Chương 50 “Xin lỗi, con về trễ!” Nat gọi lớn, để cửa đóng sầm sau lưng và bước vào sảnh phòng khách trang nhã của bố mẹ. có Jelly chào đón , căn sảnh dường như trống vắng, nhưng hôm nay phải là ngày nghĩ ngợi đến những điều hay. “CHÚC MỪNG SINH NHẬT NHÉ NAT!” Paul gọi vọng ra từ nhà bếp. Khi đến bên, cậu xòe tay vỗ vào tay , thành tiếng bộp to. “Cảm ơn em trai! Tặng sinh nhật chị cái gì đây?” “ CON MÈO CON.” Tim Nat rộn lên. “ hả?” “ HỀ, QUÊ CHƯA KÌA.” Paul bật cười lớn, và Nat xô vai cậu ta. “COI CHỪNG ĐÓ NHA! EM LÀ BỆNH NHÂN TIM MẠCH MÀ!” Đây là cảnh tượng thường thấy của buổi chiều Chủ nhật náo loạn. Ánh mặt trời tháng Bảy chiếu qua cửa sổ, làm ánh sáng vàng tươi tràn ngập căn bếp, và gia đình , trong những bộ quần áo chơi gôn màu lam , qua lại quanh căn phòng như những bóng chiều ngoại ô. Mẹ cắt dưa đỏ thành từng miếng lớn làm món tủ dưa-và-thịt hun khói, bố uống chai Heineken, Tom và Junior vật tay chiếc bàn đá granite cạnh hai ly bia Pilsners cao. “Tom thắng,” Nat , chọc lét vào mạng sườn Junior. “Ê này, công bằng gì cả!” Junior vẫn tập trung vào trận đấu, và Nat chụp lấy cái ly Pilsners trước khi nó ngã đổ ra. “Chúc mừng sinh nhật con!” mẹ lớn, đến bên với con dao trong tay và ôm thoáng cái, theo sau đó là John Greco Lớn, ôm chặt lấy . Dưới lớp áo thun polo trắng, ông vẫn còn ẩm mồ hôi, từ trận đấu chiều nay. “Chúc mừng sinh nhật nhóc con,” ông , nâng ly lên nhoẻn miệng cười. “Cảm ơn bố. Bố thắng à?” “, EM THẮNG!” Paul bước đến xen vào. “THẮNG CÁCH CẢ HAI LẦN ĐÁNH BÓNG ĐẤY NHÉ! ĐỨC VUA CHẾT RỒI. ĐỨC VUA VẠN TUẾ!” “Chỉ ăn may thôi,” Nat và bố cùng . Bố bảo. “Tư tưởng lớn nhỉ.” Nat mỉm cười. “Chính xác.” “Hank nhờ chuyển lời ‘Chúc mừng sinh nhật’. Bố gặp nó tuần trước.” luyến tiếc gì cả. “Bố cũng chào ấy giùm con nhé?” “Thắng rồi nhé!” Junior la lên sau lưng họ, chiến thắng trong trận vật tay. “CHỈ LÀ ĂN MAY THÔI!” mọi người cùng , và cười lớn. “Chúc mừng sinh nhật em nữa, em ,” Junior , cười toe đểu cáng, và Tom bước tới hôn lên má . “Cảm ơn giúp đỡ nhé, giáo sư.” “Có gì đâu.” Nat mỉm cười. “Nhân tiện đây, con có vài tin tốt lành...” “BỐ, ĐẾN LỖ THỨ HAI BỐ TIÊU ĐỜI RỒI. TỪ LÚC ĐÓ TRỞ CHỈ TOÀN THUA LÀ THUA THÔI.” Tom lắc đầu. “Đấy phải là lúc bố đánh hỏng đâu, thằng ngốc à. Là vào lỗ thứ năm, lần đánh thứ hai. Tao bảo bố rồi. Bóng luôn lăn kỳ cục lắm khúc sân mềm ấy.” Junior khụt khịt. “Lại sai nữa rồi. Là lỗ thứ sáu. Tao bảo bố, dùng gậy sắt số tám ấy nhưng bố lại dùng cây số chín. Tao thắng được hai mươi lăm đô và dễ dàng vượt qua bố. Khỏe re.” “Im nào mấy đứa. Chúng mày sai hết.” Bố giơ tay lên, và đám con trai im bặt. Nat chờ cho John Lớn lời phán quyết. Cây gậy sai. Lỗ bóng sai. Cái gì đó sai cũng được. Bố . “Bố nghĩ em mấy đứa định gì kìa. Đám con trai chúng mày im hết cho em nó .” Ái chà. Nat chớp mắt. Trong phút, quên mất mình định gì. “VẬY CHO RỒI!” “Paul,” bố cảnh cáo, cau mày, và mẹ nhìn lên. Nat hiểu cái nhìn ấy. Đừng có lớn tiếng với Paul mà, . Nhưng mẹ . “Con có tin gì thế, con ?” Nat nhìn qua nhìn lại từ bố sang mẹ. Mấy người này là ai vậy nhỉ? “Nat?” bố hỏi. Nat nghi hoặc nhìn bố, nhưng từ tất cả những gì thể ra ngoài, bố lắng nghe. Đôi mắt chăm chú, mặt ngoảnh về phía , môi hé mở chờ đợi. nhìn thấy người ta lắng nghe ti vi, nên biết trông như thế nào là lắng nghe. Ngay cả mẹ cũng ngẩng đầu lên, dừng tay dao quả dưa. ra, mọi người tất cả đều lắng nghe. Nghe . Nat trả lời, “Quyển sách của con về hệ thống hỏa xa ngầm được xuất bản. Con nộp bản thảo ba chương đầu, và người ta gửi đề xuất cho con.” “Tuyệt vời quá nhóc!” bố , lại ôm cái chặt, và mẹ cũng đến ôm nữa, lần này mang theo dao trong tay. “ tác giả trong gia đình!” bà . “Mẹ hãnh diện quá!” “Ngon lành lắm đó em !” Junior . “Chúc mừng nha Nat!” Tom lớn, và lời cuối cùng là của Paul. “TUYỆT. GIỜ TỚI LỖ BÓNG THỨ HAI…?” HẾT Lời ghi chú và tri ân của tác giả Tôi thường nghiên cứu rất nhiều trước khi viết, nhưng lần này đúng là đỉnh điểm. Hoặc là do tổ ấm của tôi gần đây mới trống vắng hay bởi vì tôi ước có thách thức trí tuệ khác lạ hơn (ừ, đúng thế đấy), tôi bắt đầu giảng dạy tại trường luật thuộc Đại học Pennsylvania. Đúng vậy, trường của Nat Greco nhận tôi vào làm giảng viên bán thời gian dạy theo giờ. Và cái giảng đường rộng lớn của ấy cũng chính là giảng đường của tôi. Khóa giảng của tôi phải là Lịch sử Công lý, mà là khóa do tôi tự phát triển gọi là Công lý và Hư cấu, môn học lần theo những hình ảnh của luật pháp và công lý trong sách vở, phim ảnh và truyền hình. Bởi vậy, tôi biết được chính xác cảm giác khi đứng trước lớp học đầy sinh viên thông minh hơn mình gấp bội là như thế nào. (Vui đến kinh ngạc). Tôi hy vọng rằng của bố được hưởng lợi từ việc tôi đứng trong vị thế của Nat và tự mình mắt thấy tai nghe rút tỉa kinh nghiệm về công việc tuyệt vời mà cũng rất khó khăn, làm giáo viên. Tôi chưa bao giờ mệt bã cả người như sau khi lên lớp. Và điều đó khiến tôi làm mới lại lòng kính trọng dành cho mỗi giáo viên tôi từng học qua - và hơn thế nữa, cho mỗi giáo viên hành tinh này. Vì thế lời cảm ơn sâu sắc nhất của tôi ở đây gửi đến các giáo vièn, cho những hy sinh, lòng tận tụy và tình thương của họ. Tôi vui mừng tạo nữ hùng của mình từ giáo viên, vì lẽ họ là những vị hùng trong từng ngày. Quyển sách này dành tặng cho họ. Tôi cũng muốn xác định ràng nơi đâu thực chấm dứt và hư cấu bắt đầu, vì thế sau đây là lời tuyên bố phủ nhận. Trường luật Đại học Pennsylvania là có , nhưng tất cả các khoa, các nhân viên, phòng hành chính và mọi sinh viên trong tiểu thuyết này là hoàn toàn hư cấu. Vị hiệu trưởng trường luật thực tế, Hiệu trưởng Michael Fitts, là học giả luật tuyệt vời, người mang trong mình lòng nồng hậu và nhiệt tình thành tâm đối với trường, với các khoa và mọi nhân viên, và với sinh viên. Hiệu trưởng Fitts mang lại định nghĩa mới về hiệu trưởng trường luật đại, và khoa giảng dạy cùng ban quản trị là ví dụ điển hình cho ngành giáo dục luật pháp ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Viên hiệu phó trong đời thực là người bạn Jo-Anne Verrier của tôi, tôi hy vọng ấy tha thứ cho tôi vì tạo ấn tượng xấu về vị trí công việc của ấy trong cuốn sách này. Khoa và phòng hành chính luôn đối tốt với tôi, các độc giả đừng nên nhầm lẫn bất cứ nhân vật hư cấu nào trong của bố với bất cứ ai trong trường luật Penn. Và với tư cách là cựu học viên, tôi biết rằng đây là trường luật tốt nhất toàn quốc. Cũng quan trọng kém, là những sinh viên trongCô của bố, dù rất đáng , vẫn phải là những sinh viên trong lớp tôi. Thành thực mà , đám sinh viên của tôi là hết sẩy. Các em chí thú học hỏi và luôn tham gia tích cực vào giờ học, tôi đóng góp công sức gì vào đó mà tất cả đều do lòng ham học bẩm sinh và khả năng diễn đạt lưu loát ý kiến bản thân của các em. Đúng là tôi giảng cho các em về vở kịch Người lái buôn thành Venice, với cùng lý do như Nat, và các em hiểu ngay trọng điểm vấn đề. Lời xin lỗi và cảm ơn đến các em sinh viên của tôi. Các em biết là tất cả các em. Vì có rất nhiều độc giả hình thành ý kiến về luật pháp và công lý từ hư cấu, nên việc tôi trình bày thực tế cho đúng đắn là rất quan trọng. Tôi thể làm được điều đó mà có nhiều trợ giúp, hợp tác và thời gian bỏ ra từ các chuyên gia. Và bất cứ sai sót nào trong tiểu thuyết này đều là sai sót của tôi. Và lại nữa, trong phần phủ nhận này, cái gọi là Trại cải huấn hạt Chester trong cuốn truyện lẫn các nhân viên và ban quản trị, là hoàn toàn có thực. Để chân hóa nhà giam tưởng tượng của tôi, tôi tìm hiểu nhà giam thực thụ, nhà giam hạt Chester tại thị trấn Pocopson, và tôi muốn cảm ơn người rất chuyên nghiệp và dễ thương, thiếu tá Scott Graham, Giám đốc An ninh. Ông đưa tôi thăm vòng quanh nhà giam và giúp tôi hiểu biết chung chung về cách thức các nhà giam hoạt động, ngay cả trong cuộc bạo động tưởng tượng của tôi trong cuốn sách này, và tôi rất biết ơn vì điều đó. có vị trí công việc nào là Trợ lý Tổng quản giáo cả, và nhân viên hư cấu nào trong truyện này phản ánh bất cứ quản lý chuyên tâm hay bất cứ sĩ quan cải huấn nào tại nhà giam hạt Chester. Dĩ nhiên, những tù nhân trong truyện này cũng là hư cấu. Cảm ơn tất cả những người thực thi pháp luật tại hạt Chester. Cảm ơn trung úy Brian Naylor từ sở cảnh sát bang Pennsylvania, đồn cơ sở Embreeville, và cái ôm cảm ơn chặt cùng lòng ngưỡng mộ sâu sắc đến trung sĩ Jill McKone, đồn cơ sở Avondale, người bỏ thời gian hướng dẫn tôi đến cùng, sửa sai những ngôn từ trong giới cảnh sát của tôi, và giảng giải chi tiết những điều mà nếu là bất cứ ai khác đều hẳn biết như chuyện đương nhiên. Và cảm ơn Nicholas J. Casenia Con, trưởng đại diện phòng Tư pháp hình quận, và Patrick Carmody, công tố viên thứ nhất, cả hai đều từ Văn phòng Tư pháp Hình hạt Chester, cảm ơn về thời gian, chuyên môn lẫn lòng nhiệt thành của hai vị này. Cũng xin gửi lời cảm ơn đến thanh tra sĩ quan Jeffrey S. Gordon của văn phòng thanh tra hạt Chester, vì giúp đỡ tôi hiểu thêm về những quy trình hoạt động của cảnh sát địa phương. Và cũng như mọi khi, xin cảm ơn người bạn cũ của tôi, ngài Glenn Gilman, và thanh tra về hưu Art Mee, vì những ý kiến chuyên môn về luật pháp và ngành cảnh sát. Và cảm ơn đến những người bạn mới, bác sĩ Felicia Lewis thông minh đáng và ân nhân cứu mạng của tôi, bác sĩ John J. O’Hara. Và đến nhà thông thái sách Joe Drayback, người luôn luôn tận tâm hết mực - vì sách vở. CẢNH BÁO TIẾT LỘ NỘI DUNG CÂU CHUYỆN: Ở đây tôi còn nợ lời cảm ơn quan trọng, nhưng các bạn nên đọc tiếp nếu bạn chưa đọc hết quyển sách này. Những lời sau đây là phá bĩnh hoàn toàn và tiết lộ bước chuyển hướng của nội dung câu chuyện, vậy nên bây giờ các bạn vui lòng đừng đọc, bằng nó hủy hoại yếu tố bất ngờ. Đúng hơn, các bạn hãy dùng tay che hết phần còn lại của trang sách này vì tôi chết mất nếu để cho trang sách này làm kẻ phá bĩnh bạn. Nhưng tôi phải cảm ơn con người này với lời lẽ được in ra và tôi muốn giải thích vì sao. Vậy nên các bạn hãy đọc cho hết quyển sách này rồi hẵng quay lại. Làm ơn. Cảm ơn sử gia Mary Dugan, người giảng dạy cho tôi về hệ thống hỏa xa ngầm ở hạt Chester, bang Pennsylvania, và là người cống hiến nhiều thời gian của mình cho Trung tâm Hỏa xa ngầm Kennett ở quảng trường Kennett, bang Pennsylvania. Xin cho phép tôi dành ít phút để cung cấp thông tin bối cảnh cho những ai trong số các bạn cần làm mới tí chút về kiến thức lịch sử Hoa Kỳ, hay cho những bạn ở các quốc gia khác. Hệ thống hỏa xa ngầm tồn tại và hoạt động sôi nổi nhất từ năm 1835 đến 1865, suốt khoảng thời gian kinh hoàng trong lịch sử Hoa Kỳ khi chế độ sử dụng người Mỹ gốc Phi làm nô lệ vẫn còn hợp pháp. Nô lệ là “tài sản sở hữu” trong rất nhiều các tiểu bang phương Nam, mặc dù tình trạng này bị coi là bất hợp pháp trong các tiểu bang phương Bắc. Những nô lệ thường được đối xử tệ bạc - bị ép buộc phải lao động kiệt lực và phải chịu những hình phạt đòn roi hay còn tệ hơn thế nữa - và gia đình con cái của họ thường xuyên bị chia cắt để bán cho những người chủ khác. Cho đến lúc, nhiều nô lệ quá khát khao quyền căn bản được sống của mình nên bỏ trốn lên các bang phương Bắc, tự đặt mình vào tình huống hiểm nghèo cả về pháp luật lẫn mạng sống. Họ trở thành những kẻ đào tẩu khỏi pháp luật và nếu bị bắt lại làm mồi cho các hình phạt hay thậm chí cả cái chết. Cụm từ “Hỏa xa ngầm” được cho là đặt ra bởi kẻ truy bắt nô lệ, người này, vì tìm ra con mồi của mình, , “Chắc phải có đường hỏa xa ngầm ở đâu đây.” Cụm từ này làm người ta nghĩ sai bởi vì thực ra có đường hỏa xa nào dưới lòng đất cả, loại đường hỏa xa có đường ray, toa tàu và những thứ đại loại như thế. Thay vào đó, hệ thống hỏa xa ngầm là loạt những con người sẵn lòng che giấu những nô lệ bỏ trốn trong nhà họ. Những người che giấu nô lệ được gọi là “ga trưởng” và nhà cửa của họ là “ga” hay “trạm dừng”. Những ga ấy thường cách nhau quá mười hai đến hai mươi bốn cây số, bằng chiều dài lội bộ trong đêm hoảng loạn. có ước tính đáng tin cậy nào về việc có bao nhiêu nô lệ trốn tìm đến tự do, vì những ghi chép được giữ lại do sợ bị dùng làm bằng chứng, ước tính là từ khoảng 30.000 đến 100.000 người, theo như quyển Hệ thống hỏa xa ngầm bang Pennsylvania của William Switaia, trang 13, xuất bản năm 2001, hay báo cáo được nộp lại vào năm 1864 cho ủy ban Điều tra về những người được giải phóng tại thủ đô Washington, ước tính rằng khoảng từ 30.000 đến 40.000 nô lệ đến được phương Bắc. Hạt Chester, bang Pennsylvania, thực đóng vai trò tích cực trong hệ thống hỏa xa ngầm. “Tuyến trung tâm” hay “Tuyến Đông” của hệ thống Hỏa xa Ngầm bắt đầu từ Maryland và Delaware, chạy theo phía Bắc qua hạt Chester, rồi chạy thêm tiếp nữa đến Norristown rồi Philadelphia. Những cư dân hạt Chester giúp đỡ nhiều người trước là nô lệ đào thoát lên phương Bắc bởi vì hạt này nằm ngay ngoài tuyến Mason-Dixon và là nơi cư ngụ của mạng lưới những người Mỹ gốc Phi và những người Quaker theo chủ nghĩa bãi bỏ nô lệ gan dạ và tận tình. Những người Quaker tại Hội nghị cấp tiến ở Longwood và Hội nghị những người bạn Mariborough ở Pocopson che giấu nô lệ trong nhà, điều này gây rất nhiều nguy hiểm cho bản thân họ. Nhiều nhà vẫn còn tồn tại, và thú vị thay, những căn nhà ấy đều nằm xung quanh nơi đây sau này là nhà tù hạt Chester. Levi Ward, Eusebius và Sarah Barnard. William Barnard, Joseph và Ruth Dugdale, Mary và Moses Pennock, John và Hannah Cox, Issac và Thomazine Meredith, tất cả đều sống ở những nơi mà bây giờ bao quanh nhà tù và che giấu nô lệ trong nhà họ. Sử gia Mary Dugan dẫn tôi đến số “trạm” của hạt và chỉ cho tôi thấy những nơi nấp ở ngoài và trong nhà dân, điều này làm tôi rất cảm kích. ra, tên của các “ga trưởng” theo đạo Quaker trong tiểu thuyết này hoàn toàn có thực, cũng như tên của những người nô lệ và tên viết tắt của họ đều được rút ra từ những tên có thực tôi tìm thấy trong quá trình nghiên cứu của mình. Tôi biết phải diễn tả lòng ngưỡng mộ của tôi thế nào đối với lòng can đảm và trái tim quả cảm của những người cựu nô lệ này, những người bị luật lệ đối xử rất hà khắc, cũng như lòng ngưỡng mộ của tôi với những người giúp họ trốn thoát. Họ mạo hiểm tất cả vì công lý. Dành cho những độc giả muốn tìm hiểu thêm về hệ thống hỏa xa ngầm, có nhiều sách cung cấp thông tin cho cuốn truyện này, và rất nhiều cuốn trong số đó chứa đựng nguồn tư liệu gốc, có thể đem lại hứng thú cho bạn. Hãy tìm đọc: William Still, Con đường hỏa xa ngầm (1872) và R.C. Smedley, Lịch sử về hỏa xa ngầm ở Chester và những hạt láng giềng của bang Pennsylvania (1883). Cả hai cuốn này đều tái lịch sử vào đời sống, và quyển của William Still bao quát rộng và rất đáng đọc. Ông Still, người Mỹ gốc Phi, là chủ tịch của ủy ban canh phòng xã hội bài trừ nô lệ bang Pennsylvania và ông có chuyện riêng với những người lánh nạn mà ông giúp náu, tạo nên quyển tường thuật sống động về cuộc sống của những nô lệ, bao gồm nông trại và đồn điền nô lệ làm việc, người “sở hữu” họ và cách họ thoát như thế nào. Gần đây hơn, bạn có thể tìm đọc tác giả Fegus Bordewich,Ranh giới miền đất hứa (2005); David Blight, sách được biên tập lại, Đường đến tự do (2004), William Kashatus, Công lý vượt giới hạn: hạt Chester và hệ thống hỏa xa ngầm (2002), và William Switala, Hệ thống hỏa xa ngầm ở Pennsylvania (2001). Kết thúc phần tiết lộ nội dung, trở lại với tình thuần khiết. Xin cám ơn những người sau đây, những người hào phóng hiến tặng tiền cho các quỹ từ thiện xứng đáng trong những cuộc đấu giá thầm lặng để tên mình được xuất trong tiểu thuyết: Adele McIlhargey (dành tặng cho thư viện hạt Gwinnett, bang Georgia), Bill Sasso (Hiệp hội Thanh niên Cơ đốc bang Philadelphia), Jennifer Paradis (Hội Key to the Cure), Elizateth Warren (được mua bởi Bruce Mann cho Quỹ Tài trợ cho Công lý Công bằng), Clare Cracy (được mua bởi Marian Staley để dành tặng cho Trung tâm Từ thiện Hỗ trợ người mắc bệnh ung thư Fox Chase), Agnes Grady Chesko (được mua bởi Pat Cheko cho Tổ chức Hỗ trợ người khuyết tật ARC của hạt Chester), Max Bischoff (được mua bởi Paul Roots cho Hội đồng Văn học Miami Valley, bang Ohio), và Melanie Anderson (được mua tại hiệu sách tuyệt vời Turn the Page ở Boonsboro, bang Maryland), và những người bạn lâu năm của tôi là Sam và Carolyn Morris (công ty French & Pickering Land Trust). Và đây là những lời thương tưởng nhớ David Brian Mundy, được mua bởi bạn tôi Debby Mundy, em đáng của ấy, và cũng để tưởng nhớ đến giáo sư Edward Sparer, giáo sư tuyệt vời tại trường luật, được tất cả chúng tôi và đặc biệt là bạn Alen Sandals cùng lớp tôi nhớ đến, để ủng hộ cho Quỹ Tài trợ cho Công lý Công bằng. Và cuối cùng, để tưởng nhớ đến Edward Duffy và Marilyn Krug, được Janet Moore và Steve Werner tưởng nhớ để ủng hộ cho Tổ chức Family Services của hạt Chester. Cuối cùng, cám ơn tất cả mọi người ở Harper Collins, nhà xuất bản duy nhất trong mười bốn năm qua của tôi và mười bốn quyển sách của tôi. Cám ơn Carolyn Marino, biên tập viên xuất chúng của tôi, người động viên khi tôi theo đuổi mơ ước được giảng dạy, ngay cả khi điều này lấy thời gian sáng tác của tôi. Và lời cảm ơn nồng nhiệt đến đội ngũ tuyệt vời ở Harper: CEO và tấm gương mẫu mực Jane Friedman, Brian Murray, Michael Morrison, Jonathan Burnham, Kathy Schneider, Josh Marwell, Christine Boyd, Liate Stehlik, Maureen O’Brien và Wendy Lee, những người làm việc hết sức để xuất bản những quyển sách của tôi và hoàn thành công việc cách xuất sắc. Tôi biết là tôi may mắn lắm đấy, các bạn ạ. Cảm ơn Molly Friedrich của nhà phát hành The Fririch, đơn giản là nhà phát hành văn học tốt nhất thế giới, cũng như người đầy tài năng kém (OK, vậy cả hai đều là người tuyệt nhất) Paul Cirone. Cám ơn siêu đại diện Lou Pitt, người đại diện cho tôi rất tuyệt vời ở Hollywood. Rất mến và cảm ơn đến Andy Marino, nhà văn và là nhà soạn nhạc. mến và đặc biệt cám ơn Laura Leonard, người giúp tôi trong rất nhiều việc, từ lắng nghe các ý tưởng sách cho đến làm người bạn tuyệt vời, điều mà, như mọi người đều biết, là người giá trị nhất thế giới. Cám ơn và gửi lời thương đến gia đình tôi, bởi vì họ chính là tim tôi. Và cảm ơn người cha quá cố của tôi, người khiến tôi trở thành con cưng của bố, mãi mãi.