Cô gái có hình xăm rồng - Stieg Larsson (Trinh thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 19
      Thứ Năm, 19 tháng Sáu

      Chủ nhật, 29 tháng Sáu

      rong khi chờ tin Vanger có qua khỏi hay , Blomkvist bỏ giờ ra xem lại các tài liệu. giữ liên hệ chặt chẽ với Frode. Tối thứ Năm, Frode mang đến cho tin cơn đau tim trước mắt hình như qua.
      - Hôm nay tôi được phép chuyện lúc với ông ấy. Ông ấy muốn gặp càng sớm càng tốt.
      Do đó khoảng 1 giờ chiều trước Đêm Giữa Mùa hè, Blomkvist lái xe đến bệnh viện Hedestad. gặp lão Birger Vanger cáu kỉnh chắn đường.
      - Henrik thể gặp ai hết. – Ông ta .
      - Thế lạ. – Blomkvist . – Henrik nhắn tôi là ông ấy đặc biệt muốn gặp tôi hôm nay mà.
      - phải là người trong gia đình, có việc ở đây.
      - Ông đúng. Tôi phải là thành viên gia đình. Nhưng tôi làm việc cho Henrik Vanger và tôi chỉ nhận lệnh của ông ấy mà thôi.
      Chuyện có thể thành ra đôi co nếu lúc đó Frode ở trong buồng của Henrik Vanger ra.
      - Ô, đây rồi. Henrik hỏi .
      Frode giữ cửa mở cho Blomkvist qua Birger vào buồng. Henrik Vanger trông như già thêm mười tuổi. Ông nằm mắt nhắm lim dim, ống dưỡng khí cắm ở mũi và tóc ông lại càng bù rối hơn. nữ y tá ngăn Blomvist lại, tay giữ chặt lấy cánh tay .
      - Hai phút. hơn. Và làm kinh động.
      Blomkvist ngồi lên chiếc ghế của khách để có thể nhìn thấy mặt Henrik. cảm thấy nỗi trìu mến khiến cũng ngạc nhiên và chìa tay ra để nắm nhè bàn tay ông già.
      - Tin gì ? – giọng yếu ớt.
      Blomkvist gật đầu.
      - Ông khỏe lên là tôi báo cáo cho ông ngay. Tôi chưa giải được bí mật nhưng tôi tìm ra những cái mới mẻ hơn và tôi lần theo số đầu mối. tuần nữa, có thể hai, tôi có thể đưa ra kết quả.
      Vanger chỉ có thể nhay nháy mắt, ra ý hiểu.
      - Tôi phải vài ngày.
      Vanger nhướng lông mày lên.
      - Tôi nhảy tàu bỏ cuộc đâu. Tôi phải làm số điều tra. Tôi thỏa thuận với Frode là tôi báo cáo với ông ấy. Ông thấy có được ?
      - Frode là… người của tôi… trong mọi vấn đề.
      Blomkvist lại bóp tay Vanger cái.
      - Mikael… nếu tôi … tôi muốn làm xong công việc.
      - Tôi làm xong công việc.
      - Frode có… đầy…
      - Henrik, tôi muốn ông khỏe lên. Tôi phát điên lên nếu ông và chết ngon ơ thế sau khi tôi có được những tiến bộ như thế này.
      - Hai phút. – y tá .
      - Lần sau chúng ta dài dài.
      ra Birger Vanger chờ . Ông đặt tay lên vai giữ lại.
      - Tôi muốn làm phiền Henrik nữa. Ông ấy rất mệt và bác sĩ dặn là chớ để cho ông ấy bị kích động hay quấy rầy.
      - Tôi hiểu nỗi lo lắng của ông và tôi thông cảm. Tôi làm phiền ông ấy.
      - Ai cũng biết được Henrik thuê để chọc ngoáy vào cái thú vui nho của riêng ông ấy… Harriet. Frode là sau khi nghe câu chuyện của , ông ấy rất kích động và rồi lên cơn đau tim. Thậm chí Frode còn rằng cũng nghĩ gây ra cơn đau này.
      - Tôi còn nghĩ như thế nữa. Henrik bị tắc động mạch vành nặng. Chỉ đái thôi là ông ấy cũng có thể lên cơn đau tim. Tôi chắc bây giờ ông hiểu được như thế.
      - Tôi muốn chấm dứt hẳn cái chuyện điên rồ kia . quấy rối gia đình tôi.
      - Tôi bảo ông rồi, tôi làm việc cho Henrik Vanger chứ phải cho gia đình ông.
      là Birger Vanger chưa quen với việc có người đứng cãi lại. Ông nhìn trừng trừng Blomkvist lúc, vẻ mặt như đòi phải được kính trọng lại làm cho ông nom càng giống con nai sừng tấm phồng mang trợn mắt. Ông quay vào buồng Henrik.
      Blomkvist cố nén cười phá lên. Đây phải là chỗ để cười to, trong hành lang bên ngoài phòng bệnh của Henrik, nơi cũng có thể biến ra thành buồng chết của ông. Nhưng nhớ đến câu thơ của Lennart Hyland lấy vần theo bảng chữ cái. Đó là chữ N, nai. Và con nai sừng tấm trơ trọi mỗi mình bèn cười vang trong khu rừng đốn trụi.
      đâm bổ phải Cecilia Vanger ở sảnh bệnh viện. Từ khi chị bỏ dở cuộc du lịch trở về, gọi vào di động của chị có tới chục lần nhưng chị nhận và cũng gọi lại. Và chị cũng bao giờ ở nhà – đảo Hedeby, bất cứ lúc nào qua đó và gõ cửa.
      - Chào, Cecilia, - . – Henrik bị thế này tôi rất buồn.
      - Cảm ơn. – Chị .
      - Chúng ta cần chuyện.
      - Tôi xin lỗi đóng cửa im ỉm như thế với . Tôi hiểu là chắc cáu nhưng những ngày ấy tôi rảnh.
      Mikael mỉm cười, để tay lên cánh tay chị.
      - Khoan, chị hiểu lầm rồi. Tôi cáu tí nào cả. Tôi mong chúng ta có thể là bạn. Chúng ta có thể uống cà phê được ? – hất đầu về phía quán cà phê trong bệnh viện.
      Cecilia ngập ngừng.
      - Hôm nay , tôi cần phải gặp Henrik.
      - OK. Nhưng tôi vẫn cần chuyện với chị. Thuần túy về nghiệp vụ thôi.
      - Thế nghĩa là làm sao? – Chị thình lình cảnh giác.
      - Chị có nhớ lần đầu tiên chúng ta gặp nhau, hôm chị đến căn nhà gỗ hồi tháng Giêng ? Tôi là chúng ta những chuyện được ghi nhớ và nếu tôi cần hỏi chị câu nào đó tôi bảo chị. Chuyện liên quan đến Harriet.
      Cecilia bỗng cáu đỏ mặt lên.
      - đúng là những cái bẫy chết rấp.
      - Cecilia, tôi tìm ra điều mà tôi cần với chị về nó.
      Chị ra xa bước.
      - nhận thấy với Henrik việc săn lùng khốn kiếp cái Harriet đáng nguyền rủa kia chỉ là cách để cho đầu óc hoạt động lên rồi phải chữa bệnh hay sao? thấy là ông ấy có thể ngay ở đây và điều cuối cùng mà ông ấy cần là được ngất ngư phen nữa và được chất cho đầy hy vọng giả tạo và…
      - Đó có thể là cái thú vui riêng của Henrik nhưng trước kia ai đó từng phải loay hoay mất nhiều thời gian có nhiều tư liệu hơn nữa để tiếp đây. Có những câu hỏi cần được trả lời.
      - Nếu Henrik chết, cuộc điều tra này chấm dứt lập tức ngay. Lúc ấy ra ở cái mông đít bẩn thỉu đa sầu đa cảm sính điều tra của . – Cecilia .
      Mọi thứ đều đóng kín. Hedestad thực tế vắng tanh, người dân hình như lui cả về với những cây nêu được dựng lên vào lễ Giữa Mùa hè ở những căn nhà gỗ mùa hè của họ. Blomkvist đến sân trời. Stadhotel mở cửa và có thể gọi cà phê, bánh mì kẹp và đọc báo buổi chiều ở đó. Chả có trò gì quan trọng xảy ra ở cái thế giới này.
      đặt báo xuống, nghĩ đến Cecilia Vanger. chưa hề với ai – trừ mỗi với Salander - rằng chị là người mở cửa sổ buồng Hariet. sợ như thế làm cho chị bị nghi ngờ và muốn làm tổn thương chị. Nhưng câu hỏi sớm muộn cũng vẫn đặt ra thôi.
      ngồi ở sân trời giờ đồng hồ rồi quyết định xếp tất cả vấn đề này sang bên để dành Đêm Giữa Mùa hè cho cái gì đó chứ phải là gia đình Vanger. Di động của im lặng. Berger ở tít xa vui vầy với chồng tại nơi nào đó và chả có ai mà chuyện trò với cả.
      quay về đảo Hedeby vào quãng 4 giờ chiều và có quyết định khác nữa – cai thuốc. vẫn tập tành đều đặn ngay từ lúc làm nghĩa vụ quân , ở nhà thể dục thể thao lẫn ở dọc đường Soder Malarstrand, nơi chạy bộ nhưng lại để tuột mất thói quen này khi có các vấn đề với Wennerstrom. lại bắt đầu rèn luyện thân thể ở nhà tù Rullaker, phần lớn coi như để điều trị. Nhưng từ khi ra tù hầu như tập nữa. đến lúc lại bắt đầu lại thôi. mặc quần áo chạy vào, lững thững dọc con đường dẫn đến căn nhà gỗ của Gottfried, quay ra Pháo đài rồi làm cuốc chạy điền dã gay go hơn. Từ khi làm lính chạy có định hướng nhưng luôn nghĩ rằng chạy qua vùng rừng cây thú vị hơn là chạy đường đua bằng phẳng. men theo hàng rào vòng qua Ostergarden quay về làng. đau nhừ người và thở đứt cả hơi lúc làm nốt những bước cuối cùng về nhà khách.
      6 giờ, tắm. luộc mấy củ khoai tây và có bánh sandwich với cá trích dầm trong sốt mù tạt cùng rau thơm và trứng ở cái bàn ọp ẹp bên ngoài căn nhà gỗ, trông sang cầu. rót cốc rượu aquavit và uống tự chúc mừng mình. Sau đó mở truyện án mạng của Val McDermind có tên là Những nàng tiên cá ca hát.
      Quãng 7 giờ, Frode lái xe đến, ngồi phịch xuống đối diện ở bên kia bàn. Blomkvist rót cho ông li aquavit Skane.
      - Hôm nay khuấy lên vài cơn xúc động khá là mạnh đấy. – Frode .
      - Tôi có thể thấy được.
      - Birger là lão ngu vênh váo ta đây.
      - Tôi biết.
      - Cecilia ngu mà là phát khùng lên.
      - Tôi hiểu được. Thế ông bảo gì với chị ấy?
      Frode nhìn cốc pha lê rượu Skane rồi uống hết hơi.
      - Tôi trả lời là Henrik cho tôi những chỉ thị ràng về công việc mà ông ấy muốn làm. Chừng nào ông ấy chưa thay đổi các chỉ thị ấy còn cứ được mướn theo đúng các điều khoản trong hợp đồng của . Tôi mong hết sức cố gắng làm trọn phần của ở trong hợp đồng.
      Blomkvist ngửa mặt nhìn trời, các đám mây mưa bắt đầu tụ lại.
      - Vẻ như ủ bão. – Frode . – Nếu gió quá mạnh đừng ngại, tôi lo liệu cho .
      - Cảm ơn ông.
      Họ ngồi im lặng lúc.
      - Có thể cho tôi uống được nữa ?
      Chỉ vài phút sau khi Frode lái xe , Martin Vanger lái xe đến đỗ vào bên đường trước căn nhà gỗ . vừa bước tới vừa chào. Mikael chúc ta kỳ nghỉ giữa hè vui vẻ rồi hỏi ta có thích uống .
      - . Tôi uống tốt hơn. Tôi đến đây chỉ là để thay quần áo rồi tôi quay về thị trấn qua tối với Eva.
      Blomkvist chờ.
      - Tôi chuyện với Cecilia. Chị ấy bây giờ hơi căng đầu chút chút, chị ấy với Henrik vốn luôn thân nhau. Tôi mong bỏ qua cho nếu chị ấy có cái gì đó … được dễ chịu.
      - Tôi rất mến Cecilia.
      - Tôi biết thế. Nhưng chị ấy có thể khó tính. Tôi chỉ muốn biết rằng chị ấy rất phản đối việc tiếp tục đào sâu vào quá khứ của chúng tôi.
      Blomkvist thở dài. Hinh như ai ở Hedestad cũng đều hiểu tại sao Henrik Vanger mướn .
      - thấy sao?
      - Việc với Harriet này là nỗi ám ảnh của Henrik hàng chục năm nay. Tôi biết… Harriet là em tôi nhưng hiểu sao cứ cảm thấy tất cả xa xôi lắm rồi. Frode hợp đồng mà chỉ có Henrik mới hủy được và tôi sợ trong tình hình của chú ấy nay việc đó có hại hơn là có lợi.
      - Vậy muốn tôi tiếp tục?
      - có thêm tiến bộ nào chưa?
      - Tôi xin lỗi, Martin, nếu tôi với điều gì mà cho phép của Henrik tôi vi phạm hợp đồng.
      - Tôi hiểu.- Thình lình Martin mỉm cười. – Henrik có tí nào cái chất người tạo phản cuồng tín. Nhưng hết tôi muốn nống cần thiết các hy vọng của chú ấy lên.
      - Tôi làm thế.
      - Tốt… Nhân đây, để thay đề tài, chúng tôi hợp đồng khác cần xem xét. Ta biết rằng nếu Henrik ốm thể trong thời gian ngắn làm trọn phận của chú ấy trong ban lãnh đạo của Millennium trách nhiệm của tôi là thay thế chú ấy.
      Mikael chờ.
      - Tôi cho là chúng ta nên có hội nghị ban lãnh đạo để xem tình hình.
      - Ý kiến ấy hay. Nhưng như tôi biết quyết định là tới tháng Tám mới họp ban lãnh đạo.
      - Tôi biết thế nhưng có lẽ chúng ta nên họp sớm lên?
      Blomkvist mỉm cười lịch .
      - đúng là lầm phải đối tượng. Lúc này tôi ở trong ban lãnh đạo. nên liên hệ với Erika Berger. Chị ấy biết Henrik bị ốm.
      Martin Vanger ngờ tới câu trả lời này.
      - đúng, dĩ nhiên. Tôi với chị ấy. – vỗ vai Blomkvist, chào tạm biệt rồi .
      Chưa ra cái gì cụ thể nhưng đe dọa lượn lờ trong khí. Martin đặt Millennium lên bàn cân. lát sau, Blomkvist rót cho mình ly nữa rồi nhặt quyển của Van McDermind lên.
      Con mèo nâu đốm đến chào và cọ người vào chân . nhấc nó lên, gãi vào sau tai nó.
      - Hai ta có Đêm Giữa Mùa hè đáng ngán, đúng ? – .
      Khi trời mưa, vào nhà, lên giường. Con mèo thích ở bên ngoài.
      Đêm giữa mùa hè, Salander đem chiếc Kawasaki ra rồi bỏ cả ngày trông nom sửa sang cho nó. chiếc 125 phân phối hạng phải là xe máy mạnh nhất thế giới nhưng nó là của , và điều khiển được nó. phục hồi nó, từng đắm say thời, và sửa cho nó vượt khỏi giới hạn chỉ chút. Chiều, đội mũ bảo hiểm và mặc bộ đồ da vào rồi lái nó Nhà Dưỡng lão Appelviken, ở đây qua buổi tối cùng với mẹ tại quảng trường. cảm thấy băn khoăn và tội lỗi cắn rứt. Mẹ xem ra xa vời hơn trước. Cả ba tiếng đồng hồ buổi tối hai mẹ con với nhau được có vài lời và khi mẹ hình như biết là với ai.
      Blomkvist phí toi mấy ngày cố nhận dạng chiếc xe mang các biển số AC. Sau nhiều rắc rối và cuối cùng nhờ hỏi thợ cơ khí về hưu ở Hedestad, tới kết luận chiếc xe ấy là chiếc Ford Anglia trong năm 1966 mà mang biển đăng ký bắt đầu bằng AC3. Cuối cùng người ta bảo rằng có thể làm được cuộc “khai quật khảo cổ học” như vậy trong sổ đăng ký nhưng rất mất thời gian và vượt ra ngoài ranh giới của cái việc có thể được coi là thông tin công cộng.
      Phải vài ngày sau Ngày Giữa Mùa hè, Blomkvist mới ngồi vào chiếc Volvo mượn lên phía bắc đường số E4. thư nhàn. Ngay sau cầu Harnodsand, dừng lại để uống cà phê ở hiệu bánh ngọt tại Vesterlund.
      Chỗ đỗ sau là Umea, ở đây cho xe vào quán trọ và có tờ nhật báo số đặt biệt. mua bản đồ đường sá, rồi tiếp tới Skelleftea, ở đây rẽ sang Norsjo. Quãng 6 giờ tối lấy buồng ở khách sạn Norsjo.
      bắt đầu cuộc tìm kiếm sáng sớm hôm sau. Cửa hàng đồ mộc Norsjo có ở trong danh bạ điện thoại. nhân viên tiếp tân ở khách sạn Polar, trạc hai mươi tuổi chưa hề nghe thấy cái món kinh doanh này bao giờ.
      - Tôi nên hỏi ai?
      nhân viên bối rối vài giây cho tới khi mặt bừng sáng lên và bảo rằng gọi bố . Hai phút sau trở lại cửa hàng mộc kia đóng cửa từ đầu những năm 80. Nếu muốn chuyện với ai đó biết nhiều hơn về việc này nên gặp người Miến Điện nào đó, người này là đốc công và sống ở phố gọi là Solvandan.
      Norsjo là thị trấn với phố chính, có cái tên gọi Storgatan khá thích hợp, chạy xuyên qua cộng đồng này. Các cửa hàng nằm dọc hai bên đường với những phổ ở bên cách biệt ra gồm các nhà ở của dân. Ở đầu đằng đông có khu công nghiệp chuồng ngựa; ở đầu đằng tây sừng sững nhà thờ bằng gỗ đẹp khác thường. Blomkvist để ý thấy ngôi làng cũng có nhà thờ Truyền giáo và nhà thờ Pentecost. biểu ngữ ở bảng tin tại trạm xe buýt quảng cáo cho bảo tàng về săn bắn và bảo tàng về trượt tuyết. tờ quảng cáo còn sót lại thông báo Veronika hát ở bãi đất hội chợ vào Ngày Giữa Mùa hè. có thể từ đầu làng đằng kia mất chưa đầy hai chục phút.
      Gồm những nhà cho gia đình độc thân, cái phố này có tên Solvandan và ở cách khách sạn chỉ chừng năm phút. Khi Blomkvist bấm chuông có ai trả lời. Lúc này 9 rưỡi sáng, cho rằng người Miến Điện làm, hay nếu về hưu ra ngoài loanh quanh. Chỗ đỗ sau là cửa hàng ngũ kim ở Storgatan. rằng bất kỳ ai ở Norsjo đây sớm muộn ắt đều phải đến viếng thăm nhà ngũ kim. Có hai nhân viên bán hàng trong cửa hiệu. Blomkvist chọn người nhiều tuổi hơn, có lẽ năm chục hay hơn.
      - Tôi tìm cặp chắc là sống ở Norsjo ta trong những năm 60. Người đàn ông chắc là làm cho cửa hàng đồ mộc Norsjo, tôi biết tên của họ nhưng tôi có hai bức ảnh chụp năm 1966.
      Nhân viên này xem ảnh lúc lâu nhưng cuối cùng lắc đầu ông nhận ra được cả hai người trong ảnh. Bữa trưa, ăn cái bánh burger với xúc xích nóng gần trạm xe buýt. thôi hỏi các cửa hàng mà qua nhà thị chính, thư viện và hiệu thuốc. Đồn cảnh sát trống bắt đầu cầu âu đến gặp những người nhiều tuổi. Đầu buổi chiều hỏi hai người phụ nữ trẻ: Họ nhận ra được hai người trong ảnh nhưng ý hay.
      - Nếu ảnh chụp năm 1966 người trong ảnh nay cũng cỡ sáu chục rồi. Sao ông đến nhà nghỉ hưu ở Solbacka mà hỏi ở đấy xem?
      Blomkvist tự giới thiệu với người phụ nữ trực ở nhà dành cho người nghỉ hưu, điều muốn biết. Bà nghi ngờ nhìn lừ lừ nhưng cuối cùng tự cho phép là có thể cho lời của lọt vào tai bà được. Bà dẫn đến phòng sinh hoạt chung, ở đây bỏ nửa giờ ra cho nhóm những người có tuổi xem các bức ảnh. Họ rất muốn giúp đỡ nhưng ai nhận ra được cặp đàn ông đàn bà này.
      5 giờ chiều quay về Solvandan, gõ cửa nhà người Miến Điện. Lần này may mắn hơn. Hai vợ chồng người Miến Điện đều về hưu và cả ngày họ ra ngoài. Họ mời vào trong bếp, người chồng nhanh nhẹn pha cà phê trong khi Blomkvist về việc quẩn quanh của mình. Giống như mọi mưu toan hôm đó, lại hay tay trắng. Người Miến Điện gãi gãi đầu, châm tẩu thuốc, rồi sau lúc kết luận ông ta nhận ra hai người trong ảnh. Hai người Miến Điện với nhau rành rành bằng tiếng địa phương. Norsjo và Blomkvist thỉnh thoảng có chỗ hiểu họ gì. Người vợ nhận xét người phụ nữ trong ảnh có knovelhara tức là có “tóc uốn quăn”.
      - Nhưng ông đúng, đúng đấy là quảng cáo của cửa hiệu đồ mộc, - chồng bà ta . – Ông nhận ra được là thông minh đấy. Nhưng vấn đề là chúng ta hãy nên đem chìa cái quảng cáo này cho khắp mọi nơi. Cho những nhà đấu thầu, những người mua hay cung cấp gỗ xúc, thợ làm đồ nội thất, thợ máy, mọi kiểu.
      - Tìm cái đôi này hóa ra lại gay hơn tôi tưởng.
      - Tại sao ông lại muốn tìm họ?
      Blomkvist quyết định nếu có ai đó hỏi . Đặt ra chuyện gì về cặp đàn ông đàn bà trong ảnh này nghe cũng đều giả và gây ra hoang mang.
      - Chuyện này dài. Tôi điều tra vụ án mạng xảy ra ở Hedestad năm 1966 và tôi nghĩ là có khả năng, tuy rất thôi, là hai người trong ảnh này có thể trông thấy cái điều xảy ra. Họ phải là những người bị tình nghi và tôi nghĩ có khi họ cũng biết là họ lại có thông tin có thể giải quyết được vụ án mạng này.
      - Án mạng?
      - Án mạng thế nào?
      - Tôi xin lỗi, nhưng tôi thể bảo hơn cho ông bà được nữa. Tôi biết là sau gần bốn chục năm người đến tận đây cố tìm ra hai người trong ảnh này nghe là chuyện rất kỳ, nhưng vụ này vẫn chưa được giải quyết và phải muộn hơn nữa sau này các việc mới ra được với ánh sáng.
      - Tôi hiểu. Đúng, cái việc ông làm này chắc chắn là nó lạ rồi.
      - Bao nhiêu người làm việc ở cửa hàng gỗ ấy?
      - Nhân công bình thường là bốn chục hay hơn. Tôi làm ở đây năm tôi mười bảy, hồi giữa những năm 50, cho đến khi cửa hiệu đóng cửa. Rồi tôi làm chủ thầu. – Ông Miến Điện nghĩ lúc. – Tôi có thể với ông nhiều đến như vậy đấy. Người đàn ông trong ảnh làm ở đó bao giờ. Có thể ông ta là người thầu nhưng nếu thế tôi nhận ra được chứ. Nhưng có thể có khả năng khác. Có thể bố ông ta hay họ hàng nào của ông ta làm ở cửa hiệu và chiếc xe phải là của ông ta.
      Mikael gật.
      - Tôi nhận ra thấy nhiều khả năng. Ông có gợi ý về ai đó mà tôi có thể chuyện được với ?
      - Có. – người Miến Điện gật đầu . – Sáng mai ông đến đây rồi chúng ta gặp và chuyện với số người già.
      Salander đối mặt với vấn đề về phương pháp luận có tầm quan trọng nào đó. chuyên gia đào bới thông tin về người nào đó nhưng với con người sống điểm xuất phát của luôn là tên gọi và con số bảo hiểm xã hội. Nếu cá nhân có tên trong hồ sơ máy tính, mà mấy ai tránh khỏi được chuyện đó, cá nhân đó liền nhanh chóng đổ bộ ngay vào tầm lưới mạng nhện của . Nếu cá nhân sở hữu máy tính với kết nối Internet, địa chỉ email, và có thể cả chỗ trang web nữa gần như cầm chắc là phải chịu kiểu điều tra đặc biệc của , chóng chày các bí mật sâu đến tận củ tỉ của cũng bị moi ra bằng hết. Việc nhận làm cho Blomkvist lại gần như khác hẳn. đơn giản công việc này là nhận dạng ra bốn con số bảo hiểm xã hội, dựa dữ liệu cực kỳ mơ hồ. Thêm vào, phần lớn các cá nhân này đều chết vài thập niên trước. Vậy chắc là họ có ở trong hồ sơ máy tính nào.
      Dựa vụ Rebecka Jacobsson, lập luận của Blomkvist là các cá nhân này là nạn nhân của tên giết người. Có nghĩa là những cuộc điều tra kết quả của cảnh sát cũng có phát ra họ. Các vụ án mạng này lại có các đầu mối về địa điể và thời gian xảy ra, trừ đó là vào năm 1966. Xét về nghiệp vụ điều tra mà , đối mặt với tình hình hoàn toàn mới.
      Vậy ta làm việc này như thế nào đây?
      kéo ô tìm kiếm của Google lên, đánh máy các từ khóa [Magda] + [án mạng]. Đây là hình thức tìm kiếm đơn giản nhất có thể làm. ngạc nhiên thấy ngay tức mở được đột phá ở cuộc điều tra. Thắng lợi đầu tiên của là các danh sách liệt kê chương trình cho kênh truyền hình Varmland ở Karlstad, quảng cáo đoạn trong các xê ri “Các Vụ án mạng Varmland” được phát trong năm 1999. Sau đó tìm thấy ở trong Varmlands Folkblad ghi nhận ngắn ngủn về danh sách liệt kê chương trình tivi.
      Trong các xê ri “Các Vụ án mạng ở Varmland”, chủ đề chú ý bây giờ quay vào Magda Lovisa Sjoberg ở Ranmotrask, bí mật về vụ án mạng khủng khiếp từng làm cảnh sát Karstad bắn lên nhiều chục năm trước đây.
      Tháng Tư năm 1966, người ta tìm thấy người vợ bốn mươi sáu tuổi của chủ trại bị giết ở trong nhà kho của gia đình. Phóng viên Claes Gunnars miêu tả những giờ cuối cùng của bà và việc cảnh sát tìm kiếm vô hiệu tên sát nhân. Vụ án khuấy động dư luận xã hội lúc đó, người ta trình bày nhiều lập luận về kẻ gây ác là ai. người họ hàng xuất màn hình để về cuộc đời của người ấy bị hủy hoại làm sao khi bị kết tội là thủ phạm. 8 giờ tối.
      tìm được nhiều thông tin thực chất hơn ở trong bài báo “Vụ Lovisa làm chấn động toàn bộ đồng quê” đăng tạp chí Varmlandskultur. Tất cả các bài viết của tạp chí được đưa lên Net. ràng là viết với giọng văn hoạt, chuyện trò và xúi giục, bài báo miêu tả việc chồng của Lovisa Sjoberg, người đốn gỗ Holger Sjoberg tìm thấy vợ chết khi ông làm về vào khoảng 5 giờ. Bà bị xâm hại tình dục tàn bạo, bị đâm và cuối cùng bị giết bằng những răng đinh ba. Vụ án mạng xảy ra trong nhà kho của gia đình nhưng cái khơi gợi chú ý nhất là sau khi giết, kẻ gây ác trói bà ở tư thế quỳ bên cạnh chuồng ngựa. Về sau còn phát trong những gia súc trong nhà, con bò, bị đâm nhát vào bên cổ.
      Ban đầu người chồng bị nghi là thủ phạm nhưng từ 6 giờ sáng hôm ấy ông cùng làm việc với các thợ đốn gỗ tại khu rừng thưa cách nhà ông hai mươi lăm dặm. Có thể xác minh bà Lovisa Sjoberg vẫn còn sống vào hồi 10 giờ sáng, khi có bà bạn đến thăm. ai nghe hay nhìn thấy cái gì cả; khu trại ở cách nhà láng giềng gần nhất non nửa cây số.
      Sau khi buông người chồng nghi can, điều tra của cảnh sát tập trung vào người cháu hai mươi ba tuổi của nạn nhân. ta hay bị pháp luật hỏi han, nghèo xác xơ, nhiều lần phải vay bà dì mình những món tiền còm. Bằng chứng ngoại phạm của người cháu hơi bị yếu, ta bị bắt tạm giam thời gian nhưng được tha vì thiếu bằng chứng. Tuy thế, dân làng nhiều người vẫn nghĩ chắc chắn nhiều phần cháu là thủ phạm.
      Cảnh sát theo đầu mối khác. phần điều tra dành cho tìm kiếm người bán hàng rong được trông thấy ở trong khu vực; cũng có đồn rằng nhóm “người Digan ăn cắp” làm loạt đột nhập. bao giờ giải thích tại sao gây ra vụ án mạng dã man, liên quan đến hãm hiếp mà họ lại tháu thứ gì cả.
      dạo, nghi ngờ lại chĩa vào người hàng xóm ở trong làng, người độc thân thời trẻ bị nghi về vụ án mạng cho là có liên quan đến tính dục cùng giới – lúc ấy còn là thói trừng phạt tính dục cùng giới – và theo nhiều xác nhận ta có vẻ “ngô ngố”. Cũng giải thích nốt tại sao người được coi là làm tình với đàn ông mà lại gây ra vụ án tính dục với phụ nữ. Các đầu mối này, kể cả các cái khác nữa, đều dẫn đến kết án nào.
      Salander nghĩ có liên hệ ràng với bản danh sách ở trong quyển sổ tay của Harriet. Leviticus 20:16 : “Nếu người đàn bà lại gần và nằm với con thú ngươi phải giết người đàn bà cùng con thú; chúng phải bị xử chết, chúng phải bị nhuốm máu chính chúng”. thể là trùng hợp ngẫu nhiên việc vợ chủ trại với tên là Magda lại được tìm thấy bị giết ở trong nhà kho, thân thể được xếp đặt như thế, và bị trói ở trong chuồng ngựa.
      Vấn đề là tại sao Harriet viết tên Magda chứ phải là Lovisa dù ràng Lovisa là tên của nạn nhân. Nếu tên họ của bà ta được đưa đầy đủ lên trong chương trình tivi Salander cũng để lọt mắt.
      Và câu hỏi quan trọng hơn nữa dĩ nhiên là: có mối liên hệ nào giữa vụ giết Rebecka năm 1949, vụ giết Magda Lovisa năm 1960 và vụ Harriet mất tích năm 1966 ?
      Sáng thứ bảy, người Miến Điện đưa Blomkvist tua nhiều nơi ở Norsjo. Buổi sáng họ đến năm người làm công trước kia nhưng sống gần nhà người Miến Điện, bộ có thể đến được nhau. Ai cũng mời họ cà phê. Tất cả đều xem kỹ ảnh rồi lắc đầu.
      Sau bữa cơm trưa đơn giản ở nhà người Miến Điện, họ lên xe . Họ thăm bốn ngôi làng gần Norsjo, nhiều người làm công trước kia của cửa hiệu đồ gỗ sống ở đây. Ở chỗ đỗ nào người Miến Điện cũng được chào đón nồng nhiệt nhưng ai có thể giúp được họ. Blomkvist bắt đầu nản.
      4 giờ chiều, người Miến Điện đỗ xe ở bên ngoài trang trại màu đỏ điển hình của Vasterbotten gần Norsjovallen, ngay mạn bắc Norsjo rồi giới thiệu Mikael với Henning Forsman, sư phụ nghề mộc.
      - Đúng, đấy là thằng bé nhà Assar Brannlund. – Foreman ngay khi Blomkvist đưa ảnh cho ông ta xem. Bingo.
      - A, thế ra là con trai Assar. – Người Miến Điện . – Assar là người mua gỗ.
      - Tôi tìm ta thế nào nhỉ? – Blomkvist .
      - Thằng bé ấy ư? Ồ, phải đào lên đấy. Tên nó là Gunnar và nó làm ở mỏ Boliden. Nó chết trong vụ nổ hầm mỏ hồi giữa những năm 70 rồi.
      Ngực Blomkvist hẫng cái.
      - Nhưng vợ còn sống. Đây, người trong ảnh này đây. Tên ta là Mildred và nay sống ở Bjursele.
      - Bjursele?
      - Xuôi xuống đường Bastutrask chừng sáu cây số. ấy sống trong ngôi nhà dài màu đỏ ở bên tay phải khi các ông vào làng. Nhà thứ ba. Tôi rất biết nhà ấy.
      - Chào, tôi là Lisbeth Salander, tôi viết luận văn về tội phạm học bạo hành với phụ nữ trong thế kỷ XX. Tôi muốn thăm cảnh sát quận Landskrona và đọc các tư liệu về vụ án được 1957. Nó liên quan tới phụ nữ có tên là Rakel Lunde bị giết. Ông có biết các tư liệu đó ở đâu ?
      Bjursele giống như bích trương cho làng quê ở Vasterbotten. Nó gồm khoảng hai chục ngôi nhà tương đối gần nhau trong bán nguyệt ở cuối cái hồ. Giữa làng là ngã tư với mũi tên chỉ Hemmingen, khoảng 17 kilômét và mũi tên khác chỉ Bastutrask, khoảng 11 kilômét. Gần ngã tư là cái cầu với nhánh sông. Vào chính mùa hè, nó đẹp như tấm bưu ảnh.
      đỗ xe ở trong sân trước cửa hàng Khôngnsum còn mở nữa, gần như đối lại với ngôi nhà thứ ba ở bên tay phải. Khi gõ cửa có ai trả lời.
      giờ đồng hồ dọc con đường tới Hemmingen. qua chỗ dòng nước trở thành thác ào ào. gặp hai con mèo và con nai nhưng bóng người trước khi quay đầu lại. Cửa nhà Mildred Brannlund vẫn im ỉm. Ở cột điện gần cầu, thấy tờ quảng cáo mỏng dính thông báo BTCC, câu có thể giải mã ra là Giải vô địch Xe hơi Tukting Bjursele năm 2002. “Tukting” xe hơi có vẻ là trò thể thao mùa đông trong đó người đua cho đè bẹp chiếc xe ở mặt hồ đóng băng.
      chờ đến 10 giờ tối rồi bỏ cuộc lái về Norsjo, ăn tối muộn ở đây và lên giường đọc đoạn kết của cuốn tiểu thuyết của Val McDermid.
      Kết ghê rợn.
      10 giờ, Salander thêm tên nữa vào danh sách của Harriet Vanger. điền có đôi chút do dự.
      tìm ra lối tắt. Các bài báo được đăng lên với những quãng cách đều đặn về những vụ án mạng được giải quyết, trong phụ san Chủ nhật báo buổi chiều tìm thấy bài báo từ 1999 với đầu đề “Nhiều tên giết hại phụ nữ vẫn lại tự do”. Bài báo ngắn nhưng có nêu các tên và ảnh của vài nạn nhân bị giết đáng được ghi nhận. Có vụ Solveig ở Norrtalje, vụ án mạng Anita ở Norrkhôngping, Margareta ở Helsinborg và số vụ khác.
      Vụ lâu nhất cần kể lại là từ những năm 60 và có vụ nào sánh được với bản danh sách của Salander mà Blomkvist đưa cho . Nhưng vụ bắt phải chú ý.
      Tháng Sáu năm 1962, điếm có tên Lea Persson ở Goteborg đến Uddevalla để thăm mẹ đẻ và đứa con trai lên chín của mình lúc ấy nhờ bà trông nom. tối Chủ nhật, mấy ngày sau chuyến thăm, Lea ôm mẹ, chào tạm biệt và bắt xe lửa về Goteborg. Hai ngày sau người ta tìm thấy ở sau côngtenơ tại địa điểm công nghiệp hoang phế. bị hiếp và phải chịu trận bạo hành khác thường về thân xác.
      Vụ án mạng Lea thành ra truyện kể nhiều kỳ báo ngày hè do đó dấy lên chú ý to lớn nhưng vẫn dò ra được hung thủ. Trong bản danh sách của Harriet Vanger có Lea. Cách chết của cũng trùng với bất cứ khổ thơ nào mà Harriet trích dẫn.
      Mặt khác, có trùng hợp lạ lùng là ăng ten của Salander lập tức kêu lúc đó. Cách chỗ Lea nằm gần mười mét lăn lóc bình hoa trong có con chim bồ câu. Ai đó buộc sợi dây vào cổ con chim và kéo nó qua cái lỗ ở đáy cái nồi. Cái nồi được đặt đun lim dim hai viên gạch. chắc chắn rằng độc ác này là có dính đến vụ án mạng Lea. Có thể là trò chơi tai quái của trẻ con song báo chí mệnh danh vụ án này là Vụ án mạng Bồ câu.
      Salander phải là người đọc Kinh thánh – chả có quyển nào – nhưng tối hôm ấy đến nhà thờ Hogalid để cố mượn phải là dễ cuốn Kinh thánh. ngồi ghế vườn hoa bên ngoài nhà thờ đọc Leviticus. Khi đọc đến Chương 12, khổ thơ 8, lông mày nhướng lên. Chương 12 bàn đến việc làm cho phụ nữ sau sinh nở được trong sạch lại.
      Và nếu người phụ nữ con cừu ta lấy hai con cu gáy hay hai con bồ câu non, con để hỏa thiêu dâng cúng, con để dâng cúng lỗi lầm; và thày tế làm lễ chuộc tội cho ta và ta sạch.
      Lea rất có thể vào khuýp trong bản danh sách của Harriet Vanger là: Lea – 31208.
      Salander nghĩ cuộc điều tra nghiên cứu nào làm trước đây lại có được mẩu cơ hội phát huy bản lĩnh như ở trong nhiệm vụ lần này.
      Mildred Brannlund tái hôn và nay là Mildred Berggren, mở cửa khi Blomkvist gõ cửa vào khoảng 10 giờ sáng Chủ nhật. Người phụ nữ nom già hơn, dĩ nhiên, và đẫy đà ra nhiều nhưng nhận ra ngay.
      - Chào, tôi là Mikael Blomkvist. Chắc bà là Mildred Berggren.
      - Đúng.
      - Tôi xin lỗi là gõ cửa nhà ta như thế này nhưng tôi cố tìm bà, việc này ra cũng là phức tạp đây. – mỉm cười với bà. – Tôi nghĩ là tôi có thể vào làm bà mất chút thời gian được ạ.
      Chồng và con trai cỡ chừng ba mươi lăm của Mildred đều có nhà. do dự, bà mời Blomkvist vào và họ đến ngồi ở trong bếp. bắt tay từng người. uống cà phê trong hai mươi tư giờ qua nhiều hơn bất cứ lúc nào trong đời, nhưng bây giờ được biết rằng ở Norrland ai mà là kẻ thô thiển. Khi các tách cà phê bàn, Mildred ngồi xuống, hơi tò mò hỏi bà giúp được chuyện gì đây. ràng là dễ mà hiểu được phương ngữ Norsjo của bà nên chuyển sang tiếng Thụy Điển chuẩn.
      Blomkvist hít hơi dài.
      - Chuyện này dài và lạ, - . – Tháng Chín năm 1966, bà ở Hedestad với Gunnar Brannlund, chồng bà lúc bấy giờ.
      Nom bà ngạc nhiên. chờ bà gật đầu rồi mới để tấm ảnh ở Jarnvagsgatan lên bàn ở trước mặt bà.
      - Bức ảnh này chụp ở đâu? Bà có nhớ lúc đó ?
      - Ô, trời. – Mildred Berggren . – Lâu lắm rồi.
      Chồng và con trai bà đến đứng ở gần bà để xem bức ảnh.
      - Chúng tôi trăng mật. Chúng tôi lái xuống Stockholm và Sigtuna đường về nhà tình cờ đỗ lại ở chỗ nào đó. Là ở Hedestad như ông phải ?
      - Vâng, ở Hedestad. Bức ảnh này chụp vào khoảng 1 giờ chiều. Thời gian qua tôi cố tìm bà và tìm dễ.
      - Ông xem bức ảnh cũ của tôi rồi dò lần ra được chỗ tôi, ông phải mất công như thế nào, điều này tình tôi thể tưởng tượng ra được.
      Blomkvist để bức ảnh chụp ở bãi đỗ xe lên bàn.
      - Tôi tìm được bà là nhờ ảnh này, nó chụp sau bức kia ít. Trong ngày hôm đó. - giải thích qua cửa hàng đồ mộc Norjo tìm ra người Miến Điện như thế nào, ông này đến lượt lại dẫn đến Henning Forsman ở Norsjovallen.
      - Ông phải có lý do gì mới cất công tìm như thế chứ?
      - Có ạ. đứng ở gần bà đây là Harriet Vanger. ta mất tích trong ngày hôm ấy, còn nghe và trông thấy ấy bao giờ nữa. Ý kiến chung cho là ấy là mồi của kẻ giết người. Tôi có thể đưa bà xem ít ảnh nữa ?
      lấy iBook ra và giải thích các cảnh trong khi máy tính cho hình ảnh lên.
      Rồi cho bà xem loạt ảnh cho thấy vẻ mặt của Harriet thay đổi.
      - Trong khi xem lại các ảnh này tôi tìm thấy bà, đứng với máy ảnh ở ngay sau lưng Harriet và nom vẻ bà như chụp cái về hướng mà Harriet nhìn đến, cái gì đó làm cho ấy phản ứng ra như thế này. Tôi biết hôm ấy bà chụp rất nhiều nhưng lý do tôi tìm bà là để hỏi liệu nhờ phép màu nào đó mà bà vẫn còn có được các bức ảnh bà chụp lúc ấy ?
      chuẩn bị nghe bà chủ thoái thác mà bảo rằng từ lâu chẳng còn các bức ảnh ấy rồi. Nhưng bà nhìn bằng đôi mắt xanh lơ và , tựa như đây là cái điều tự nhiên nhất đời, bà dĩ nhiên vẫn còn các bức ảnh trăng mật của bà chứ.
      Bà sang phòng khác, vài phút sau quay lại với cái hộp bà cất giữ ở trong đó số ảnh trong các album khác nhau. Mất lúc để tìm. Bà chụp ba bức ở Hedestad. cái bị nhòa cho thấy đường phố chính. cái cho thấy chồng bà hồi ấy. Bức thứ ba cho thấy những hề trong đám diễu hành.
      Blomkvist háo hức cúi xuống. có thể thấy người ở bên kia đường phố, ở sau hề. Nhưng bức ảnh tuyệt đối được cho điều gì cả.

      Stieg Larsson
      Có Hình Xăm Rồng

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 29
      Thứ Ba, 1 tháng Bảy

      Thứ Tư, 2 tháng Bảy

      Sáng hôm sau quay về Hedestad, việc đầu tiên Blomkvist làm là đến nhà Frode hỏi thăm tình hình Vanger. mừng hay tin ông già khá lên chút ít trong tuần qua. Ông vẫn còn yếu, mong manh nhưng nay có thể ngồi được ở giường. Sức khỏe của ông còn bị coi là đáng ngại nữa.
      - Nhờ Chúa, - , - tôi nhận ra tôi mến ông già .
      Frode :
      - Tôi biết thế. Henrik cũng mến . Norrland sao?
      - Có kết quả những thỏa mãn. Khoan chút rồi tôi sau. Ngay bây giờ tôi có câu hỏi.
      - Hỏi .
      - Nếu Henrik chết cái gì xảy ra với lợi ích của ông ở Millennium?
      - Chả có gì cả. Martin thế chân ở ban lãnh đạo báo.
      - Giả định ngộ như tôi ngừng cuộc điều tra vụ Harriet mất tích liệu có cơ là Martin gây chuyện gì cho Millennium ?
      Frode nhìn soi mói.
      - Có gì đấy?
      - , mà. – Mikael kể với ông câu chuyện giữa và Martin đêm Giữa hè. – Khi tôi ở Nosjo, Erika bảo tôi là Martin có gọi cho ấy bảo rằng rất cần tôi trở về tòa soạn.
      - Tôi hiểu. Tôi đoán là Cecilia ở đằng sau ta. Nhưng tôi nghĩ là Martin gây áp lực lên giống như lên với chính ta. ta rất có lương tri. Và nhớ cho là tôi cũng ở trong ban lãnh đạo của công ty con mà chúng tôi lập ra khi mua vào Millennium đấy nhá.
      - Nhưng nếu xảy ra chuyện cứ lẵng nhẵng gây khó khăn, ông làm sao lúc ấy?
      - Phải trọng tồn tại của các cái nghịch. Tôi làm việc cho Henrik. Henrik và tôi thành bạn bè trong bốn mươi lăm năm và chúng tôi nhất trí với nhau hoàn toàn trong các vấn đề như thế. Nếu Henrik chết điểm thực tế là tôi – chứ phải Martin – kế thừa cổ phẩn của Henrik ở trong công ty . Chúng ta hợp đồng trong đó chúng tôi cam kết ủng hộ Millennium trong ba năm. Nếu Martin bắt đầu làm cái gì sai – tôi tin ta làm thế - về lý thuyết ta có thể nhấn phanh hãm vào số lượng những khác hàng mới đặt thuê quảng cáo.
      - Và là máu huyết sinh tồn của Millennium.
      - Vâng, nhưng hãy nhìn chuyện đó ở phía này – lo với các trò tầm phào ấy chỉ là phí giờ. Martin phấn đấu cho sống của ngành công nghiệp mà ta đeo đuổi, mỗi ngày làm tới mười bốn giờ đồng hồ. ta có thời gian cho các thứ khác đâu.
      - Tôi hỏi có được – tôi biết đây phải là việc của tôi – tình hình chung của tập đoàn như thế nào nhỉ?
      Frode nom vẻ nghiêm trọng.
      - Chúng tôi có những vấn đề.
      - Vâng, ngay phóng viên tài chính thường thường như tôi mà còn có thể thấy cái đó. Tôi ý là nghiêm trọng đến đâu?
      - được ghi nhớ.
      - Giữa chúng ta mà.
      - Mấy tuần qua chúng tôi mất hai đơn đặt hàng lớn trong công nghiệp điện tử và sắp bị hất ra khỏi thị trường Nga. Tháng Chín chúng tôi phải thải 1.600 công nhân viên ở Orebro và Trollhattan. phải là phần thưởng lớn cho những người làm việc cho công ty trong nhiều năm. Mỗi lần chúng ta đóng cửa nhà máy, lòng tin vào công ty lại bị mất nhiều hơn.
      - Martin bị sức ép.
      - ta như con bò kéo cỗ xe vỏ trứng.
      Blomkvist về đến nhà gọi Berger. ở tòa soạn, Malm bảo như vậy.
      - Chuyện là khi tôi ở Norsjo, Erika có gọi tôi, Martin tìm ấy và như tôi nghe , ấy động viên Erika đề nghị tôi bắt đầu phụ trách lại công việc biên tập.
      - Tôi nghĩ nên thế. – Malm .
      - Tôi biết thế nhưng vấn đề là tôi hợp đồng với Henrik Vanger mà tôi thể vi phạm còn Martin với tư cách người ở đây muốn tôi ngừng việc làm và rời thị trấn. Vậy đề nghị của ấy coi như là có ý định bỏ tôi.
      - Tôi biết.
      - Chào Erika hộ. Bảo ấy là tôi trở về Stockholm khi tôi xong việc ở này.
      - Tôi hiểu. say việc như điên, ai chả thấy nhưng tôi báo chị ấy ý kiến của .
      - Christer, cái gì đó diễn ra ở này, tôi có ý lùi.
      Blomkvist gõ cửa nhà Martin Vanger. Eva mở cửa và chào niềm nở.
      - Chào, có phải nhà Martin ?
      Như để trả lời , Martin ra với cái cặp hồ sơ trong tay. hôn má Eva rồi chào Blomkvist.
      - Tôi làm. muốn chuyện với tôi ư?
      - Ta có thể sau nếu gấp.
      - Cứ .
      - Tôi chưa làm xong công việc Henrik giao tôi chưa trở về tòa soạn. Bây giờ tôi báo với việc đó để đừng tính đến tôi ở trong ban lãnh đạo trước năm mới.
      Martin đu đưa người trước sau lúc.
      - Tôi hiểu. nghĩ là tôi muốn thải . – ngừng lại – Mikael, sau đây chúng tay phải chuyện này. Tôi giờ hiến mình cho cái thú riêng của tôi ở Millennium, và tôi mong tôi bao giờ đồng ý với đề nghị của Henrik. Nhưng tin tôi – tôi làm hết sức cho Millennium sống sót.
      - Tôi bao giờ nghi ngờ điều ấy.
      - Nếu tôi hẹn được lúc nào đó trong tuần sau chúng ta có thể bàn đến chuyện tài chính và tôi có thể cho biết ý kiến của tôi về vấn đề này. Nhưng thái độ cơ bản của tôi là Millennium thể cho phép trong những người chủ chốt của nó lại ngồi chờ đợi ở tít tận đảo Hedeby. Tôi thích tờ tạp chí và tôi nghĩ chúng ta có thể cùng nhau làm cho nó mạnh hơn lên nhưng phải là then chốt. Chúng ta đến xung đột về lòng trung thành ở đây. Hoặc là tôi ngược lại mong muốn của Henrik hoặc là việc tôi làm ở ban lãnh đạo Millennium.
      Blomkvist mặc bộ quần áo thể thao vào và ra ngoài để chạy đến Pháo đài rồi xuống căn nhà gỗ của Gottfield trước khi quay về nhà dọc theo bờ nước, chậm bước hơn. Frode ngồi ở cái bàn trong vườn. Ông kiên nhẫn chờ Mikael uống hết chai nước và lau mồ hôi mặt.
      - Nóng thế này nom được khỏe lắm nhỉ.
      - Ồ, sao. – Blomkvist .
      - Tôi lầm. Cecilia phải là người đằng sau Martin. Là Isabella. Bà ta bận rộn huy động dòng họ Vanger phang và có thể cho lên cả giàn hỏa thiêu nữa. Bà ấy được Birger ủng hộ.
      - Isabella?
      - Bà ta là người tai quái và chung thích người khác. Ngay bây giờ khi bà ấy ghét đặc biệt. Bà ấy loan truyền tay xúc xiểm lừa để cho Henrik mướn bắt ông ấy lao lực quá sức nên mới bị đau tim.
      - Tôi hy vọng ai tin điều đó.
      - Vẫn luôn có ai đó thích tin các lời đồn độc địa.
      - Tôi cố tìm cái gì xảy ra với con bà ấy – thế mà bà ấy lại căm ghét tôi. Nếu Harriet là con tôi, tôi có phản ứng khác đấy.
      2 giờ chiều, di động của kêu.
      - Chào, tôi là Conny Torsson làm việc ở Hedestad Courier. Ông có giờ trả lời vài câu hỏi ? Chúng tôi nghe hóng được là ông ở Hedeby.
      - Ông Horsson, cái máy của ông bắt tin hơi chậm tí. Tôi ở đây từ mồng đầu năm.
      - Tôi biết điều ấy. Ông làm gì ở Hedestad?
      - Viết. Và nghỉ ngày Sabbath theo người Do thái.
      - Ông làm về việc gì?
      - Khi đăng báo ông biết.
      - Ông vừa mới được tha tù…?
      - Vâng?
      - Ông nghĩ như thế nào về những nhà báo man trá tài liệu?
      - Những nhà báo man trá tài liệu là những đứa ngu.
      - Vậy theo quan niệm của ông ông là đứa ngu à?
      - Nhưng sao tôi lại nghĩ thế? Tôi man trá tài liệu.
      - Nhưng ông bị tù vì vu cáo đó.
      - Thế ư?
      Torsson ngập ngừng đủ lâu để Blomkvist phải cho ta cú.
      - Tôi bị tù vì vu cáo, vì man trá tài liệu.
      - Nhưng ông đăng tài liệu ấy lên.
      - Nếu ông gọi tôi để thảo luận về phán xét chống lại tôi tôi có bình luận.
      - Tôi thích phỏng vấn ông.
      - Tôi có gì để với ông về vấn đề này.
      - Vậy ông muốn thảo luận về phiên tòa ư?
      - Đúng đấy. – và tắt máy. ngồi nghĩ hồi lâu rồi đến với máy tính.
      Theo lời chỉ dẫn nhận được, Salander lái chiếc Kawasaki qua cầu đến đảo Hedeby. dừng lại ở căn nhà đầu tiên bên trái. hết ngô nghê nhưng chừng nào người mướn còn trả tiền nếu có lên Bắc cực cũng chả mùi. Ngoài ra, cho chiếc Kawasaki phòng chuyến dài đường số E4 là nhất quá rồi. gạt chân chống rồi cởi cái dây buộc giữ cái túi đựng đồ lề du lịch của .
      Blomkvist mở cửa vẫy . ra quan sát chiếc xe của , ngạc nhiên ra mặt.
      huýt sáo.
      - xe máy!
      Salander năng. Nhưng có ý theo dõi khi sờ vào ghi đông và thử bộ phận tăng tốc. thích bất cứ ai mó máy vào đồ lề của mình. Rồi trông thấy với nụ cười hồn nhiên thà, cái mà coi là nét cứu vãn. Phần lớn người thích xe máy thường là cười cỗ xe cân của .
      - Mười chín tuổi tôi cái xe máy. – , quay . – Vào , để cho còn nghỉ ngơi chứ.
      mượn cái giường cắm trại của nhà Nilsson. Salander làm vòng quanh căn nhà , nom vẻ ngờ vực nhưng xem ra thấy thoái mái khi tìm thấy những dấu hiệu lộ liễu nào về cạm bẫy gian tà. chỉ cho buồng tắm ở đâu.
      - Để phòng khi cần tắm hay rửa ráy cho mát mẻ.
      - Tôi phải thay quần áo. Tôi ra ngoài loăng quăng với bộ đồ toàn là da này được.
      - Ok. tắm còn tôi làm bữa tối nhỉ.
      áp chảo sườn cừu với sốt vang đỏ rồi kê bàn ra ngoài nắng chiều trong khi Salander tắm. chân đất ra, mặc cái áo yếm đen và váy ngắn bằng vải demin cũ. Thức ăn ngửi thơm ngon và lấy luôn hai suất lớn. Mê hoặc, Blomkvist liếc trộm cái vào hình xăm lưng .
      - Năm cộng ba. – Salander – Năm vụ trong danh sách của Harriet và ba vụ mà tôi nghĩ là nên có trong danh sách này.
      - tôi xem.
      - Tôi mới làm cái này mười hôm nay và tôi có may mắn để được đào tung lên tất cả các báo cáo. Trong số vụ, các báo cáo của cảnh sát được để vào sở văn khố của quốc gia còn ngoài ra vẫn được cất giữ ở cảnh sát quận. Tôi ba ngày đến cảnh sát của nhiều quận nhưng tôi giờ xem hết của họ. Năm vụ này được nhận diện.
      Salander để chồng giấy bề thế, khoảng 500 trang, lên bàn bếp. nhanh chóng xếp tài liệu ra làm năm đống.
      – Ta sắp xếp chúng theo thứ tự thời gian – đưa danh sách cho Blomkvist.
      1949 – REBECKA JACOBSSON, Hedestad (30112)
      1954 – MARI HOLMBERG, Kalmar (32018-)
      1957 – RAKEL LUNDE, Lanskrona (32027)
      1960 – (MAGDA) LOVISA SJOBERG, Karlstad (32016)
      1960 – LIV GUSTAVSSON, Stockholm (32016)
      1962 – LEA PERSSON, Liddevalla (31208-)
      1964 – SARA WITT, Ronneby (32109)
      1966 – LENA ANDERSSON, Uppsala (30112)
      Vụ đầu tiên trong loạt án này là Rebecka Jacobsson, 1949, chi tiết biết rồi. Vụ tiếp theo tôi tìm thấy là Mari Holmberg, điếm ba mươi hai tuổi ở Kalmar bị giết ở nhà ta tháng Mười 1954. biết chính xác bị giết vào lúc nào vì tìm thấy được ngay thi thể, chắc là chín mười ngày sau.
      - Sao lại gắn nó vào danh sách Harriet?
      - ấy bị trói và bị lạm dụng tệ hại nhưng chết là do bị thắt cổ bằng cái khăn vệ sinh.
      Blomkvist ngồi im lúc rồi nhìn lên khổ thơ Leviticus 20:18.
      “Nếu người đàn ông nằm với người đàn bà đau ốm và phơi trần truồng người đàn bà ra, làm lộ cái giếng của người đàn bà và người đàn bà cũng để lộ ra máu tháng của mình cả hai bị đồng loại ruồng bỏ”.
      Salander gật đầu.
      - Harriet cũng gắn thế này. OK. Vụ sau?
      - Tháng Năm 1957, Rakel Lunde, bốn mươi lăm tuổi. Chị này làm việc vệ sinh dọn dẹp nhà cửa và là người vui vẻ có đôi chút kỳ cục ở trong làng. Chị ta xem bói và có thú riêng là xem bói bài, bói tay v.v… Chị sống ở ngoài Landskrona trong ngôi nhà cách xa tất cả mọi nơi và bị giết lúc nào đó vào sáng sớm. Người ta tìm thấy chị ấy bị trói trần truồng vào cái khung giá phơi quần áo giặt ở trong vườn sau nhà, mồm bị dán băng kín. Chết vì bị ném đá liên tục. Người đầy vết bầm tím và gãy xương.
      - Lạy Chúa. Lisbeth, ghê gớm!
      - Chuyện còn tồi tệ nữa. Các chữ tắt R.L. là đúng – tìm thấy thơ dẫn ở Kinh thánh chưa?
      - Quá ư là . “ người đàn ông hay người đàn bà làm đĩ hay phù thủy bị xử chết, chúng bị ném đá, máu phải nhuộm người chúng”.
      - Rồi đến Sjoberg ở Ranmo ngoài Karlstad. Chị này được Harriet gọi là Magda trong danh sách. Tên họ đầy đủ là Magda Lovisa, nhưng người ta gọi chị là Lovisa.
      Blomkvist nghe trong khi Salander kể lại những chi tiết kỳ lạ của vụ án mạng ở Karlstad. Khi châm thuốc lá, chỉ tay vào bao thuốc và đẩy nó lại đằng .
      - Vậy là tên giết người cũng tấn công vào giống vật nữa?
      - Trong thơ Leviticus nếu người phụ nữ có chuyện tình dục với con vật cả hai đều phải bị giết.
      - Chuyện người phụ nữ này có chuyện tình dục với con bò xem vẻ là có.
      - Có thể đọc rồi hiểu máy móc câu thơ. Người phụ nữ “lại gần” con vật là cũng đủ bị rồi, mà vợ người chủ trại tránh sao được ngày nào mà chả “lại gần”.
      - Hiểu.
      - Vụ tiếp theo ở danh sách Harriet là Sara. Tôi dò ra được là Sara Witt, ba mươi bảy tuổi, sống ở Ronneby. Chị này bị giết hồi tháng Giêng năm 1960, người ta tìm thấy bị trói vào giường, bị hiếp thô bạo nhưng chết là do ngạt thở, bị bóp cổ. Kẻ giết người châm lửa, chắc có ý thiêu cháy cho ngôi nhà sụp xuống nhưng lửa tự tắt phần nào, còn lại sau đó rất nhanh lính cứu hỏa đến dập tắt được.
      - Thế mối liên quan?
      - Hãy nghe cái này. Sara Witt là con mục sư vừa là vợ mục sư. Chồng chị ta cuối tuần ấy vắng.
      - “Và nếu con của bất cứ thầy tế nào, tự làm ô uế nó bằng hành nghề đĩ cũng làm ô uế cả chính bố nó; đứa con bị lửa thiêu”. OK. Cái này phù hợp với bản danh sách. bảo tìm ra thêm mấy vụ.
      - Tôi tìm ra ba người phụ nữ khác cũng bị giết trong những trường hợp kỳ lạ tương tự và họ có thể là ở trong danh sách của Harriet. Người đầu tiên là thiếu phụ tên là Liv Gustavsson. này hai mươi tuổi và sống ở Farsta. Là thích ngựa – chơi đua ngựa và là tài năng khá hứa hẹn. cũng có cửa hiệu bán các thú cưng cùng với bà chị. được tìm thấy ở trong cửa hiệu. ở lại mình để vào sổ sách. bị hiếp và bị bóp cổ chết.
      - Vụ này nghe giống hẳn như danh sách của Harriet đúng ?
      - Giống chứ, bởi vì có điều này. Tên giết người kết thúc trò man rợ của bằng đem cắm con vẹt đuôi dài vào hộ của rồi thả xổng hết các con vật ở cửa hiệu ra. Mèo, rùa, chuột bạch, thỏ, chim. Kể cả cá trong bình thủy tinh. Để sáng sau bà chị gặp phải cảnh kinh hoàng như thế nào.
      Blomkvist lưu ý:
      - ấy bị giết tháng Tám 1960, bốn tháng sau vụ giết Magda Lovisa, vợ người chủ trại ở Karlstad. Trong hai trường hợp này, hai người phụ nữ đều làm việc với giống vật và cả trong hai trường hợp đều có con vật bị hiến tế. Con bò ở Karlstad có thể sống sót – nhưng tôi khó hình dung ra chuyện có thể giết con bò bằng con dao. con vẹt đuôi dài ý tứ có lộ ra trắng trợn hơn. Ngoài ra có thêm vật hiến tế nữa.
      - Vật nào?
      Salander bằng kể chuyện “vụ án mạng bồ câu” của Lea Persson. Blomkvist ngồi lặng im quá lâu đến nỗi Salander phát sốt ruột.
      - Tôi chịu cái ý này của , - cuối cùng . – Còn lại vụ.
      - vụ mà tôi phát nhờ may. Tôi biết để tuột lỡ mất bao nhiêu rồi.
      - tôi nghe về vụ này .
      - Tháng Hai 1966 ở Uppsala. Nạn nhân là vận động viên thể dục mười bảy tuổi tên là Lena Andersson. mất tích sau buổi liên hoan lớp học rồi ba ngày sau tìm thấy ở trong cái rạch bình nguyên Uppsala, xa hẳn ra ngoài thị trấn. bị giết đâu đó rồi thi thể bị dìm xuống ở đây. Vụ án mạng này khuấy truyền thông đại chúng lên nhưng các trường hợp xác thực xung quanh cái chết của bao giờ được báo cáo. bị hành hạ kỳ dị. Tôi có đọc báo cáo của nhà bệnh lý học. bị tra tấn bằng lửa. Hai tay và ngực bị đốt tàn nhẫn và khắp người bị đốt ở nhiều nơi. Người ta tìm thấy vết paraphin người , tức là bị đốt bằng nến, nhưng hai tay bị cháy thành than tức là chúng bị giữ lâu ở ngọn lửa lớn hơn. Cuối cùng tên giết người cửa đứt đầu ta, ném vào cạnh cái xác.
      Blomkvist trắng nhợt mặt lại.
      - Chúa ơi. – .
      - Tôi tìm ra câu thơ nào trong Kinh thánh hợp với cái đó nhưng có nhiều đoạn bàn đến cúng tế bằng lửa và cúng tế tội lỗi, ở số nơi người ta còn cầu hiến tế bằng con vật – phần lớn trường hợp là con bò đực – phải được cắt ra sao cho cái thủ phải rời khỏi thân. Chuyện lửa này lại làm cho tôi nhớ lại vụ án mạng đầu tiên, về Rebecka ở Hedestad đây.
      Tối đến, khi muỗi bâu lại hàng đàn, họ dọn dẹp cái bàn ngoài vườn, chuyển vào bếp để chuyện nốt.
      - Việc tìm được trích dẫn chính xác ở Kinh thánh hề gì. phải là chuyện trích dẫn, mà là đem nhái lố bịch những cái viết trong Kinh thánh thôi – đúng ra là nó lấy các trích dẫn bị rút ra khỏi bối cảnh văn bản rồi gắn vào vụ án.
      - Tôi đồng ý. Nó cũng logic nữa cơ. Chẳng hạn lấy câu trích cả hai đều bị cắt rời ra với đồng loại của chúng nếu ai đó có chuyện tình dục với thấy tháng. Nếu câu này được hiểu theo kiểu máy móc kẻ giết người cũng phải tự sát.
      - Thế cái này dẫn đến đâu? – Blomkvist băn khoăn .
      - Harriet của hoặc có thú vui riêng kỳ lạ hoặc là biết rằng có mối dây giữa các vụ án mạng.
      - Giữa 1949 và 1966, có thể cả trước hay sau nữa.Với tôi, thể nào tin được rằng ít nhất trong mười bảy năm có hung thủ bạo dâm bệnh hoạn giết người hàng loạt tàn sát phụ nữ, thế mà chả có ai nhìn ra mối liên quan nào giữa chúng.
      Salander đẩy ghế lùi lại, rót thêm cà phê trong bình lò ra. châm điếu thuốc. Mikael tự rủa thầm và cũng thấu trộm của điếu.
      - , thể tin được chuyện ấy. – giơ ngón tay lên . – Trong thế kỷ XX ở Thụy Điển chúng ta có vài chục vụ phụ nữ bị giết mà tìm ra thủ phạm. Ông Persson, giáo sư tội phạm học, có tivi lần rằng các sát nhân hàng loạt theo dây chuyền là hiếm có ở Thụy Điển, nhưng chắc chúng ta cũng có số đứa chưa bị tóm.
      giơ ngón tay lên nữa.
      - Các án mạng gây ra trong thời gian rất dài và ở khắp đất nước. Năm 1960, hai vụ xảy ra gần nhau những hoàn cảnh lại hoàn toàn khác nhau – vợ chủ trại ở Karltad và hai mươi tuổi ở Stockholm.
      Ba ngón tay dựng lên.
      - có hình mẫu dễ dàng để cho nhận thấy được ngay. Những kẻ sát nhân tiến hành những chỗ khác nhau và có chữ ký thực nhưng có số điều được lặp lại. Những con vật này. Lửa này. Hiếp thô bạo này. Và như chỉ ra, việc nhái các thơ trích ở Kinh thánh. Nhưng hình như thám tử điều tra nào giải vụ án nào theo các trích dẫn ở Kinh thánh.
      Blomkvist quan sát . Với thân hình thanh mảnh, chiếc áo yếm đen, những hình xăm và những cái nhẫn xuyên mặt, Salander nom lạc chỗ, ít ra cũng lạc với căn nhà khách bằng gỗ ở Hedeby. Trong bữa tối, khi tỏ ra chan hòa, lầm lỳ đến mức thô cứng. Nhưng khi vào việc , từ cái ngón tay trở , cứ như là nhà chuyên nghiệp. Căn nhà của ở Stockholm nom ngỡ cứ như có quả bom vừa nổ xong, nhưng về đầu óc cực kỳ giỏi tổ chức.
      - Khó nhìn ra mối liên hệ giữa điếm ở Uddevalla bị giết ở trong khu công nghiệp và vợ mục sư bị thắt cổ chết, nhà bị đốt ở Ronneby. Nếu có cái chìa khóa nà Harriet cho cái này là chìa khóa đó.
      - Điều này dẫn đến câu hỏi tiếp theo. – Blomkvist .
      - Harriet dính líu vào tất cả các câu chuyện này như thế nào đây? mười bảy tuổi giữa chốn thâm nghiêm kín cổng cao tường như thế này.
      - Chỉ có câu trả lời, - Salander . – Chắc là phải có liên hệ với gia đình Vanger.
      Vào 11 giờ đêm ấy, họ duyệt hết xê ri án mạng và thảo luận các mối liên hệ cũng như các chi tiết dù về chỗ giống nhau và khác nhau, bàn nhiều quá đến nỗi đầu Blomkvist quay cuồng. dụi dụi mắt, rồi hỏi Salander có thích bộ lúc . Vẻ mặt cho thấy nghĩ kiểu này là trò phí giờ nhưng đồng ý. Blomkvist khuyên nên mặc quần dài vì muỗi.
      Họ qua bến tàu rồi qua dưới gầm cầu và ra ngoài tới mũi đất nhà Martin Vanger. Blomkvist chỉ các ngôi nhà khác nhau và về những người sống ở trong đó. hơi khó khi tới nhà Cecillia Vanger. Salander tò mò nhìn . Họ qua chiếc du thuyền máy của Martin và tới mũi đất, họ ngồi xuống tảng đá và hút thuốc.
      - Có thêm mối liên hệ. – Blomkvist thình lình .
      - Là gì?
      - Tên của họ.
      Salander nghĩ lúc rồi lắc.
      - Những tên ấy là ở trong Kinh thánh.
      - đúng, - . – Liv với Lena ở chỗ nào trong Kinh thánh?
      - Có trong ấy đấy. Trong những ngôn ngữ khác là Eva, Liv có nghĩa là sống. và tiếp tục nào – Lena là tắt của cái gì?
      Salander ngán ngẩm nhăn mặt. nhanh hơn . thích điều đó.
      - Magdalena. – .
      - điếm, người phụ nữ đầu tiên, mary trinh trắng… họ đều ở đây, trong cái nhóm này. Trò này kỳ quái đến mức đầu nhà tâm lý học khéo cũng phải nháo nhào lên mất. Nhưng có cái khác nữa liên quan đến những cái tên.
      Salander kiên nhẫn chờ.
      - Đây ràng là những tên Do thái truyền thống. Gia đình Vanger có phần khá lớn các lý luận gia về mưu và các phần tử Quốc xã cuồng tín bài Do thái. Tôi gặp Harald Vanger chỉ lần, đứng ở giữa đường chửi con là con điếm. Lão chắc chắn có vấn đề với phụ nữ.
      Trở lại căn nhà gỗ, họ ăn qua loa bữa nửa đêm và hâm nóng cà phê. Mikael nhìn vào tập giấy gần 500 trang mà điều tra viên cưng của Dragan Armansky làm cho .
      - Đào tung cái này lên chỉ trong thời gian ngắn như thế, là tuyệt vời.- – Cảm ơn. Cảm ơn cả việc quá bộ lên đến tận đây để báo cáo về chuyện kia.
      - Tiếp là chuyện gì bây giờ? – Salander muốn biết.
      - Ngày mai tôi với Dirch Frode để thu xếp thanh toán tiền công cho .
      - Tôi có ý cái đó.
      Blomkvist nhìn .
      - Được, tôi nhận là việc tôi nhờ được làm xong.
      - Tôi làm phải vì cái đó.
      Blomkvist ngả lưng vào tường bếp và bắt gặp cái nhìn của . thể đọc được gì trong mắt . Trong nửa năm nay mình làm về vụ Harriet mất tích đây có người nữa – người điều tra có kinh nghiệm – nắm giữ mọi . bồng bột có quyết định.
      - Tôi biết. Chuyện này tôi cũng nghĩ đến lắm. Tôi chuyện với Frode. Chúng tôi mướn trong hay hai tuần làm… trợ lý điều tra viên. Tôi hiểu ông ấy có trả công như trả cho Armansky hay nhưng chúng tôi có thể thu xếp đồng lương cơ bản khả dĩ sống được cho .
      Thình lình Salander mỉm cười. muốn bị gạt ra và có thể sẵn sàng làm lương cho việc này.
      - Tôi buồn ngủ. – và lập tức vào phòng mình, đóng cửa lại.
      Hai phút sau, lại mở cửa thò đầu ra.
      - Tôi nghĩ sai. phải tên sát nhân hàng loạt điên loạn đọc sai Kinh thánh. Chính là dân bình thường hoặc cha bố láo ghét phụ nữ nào đấy thôi.

      Stieg Larsson
      Có Hình Xăm Rồng

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 21

      Thứ Năm, 3 tháng Bảy


      Thứ Năm, 10 tháng Bảy


      S alander dậy trước Blomkvist, quãng 6 giờ. đặt ít nước pha cà phê rồi tắm. 7 rưỡi, khi Blomkvist dậy, ngồi đọc tóm tắt vụ Harriet ở iBook của . vào bếp, khăn tắm quấn quanh mình, day day mắt cho hết vẻ ngái ngủ.

      - Có cà phê bếp lò đấy. – .

      nhìn qua vai .

      - Này, tư liệu này là mật mã được bảo vệ đấy. – .

      quay lại nhìn .

      - Chỉ mất có nửa phút tải từ Net xuống chương trình là phá được bảo vệ mã khóa của Word thôi.

      - Chúng ta cần chuyện về vấn đề cái gì là của , cái gì là của tôi. – tắm.

      Khi trở lại, Salander tắt máy tính của và đặt nó về chỗ của nó ở trong phòng làm việc. cho chạy chiếc PowerBook của . Blomkvist cầm chắc nội dung trong máy tính của bị chuyển sang máy tính của .

      Salander là kẻ nghiền thông tin với cái vốn về luân lý và đạo đức của đứa trẻ hư.

      vừa ngồi xuống ăn sáng có tiếng gõ ở cửa chính. Martin Vanger nom quá trịnh trọng khiến trong thoáng Blomkvist ngỡ ta đến báo tin chú ta chết.

      - , sức khỏe của Henrik vẫn như hôm qua. Tôi đến vì lý do khác hẳn. Tôi có thể vào lúc ?

      Blomkvist để ta vào, giới thiệu với “người trợ lý nghiên cứu của tôi”. chỉ liếc cái vào ông trùm công nghiệp và khẽ gật đầu rồi lại quay về chiếc máy tính. Martin theo thói quen chào mừng nhưng nom ta quá thoải mái đến nỗi có vẻ như ta mấy để ý đến . Blomkvist rót cho Martin tách cà phê và mời ngồi.

      - Chuyện gì thế ạ?

      - đặt mua Hedestad Courier ư?

      - . Nhưng đôi khi tôi đọc nó ở quán Cà phê & bánh đầu cầu Sussane.

      - Vậy đọc báo sáng nay.

      - nghe như tôi cần phải đọc vậy.

      Martin Vanger để tờ báo hôm nay xuống bàn trước mặt . được dành cho hai cột báo ở trang nhất, tiếp theo ở trang tư. “Nhà báo vu khống bị tù nấp ở đây”. bức ảnh chụp từ đồi nhà thờ bên kia cầu bằng ống kính télé cho thấy ở trong căn nhà gỗ ra.

      Phóng viên, Torsson ghép các mẩu lại thành ảnh thô bỉ. ta nhắc lại vụ Wennerstrom và giải thích rằng Blomkvist bị mất uy tín mà phải rời khỏi Millennimum và vừa mới thụ án xong. Bài báo kết thúc với dòng quen thuộc mà Blomkvist từ chối bình luận với Hedestad Courier. Tất cả cư dân tự trọng ở Hedestad đều được nhắc nhở rằng đồ rác rưởi từ Stockholm lẩn tránh ở khu vực này. tuyên bố nào ở trong bài báo có tính vu cáo nhưng được trình bày vẹo vọ để cho thấy Blomkvist hay ho gì; cách trình bày và kiểu in là loại các tờ báo như thế này thường dùng khi về các phần tử khủng bố chính trị. Millennium được miêu tả là tạp chí kém được tin cậy “thiên về khuấy đảo” và quyển sách của Blomkvist về báo chí tài chính được trình bày như là tập hợp các “phát ngôn gây tranh cãi” về các nhà báo khác vốn được kính trọng.

      - Mikael…, tôi biết thế nào để bày tỏ cảm tưởng của tôi khi đọc bài báo này. là bỉ ổi.

      - Đây là việc được bố trí. – Blomkvist với vẻ bình tĩnh.

      - Tôi hy vọng hiểu là tôi có dính dáng chút nào đến trò này. Khi uống cà phê sáng nay, đọc nó tôi bị choáng.

      - Vậy ai làm?

      - Tôi có gọi vài nơi. Tay Torsson này đến học việc vào dịp hè. Cậu ta viết theo lệnh của Birger.

      - Tôi nghĩ Birger ở các tòa báo. Dẫu sao, ông ta cũng là ủy viên hội đồng và bộ mặt chính trị.

      - Ông ta có ảnh hưởng về mặt kỹ thuật. Nhưng Tổng biên tập của Courier là Gunnar Karlman, con trai của Ingrid, người thuộc về chi Johan Vanger. Birger và Gunnar trong nhiều năm thân với nhau.

      - Tôi biết.

      - Torsson bị sa thải tắp lự.

      - Cậu ta bao nhiêu tuổi?

      - là tôi biết. Khi cậu ta gọi, tôi nghe cậu ấy có vẻ là phóng viên rất trẻ và có kinh nghiệm.

      - Chuyện này thể để cho qua mà vô được.

      - Nếu cần ý kiến của tôi tình hình xem ra có chút nào đó phi lý. Chả lẽ Tổng biên tập của tờ báo do gia đình Vanger sở hữu lại công kích tờ báo khác có Henrik Vanger là chủ đồng sở hữu ở đó và cả nữa cũng có ghế trong ban lãnh đạo của nó. Karlman, biên tập viên của công kích và Henrik.

      - Tôi hiểu ý và tôi phải khiển trách ai chịu trách nhiệm chuyện này… Karlman là chủ đồng sở hữu trong tập đoàn và ông ấy hay gây nhăng nhít với tôi. Nhưng chuyện này xem vẻ là Birger muốn trả thù việc cãi nhau với ông ta ở bệnh viện hôm nào. là cái gai ở bên sườn ông ấy.

      - Tôi tin như vậy. Vì thế mà tôi nên khiển trách Torsson. thực tập sao dám khi ông chủ chỉ thị ta viết cái gì theo kiểu nào đó.

      - Tôi có thể cầu ngày mai họ xin lỗi .

      - Tốt hơn là . Nó có thể quay ra thành trận cãi vã dẳng dai làm cho tình hình càng xấu thêm.

      - Vậy nghĩ là tôi nên im.

      - được tích gì đâu mà. Karlman khuấy cho rối lên và xấu nhất là có khả năng bị vẽ ra thành kẻ độc địa cố giẫm đạp lên tự do ngôn luận, vì ông ta vẫn có quyền là chủ sở hữu cơ mà.

      - Xin lỗi, Mikael, nhưng tôi đồng ý với . là tôi cũng có quyền trình bày ý kiến của tôi chứ. Theo tôi bài bào này thối um – và tôi có ý định quan điểm của tôi. Tuy miễn cưỡng thay Henrik ở ban lãnh đạo Millennium, nhưng tôi để cho bài báo công kích như thế này ra đòn mà nếm đòn trả lại.

      - Cũng đủ công bằng rồi.

      - Vậy nên tôi cầu quyền đáp lại. Và nếu tôi làm cho Karlman nom ra đứa ngố ông ta chỉ có thể tự trách ông ta mà thôi.

      - cần làm cái mà tin là đúng.

      - Với tôi việc quan trọng là tuyệt đối hiểu cho rằng tôi có mảy may dính vào chuyện đả kích độc ác này.

      - Tôi tin . – Blomkvist .

      - Ngoài ra tôi, - Martin , - tôi lòng muốn nêu chuyện này ra vào lúc này nhưng chính nó lại làm ra được việc chúng ta bàn. Để trở lại vào ban biên tập của Millennium là quan trọng, làm như thế chúng ta có thể cho thế giới thấy mặt trận thống nhất. Chừng nào còn xa, chừng ấy đồn bậy còn tiếp tục. Tôi tin ở Millennium và tôi chắc chắn chúng ta cùng nhau thắng trận đánh này.

      - Tôi hiểu ý nhưng bây giờ đến lượt tôi đồng ý với . Tôi thể phá bản hợp đồng của tôi với Henrik và tôi cũng tình muốn phá. xem đấy, tôi lòng mến ông ấy. Rồi cái việc với Harriet kia…

      - Vâng, thế sao?

      - Tôi biết nó là nỗi đau buồn ỉ với nhưng tôi nhận thấy là Henrik bị ám ảnh với nó trong nhiều năm.

      - Chỉ là giữa hai chúng ta thôi – tôi rất Henrik và chú là người chỉ bảo tôi – nhưng khi đến chuyện Harriet đầu óc ông cụ gần như mất tỉnh táo.

      - Khi bắt đầu việc này, tôi thể nghĩ rằng đây là chuyện phí giờ nhưng nay tôi lại thấy chúng ta sắp đến đột phá, có thể là chúng ta có cơ biết được chuyện gì xảy ra.

      Blomkvist đọc thấy hồ nghi trong mắt Martin. Cuối cùng quyết định.

      - OK, trong trường hợp này điều tốt nhất chúng ta có thể làm là giải càng sớm càng tốt cái bí mật về Harriet. Tôi hết sức ủng hộ để hài lòng mà hoàn thành công việc của – và dĩ nhiên của cả Henrik – rồi tôi về Millennium.

      - Tốt. Vậy tôi cũng phải đấu với .

      - Đúng. có thể cầu tôi giúp bất cứ lúc nào gặp phải vấn đề gì. Tôi dám đảm bảo là Birger ngáng cản gì con đường của đâu. Và tôi cố chuyện với Cecilia để chị ấy bình tĩnh lại.

      - Cảm ơn . Tôi cần hỏi chị ấy vài điều; tôi muốn chuyện với chị ấy nhưng cả tháng nay chị ấy cứ cưỡng lại.

      Martin Vanger cười ầm.

      - Có lẽ còn có những vấn đề khác mà cần san cho phẳng. Nhưng tôi dính vào chuyện đó đâu.

      Họ bắt tay nhau.

      Salander nghe câu chuyện. khi Martin rồi, cầm lấy tờ Hedestad Courier rà bài báo. đặt tờ báo xuống bình luận.

      Blomkvist ngồi im lặng nghĩ. Gunnar Karlman sinh năm 1948, năm 1966 mười tám tuổi. ta là trong những người ở đảo khi Harriet mất tích.

      Sau bữa trưa lót dạ, bảo trợ lý điều tra đọc các báo cáo của cảnh sát. đưa cho tất cả các ảnh về vụ tai nạn cũng như bản tóm tắt dài về cuộc điều tra của bản thân Henrik Vanger.

      Rồi lái xe đến nhà Frode, nhã nhặn đề nghị ông thảo cho bản thỏa thuận cho Salander làm trợ lý điều tra trong tháng. Lúc về căn nhà gỗ, Salander chuồn ra vườn và ngập lút vào trong báo cáo của cảnh sát. Blomkvist vào pha cà phê. quan sát qua cửa sổ bếp. hình như đọc lướt, mỗi trang bỏ ra quá mươi mười lăm giây. lật các trang như máy và ngạc nhiên thấy thiếu tập trung; cái đó sao, bởi báo cáo của lại quá ư là chi li tỉ mỉ. lấy hai tách cà phê mang ra bàn ngoài vườn.

      - Các nhận xét của có trước khi biết chúng ta tìm kẻ giết người hàng loạt.

      - Đúng. Tôi chỉ viết ra các vấn đề mà tôi muốn hỏi Henrik và vài điều khác nữa. Nó chả ra hình thù mạch lạc gì. Cho đến nay, tôi là vật nhau trong bóng tối, cố viết chuyện – chương trong tiểu sử của Henrik Vanger.

      - Còn bây giờ?

      - Trước kia mọi điều tra đều tập trung vào đảo Hedeby. Nay tôi chắc chắn rằng rằng câu chuyện, chuỗi các kiện dẫn đến vụ mất tích là bắt đầu ở Hedestad. Cái đó làm thay đổi hướng nhìn.

      - Những cái phát ra trong các bức ảnh là lý thú đấy.

      Blomkvist ngạc nhiên. Salander có vẻ là kiểu nguời quăng tơi tới những lời khen và thấy khoái. Mặt khác – xét từ quan điểm thuần túy báo chí – đây cũng gần như thành thích.

      - Đến lượt điền các chi tiết vào. Chuyện ra sao rồi với bức ảnh lùng tìm ở Nosjo?

      - muốn kiểm tra các ảnh trong máy tính của tôi?

      - giờ. Tôi cần đọc các tóm tắt, việc của chỉ liên quan với thôi.

      Blomkvist mở iBook, vào hồ sơ ảnh.

      - hấp dẫn. Chuyến lên Nosjo là tiến bộ nhưng cũng là thất vọng. Tôi tìm ra bức ảnh nhưng nó chẳng được gì nhiều.

      - Người phụ nữ này, Mildred Berggren lưu giữ tất cả ảnh vào trong album. Bức ảnh tôi tìm là ở trong đó. Nó được chụp bằng loại phim màu rẻ tiền, sau ba mươi bảy năm nước ảnh mờ đến mức thể ngờ - thành ra màu vàng nhạt. Nhưng, có tin được , bà ấy vẫn còn bản để trong cái hộp đựng giầy. Bà ấy cho tôi mượn tất cả các bản chụp ở Hedestad và tôi quét hình chúng. Đây là cái điều mà Harriet nhìn thấy.

      bấm vào hình ảnh mà bây giờ có tên hồ sơ là HARRIET/bd-19.eps. Salander lập tức hiểu nỗi thất vọng của . thấy bức ảnh chụp toàn cảnh cho thấy các hề ở hàng đầu của cuộc diễu hành Ngày Trẻ con. Ở đằng sau có thể thấy góc nhà cửa hàng đồ mộc Sundstrom. Khoảng mười người đứng con đường lát đá trước nhà Sundstrom.

      - Tôi nghĩ ta nhìn người này đây. phần vì tôi tạo lấy đường tam giác cho cái điểm mà ấy nhìn, xét theo cái góc mà mặt ấy quay vào – tôi vẽ ra ngã tư ở đây – và phần vì đây là người duy nhất hình như nhìn thẳng vào máy ảnh. Có nghĩa là nhìn Harriet.

      Salander nhìn thấy bộ mặt nhòa nhạt đứng lui lại sau các khán giả ít, gần như ở phố bên cạnh. ta mặc jacket độn vai, thẫm màu có vạch đỏ vai và quần có thể là jean thẫm màu. Blomkvist phóng to nên hình người từ eo trở lên choán mất hết màn hình. Lập tức bức ảnh hóa ra nhòa hơn.

      - Đó là người đàn ông. Khoảng mét bảy, tầm thước. Tóc vàng thẫm, tóc dài vừa phải và râu cạo nhẵn nhụi. Nhưng thể làm được nét mặt hay thậm chí ước lượng được tuổi. Quãng giữa tuổi mười mấy và trung niên.

      - có thể chỉnh bức ảnh…

      - Tôi chỉnh, mẹ kiếp. Tôi còn gửi bức ảnh sao đến bộ phận chỉnh ảnh bằng máy tính ở Millennium nữa. – Blomkvist bấm vào bức ảnh mới chụp. - Ảnh này là bức tốt nhất mà tôi lấy ra từ bức ảnh kia. Chỉ là vì máy ảnh kia quá xoàng và cự ly quá xa.

      - đưa cho ai xem chưa? ai đó có thể nhận ra dáng vẻ của người đàn ông hay là…

      - Tôi đưa nó cho Frode. Ông ta biết người đàn ông này là ai.

      - Ông Frode chắc phải là người có óc quan sát nhất ở Hedestad.

      - Đúng, nhưng tôi làm việc với ông ta và Henrik Vanger. Tôi muốn đưa bức ảnh cho Henrik xem trước khi tôi cho nó lên mạng rộng hơn.

      - Có thể người này chỉ là người đứng xem.

      - Có thể. Thế nhưng làm bật ra được ở Harriet phản ứng lạ lùng như vậy đấy.

      Trong mấy ngày sau đó, Blomkvist và Salander gần như làm nghỉ lúc nào về vụ Harriet. Salander đọc tiếp báo cáo của cảnh sát, lia hết câu hỏi này sang câu hỏi khác. Chỉ có thể có là mỗi câu trả lời mơ hồ hay lưỡng lự đều lại dẫn đến câu hỏi khác lớn hơn.

      Hai người bỏ cả ngày xem xét thời gian biểu xuất các nhân vật tại trường của vụ tai nạn xe cầu. Sanlander ngày càng thành với . Mặc dù chỉ đọc lướt nhanh các tài liệu trong báo cáo, hình như vẫn luôn luôn đậu được vào các chi tiết tối tăm nhất, mâu thuẫn nhất.

      Buổi chiều họ nghỉ, khi thể nào chịu nổi được cái nóng ở trong vườn. Họ bơi ở eo biển hay bộ lên sân trời của quán Cà phê & bánh đầu cầu Sussane. Nay Sussane đối xử lạnh ra mặt với Blomkvist. nhận thấy Salander coi bộ ít hợp pháp và sống trong căn nhà gỗ cùng vậy điều đó – trong mắt Sussane – khiến cho trở thành gã trung niên nhơ bẩn. hay.

      Tối nào Blomkvist cũng ra ngoài chạy. Khi trở về căn nhà gỗ thở hồng hộc, Salander bình luận. ràng chạy phải là món của .

      - Tôi hơn bốn chục rồi, - . – Tôi phải tập để giữ cho khúc giữa quá béo.

      - Tôi thấy rồi.

      - tập tành gì à?

      - Tôi có đánh bốc dạo.

      - Đánh bốc?

      - À, biết đấy, với găng đấm.

      - bốc ở hạng cân nào? – hỏi khi ở vòi tắm sen ra.

      - Chả hạng nào. Thỉnh thoảng tôi chọi chút ít lại đám con trai trong câu lạc bộ ở Soder.

      Sao mà ngạc nhiên được chứ? Nhưng ít nhất với cái gì đó về . Sao lại đến làm việc với Armansky? được giáo dục học hành như thế nào? Bố mẹ làm gì? Hễ Blomkvist vừa thử hỏi về đời sống của , liền im như hến, chỉ trả lời nhát gừng hay lờ .

      chiều, Salander thình lình đặt cặp hồ sơ xuống, nhăn mặt.

      - biết gì về Otto Falk ? Ông mục sư ấy.

      - nhiều. Tôi gặp vị mục sư đương nhiệm ít lần trong năm và được nghe là Falk sống trong nhà dưỡng lão ở Hedestad. Bệnh Alzheimer, già lú.

      - Ông ta người đâu?

      - Ở Hedestad. học ở Uppsala.

      - Ông ta có vợ. Và Harriet lẵng nhẵng bên ông ta.

      - Tại sao hỏi?

      - Tôi chỉ là Morell khá là dễ dãi với ông ta khi phỏng vấn.

      - Trong những năm 60 các mục sư được hưởng quy chế trong xã hội khác xa bây giờ. Với ông ta sống ở đây đảo, gần với những manh mối quyền lực là điều tự nhiên thôi, tạm như vậy.

      - Tôi nghĩ liệu cảnh sát có kiểm tra kỹ lưỡng nhà mục sư hay . Trong các bức ảnh xem vẻ đó là tòa nhà gỗ to, có nhiều chỗ giấu được cái xác trong thời gian.

      - Đúng thế, nhưng trong tài liệu có gì chỉ ra rằng ông ta có quan hệ gì đó với những tên sát nhân hàng loạt hay với việc Harriet mất tích.

      - vậy, có thể, - Salander và cười châm biếm. – Trước hết, ông ta là mục sư, và hơn ai hết các mục sư là có quan hệ đặc biệt đến Kinh thánh. Thứ hai, người ta biết ông ta là người cuối cùng trông thấy và chuyện với Harriet.

      - Nhưng ông ta xuống chỗ xảy ra tai nạn và ở lại đó hàng giờ. Ông ta có ở trong nhiều bức ảnh, đặc biệt vào lúc Harriet chắc là biến mất.

      - Được, tôi bẻ được bằng chứng ngoại phạm của ông ta. Nhưng tôi quả là có nghĩ đến cái gì đó khác đấy. Câu chuyện này là về tên bạo dâm giết phụ nữ hàng loạt.

      - Vậy ?

      - Tôi là… Mùa xuân này tôi có ít giờ cho bản thân, tôi đọc ít về những kẻ bạo dâm ở trong các bối cảnh khác thể. trong những cái tôi đọc là sách huấn luyện của FBI. Có kết luận rằng số lượng đáng ngạc nhiên từ những tên sát nhân hàng loạt bị tù là xuất thân từ các gia đình xộc xệch chức năng và lúc còn bé từng hành hạ giống vật. số những tên sát nhân hàng loạt, người Mỹ, cũng bị bắt vì có ý định phóng hỏa thiêu cháy nhà cửa. Giống vật bị hành hạ và bị phóng hỏa xuất ở trong vài vụ án mà Harriet viết lại, nhưng điều mà tôi nghĩ đến là việc nhà mục sư bị phóng hỏa cháy hồi cuối những năm 70.

      - Đó là cú làm thử mà chắc ăn.

      Lisbeth gật đầu.

      - Đồng ý. Nhưng ở trong báo cáo của cảnh sát tôi tìm thấy nguyên nhân của vụ cháy này và rất thú vị nếu biết trong những năm 60 có những vụ cháy khác giải thích được lý do. Cũng đáng kiểm tra xem dạo ấy, trong vùng này liệu có những vụ giống vật bị lạm dụng hay bị làm cho què quặt hay .

      Đêm thứ bảy ở Hedeby, khi Salander lên giường, hơi cáu Blomkvist. Trong gần tuần thực tế bỏ tất cả những lúc ngủ ra cho . Thường cứ bảy phút chung đụng với người khác nhức đầu, cho nên bố trí công việc để sống như tu. Thiên hạ để cho yên chừng nào là khoái vô cùng chừng nấy. may là xã hội lại thông minh hay thông cảm; phải tự vệ chống lại các quyền uy xã hội, các quyền uy phúc lợi trẻ con, cả quyền uy của chế độ giám hộ, quyền uy thuế má, cảnh sát, các nhà quản lý, các nhà tâm lý học, các nhà phân tâm học, các thầy giáo và các đầu gấu giữ trật tự, những kẻ ( phải những tay trông coi cửa ở Kvarnen lúc ấy biết là ai) bao giờ để vào quán bar cho dù hai mươi lăm tuổi. Có cả đạo quân những dân hình như còn việc gì làm hay hơn là chọc phá vào cuộc đời , và nếu như có được cơ hội chúng liền uốn nắn luôn cái cách sống mà chọn.

      Khóc chả có hay ho gì, điều này học được từ sớm. cũng học biết được là mỗi lúc cố để cho ai đó hiểu được điều gì về tình hình lại tồi tệ hơn. Kết quả là chính phải tự giải quyết lấy các chuyện cho , dùng bất cứ biện pháp nào mà thấy là cần thiết. cái gì thuộc kiểu chơi rắn mà Luật sư Bjurman nếm. Blomkvist cũng có cái thói quen chán phè như mọi ai khác, tọc mạch dò la vào đời rồi đặt câu hỏi. Nhưng mặt khác phản ứng giống như phần lớn những người đàn ông khác mà gặp.

      Khi lờ các câu hỏi chỉ đơn giản nhún vai rồi để yên. Đáng ngạc nhiên.

      Cái sáng đầu tiên khi vớ được iBook của , chiêu tiếp theo tức của lúc ấy là chuyển hết thông tin sang ngay máy tính của . Nếu ra khỏi vụ này cứ việc; vẫn vào được tài liệu.

      Khi ra ăn sáng, nghĩ phát điên lên. Nhưng nom lại gần như là nhẫn chịu, lầm bầm câu gì đó châm biếm rồi bỏ tắm. Rồi bắt đầu thảo luận lại cái mà đọc. gã lạ đây. Thậm chí còn có thể nghĩ lầm ra là tin .

      Blomkvist biết Salander là hacker, đây phải chuyện đùa đối với , Salander hiểu rằng là hacker, cả chuyên nghiệp lẫn vì thú vui riêng, được pháp luật miêu tả là “xâm phạm dữ liệu cách bất hợp pháp”, và có thể phải chịu hai năm tù ngồi. muốn bị nhốt. Trong trường hợp của , án tù có nghĩa là bị tách ra khỏi máy tính và cùng với nó là cái nghề ngỗng duy nhất mà giỏi giang. chưa bao giờ bảo Armansky cách thu thập những thông tin mà ông trả công cho để tìm. Trừ ngoại lệ Dịch Bệnh và ít dân Net, những người giống như dâng hiến mình cho việc đột nhập máy tính ở trình độ chuyên nghiệp – phần lớn họ chỉ biết là “Ong Vò Vẽ” chứ biết là ai và sống ở đâu – Kalle Blomkvist là người duy nhất loạng quạng vào bí mật của . đến với phạm sai lầm mà đứa mười hai tuổi cũng mắc phải, sai lầm ấm ớ ấy chỉ chứng tỏ rằng đầu óc bị sâu bọ ăn mất tiêu và chỉ có đáng là bị quất cho trận đòn. Nhưng thay vì điên tiết lên, lại mướn . Kết quả là chỉ cáu vừa vừa thôi.

      Khi họ ăn qua loa trước khi ngủ, thình lình hỏi có phải là tay hacker giỏi . ngạc nhiên thấy mình đáp:

      - Chắc tôi là tay giỏi nhất ở Thụy Điển. Có thể có độ hai hay ba người nữa ở trình độ tôi.

      Trả lời thế là chính xác, nghi ngờ. Có thời Dịch Bệnh giỏi hơn nhưng vượt ta từ lâu rồi.

      Mặt khác, ra như thế cũng thấy hay hay. Trước kia chưa từng có kiểu trò chuyện này với người ngoài cuộc bao giờ và thấy thích là hình như tài năng của làm cho choáng. Rồi phá mất cảm giác ấy khi hỏi câu nữa: tự học lấy đột nhập máy tính như thế nào.

      có thể như thế nào đây? Tôi luôn có khả năng làm được trò đó. Nhưng thay vì vậy, lẳng lặng ngủ, chả chúc cả ngủ ngon.

      Khi quá đột ngột bỏ , cáu, việc này lại làm cho cáu hơn. nằm nghe lại lại trong bếp, dọn dẹp bàn và rửa đĩa tách. luôn thức khuya hơn nhưng nay ràng là cũng sắp lên giường nốt. nghe thấy ở trong buồng tắm rồi vào phòng ngủ của , đóng cửa lại. lúc sau nghe thấy tiếng giường kêu khi leo lên nó, cách tới mét nhưng ở bên kia bức tường. ở chung nhà với tuần và chưa hề tán tỉnh . làm việc với , hỏi ý kiến , đập khẽ vào các đốt ngón tay , ấy là cho có hình tượng, khi dò lầm đường rồi lại nhận là đúng sau khi uốn nắn . Mẹ kiếp, đối xử với như với con người.

      ra khỏi giường đến đứng bên cửa sổ, bồn chồn nhìn vào bóng đêm. Điều gay go nhất với là để cho người khác lần đầu tiên trông thấy trần truồng. đinh ninh mình mẩy xương xẩu của nom ghê. Ngực ra sao. chả có cả mông để mà nữa. Chả có gì nhiều để hiến cho. Ngoài việc phụ nữ hoàn toàn bình thường với cũng các thèm muốn tương tự, cũng với các cơn giục giã của tính dục như mọi phụ nữ khác. đứng ở đấy thêm hai chục phút nữa rồi quyết định.

      Blomkvist đọc cuốn tiểu thuyết của Sara Paretsky nghe thấy tay nắm cửa quay, nhìn lên và thấy Salander. Quấn mảnh khăn trải giường quanh người, đứng ở cửa lúc.

      - ổn chứ?

      lắc đầu.

      - Sao vậy?

      đến bên giường , cầm quyển sách đặt nó lên bàn đầu giường. Rồi cúi xuống hôn vào miệng . leo tót lên giường rồi ngồi nhìn , tìm . để bàn tay lên mảnh chăn ở bụng . Khi phản đối, cúi xuống cắn đầu vú .

      Blomkvist bàng hoàng. cầm hai vai đẩy ra xa ít để có thể nhìn được mặt .

      - Lisbeth… tôi biết thế này có phải là ý hay đây. Chúng ta phải làm việc với nhau.

      - Em muốn làm tình với . Và em chẳng có chuyện gì để làm việc với hết nhưng nếu đá em em chuyện khốn kiếp với .

      - Nhưng chúng ta mới biết nhau.

      cười to, tiếng cười bất chợt nghe như tiếng ho.

      - Trước kia bất kỳ thứ gì giống như thế này là để cho yên được ở giường của đâu. ra trong báo cáo về lai lịch của , em trong những dân thể nào buông được tay ra khỏi phụ nữ. Vậy sai chỗ nào? Với , em đủ kích dâm sao?

      Blomkvist lắc đầu và cố tìm ra cái gì thông minh tí để . Khi nghĩ ra; bèn kéo tuột chăn ở người ra rồi leo lên .

      - có bao cao su đâu. – .

      - Hê xừ nó .

      tỉnh dậy thấy tiếng ở trong bếp. Chưa đến 7 giờ. có lẽ chỉ ngủ được hai giờ đồng hồ còn lơ ma lơ mơ giường.

      Người phụ nữ này đánh bại . Tuyệt đối điểm nào, thậm chí cái liếc mắt cho thấy ít nhất cũng có chút nào thích thú .

      - Chào. – ở lối ra vào cửa. thậm chí còn có thoáng nụ cười.

      - Chào.

      - Chúng ta hết sữa rồi. Em ra trạm xăng dầu. Bảy giờ họ mở cửa. – Và .

      nghe thấy ra cổng chính. nhắm lại. Rồi nghe thấy cửa chính lại mở chỉ vài giây sau, trở lại ở lối vào. Lần này mỉm cười.

      - ra xem cái này hay hơn đấy. – Giọng nghe là lạ.

      Lập tức Blomkvist đứng lên, lùa chân vào quần jean.

      Trong đêm ai đó đến căn nhà gỗ với món quà mong đợi. Ở cổng có mái, xác con mèo cháy gần thành than nằm đó. Chân và đầu con mèo bị cắt rời, mình con mèo bị mổ phanh và ruột gan nó bị moi ra lắt lẻo ở bên xác nó, cái xác như bị quay nướng lửa. Ở yên xe máy của Salander, đầu con mèo còn nguyên vẹn. nhận ra bộ lông màu nâu đỏ.


      Stieg Larsson

      Có Hình Xăm Rồng

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 22

      Thứ Năm, 10 tháng Bảy


      Họ im lặng ăn lót dạ ở ngoài vườn và cà phê có sữa. Salander lấy máy ảnh số Cannon chụp cái cảnh ma quái trước khi Blomkvist lấy túi rác dọn sạch . để con mèo vào cốp xe Volvo. phải làm cái đơn gửi cảnh sát về đối xử độc ác với loài vật, có thể là nhằm đe dọa nhưng nghĩ muốn lại phải giải thích tại sao có chuyện đe dọa.

      8 rưỡi, Isabella Vanger qua để tới cầu. Bà trông thấy hai người, hay ít nhất vờ ra thế.

      - Em thế nào? – Blomkvist hỏi.

      - Ồ, em được, - Salander nhìn băn khoăn. Ok, được rồi. ta nghĩ mình rụng rời. – Khi nào em tìm ra được cái thằng bỏ mẹ nào hành hạ đến chết con mèo vô tội chỉ để cảnh cáo chúng ta em quật cho nó bằng cái gậy đánh bóng chày.

      - Em nghĩ đó là cảnh cáo à?

      - tìm ra được giải thích nào hay hơn ? Dứt khoát là nó muốn cái gì.

      - Trong chuyện này, dù là gì nữa chúng ta cũng làm phiền ai đó đủ để cho làm việc đáng nôn ọe. Nhưng cũng có vấn đề khác nữa.

      - Em biết. Đây là con vật hiến tế theo kiểu năm 1954 và 1960, nhưng xem ra khó có thể tin nổi rằng ai đó hoạt động từ những năm 50 mà bây giờ lại vẫn đem xác con vật bị hành hạ đến đặt ở lối vào cửa nhà .

      Blomkvist đồng ý.

      - Trong vụ này những người duy nhất có thể nghĩ được là Harald Vanger và Isabella Vanger. Ở phía Johan Vanger có số họ hàng nhiều tuổi hơn nhưng ai sống ở khu vực này.

      Blomkvist thở dài.

      - Isabella là con chó cái thô bỉ chắc chắn là có thể giết con mèo nhưng tin bà ta trong những năm 50 chạy quanh khắp nơi để giết phụ nữ. Harald Vanger… biết, ông ta nom kiệt sức lắm khó mà bộ được, thể hình dung nổi đêm hôm qua ông ta lại lén đến tận nhà bắt con mèo rồi làm tất cả các chuyện kia.

      - Trừ phi hai người, già, trẻ hơn.

      Nghe tiếng xe hơi qua gần, Blomkvist ngước lên nhìn thấy Cecilia lái xe qua cầu. Harald và Cecilia, ta nghĩ nhưng hai người này hiếm với nhau. Mặc dù Martin Vanger hứa chuyện với chị ta nhưng Cecilia vẫn trả lời bất cứ tin nhắn nào điện thoại của .

      - Phải là người biết chúng ta làm công việc này và có tiến triển, - Salander , đứng lên để vào trong nhà. Khi quay lại, mặc bộ quần áo da vào người.

      - Em Stockholm. Đêm về.

      - Em làm gì?

      - Kiếm ít máy móc đại. Nếu ai đó đủ rồ dại để giết mọt con mèo ghê tởm đến thế lần sau có thể hay ả ta tấn công đến chúng ta. Hay phóng hỏa đốt căn nhà gỗ khi chúng ta ngủ. Em muốn hôm nay vào Hedestad để mua hai bình cứu hỏa và hai máy báo động khói. bình cứu hỏa phải có chất halon.

      thêm nửa lời, đội mũ bảo hiểm, đạp nổ chiếc xe máy rồi rú qua cầu.

      Blomkvist giấu xác con mèo cùng cái đầu và ruột gan mèo vào thùng rác ở bên trạm xăng dầu trước khi lái xe vào Hedestad la cà tìm kiếm. đến bệnh viện. hẹn gặp Frode ở trong quán cà phê, kể với ông chuyện xảy ra hồi sáng ngay lập tức. Mặt Frode trở nên trắng nhợt.

      - Mikael, tôi bao giờ ngờ chuyện lại có thể quay ra thành thế này.

      - Sao lại ? Muốn gì chúng ta cũng tìm tên giết người cơ mà.

      - Nhưng thế này kinh tởm, vô nhân đạo. Nếu có nguy hiểm gì đến tính mạng hay Salander chúng ta phải bảo thôi . Để tôi chuyện với Henrik.

      - , tuyệt đối . Tôi muốn ông ấy lại có thể lên cơn nữa.

      - Ông ấy hỏi mãi tôi về công việc của ra sao rồi.

      - giúp tôi lời chào ông ấy, làm ơn và bảo là tôi tiến lên.

      - Rồi sau đây thế nào?

      - Tôi có ít câu hỏi. Việc đầu tiên xảy ra ngay khi Henrik lên cơn đau tim và tôi hôm ấy xuống Stockholm, ai đó vào lục buồng làm việc của tôi. Tôi in ra các câu thơ trong Kinh thánh và các ảnh chụp ở Jarnvagsgatan ở bàn làm việc của tôi. Ông biết và Henrik biết, Martin có biết phần vì ấy tổ chức cho tôi đến tòa soạn báo Courier. Còn bao nhiêu người khác nữa biết đây?

      - Được, tôi biết Martin với ai. Nhưng cả Birger lẫn Cecilia cũng biết hết. Họ bàn chuyện lùng sục hồ sơ ảnh. Alexander cũng biết. Và nhân thể cả Gunnar và Helena Nilsson cũng biết. Họ đến chào Henrik và bị kéo vào câu chuyện. Rồi Anita Vanger nữa.

      - Anita? Người ở London ấy ư?

      - Em của Cecilia. Khi Henrik lên cơn đau tim, ấy quay về đây với Cecilia nhưng trọ ở khách sạn, và ra đảo như tôi biết. Giống Cecilia, ấy thích gặp ông bố. Nhưng khi Henrik thôi nằm chế độ hồi sức cấp cứu ấy liền bay .

      - giờ, Cecilia ở đâu? Sáng nay tôi thấy chị ấy xe qua cầu nhưng nhà lúc nào cũng tối om.

      - ấy có gan làm cái trò ấy đâu, đúng ?

      - Đúng, tôi chỉ là nghĩ chị ấy ở đâu.

      - ấy ở chỗ ông , Birger. Ở đấy bộ là đến thăm được Henrik.

      - Ông có biết ngay nay chị ấy ở đâu ?

      - . Dầu gì cũng thấy ấy đến thăm Henrik.

      - Cảm ơn. – Blomkvist rồi đứng lên.

      Nhà Vanger xúm lại quanh bệnh viện Hedestad. Trong sảnh, Birger đến thang máy. Chờ ông ta khuất rồi Blomkvist mới vào phòng tiếp tân. Thay vì lại đâm phải Martin Vanger ở cửa, đúng vào cái chỗ đâm phải Cecilia lần thăm trước. Họ chào rồi bắt tay nhau.

      - lên gặp Henrik chưa?

      - , tôi chỉ gặp có Derich Frode.

      Martin nom mệt, hai mắt hõm xuống. Mikael nghĩ trong sáu tháng nay ta già từ khi gặp ta.

      - Với tình hình ra sao, Mikael? – Martin hỏi.

      - Mỗi ngày qua là ngày lý thú hơn. Khi Henrik khỏi, tôi hy vọng có thể thỏa mãn được tò mò của ông ấy.

      Nhà của Birger Vanger là nhà mái bằng cách bệnh viện chừng năm phút bộ nhìn ra biển và ra vùng đậu tàu thuyền của Hedestad. ai trả lời khi Blomkvist bấm chuông. gọi di động của Cecilia nhưng cũng có trả lời.

      ngồi trong xe lúc, gõ ngón tay lên vô lăng. Birger là cha hung hăng trong câu chuyện này: sinh năm 1939, vậy là lên mười khi Rebecka Jacobsson bị giết; hai mươi bảy tuổi khi Harriet mất tích. Theo Henrik, Birger và Harriet hiếm khi gặp nhau. Ông ta lớn lên với gia đình ở Uppsala và chỉ chuyển đến Hedestad để làm việc cho công ty. Sau hai ba năm, ông ta đổi tàu và dành hết cho chính trị. Nhưng ông ta ở Uppsala khi Lena Andersson bị giết.

      Vụ con mèo làm cho cảm thấy như có điềm báo gở, tựa như hóa ra thành bất lực.

      Otta Falk ba mươi sáu khi Harriet mất tích. Ông nay bảy mươi hai, trẻ hơn Henrik Vanger nhưng tình trạng trí não tồi tệ hơn nhiều. Blomkvist tìm thấy ông ở nhà điều dưỡng Svalan, tòa nhà gạch màu vàng gần sông Hede ở cuối thị trấn. Blomkvist tự giới thiệu với người tiếp tân rồi đề nghị cho được chuyện với mục sư Falk. giải thích là biết mục sư bị bệnh già lú rồi hỏi thăm mục sư nay sáng suốt thế nào. nữ y tá trả lời là ba năm trước lần đầu tiên mục sư Falk được chuẩn đoán nhưng thương thay bệnh tình cứ nặng ra. Mục sư có thể chuyện nhưng trí nhớ rất kém, chỉ nhớ những cái mới đây và nhận ra được hết họ hàng thân thuộc. Ông ta cũng sẵn sàng lên những cơn sợ nếu như nghe phải những câu hỏi ông thể trả lời.

      Falk ngồi cái ghế dài ở trong vườn với ba người bệnh khác và y tá nam. Blomkvist bỏ ra giờ đồng hồ để cố làm cho ông ta bập được vào chuyện.

      Ông nhớ Harriet Vanger hoàn toàn tốt. Mặt ông sáng lên và ông tả hấp dẫn. Nhưng Blomkvist sớm nhận ra ông mục sư quên việc Harriet mất tích ba mươi bảy năm trước đây. Ông về ta như vừa mới gặp, còn nhờ Blomkvist chuyển lời chào cũng như giục đến thăm ông. Blomkvist hứa làm việc này.

      ràng ông nhớ vụ tai nạn cầu. Mãi đến cuối buổi chuyện ông mới câu gì đó khiến Blomkvist dỏng tai lên.

      Đó là lúc Blomkvist lái câu chuyện sang việc Harriet quan tâm đến tôn giáo và Falk chợt có vẻ ngập ngừng. Tựa như có bóng mây lướt qua mặt ông. Falk ngồi đu đưa trước sau lúc rồi ngước nhìn Blomkvist hỏi là ai. Blomkvist lại tự giới thiệu mình lần nữa.

      Mãi rồi ông :

      - ấy còn là người tìm tòi. ấy cẩn thận cho bản thân và phải cảnh báo cho ấy như thế.

      - Tôi nên cảnh báo về cái gì?

      Falk thình lình nhớn nhác. Ông nhăn mặt lại và lắc đầu.

      - ấy cần đọc sola scriptura để hiểu sufficientia scripturae. Có như thế ấy mới duy trì được sola fide. Josef chắc chắn trục đuổi chúng. Chúng bao giờ được chấp nhận vào kinh bổn.

      Blomkvist hiểu tí gì về chuyện này nhưng vẫn ghi chép đủ hết vào giấy. Rồi mục sư Falk ngả người về phía thở dài:

      - Tôi nghĩ ấy là tín đồ Thiên chúa giáo. ấy phù phép và chưa tìm ra được Chúa của mình. ấy cần có người hướng dẫn.

      Chữ thiên chúa giáo ràng mang ngụ ý tiêu cực với mục sư Falk.

      - Con nghĩ ấy quan tâm đến phong trào Pentecost. ấy tìm chân lý bị cấm đoán. ấy phải là tín đồ cơ đốc.

      - , , , phải đám Pentecost. ấy tìm chân lý bị cấm đoán. ấy phải là tín đồ Cơ đốc.

      Rồi mục sư Falk hình như quên mất mọi về Blomkvist, bắt đầu quay sang chuyện với ba người bệnh khác.

      Đúng sau 2 giờ chiều lại về tới đảo Hedeby. thẳng đến nhà Cecilia và gõ cửa nhưng kết quả. lại thử di động của chị nhưng trả lời.

      gắn báo động khói lên tường ở trong bếp và cái ở gần cửa chính. đặt bình cứu hỏa ở gần bếp lò bên cạnh cửa buồng ngủ và cái nữa ở cạnh cửa buồng tắm. Rồi làm bữa trưa, cà phê với sandwich rồi ngồi ở vườn đánh máy lại những điều trong cuộc chuyện trò với mục sư Falk. Làm xong, ngước nhìn nhà thờ. Tòa nhà mục sư mới của Hedeby là tòa nhà ở đại bình thường cách nhà thờ quãng bộ. 4 giờ chiều Blomkvist gõ cửa và giải thích với sơ Margareta Strandh rằng đến xin lời khuyên về vấn đề thần học. Xơ là phụ nữ có mái tóc sẫm màu trạc tuổi , mặc quần jean và áo sơmi flanen. Bà chân trần, móng chân sơn. vài lần tình cờ gặp bà trước đây ở quán Cà phê và bánh đầu cầu Susanne và chuyện với bà về mục sư Falk. Bà tiếp thân mật, mời vào ngồi ở trong sân nhà bà.

      Blomkvist bảo bà là phỏng vấn mục sư Otto Falk và kể lại những điều mục sư . Xơ Strandh nghe rồi cầu nhắc lại từng lời.

      - Tôi được phái đến đây phục vụ mới ba năm và chưa thực gặp mục sư Falk. Ông về hưu trước đó vài năm nhưng tôi tin rằng ông khá là coi trọng giáo lễ cùng uy quyền giám mục. Điều mục sư với có nghĩa điều gì đó theo đường lối “chỉ có giữ Thánh thư thôi” - sola scriptura – và đó là sufficientia scripturae. Câu sau là xây dựng cho các tín đồ phàm tục nắm đầy đủ thánh thư. Sola fide có nghĩa là chỉ lòng tin thôi hay là lòng tin chân thực.

      - Con hiểu.

      - Các điều này là những giáo điều cơ bản, tạm như vậy. chung đó là nền móng của nhà thờ và hề lạ lẫm chút nào. Ông ấy chỉ đơn giản : Hãy đọc Kinh thánh – nó cho kiến thức đầy đủ và bảo đảm cho có lòng tin chân thực.

      Blomkvist cảm thấy hơi lúng túng chút.

      - Nay ta phải hỏi là câu chuyện này xảy ra trong quan hệ như thế nào?

      - Con hỏi xơ về người mà xơ gặp nhiều năm trước, người mà con viết đến.

      - người tìm hiểu đạo?

      - Đại khái như vậy.

      - Được. Ta nghĩ ta hiểu được bối cảnh. bảo ta là mục sư Falk còn hai điều nữa – rằng “Josef trục đuổi chúng ” và “chúng bao giờ được chấp nhận vào kinh bổn”. Có lẽ hiểu lầm Josefus mà ông ấy ra thành Josef? ra cũng cùng là tên thôi.

      - Có thể là thế. – Blomkvist . – Con ghi câu chuyện lại nếu xơ muốn nghe nó.

      - , ta thấy cần thiết. Hai câu này nêu khá là thẳng băng ra cái điều mà ông ấy ám chỉ tới. Josefus là sử gia người Do thái và câu “chúng bao giờ được chấp nhận vào kinh bổn” có thể có nghĩa là chúng bao giờ được vào trong kinh bổn Do thái.

      - Và có nghĩa?

      Bà cười to lên.

      - Mục sư Falk rằng con người này bị mắc phải các nguồn bí truyền, đặc biệt là kinh tà Apocrypha. Chữ Hy lạp Apokryphos có nghĩa là “che dấu” do đó chữ Apocrypha là những sách phải che giấu mà số người coi là rất trái nghịch nhưng số khác lại cho là nên nạp vào Kinh cựu ước. Các sách này là Tobias, Judidth, Esther, Baruch, Sirach, các sách về Maccabees và vài cuốn khác nữa.

      - Xin tha cho tội ngu dốt của con. Con nghe đến các sách bí truyền nhưng chưa được đọc chúng bao giờ. Chúng có gì đặc biệt ạ?

      - ra chẳng có chút nào là đặc biệt ở các sách này trừ cái điều là chúng ra mắt từ cái gì đó muộn hơn phần còn lại của Kinh Cựu ước. Apocrypha bị loại khỏi Kinh thánh Do thái – phải vì các học giả Do thái tin nội dung của chúng mà đơn giản chỉ là vì chúng được viết ra sau khi Chúa kết thúc công trình vạch lộ của Chúa. Mặt khác, trong bản dịch cũ của Hy Lạp về Kinh thánh có dung nạp cả Apocrypha. Chúng bị coi, thí dụ trong nhà thờ Cơ đốc Roma, là trái nghịch.

      - Con hiểu.

      - Nhưng ở trong nhà thờ Tin lành chúng là trái nghịch. Trong cuộc Đổi mới đạo, các nhà thần học hướng vào Kinh thánh cổ Do thái. Martin Luther loại Apocrypha ra khỏi Kinh thánh của Đổi mới rồi sau đó Calvin tuyên bố rằng tuyệt đối được dùng Apocrypha làm cơ sở xây dựng xác tín trong các vấn đề của đức tin. Vậy là nội dung của chúng trái nghịch lại hay ở mặt nào đó xung đột với claritas scripturae – trong sáng của Thánh thư.

      - cách khác là những sách bị kiểm duyệt.

      - Hoàn toàn đúng. Thí dụ, Apocrypha tuyên bố có thể dùng ma thuật và ở trong số trường hợp có thể được phép làm điều này; dĩ nhiên các lời này làm choáng váng các nhà diễn giải Thánh thư theo kiểu giáo điều chủ nghĩa.

      - Vậy nên, với ai đó ham mê tôn giáo thể nào nghĩ được trong danh sách đọc sách của họ lại có nổi lên Apocrypha, người như mục sư Falk bị choáng váng lên vì chuyện này.

      - Nếu nghiên cứu Kinh thánh của đức tin Cơ đốc mà gặp phải Apocrypha chuyện đó cũng gần như là khó tránh; cũng có thể là những ai bận tâm đến sách bí truyền chung đều có thể đọc chúng.

      - Xơ tình cờ có bản Apocrypha đấy ạ?

      Bà lại cười to lên lần nữa. tiếng cười sáng sủa, thân mật.

      - Dĩ nhiên có chứ. Trong những năm 80, Ủy ban Kinh thánh phát hành Apocrypha như là báo cáo của nhà nước.

      Armansky nghĩ chắc lại sắp có chuyện gì đây khi Salander đề nghị gặp riêng ông. Ông đóng cửa lại ở đằng sau và chỉ cho chiếc ghế dành cho khách. bảo ông rằng việc làm với Mikael xong – luật sư nên trả công cho trước cuối tháng – nhưng quyết định làm tiếp với cuộc điều tra đặc biệt này. Blomkvist cho khoản lương cao hơn đáng kể trong tháng.

      - Tôi tự mướn tôi. – Salander . – Cho tới nay, theo đúng thỏa thuận của ông và tôi, tôi chỉ làm công việc gì mà ông giao, nay tôi muốn hỏi là nếu tôi mình tự ý làm việc cho tôi quan hệ giữa chúng ta có bị làm sao ?

      Armansky nhún vai.

      - người làm tự do, có thể nhận bất cứ việc gì mà muốn và nó đáng bao nhiêu đòi công bấy nhiêu. Tôi chỉ vui thấy tự kiếm ra được tiền. Nhưng nếu bắt khách qua công việc của chúng ta có thể trung thực.

      - Tôi định làm chuyện đó. Tôi theo đúng hợp đồng làm xong cái việc với Blomkvist. Có điều là tôi muốn ở lại trong vụ này. Thậm chí tôi làm vì gì cả.

      - Chớ có làm cái gì mà vì gì sất.

      - Ông hiểu ý tôi đấy. Tôi muốn biết câu chuyện này đến đâu. Tôi thuyết phục Blomkvist đề nghị ông luật sư giữ tôi lại làm trợ lý điều tra.

      đưa bản thỏa thuận cho Armansky, ông đọc nhanh nó:

      - Với lương thế này cũng như là làm lương. Lisbeth, có tài. phải làm việc lấy đồng tiền còm nữa. biết còn làm nhiều ghê gớm hơn nữa nếu đến đây làm chính thức với tôi.

      - Tôi muốn làm chính thức toàn bộ thời gian. Nhưng Dragan, lòng trung thành của tôi là dành cho ông. Ông là nhất với tôi từ ngày tôi bắt đầu làm việc ở đây. Tôi muốn biết bản hợp đồng giống như thế này liệu có OK với ông , rằng có bất cứ va chạm gì giữa chúng ta hết chứ.

      - Tôi biết. – Ông nghĩ lúc. – Được, trăm phần trăm. Cám ơn hỏi. Trong tương lai lại có thêm tình hình như thế này mà hỏi tôi để cho xảy ra hiểu lầm tôi tán thành chứ.

      Salander nghĩ xem có còn gì cần thêm . đăm đăm nhìn Armansky, im lặng. Thay vì chỉ gật đầu rồi đứng lên , chào tạm biệt như thường lệ. có được câu trả lời mà mong muốn và lập tức bận tâm đến Armansky. Ông mỉm cười với chính mình. Rằng xin ông lời khuyên và điều này đánh dấu thành tích cao trong quá trình xã hội hóa của .

      Ông mở hồ sơ với báo cáo về an ninh ở nhà bảo tàng, nơi sắp sửa cuộc triển lãm lớn các danh họa trường phái Ấn tượng Pháp. Rồi ông đặt hồ sơ xuống và nhìn ra cửa mà Salander vừa mới bước qua. Ông nghĩ đến việc cười to như thế nào với Blomkvist ở trong văn phòng làm việc của , thầm hỏi đó là rút cục trưởng thành hay Blomkvist có sức hấp dẫn. Ông cũng cảm thấy cảm đôi chút dễ chịu là lạ. Ông bao giờ có thể rũ bỏ được cái cảm giác rằng Lisbeth Salander là nạn nhân hoàn hảo. bây giờ kia, săn lùng cho kỳ được thằng điên ở tại nơi đèo heo hút gió.

      đường lại ngược lên bắc, Salander bốc đồng vòng đến nhà dưỡng lão Appelviken để thăm mẹ. Từ Noel, trừ lần thăm dịp tết. Giữa hè, chưa gặp mẹ và cảm thấy mình tệ vì ít tranh thủ thời gian. Trong vòng ít tuần thăm hai lần là việc hoàn toàn bình thường.

      Mẹ ở trong phòng sinh hoạt chung, Salander ở giờ đẫy với mẹ và đưa mẹ dạo xuống phía ao thả vịt thuộc vùng đất của bệnh viện. Mẹ vẫn lẫn với chị . Như mọi lần, mẹ vẫn xa vắng nhưng có vẻ xúc động vì con đến thăm.

      Khi Salander chào tạm biệt, mẹ muốn buông tay . Salander hứa lại đến thăm mẹ nhưng mẹ buồn và lo lắng nhìn đăm đăm. Tựa như bà cảm thấy điềm báo về thảm họa đến gần.

      Blomkvist bỏ hai giờ ra ở trong vườn đằng sau căn nhà gỗ đọc Apocrypha mà chẳng hiểu tí nào những cái ở trong đó. Nhưng ý nghĩ đến với , Harriet Vanger thực mộ đạo đến mức nào? quan tâm đến các nghiên cứu Kinh thánh bắt đầu vào cái năm trước năm mất tích. gắn số khổ thơ với xê ri các vụ án mạng và rồi chỉ đọc kỹ càng Kinh thánh mà còn đọc cả Apocrypha và mối bận tâm đến đạo Cơ đốc phát triển ở trong . làm cuộc điều tra cũng giống như cuộc điều tra mà Blomkvist và Salander làm ba mươi bảy năm sau đây? quan tâm đến các thứ này có phải chủ yếu để săn lùng hung thủ chứ phải vì tinh thần tôn giáo? Mục sư Falk là ở trong mắt người ta thấy kẻ kiếm tìm hơn là tín đồ Cơ đốc ngoại đạo.

      phải ngừng lại vì Erika gọi di động cho .

      - Em chỉ muốn báo là em và Greger nghỉ phép tuần sau. Em bốn tuần.

      - Hai người đâu?

      - New York. Greger triển lãm tranh rồi bọn này nghỉ Caribbean. Bọn này may là mượn được của người bạn của Greger căn nhà ở Antigua và ở đấy hai tuần.

      - Nghe tuyệt đấy. Chúc vui vẻ nhé. Và chào Greger.

      - Số mới xong và bọn này gần như đóng gói cả số tiếp nữa rồi. Em hy vọng tiếp quản cái chức chủ bút nhưng Christer ấy làm.

      - ấy có thể gọi nếu cần giúp đỡ. Janne Dahlman thế nào rồi?

      có vẻ ngập ngừng.

      - ấy cũng nghỉ phép. Em đùn Henry vào làm quyền Trưởng ban biên tập. ấy và Christer lo lắng cho việc phát hành.

      - OK.

      - Mồng bảy tháng Tám em về.

      Xẩm tối, Blomkvist cố gọi điện thoại cho Cecilia Vanger năm lần. gửi lời nhắn gọi lại cho . Nhưng nhận được trả lời.

      buông quyển Apocrypha, mặc bộ đồ chạy vào, khóa cửa lại rồi ra. theo con đường mòn hẹp dọc bờ biển rồi quay vào rừng. cố hết sức nhanh qua các bụi cây và quanh các gốc cây trốc rễ, nhoi ra Pháo đài thở như đứt hơi và nhịp tim đập gấp. đứng lại ở bên trong những cỗ pháo cổ và nằm thẳng cẳng ra lúc.

      Thình lình nghe thấy tiếng “crắc” gọn đanh và bức tường xi măng xám gần đầu vỡ. Rồi cảm thấy đau khi mảnh xi măng và đạn ghém xé miếng rách sâu ở da đầu .

      Blomkvist đứng ngay đơ ra ngỡ như cả thế kỷ. ở giữa pháo đài. Rồi nhào vào đường hào pháo binh, lấy vai đỡ người khi rơi mạnh xuống, thở như cháy cả phổi. Loạt bắn thứ hai đến cùng với lúc bổ nhào xuống. Đạn găm vào móng xi măng bức tường.

      đứng lên nhìn quanh. ở giữa pháo đài. Ở bên trái và bên phải, những đoạn hẹp, sâu mét cây cỏ um tùm đưa tới các cỗ pháo bày dàn ra dọc theo tuyến gần 250 mét. Co gập người lại chạy vội trong đám mê cung xuống phía nam.

      thình lình nhớ lại tiếng vọng của cái giọng thể bắt chước nổi của đại úy Adolfsson trong các buổi tập trận mùa động tại trường bộ binh ở Kiruna. Blomkvist, cúi cái đầu chết rấp của cậu thấp xuống nếu cậu muốn cái mông khốn kiếp của cậu bị bắn văng . Hàng năm sau vẫn nhớ các bài huấn luyện thực hành ngoại khóa của đại úy Adolfsson.

      dừng lại để thở, tim đập thình thịch. nghe thấy gì khác ngoài tiếng thở của mình. Mắt người bắt lấy vận động nhanh hơn hình thú và mặt mũi nhiều. Khi trinh sát hãy chậm hơn nữa. Blomkvist thong thả nhô lên khỏi đầu cỗ pháo chừng đốt ngón tay. Mặt trời ngay ở giữa đỉnh đầu nên nhận ra được chi tiết nhưng nhìn thấy cử động nào.

      thụt đầu xuống rồi chạy tới cỗ pháo sau. Vũ khí của kẻ thù tốt đến đâu cũng quan trọng. Nếu nó nhìn thấy cậu thể bắn trúng cậu. Che kín, che kín, che kín. Cầm chắc là cậu bao giờ đem bày cậu ra. còn cách khu trại Ostergarden chừng 250 mét. Cách chỗ quỳ khoảng 35 mét có bụi cây thấp, rậm gần như khó mà chui vào lọt. Nhưng để tới được bụi rậm đó phải từ cỗ pháo chạy nhanh xuống sườn dốc đầy cỏ và thế là người lộ hết cả ra. Chỉ còn có lối ấy. Sau lưng là biển.

      thình lình nhận ra đau ở thái dương, rồi phát mình chảy máu, chiếc áo phông của đẫm máu. Vết thương đầu bao giờ ngừng chảy máu, nghĩ trong khi vẫn tập trung chú ý ở tại chỗ của mình. phát bắn có thể chỉ là cố, hai phát bắn tức là có người nào đó định giết . sao mà biết được cái người bắn lén đó có còn chờ lại ra nữa .

      cố bình tĩnh, suy nghĩ tỉnh táo. Chỉ còn hai ngả chọn là hoặc chờ hoặc ra khỏi cái chỗ khốn nạn này. Nếu người bắn lén còn rình đó ngả chọn thứ hai chắc chắn phải là ý hay. Nếu cứ chờ ở đây, người bắn lén có thể bình tĩnh lên Pháo đài tìm và bắn sát sạt.

      (hay ả) thể biết ta sang trái hay phải. Khẩu súng có thể là súng bắn nai sừng tấm. Chắc nó có kính ngắm xa. Nghĩa là tầm nhìn của người bắn lén bị hạn chế nếu tìm Blomkvist qua kính ngắm.

      Nếu chỗ kín – hãy chủ động. Tốt nhất là chờ. quan sát và nghe các tiếng động trong vòng hai ba phút rồi vọt lao ra khỏi cỗ pháo, cố gắng hết sức chạy nhanh xuống dốc.

      Khi đến lưng chừng dốc phát đạn thứ ba nổ nhưng chỉ nghe thấy tiếng va đập mơ hồ ở sau . quăng mình bẹp dí qua các bụi cây rồi lăn mình qua biển những cây tầm ma. Rồi lại đứng lên xa khỏi hướng súng bắn, cúi rạp xuống, chạy, mấy chục mét lại ngừng để nghe ngóng. nghe thấy cành cây gẫy ở đâu đó giữa Pháo đài và . nằm bẹp dí xuống.

      Bò trườn bằng khủyu tay là câu ưa thích khác nữa của đại úy Adolfsson. Blomkvist hết quãng 100 mét sau bằng đầu gối và ngón chân qua các cây cối rậm rịt. gạt sang bên các cành cây to . Hai lần nghe thấy tiếng cành cây gẫy thình lình ở trong bụi cây đằng sau . Tiếng “rắc” đầu tiên nghe như rất gần, cỡ chừng hai chục bước ở bên phải. lạnh toát người, nằm im hoàn toàn. lúc sau thận trọng ngẩng đầu lên nhìn quanh nhưng thấy ai. nằm im lúc, đầu óc hết sức cảnh giác, sẵn sàng chuồn hay có thể phải làm trận đánh trả tuyệt vọng nếu như kẻ thù ra. Tiếng “rắc” thứ hai ở xa hơn. Rồi im lặng.

      biết mình ở đây. đến chỗ nào đó chờ mình hay rút ?

      Blomkvist cố bò qua các chỗ cây cỏ thưa cho đến khi đến hàng rào ở Ostergarden.

      Bây giờ là lúc gay go tiếp theo. đường mòn chui qua hàng rào. nằm thẳng mặt đất quan sát. Khu trại ở xa gần 400 mét bên dưới con dốc thoai thoải. trông thấy mấy con bò gặm cỏ ở bên ngoài ngôi nhà. Tại sao có ai nghe thấy tiếng súng mà ra xem chứ nhỉ? Mùa hè. Có thể có ai ở nhà lúc này.

      có chuyện qua bãi cỏ rồi, có gì che chắn ở đó. Đường mòn thẳng bên dưới hàng rào là chỗ khiến trở thành điểm ngắm bắn dễ dàng. lùi lại vào trong bụi cây cho đến khi ra tới đầu đằng kia gần khu rừng thông thưa thớt.

      làm đường vòng dài quanh các cánh đồng ở Ostergarden và Soderberget để về nhà. Khi qua Ostergarden có thể nhìn thấy các xe của họ . Đến đỉnh Ostergarden dừng lại, nhìn xuống Hedeby. Trong những căn nhà đánh cá gần vùng đậu tàu thuyền có các vị khách: phụ nữ mặc quần áo ắm ngồi trò chuyện cầu tàu. ngửi thấy mùi nướng rán gì đó cái lò ở ngoài nhà. Trẻ con nhảy thi thòm xuống nước gần các cầu tàu của bến tàu thuyền.

      Vừa mới sau 8 giờ. Từ những phát súng bắn đến nay năm chục phút. Nilsson mặc quần soóc và sơmi tưới các thảm cỏ. ở đây bao lâu rồi? Nhà Vanger trống trừ Anna. Nhà Harald vắng lặng như mọi khi. Rồi trông thấy Isabella Vanger ở trong vườn đằng sau nhà bà ta. Bà ta ngồi đó, chuyện với ai. Mất thoáng Blomkvist mới nhận ra người ấy là Gerda Vanger ốm đau, sinh năm 1922 và sống với con trai Alexander trong ngôi nhà ở bên kia ngôi nhà của Henrik. chưa bao giờ gặp bà ta nhưng nom thấy bà ta dăm ba lần. Nhà của Cecilia Vanger nom trống nhưng rồi Mikael trông thấy cử động ở trong bếp. Chị ấy ở nhà. Người bắn lén có là phụ nữ đây? biết Cecilia biết sử dụng súng. có thể trông thấy xe của Martin Vanger ở khúc đường cho xe ra vào ở trước mặt nhà ấy. ấy ở nhà được bao lâu rồi?

      Hay đấy là ai khác mà chưa nghĩ tới? Frode? Alexander? Quá nhiều khả năng.

      tụt từ Ostergarden xuống rồi theo đường vào làng về nhà gặp ai. Điều đầu tiên nhìn thấy là cánh cửa nhà gỗ hé mở. Gần như bản năng cúi rạp người xuống vào. Rồi ngửi thấy mùi cà phê và qua cửa sổ nhà bếp thấy Salander.

      Nghe thấy vào lối cửa chính, quay lại. cứng sững người lên. Mặt nom sợ, nhem nhuốc máu bắt đầu khô. Bên trái chiếc áo phông của đỏ lòm. dịt chiếc khăn tay đẫm máu ở đầu.

      - Chảy máu cứ như bị chọc tiết nhưng nguy hiểm. – Blomkvist trước khi kịp hỏi.

      quay lấy đồ cứu thương sơ bộ ở trong tủ; có hai gói băng chun, que hương chống muỗi và cuộn băng phẫu thuật . cởi quần áo ra, ném chúng xuống sàn rồi vào buồng tắm.

      Vết thương ở thái dương là vết rách khá sâu. Nó vẫn chảy máu và cần phải khâu nhưng nghĩ nó chắc chắn lành nếu băng chặt lại. dấp khăn tay dưới vòi nước lạnh rồi lau mặt. Rồi ấn chặt chiếc khăn tay vào thái dương trong khi đứng dưới vòi hoa sen, nhắm mắt lại. đấm mạnh vào gạch men đến nỗi mu bàn tay trầy ra. Mẹ mày, muốn cho mày là ai , tao sắp tìm ra mày đây, tao chộp được mày. Khi Salander sờ vào , giật nảy lên tựa như bị điện giật, mặt tức giận khiến cho Salander phải lùi lại. đưa xà phòng cho rồi lẳng lặng ra bếp.

      băng chỗ đau bằng ba lớp băng phẫu thuật. vào buồng ngủ, lấy quần jean sạch và áo phông mới, đem hồ sơ in thêm rồi . cáu quá đến nỗi người như vẫn run lên

      - Ở nguyên đấy, Lisbeth. – quát.

      bộ đến nhà Cecilia Vanger và bấm chuông. Nửa phút sau chị mới ra mở cửa.

      - Tôi muốn gặp . – Chị . Rồi chị nhìn thấy máu vẫn rỉ ra từ lớp băng.

      - Hãy để tôi vào. Chúng ta cần chuyện.

      Chị do dự.

      - Chúng ta chẳng có gì để sất cả.

      - Bây giờ có và chị có thể cãi ở bậc tam cấp đây hay ở trong nhà bếp.

      Giọng Blomkvist quá cương quyết khiến Cecilia lùi lại để vào. ngồi bên bàn bếp nhà chị.

      - làm gì? – Chị hỏi.

      - Chị tôi đào bới về vụ Harriet mất tích là kiểu điều trị vô tích cho Henrik Vanger. Có thể là thế , nhưng trước đây giờ ai đó khát máu suýt nữa bắn bay mất đầu tôi và đêm nọ ai đó – có thể vẫn là chàng khôi hài nọ - để xác con mèo kinh khủng ngay ở cổng nhà tôi.

      Cecilia mở miệng nhưng Blomkvist cắt nghiến luôn.

      - Cecilia, tôi bận tâm đến các day dứt của chị hay cái làm chị lo phiền hay việc chị thình lình trông thấy tôi là ghét. Tôi bao giờ đến gần chị nữa và chị phải lo tôi lại quấy chị hay đeo đuổi chị. Ngay từ phút này, tôi mong bao giờ phải nghe thấy chị hay cái gì ác của gia đình Vanger. Nhưng tôi cầu phải trả lời những điều tôi hỏi. Càng trả lời sớm chị càng chóng hết nợ với tôi.

      - muốn biết cái gì?

      - Thứ nhất: giờ trước đây chị ở đâu?

      Mặt Cecilia tối lại.

      - giờ trước đây tôi ở Hedestad.

      - Có ai xác nhận được chỗ chị ở lúc đó ?

      - phải vì tôi nghĩ được ra mà là vì tôi có việc gì lại phải kể với sất.

      - Câu hỏi hai: hôm Harriet mất tích tại sao chị lại mở cửa sổ phòng ngủ chị ấy ra?

      - Cái gì?

      - Chị nghe rồi. Suốt những năm qua Henrik cố tìm ra trong những giờ phút gay cấn nhất, ai mở cửa sổ buồng Harriet ra. Ai cũng chối. Có người dối.

      - Thế cái quỉ gì nó khiến nghĩ là tôi?

      - Bức ảnh này. – Blomkvist , liệng tấm ảnh lòa nhòa lên bàn bếp.

      Cecilia đến bên bàn xem kỹ bức ảnh. Blomkvist nghĩ thấy chị choáng ra mặt. Chị ngước lên nhìn . cảm thấy dòng máu lăn và rơi xuống áo sơmi.

      - Hôm ấy có sáu chục người ở đảo. – . – Trong đó có hai mươi tám người là phụ nữ. Năm hay sáu người trong đó để tóc dài ngang vai. Chỉ có người mặc váy sáng màu.

      Chị chăm chú nhìn vào bức ảnh,

      - Và cho đây là tôi.

      - Nếu phải chị tôi muốn là chị bảo tôi theo chị người đó là ai. Chưa ai trước đây biết về bức ảnh này. Tôi có nó nhiều tuần nay và cố chuyện với chị về nó. Có thể tôi là thằng ngu nhưng tôi đưa nó cho Henrik hay ai đó khác vì tôi sợ ghê gớm rằng nó làm cho chị bị nghi ngờ hay để cho người ta làm điều gì đó phải với chị. Nhưng tôi cần có câu trả lời.

      - có câu trả lời. – Chị đưa lại bức ảnh cho . – Tôi vào buồng Harriet hôm ấy. Trong ảnh phải là tôi. Tôi có mảy may liên quan gì đến việc ấy mất tích.

      Chị ra cửa chính.

      - được trả lời. Bây giờ xin cho. Nhưng tôi nghĩ nên có bác sĩ chăm sóc cho vết thương này.

      Salander lái xe đưa bệnh viện Hedestad. Chỉ mất hai mũi khâu và băng bó tử tế để khép kín vết thương lại. được cho thuốc mỡ cortisone để bôi các chỗ ở cổ và tay bị gai tầm ma cào cứa.

      Sau khi họ rời bệnh viện, Blomkvist ngồi nghĩ lúc lâu xem có nên báo cảnh sát hay . có thể đọc thấy các đầu đề “Nhà báo vu cáo trong tấn bi kịch bị bắn lén”. lắc đầu.

      - Về nhà thôi. – .

      Trời tối khi họ trở về đảo Hedeby, việc này rất hợp ý Salander. nhấc cái túi thể thao đặt lên bàn.

      - Em mượn các trò này của An ninh Milton, đến lúc chúng ta cần dùng chúng rồi đấy.

      cắm ở quanh nhà bốn máy chạy pin phát cử động, giải thích nếu có ai đến gần hơn sáu mét tín hiệu vô tuyến làm cho chuông báo động réo lên vui như có hội có hè, chuông này để ở buồng ngủ của Blomkvist. Đồng thời các cây tại trước và sau căn nhà gỗ để hai camera chụp hình loại cực nhạy, chúng gửi tín hiệu đến màn hình máy tính xách tay để ở tủ li gần cửa chính. giấu camera bằng những miếng vải tối màu.

      để camera thứ ba ở gần chuồng chim cửa ra vào. khoan lỗ qua tường để luồn dây cáp. Ống kính được chĩa ra đường và ra con đường vào cửa chính. Mỗi giây nó lại chụp hình ảnh độ nét thấp và lưu lại trong đĩa cứng của máy xách tay khác để ở trong tủ quần áo.

      Rồi để ở trước lối vào nhà tấm thảm bắt được mọi lực giẫm lên nó, nếu ai đó muốn tránh các máy phát bằng tia hồng ngoại để vào nhà còi báo động 115 đêxiben rú lên. Salander bảo cách tắt các máy phát bằng chìa khóa gắn vào cái hộp để ở trong tủ quần áo. cũng mượn kính nhìn đêm.

      - Em chả để cho cơ may có được nhiều cơ hội gì cả. – Blomkvist và rót cà phê cho .

      - việc nữa. rảo bước để tập nữa cho tới khi chúng ta phá được chuyện này,

      - Hãy tin , mất hết hứng thú với chuyện tập tành.

      - Em đùa. Chuyện này có thể bắt đầu như bí mật lịch sử, nhưng qua việc con mèo chết và người ta định bắn tung đầu chúng ta có thể khẳng định rằng chúng ta ở đúng phải lõng của ai đó rồi.

      Họ ăn tối muộn. Blomkvist thình lình mệt phờ và đầu đau như muốn nứt ra. khó chuyện thêm nên nằm.

      Salander thức đọc báo cáo cho đến 2 giờ sáng.


      Stieg Larsson

      Có Hình Xăm Rồng

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 23

      Thứ sáu, 11 tháng Bảy


      A nh thức dậy lúc 6 giờ với ánh nắng rọi vào ngay mặt qua khe rèm cửa. còn thoáng đau đầu và đau hơn khi sờ vào chỗ quấn băng. Sanlander nằm sấp ngủ, cánh tay vắt qua người . nhìn xuống con rồng xăm bả vai . đếm các hình xăm của . Cũng như con vò vẽ ở cổ, sợi dây thòng lọng khác ở bắp tay bên trái, biểu tượng Tàu ở hông và bông hồng ở bắp chân.

      bước xuống giường kéo kín rèm lại. vào buồng tắm rồi bước trở lại giường, cố vào mà làm tỉnh giấc.

      Hai giờ sau, ăn điểm tâm, Blomkvist :

      - Chúng ta giải bài đố này như thế nào?

      - Chúng ta gom các việc chúng ta có lại. Chúng ta cố tìm ra nhiều nữa.

      - Với , câu hỏi duy nhất là: tại sao? Vì chúng ta cố giải cái bí mật về Harriet hay là vì chúng ta phát ra sát thủ hàng loạt cho đến nay vẫn chưa lộ ra?

      - Chắc có liên quan. – Salander . – Nếu Harriet nhận ra có tên giết người hàng loạt đó chỉ có thể là người nào đó mà chị ấy biết. Nếu ta nhìn vào bảng phân vai các nhân vật trong những năm 60 có ít nhất hai tá ứng cử viên khả dĩ. Ngày nay khó còn ai sót lại, trừ Harald Vanger nhưng ông ta gần chín mươi ba tuổi thể vác súng chạy quanh các khu rừng ở Froskhônggen được. Ai cũng hoặc quá già để thành ra mối nguy hiểm nào đó nay hoặc là quá trẻ để từng sống từ những năm 50. Vậy chúng ta hãy quay về với người phù hợp.

      - Hay chúng là hai đứa cộng tác với nhau. già hơn, trẻ hơn.

      - Harald và Cecilia ư ? Em nghĩ thế. Em nghĩ chị ấy khi bảo rằng chị ấy phải là người đứng ở cửa sổ.

      - Vậy người ấy là ai?

      Họ quay lại với máy tính iBook của Blomkvist, bỏ cả tiếng nghiên cứu lại lần nữa tất cả những ai ra ở trong các bức ảnh về vụ tai nạn cầu.

      - chỉ có thể cho là ai ở trong làng cũng đều đến đó xem cảnh náo động. là tháng Chín. Phần lớn đều mặc áo jacket hay áo len. Chỉ có người có tóc vàng và váy sáng màu.

      - Cecilia có mặt ở trong nhiều ảnh. Hình như ở đâu cũng thấy chị ấy. Ở giữa các tòa nhà và những người nhìn vào hai cái xe đâm nhau. Đây là chị ấy với Isabella. Đây đứng gần bên mục sư Falk. Đây với Greger Vanger, ông ở giữa.

      - Khoan khoan, - Blomkvist . – Greger cầm cái gì ở trong tay thế kia?

      - cái gì hình vuông. Trông như cái hộp gì đó.

      - chiếc Hasselblad. Vậy là ông ta cũng có máy ảnh.

      Họ cho diễu lại lần nữa các bức ảnh. Greger có ở trong phần lớn ảnh, tuy thường là bị mờ nhòa. Trong bức, có thể nhìn thấy ông ta cầm cái hộp hình vuông.

      - Em nghĩ đúng đấy. Dứt khoát là máy ảnh.

      - Có nghĩa là chúng ta lại phải săn lần nữa.

      - OK. Nhưng bây giờ ta hãy lờ chuyện ấy lúc – Salander . – Để em đề nghị lập luận.

      - Cứ .

      - Nếu ai đó trong thế hệ trẻ biết ai đó trong thế hệ già là tên giết người hàng loạt nhưng họ muốn lộ chuyện đó ra sao đây? Danh dự gia đình và các thứ ba lấp kia. Như thế có nghĩa là có hai người dính líu đến nhưng phải là cùng dính líu chung với nhau. Tên giết người có thể chết cách đây vài năm rồi trong khi nữ thần báo oán của chúng ta lại cứ muốn chúng ta quăng hết cả mới phải.

      - Nhưng nếu thế tại sao lại đem đặt con mèo bị chặt đầu moi ruột vào cổng nhà chúng ta?

      - Thế là ràng cố ý gợi đến các vụ án mạng – Blomkvist đập đập tay vào cuốn Kinh thánh của Harriet, - Lại lần nữa đem nhái các luật liên quan đến dâng cúng vật bị thiêu cháy.

      Salander ngả người ra sau, nhìn lên nhà thờ trong khi trích dẫn Kinh thánh. Tựa hồ với .

      “Rồi giết con bò đực ở trước Chúa và các con trai của Aaron, các thày tế dâng máu và chúng vẩy máu khắp xung quanh về phía ban thờ vốn là cửa lều trại của cuộc hội họp. Rồi chúng lột da vật dâng cúng bị thiêu cháy rồi cắt nó ra thàng từng miếng”.

      cảm thấy im ắng, biết Blomkvist nhìn với vẻ mặt căng thẳng. mở Kinh thánh đến chương đầu của Leviticus.

      - Em biết cả khổ thơ thứ mười hai chứ?

      Salander đáp.

      - Và … - gật đầu với và bắt đầu.

      - “Và nó bị tùng xẻo cùng với đầu và mỡ của chính nó rồi thầy tế đặt chúng lên củi của ngọn lửa ban thờ”. – Giọng lạnh băng- Còn khổ sau?

      thình lình đứng phắt dậy

      - Lisbeth, em có trí nhớ của máy ảnh. – Blomkvist ngạc nhiên kêu lên. – Thảo nào em có thể đọc được trang điều tra chỉ trong vòng mười giây.

      Phản ứng của gần như bùng nổ. Đôi mắt giận dữ của nhìn trừng trừng vào khiến sửng sốt rồi mặt đổi sang chán ngán và quay gót chạy ra ngoài cổng.

      - Lisbeth, - gọi to theo.

      biến mất ở đường.

      Mikael mang máy tính vào trong nhà, đặt máy báo động rồi khóa cửa chính lại để ra ngoài tìm . Hai mươi phút sau tìm thấy con đê chắn sóng và thấy vai cứng lại. đứng lại ở cách hai ba bước.

      - biết gì nhưng có ý làm phật lòng em.

      ngồi xuống cạnh , dụng ý đặt tay lên vai .

      - Xin nào, Lisbeth. với .

      quay lại nhìn .

      - Chả có gì để cả. – . – Em chỉ là cơn cớ lên thế thôi.

      - vui vô cùng nếu như trí nhớ của cũng bằng được trí nhớ của em.

      vất đầu mẩu thuốc lá xuống nước.

      Blomkvist ngồi im lúc lâu. Mình nên gì nhỉ? Em là hoàn toàn bình thường. Nếu em có khác chút ít quan trọng gì cái đó chứ? Hình ảnh tự thân mà em có về em là gì đây?

      - nghĩ có cái gì khác ở em cái bữa đầu thấy em. – – Em biết là gì ? là lâu lắm mới có ấn tượng tốt đẹp với người ngay từ lúc vừa mới thấy người ấy.

      Vài đứa trẻ ở trong các căn nhà bên kia cảng tàu ra nhảy xuống nước. Họa sỹ Eugen Norman, người mà Blomkvist chưa trao đổi qua lời, ngồi trong cái ghế ở bên ngoài nhà ông, ngậm cái tẩu trong khi nhìn Blomkvist và Slander.

      - tình muốn là bạn của em, nếu em cho được như thế. – . – Nhưng đó là tùy em. về lại nhà làm ít cà phê. Em hãy về khi nào em thích.

      đứng lên để được yên tĩnh mình. lên được lưng quả đồi nghe thấy tiếng chân ở đằng sau. Hai người cùng về nhà lời.

      Vừa tới nhà giữ lại.

      - Em trong quá trình hình thành lý lẽ .. Chúng ta đến việc các khổ thơ kia là nhái lại Kinh thánh. Đúng là tóm giữ con mèo dễ, nhưng tóm giữ được con bò mới khó. Nhưng vẫn làm theo câu chuyện gốc. Em nghĩ … - lại nhìn lên nhà thờ. Và chúng vấy máu khắp xung quanh về phía ban thờ vốn là cửa lều trại của cuộc hội họp...

      Họ qua cầu lên nhà thờ. Blomkvist lay lay cửa nhưng nó bị khóa. Họ loăng quăng quãng lúc, nhìn các bia mộ cho tới khi đến nhà nguyện xây ở dưới nước, gần đó chút. Thình lình Blomkvist mở to mắt. phải là nhà nguyện mà là hầm mộ. Bên cửa có thể đọc được tên Vanger chạm khắc vào trong đá cùng khổ thơ bằng chữ Latinh nhưng thể dò ra được.

      - Yên nghỉ cho đến tận cùng của thời gian, - Salander sau lưng .

      Blomkvist quay lại nhìn . nhún vai.

      - Em tình cờ đọc thấy câu thơ này ở đâu đó.

      Blomkvist cười phá lên. cứng người lại và nom thoạt đầu giận dữ nhưng rồi thư thái lại khi hiểu ra là cười về khôi hài của tình huống.

      Blomkvist thử mở cửa. Cửa khóa. nghĩ lúc và bảo Salander ngồi xuống chờ . đến gặp Anna Nygren và gõ cửa.

      giải thích muốn xem gần hơn hầm mộ của gia đình, và hiểu Henrik để chìa khóa ở đâu. Anna nom có vẻ nghi ngại nhưng cũng lấy chìa khóa ở bàn làm việc của Henrik ra.

      Vừa mở được cửa hầm mộ ra họ biết ngay là họ đúng. khí nồng nặc mùi xác cháy và các lục phủ ngũ tạng thành than. Nhưng người hành hạ con mèo phải nổi lửa. Ở góc hầm là cây đuốc, loại người trượt tuyết vẫn dùng để hơ chảy xi ở các ván trượt tuyết. Salander lấy máy ảnh ở trong túi váy jean ra chụp vài pô. Rồi rón rén nhấc cây đuốc lên.

      - Cái này có thể làm bằng chứng. có thể để lại vân tay. – .

      - Ô chắc hẳn chúng ta có thể cầu nhà Vanger xếp hàng ra cho chúng ta xem vân tay họ - Blomkvist cười. – muốn xem em lấy vân tay của Isabella.

      - Có cách đấy. – Salander .

      Có nhiều máu ở sàn, phải đều khô hết, cũng như con dao mà họ cho là dùng để cắt đứt đầu con mèo.

      Blomkvist nhìn quanh. quan tài bằng đá nổi lên thuộc về Alexander Vangersad và bốn nấm mồ để hài cốt của các thành viên gia đình chết sớm nhất. Gần đây hơn xem vẻ nhà Vanger giải quyết bằng hỏa táng. Khoảng ba chục khoang tường đề tên tổ tiên gia tộc. Blomkvist lần theo thời gian của gia đình, nghĩ biết họ chôn ở đâu những thành viên gia đình được dành chỗ cho ở trong hầm mộ - những người được đánh giá là đủ quan trọng.

      - Bây giờ chúng ta biết rồi, - Blomkvist khi họ qua lại cầu trở về. – Chúng ta săn lùng gã điên đặc.

      - Ý là sao?

      Blomkvist dừng lại ở giữa cầu tì vào thành cầu.

      - Nếu đây là cha lập dị ú ớ thử dọa chúng ta đem con mèo xuống dưới gara hay thậm chí mang ra rừng. Nhưng lại đưa đến hầm mộ. Có điều gì đó bắt buộc ở chỗ này. Cứ nghĩ đó là rủi ro . là mùa hè người ta ra ngoài nhà, dạo loanh quanh. Con đường qua nghĩa trang là con đường chính bắc nam của đảo Hedeby. Cho dù có đóng cửa lại ở đằng sau con mèo chắc cũng làm ầm ĩ cả lên và chắc phải có mùi cháy.

      - ?

      - nghĩ Cecilia bò đến đây ban đêm với cây đuốc tay được.

      Salander nhún vai.

      - Em tin bất cứ ai trong đám họ, kể cả Frode hay ông bạn Henrik của , Họ đều là bộ phận của cái gia đình sẵn sàng lừa đảo nếu như có cơ hội. Vậy bây giờ chúng ta làm gì đây?

      Blomkvist :

      - phát ra lô lốc về em. Thí dụ bao nhiêu người biết em là hacker?

      - ai.

      - ai, trừ , em thế chứ gì.

      - thế để đến đâu đây?

      = muốn biết em có đồng ý với . Em có tin .

      nhìn lúc lâu. Cuối cùng chỉ nhún vai, thay cho trả lời.

      - Chuyện đó em chịu, làm được gì cả.

      - Em có tin ? – Blomkvist nài hỏi.

      - Tốt. Nào, chúng ta gặp Frode.

      Đây là lần đầu tiên bà vợ luật sư Dirch Frode gặp Salander. Vừa cười lịch bà vừa mở to mắt nhìn . Mặt Frode sáng lên khi thấy Salander. Ông đứng lên đón tiếp họ.

      - Gặp các vị hay quá. – Ông . – Tôi vẫn cảm thấy có lỗi là chưa bày tỏ đúng đắn lòng biết ơn với cái công việc khác thường mà làm cho chúng tôi. Cả mùa đông vừa rồi lẫn mùa hè nay.

      Salander nghi ngờ liếc ông.

      - Tôi được trả công. – .

      - phải chuyện ấy. Tôi cói vài đánh giá khi vừa nhìn thấy . hãy tốt bụng mà tha lỗi cho tôi.

      Blomkvist ngạc nhiên. Frode lại có thể đề nghị hai mươi lăm tuổi xăm khắp mình và đeo khoen đầy người thứ lỗi vì cái gì đó mà ông chả cần phải xin lỗi. Ông luật sư leo lên được vài nấc nữa trong mắt Blomkvist, Salander nhìn chằm chằm ra đằng trước buồn để ý đến ông.

      Frode nhìn Blomkvist.

      - làm gì cái đầu của thế?

      Họ ngồi xuống. Blomkvist tóm tắt diễn biến trong hai mươi tư giờ qua. Khi tả chuyện có người bắn ở gần Pháo đài, Frode nhảy dựng lên.

      - Thế này điên rồi! – Ông ngừng lại nhìn đăm đăm Blomkvist. – Tôi xin lỗi nhưng chuyện đến thế này phải ngừng lại thôi. Tôi thể đừng được. Tôi với Henrick và huỷ hợp đồng.

      - Ngồi xuống , - Blomkvist .

      - hiểu...

      - Điều tôi hiểu là Lisbeth và tôi đến quá gần khiến ai đó ở đằng sau tất cả chuyện này bị rối trí mà phản ứng hoảng loạn như thế. Chúng tôi có vài câu hỏi. Trước hết : có bao nhiêu chìa khoá của hầm mộ nhà Vanger và ai được có chiếc?

      - phải việc của tôi, tôi biết. – Frode . – tôi cho là nhiều người trong gia đình có thể ra vào hầm mộ. Tôi biết Henrick có chìa và Isabella đôi khi cũng đến đó, nhưng tôi thể bảo với là bà ấy có chìa khoá hay bà ấy mượn của Henrik.

      - OK, ông vẫn ở bên chính phái. Có hồ sơ nào về tập đoàn ? thư viện hay cái gì đó đại loại thế. Chỗ mà họ lưu các cắt dán báo chí và thông tin về hãng xưa nay.

      - Vâng, có. Ở văn phòng chính tại Hedestad.

      - Chúng tôi cần vào đó. Có nhà báo nào lâu năm của ban lãnh đạo hay cái gì na ná thế ?

      - Tôi lại phải rằng tôi biết. Ba chục năm nay tôi làm việc với hồ sơ rồi. phải với người phụ nữ tên là Bodil Lindgren.

      - Ông có thể gọi bà ta và thu xếp sao cho Salander đọc được hồ sơ chiều nay ? ấy cần tất cả các cắt dán báo chí cũ về Tập đoàn Vanger.

      - thành vấn đề. Còn gì nữa ?

      - Còn. Greger cầm chiếc máy ảnh Hasselblad hôm xảy ra tai nạn xe ở cầu. Có nghĩa là ông ta cũng có chụp số ảnh.

      - Theo lôgích bà vợ goá và con trai ông ấy giữ. Để tôi gọi Alexander và hỏi ta.

      - Em tìm cái gì nào? – Salander khi hai người đường về đảo.

      - Cắt dán báo chí và ý kiến bạn đọc. muốn em đọc kỹ mọi cái về ngày tháng của các vụ án mạng gây ra trong năm 50 và 60. Bất cứ cái gì làm em ngạc nhiên em cứ giữ lại. Hình như trí nhớ của em...

      thụi cái vào sườn .

      Năm phút sau chiếc Kawasaki của phành phạch qua cầu.

      Blomkvist bắt tay Alexander Vanger. Trong phần lớn thời gian Blomkvist ở Hedeby, ông ở đâu đó. Ông hai mươi tuổi khi Harriet mất tích.

      - Dirch ông muốn xem các bức ảnh cũ.

      - Bố ông có chiếc Hasselblad, tôi tin như vậy.

      - Đúng. Nó vẫn còn đây nhưng ai dùng cả.

      - Tôi mong ông biết rằng Henrik nhờ tôi nghiên cứu xem chuyện gì xảy ra với Harriet.

      - Tôi hiểu. Và có nhiều người thích chuyện ấy.

      - Có vẻ là thế và dĩ nhiên ông phải đưa tôi xem cái gì cả.

      - Xin ... ông thích xem cái gì?

      - Nếu bố ông chụp đựoc ảnh nào vào hôm xảy ra tại nạn xe, hôm mà Hariet mất tích xin ông cho xem.

      Họ lên gác xép. Phải mất mấy phút Alexander Vanger mới có thể nhận ra được cái hộp đựng những hình ảnh chưa xếp loại.

      - Mang cả hộp về nhà. – ông . – Nếu như còn chúng ở cả trong này đây.

      Như những minh hoạ cho biên niên gia đình Vanger, cái hộp của Greger Vanger chứa đựng những viên đá quý đích thực, bao gồm cả số hình ảnh của Greger chụp với Olof Lindholm, thủ lĩnh chóp bu của Quốc xã Thụy Điển trong những năm bốn mươi. Những bức ảnh để ra bên. tìm thấy những phong bì đựng những ảnh mà Greger chụp các cuộc tụ họp gia đình cũng như nhiều bức ảnh về các ngày nghỉ lễ điển hình – câu cá núi và chuyến du lịch sang Ý.

      tìm thấy bốn bức về tai nạn cầu. Tuy máy của ông tốt, Greger vẫn là tay chụp tồi. Hai bức cận cảnh chiếc xe téc, hai bức về những người đứng xem, chụp từ đằng sau. chỉ tìm thấy bức trong đó Cecilia ra trong tư thế quay nửa chiều nghiêng mặt.

      quét hình các bức ảnh này vào máy tính tuy biết chúng chả được điều gì mới với . để các thứ trở lại và cái hộp và nghĩ thế là xong việc, rồi ăn trưa với cái sandwich. Sau đó gặp Anna.

      - Bà có nghĩ Henrik còn có album nào ngoài những bức ảnh ông tập hợp lại cho cuộc điều tra về Hariet ?

      - Có. Henrik luôn thích ảnh – ngay từ khi còn trẻ, tôi được nghe thế. Ông ấy có nhiều ảnh ở trong phòng làm việc của ông ấy.

      - Bà có thể cho tôi xem được ?

      Trông thấy ngay là bà ngập ngừng. Cho Blomkvist mượn chìa khoá hầm mộ gia đình chuyện – dầu gì có Chúa gánh trách nhiệm ở đấy – nhưg để cho vào phòng của Henrik lại là chuyện khác. Lệnh của Chúa mở rộng ra đến đó. Blomkvist gợi ý là bà nên gọi Frode. Cuối cùng bà cho vào. Gần như các Album choán mất hết cả mét dưới cùng của giá sách. ngồi vào bàn làm việc và mở quyển Album đầu tiên.

      Vanger lưu hết các bức ảnh gia đình còn lại. Những bức ràng là có từ lâu trước thời ông. Các bức lâu nhất có từ năm 1870, cho thấy những người đàn ông cục cằn và những người phụ nữ nghiêm nghị. Có ảnh bố mẹ của Vanger. bức cho thấy bố ông nghỉ lễ giữa mùa hè với đám đông nồng nhiệt ở Sandhamn năm 1906. bức nữa ở Sandhamn cho thấy các công nhân sàn nhà máy và trong các văn phòng. tìm thấy đại uý Oskar Granath, người đưa Vanger và Edith Lobach dấu của đến Kariskrona an toàn.

      Anna lên gác với tách cà phê. cảm ơn bà. Lúc ấy đến thời đại và giở các trang ảnh của Vanger thời trẻ, mở nhà máy, bắt tay với Tage Erlander, ảnh của Vanger với Marcus Wallenberg – hai nhà tư bản gườm gườm nhìn nhau.

      Trong album này cũng tìm thấy hai trang ảnh liền đó Vanger viết bằng bút chì "Hội đồng gia đình 1966". Hai bức ảnh màu cho thấy những người đàn ông trò chuyện và hút xì gà. nhận ra Henrik, Harald, Greger và số con rể trong chi Johan Vanger của gia đình. Hai bức cho thấy bữa ăn tối chính thức, bốn chục đàn ông và phụ nữ ngồi ở bàn, tất cả đều nhìn chằm chằm vào máy ảnh. Các bức ảnh được chụp sau khi tấm bi kịch cầu kết thúc nhưng trước khi mọi người nhận ra Harriet mất tích. xem kỹ mặt họ. Bữa tiệc lẽ ra dự. Có ai trong đám đàn ông ở đây biết là biệt? Các bức ảnh cho ra câu trả lời.

      Rồi thình lình sặc cà phê. ho và ngồi thẳng người lên ghế.

      Ở đầu bàn góc xa, Cecilia Vanger trong bộ váy sáng màu cười với máy ảnh. Ngồi cạnh chị là phụ nữ tóc vàng khác cũng với món tóc dài và chiếc váy sáng màu tương tự. Hai người giống nhau đến mức ngỡ là chị em sinh đôi. Thế là thình lình mảnh ghép của bài đồ ghép hình rơi vào chỗ của nó, Cecilia phải là người ở cửa buồng Harriet – đó là Anita, em của chị, kém chị hai tuổi và sống ở London. Salander thế nào? Có Cecilia ở trong nhiều ảnh lắm. phải. Có hai và như cơ may muốn thế - cho đến nay – họ chưa từng được nhìn thấy ở chung trong ảnh bao giờ. Ở khoảng cách, hai nom giống nhau trong các ảnh trắng đen. Henrik Vanger được cho là có thể nhận ra riêng biệt từng người nhưng với Blomkvist và Salander các nom giống nhau ngỡ như là . ai chỉ cho họ thấy sai vì họ chưa bao giờ có ý hỏi chuyện này.

      Blomkvist lật bức ảnh lại tóc gáy liền dựng đứng. Ngỡ đâu có luồng gió lạnh thổi vào gian phòng. Có những bức ảnh chụp hôm sau, khi cuộc tìm kiếm Harriet bắt đầu. Sĩ quan cảnh sát trẻ Morell chỉ thị cho toán người tìm gồm hai sỹ quan cảnh sát mặc đồng phục và mươi người bốt sắp sửa lên đường. Vanger mặc áo mưa dài đến đầu gối và đội mũ hẹp vành.

      Ở bên trái bức ảnh có thanh niên hơi vạm vỡ với mái tóc dài sáng màu. ta mặc chiếc Jacket độn vai màu thẫm với dải vải đỏ ở vai. Bức ảnh rất . Blomkvist lập tức nhận ra ta – và chiếc Jacket – nhưng để cho chắc chắn, lấy bức ảnh xuống hỏi bà Anna xem bà có biết người đó .

      - Ô , Martin Vanger chứ còn ai.

      Salander lục kỹ hết năm này sang năm khác các cắt dán báo chí, lần lên theo trật tự thời gian. bắt đầu từ năm 1949 và cứ thế miết. Đống hồ sơ đồ sộ. Công ty được thông tin đại chúng nhắc đến gần như hàng ngày trong thời kỳ tương ứng – chỉ ở báo địa phương mà ở cả thông tin đại chúng toàn quốc. Có những phân tích tài chính, nhưng thương lượng công đoàn, đe doạ bãi công, nhà máy khai trương và nhà máy đóng cửa, những thay đổi trong các giám đốc điều hành, các sản phẩm mới tung ra. Tin tức lũ lượt. Click, click, click, đầu óc hoạt động với tốc độ cao trong khi tập trung vào thông tin và hấp thụ nó từ những trang giấy ố vàng.

      Sau vài tiếng đồng hồ nảy ra ý. hỏi người quản lý hồ sơ liệu có các biểu đồ cho thấy tập đoàn Vanger có những nhà máy hay công ty ở đâu trong những năm 50 và 60.

      Boldy Lindgern chả giấu vẻ lạnh nhạt khi nhìn Salander. Bà vui chút nào cái việc cho phép người là hoắc thâm nhập nội bộ thánh cung hồ sơ của công ty, buộc phải cho ta được xem kỹ hết tất cả những gì ta muốn. Ngoài ra ả này nom lại y như phần tử vô chính phủ ẩm ương mười lăm tuổi. Nhưng ông Frode cho những chỉ thị mà bà được hiểu sai. Cái đồ con kiểu này lại được tự do xem bất cứ thứ gì ả thích. Và lại là khẩn nữa chứ. Bà mang ta các báo cáo thường niên có in ấn trong những năm mà Salander muốn xem; mỗi báo cáo lại có biểu đồ về các phân nhánh của công ty ở khắp Thuỵ Điển.

      Salander xem các biểu đồ và thấy công ty có rất nhiều nhà máy, văn phòng và mạng lưới bán hàng. Ở mỗi chỗ từng xảy ra án mạng lại có chấm dỏ, đôi khi vài ba chấm, chỉ ra Tập đoàn Vanger.

      tìm ra tương quan đầu tiên vào năm 1957. Rakel Lunde, Lanskrona, bị phát chết hôm trước ngày Công ty Xây dựng V&C thanh toán lệnh đáng giá vài triệu để xây dựng gallery ở thị trấn. V&C là chữ tắt của Công ty Vanger và Carlen. Báo sở tại phỏng vấn Gottfried Varger, ông vừa đến thị trấn để ký vào hợp đồng.

      Salander nhớ lại cái gì đó đọc ở trong báo cáo của cảnh sát ở sở lưu trữ tỉnh tại Landskrona. Rakel Lunde, người xem bói lúc rỗi rãi là nhân viên quét dọn văn phòng. Bà làm việc cho Công ty Xây dựng V&C.

      7 giờ tối, Blomkvist gọi Salander có đến chục lần nhưng di động của đều tắt. muốn bị quấy rầy.

      bồn chồn lại lại trong nhà. lấy ra các ghi nhận của Vanger về các hoạt động của Martin vào thời gian Harriet mất tích.

      Năm 1966, Martin học lớp cuối cùng ở trường dự bị tại Uppsala. Uppsala, Lena Andersson, học sinh trường dự bị mười bảy tuổi. Đầu bị cắt rời khỏi thân.

      Henrik Vanger ghi nhận điều này ở chỗ nhưng Blomkvist cần phải xem các ghi chép của ông để tìm ra đoạn nào. Martin là cậu con trai hướng nội. Cả nhà lo lắng cho . Sau khi bố bị chết đuối, Isabella quyết định đưa Uppsala – thay đổi quang cảnh, nơi có buồng và ở chung với Harald Vanger. Harald và Martin? Khó mà thấy là đúng được.

      Martin xe cùng xe với Harald đến cuộc họp gia đình ở Hedestad rồi lại lỡ chuyến tàu. đến muộn vào buổi chiều cho nên ở trong số những người bị kẹt lại ở bên kia cầu. chỉ đến được đảo sau 6 giờ, lúc bằng tàu. được chính Vanger đón, cùng với những người khác. Vanger đặt Martin xuống tận dưới cùng danh sách những người có thể có liên quan tới việc Harriet mất tích. Martin hôm ấy ta gặp Harriet. ta dối. Ngày hôm đó, ta đến Hedestad sớm hơn và ta ở Jarnvagsgatan đối mặt với em ta. Blomkvist có thể chứng minh dối trá bằng những bức ảnh từng bị chôn vùi trong gần bốn chục năm trời.

      Gặp , Harriet choáng váng phản ứng. khỏi đảo Hedeby cố chuyện với Henrik nhưng chưa gặp được Henrik biến mất. tính ông chú chuyện gì? Uppsala? Nhưng Lena, Andersson, Uppsala, có trong danh sách? có thể chưa biết.

      Câu chuyện vẫn chưa cho Blomkvist được điều gì. Harriet biến mất vào quãng 3 giờ chiều. nghi ngờ gì nữa. lúc ấy Martin ở bên kia cầu. Có thể nhìn thấy ta ở trong bức ảnh chụp từ đồi nhà thờ. ta thể có khả năng làm hại Harriet ở đảo. Vẫn thiếu miếng ở trong bài đố ghép hình. tòng phạm? Anita Vanger ư?

      Qua hồ sơ Salander có thể thấy vị trí của Gottfried ở công ty bị thay đổi dần hàng năm. Ở tuổi hai chục vào những năm 1947, ông gặp Isabella và lập tức làm bà có thai; Martin Vanger sinh năm 1948 và có vấn đề gì với chuyện này nhưng những người trẻ tuổi lấy vợ lấy chồng.

      Khi Gottfried hai mươi hai tuổi, Henrik Vanger đưa ông ta vào sở chính của Tập đoàn Vanger. Ông ràng là có tài và họ nhắm để cho ông tiếp quản. Năm hai mươi lăm tuổi, ông được đề bạt vào ban lãnh đạo, làm phó giám đốc của vụ phát triển của công ty. ngôi sao lên.

      Vào giữa những năm 50, ngôi sao của ông bắt đầu chìm. Ông ta uống rượu. Hôn nhân của ông với Isabella va vào đá ngầm, các con, Harriet và Martin được tốt, Henrik đình lại.

      nghiệp của Gottfried lên đến đỉnh cao. Năm 1956, lại đề bạt mới, phó giám đốc phát triển khác nữa. Hai phó giám đốc : làm công việc trong khi Gottfried tuý luý và vắng mặt trong nhiều thời gian dài. Nhưng Gottfried vẫn là Vanger, cũng như vẫn hấp dẫn và hùng biện. Từ 1957 trở , công việc của ông hình như là khắp đất nước để mở các nhà máy, giải quyết các mắc mớ ở địa phương, để phổ biến hình ảnh mà lãnh đạo công ty quan tâm. Chúng tôi cử đứa con của chúng tôi đến đây nghe các vấn đề của các ông, Chúng tôi nghiêm túc với các ông.

      Đúng mười lăm phút sau, Salander phát ra tương quan thứ ba. Uddevalla, 1962. Cùng ngày mà Lea Persson mất tích, tờ báo địa phương phỏng vấn Gottfried về khả năng mở rộng bến cảng.

      Khi bà Lindgren muốn đóng cửa hàng về nhà vào lúc 5 giờ rưỡi Salander cảu nhảu bảo với bà rằng còn lâu mới xong việc được. Bà cứ việc về và để chìa khoá lại. Salander quản cho. Lúc này, bà quản lý hồ sơ cáu điên lên vì đứa con như thế này mà dám sai phái bà này nọ nên bà gọi ông Frode. Frode bảo bà nếu ấy có muốn ở cả đêm tại đấy cũng được. Xin bà Lindgren có thể báo an ninh ở sở để họ cho Salander khi nào ấy muốn được ?

      Ba giờ sau, quãng 8 giờ rưỡi, Salander kết luận rằng Gottfried ở gần cái địa điểm mà ít nhất năm trong tám vụ án mạng được gây ra, trong những ngày hoặc trước hoặc sau các vụ này. vẫn thiếu thông tin về các vụ án mạng năm 1949 và 1954. xem kỹ bức ảnh của ông đăng lên báo. người đàn ông thanh mảnh, đẹp trai, tóc vàng sẫm, hơi giống Clack Gable trong Cuốn theo chiều gió.

      Năm 1949, Gottfried hai mươi hai tuổi. Vụ án mạng đầu tiên xảy ra đất đai của nhà ông, Hedestad, Rebecka Jacobson, người làm việc ở Tập đoàn Vanger. Hai người gặp nhau ở đâu đây? Ông ta hứa với ấy những gì? Salander cắn môi. Vấn đề là năm 1965 Gottfried chết đuối khi ông ta bị say trong khi vụ án mạng cuối cùng lại xảy ra ở Uppsala, tháng Hai năm 1966. nghĩ hay là lầm khi cho tên Lena Andersson, nữ sinh mười bảy tuổi vào trong danh sách. , có thể cùng là chữ ký nhưng vẫn là cùng kiểu nhái thơ Kinh thánh. Chúng chắc là có liên quan đến nhau.

      9 giờ trời tối. Khí trờ lạnh và mưa phùn. Mikael ngồi trong bếp, gõ tay xuống bàn chiếc Volvo của Martin Vanger qua cầu và rẽ ra ngoài tới mũi đất. hiểu sao cái điều này lại làm cho đầu sinh chuyện.

      biết mình nên làm gì. Toàn thân nóng ran lên vì thèm muốn được đặt câu hỏi – để khêu ra cuộc đương đầu đối chọi. Chắc chắn đây phải là thái độ biết điều cần phải có nếu nghĩ Martin Vanger làm tên sát nhân điên loạn từng giết em và cũng từng suýt thành công trong việc cho toi cái mạng . Nhưng MartinVanger cũng là cục nam châm. Và ta biết rằng Blomkvist biết, co thể đến gặp ta với lý do rằng….. ừ được thôi, trả lại chiếc chìa của căn nhà của Gottfried. Blomkvist khoá cửa nhà lại và ra mũi đất.

      Nhà của Harald Vanger giống thường lệ tối như mực. Trong nhà Henrik, đèn tắt, trừ trong gian buồng đối diện với sân. Nhà Isabella cũng tối. Cecilia có nhà. Đèn sáng ở gác nhà Alexander nhưng tắt ở trong hai ngôi nhà mà chủ là những người thuộc về gia tộc Vanger. chẳng thấy bóng ma nào. lưỡng lự dừng lại ở bên nhà Martin Vanger, lấy di động ra bấm số Salander. Vẫn trả lời. tắt di động để cho nó kêu nữa.

      Có ánh đèn ở dưới nhà. Blomkvist qua thảm cỏ và dừng lại ở cánh cửa sổ bếp vài mét nhưng trông thấy ai. tiếp tục quanh ngôi nhà, ngừng lại ở từng cửa sổ, nhưng thấy dấu hiệu gì của Martin. Nhưng lại phát thấy cánh cửa bên vào nhà xe hơi hé mở. Đừng có mà làm thằng ngốc. Nhưng kìm được ý muốn nhòm xem cái.

      Vật đầu tiên trông thấy ở chiếc ghế dài của thợ mộc là hộp đạn bắn nai sừng tấm mở nắp. Rồi thấy hai can xăng ở sàn, dưới ghế dài. Martin chuẩn bị cho cuộc thăm ban đêm nữa ư?

      - Vào , Mikael. Tôi thấy đường.

      Tim Blomkvist bỏ hụt nhịp. từ từ quay đầu lại, thấy Martin đứng trong bóng tối ở gần cửa ra vào nhà.

      - Đơn giản là thể ở ngoài được, đúng ? – Tiếng của ta bình tĩnh, gần như thân mật.

      - Chào Martin – Blomkvist .

      - Vào . – Martin nhắc lại – Lối này.

      ta bước lên trước và dẹp sang bên, tay trái đưa ra mời. ta giơ tay phải lên và Blomkvist trông thấy ánh kim loại xỉn đục.

      - Tôi cầm khẩu Glock. Đừng làm cái gì ngu xuẩn. Gần thế này tôi bắn trượt đâu.

      Blomkvist từ từ đến gần, Khi tới bên Martin, dừng lại nhìn vào mắt ta.

      - Tôi cần đến đây. Có quá nhiều vấn đề.

      - Tôi hiểu. qua cửa.

      Blomkvist vào nhà. Con đường dẫn tới gian sảnh ở gần bếp nhưng chưa kịp xa đến đó, Martin giữ lại, đặt tay lên vai .

      - , lối ấy. Sang phải. Mở cửa ra.

      Tầng hầm. Khi Blomkvist bước xuống được lưng chừng cầu thang, Martin tắt đèn và tất cả tối om. Ở bên phải là phòng đun nước nóng. có thể ngửi thấy mùi xà phòng và nước nôi giặt giũ. Martin lái sang trái, vào gian nhà kho với các đồ nội thất cũ cùng các thùng với hộp, ở cuối gian nhà kho là cánh cửa bảo hiểm bằng thép có chiếc khoá chết.

      - Đây, - Martin , ném chùm chìa khoá cho Blomkvist. – Mở nó ra.

      mở cái cửa.

      - Tắt bật điện ở bên trái ấy.

      Blomkvist mở cánh cửa tới địa ngục.

      Khoảng 9 giờ, Salander kiếm chút cà phê và miếng sandwich mua của người bán hàng ở hành lang bên ngoài kho hồ sơ. tiếp tục lật giở các trang tài liệu cũ, tìm bất cứ dấu vết nào của Gotfried ở Kalmar năm 1954. tìm thấy gì cả.

      nghĩ gọi Blomkvist nhưng nghĩ hãy đọc kỹ hết phần thư bạn đọc để có thể trọn vẹn là ngày làm việc.

      gian khoảng ba mét ba mét sáu. Blomkvist cho là nó nằm ở dọc mạn bắc của ngôi nhà. Martin Vanger thiết kế rất chu đáo gian phòng tra tấn riêng của ta. Bên trái là những dây xích, những móc sắt ở trần và dưới sàn, cái bàn với những dải đai da để trói giữ nạn nhân. Rồi thiết bị video. phòng quay băng ghi hình. Đằng cuối gian phòng là cũi thép cho các vị khách. Bên phải cửa là cái ghế dài, giường, và cái tivi với các đĩa video ở cái giá.

      Vừa vào phòng, Martin chĩa súng vào ngực Blomkvist bảo nằm xuống sàn. Blomkvist từ chối.

      - Tốt lắm. – Martin . – Thế tao bắn vỡ đầu gối mày.

      nhắm. Blomkvist đầu hàng. có cách nào. hy vọng Martin chỉ xểnh cảnh giác đúng phần mười giây- biết thắng trong bất cứ kiểu đánh nhau nào với Martin. nửa cơ hội khi xuống được lưng chừng cầu thang gian hầm lúc Martin khẽ đặt tay lên bả vai nhưng lưỡng lự. Sau đó Martin đến gần. Với viên đạn ở đầu gối mất cơ hội. nằm xuống sàn, Martin đến từ phía sau và bảo quặt tay lại sau lưng. Hắng còng tay , rồi đá vào bụng dưới của và đấm ác liệt liên hồi.

      Những gì diễn ra sau đó giống như cơn ác mộng. Martin chờn vờn giữa sáng suốt và điên thuần tuý. Có thể khá yên ổn lúc nhưng rồi lại xông ngay lên như con thú trong chuồng. đá Blomkvist nhiều lần. Blomkvist chỉ còn có cách che đầu và giơ những phần mềm của cơ thể ra để hứng đòn.

      Trong nửa giờ đầu tiên Martin lời và xem vẻ cũng mất khả năng giao tiếp. Sau đó hình như tự kiềm chế. quấn sợi dây xích vào quanh cổ Blomkvist, buộc chặt dây xích vào cái mỏ sắt ở sàn bằng cái khóa móc. để Blomkvist mình trong chừng mười lăm phút. Khi quay lại mang chai nước. Hắng ngồi lên cái ghế vừa uống vừa nhìn Blomkvist.

      - Cho ít nước được ? – Blomkvist.

      Martin cúi xuống để cho uống ngụm dài ở cái chai. Blomkvist nuốt thèm thuồng.

      - Cảm ơn.

      - Vẫn xã giao thế, Kalle Blomkvist.

      - Tại sao lại đấm đá như vậy? – Blomkvist

      - Vì mày quả làm cho tao rất giận. Mày đáng bị trừng trị. Tại sao mày về nhà mày ? Mày được Millennium cần đến, tao nghiêm chỉnh đấy – ta có thể làm cho nó thành tờ tạp chí lớn. Ta có thể làm cùng với nhau trong nhiều năm.

      Blomkvist nhăn mặt và cố xoay người cho nó có được tư thế dễ chịu hơn, hết phương tự vệ. chỉ còn lại có tiếng .

      - Tôi cho là muốn thời cơ hết – Blomkvist .

      Martin cười to.

      - Tao xin lỗi, Mikael. Nhưng dĩ nhiên tao biết là mày chết thẳng cẳng ở ngay tại chỗ này.

      Blomkvist gật.

      - Cái quỷ gì mà mày lại tìm ra tao, mày với cái con khỉ chê cơm mà mày tha đến đây?

      - dối về cái việc làm hôm mà Harriet mất tích. ở Hedestad, tại cuộc diễu hành Ngày trẻ con. chụp ảnh ở đó, nhìn Harriet.

      - Vì thế mà mày Norsjo phải ?

      - Để có bức ảnh, đúng. Nó được cặp tình cờ trăng mật ở Hedestad chụp.

      lắc đầu.

      - Mày dối bẩn thỉu. – Martin .

      Blomkvist nghĩ lung tung: làm sao mà tránh hay hoãn được việc hành quyết .

      - Bức ảnh đâu rồi?

      - bản đấy ư? Nó được để ở trong két an toàn tại Handelsbanken ở ngay Hedestad đây... biết là tôi có két gửi đồ an toàn ở đó ư? – Blomkvist dối trơn tru. – Có các bản sao ở khắp nơi, Trong máy tính của tôi và của , trong máy chủ của Millennium và trong máy chủ của An ninh Milton, nơi làm việc.

      Martin chờ, cố tìm xem Blomkvist hay bịp.

      - Đứa con biết đến đâu?

      Blomkvist ngập ngừng. Salander là hy vọng cứu sống duy nhất của . nghĩ thế nào khi về nhà mà thấy . để bức ảnh Martin Vanger mặc áo jacket độn ở bàn bếp. Liệu có làm liên hệ ? Liệu có báo động ? báo cho cảnh sát. Ác mộng là có thể đến nhà Martin Vanger bấm chuông hỏi để biết Blomkvist ở đâu.

      - Trả lời tao. – Martin Vanger , giọng lạnh băng.

      - Tôi nghĩ. ấy gần như biết ngang tôi, có thể còn hơn chút cũng nên. ấy giỏi lắm, ấy là người duy nhất tìm được ra mối liên hệ tới Lena Andersson.

      - Lena Andersson ? – Martin Vanger nghe có vẻ thấp thỏm.

      - tra tấn rồi giết ở Uppsala năm 1966 . chớ bảo tôi là quên.

      - Tao biết mày cái gì cả. – Nhưng lần đầu tiên giọng nghe run run. Đây là lần đầu tiên có người lần ra mối liên quan giữa vụ án này với . – Lena Andersson có tên ở trong quyển sổ đề ngày tháng của Harriet.

      - Martin, - Blomkvist , cố hết sức làm cho giọng của mình rắn rỏi. – Hết rồi. Mày có thể giết tao nhưng thế là kết thúc. Quá nhiều người biết rồi.

      Martin Vanger lại lại lại.

      Mình phải nhớ là có lý tính. Con mèo. có thể mang con mèo xuống giết ở đây nhưng lại mang đến hầm mộ gia đình. Martin dừng lại.

      - Tao nghĩ là mày dối. Mày và Salander là những đứa có thể biết được cái gì ư. ràng là mày chưa với ai chứ cảnh sát ở đây rồi. ngọn lửa tươi đẹp nho ở căn nhà khách bằng gỗ thế là bằng chứng đời nhà ma.

      - Thế nhưng nếu mày sai?

      - Nếu tao sai đúng là kết thúc . Nhưng tao nghĩ phải như thế. Tao đánh cá rằng mày bịp. Với lại tao còn có lựa chọn gì khác nữa đây? Tao nghĩ ít về chuyện này. Con rồ chê cơm ấy là cái khâu yếu phải ?

      - ấy Stockholm từ giờ ăn trưa rồi.

      Martin Vanger cười phá.

      - Cứ bịp tới nữa , Mikael. Suốt tối nó ngồi ở giữa đống hồ sơn tại văn phòng của Tập đoàn Vanger.

      Tim Blomkvist bỏ mất nhịp đập. biết. biết hết.

      - Đúng thế. Kế hoạch là xem hồ sơ rồi Stockholm, - Blomkvist – Tao biết ấy lại ngồi ở đó lâu thế.

      - Dẹp ngay các trò ba láp ấy , Mikael. Bà coi hồ sơ gọi bảo tao là Dirch cho con bé ở lại đấy muộn tuỳ theo ý nó. Có nghĩa là nó chắc chắn có ở nhà. Người gác đêm gọi cho tao khi nào nó về.


      Stieg Larsson

      Có Hình Xăm Rồng

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :