho tới khi bà lão nông dân mở cửa và mắt ấy trợn trừng vì hoảng sợ khi nhìn thấy tôi. Đối với bà, tôi ràng là thây ma đến nhà.

      Khi nhận ra tôi vẫn chưa chết, bà gọi chồng mình và bắt đầu cởi chỗ quần áo đông cứng của tôi ra. Ông cho tôi ăn xúp, trong khi bà quấn tôi trong hàng đống chăn và xoa bóp chân tay tôi để giúp máu dễ tuần hoàn. Khi tôi hồi phục được kha khá, chúng tôi bắt đầu lắp ghép các mảnh kiện xảy ra. Tôi bị cuốn vài dặm sông và kẹt lại tại vùng nước chưa bị đóng băng. Tình cờ người nông dân già qua và kéo tôi lên. Hai mắt tôi mở trừng trừng, tóc tôi cứng đơ dựng ngược cả lên, và thân thể tôi có lấy dấu hiệu sống nào.

      Người nông dân nghĩ rằng tất cả mọi người đều xứng đáng được an táng tử tế, và đó là lý do ông kéo tôi ra khỏi dòng sông. Mặt đất quá cứng để có thể xới ra làm mộ được, thế là với quá ít lựa chọn, ông quyết định để tôi lại phía sau cái lán nhà họ và chôn tôi chỗ gần suối. Ông thể mang xác chết vào nhà mình, dĩ nhiên rồi, nhưng vì lý do thực tế hơn là mê tín. Xác tôi rồi phân hủy và bốc mùi. Chúng tôi đoán, tất cả mọi người đều nghĩ vậy, chắc do nước quá lạnh nên tôi trông như chết rồi. Những chuyện như thế vẫn thường xảy ra; có rất nhiều câu chuyện kể về những người bị chìm trong nước và mãi sau khi ai cũng tưởng họ chết rồi họ đột ngột sống lại.

      Tôi ở lại với họ vài ngày, nhưng bao giờ cho họ biết tại sao tôi lại ngã xuống sông. Tôi chỉ với họ rằng tôi dạo băng vỡ ra dưới chân tôi. Chẳng việc gì phải kể lại câu chuyện về Engelthal, hay về những tên lính đánh thuê, hay về Ba Vị Chủ Nhân của tôi. Chỉ riêng việc tôi còn sống sót khó tin lắm rồi.

      Khi tôi đủ khỏe để có thể tiếp, tôi trở lại bờ sông Pegnitz để lấy cái túi giấu kín của mình, và rồi đến Mainz. Tôi còn đâu được nữa chứ? Tôi chuyển vào sống trong khu nhà của người Beguine và sống đời mặc niệm và cầu nguyện. Tôi phần nào trở lại với cuộc sống trước khi gặp , nhưng tôi bị thay đổi bởi tình của sâu đậm đến nỗi thể trở lại làm con người cũ được. Tôi làm sách nữa, dù vào thời điểm ấy tôi hoàn thành bản dịch cuốn Địa ngục. Lý do tôi làm việc đó rất ích kỷ - phải vì tôi nghĩ mình sáng tạo tác phẩm có thể trường tồn cùng thời gian, mà vì dịch nó làm tôi cảm thấy được gần hơn.

      Đoạn kết câu chuyện của tôi quan trọng. Những năm tháng cuộc đời tôi được dành để trao tặng những trái tim nhưng tôi bao giờ nghĩ rằng mình có thể ngừng sám hối cho tới gần đây, bởi vì tôi luôn biết rằng thể trao trái tim cuối cùng của mình cho tới khi chúng ta lại gặp nhau.

    2. Amy's

      Amy's Member

      Bài viết:
      58
      Được thích:
      2
      Chương 32
      Bao la và đen thẳm, đại dương trải dài từ bờ cát cho tới khi đường chân trời của nó biến mất vào màn đêm. Tôi với giọng nhàng hết mức. "Tôi biết tin câu chuyện đó là có , nhưng phải vậy đâu."

      nhìn xuống bãi cát. Hơi thở của nghẹn lại trong cổ họng, rồi bật ra để lời thú tội. "Con của chúng ta sống được."

      nhìn lên, về phía đại dương xa xăm, và rồi lại nhìn xuống bãi cát lần nữa.

      "Khi tôi tỉnh lại đứa trẻ ..."

      lấy hai tay che mặt; ràng là dám nhìn tôi.

      " mất rồi," . "Như thể nó chưa bao giờ được thụ thai, như thể bàn tay của Chúa vào trong tử cung của tôi và lấy đứa trẻ như trừng phạt."

      " thể tin chuyện đó được."

      "Tôi cố tin. Tôi muốn tin đó là ân huệ. Rằng đứa trẻ..." Giọng đến nỗi tôi thể nghe ra. "Rằng đứa trẻ chết trong dòng nước lạnh, và Chúa tước nó khỏi tôi để tôi phải đối mặt với khủng khiếp ấy trong thế giới thực."

      "Nếu tin vào Chúa," tôi , cố kiềm chế thôi thúc tự nhiên muốn thêm rằng tôi chẳng tin gì hết, " cũng nên tin vào độ lượng của Người."

      "Tôi vẫn luôn muốn tin rằng đó là ân huệ," cứ nức nở. "Nếu đó là trừng phạt, quá khủng khiếp."

      "Con của chúng ta sống được," nhấn mạnh. "Đây phải chuyện ta có thể quên được, dù có sống lâu đến đâu chăng nữa."

      Tôi biết nên tiếp tục thuyết phục rằng đó chỉ do tưởng tượng ra. Đây lại là cuộc tranh cãi nữa mà tôi thể thắng.

      ràng khi tiếp tục, chuyện với tôi mà với chính mình, "Đó là ân huệ, hẳn thế. Hẳn thế."

      Vì tôi thể thuyết phục rằng đứa con thời Trung cổ của hề tồn tại, tôi quyết định tập trung về cuộc sống tại của chúng tôi.

      " chết đâu, Marianne. Chẳng có Ba Vị Chủ Nhân nào cả."

      "Tất cả trái tim của tôi đều mất rồi."

      "Cảm nhận cái này ." Tôi cầm lấy tay Marianne và áp lên ngực . "Tim vẫn đập đấy thôi."

      "Chỉ bây giờ thôi. Chuyện gì xảy ra tiếp theo là phụ thuộc ở ." lại phóng tầm mắt về phía đại dương lúc rồi cuối cùng bắt đầu huýt sáo, dù những người ở gần nhất cũng cách bãi biển hàng trăm mét, " có nhớ điều khi tôi chuẩn bị rời khỏi nhà huynh trưởng Heinrich trước khi bọn lính đánh thuê tới ? hứa rằng tình của chúng ta bao giờ chết."

      Tôi im lặng, muốn khuyến khích , khi tháo sợi dây chuyền gắn đầu mũi tên ra khỏi cổ. "Cái này vẫn luôn luôn là của , và ngày nào đó biết phải làm gì với nó."

      "Tôi muốn có nó," tôi .

      ấn nó vào tay tôi bằng được. "Tôi giữ nó suốt bao lâu nay chỉ để trao nó lại cho . Nó bảo vệ ."

      Tôi có thể thấy để tôi từ chối, vì thế tôi cầm lấy nó. Nhưng nếu làm thế nghĩ tôi tin câu chuyện của , tôi liền , "Marianne, tôi tin cái này được cha Sunder ban phúc đâu."

      ngả đầu vào hõm vai tôi, , " người dối tuyệt vời."

      Và rồi hỏi tôi câu chưa từng hỏi bao giờ.

      " tôi ?"

      Cơ thể chúng tôi tựa vào nhau, ngực chạm ngực. Tôi chắc chắn có thể nghe tiếng tim tôi đập thình thịch. Vết bớt của tôi chạm vào đúng vị trí mà, phía dưới lần áo len, khắc tên tôi lên ngực mình.

      tôi ?

      Tôi chưa bao giờ lớn tiếng thừa nhận bất kỳ cảm xúc nào sâu sắc hơn "quan tâm" dành cho . Tôi biện bạch dù tôi ra cũng biết . Nhưng thực , tôi chỉ là thằng hèn.

      "Có."

      Từ lâu rồi, tôi luôn muốn tự thú.

      "Có. Tôi em."

      đến lúc được làm thất vọng, vì thế tôi vuốt những lọn tóc rối của ra đằng sau và tuôn trào những lời lẽ ở trong trái tim ấm nóng của tôi, giờ trở nên thuần khiết, kể từ giây phút đầu tiên tôi gặp .

      "Tôi dành cả đời mình để đợi em, Marianne, và tôi thậm chí vẫn chưa biết điều đó cho tới khi em đến. Bị bỏng là điều tuyệt vời nhất từng xảy ra với tôi vì nó mang em đến. Tôi muốn chết nhưng em mang đến cho tôi tình vô hạn và tôi thể đáp lại tình của em. Tôi em trước khi tôi kịp nhận ra và giờ đây tôi thể tưởng tuợng nổi mình lại em. Em rằng phải mất rất nhiều công sức mới khiến tôi tin bất cứ điều gì, nhưng tôi thực tin. Tôi tin tình em dành cho tôi là . Tôi tin tình tôi dành cho em là . Tôi tin mọi nhịp đập còn lại của trái tim tôi đều dành cho em, và tôi tin khi đến lúc tôi phải rời bỏ thế giới này, hơi thở của tôi mang tên em. Tôi tin từ cuối cùng tôi ra - Marianne - là tất cả những gì tôi cần để biết rằng cuộc đời tôi rất tốt đẹp, trọn vẹn và đáng sống, và tôi tin tình của chúng ta tồn tại mãi mãi."

      Chúng tôi ôm nhau trong giây lát, rồi đứng dậy và bắt đầu về phía biển. vừa vừa cởi bỏ quần áo người và ánh trăng làm làn da càng thêm trắng mịn. Khi ra đến chỗ nước biển hoàn toàn trần trụi, mờ ảo mà rực rỡ. đứng đó rồi quay người lại để đối diện với tôi trong khoảnh khắc, dưới những vì sao lấp lánh như những giọt sương giá trong cái lạnh cắt da cắt thịt; đứng như thể cố lưu lại hình ảnh của tôi vào trong trí nhớ, hình ảnh tôi đứng nhìn .

      "Thấy chưa?" Marianne . "Chúa thực sống trong ."

      quay lưng lại tôi và bình thản lội xuống nước. Dòng nước ngập lên chân rồi lưng , nhanh chóng phủ lên đôi cánh thiên thần xăm làn da trắng như trứng gà bóc của . rướn người về phía trước và bắt đầu sải cánh tay bơi vào đại dương bao la, mái tóc đen rối của cuốn về phía sau.

      Tôi chẳng làm gì mà chỉ đứng nhìn rời khỏi tôi cho tới khi cuối cùng dòng nước cũng nuốt chửng đôi vai xanh xao của .

      Sau chừng mười lăm phút Bougatsa bắt đầu kêu gào thảm thiết và giận dữ chạy quanh, khẩn nài cầu tôi làm gì đó. Nhưng tôi cứ đứng đó. Thế là nó chạy về phía những con sóng triều, sẵn sàng nhảy xuống bơi, cho tới khi tôi gọi nó lại. Tôi biết nước rất lạnh và mọi thứ quá muộn rồi. Nó tin và nghe lời tôi nhưng vẫn cứ ư ử dưới chân tôi. Tuy thế, đôi mắt nó vẫn ánh lên vẻ hy vọng. Như thể nó tin rằng chỉ cần nó đợi đủ lâu, cuối cùng cũng quay trở lại với chúng tôi, từ đại dương.

    3. Amy's

      Amy's Member

      Bài viết:
      58
      Được thích:
      2
      Chương 33
      Tất cả mọi người đều nhận xét rằng Sayuri trông cực kỳ xinh đẹp trong bộ váy cưới. Mẹ , bà Ayako, đứng ở hàng đầu, nức nở trong niềm hạnh phúc còn cha , ngài Toshiaki, cứ giơ tay liên hồi để che cái môi run lên vì sung sướng của mình. Khi Gregor đeo nhẫn cưới vào ngón tay , Sayuri nở nụ cười rực rỡ nhất từ trước đến nay.

      Đám cưới được tổ chức vào tháng Tám, trong khu vườn dưới nền trời xanh trong gợn bóng mây. May là có gió ; bộ lễ phục tuxedo của tôi để cho da tôi được thở thoải mái cho lắm. Những sắp xếp đặc biệt được tiến hành để bảo đảm rằng phù rể, là tôi đây, đứng được dưới gốc cây du lớn trong suốt lễ kết hôn; đó là trong rất nhiều hành động tử tế mà đôi dâu chú rể dành cho tôi. Dù chúng tôi trở nên vô cùng thân thiết, tôi vẫn rất bất ngờ khi họ mời tôi đến dự, nhưng cả Sayuri lẫn Gregor chẳng thèm bận tâm đến việc có con quái vật xuất trong ảnh cưới của họ.

      Theo đúng lễ nghi, cặp với tôi phù dâu đứng đối diện, nhưng thực tế, người cùng tôi lại là Jack Meredith. Bà hầu như khiến tôi phải xấu hổ, dù nốc hàng lít rượu Scotch trong suốt buổi tiếp khách. ràng chuyện bà cùng tôi chẳng có tí lãng mạn nào, nhưng chúng tôi dành khá nhiều thời gian ở cùng nhau trong những tháng trước. Ở mức độ nào đó, bà nhận ra rằng thực có thể chịu nổi tôi. Mối quan hệ giữa tôi với bà gần như là tình bạn, dù ra tôi vẫn chưa đạt được tới mức ấy.

      Tôi tặng cho Sayuri và Gregor bức tượng Morgengabe. Họ bối rối nhìn nó, hiểu bức tượng kỳ lạ này có ý nghĩa gì, và hỏi liệu có phải Marianne Engel tạc nó . Tôi chẳng cố thanh minh, rằng thực ra chính tôi mới là người tạc nó; tôi cũng chẳng cố giải thích, rằng bất chấp tuổi thọ và dãi dầu sương gió, nó là món quà đẹp nhất tôi có thể trao cho họ.

      Ở buổi tiếp đón, Sayuri cho phép mình uống chút rượu sâm banh nào, vì bắt đầu có dấu hiệu có bầu rồi. có chút thảo luận nho về việc lễ cưới nên diễn ra trước hay sau khi sinh em bé, nhưng Gregor thuộc dạng đàn ông hơi cổ hủ. Ông muốn con mình phải được coi là "đứa con hợp pháp", thế là ông và Sayuri bay tới Nhật, thuê phiên dịch truyền đạt những dự định tốt đẹp của mình đến cho ngài Toshiaki. Sayuri có thể tự làm việc này nhưng Gregor muốn dịch cho cha mình mong muốn được kết hôn với . Khi ngài Toshiaki chấp thuận cho đôi trẻ, bà Ayako òa khóc và vừa cúi đầu vừa xin lỗi - mặc dù vì lý do gì Gregor cũng chẳng hiểu lắm. Sau khi bà Ayako lau khô nước mắt, tất cả mọi người cùng ngồi uống trà trong khu vườn phía sau nhà.

      Cha mẹ của Sayuri dường như chẳng hề phiền muộn về chuyện phải sống ở nước ngoài và cưới người ngoại quốc, cũng như chẳng bận tâm chuyện quá tuổi bánh Giáng sinh tươi ngon từ lâu. (Thực tế là, bà Ayako chỉ ra, vì càng ngày càng có nhiều phụ nữ Nhật Bản lấy chồng muộn, tuổi ế chồng giờ còn là hai lăm nữa. Những phụ nữ độc thân tới tuổi ba mốt giờ đây được gọi là mì đêm Giao thừa rồi.) Chuyện duy nhất cha mẹ Sayuri vừa lòng ở đám cưới này, chút xíu thôi, là việc quyết định lấy họ nhà chồng. Họ thầm than thở với nhau là "Sayuri Hnatiuk" nghe chẳng vần gì cả, và dù cố hết sức, họ cũng thể phát chuẩn được.

      Vào cuối ngày tôi cũng có cơ hội chuyện với bà Mizumoto vài phút, với Sayuri làm phiên dịch, Sayuri với bà về chuyện Marianne Engel mất vào mùa xuân, và bà Ayako gửi đến tôi lời chia buồn sâu sắc nhất. Khi cám ơn bà vì điều đó, tôi có thể thấy bà khá sốc trước cái giọng gầm gừ của tôi nhưng vì lịch để tâm. Thay vì thế, bà nở nụ cười tươi, và ngay trong giây phút đó, tôi hiểu Sayuri học cái phong thái thường ngày của ở đâu. Chúng tôi chuyện vui vẻ với nhau trong vài phút và tôi đảm bảo với bà Ayako rằng con bà chắc chắn cuộc hôn nhân hạnh phúc mặc dù Gregor, ngay cả khi mặc bộ tuxedo lịch lãm, trông vẫn cực kỳ giống con sóc chuột. Sayuri húc khuỷu tay mình vào cánh tay tôi vì dám thế nhưng hiển nhiên vẫn dịch cho mẹ mình từng từ . Mẹ gật đầu lia lịa, tỏ vẻ rất đồng tình: "So,so,so,so,so,so,so!" Trong suốt lúc ấy bà cứ lấy tay che miệng, như thể cố nén cười.

      Khi câu chuyện của chúng tôi sắp đến hồi kết thúc, bà Mizumoto cúi đầu chia buồn lần cuối. Khi ngẩng đầu lên, bà nở nụ cười đầy hy vọng, đặt tay mình lên bụng của Sayuri, và ,"Rinne tenshou."

      Sayuri khá vất vả khi phải dịch câu này, gợi ý câu này có thể hiểu là "Tất cả mọi thứ đều quay trở lại" hoặc "Cuộc sống luôn luôn lặp lại." Sayuri thêm đây là kiểu quen thuộc của các bà già Nhật Bản khi họ nghĩ mình hiểu tư tưởng đạo Phật hơn thực tế. Tôi có thể đoán, từ cái nhìn khó chịu bà ném cho con , rằng bà Ayako hiểu nhiều tiếng hơn những gì bà thể .

      Nhưng khi quay lưng , hai người họ ôm chặt lấy nhau. Bà Ayako có vẻ nhanh chóng tha thứ cho con về câu nhận xét về các bà già Nhật Bản, và Sayuri cũng mau mắn tha thứ cho mẹ mình về chuyện cười trước cái hình ảnh sóc chuột của Gregor.

      Sau khi Marianne Engel biến mất, các nhà chức trách tìm kiếm khắp dọc bờ biển trong suốt ba ngày nhưng chẳng tìm được thi thể nào. Chẳng có gì ngoài những ngọn sóng đơn côi giữa đại dương mênh mông. Vấn đề với biển cả là bạn thể lục tung nó lên được, và như thể là đại dương xóa bỏ hoàn toàn mọi bằng chứng về sống của nhưng lại đưa ra xác nhận nào về việc ch...t hay chưa.

      Marianne Engel có bảo hiểm nhân thọ, nhưng mọi nghi ngờ kiểu gì cũng đổ dồn về tôi. Chẳng trách được: chưa đầy sáu tháng trước khi biến mất, thay đổi chúc thư và điền tên tôi vào chỗ người thừa kế chính. Tình huống này làm các ông cảnh sát hài lòng cho lắm, đặc biệt là việc tôi ở cùng khi biến mất. Họ thẩm vấn tôi liên hồi nhưng cuộc điều tra chỉ ra rằng tôi chẳng hề biết đến tồn tại của bản di chúc ấy, và đám thanh niên ngồi uống bia bờ biển cũng làm chứng rằng việc "gã bỏng" và " nàng xăm mình có mái tóc kỳ cục" ra biển vào ban đêm là chuyện thường. ấy thường bơi, họ xác nhận thế, dù thời tiết có thế nào chăng nữa. Vào cái đêm bất thường ấy, tôi chẳng làm gì ngoài ngồi bãi biển nhìn con chó chạy vòng quanh cả.

      Jack cũng hộ tôi. Lời của bà có trọng lượng đặc biệt vì bà những là người bảo hộ cho Marianne Engel mà còn là người bị tôi thế chân trong bản di chúc. Bất chấp điều này, Jack vẫn tốt về tôi và tuyên bố với cảnh sát rằng bà nghi ngờ gì về tình giữa tôi và Marianne Engel. Dù xác nhận là tôi chẳng biết gì về chuyện thay đổi di chúc, bà cũng thêm, "Tôi nghĩ mình có nhiều thời gian để chuyện phải trái cho Marianne loại chuyện đó ra khỏi đầu. Tôi hề nghĩ ấy lại ch...t sớm như vậy."

      Jack Meredith có thể những từ mà tôi thể viết ra. Những từ như là ch...t. Những từ như là tự tưưử. Những từ ngữ đó làm tôi trở nên hèn nhát. Viết chúng ra chỉ khiến thêm ràng.

      Công việc giấy tờ pháp lý kéo dài gần hết mùa hè, nhưng thực tế tôi chẳng bận tâm chút nào. Tôi chẳng quan tâm việc cảnh sát quyết định gì về trách nhiệm của tôi trong việc Marianne Engel biến mất và tôi cũng đoái hoài mấy ông luật sư gì về bản di chúc. Cuối cùng, Jack phải thuê luật sư đứng ra hộ tôi, bởi vì nếu được tư vấn, tôi lại ký tất cả những giấy tờ bày ra trước mặt mình, y như hồi tôi ở trong bệnh viện khi hay tin công ty sản xuất phim của mình phá sản.

      Marianne Engel để lại gần như tất cả cho tôi, bao gồm ngôi nhà và mọi thứ bên trong. Thậm chí cả Bougatsa. Jack, dù dành bao năm tháng giúp Marianne Engel quản lý công việc kinh doanh, chỉ nhận được những bức tượng ở sẵn trong phòng triển lãm của bà.

      Trong bộ sưu tập hộp giày cất phía sau cái tủ quần áo, tôi tìm thấy những sổ tài khoản ngân hàng cất hàng trăm nghìn đô la, giờ thuộc về tôi. Marianne Engel hoàn toàn nợ nần gì hết, có lẽ vì cơ quan hành chính nào dám mạo hiểm cho nợ cả. Tôi cũng phát ra loạt hóa đơn tiết lộ về căn phòng riêng trong bệnh viện của tôi. Đó phải, như Nan lúc ấy, là " ngẫu nhiên may mắn" khi có phòng trống và bà sử dụng nó để nghiên cứu tỷ lệ hồi phục của những bệnh nhân được ở phòng riêng so với những những bệnh nhân ở phòng chung. Và cũng phải, như tôi đoán hồi đó, là tôi bị tống vào phòng riêng chủ yếu để Nan có thể tách Marianne Engel ra khỏi những bệnh nhân khác. là Marianne Engel trả tiền thuê cái phòng trống đó để có thể kể chuyện cho tôi nghe mà bị quấy rầy. chỉ với tôi mà thôi.

      thứ gì tôi được thừa kế thực thuộc về tôi cho tới vài năm nữa, bởi vì người ta chưa tìm được thi thể của . Chỉ sau khoảng thời gian thích hợp "giấy chứng t... giả định" mới được cấp cho Marianne Engel, và cho đến khi đó mọi tài sản của được giao cho người thứ ba trông coi. May mắn thay, tòa quyết định tôi có thể tiếp tục sống tại pháo đài vì nó vốn là nơi cư trú chính của tôi khi mất tích rồi.

      Những tờ báo địa phương, và thậm chí cả vài tờ quốc tế, đăng những bài ngắn về biến mất của nữ nghệ nhân tạc tượng có vấn đề thần kinh nhưng lại cực kỳ tài năng. "Được xem là ch...t," họ đều vậy. Vì chẳng có gì giúp nghệ sĩ nổi danh hơn là kết cục bi thảm, Jack bán được những bức tượng còn lại trong phòng triển lãm với tốc độ kỷ lục. Dù phá luật, tôi vẫn đưa cho Jack hầu hết chỗ tượng còn lại ở pháo đài. (Tôi chỉ giữ lại bức tượng của chính mình, và vài bức tượng tôi thích.) Luật sư của tôi khuyên tôi nên làm thế, nhưng các ông cảnh sát có vẻ hề theo dõi mọi hoạt động của tôi. Những chiếc xe tải vẫn luôn đến và , vì thế chẳng có ai trong vùng để ý gì đến việc có thêm vài bức tượng nữa được chở cả. Khi Jack mang séc đến trả, trừ phần tiền hoa hồng của mình, tôi ấn chỗ tiền lại vào tay bà.

      Bà xứng đáng có nó hơn tôi. Và dù tài khoản ngân hàng bị đóng băng, tôi vẫn có đủ tiền để sống.

      Marianne Engel, dù rất hay nghĩ lung tung, thấy trước khả năng có thể mình luôn ở bên để trả các hóa đơn cho tôi. Sau khi mất tích, tôi tìm thấy phong bì gửi cho tôi, chứa chiếc chìa khóa mở két an toàn sắp xếp để tôi có thể rút tiền được. Khi tôi mở két, tôi phát ra rằng nó chứa nhiều hơn cả số tiền cần thiết để trang trải cho các nhu cầu của tôi cho tới khi chúc thư có hiệu lực.

      Có hai thứ nữa ở trong két.

      Rốt cuộc cảnh sát cũng đến kết luận rằng tôi liên quan gì đến việc Marianne Engel biến mất. Nhưng họ sai rồi.

      Tôi giết Marianne Engel. Tôi giết ràng như cầm khẩu súng hoặc đổ lọ thuốc độc vậy.

      Khi về phía biển, tôi biết định bơi. Tôi biết quay trở lại, và tôi giả vờ nữa. Tuy thế, tôi làm gì cả.

      Tôi làm gì cả, như từng cầu tôi làm thế, để chứng tỏ tình của mình.

      Tôi có thể cứu chỉ bằng vài lời . Nếu tôi bảo đừng bước xuống nước, thực kế hoạch của mình. Tôi biết thế. phải quay lại với tôi, bởi vì Ba Vị Chủ Nhân của rằng tôi cần phải chấp nhận trái tim của nhưng rồi giải phóng cho nó, để giải thoát cho . Mọi nỗ lực ngăn cản cấu thành lời từ chối để giải phóng , vì thế tất cả những gì tôi phải là "Marianne, quay lại ."

      Tôi làm thế, và giờ đây tôi suy sụp khi nhận ra rằng tôi ba từ đơn giản có thể cứu mạng . Tôi suy sụp vì biết rằng tôi cố đưa tới tòa để bắt nhập viện, rằng tôi cố hết sức cho thuốc vào thức ăn của , rằng tôi còng vào giường mỗi khi việc tạc tượng của vượt ra khỏi tầm kiểm soát. Thực có bao nhiêu hành động có thể ngăn khỏi ch...t, tôi làm gì cả.

      Marianne Engel tin rằng giết tôi bảy trăm năm về trước, với mục đích nhân đạo, nhưng đó chỉ là câu chuyện hư cấu mà thôi. thực là tôi giết chính trong kiếp này: phải vì lòng nhân đạo, mà vì làm gì cả. Trong khi tin rằng mình tự giải phóng bản thân khỏi ràng buộc trói chặt những trái tim ăn năn hối cải của mình, tôi tỉnh táo hơn. Tôi bị tâm thần phân liệt. Thế mà tôi vẫn giữ im lặng. Vô dụng. Sát nhân.

      Tôi đối mặt với này vài phút mỗi ngày, nhưng đó là tất cả những gì tôi có thể chịu được. Thỉnh thoảng tôi còn định viết ra giấy trước khi cảm xúc trôi tuột , nhưng bàn tay tôi cứ luôn run lên bần bật trước khi tôi có thể để những con chữ thoát ra. Chẳng mấy chốc tôi lại tiếp tục tự lừa dối, cố gắng thuyết phục bản thân rằng quá khứ của Marianne Engel có chỉ bởi vì quá tin vào nó. Quá khứ của tất cả mọi người, tôi cố lý lẽ, chẳng là gì ngoài bộ sưu tập những ký ức người đó chọn để nhớ. Nhưng tận sâu trong tim mình, tôi biết đó chỉ là cơ chế tự vệ tôi tạo ra để tôi có thể tiếp tục sống.

      Tất cả những gì tôi phải là, "Marianne, quay lại ."

      Từ paleography bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, palais (cổ) và graphia (bản thảo), thế nên chẳng có gì ngạc nhiên khi các nhà nghiên cứu chữ cổ lại nghiên cứu văn bản. Họ phân loại sổ sách bằng việc kiểm tra nét chữ (kích cỡ, độ nghiêng cách đưa bút) và cả chất liệu viết nữa (giấy cói hoặc giấy da, giấy cuộn hoặc giấy khâu, các loại mực.) Những nhà nghiên cứu chữ cổ giỏi có thể xác định được số người làm việc bản thảo, có thể đoán định được kỹ thuật của họ, và thậm chí còn có thể xác định bản thảo đó được làm tại vùng nào. Đối với những văn bản tôn giáo, họ những chỉ ra được tu viện cụ thể nào đó mà thỉnh thoảng còn có thể chỉ ra đích danh người viết nữa.

      Tôi nhanh chóng tìm được hai trong số những nhà nghiên cứu chữ cổ giỏi nhất thế giới: là chuyên gia về các tài liệu thời Trung cổ của Đức và là chuyên gia về các tài liệu thời Trung cổ của Ý. Tôi thuê họ kiểm tra những thứ tôi tìm được, cùng với chỗ tiền, ở trong két an toàn.

      Hai bản Địa ngục đều được viết tay nhưng bởi hai người khác nhau: bản đầu tiên bằng tiếng Ý và bản thứ hai bằng tiếng Đức. Cả hai, trước con mắt chuyên của tôi, đều có hàng trăm năm tuổi.

      Trước khi cho hai nhà nghiên cứu chữ cổ là tôi muốn kiểm tra cái gì, tôi bắt họ ký giấy cam kết tuyệt đối được tiết lộ bất cứ điều gì. Cả hai người đều thấy đề nghị của tôi rất bất bình thường, thậm chí còn nực cười, nhưng đều đồng ý. Tò mò nghề nghiệp, ta có thể đoán vậy. Nhưng khi tôi đưa hai cuốn sách ra, cả hai người đều nhận ra ngay lập tức rằng họ được trao thứ cực kỳ đặc biệt. Người Ý buột câu chửi thề, còn góc miệng người Đức méo xệch . Tôi tỏ vẻ hoàn toàn mù tịt trước nguồn gốc của hai cuốn sách, chẳng gì về việc có được chúng từ đâu cả.

      Bởi vì Địa ngục tạo được tiếng vang ngay lập tức với độc giả, nó là trong những tác phẩm còn lưu lại được nhiều bản nhất từ thế kỷ mười bốn. Nhà nghiên cứu chữ cổ người Ý mấy nghi ngờ phiên bản của tôi là trong những bản ra đời sớm nhất, có lẽ được làm trong thập kỷ cuốn sách được xuất bản lần đầu tiên. Ông ta nài nỉ tôi cho phép mình công bố phát đó với những chuyên gia khác, nhưng tôi từ chối thẳng thừng.

      Chuyên gia Đức nhanh chóng xác định tuổi của bản dịch, phần là vì những kiểm tra ban đầu của ông ta cho những kết quả trái ngược nhau đến khó tin. Đầu tiên, ông ta băn khoăn là tại sao bản thảo được bảo quản tốt thế này lại được ai biết tới trong thời gian lâu như vậy. Thứ hai, có vẻ như người dịch toàn bộ tác phẩm ấy, điều rất bất bình thường với tác phẩm dài như vậy. Thứ ba, ai tạo nên tác phẩm ấy phải là người cực kỳ tài năng. Bản thảo được viết bởi nét chữ rất đẹp, mà bản thân bản dịch cũng tuyệt vời hơn hầu hết, nếu là tất cả, những phiên bản đại. Nhưng điểm thứ tư mới là đánh đố người ta: những thứ có liên quan đến bản thảo - giấy da, mực, nét chữ - đều dẫn đến kết luận là nó được viết tại vùng sông Rhine của Đức, có lẽ sớm nhất là khoảng nửa đầu thế kỷ mười bốn. Nếu điều này là - dù rằng rất khó có thể như thế - bản thảo của tôi tồn tại trước mọi bản dịch Địa ngục bằng tiếng Đức từng được biết tới hàng thế kỷ. "Vậy thấy đấy, tôi hẳn là nhầm lẫn đâu đó." Ông ta run lên. "Hẳn là thế! Trừ phi... trừ phi..."

      Ngài chuyên gia Đức cầu được chiếu xạ lên cả giấy da lẫn mực viết. Khi tôi đồng ý, khuôn mặt ông ta lộ vẻ sung sướng tột đỉnh đến nỗi tôi tưởng ông ta sắp ngất đến nơi."Danke, danke schon, ich danke Ihnen vielmals!"

      Khi quá trình kiểm tra hoàn tất và các trang giấy được xác định niên đại là vào năm 1335, dưới hai mươi năm, tâm trạng của ông người Đức còn phấn khích hơn. "Đây là khám phá vĩ đại hơn tất cả những gì tôi ... tôi ..." Ông ta thậm chí chẳng thể hết câu vì ngất ngây sung sướng; bản dịch ra đời trong khoảng vài chục năm sau bản gốc tiếng Ý. Tôi quyết định nghiên cứu thêm chút nữa cũng chẳng hại gì, và tôi thậm chí còn cho ông người Đức manh mối tìm kiếm tiếp: tôi gợi ý là ông ta có lẽ muốn tập trung điều tra về phòng viết tại Engelthal. Mồm ông người Đức lại méo xệch ra, và ông ta tiếp tục quay lại làm việc.

      Khi liên lạc lại với tôi vài tuần sau đó, ông ta dường như chịu chấp nhận thực tế là mình nghiên cứu vấn đề thể hoàn thành được. Phải, ông ta xác nhận, tác phẩm có rất nhiều dấu hiệu cho thấy nó được viết tại Engelthal. Và phải, bản thảo có rất nhiều minh chứng cho thấy nó được thực bởi người chép sách đặc biệt có những đóng góp ràng vào những năm khoảng từ 1310 cho tới 1325. Thực tế, người chép sách này luôn là với những học giả nghiên cứu tôn giáo và những tượng kỳ bí người Đức: dấu vân tay của ấy có mặt hàng loạt tài liệu quan trọng. Tài năng của ấy vượt xa tất cả những người cùng thời, vậy mà tên ấy chẳng thấy ở đâu cả. bí mật như thế chỉ có thể được giữ kín nếu có hợp sức của cả nữ tu viện trưởng lẫn nữ trưởng phòng viết tại thời điểm đó, nhưng vì Engelthal cũng là tu viện nổi tiếng văn chương, câu hỏi lớn ở đây là: người nữ tu này có gì đặc biệt mà lại bị che phủ bởi màn sương bí mật đến thế?

      Ria mép của ông người Đức dường như nhảy múa khi ông ta tất cả những chuyện này nhưng ông ta cũng thừa nhận là có số điểm mâu thuẫn với giả thiết Engelthal. Chất lượng những tờ giấy da này khác với giấy của những văn bản khác trong tu viện, và mực cũng có vẻ có những thành phần hóa học khác. Thế nên dù người viết có lẽ xuất thân từ Engelthal, ông người Đức giải thích, chất liệu vật chất lại thế. Và - liệu ông ta có cần phải thêm điều này ? - Engelthal hầu như thể liên quan tới tuyệt tác thơ văn của Dante. "Nó phải là thứ mà người ở đó hay làm, nếu hiểu tôi muốn gì. chỉ vì nó được viết bằng tiếng Ý, mà còn vì thời bấy giờ nó còn là thứ cực kỳ báng thánh bổ thần nữa."

      Ông người Đức hỏi, có vẻ khá ngây ngô, rằng liệu tôi có chút "gợi ý" nào cho ông ta nữa ? Hóa ra là có. Tôi gợi ý rằng ông từ giờ nên chuyển hướng chú ý của mình từ Engelthal sang thành phố Mainz, đặc biệt chú ý tới những cuốn sách được xuất bản tư nhân từ khoảng giữa những năm 1320. Người viết ấy, tôi , có lẽ viết sách dưới cái tên là Marianne Engel. Cặp lông mày rậm rì của ông người Đức nhíu lại dưới sức nặng của nguồn thông tin mới này và ông ta nài nỉ được biết tại sao tôi có thể đưa ra những lời chỉ dẫn cụ thể đến thế. Tôi rằng đấy chỉ là linh cảm thôi.

      Ông ta dành gần hết tháng để tìm những bản thảo nằm trong phạm vi tôi đề ra. Ông ta thường xuyên gọi điện, thỉnh thoảng là để cập nhật tiến độ nhưng thường là để phàn nàn về việc hợp đồng tuyệt mật làm chậm mọi việc. " có biết là kiếm những tài liệu đó khó thế nào khi tôi thể được là tôi kiếm chúng để làm gì ? nghĩ là tôi cứ thế mà ra thư viện rồi kiếm sách từ thế kỷ mười bốn à?"

      Tôi có thể thấy rằng ông ta sắp sửa với các đồng nghiệp của mình, dù tôi có đồng ý hay , vì thế tôi tuyên bố là cuộc điều tra của ông ta nay kết thúc. Tôi nghĩ ông ta đấm cho tôi cú vào mặt, nhưng thay vào đó là màn xin xỏ ỉ ôi: "Đây là trong những phát cực kỳ quan trọng của cả ngành nghiên cứu này... kiện ngoài sức tưởng tượng... thay đổi toàn bộ những gì chúng ta nghĩ về lịch sử dịch sách của người Đức..." Khi tôi tiếp tục từ chối, ông ta liền đổi giọng. Ông ta nài nỉ xin được nghiên cứu thêm vài ngày và tôi thề rằng ông ta thậm chí còn nháy mắt với tôi nữa kia. Tôi cũng chối luôn cầu này, biết chắc là ông ta dùng khoảng thời gian đó để làm bản copy chất lượng cao. Khi tôi đòi lấy lại bản thảo của mình ngay giây phút đó, ông ta dọa là công bố tất cả những gì ông ta biết. " bản hợp đồng đầy đủ tính pháp lý cũng chẳng là gì so với món quà tuyệt vời đến thế này cho thế giới văn chương!" Tôi với ông ta rằng tôi rất trân trọng cảm xúc của ông ta; tuy nhiên, tôi vẫn có thể kiện cho ông ta phá sản nếu ông ta dám hé nửa lời. Nghe thấy điều này, ông ta hậm hực rằng lẽ ra Dante phải thêm tầng Địa ngục cho những kẻ "ghét sách" như tôi đây.

      Trong nỗ lực cố làm nguôi ngoai phần nào cái tôi của ông ta, tôi đảm bảo với ông ta rằng nếu có khi nào đó công bố bản dịch tiếng Đức của tác phẩm Địa ngục, tôi công nhận cho cả thế giới biết những nghiên cứu ông ta thực . Thực tế là, tôi mời ông ta xuất bản những nghiên cứu của mình cùng lúc ấy, thế là ông ta hề bị tước quyền công bố những phát mang tính hàn lâm của mình. Và rồi ông người Đức làm tôi cực kỳ ngạc nhiên. "Tôi chẳng quan tâm có cho thêm thông tin gì của tôi vào hay . Phát này quan trọng đến mức thể bị giấu được."

      Cho tới tận hôm nay, tôi vẫn chưa biết phải làm gì với hai cuốn Địa ngục mà Marianne Engel để lại cho tôi. Khi cảm thấy đặc biệt phấn khích, tôi tự nhủ rằng tôi mang bản tiếng Đức cùng xuống mồ, phòng khi tôi có thể gặp được Francesco Corsellini lần nữa để trả lại cuốn sách này cho cha .

      Tôi giữ lại những ngón chân giả nhưng từ chối lắp ngón tay giả; những ngón chân giúp tôi giữ thăng bằng, trong khi những ngón tay chẳng được ích lợi gì. Hơn nữa, với thân thể như của tôi đây, việc dùng những ngón tay giả cũng y như việc thay đèn pha cho cái ô tô nát vậy.

      Vẫn có số thủ thuật tôi có thể thực để cải thiện diện mạo của mình, vài cuộc tiểu phẫu hoặc chỉnh hình thẩm mỹ để là phẳng các mô sẹo gồ ghề nhất của tôi. Phẫu thuật thẩm mỹ giúp tái tạo tai tôi bằng cách dùng sụn xương sườn, hoặc cung cấp tai giả giống tai . Nhưng, cũng như ngón tay giả, tai giả thiếu mất tác dụng thực tế: sụn hoặc tai nhựa đặc biệt thể giúp tôi có lại thính giác như trước kia. lý thuyết chúng giúp tôi trông giống người hơn bằng việc làm tôi trông "bình thường" hơn, nhưng khi tôi thử đeo cái tai giả lên, tôi trông chẳng khác gì Ngài Đầu Khoai Tây cả. Về chuyện phẫu thuật tái tạo dương vật mới, tôi vẫn chưa có ý định thực . Có lẽ ngày nào đó tôi làm, nhưng giờ tôi chịu đủ loại phẫu thuật rồi. Tôi mệt. Thế là gần đây tôi với bác sĩ Edwards, đơn giản là: "Đủ rồi."

      "Tôi hiểu," bà . Và rồi cái nhìn ấy lại lên gương mặt của Nan, cái nhìn tôi quá , cái nhìn bà thể khi cân nhắc lợi hại của việc hay cứ giữ im lặng. Theo thói quen, bà lại chọn . "Có lần hỏi tại sao tôi lại chọn làm việc trong khoa bỏng. Tôi cho xem thứ tôi chưa bao giờ cho bệnh nhân nào khác xem."

      Bà cởi cái áo choàng trắng ra và kéo áo sơ mi lên, để lộ ra vết sẹo lồi to tướng trùm cả nửa phải người bà. "Chuyện xảy ra khi tôi mới có bốn tuổi. Tôi làm đổ ấm nước khỏi bếp. Những vết sẹo của chúng ta làm nên chúng ta ngày hôm nay." Và rồi bà rời phòng làm việc.

      Thế là tôi bị bỏ lại với cái đầu lâu giữa vùng cát bụi của thời đại Tuyệt vọng. Đỉnh đầu tôi trông y như những cánh đồng khô cằn sau trận bão, chất đầy những đống đất bùn bẩn thỉu. Có những mảng màu nhạt, ánh lên sắc đỏ và nâu. Tất cả đều khô khốc và nghèo nàn, như thể làn da đợi hàng năm trời mà mưa vẫn chưa tới. Vài cọng tóc bướng bỉnh rung rung vùng da đầu nhăn nheo sần sùi của tôi, như những cọng cỏ dại cố sống tiếp mà biết rằng định mệnh của chúng là phải chết.

      Khuôn mặt tôi là cánh đồng sau khi những gốc rạ bị đem đốt. Môi của tôi, từng rất đầy đặn, giờ mỏng dính như những con giun chết khô. Biết thuật ngữ y học miệng bất thường cũng chẳng giúp làm môi tôi đỡ xấu xí . Tuy thế, tôi vẫn thích đôi môi này hơn đôi môi tôi từng có trước khi với Marianne Engel là tôi ấy.

      Trước vụ cháy, xương sống của tôi cực kỳ khỏe mạnh; sau vụ cháy, nó được thay thế bởi con rắn. Giờ con rắn biến mất và tôi bắt đầu có lại xương sống của mình, khởi đầu tốt. Chân phải của tôi đầy những cái đinh kim loại và tôi có thể coi chúng là những cái xiềng được rèn từ tàn tích của cái ô tô nát bét của mình. Tôi cân nhắc có nên tiếp tục gặm nhấm tai nạn của mình hay . Tôi làm thế.

      Tôi tập luyện chăm chỉ hơn bất kỳ thời điểm nào trước đây. Vài lần tuần, Sayuri dẫn tôi tới bể bơi trong vùng, hướng dẫn tôi làm loạt bài tập rèn luyện cơ thể. Bản thân nước cũng giúp các cơ khớp của tôi được thư giãn và bớt co cứng. Vào những ngày tôi ra bể bơi, Sayuri dạy tôi tập nhảy ở sân sau. Tôi nghĩ chuyện này làm bất cứ ai đứng nhìn từ phía nhà thờ Romanus phải ngạc nhiên. Họ nghĩ gì về con quái vật cứ nhảy chồm chồm quanh sân, bị lùa bởi người phụ nữ Nhật Bản bé tí tẹo? Thỉnh thoảng cha Shanahan thấy tôi và vẫy tay chào, tôi luôn vẫy tay chào lại. Tôi quyết định ghét ông, bất chấp việc ông là mục sư.

      Sau khi tôi tập luyện xong, Gregor đến đón Sayuri và ba người chúng tôi cùng ngồi uống trà. Tại buổi họp mặt gần đây nhất của chúng tôi, tôi chia sẻ với họ thông tin cuốn sách này sắp được xuất bản. Họ chẳng biết chút gì về việc tôi viết câu chuyện này cả; tôi luôn giữ bí mật, bởi vì tôi chẳng biết làm gì với nó khi nó được xuất bản nữa. Nhưng dù vẫn cất giữ hai cuốn Địa ngục, tôi quyết định đưa quyển sách này ra trước cả thế giới. Tôi vẫn chắc đây có phải quyết định đúng đắn hay - suy nghĩ của tôi về vấn đề này rất hay thay đổi - nhưng cứ giữ yên lặng điều quá đau đớn.

      Những người bạn của tôi đều rất hào hứng trước thông tin đó, mặc dù Sayuri thú thực rằng vẫn chưa đọc tiếng nhanh như muốn. Rồi phấn khích bấu chặt cánh tay chồng như thể vừa nghĩ ra phát kiến vĩ đại nhất trong đời. "Đợi chút! đọc cho em trước khi chúng ta ngủ mỗi tối nhé? Bằng cách đó chúng ta đọc truyện được cùng lúc!"

      Gregor trông khá ngây ngô trước thể tình cảm của Sayuri nhưng tôi bảo đảm với ông rằng đây là ý kiến rất hay, và thêm, "Rồi hai bạn biết thêm vài điều về món quà cưới của mình."

      Tôi chỉ là những vết sẹo.

      Khi trở về nhà sau khi biến mất, sau khi bị cảnh sát thẩm vấn lần đầu tiên, tôi xuống xưởng tạc tượng và đọc những dòng chữ Marianne Engel tạc vào bục bức tượng của tôi.

      Dû bist mỵn, ich bin dỵn:

      des solt dû gewis sỵn;

      dû bist beslozzen in mỵnem herzen,

      verlorn ist daz slüzzelỵn:

      dû muost och immer darinne sỵn.

      "Em là của tôi, tôi là của em: em có thể chắc chắn về chuyện đó. Em bị khóa chặt trong trái tim tôi, chìa khóa bị ném , trong trái tim tôi, em luôn phải ở lại."

      Lebrecht Bachenschwanz dịch bản tiếng Đức đầu tiên được biết tới của Thần khúc (Die gottliche Komodie) trong khoảng năm 1767 đến 1769, và bản dịch Địa ngục của tôi ra đời trước đó ít nhất là bốn trăm năm. Dù đây là điều rất đáng ngạc nhiên, nó cũng hầu như chẳng chứng tỏ được là Marianne Engel dịch cuốn sách đó vào nửa đầu thế kỷ mười bốn; nó chỉ có nghĩa là có ai đó dịch thôi. Nhưng nếu Marianne Engel phải người dịch, làm sao nó có thể nằm trong két an toàn của được? Sao nó có thể tồn tại gần bảy trăm năm mà có bất cứ ghi chép gì về tồn tại ấy? Cũng như với rất nhiều chuyện khác, tôi chẳng biết gì cả.

      Tôi viết về bản dịch tiếng Đức nhiều đến nỗi các bạn hẳn phải nghĩ là bản tiếng Ý chẳng có gì đặc biệt, trừ cái niên đại của nó. Tôi có thể đảm bảo với bạn là gì có thể xa rời hơn cái suy nghĩ đó. Cuốn sách có vài hư hại , dù làm giảm giá trị vật chất của nó, nhưng thu hút chú ý đặc biệt của tôi.

      ràng cuốn sách từng bị cháy. Các trang giấy đều bị cháy sém ở rìa, nhưng ngọn lửa trườn vào đủ sâu để đốt bất cứ con chữ nào. Bằng cách nào đó, cuốn sách thoát khỏi số phận bị lửa tàn phá nặng nề; thực tế là, có hư hại khác còn rệt hơn.

      vết cắt rộng xuyên qua bìa cuốn sách, gây ra bởi vật nhọn. Có lẽ là con dao hoặc mũi tên gì đó. Vết cắt xuyên sâu vào cuốn sách đến nỗi khi lật trang bìa ra, vết rạch vẫn gần như giữ đúng độ rộng đấy trang đầu tiên. Vết cắt này, nằm ngay giữa mỗi trang sách, dần mỗi khi bạn lật sâu vào trong. Bìa sau của cuốn sách chỉ có vết rách rất ; ràng là vật nhọn đó gần như, nhưng hoàn toàn, bị ngăn lại bởi độ dày của tập bản thảo.

      Tôi phải mất thời gian khá lâu mới có đủ can đảm tháo sợi dây chuyền ra và khớp đầu mũi tên vào vết rách bìa cuốn sách. Nó hoàn toàn vừa khít, như chiếc chìa khóa tìm đúng ổ. Tôi ấn mạnh hơn cho tới khi đầu mũi tên ngập vào trong cuốn sách và đầu nhọn của nó chỉ nhú ra chút xíu ở vết rách bìa sau.

      Dạo này, tôi rất hay thích tưởng tượng rằng nếu người có thể xuyên qua lỗ hổng bìa cuốn sách đó, như thể đó là cánh cửa, ta có thể thẳng vào ngay trái tim của Địa ngục.

      Có rất nhiều lý do khiến tôi và Jack làm mộ cho Marianne Engel, nhưng có hai lý do nổi bật hơn tất cả những lý do khác. Thứ nhất, chẳng có thi thể nào mà lại xây mộ là kỳ cục. Và thứ hai, thực có ai tới viếng ngôi mộ đó ngoài tôi và Jack cơ chứ?

      Tôi muốn thăm ngôi mộ.

      Hằng ngày tôi đều tỉnh dậy với Bougatsa ngủ ngon lành dưới chân. Tôi cho nó ăn tụy sống, và rồi chúng tôi lại nhảy lên xe về phía biển.

      Tôi nhìn khắp đại dương mỗi khi mặt trời lên. Đó là thời khắc cầu nguyện của tôi, giờ trong ngày để nhớ tới Marianne Engel, và đó cũng là thời khắc duy nhất tôi có thể để bản thân mình được tắm trực tiếp dưới ánh mặt trời. Quá nhiều nắng tốt cho da của tôi, nhưng tôi rất thích được cảm nhận hơi ấm lan tỏa khắp mặt mình.

      Bougatsa thường chạy vòng quanh, nhặt những mảnh gỗ dạt vào bờ rồi ném xuống chân tôi. Nó nài nỉ tôi ném gỗ cho nó, và tôi luôn làm thế, rồi nó nhảy tưng về phía sóng triều. Nhưng cũng có những buổi sáng nó thích chạy nhảy mà chỉ nằm dưới chân tôi rồi nhìn ra phía biển. Giống y như cái đêm ra ; như thể nó vẫn mong rằng lại trở về với chúng tôi. Tôi nghĩ nó chẳng biết được gì hơn thế đâu. Nó là con chó ngô nghê mà.

      Cùng lúc ấy, tôi vẫn luôn suy nghĩ. Những trang sách mà bạn đọc đây, hầu hết đều được hình thành từ chỗ đứng độc của tôi ở nơi tận cùng thế giới khi đất chìm vào biển cả. Tôi dành quá nhiều thời gian của mình ở đó, trong hư khổng lồ giữa ký ức và khát vọng, tạo ra đế chế rạn nứt của những từ ngữ mà giờ đây là nơi sinh sống của tôi.

      Tôi muốn viết cuốn sách này để vinh danh nhưng thể, như bao lần tôi làm thất vọng trong suốt cuộc đời mình. Tôi biết từ ngữ của mình chẳng là gì ngoài những bóng ma ảm đạm, nhưng tôi muốn Marianne Engel phải tồn tại ở nơi nào đó.

      Cứ đến thứ Sáu Tuần Thánh, ngày kỷ niệm tai nạn mỗi năm khác của mình, tôi lại ra dòng suối nơi cứu mạng mình và châm thêm ngọn nến nữa. Tôi lời cảm tạ vì hai điều: tôi lại già thêm tuổi, và tôi lại gần với cái chết thêm năm nữa.

      Khi Marianne Engel đưa cho tôi cái đầu mũi tên, khi nào đến lúc tôi biết phải làm gì với nó. Nhưng tôi biết rồi. Tôi luôn luôn đeo nó và tự hào có nó, và khi trở thành ông lão cận kề cái chết, tôi lấy đầu mũi tên ra khỏi sợi dây chuyền của mình. Tôi đặt nó lên cái nỏ, thẳng và chắc chắn, và tôi nhờ người bạn thân bắn nó vào tim mình. Có lẽ người bạn đó là Gregor, hoặc Sayuri; mà cũng có thể là người tôi chưa từng gặp mặt. Mũi tên xuyên qua ngực tôi và xé toang vết bớt như cái ấn chờ được mở của tôi.

      đánh dấu lần thứ ba mũi tên đâm vào ngực tôi. Lần đầu tiên đưa tôi đến với Marianne Engel. Lần thứ hai chia cắt chúng tôi.

      Lần thứ ba lại đưa chúng tôi về với nhau.

      A, nhưng đừng nghĩ là tôi nghiêm túc nhé. Tôi vẫn còn cả cuộc đời làm việc phía trước cơ mà.

      Sau khi Marianne Engel biến mất, tôi bắt đầu tự học tạc tượng. Tôi nghĩ mục đích của mình rất ích kỷ, bởi vì tạc tượng giúp tôi cảm thấy được gần hơn. Tôi những cử động của thép lướt đá. Người ta thường hay hiểu nhầm đá là vật vô tri, biết tha thứ, nhưng phải thế: đá như những dòng nước cuộn chảy, nó như những ngọn lửa nhảy múa. Cái đục của tôi lướt như thể nó hiểu được những ước muốn thầm kín của đá, như thể tảng đá chỉ dẫn cái đục. Nhưng điều kỳ lạ nhất tôi phát ra là tôi có thể tạc tượng cách tự nhiên biết bao nhiêu, như thể trước đây tôi làm rồi vậy.

      Kỹ thuật của tôi còn lâu mới sánh bằng Marianne Engel, và khi tôi tạc được bức tượng chẳng mấy khi nó giống với những gì tôi tưởng tượng cả. Nhưng thế là tốt rồi. Thực tế, tôi cũng ít khi tự sáng tạo các bức tượng. Thường tôi toàn dùng dụng cụ của để đục đẽo bức tượng của tôi mà để lại.

      Đứng trước phiên bản của mình luôn làm tôi cảm thấy đôi chút xấu hổ, nhưng tôi tự nhắc nhở bản thân rằng đây phải là việc phù phiếm. Và tôi nâng cái đục lên và nhằm vào vùng nào đấy - góc khuỷu tay của tôi, nếp nhăn làn da bị bỏng của tôi - và dùng búa đập nó . Với mỗi nhát búa, mảnh của tôi lại rơi . Tôi chỉ có thể gọt mỗi lúc mảnh bởi vì mỗi lần miếng đá vụn rơi xuống nền nhà, tôi lại cảm thấy mình gần với hư hơn chút.

      Ba Vị Chủ Nhân rằng người của Marianne Engel biết lý do vì sao ta phải giải phóng cho trái tim cuối cùng của , để giải phóng . Và tôi làm thế: khi kết thúc việc sám hối của mình cũng là lúc tôi bắt đầu. Cho phép xuống biển mà hề ngăn cản mới chỉ bước đầu tiên trong nhiệm vụ cả đời của tôi, bởi vì việc giải phóng trái tim của diễn ra trong khoảnh khắc. Đó là quá trình diễn ra trong cả cuộc đời tôi. Và tôi cho phép mình chết cho tới khi xóa dấu vết cuối cùng bức tượng của mình.

      Với mỗi mảnh đá rơi khỏi bức tượng, tôi có thể nghe thấy giọng của Marianne Engel.Em . Aishiteru. Ego amo te. Ti amo. Ég elska þig. Ich liebe dich. thanh ấy lướt qua thời gian, đến với tôi bằng tất cả ngôn ngữ thế giới, giống như tiếng gọi của tình đích thực.

      HẾT

    4. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :