Cô gái có hình xăm rồng - Stieg Larsson (Trinh thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 4

      Thứ Hai, 23 tháng Mười hai


      Thứ Năm, 26 tháng Mười hai


      Berger ở lại hết cả cuối tuần. Họ chỉ đứng lên để ra toa lét hay lấy cái gì đó ăn, nhưng họ chỉ có làm tình. Họ nằm dài hàng giờ bàn về tương lai, cân nhắc các khả năng và các thứ linh tinh. Sáng thứ Hai, khi bình minh đến, đó cũng là ngày trước Noel, hôn từ biệt - cho tới lần sau - rồi lái xe về nhà.

      Ngày thứ Hai, Blomkvist dành cho việc rửa bát đĩa, vệ sinh căn hộ rồi xuống văn phòng dọn sạch bàn làm việc. có ý đoạn tuyệt với tờ tạp chí nhưng cuối cùng thuyết phục được Berger rằng cần phải tách khỏi nó thời gian. làm việc từ nhà.

      Tòa báo đóng cửa nghỉ Noel, các đồng của nghỉ hết cả. loại bỏ các ngăn giấy và cho sách vào trong các hộp các tông để mang điện thoại réo.

      - Tôi muốn kiếm Mikael Blomkvist, - tiếng khấp khởi hy vọng và lạ lẫm ở đường dây.

      - Tôi đây.

      - Thứ lỗi cho tôi quấy rầy đường đột, xin cứ như thế. Tôi là Dirch Frode. – Blomkvist lưu ý cái tên và thời gian. – Tôi là luật sư và đại diện cho thân chủ rất mong được chuyện cùng .

      - Được xin bảo thân chủ của ông gọi cho tôi.

      - Ý tôi là ông ta muốn được gặp mặt .

      - OK, định thời gian và bảo ông ta đến tòa báo. Nhưng tốt hơn là ông hãy gấp lên, bây giờ tôi bận dọn dẹp bàn giấy.

      - Thân chủ của tôi mong đến thăm ông ta ở Hedestad – tàu chỉ mất có ba giờ đồng hồ.

      Blomkvist gạt cái khay hồ sơ sang bên. Giới truyền thông có cái tài là thu hút các dân điên rồ nhất gọi tới mình bằng những mánh ngu ngốc đến mức hoàn hảo. Các tòa soạn thế giới đều nhận được những thông tin nóng hổi nhất từ các nhà nghiên cứu vật bay chưa xác định, các nhà xem tướng chữ, các nhà khoa học học, các dân tâm thần phân lập và mọi kiểu lý thuyết gia về mưu.

      Blomkvist lần nghe nhà văn Karl Alvar Nilson chuyện ở đại sảnh của ABF nhân lễ tưởng niệm ngày Thủ tướng Olof Bodstrom bị ám sát. Bài nghiêm túc và trong cử tọa có Lennart Bodstrom và các bạn bè khác của Palme. Nhưng số lượng đáng kinh ngạc những nhà điều tra nghiệp dư kéo đến. trong số họ là phụ nữ chừng tuổi bốn mươi mà trong phần Hỏi Đáp cầm chiếc micro để ra xa rồi hạ giọng xuống cho còn chỉ là tiếng thầm khó mà nghe nổi. Riêng điều này báo trước chuyện thú vị nên chả có ai ngạc nhiên khi bà ta tuyên bố: “Tôi biết ai giết Olof Palme”. Từ sân khấu có lời giễu cợt đại khái nếu bà có thông tin như thế mà đem chia sẻ nó ngay với bộ phận điều tra vụ Palme giúp ích đấy. Bà ta bèn vội đáp lại: “Tôi thể”, bà ta quá khẽ gần như thể nghe được. “Việc ấy quá nguy hiểm”.

      Blomkvist nghĩ tay Frode này phải chăng lại là cha khác nữa, người có thể vạch ra cái bệnh tâm thần bí mật mà Sapo, Cảnh sát An ninh, làm những thí nghiệm về khả năng kiểm soát ý nghĩ.

      - Tôi nhận đến nhà, - .

      - Tôi hy vọng có thể thuyết phục cho tôi ngoại lệ. Thân chủ tôi ngoài tám mươi, xuống đến Stockholm ông ta hết hơi mất. Nếu bằng lòng chắc chắn chúng ta thu xếp như thế nào đó với nhau được, nhưng xin với , nếu như rộng lòng tốt hơn…

      - Thân chủ của ông là ai?

      - người mà tôi ngờ là trong công việc từng nghe thấy tên. Henrik Vanger.

      Blomkvist ngạc nhiên ật người ra đằng sau. Henrik Vanger – dĩ nhiên nghe thấy. nhà công nghiệp và nguyên là người đứng đầu các công ty Vanger, từng được biết đến trong các lĩnh vực nhà máy cưa, hầm mỏ, thép, kim loại, hàng dệt. Vanger từng là con cá kình lớn ở thời của ông ta, nổi tiếng là trưởng lão kiểu cổ, danh giá, chịu uốn mình trước cơn gió mạnh. hòn đá tảng của công nghiệp Thụy Điển, trong các con sói đầu đàn của trường phái nghiên cứu cũ, cùng với Matts Carlgren của MoDo và Hans Werthen ở Electrolux xưa. xương sống của nhà nước phúc lợi v.v… Nhưng các công ty Vanger, vẫn là sở hữu gia đình, bị biến mất trong hai mươi năm qua bởi những cuộc tổ chức lại; các khủng hoảng thị trường chứng khoán, các khủng hoảng lãi, cạnh tranh ở Châu Á, xuất khẩu giảm rồi các tai họa khác hợp lại đẩy cái tên Vanger vào chỗ bế tắc. nay công ty do Martin Vanger trông nom, Blomkvist luôn gắn cái tên này vào người thấp, đẫy đà, tóc rậm đôi hồi vẫn thoáng xuất tivi. biết nhiều về ông ta. Henrik Vanger lui ra ngoài bức tranh ít ra hai chục năm.

      - Tại sao Henrik Vanger lại muốn gặp tôi?

      - Tôi là luật sư nhiều năm của ông Vanger nhưng việc này ông muốn đích thân với . Mặt khác, tôi có thể ông Vanger muốn thảo luận công việc có thể làm với .

      - Công việc? Tôi hề có ý làm việc cho công ty Vanger. Có phải là ông cần thư ký báo chí ?

      - đúng. Tôi biết thế nào hơn là thưa rằng ông Vanger quá ư nóng lòng muốn gặp để xin tư vấn về vấn đề riêng tư.

      - Ông thể mập mờ hơn thế này được nữa, đúng ?

      - Tôi xin lỗi về việc này. Nhưng có khả năng nào thuyết phục quá bộ đến thăm Hedestad đây? Dĩ nhiên chúng tôi thanh toán đúng mực mọi phí tổn của như khoản tiền công.

      - Ông gọi tôi vào lúc khá là thích hợp. Tôi bận nhiều việc và… tôi cho là ông xem các đầu đề bàn luận về tôi trong mấy ngày qua.

      - Vụ Wennerstrom? – Frode cười kín đáo. – Vâng có, cái đó giá trị mua vui nhất định. Nhưng với , chính báo chí quanh vụ xử này khiến cho ông Vanger chú ý đến . Ông ấy muốn mời làm công việc tự do. Tôi chỉ là người đưa tin. Vấn đề này liên quan đến cái gì chỉ có ông ấy giải thích được.

      - Đây là trong những cú gọi lạ nhất mà lâu tôi mới nhận được. Hãy để cho tôi suy nghĩ. Tôi liên hệ với ông như thế nào đây?

      Blomkvist ngồi nhìn cái bàn làm việc bừa bãi. thể nghĩ ra Vanger định đưa cho việc gì nhưng ông luật sư thành công ở chỗ khơi dậy trí tò mò của .

      bật Google tìm công ty Vanger. Nó có thể được phát đạt cho lắm, nhưng xem vẻ nó lên truyền thông gần như hàng ngày. lưu khoảng chục bản phân tích về nó rồi tra tìm Frode Hanrik và Martin Vanger.

      Martin tỏ ra chăm chỉ ở tư cách là CEO của Tập đoàn Vanger. Frode mờ hơn, ông ở trong ban lãnh đạo của Câu lạc bộ Xứ sở Hedestad và hoạt động tích cực ở trong Câu lạc bộ Phục vụ nghề nghiệp. Với ngoại lệ, Henrik Vanger chỉ xuất trong các bài báo về lai lịch của công ty. Hai năm trước, nhân ông tám mươi tuổi, tờ Hedestad Courier đăng bài ca ngợi ông trùm thời này, tờ báo cũng đăng lý lịch sơ yếu của ông. cho tất cả vào chung hồ sơ chừng năm chục trang gì đó. Rồi cuối cùng dọn sạch bàn làm việc, niêm phong các thùng các tông và về nhà, biết liệu rồi có quay trở lại nữa hay .

      Salander qua Noel ở Nhà Nuôi dưỡng Appelviken tại Upplands-Vasby. mang quà đến: chai nước hoa Dior và cái bánh gatô hoa quả mua ở cửa hàng Ahlens. vừa uống cà phê vừa nhìn người phụ nữ bốn mươi sáu tuổi lóng ngóng gỡ cái nút ở dải ruy băng. Mắt Salander trừu mến nhưng người phụ nữ kỳ lạ là mẹ của đây bao giờ hết làm cho thấy ngồ ngộ. thể nhận ra chút giống nhau nào ở dáng vẻ cũng như ở bản tính giữa hai người.

      Thôi vật lộn với cái nút nữa, mẹ bất lực nhìn gói quà. Hôm nay phải là ngày tốt đẹp nhất của bà. Salander đẩy chiếc kéo qua bàn, và mẹ chợt như bừng tỉnh.

      - Con chắc nghĩ là mẹ ngu đấy nhỉ.

      - mà mẹ. Nhưng đời là bất công.

      - Con có gặp chị con ?

      - Lâu rồi con gặp.

      - Nó đến bao giờ.

      - Mẹ, con biết. Chị ấy cũng chả gặp con.

      - Con làm việc chứ?

      - Vâng, con làm tốt.

      - Con sống ở đâu? Mẹ chả biết cả chỗ con ở.

      - Con sống trong căn hộ của mẹ ngày xưa phố Lundagatan. Con ở đó mấy năm rồi. Con phải tiếp tục trả tiền.

      - Mùa hè có thể mẹ đến gặp con.

      - Dĩ nhiên rồi. Vào mùa hè.

      Cuối cùng mẹ mở được gói quà, bà ngửi ngửi nước hoa, thích thú.

      - Cảm ơn con, Camilla, - bà .

      - Lisbeth, con là Lisbeth.

      Bà mẹ nom bối rối. Salander hai mẹ con nên sang buồng tivi.

      Tối Noel, Blomkvist ngồi xem chương trình Disney đặc biệt dành cho đêm Noel với con ở nhà người vợ cũ, tại Sollentuna. Sau khi bàn với Monica, hai người bằng lòng cho Pernilla máy iPod, MP3 chỉ lớn hơn cái báo diêm xíu nhưng có thể chứa hết bộ sưu tập CD đồ sộ của nó.

      Bố mẹ Pernilla bỏ nhau khi em lên năm và đến khi em bảy tuổi, em có ông bố mới. Pernilla đến thăm Blomkvist mỗi tháng chừng lần và những ngày nghỉ lễ dài có khi ở với bố cả tuần tại Sandhamn. Khi ở với nhau, hai bố con thường vui vẻ nhưng đến thăm bố bao nhiêu lần và đặc biệt sau khi mẹ bước nữa Blomkvist để cho con tùy ý quyết định. Có hai ba năm ngừng gặp nhau khi em vào tuổi mười ba mười bốn, hình như chỉ từ hai năm qua em mới muốn gặp bố thường xuyên hơn.

      Pernilla theo dõi phiên tòa với niềm tin vững vàng rằng câu chuyện là đúng như bố em : bố vô tội nhưng bố chứng minh được.

      Em với bố như kiểu chuyện với bạn trai ở lớp khác và khi nghe em em tới nhà thờ, Blomkvist ngạc nhiên nhưng kìm lại lời bình luận.

      được mời ở lại ăn tối nhưng em và gia đình chờ ở ngoài ngoại ô Staket sôi động.

      Sáng hôm ấy cũng được vợ chồng Beckman mời ăn Noel ở Saltsjobaden. cảm ơn nhưng từ chối, cầm chắc rằng lòng độ lượng của Beckman cũng có giới hạn và khá quyết tâm rằng mình có tham vọng dò tìm xem giới hạn đó có thể là đến đâu.

      Thay vì gõ cửa nơi mà Annika Blomkvist, nay là Annika Giannini sống với người chồng gốc Ý cùng hai đứa con của họ. Họ sắp cùng với trung đội họ hàng bên chồng, vạc vào đùi lợn Noel. Trong bữa ăn trả lời về phiên tòa, nhận được nhiều lời khuyên có ý tốt nhưng lại gần như vô dụng.

      Người duy nhất gì về bản phán quyết là em , tuy là luật sư duy nhất trong phòng lúc này. làm thư ký ở tòa án quận và là trợ lý công tố viên trong nhiều năm trước khi và ba đồng mở hãng luật với các văn phòng tại Kungsholmen. chuyên về pháp luật gia đình và Blomkvist hề có nhận xét về các chuyện xảy ra ở lĩnh vực này, em bé bỏng của bắt đầu xuất các tờ báo như là đại diện của các phụ nữ bị đánh đập hay đe dọa cũng như ở mục hội thảo tivi với tư cách là người đấu tranh cho phụ nữ và bênh vực quyền lợi của phụ nữ.

      Khi giúp chuẩn bị cà phê, đặt tay lên vai , hỏi làm gì. trong đời chưa bao giờ suy sụp như lần này.

      - Lần sau hãy kiếm luật sư cho .

      - Trong vụ lần này chắc cũng chả giúp được gì, nhưng chúng ta lại tất cả từ đầu đến cuối, em ạ, lúc nào đó khi bụi lắng xuống.

      ôm và hôn lên má rồi hai em mang bánh Noel và cà phê ra. Blomkvist xin lỗi, đề nghị được vào bếp dùng điện thoại. gọi ông luật sư ở Hedestad và cũng có thể nghe thấy ở đó tiếng lao xao làm nền.

      - Chúc Noel vui vẻ, - Frode . – Tôi có dám hy vọng là quyết định rồi đây?

      - Trước mắt tôi có kế hoạch nào mà tôi lại tò mò muốn biết nhiều hơn. Nếu thích hợp với ông sau Noe tôi lên chỗ ông.

      - Hay quá, hay quá. Tôi vui đến độ thể tin được. thứ lỗi cho tôi, con và cháu tôi đến chơi, tôi tâm trí đâu mà nghĩ đến việc khác nữa. Mai tôi có thể gọi để hẹn về thời gian ? Tôi liên hệ với ở đâu?

      Ngay trước khi dời chỗ em , Blomkvist ân hận về quyết định của mình, nhưng bây giờ gọi hủy cuộc hẹn bất tiện quá. Cho nên sáng ngày 26 tháng Mười hai, tàu lên phía bắc. có bằng lái nhưng bao giờ cảm thấy nhu cầu có xe hơi.

      Frode đúng, chuyến dài. Sau Uppsala đến vệt các thị trấn công nghiệp nho ở bờ biển Norrland. Hedestad là trong những thị trấn hơn, hơn giờ đồng hồ ở phía bắc Gavle.

      Vào đêm Noel, cơn bão tuyết lớn nhưng khi Blomkvist đặt chân xuống Hadestad trời quang và khí lạnh như băng. Ngay lập tức nhận thấy mình mang đủ quần áo cho mùa đông ở Norrland. Frode biết mặt Blomkvist nên ông chu đáo đón ở ke nhà ga và đưa vào chiếc xe Mercedes ấm áp. Ở trung tâm Hedestad, người ta hối hả dọn tuyết và Frode len lách thận trọng qua các đường phố hẹp. Những bờ tuyết cao bày ra cảnh trái nghịch rệt với Stockholm. Thị trấn nom gần như hành tinh khác nhưng nó chỉ cách Sergels Torg ở khu sầm uất của Stockholm có hơn ba giờ ít. vội liếc ông luật sư: bộ mặt góc cạnh với mái tóc trắng, cứng, lưa thưa và cặp kính dầy chiếc mũi to quá cỡ.

      - Lần đầu tiên đến Hedestad? – Frode .

      Blomkvist gật.

      - Nó là thị trấn công nghiệp lâu đời có bến cảng. Dân số chỉ 24.000 người nhưng người ta thích sống ở đây. Ông Vanger sống ở Hedeby - ở đầu phía nam của thị trấn.

      - Ông cũng sống ở đây?

      - nay tôi sống ở đây. Tôi sinh ra ở Skane dưới phía nam nhưng năm 1962 tốt nghiệp xong là tôi làm việc ngay cho Vanger. Tôi là luật sư công ty, sau nhiều năm ông vanger là thân chủ duy nhất của tôi. Dĩ nhiên ông ấy cũng về hưu và cần lắm đến tôi nữa.

      - Chỉ còn vét đến các nhà báo mà tên tuổi vỡ tan tành.

      - Đừng hạ thấp mình. phải người đầu tiên bị thua keo chống Hans-Erik Wennerstrom.

      Blomkvist quay sang Frode, tin rằng mình hiểu được câu này định gì.

      - Việc mới này có dính đến Wennerstrom ? – hỏi.

      - , - Frode . – Nhưng ông Vanger lạ gì nhóm bạn của Wennerstrom, và ông ấy thú vị theo dõi phiên tòa. Ông ấy muốn gặp để thảo luận vấn đề hoàn toàn khác.

      - Mà ông muốn với tôi về nó.

      - Địa vị của tôi phải để về nó với . Chúng tôi thu xếp để có thể qua đêm ở nhà ông Vanger. Nếu thích như thế chúng tôi có thể thuê cho phòng ở Grand Hotel trong thị trấn.

      - Tôi có thể đáp tàu đêm về Stockholm.

      Con đường vào Hedeby vẫn chưa cào tuyết, Frode lái chiếc xe vào những vệt rãnh bánh xe đông cứng. Trung tâm thị trấn cổ gồm những tòa nhà ở dọc vịnh Bothnia, quanh chúng là những nhà lớn hơn, đại hơn. Bắt đầu từ đất liền, thị trấn tràn qua cây cầu sang hòn đảo đồi. Ở đầu cầu phía đất liền là nhà thờ bằng đá trắng, qua con phố có biển hiệu nê ông khiểu cổ đề Cà phê & bánh đầu cầu Susanne. Frode lái khỏi đó chừng gần trăm mét rẽ trái đến khu vườn mới cuốc xới đằng trước tòa nhà đá. Ngôi nhà trại quá bé để có thể gọi là trang viên. Nhưng nó to hơn đáng kể so với chỗ còn lại của các ngôi nhà tại chốn định cư này. Đây là cơ ngơi của ông chủ.

      - Đây là trang trại của Vanger, - Frode . – Nó từng đầy sức sống và náo nhiệt nhưng bây giờ chỉ có Henrik và người trông coi nhà ở đây. Ở đây nhiều phòng dành cho khách lắm.

      Họ ra xe. Frode chỉ lên phía bắc.

      - Theo truyền thống, người nào lãnh đạo công chuyện của Vanger sống ở đây nhưng Martin Vanger muốn cái gì đó đại hơn cho nên xây nhà của mình ở chỗ đằng kia.

      Blomkvist nhìn quanh, thầm nghĩ cái cơn dở hơi nào làm cho bằng lòng nhận lời mời của Frode. quyết định nếu có thể được quay về Stockholm ngay tối nay. tam cấp đá dẫn đến lối vào nhưng họ chưa kịp đến cửa mở. nhận ra ngay lập tức Henrik Vanger qua bức ảnh từ Internet.

      Trong ảnh, ông trẻ hơn nhưng ở cái tuổi tám mươi hai ông nom khỏa đến phải ngạc nhiên, thân hình gân cốt, bộ mặt sương gió và mái tóc dầy bạc xám chải dẹp thẳng lại đằng sau. Ông mặc quần đen là mượt, sơ mi trắng và áo vét nâu bình thường cũ. Ông để hàng ria hẹp và đeo kính gọng thép thanh mảnh.

      - Tôi là Henrik Vanger – ông . - Cảm ơn bằng lòng đến thăm tôi.

      - Xin chào. Đây là lời mời khiến tôi ngạc nhiên.

      - Hãy vào trong cho ấm. Tôi dọn phòng cho . có muốn tắm rửa thay quần áo ? chút nữa chúng ta ăn tối. Còn đây là Anna Nygren, quản gia đỡ đần tôi.

      Blimkvist bắt tay phụ nữ chừng sáu chục tuổi, thấp, đậm. Bà cầm áo ngoài của treo vào tủ để quần áo ở trong gian sảnh. Bà đưa đôi dép lê cho thoáng chân.

      Mikael cảm ơn bà rồi quay sang Henrik Vanger:

      - Tôi chắc có ở lại ăn tối được. Còn tùy vào trò chơi này.

      Vanger liếc nhìn Frode. Giữa hai người có thông hiểu ngầm mà Blomkvist diễn giải được.

      - Tôi nghĩ tôi mượn cơ hội này để cho hai vị ở lại riêng với nhau, - Frode . – Tôi phải về nhà để đưa bọn cháu nội vào khuôn phép kẻo chúng kéo sập nhà xuống mất.

      Ông ta quay lại Mikael.

      - Tôi sống ở bờ phải ngay bên kia cầu. có thể bộ năm phút đến đó, cái nhà thứ ba từ hiệu bánh xuống bờ nước. Nếu cần tôi, cứ gọi điện thoại.

      Blomkvist thò tay vào túi áo vét lấy máy ghi . biết Vanger muốn gì nhưng sau mười hai tháng lao đao với Wennerstrom, cần ghi chép chính xác về mọi việc là lùng xảy ra ở bất cứ chỗ nào gần , việc mời đến Hedeatad bất ngờ là ở trong phạm trù đó.

      Vanger vỗ vỗ vai Frode chào từ biệt, đóng cửa trước lại rồi quay chú ý sang Blomkvist.

      - Trong trường hợp này tôi hiểu đúng hoàn toàn. Đây là trò chơi. Tôi đề nghị hãy nghe những gì tôi cần rồi quyết định. nhà báo và tôi muốn trao cho việc làm tự do. Anna chuẩn bị cà phê tại phòng làm việc của tôi ở gác.

      Buồng làm việc hình vuông hơn bốn chục mét vuông. Chế ngự cả bức tường là tủ sách cao tới trần, dài mười mét chứa tập hợp đáng nể các loại văn chương, tiểu sử, lịch sử, kinh doanh và công nghiệp, những tài liệu rời cỡ giấy A4. Các sách được xếp có lẽ theo trật tự rệt, nom có vẻ như tủ sách luôn được dùng đến. Bức tường đối diện bị bàn làm việc bằng gỗ sồi tối màu chế ngự. bức tường đằng sau bàn làm việc là sưu tập lớn những bông hoa ép xếp đặt thành hàng lối ngay ngắn tỉ mẩn. Qua cửa sổ ở đầu hồi, từ bàn làm việc có thể thấy được cây cầu và nhà thờ. Có ghế sofa và bàn cà phê, người quản gia bày lên đó phích, mấy ổ bánh và bánh ngọt. Vanger giơ tay về cái khay nhưng Blomkvist làm như trông thấy; thay vì vòng quanh gian phòng, xem trước tiên tủ sách rồi bức tường có các bông hoa ép. Bàn làm việc ngăn nắp, chỉ có ít giấy để thành xấp. Ở rìa bàn có khung ảnh bằng bạc lồng ảnh tóc đen, đẹp nhưng nom vẻ tinh quái. này khi lớn lên chắc rất “nguy hiểm”, Blomkvist thầm nghĩ. Nó có vẻ là bức ảnh thừa nhận rằng qua nhiều năm tháng nó phai nhạt và vì thế mà nó ở đây.

      - có nhớ người đó , Mikael? – Vanger hỏi.

      - Nhớ?

      - Phải, gặp con bé. Và trước đây ở gian phòng này.

      Blomkvist quay lắc đầu.

      - Đúng, nhớ thế nào được chứ? Tôi biết bố . Trong những năm 50 và 60 tôi nhiều lần mướn Kurt làm nhân viên lắp đặt và kiểm tra máy. Ông ấy là người có tài. Tôi cố thuyết phục ông ấy cứ tiếp tục học để trở thành kỹ sư. Cả mùa hè năm 1963, ở đây khi chúng tôi lắp máy mới vào nhà máy giấy ở Hedestad. Lúc ấy khó tìm ra chỗ cho gia đình sống cho nên chúng tôi để gia đình sống trong ngôi nhà gỗ bên kia đường. Qua cửa sổ, có thể nhì thấy nó.

      Vanger cầm bức ảnh lên.

      - Đây là Harriet Vanger, cháu nội của Richard ông tôi. Mùa hè ấy nó trông nom trong nhiều ngày. lên hai, sắp sang ba tuổi. Có lẽ lúc đó lên ba rồi – tôi nhớ, còn nó mười ba.

      - Tôi xin lỗi nhưng tôi nhớ tí nào hết những điều ông bảo với tôi. – Blomkvist thậm chí chắc rằng Vanger .

      - Tôi hiểu. thích chạy quanh khu trại với Harriet chạy theo sau. Tôi có thể nghe tiếng la hét khi ngã. Tôi nhớ lần cho đồ chơi, máy kéo bằng thép lá màu vàng mà khi bé tôi cũng có chơi. mê nó. Tôi nghĩ tại vì cái màu.

      Blomkvist thấy rờn rợn ở trong người. nhớ cái máy kéo màu vàng. Khi lớn, nó được đặt cái giá trong buồng ngủ của .

      - nhớ cái đồ chơi đó ?

      - Tôi nhớ. Và ông vui khi biết rằng cái máy kéo ấy vẫn sống và mạnh khỏe, ở Bảo tàng Đồ chơi ở Stockholm. Mười năm trước họ kêu gọi tặng các đồ chơi độc đáo.

      - à? – Vanger vui thích cười khe khẽ. - Để tôi cho xem…

      Ông già đến tủ sách rút ra album ảnh ở ngăn dưới cùng. Blomkvist để ý thấy ông cúi xuống khó nhọc và phải bám vào tủ sách khi đứng thẳng lên. Ông để album lên bàn cà phê. Ông biết cái ông tìm: tấm chụp lấy ngay trắng đen trong đó bóng của người chụp lên ở góc trong cùng bên trái. Ở đầu cùng là cậu con trai tóc vàng mặc soóc, hơi rụt rè nhìn ống kính.

      - Đây là . Bố mẹ ngồi đằng sau, ở ghế dài trong vườn. Harriet bị mẹ che mất ít còn cậu con trai ở bên trái bố là Martin, của Harriet, Martin trông nom công ty Vanger.

      Mẹ của Blomkvist nom có bầu – em đường tới”. nhìn bức ảnh với những cảm xúc lẫn lộn trong khi Vanger rót cà phê và đẩy đĩa bánh đến.

      - Tôi biết bố mất. Mẹ còn sống ?

      - Bà mất ba năm rồi, - Blomkvist .

      - Mẹ phụ nữ đẹp. Tôi nhớ bà ấy rất .

      - Nhưng tôi chắc ông gọi tôi đến đây để về chuyện thời xưa của ông và bố mẹ tôi.

      - đúng. Tôi làm cái việc mà tôi muốn với trong vài ngày nhưng bây giờ ở đây tôi lại biết nên bắt đầu từ đâu. Tôi cho là có làm ít điều tra cho nên biết tôi từng dành được đôi chút ảnh hưởng trong công nghiệp Thụy Điển và thị trường lao động. Giờ tôi ông già chẳng còn sống được bao lâu nữa và cái chết có lẽ là điểm mở đầu rất hay cho cuộc chuyện trò của chúng ta.

      Blomkvist làm ngụm cà phê đen nóng bỏng đun trong xoong đúng kiểu Norrland – và nghĩ chuyện này đưa đến đâu đây.

      - Tôi bị đau hông và bộ nhiều là chuyện của quá khứ. Có ngày thấy sức khỏe nó thấm lọt mất như thế nào nhưng tôi bao giờ bệnh hoạn lẫn già lão. Tôi bị ám ảnh về cái chết nhưng tôi ở cái tuổi cần phải chấp nhận rằng thời gian của mình kiệt rồi. đến lúc cần khép các bản tường trình tổng thuật lại mà quan tâm đến cái việc chưa xong. có hiểu tôi định ?

      Blomkvist gật. Vanger đều đều và Blomkvist dứt khoàt rằng ông già này lão suy mà cũng chẳng lú lẫn.

      - Chính là tôi tò mò rằng tại sao tôi lại ở đây, - lại nhắc lại.

      - Vì tôi muốn nhờ giúp cho việc khép lại các bản tường trình tổng thuật này.

      - Sao lại là tôi? Sao ông nghĩ tôi có thể giúp ông được?

      - Vì khi tôi nghĩ nên thuê ai tên của rộ lên báo đài. Dĩ nhiên tôi biết là ai. Và có lẽ vì từng ngồi ở đùi tôi, khi còn là cha bé tẹo. Chớ hiểu lầm tôi. – Ông gạt cái ý nghĩ này . – Tôi nhòm đến để giúp tôi vì những lý do tình cảm. Chính là tôi buột nảy ra ý muốn tiếp xúc đặc biệt với .

      Blomkvist cười to lên thân mật.

      - Vâng, tôi nhớ là vắt vẻo ở đùi ông. Nhưng sao ông liên hệ lại được thế này? Đó là những năm 60 cơ mà.

      - hiểu lầm tôi. Gia đình chuyển đến Stockholm khi bố nhận làm giám đốc công ở nhà máy Cơ khí của công ty Zarinder. Tôi là người kiếm việc cho ông ấy. Tôi biết ông ấy là lao động giỏi. Tôi quen nhìn ông ấy trong thời gian có công chuyện làm ăn với công ty Zarinder. Chúng tôi là bạn thân nhưng chúng tôi có thể chuyện trò đôi hồi. Lần cuối cùng tôi gặp ông ấy là năm trước khi ông ấy chết và lúc đó ông ấy bảo tôi vào học ở trường báo chí. Bố hết sức tự hào về . Rồi trở thành nổi tiếng với câu chuyện về đám cướp ngân hàng. Tôi theo dõi nghề nghiệp của và đọc nhiều bài báo của qua các năm. Như là bằng chứng, tôi đọc Millennium khá thường xuyên.

      - OK, tôi tin ông, nhưng chính xác ra ông muốn tôi làm gì?

      Vanger nhìn xuống hai bàn tay mình, nhắp ít cà phê tựa như ông cần nghỉ chút để rồi cuối cùng ông có thể khai mào ra cái điều ông muốn.

      - Mikael, trước khi tôi bắt đầu, tôi muốn có thỏa thuận với . Tôi muốn làm cho tôi hai việc. việc là cái cớ, việc là mục tiêu của tôi.

      - Kiểu thỏa thuận gì?

      - Tôi kể cho câu chuyện có hai phần. Phần đầu là về dòng họ Vanger. Cái ấy là cái cớ. Nó là câu chuyện tăm tối, dài và tôi cố bám chắc lấy các chưa phai mờ. Phần hai của câu chuyện xử lý với mục tiêu của tôi. chắc có thể nghĩ vài chỗ trong câu chuyện là… điên rồ. Điều tôi muốn với là hãy nghe tôi cho thấu - về cái mà tôi muốn làm và cái mà tôi đưa ra - rồi hãy quyết định có nhận lấy công việc của tôi hay .

      Blomkvist thở dài. ràng Vanger muốn cho đúng lúc để bắt kịp chuyến tàu chiều. chắc rằng nếu gọi Frode nhờ cho xe đưa ra ga chiếc xe như thế nào đó ì ra nổ máy trong giá lạnh.

      Ông già này chắc phải nghĩ lâu và kỹ càng việc làm sao bắt mối được với . Blomkvist có cảm giác mọi cái xảy ra từ khi đến đây rút cục đều là được sắp đặt cả: ra mắt khiến cho ngạc nhiên rằng gặp chủ nhân lúc còn bé tí, bức ảnh bố mẹ trong quyển album và lời nhắn đến việc bố và Vanger từng là bạn cùng với lời tán dương của ông già rằng Mikael Blomkvist là ai cũng như nhiều năm theo dõi nghề báo của … Chắc chắn là có cái lõi nhưng đó cũng là tâm lý học khá sơ đẳng. Vanger là người thao túng có thực tiễn – thế sao ông lại trở thành trong những nhà công nghiệp ở hàng lãnh đạo của Thụy Điển được?

      Blomkvist cả quyết rằng Vanger muốn làm cái gì đó mà có chút ham muốn nào làm nó. chỉ cần moi ra ở ông ta xem đó là cái gì rồi cảm ơn, ạ. Và có khả năng đúng lúc để kịp chuyến tàu chiều.

      - Xin tha lỗi cho tôi, ông Vanger, - . – Tôi ở đây hai mươi phút. Tôi cho ông đúng ba mươi phút nữa để với tôi điều ông muốn . Rồi tôi gọi taxi về nhà.

      Trong khoảnh khắc tấm mặt nạ của bậc trưởng lão có bản chất tốt tụt xuống và Blomkvist có thể nhận ra vị thuyền trưởng tàn nhẫn của công nghiệp lúc quyền thế mà phải đương đầu với thất bại. nụ cười đáng sợ uốn môi ông méo .

      - Tôi hiểu.

      - Ông cần rào đón với tôi. Hãy bảo tôi ông muốn tôi làm gì để tôi quyết định xem có làm được hay .

      - Vậy nếu tôi thuyết phục được trong nửa giờ tôi cũng thể thuyết phục được trong tháng – nghĩ như vậy phải ?

      - Đại khái như vậy.

      - Nhưng chuyện của tôi dài và phức tạp.

      - Làm cho nó ngắn lại và đơn giản . Trong nghề báo chúng tôi đều làm như thế. Hai mươi chín phút.

      Vanger giơ tay lên.

      - Được, tôi đồng ý với . Nhưng cường điệu phải là tâm lý hay đâu. Tôi cần người vừa có thể tìm tòi vừa có đầu óc phê phán nhưng cũng lại ngay thẳng. Tôi nghĩ có cái đó và tôi nịnh . nhà báo tốt phải có các đức tính đó, tôi đọc rất thú vị quyển Các Hiệp sĩ dòng Templar của . Đúng là tôi nhót lấy vì tôi quen bố và vì tôi biết là người thế nào. Nếu tôi hiểu đúng vấn đề bỏ tạp chí của vì kết quả của vụ Wennerstrom. Cái đó có nghĩa lúc này có việc, và chắc ở cảnh eo hẹp về tài chính.

      - Cho nên ông có thể khai thác tình thế khó khăn của tôi.

      - Có thể. Nhưng Mikael - nếu tôi có thể gọi như thế - tôi dối . Tôi quá già để còn dối. Nếu thích những cái tôi , có thể bảo tôi nhảy xuống hồ. Lúc ấy tôi có thể tìm ra được ai đó làm việc với tôi.

      - OK. Ông bảo tôi xem việc này dính líu đến những gì.

      - biết nhiều bao nhiêu về dòng họ Vanger?

      - Vâng, chỉ những cái tôi tìm đọc được ở Net từ hôm thứ Hai Frode gọi tôi. Thời ông, Tập đoàn Vanger là trong những tập đoàn công nghiệp quan trọng nhất ở Thụy Điển; bây giờ nó có phần nào kém . Martin Vanger cai quản nó. Tôi biết gần như hơn thế chút nhưng ông nắm được cái gì trong chuyện này?

      - Martin là… ta là người tốt nhưng ta cơ bản là thủy thủ hợp với thời tiết đẹp. ta là giám đốc điều hành công ty khủng hoảng là hợp. ta muốn đại hóa và chuyên môn hóa – ý nghĩ này hay – nhưng ta đẩy tới cùng được ý muốn của mình và quản lý tài chính của ta cũng yếu nốt. Hai mươi lăm năm trước doanh nghiệp Vanger là đối thủ cạnh tranh đáng gờm với Tập đoàn Wallenberg. Chúng tôi có bốn chục nghìn nhân viên ở Thụy Điển. Nay có nhiều việc như thế ở Hàn Quốc hay Brazil. Chúng tôi xuống còn mười nghìn nhân viên, trong hay hai năm, - nếu Martin được thuận buồm xuôi gió – chúng tôi chỉ còn năm nghìn, trước hết ở trong các ngành công nghiệp chế tạo , còn các công ty Vanger bị đẩy vào đống rác của lịch sử.

      Blomkvist gật đầu. cơ sở những mẩu tin tức mà tải Net xuống, đến kết luận như thế này.

      - Các công ty của Vanger vẫn nằm ở trong số ít hãng do gia đình nắm ở đất nước này. Ba chục thành viên gia đình là những cổ đông thiểu số. Nó luôn là sức mạnh của tập đoàn nhưng cũng là chỗ yếu nhất của chúng tôi. – Vanger ngừng lại rồi , vẻ khẩn cấp tăng lên trong giọng . – Mikael, có thể đặt câu hỏi sau đây nhưng tôi muốn tin lời tôi khi tôi là tôi ghét phần lớn các thành viên trong gia đình tôi. Phần lớn họ có chút nào đó là những kẻ ăn cắp, những kẻ keo kiệt, những kẻ ức hiếp và tài cán. Tôi trông coi công ty trong ba mươi lăm năm - gần như toàn bộ thời gian đều bỏ vào các cuộc cãi nhau vặt vô tận. Họ là những kẻ thù tồi tệ nhất của tôi, tồi tệ hơn xa các công ty cạnh tranh hay Chính phủ. Tôi tôi muốn giao cho làm hai việc. Thứ nhất, tôi muốn viết lịch sử hay tiểu sử của dòng họ Vanger. Để cho đơn giản, chúng ta gọi nó là tự truyện của tôi. Tôi để cho sử dụng các nhật ký và tư liệu của tôi. được vào các ý nghĩ sâu xa nhất của tôi và có thể cho in ra tất cả những bụi bặm gì đào bới lên được. Tôi nghĩ câu chuyện này làm cho các bi kịch của Shakespeare đọc giống như trò giải trí nhàng trong gia đình.

      - Tại sao?

      - Tại sao tôi lại muốn in lịch sử tai tiếng của gia đình Vanger ra? Hay tại sao tôi lại nhờ viết nó?

      - Tôi cho là cả hai.

      - với , quyển sách có in ra hay tôi bận tâm. Nhưng tôi nghĩ câu chuyện này nên viết, và giá như nó ở trong bản sao duy nhất mà giao nộp thẳng cho Thư viện Hoàng gia. Tôi muốn khi tôi chết truyện này được giữ ở đó cho đời sau. Động cơ đơn giản nhất của tôi: trả thù.

      - Ông muốn trả thù cái gì?

      - Tôi tự hào rằng cái tên của tôi là điển hình cho người giữ lời hứa. Tôi bao giờ chơi các trò chơi chính trị. Tôi bao giờ có vấn đề trong việc thương lượng với các công đoàn. Ngay thời Thủ tướng Erlander, Thủ tướng cũng kính trọng tôi. Với tôi đây là vấn đề đạo đức; tôi chịu trách nhiệm với sinh kế của hàng nghìn con người và tôi quan tâm đến những người tôi thuê mướn. Khá kỳ lạ, Martin cũng có thái độ tương tự, cho dù ta là người rất khác. ta cũng cố làm điều phải. Buồn là Martin và tôi là những ngoại lệ hiếm hoi trong gia đình chúng tôi. Có nhiều lý do về tại sao Tập đoàn Vabger bây giờ lại cụm lại với nhau, nhưng trong những lý do then chốt là đầu óc thiển cận và lòng tham của họ hàng tôi. Nếu nhận lời, tôi giải thích gia đình làm như thế nào để đánh đắm mất xí nghiệp.

      - Tôi dối cả với ông, - Blomkvist . - Điều tra nghiên cứu và viết quyển sách như thế phải mất đến hàng tháng. Tôi có động cơ hay nghị lực để làm việc đó.

      - Tôi tin là có thể để cho nhận lời được.

      - Tôi ngờ đấy. Nhưng ông có hai việc. Quyển sách là cái cớ. Động cơ là gì?

      Vanger đứng dậy, chăm chú và cầm bức ảnh của Harriet ở bàn làm việc lên. Ông đặt nó xuống trước mặt Blomkvist.

      - Trong khi viết tiểu sử về tôi, tôi muốn xem xét kỹ gia đình với con mắt của nhà báo. Nó cũng cho bằng chứng ngoại phạm để dò soát lịch sử gia đình tôi. Cái tôi muốn ở là giải đáp bí mật. Đó là nhiệm vụ của .

      - Bí mật gì?

      - Harriet là cháu nội của Richard, ông tôi. Tôi có năm em. Richard là cả, sinh năm 1907. Tôi là út, sinh năm 1920. Tôi hiểu sao Chúa lại có thể tạo ra bầy trẻ mà… - Trong vài giây Vanger để đứt luồng suy nghĩ, chìm vào trong ý tưởng của mình. Rồi ông tiếp tục, với cả quyết mới. – Xin để tôi về ông Richard của tôi. Hãy nghĩ về ông ấy như mẫu sinh vật trong bản biên niên của gia đình mà tôi muốn viết.

      Ông rót thêm cà phê cho mình.

      - Năm 1924, Richard mười bảy tuổi và là phần tử quốc gia cuồng tín Do Thái. ấy tham gia Liên đoàn Tự do Quốc gia Xã hội chủ nghĩa Thụy Điển, trong những nhóm Quốc xã đầu tiên của Thụy Điển. Việc Quốc xã luôn cố nhận lấy chữ Tự do phải chăng làm cho nó có sức mê hoặc?

      Vanger rút ra quyển album khác, lật giở nó cho đến khi ông tìm thấy cái trang ông cần kiếm.

      - Đây là Richard với bác sĩ thú y Birger Furugard, người sớm trở thành lãnh tụ của cái gọi là phong trào Gurugard, phong trào Quốc xã lớn đầu những năm 30. Nhưng Richard ở lại với ông ta. ít năm sau, gia nhập Tổ chức Chiến đấu Phát xít Thụy Điển, gọi tắt là SFBO, ở đây được biết Per Engdahl và những người khác mà rồi về sau là nỗi ô nhục của đất nước.

      Ông lật trang album: Richard Vanger mặc đồng phục.

      - Trái lại mong muốn của bố chúng tôi và trong những năm 30, ấy đăng ký vào gần hết các nhóm Quốc xã trong nước. Bất cứ hội đoàn mưu chướng mắt nào tồn tại cũng đều có thể thấy tên của ấy ở trong bảng phân công phân nhiệm của chúng. Năm 1933 phong trào Lindholm, tức là Đảng Lao động Quốc gia Xã hội chủ nghĩa, thành lập. biết đến đâu lịch sử của Quốc xã Thụy Điển?

      - Tôi là nhà sử học nhưng tôi có đọc vài quyển sách.

      - Năm 1939 Chiến tranh Thế giới Thứ hai bắt đầu, năm 1940 Chiến tranh Mùa Đông ở Phần Lan. số lượng lớn người của Phong trào Lindholm theo Phần Lan với tư cách quân tình nguyện. Richard ở trong số này và lúc đó là đại úy của quân đội Thụy Điển. ấy bị giết năm 1940 – ngay trước hiệp ước hòa bình với Liên Xô – do đó thành người hy sinh trong phong trào Quốc xã và đơn vị chiến đấu mang tên ấy. Thậm chí giờ dúm những đứa ngu xuẩn vẫn tụ tập ở nghĩa trang Stockholm để tưởng niệm cái chết ấy và tôn vinh ấy.

      - Tôi hiểu.

      - Năm 1926, tôi lúc ấy mười chín, ấy ra với phụ nữ tên là Margareta, con của thầy giáo ở Falun. Họ gặp nhau trong bối cảnh chính trị nào đó và mối quan hệ của họ cho ra đứa con trai, Gottfried, vào năm 1927. Đứa trẻ ra đời hai người lấy nhau. Trong nửa đầu những năm 30, tôi cho vợ con đến ở Hedestad đây trong khi ấy đóng quân với trung đoàn ở Gavkle. Lúc rảnh rỗi ấy quanh quẩn vận động người ta theo Quốc xã. Năm 1936, ấy xung đột lớn với bố chúng tôi, kết quả là bố tôi từ ấy. Sau đó Richard tự làm mà kiếm sống. ấy cùng với gia đình chuyển đến Stockholm và sống trong cảnh khá nghèo nàn.

      - Ông ta có tiền riêng?

      - Phần thừa kế của ấy ở trong công ty bị cấm sử dụng. Ở bên ngoài gia đình ấy thể bán được gì cả. Tệ hơn hoàn cảnh túng thiếu của họ, ấy lại còn là người thô bạo trong gia đình. ấy đánh vợ và hành hạ con trai. Gottfried lớn lên trong cảnh sợ sệt và bị đàn áp. Cháu mười ba tuổi bố chết. Tôi ngờ rằng cho đến lúc đó, hôm ấy chính là ngày hạnh phúc nhất của cháu. Bô tôi thương người vợ góa và đứa trẻ mồ côi của ấy nên đưa họ về đây, ở Hedestad, bố tôi tìm được căn hộ cho Margareta và muốn qua đó chị ấy có được cuộc sống tử tế. Nếu Richard tượng trưng cho bóng tối của gia đình, cái mặt cuồng tín Gottfried lại tiêu biểu cho cái mặt lững lờ. Khi cháu mười tám tuổi, tôi quyết định bảo trợ che chở cho cháu - muốn gì cháu cũng là con của trai chết của tôi – và cần nhớ rằng tuổi tôi và Gottfried chênh nhau lắm. Tôi chỉ hơn cháu bảy tuổi nhưng lúc đó tôi ở trong ban lãnh đạo xí nghiệp và ràng tôi là người tiếp quản tất cả từ bố tôi trong khi Gottfried ít nhiều lại bị coi như là người ngoài rìa.

      Vanger nghĩ lát.

      - Bố tôi biết nên xử như thế nào với đứa cháu cho nên tôi cho cháu công việc ở trong công ty. Đó là sau chiến tranh. Cháu cố làm công việc phải chăng nhưng nó lại lười. Gottfried là chàng háu và thích hưởng lạc; nó dụ dỗ phụ nữ, rồi có những thời kỳ nó uống quá nhiều rượu. Khó được tình cảm của tôi với nó… nó phải là chàng vô tích nhưng nó đáng để tin cậy chút nào và nó thường làm tôi quá thất vọng. Dần dà nó thành đứa nghiện rượu và năm 1965 chết - chết đuối. Chuyện xảy ra ở đầu đằng kia đảo Hedestad, nó có căn lều xây cất ở đó và nó thường náu kín ở đó để uống rượu.

      - Vậy ông ấy là bố của Martin và Harriet? – Blomkvist , chỉ vào bức chân dung ở bàn cà phê. phải ngập ngừng mà thừa nhận rằng chuyện của ông già khá hấp dẫn.

      - Đúng. Cuối những năm 40, Gottfried gặp phụ nữ Đức mang tên Isabella Khôngenig , này sau chiến tranh đến Thụy Điển. Khá đẹp – tôi muốn ấy có vẻ tỏa sáng rờ rỡ giống như Garbo hay Ingrid Bergman 1. Chắc Harriet mang gien của mẹ nhiều hơn của Gottfried. Như có thể thấy ở ảnh, chỉ mới mười bốn tuổi nó rất xinh đẹp.

      Blomkvist và Vanger ngắm bức ảnh.

      - Nhưng để tôi nốt. Isabella sinh năm 1928 và nay vẫn còn. ấy mười tuổi chiến tranh bắt đầu, và có thể tưởng tượng thiếu nữ sống ở Berlin trong những vụ ném bom ra sao. Khi đặt chân lên đất Thụy Điển chắc ấy phải cảm thấy y như là được đến thiên đường. Đáng tiếc là ấy lại cùng chung các thói xấu của Gottfried, lười và ngừng tiệc tùng tụ tập. du lịch rất nhiều ở Thụy Điển và ở nước ngoài, chả có chút ý thức trách nhiệm nào. Điều này ràng ảnh hưởng đến lũ trẻ. Martin sinh năm 1948 và Harriet năm 1950. Tuổi thơ của chúng hỗn loạn, bà mẹ luôn rời xa và ông bố cuối cùng là gã nghiện. Năm 1958 khá ngán nẩgm, tôi quyết định phá vỡ cái vòng luẩn quẩn. Lúc ấy Gottfried và Isabella sống ở Hedestad – tôi nằng nặc đòi họ chuyển khỏi đây. Martin và Harriet ít nhiều được để cho tự lo liệu chống đỡ lấy.

      Vanger liếc đồng hồ.

      - Ba mươi phút của tôi gần hết nhưng tôi cũng sắp tới phần kết của câu chuyện. có thể gia hạn cho tôi ?

      - Cứ tiếp tục . – Blomkvist .

      - Vậy tôi ngắn. Tôi có con – trái nghịch phũ phàng với các tôi và các thành viên khác của dòng họ, họ hình như bị ám ảnh bởi cái nhu cầu sinh sản sao cho ngôi nhà Vanger được đầy đàn đầy đống. Gottfried và Isabella dọn đến đây nhưng hôn nhân của họ có lấy đồng xu dính túi. Chỉ sau năm Gottfried chuyển đến căn nhà gỗ của mình. Nó sống ở đó mình nhiều thời kỳ dài và chỉ quay về với Isabella khi trời quá rét. Tôi trông nom Martin và Harriet, ở nhiều mặt chúng là những đứa con mà tôi bao giờ có. Martin ra, dạo, khi cháu trẻ người tôi sợ cháu lại sa vào bước chân của bố cháu. Nó yếu đuối, hướng nội, u hoài nhưng cháu cũng có thể vui đùa và phấn chấn. Thời thiếu niên cháu có những ngày tháng rắc rối nhưng Martin tự mình vượt qua khi cháu bắt đầu vào đại học. Martin …, được, mặc dù mọi chuyện nhưng cháu vẫn là CEO của cái chỗ còn lại của Tập đoàn Vanger, điều mà tôi cho là dành cho tín nhiệm vào cháu.

      - Còn Harriet?

      - Harriet là báu vật trong mắt tôi. Tôi cố cho nó cảm nhận về an toàn và phát triển lòng tự tin ở nó và chúng tôi mến nhau. Tôi coi Harriet như con mình và nó cuối cùng thân với tôi hơn với bố mẹ. xem đấy, Harriet rất là đặc biệt. Nó hướng nội – như nó – và khi là thiếu nữ, nó quay ra tin tưởng tôn giáo, giống ai trong dòng họ. Nhưng nó có tài ràng và thông minh ghê gớm. Nó có cả đức hạnh lẫn nghị lực. Khi nó mười bốn, mười lăm, tôi đinh ninh nó là người được sinh ra để cai quản trông nom cơ nghiệp Vanger hay ít nhất đóng vai trò trung tâm ở đó - chứ phải nó hay bất kỳ đứa chị em họ xoàng xĩnh nào của nó.

      - Vậy xảy ra cái gì?

      - Bây giờ đến cái lý do khiến tôi muốn mướn . Tôi muốn tìm ra ai ở trong dòng họ ám sát Harriet, ai từ đó bỏ ra gần bốn chục năm trời cố dẫn đưa tôi đến bước điên khùng.


      Chú thích

      1 (Hai diễn viên điện ảnh nổi tiếng trước kia – chú thích của tác giả)


      Stieg Larsson

      Có Hình Xăm Rồng

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 5

      Thứ Năm, 26 tháng Mười hai


      Lần đầu tiên từ khi bắt đầu cuộc độc thoại, ông già khiến cho Blomkvist ngạc nhiên. phải bảo ông già nhắc lại để yên chí rằng nghe lầm. Trong các báo cáo cắt dán hề có gì đến vụ án mạng.

      - Đó là ngày 24 tháng 9 năm 1966, Harriet mười sáu và bắt đầu năm thứ hai trung học phổ thông. Hôm ấy là thứ Bảy và hóa ra là ngày tệ hại nhất trong đời tôi. Tôi sống lại các kiện này nhiều lần quá đến nỗi tôi nghĩ tôi có thể kể lại những gì xảy ra từng phút từng giây của ngày hôm ấy - trừ cái điều quan trọng nhất.

      Ông giơ tay lên khua khua.

      - Đó là bữa ăn tối hàng năm chả hay ho gì. Ở đây, trong ngôi nhà này, rất đông người trong gia đình tụ họp lại. Bố tôi đưa truyền thống này vào gia đình và chung lại thường quay sang thành ra những vụ việc khá là đáng ghét. Vào những năm 80, truyền thống này chấm dứt khi Martin đơn giản tuyên bố là mọi bàn bạc về công việc đều phải làm ở các cuộc họp thường kỳ của ban lãnh đạo và bằng biểu quyết. Đó là cái quyết định hay nhất mà cậu ta từng có được.

      - Ông rằng Harriet bị ám sát…

      - Khoan. Để tôi với việc xảy ra. Đó là thứ Bảy như tôi . Cũng là ngày tiệc tùng liên hoan với cuộc điều hành của Ngày Trẻ con được câu lạc bộ thể thao ở Hedestad tổ chức. Hôm ấy, Harriet vào thị trấn xem diễu hành cùng vài bạn học. Harriet về lại đảo Heddeby đúng vào 2 giờ chiều. Bữa tối được cho là bắt đầu vào lúc 5 giờ chiều và nó chờ cùng dự với đám trẻ khác ở trong dòng họ.

      Vanger đứng lên, đến cửa sổ. Ông ra hiệu Blomkvist đến đó rồi chỉ tay.

      - Lúc 2 giờ 15, sau khi Harriet về nhà được dăm ba phút, tai nạn bi thảm xảy ra ở cầu ngoài kia. người đàn ông tên là Gustav Aronsson, của nông dân ở Ostergarden - tiểu chủ đảo Hadeby - quẹo lên cầu và đâm thẳng vào chiếc xe chở dầu. Đúng là cả hai đều chạy quá nhanh nên lẽ ra chỉ là va chạm thành ra thảm họa. Chắc là do bản năng, người lái xe tải đánh tay lái để tránh xe hơi nên húc vào lan can cầu và chiếc xe tải lộn nhào xuống; nó rơi qua cầu còn chiếc moóc vẫn treo ở bên cầu. trong những thanh lan can đập vào bồn chở dầu và dầu dễ cháy bị hun nóng trào ra. Trong khi đó, Aronsson ngồi kẹt cứng bên trong xe hơi, đau đớn la hét. Người lái xe tẹc cũng bị thương, nhưng cố chui ra được khỏi cabin.

      Ông già quay lại ghế:

      - Tai nạn chẳng có gì liên quan đến Harriet. Nhưng nó có ý nghĩa ở khía cạnh quan trọng. Hỗn loại tiếp theo đó: người ở hai đầu cầu chạy vội đến cố cứu; nguy cơ hỏa hoạn là lớn, còi báo động vang lên. Các sĩ quan cảnh sát, xe cứu thương, các phóng viên và dân chúng hiếu kỳ vội vã nối nhau đến. tất nhiên là tất cả họ đều túm tụm lại ở bên phía đất liền; đằng này bên phía đảo, chúng tôi cố làm hết sức mình để đưa Aronsson ra khỏi chiếc xe bẹp nát, điều lại tỏ ra là khó đến đáng nguyền rủa. Ông ta bị ghim chặt ở bên trong và bị thương nặng. Chúng tôi cố bẩy ông ta ra bằng tay trần nhưng ăn thua. Phải cưa hay cắt ông ta ra nhưng chúng tôi dám làm cái gì có nguy cơ để tóe ra tia lửa; chúng tôi đứng ở giữa biển dầu bên chiếc xe téc đổ nghiêng. Nếu nó nổ chúng tôi chết hết. Phải lâu mới có cứu trợ ở bên đất liền; chiếc xe tải nằm chắn ngang cầu, leo qua nó cũng chẳng khác nào trèo lên quả bom.

      Blomkvist thể cưỡng lại nổi cái cảm giác rằng ông già kể câu chuyện được ôn kỹ lưỡng, cốt để bắt phải quan tâm. Ông già là người kể chuyện hay, đúng như thế. Mặt khác, câu chuyện dẫn đến đâu đây?

      - Cái đáng kể ở vụ tai nạn là cây cầy bị ách tắc trong hai mươi tư giờ. Phải đến tối Chủ nhật mới bơm hết được dầu ra và rồi chiếc xe tải mới được cần cẩu trục , cây cầu mới mở cho giao thông qua lại. Trong vòng hai mươi tư giờ ấy, đảo Hedeby thực tế bị cắt rời hoàn toàn khỏi phần còn lại của thế giới. Lối duy nhất để qua tới đất liền là tàu chữa cháy được đưa đến để chở dân từ bến cảng của tầu ở đằng này đến bến cảng cũ ở bên dưới nhà thờ. Trong nhiều giờ chỉ có đội cấp cứu sử dụng con tàu – mãi tới khá khuya đêm thứ Bảy người dân bị kẹt đảo mới được phà chở qua. có hiểu ý nghĩa của chuyện này ?

      - Tôi cho là cái gì đó xảy ra cho Harriet ở đây đảo, - Blomkvist , - và danh sách những người khả nghi là bao gồm những người bị mắc kẹt lại ở đây và con số này là có hạn.

      Vanger cười châm biếm.

      - Mikael, biết đúng đến đâu đâu. Ngay cả như tôi đọc Dorothy Sayers 1. Đây là những việc: Harriet đến đảo lúc 2 giờ 10. Nếu chúng ta gộp cả trẻ con và những khách khứa chưa kết hôn lại tổng cộng trong ngày có khoảng bốn chục thành viên dòng họ đến. Cùng với những người hầu và khách qua đêm, có sáu mươi tư người ở đây hoặc ở gần nông trại. số trong đám họ - những người ở qua đêm – bận bịu với việc sắp xếp chỗ ăn ở trong các nông trại lân cận hay trong các phòng dành cho khách.

      - Harriet trước đó sống trong ngôi nhà ở bên kia đường, nhưng do vì cả Gottfried lẫn Isabella đều thường xuyên ổ định nên người ta có thể thấy buồn như thế nào, chuyện học hành của bị đảo lộn ra sao v.v…, vào năm 1964 khi Harriet mới mười bốn, tôi thu xếp cho nó dọn đến nhà tôi. Isabella chắc nghĩ rằng phải gánh trách nhiệm với con càng hay. Harriet sống ở đây trong hai năm. Vậy đây là nơi bé đến hôm ấy. Chúng tôi biết Harriet có gặp và chuyện vài ba câu với Harald ở trong vườn – ông ấy là trong những ông của tôi. Rồi nó lên gác, tới buồng này chào tôi. Chợt nó muốn với tôi về chuyện gì đó. Lúc ấy tôi tiếp vài thành viên khác trong dòng họ, tôi dành được giờ cho nó. Nhưng Harriet nom lo lắng và tôi hứa tới buồng nó gặp. Harriet ra qua cửa này và đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy nó. phút hay muộn hơn thế xảy ra chuyên đâm xe cầu kia và hỗn loạn làm lật nhào hết cả các kế hoạch của chúng tôi cho ngày hôm ấy.

      - Chị ấy chết như thế nào?

      - Phức tạp hơn thế, và tôi cần câu chuyện theo thứ tự thời gian. Khi tai nạn xảy ra, mọi người bỏ hết mọi cái làm , chạy tới trường. Tôi … tôi cho là tôi phải gánh vác và bận tối mắt tối mũi trong vài giờ sau đó. Harriet xuống thẳng ngay cây cầu - nhiều người trông thấy nó – nhưng sợ bị nổ tôi bảo bất cứ ai dính dáng đến việc kéo Aronsson ra khỏi chiếc xe hãy lui lại xa ở đằng sau. Năm người chúng tôi ở lại. Có tôi và Harald, tôi. người tên là Magnus Nilsson, công nhân của tôi. công nhân ở nhà máy cưa tên là Sixten Norlander có ngôi nhà ở bên dưới cảng cá. Và có cậu tên là Jerker Aronsson. Cậu này mới mười sáu và ra tôi nên bảo cậu ta tránh ra khỏi đó nhưng cậu ta là cháu của Gistav ở trong chiếc xe. Vào khoảng 2 giờ 40, Harriet ở trong bếp trong nhà này. Nó uống cốc sữa và chuyện qua qua với Astrid, người nấu bếp của chúng tôi. Hai người nhìn qua cửa sổ ra chỗ đâm xe ở bên dưới chỗ cây cầu. Vào lúc 2 giờ 55, Harriet qua sân. Isabella trông thấy cháu. Chừng phút sau cháu chạy vào nhà Otto Falk, mục sư của Hedeby. Lúc ấy nhà của mục sư là ở chỗ Martin Vanger có ngôi biệt thự ở đó, ông mục sư sống ở phía đầu cầu bên này. Ông ta bị cảm nằm ôm giường khi xảy ra vụ tai nạn; ông lỡ mất tấn thảm kịch nhưng ai đó gọi điện thoại cho ông và ông đường đến cây cầu. Harriet giữ ông lại và có vẻ muốn gì đó với ông nhưng ông xua nó và vội rảo bước qua, Falk là người cuối cùng trông thấy Harriet còn sống.

      - Chị ấy chết như thế nào? – Blomkviet lại .

      - Tôi biết, - Vanger với vẻ lúng túng. – Chúng tôi đưa được Aronsson ra khỏi xe cho tới quãng 5 giờ - nhân đây phải thêm ông ta sống tuy được ổn, - và vào khoảng 6 giờ mối đe dọa hỏa hoạn được coi là qua khỏi. Hòn đảo vẫn bị cách biệt nhưng mọi việc bắt đầu yên dần. Mãi đến gần 8 giờ chúng tôi mới ngồi vào bàn để ăn bữa tối, khi ấy chúng tôi mới phát thấy thiếu Harriet. Tôi bảo người trong họ đến buồng Harriet nhưng chị ta quay lại thể tìm thấy Harriet. Tôi nghĩ nhiều về chuyện này; tôi cho là nó ra ngoài dạo hay nó được ai báo cho rằng sắp ăn bữa tối. Trong bữa ăn tôi phải giải quyết nhiều cuộc thảo luận và tranh cãi với gia đình. Cho nên đến tận sáng sau, khi Isabella tìm con chúng tôi mới nhận ra rằng ai biết Harriet ở đâu và từ hôm trước ai trông thấy nó rồi. – Vanger dang rộng hay tay ra. – Và từ hôm ấy Harriet mất tăm, dấu vết.

      - Mất tăm? – Blomkvist hoạ theo.

      - Trong suốt những năm qua chúng tôi thể tìm ra được chút xíu vết tích dù nào của nó.

      - Nhưng nếu chị ấy tan biến như ông ông cũng thể đoan chắc rằng chị ấy bị ám sát.

      - Tôi hiểu cái ý phản bác này. Tôi nghĩ mãi theo ngả đó. người tan biến dấu vết có thể là xảy ra trong bốn điều sau đây. Harriet có thể bỏ theo ý nó và náu ở nơi nào đó. Harriet có thể bị tai nạn rồi chết. Harriet có thể tự sát. Và cuối cùng, Harriet có thể là nạn nhân của án mạng. Tôi cân nhắc tất cả các khả năng ấy.

      - Nhưng ông tin là có người lấy mạng của Harriet. Tại sao?

      - Vì đó là cái kết luận duy nhất hợp lý. – Vanger giơ ngón tay lên. – Ban đầu tôi hy vọng Harriet bỏ chạy. Nhưng ngày tháng qua , tất cả chúng tôi nhận thấy rằng trường hợp này phải là như thế. Tôi muốn bé mười sáu tuổi xuất thân từ thế giới được che chở như thế này, ngay cả cho bé có khả năng nữa, làm sao mà có thể tự mình lo toan xoay sở lấy được việc đó cơ chứ? Làm sao có thể cứ náu mà bị phát ra? Nó lấy tiền ở đâu? Và cho dù có kiếm được việc làm ở đâu đó bé vẫn cứ cần thẻ bảo hiểm xã hội và địa chỉ.

      Ông giơ hai ngón tay lên.

      - Ý nghĩ tiếp theo của tôi là Harriet bị kiểu tai nạn gì đó. có thể cho tôi ưu ái ? Xin ra bàn làm việc mở ngăn kéo cùng. Có tấm bản đồ trong đó.

      Làm theo lời cầu, Blomkvist trải tấm bản đồ lên bàn cà phê. Đảo Hedeby là khối đất đai hình thù gẫy khúc dài khoảng hai dặm, rộng khoảng dặm. Phần lớn đảo là rừng che phủ. Có khu xây dựng ở gần cầu và quanh bến cảng có những nhà nghỉ hè nho . Ở phía kia của đảo là trại tiểu nông, Ostergarden, nơi mà Aronsson xui xẻo khởi động cho chiếc xe hơi ra.

      - Hãy nhớ rằng Harriet thể rời đảo, - Vanger . – đảo Hedestad này có thể chết vì tai nạn y như ở bất kỳ nơi nào khác. có thể bị sét đánh – nhưng hôm ấy có giông bão. có thể bị ngựa xéo chết, ngã xuống giếng, hay lăn xuống khe đá. Chắc chắn là ở đây có đến trăm cách để trở thành nạn nhân của tai nạn. Tôi nghĩ đến phần lớn các cách đó.

      Ông giơ lên ba ngón tay.

      - Chỉ có thể chộp lấy cái và cái này cũng áp dụng cho khả năng thứ ba – trái với mọi chỉ dẫn là Harriet tự kết liễu đời mình. Xác của cháu chắc là phải ở đâu đó trong khu vực hẹp.

      Vanger đấm mạnh tay xuống tấm bản đồ.

      - Những ngày sau khi Harriet biến mất, chúng tôi tìm kiếm khắp nơi, dọc ngang đảo. Đàn ông lội qua từng mương rãnh, sục vào từng thửa ruộng, vách đá và cây cối trốc rễ. Chúng tôi xuyên vào từng tòa nhà, ống khói, giếng nước, nhà kho và gác xép kín.

      Ông già rời mắt khỏi Blomkvist, nhìn đăm đăm vào bóng tối ở bên ngoài cửa sổ. Ông , giọng trầm xuống và thân mật hơn.

      - Cả mùa thu tôi tìm kiếm cháu, ngay cả khi các cuộc tổ chức tìm kiếm ngừng và người ta thôi. Khi tôi bận công việc tôi bắt đầu những chuyến bộ tới lui ngang dọc ở khắp đảo. Rồi mùa đông đến, chúng tôi vẫn tìm thấy dấu vết gì của cháu. Mùa xuân tôi vẫn tìm cho tới khi tôi nhận thấy việc tìm kiếm này mới vớ vẩn làm sao. Mùa hè tới, tôi thuê ba người thợ rừng dầy dạn kinh nghiệm lại tìm khắp lượt môt phen nữa cùng với cả chó. Họ lục lọi từng phân vuông đảo. Vào lúc ấy, tôi bắt đầu nghĩ chắc là có ai đó giết cháu. Cho nên họ lại tìm ngôi mộ. Họ làm chuyện này trong ba tháng. Chúng tôi tìm ra dấu vết dù nhất nào của Harriet. Cứ tựa như cháu biến mất vào trong khí.

      - Tôi có thể nghĩ đến số khả năng, - Blomkvist đánh bạo.

      - Hãy nghe xem.

      - Có thể chị ấy bị chết đuối, vì tai nạn gay vì dụng ý. Đây là hòn đảo, và nước có thể che dấu phần lớn mọi thứ.

      - Đúng, nhưng khả năng này lớn. Nếu Harriet gặp phải tai nạn rồi chết đuối việc đó xét về lô gíc, phải xảy ra ở đâu đó tại ngay cạnh làng. Xin nhớ là cố ở cầu bữa ấy là chuyện giật gân nhất mà trong vài thập niên nay mới xảy ra đảo Hedeby này. Nó phải là lúc để cho bé mười sáu tuổi, đầu óc tò mò bình thường, lại quyết định bộ sang phía bên kia của hòn đảo. Nhưng quan trọng hơn, ở đây có nhiều hải lưu còn gió vào những dịp này trong năm còn gió bấc hay gió đông bắc. Nếu cái gì rơi xuống nước, nó nổi lên ở đâu đó dọc bờ biển mà bờ biển phía ấy khắp mọi nơi gần như được xây dựng lên hết cả rồi. Chớ nghĩ là chúng tôi chưa tính tới ngả đó. Chúng tôi nạo vét gần hết các chỗ có nước mà chúng tôi ngờ cháu có thể ngã xuống. Tôi cũng thuê đám trẻ ở câu lạc bộ lặn tại Hedeby. Họ bỏ cả mùa lặn ra cào bới đáy eo biển và dọc bờ biển. Tôi cầm chắc là cháu có ở dưới nước; nếu có chúng tôi tìm thấy cháu.

      - Nhưng có thể chị ấy gặp tai nạn ở chỗ khác chứ? Cầu bị tắc, dĩ nhiên, nhưng đến đất liền chỉ có đoạn ngắn. Chị ấy có thể bơi hay chèo thuyền qua.

      - là cuối tháng Chín, nước rất lạnh, Harriet khó mà lại dời nhà bơi trong lúc tất cả còn náo động như thế. Nhưng nếu thình lình nó có ý bơi sang đất liền nó cũng bị nhiều người chú ý đến và trông thấy. Có hàng chục con mắt ở cầu, còn ở dọc bờ nước bên đất liền đến hai ba trăm người xem vụ đâm xe.

      - chiếc thuyền có bơi chèo sao?

      - . Hôm ấy chính xác có mười ba con tàu ở đảo Hedeby. Phần lớn du thuyền được đem cất giữ ở bờ rồi. Dưới bến cảng dành cho tàu ở gần những căn lều mùa hè có hai con tàu Pettersson ở dưới nước. Có bảy con thuyền bơi chèo eka, trong đó năm cái được kéo lên bờ biển. Ở phía dưới nhà mục sư chiếc thuyền bơi chèo và tàu động cơ. kiểm tra tất cả các tàu thuyền này, chúng ở đâu vẫn ở đúng đó. Nếu Harriet có chèo thuyền qua và chạy phải để lại chiếc thuyền ở bờ bên kia rồi.

      Vanger giơ bốn ngón.

      - Vậy nên chỉ có khả năng hợp lý, tức là Harriet tự ý biến . ai đó giết nó và thủ tiêu cái xác.

      Lisbeth Salander bỏ sáng Noel ra đọc quyển sách gây tranh cãi của Mikael Blomkvist về nghề viết báo tài chính Các Hiệp sĩ dòng Templar: Câu chuyện cảnh báo cho các phóng viên tài chính. Christer Malm thiết kế bìa hợp mốt với bức ảnh Thị trường Chứng khoán Stockholm. Malm làm với Photoshop, và phải mất lúc mới nhận ra là tòa cao ốc này bồng bềnh trong . Đó là bìa sách gây ấn tượng, cho thấy được giọng văn bên trong.

      Salander có thể thấy Blomkvist là cây bút giỏi. Quyển sách được trình bày với cách viết thẳng thắn, nhập cuộc, ngay những người hiểu biết chút nào về cái mê cung của nghề báo tài chính đọc nó cũng có thể học được điều gì đó. Giọng văn sắc nhọn, châm biếm nhưng hết là thuyết phục.

      Chương đầu là thứ tuyên chiến trong đó Blomkvist dè xẻn lời. Trong hai chục năm qua, các nhà báo tài chính Thụy Điển phát triển thành nhóm hay sai bất tài phồng mang lên vì tự coi mình là quan trọng nhưng hề có thành tích về tư duy phê phán nào. rút ra kết luận này vì ngày lại ngày, có lấy chút phản bác, quá nhiều phóng viên tài chính hình như bằng lòng nhai lại những tuyên bố mà các CEO hay đám đầu cơ thị trường chứng khoán đưa ra – ngay cả khi thông tin này sai lệch và là làm cho lạc hướng. Như thế các phóng viên này hoặc là quá ngây thơ và khờ đến nỗi bị buộc phải nhảy vào nhiệm vụ khác hoặc họ là những người có ý thức phản bội lại chức năng nhà báo. Blomkvist thường xấu hổ vì được gọi là phóng viên tài chính do đó có cơ hội bị nhét chung vào rọ với những người mà đánh giá là phóng viên chút nào cả.

      so sánh những cố gắng của các nhà báo tài chính với cách mà các phóng viên vụ án hay phóng viên đối ngoại làm việc. vẽ nên bức tranh về la ó xảy ra nếu như trong phiên tòa xét xử vụ án mạng, phóng viên pháp lý bắt đầu bàng quan giới thiệu việc xử của công tố viên là nguyên tắc chỉ đạo, tham vấn luận cứ của bên bị hay phỏng vấn gia đình nạn nhân mà vội cho ra ý kiến về điều có khả năng xảy ra hay có khả năng xảy ra. Theo Blomkvist, các phóng viên tài chính cũng cần phải áp dụng các quy tắc tương tự.

      Phần còn lại của quyển sách là chuỗi bằng chứng ủng hộ trường hợp của . chương dài xem xét việc tường thuật vụ “.com” nổi tiếng ở sáu tờ báo hàng ngày cũng như các tờ Financila Journal, Dangens Industri và “A-ekhôngnomi”, thông tin về kinh doanh truyền hình Thụy Điển. Trước hết trích dẫn và tóm tắt những cái mà các phóng viên và viết. Rồi so sánh chúng với tình hình thực tại. Trong khi miêu tả phát triển của công ty lần lượt nêu lên các câu hỏi đơn giản mà phóng viên nghiêm túc phải hỏi nhưng bị toàn bộ tập đoàn phóng viên tài chính bỏ qua. Đó là nước hay.

      chương khác về việc phát hành cổ phiếu lần đầu của Telia – đây là đoạn vui nhộn và chế diễu nhất trong quyển sách, trong đó vài cây bút tài chính bị chỉ trích tận tên, gồm William Borg, người mà xem vẻ đặc biệt thù nghịch. chương gần cuối sách so sánh trình độ năng lực của các phóng viên tài chính Thụy Điển với nước ngoài. tả các phóng viên nghiêm túc ở tờ Financial Times, Economist của London và số tờ báo tài chính Đức tường thuật các chủ đề tương tự ở trong nước họ như thế nào. So sánh hay cho các nhà báo Thụy Điển. Chương cuối cùng mang phác thảo với gợi ý về việc làm thế nào để có thể chữa cháy tình hình thảm hại này. Kết của quyển sách gợi lại phần mở đầu:

      Nếu phóng viên nghị viện làm nhiệm vụ của mình bằng cách phê phán mà lại dọn đường yểm hộ cho mọi quyết định mà nhất định phải được thông qua, bất chấp chúng nhố nhăng ra sao – hay nếu phóng viên chính trị cho thấy cũng thiếu phán xét tương tự - phóng viên đó phải bị sa thải hay bị chuyển đến bộ phận khác, nơi mà ở đó (hay chị) ta thể gây ra nhiều tổn hại đến thế. Nhưng trong giới tường thuật tài chính, xem ra có áp dụng việc ủy thác cho báo chí bình thường tiến hành các cuộc điều tra có phê phán cũng như thông báo khách quan các phát cho bạn đọc. Thay vì lại vỗ tay cha vô lại là thành công nhất. Bằng cách đó, người ta tạo nên tương lai của Thụy Điển, và cũng làm cho tất cả lòng tin còn lại gửi gắm vào các nhà báo như là tập đoàn những nhà chuyên nghiệp bị tổn thương.

      Salander dễ dàng hiểu được cuộc tranh cãi sôi nổi tiếp theo ở ấn phẩm The Journalist, số tờ báo tài chính và ở các trang nhất cũng như ở các khu vực dành cho kinh doanh các báo hàng ngày. Tuy chỉ có ít phóng viên bị nêu tên trong quyển sách, Salander cũng suy ra được rằng do lĩnh vực báo chí khá bé nên khi trích dẫn ra nhiều tờ báo khác nhau ai cũng có thể biết chính xác cá nhân nào bị nhắc đến. Blomkvist tạo ra cho mình số kẻ thù dai dẳng, điều này cũng được phản ánh ở trong nhiều bình luận tai ác với phiên tòa xét xử vụ Wennerstrom.

      gấp quyển sách lại và nhìn tấm ảnh ở bìa sau. Tựa hồ bị gió cuốn, mớ tóc vàng sẫm bù xù của Blomkvist rơi trễ nải xuống ngang trán. Hay (và điều này có nhiều phần đúng hơn) tựa hồ Christer Malm đạo diễn cho cái nét đó. nhìn vào máy ảnh, nụ cười hơi chế nhạo, vẻ mặt có lẽ nhắm làm cho ra dáng hấp dẫn và trẻ trung. người đàn ông rất dễ coi. Sắp trải qua ba tháng trong tù.

      - Hello Blomkvist, - với mình. – khá là hài lòng về đấy, có đúng là thế ?

      Vào lúc ăn trưa, Salander khởi động iBook, mở Eudora để viết email. gõ: “Có giờ chưa?”. ký Ong vò vẽ, gửi đến địa chỉ <Dịch bệ[email protected]>. Để cho an toàn, cho bức thư chạy qua chương trình mật hóa PGP.

      Rồi mặc cái quần jean đen, đôi bốt mùa đông to kềnh, sơ mi polo ấm, jacket màu đậu Hà Lan thẫm và găng tay dệt kim xứng màu, mũ lưỡi trai, khăn quàng. tháo vòng ra khỏi mí mắt và mũi, thoa chút son môi hồng nhạt rồi tự ngắm ở gương trong buồng tắm. nom như khác cuối tuần ra ngoài nhảo và nhìn bộ đồ của mình như là món ngụy trang thích hợp cho chuyến sâu vào hậu tuyến địch. đáp tàu điện ngầm từ Zinkensdam đến Ostermalmstorg rồi bộ xuống đến Strandvagen. thong dong dọc khu bảo tồn trung tâm đọc các chữ số các tòa nhà. Gần như sắp tới cầu Djurgards dừng lại nhìn vào cái cửa tìm. qua phố và chờ ở cánh cửa mấy bước chân. để ý thấy trong thời tiết lạnh của hôm sau Noel phần lớn những người ngoài ra bộ thường là dọc ke; chỉ có số ít phía lát đá.

      chờ gần nửa giờ từ phía Djurgarden bà già chống gậy đến. Bà già dừng lại, nghi ngờ nhìn Salander. Salander mỉm cười thân thiện đáp lại. Bà già chống gậy chào và nom có vẻ như cố nhớ lại xem bà nhìn thấy trẻ này lần cuối cùng là khi nào. Salander quay lại vài bước xa khỏi cửa, và tới lui quanh quẩn tựa như sốt ruột chờ ai đó. Khi quay lại, bà già đến trước cửa, bấm con số vào bảng mã khóa. Salander khó nhận ra đó là con số 1260.

      chờ thêm năm phút rồi đến trước cái cửa. ấn vào mã và khóa kêu đánh cách. ngó vào lòng giếng cầu thang. Có camera an ninh mà liếc vào nhưng biết; đó là cái mô đen mà An ninh Milton thực và chỉ được kích hoạt nếu tín hiệu báo động bị đột nhập hay công kích vang lên ở trong tòa nhà. Sâu vào trong nữa, ở bên trái buồng thang máy kiểu cổ có cánh cửa với mã khóa khác; thử con số 1260, nó chạy và mở ra lối vào tầng hầm rượu cùng với buồng để các thứ tạp nham. Ẩu, rất ẩu. Để ba phút thăm dò tầng hầm rượu, thấy phòng giặt khóa và phòng sửa chữa phục hồi các thứ hư hỏng. Rồi dùng bộ đồ nạy mở khóa “mượn” của người thợ khóa của An ninh Milton để mở cái cửa dẫn đến nơi có vẻ là phòng họp của ban quản lý chung cư. Ở đằng sau hầm rượu là phòng dành cho các thú chơi riêng của cá nhân. Cuối cùng thấy cái mà mải tìm: buồng điện nho của tòa nhà. xem xét các thước đo, các hộp cầu chì, các hộp kết nối rồi lấy ra máy ảnh kỹ thuật số Canon to bằng bao thuốc lá. chụp ba bức ảnh.

      đường ra để mắt vào danh sách những người sống ở đây gắn bên cạnh thang máy và đọc thấy tên của căn hộ ở tầng thượng cùng: Wennerstrom.

      rời tòa nhà, rảo bước tới Viện bảo tàng Quốc gia, vào quán cà phê để uống chút cà phê cho ấm người. Nửa giờ sau, về Soder và lên căn hộ của mình.

      câu trả lời của <Dịch bệ[email protected]>. giải mã nó trong PGP nó viết: 20.


      Chú thích

      1 Dorothy Sayers (1893-1957): Nhà văn người chuyên viết về đề tài trinh thám, hình . Ngoài ra, bà còn là nhà thơ, nhà viết kịch, dịch giả. – chú thích của tác giả


      Stieg Larsson

      Có Hình Xăm Rồng

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 6

      Thứ Năm, 26 tháng Mười hai


      DDã quá thời gian Blomkvist dự định về. Giờ là 4 giờ 30 phút, có hy vọng bắt đầu được chuyến tàu chiều nhưng vẫn có cơ hội làm chuyến tàu đêm 9 giờ 30 phút. đứng bên cửa sổ xoa xoa cổ, nhìn ra mặt tiền thắp sáng của nhà thờ ở bên kia cây cầu. Vanger cho xem quyển được được cắt dán từ những báo của địa phương và của giới truyền thông cả nước. Trong thời gian, giới truyền thông chú ý đến của gia đình nhà công nghiệp tên tuổi biến mất. Nhưng khi tìm ra xác và có đột phá nào trong điều tra chú ý dần dần nhạt . Mặc dù việc là dính líu đến gia đình nổi tiếng nhưng ba mươi sáu năm sau, vụ Harriet Vanger vẫn cứ bị quên lãng. Trong các bài báo của cuối những năm 60, lý lẽ trội lên hơn cả có vẻ cho là chết đuối và bị quét mất ra biển - thảm kịch nhưng là điều có thể xảy ra với bất cứ gia đình nào.

      Câu chuyện ông già kể hấp dẫn Blomkvist nhưng khi ông già xin lỗi vào buồng tắm, lại mới nghi ngờ trở lại. Ông già chưa đến đoạn kết mà Blomkvist cuối cùng hứa là nghe hết toàn bộ câu chuyện.

      - Ông nghĩ xảy ra chuyện gì cho Harriet? – hỏi khi Vanger trở lại.

      - Thông thường có chừng hai mươi lăm người quanh năm sống ở đây nhưng vì gia đình tụ họp đảo Hedeby này nên hôm đó có hơn sáu chục người. Trong số này, từ hai mươi đến hai mươi lăm người, đại khái bằng thế, là có thể loại . Tôi tin là trong những người còn lại, ai đó trong gia đình giết Harriet và giấu cái xác .

      - Tôi có mười hai cách bác bỏ ý đó.

      - Hãy nghe xem

      - Bác bỏ thứ nhất là nếu ai đó giấu xác chị ấy cái xác cũng phải được tìm thấy, nếu tìm kiếm kỹ càng triệt để như ông từng mô tả.

      - với , quy mô tìm kiếm còn lớn rộng hơn cả mô tả của tôi. Mãi đến khi bắt đầu nghĩ Harriet là nạn nhân của vụ giết hại, tôi mới nhận thấy có nhiều cách có thể làm biến mất xác của nó. Tôi thể chứng minh cho điều này nhưng ít nhất nó cũng ở trong phạm vi của khả năng.

      - Hãy bảo tôi

      - Harriet mất tăm quãng 3 giờ chiều hôm ấy. 2 giờ 55 phút mục sư Falk còn trông thấy nó vội đến cầu. Vào gần như cũng đúng lúc ấy nhà nhiếp ảnh của tờ báo địa phương đến đó và trong giờ sau, ông ta chụp số lượng lớn ảnh về tấn thảm kịch. Chúng tôi - cảnh sát, ý tôi xem xét các ảnh đó và xác nhận rằng thấy Harriet ở trong bức ảnh nào nhưng những người khác ở thị trấn ít nhất cũng được trông thấy lần trong các tấm ảnh.

      Vanger lấy album khác để lên bàn.

      - Đây là những bức ảnh ngày hôm ấy. Bức đầu tiên chụp ở Hedestad trong cuộc diễu hành Ngày Trẻ em. Cũng ông nhiếp ảnh kia chụp nó vào khoảng 1 giờ 15 phút chiều và Harriet có mặt ở trong đó.

      Nhà nhiếp ảnh đứng chụp ở tầng hai của tòa nhà và cho thấy đường phố cùng với cuộc diễu hành – các hề xe tải và các mặc quần áo tắm - vừa qua. Người xem tụ tập đầy các mặt đường lát đá. Vanger chỉ vào bộ mặt trong đám đông.

      - Harriet đây. Nó biến mất khoảng hai giờ sau đó; Harriet và số bạn học ở thị trấn. Đây là bức ảnh cuối cùng chụp nó. Nhưng có bức còn đáng chú ý hơn.

      Vanger lật các trang. Quyển album có khoảng 180 bức ảnh - năm cuộn phim - về vụ đâm xe cầu. Dù nghe câu chuyện rồi người ta vẫn thấy quá đột ngột khi nhìn câu chuyện ở dạng các bức ảnh trắng đen này. Người chụp là nhà nghề cố bắt được cảnh hỗn loạn xung quanh vụ tai nạn. số lớn ảnh tập trung vào các hoạt động ở quanh chiếc xe tẹc đổ nghiêng. Blomkvist dễ dàng nhận ra ngay Henrik Vanger trẻ hơn nhiều, đầm đìa dầu nóng, giơ tay giơ chân.

      - Đây là Harald tôi. – Ông già trỏ vào người đàn ông mặc sơ mi xắn tay cuối về phía trước và trỏ vào cái gì ở bên trong chiếc xe bẹp dúm. – tôi có thể là người khó ưa nhưng tôi nghĩ có thể gạt ấy ra khỏi danh sách tình nghi. Trừ lúc ông ấy ở đâu chạy về khu trại thay giầy rất nhanh còn cả buổi chiều ông ấy ở cây cầu.

      Vanger lật vài trang nữa, lần lượt từng tấm ảnh. Cận cảnh xe tẹc đổ. Cận cảnh người xem ở bờ biển phía trước. Cận cảnh xe của Aronsson. Cảnh bao quát. Các cận cảnh bằng các ống kính telephoto.

      - Đây là bức ảnh đáng chú ý, - Vanger . – Như chúng tôi có thể xác định nó được chụp vào khoảng giữa 3 giờ 40 và 3 giờ 45, sau khi Harriet tình cờ gặp Falk. Hãy nhìn ngôi nhà này, cửa sổ ở giữa tầng hai. Đó là buồng của Harriet. Trong bức ảnh trước, cửa sổ này đóng. Ở đây nó mở.

      - Chắc có người ở trong buồng của Harriet?

      - Tôi hỏi tất cả, ai nhận mở cửa sổ.

      - Có nghĩa là hoặc chính Harriet mở hoặc có ai đó dối ông. Nhưng tại sao tên giết người lại phải vào mở cửa sổ buồng chị ấy ra? Và tại sao có người lại dối về chuyện đó?

      Vanger lắc đầu. giải thích được.

      - Harriet biến mất vào khoảng 3 giờ hay muộn hơn sau đó ít. Các bức ảnh này cho thấy được số người ở đâu vào lúc ấy. Bởi thế tôi có thể loại số người ra khỏi danh sách khả nghi. Cũng bởi thế tôi có thể kết luận rằng cần đưa số người ở trong các bức ảnh này vào danh sách nghi vấn.

      - Ông trả lời câu hỏi tôi hỏi ông nghĩ sao về việc cái xác được đưa . Dĩ nhiên tôi nhận thấy chắc phải có giải thích nào đó nghe lọt tai. Kiểu trò bịp của các nhà ảo thuật xưa.

      - ra có thể áp dụng số cách làm thực tế. Tên giết người hạ thủ quanh quẩn vào lúc 3 giờ. Chắc ta hay ả ta dùng bất cứ thứ vũ khí gì - nếu chúng tôi tìm thấy những vết máu. Tôi đoán Harriet bị bóp cổ và tôi đoán chắc là xảy ra ở đây - đằng sau bức tường ở trong vườn, đâu đó vượt ra ngoài tầm nhìn của người chụp ảnh và ở góc chết so với ngôi nhà. Ở đấy có lối mòn, nếu muốn tắt, sang nhà mục sư – cái chỗ cuối cùng trông thấy Harriet – và quay lại về nhà. Bây giờ ở đấy có luống hoa và bãi cỏ, nhưng vào những năm 60, đó là khu vực rải sỏi dùng để đỗ xe. Tên giết người chỉ cần mở cốp chiếc xe rồi cho Harriet vào trong. Hôm sau khi chúng tôi bắt đầu tìm kiếm, chả có ai nghĩ là xảy ra vụ giết người. Chúng tôi tập trung chú ý vào bờ biển, các tòa nhà và các khu rừng gần làng nhất.

      - Cho nên ai tìm trong các cốp xe.

      - Và tối hôm sau tên giết người được thoải mái lên xe lái qua cầu để giấu cái xác vào chỗ nào đó.

      - Ngay dưới mũi của mọi người tham gia tìm kiếm. Nếu việc diễn ra theo cách này chúng ta đến thằng khốn nạn to gan.

      Vanger bật ra tiếng cười chua chát.

      - Miêu tả thế là khá trúng với ít người ở trong dòng họ Vanger đấy.

      Họ bàn tiếp qua cả bữa tối vào lúc 6 giờ. Anna dọn lên thịt thỏ rừng quay với mứt dâu và khoai tây. Vanger rót ra loại vang đỏ nặng. Blomkvist có nhiều giờ để làm chuyến tàu vét. nghĩ đến lúc tóm tắt lại câu chuyện.

      - Ông kể cho tôi câu chuyện hấp dẫn, tôi phải nhận là thế. Nhưng tôi vẫn biết tại sao ông lại muốn tôi nghe.

      - Tôi bảo . Tôi muốn tóm cổ cái thằng khốn khiếp giết Harriet. Và tôi muốn mướn tìm ra nó là ai.

      - Tại sao?

      Vanger đặt dao nĩa xuống.

      - Ba mươi mấy năm qua tôi hóa rồ hóa dại nghĩ xem chuyện gì xảy ra với Harriet. Tôi ngày càng dành nhiều giờ hơn cho chuyện đó. – Ông im lặng và bỏ kính ra, quan sát vết bụi vô hình nào đó mặt kính. Rồi ông ngước nhìn Blomkvist. - Để cho hoàn toàn trung thực với , việc Harriet biến mất là lý do khiến tôi rút lui dần ra khỏi công việc điều hành công ty. Tôi mất hết động cơ. Tôi biết đâu đó ở bên tôi có tên sát nhân, và rồi buồn phiền cũng như việc tìm kiếm bắt đầu ảnh hưởng đến công việc của tôi. Điều tệ nhất là theo năm tháng cái gánh nặng này nó lại mà trái lại. Khoảng 1970, có thời kỳ tôi chỉ muốn ở mình. Rồi Martin tham gia ban giám đốc, rồi nhận lấy phần lớn công việc của tôi. Năm 1976 tôi về hưu, Martin tiếp quản chức CEO. Tôi vẫn còn chỗ trong ban lãnh đạo nhưng từ năm năm mươi tuổi tôi chả còn chèo lái mấy nữa. Trong ba mươi sáu năm qua, chả ngày nào trôi mà tôi lại nghiền ngẫm đến việc Harriet mất tích. có thể nghĩ tôi bị chuyện ấy ám ảnh – ít ra phần lớn họ hàng tôi đều nghĩ như vậy.

      - Câu chuyện này khủng khiếp quá.

      - Hơn thế. Nó hủy hoại đời tôi. Đó là cái gì mà thời gian càng trôi tôi lại càng nhận hiểu về nó nhiều hơn. có cảm nhận về bản thân mình ?

      - Tôi nghĩ là có.

      - Tôi cũng thế. Tôi thể quen với cái xảy ra. Nhưng theo năm tháng các động cơ của tôi thay đổi. Ban đầu động cơ chắc là đau buồn. Tôi muốn tìm Harriet và ít nhất có cơ hội chôn cất nó. Điều ấy như thể là giành lấy công lý cho Harriet vậy.

      - Nó thay đổi theo kiểu gì?

      - Bây giờ tìm ra thằng khốn làm chuyện đó là chính. Nhưng điều lạ là: tôi càng già nó lại càng trở thành thú nghiền cuốn hút mất hết tất cả.

      - Thú nghiền?

      - Vâng, tôi có thể dùng chữ ấy. Khi điều tra của cảnh sát kết thúc, tôi vẫn cứ tiếp tục. Tôi cố làm có hệ thống và khoa học. Tôi thu thập mọi thông tin có thể góp nhặt được - ảnh, báo cáo của cảnh sát, tôi viết lại những gì người ta với tôi về những điều mà họ làm hôm ấy. Cho nên đúng là tôi bỏ ra gần như hết nửa đời mình vào việc thu thập thông tin về duy nhất ngày trời.

      - Tôi giả dụ thế này, là sau ba mươi sáu năm ông có nhận thấy tên giết người cũng có thể chết và bị chôn cất mất rồi ?

      - Tôi tin như thế.

      Blomkvist nhíu lông mày lại trước cái giọng chắc nịch của ông già.

      - Ta hãy ăn xong bữa rồi trở lên gác. Câu chuyện sắp hết chi tiết này nữa. Chi tiết gây cho hoang mang hơn hết.

      Salander đỗ chiếc Corolla vào cạnh ga xe lửa vành đai ở Sundbyberg. mượn chiếc Toyata của đội xe An ninh Milton. xin phép hẳn hoi nhưng Armansky bao giờ công khai tỏ ý cấm dùng xe của Milton. nghĩ sớm muộn rồi cũng phải có chiếc xe. chiếc Kawasaki 125 sang tay thường dùng trong thời gian hè. Mùa đông nhốt chiếc xe máy trong hầm rượu.

      bộ đến Hogklintavagen, bấm cái chuông cửa xíu, lúc ấy là 6 giờ. Mấy giây sau, khóa cửa ra phố mở đánh cách và lên hai tầng gác, bấm vào chuông cửa ở cạnh tên Stevensson. biết Stevensson là ai và liệu có người như thế sống ở đây .

      - Chào, Dịch bệnh – .

      - Ong vò vẽ đấy à! Cần cái gì cứ việc ghé qua nha.

      Căn hộ tối như thường lệ; ánh sáng của ngọn đèn duy nhất trong phòng ngủ mà ta dùng làm văn phòng rỉ ra ngoài gian sảnh. Người đàn ông, hơn Salander ba tuổi, cao mét chín và nặng tạ sáu. Bản thân cao mét rưỡi, nặng 45 cân nên ở cạnh Dịch bệnh cứ cảm thấy mình bé tí tẹo. Chỗ này nồng mùi lâu ngày và ngột ngạt.

      - Vì chịu tắm bao giờ, Dịch bệnh. Ở đây có cái mùi cứ như là mùi chuồng khỉ ấy. Nếu có dịp ra ngoài, tôi mách vài mánh về xà phòng. Ở Khôngnsum họ có bán xà phòng đấy.

      tặng nụ cười nhợt nhạt và gì. ra hiệu bảo theo vào bếp. buông phịch xuống chiếc ghế ở bên bàn bếp, chả buồn bật đèn. Ánh sáng duy nhất đến từ đường ở bên kia cửa sổ.

      - Về khoản dọn dẹp nhà cửa tôi giữ kỷ lục đâu, nhưng nếu có thùng sữa cũ ngửi giống mùi giòi bọ là tôi đều bó lại, quẳng hết .

      - Tôi được trợ cấp ốm yếu đấy, - . – Tôi bất lực về mặt xã hội.

      - Cho nên Chính phủ cho chỗ để sống rồi quên . Có bao giờ sợ hàng xóm kêu với thanh tra cảnh sát ? Lúc ấy có thể bị hót đến trại vui nhộn đấy.

      - Cậu có gì cho tôi ?

      Salander kéo khóa túi jacket và đưa cho năm nghìn curon.

      - Tôi để dành được có thế này. Đây là tiền của tôi và tôi thể loại như người ăn theo lệ thuộc.

      - Cậu muốn gì?

      - Vòng tay điện tử hai tháng trước. có chưa?

      mỉm cười và đặt cái hộp lên bàn.

      - Chỉ cho xem nó làm việc thế nào với nào.

      Trong vài phút sau chăm chú nghe. Rồi thử cái vòng. Dịch bệnh có thể bất tài về xã hội nhưng ta là thiên tài, điều này chẳng cần phải bàn cãi.

      Vanger chờ cho đến lúc ông lại được Blomkvist chú ý. Blomkvist nhìn đồng hồ và :

      - chi tiết gây hoang mang.

      - Tôi sinh ngày 1 tháng Mười . Khi Harriet lên tám, nó tặng tôi món quà sinh nhật, bông hoa ép, có khung.

      Vanger vòng quanh bàn làm việc và chỉ vào bông hoa đầu tiên. Hoa chuông lam. Khung nó làm theo kiểu nghiệp dư.

      - Đây là bông đầu tiên. Tôi nhận nó năm 1958. – Ông chỉ vào bông bên cạnh. – 1959. Hoa mao lương. 1960. Cúc. thành lệ. Chắc Harriet làm vào lúc nào đó nhân dịp hè rồi giữ lại cho tới sinh nhật tôi. Tôi luôn treo nó ở tường trong buồng này. Năm 1966 Harriet biến mất và cái lệ ấy còn nữa.

      Vanger chỉ vào chỗ trống trong dẫy khung. Blomkvist thấy tóc gáy dựng hết cả lên. Bức tường đầy hoa ép.

      - 1967, sau năm Harriet biến mất, tôi nhận bông hoa này nhân sinh nhật tôi. bông viôlét.

      - Hoa đến ông như thế nào?

      - Bọc trong cái mà họ gọi là giấy gói quà và phong bì hai lớp gửi từ Stokholm. có địa chỉ người gửi. thư.

      - Ông định … - Blomkvist hoa hoa tay như xua .

      - Chính xác. Hàng năm vào cái ngày sinh nhật chết tiệt của tôi. có biết tôi cảm thấy thé nào ? Nó đánh thẳng vào tôi, cứ hệt như tên giết người muốn hành hạ tôi vậy. Tôi buồn phiền đến nỗi ốm bởi ý nghĩ có phải Harriet bị hại vì ai đó muốn đụng đến tôi. còn là bí mật chuyện tôi và Harriet có quan hệ đặc biệt cũng như chuyện tôi coi nó như con tôi.

      - Vậy ông muốn tôi làm cái việc ấy? – Blomkvist .

      Khi Salander đưa chiếc Corolla về ga ra ở dưới tòa nhà An ninh Milton, tự nhắc hãy lên toa lét ở gác trong văn phòng. dùng thẻ khóa mở cửa, thang máy tuốt lên tầng ba để tránh vào qua cửa chính ở tầng hai, nơi có nhân viên trực ở đó. dùng toa lét rồi lấy cốc cà phê ở máy pha espresso mà Armansky mua khi về sau này ông nhận ra thấy Salander bao giờ pha cà phê đúng cách. Rồi vào buồng làm việc của mình, khoác chiếc jacket lên lưng ghế.

      Căn phòng bằng kính, chiều 2 mét rưỡi, chiều 3 mét. Có bàn làm việc và máy tính bàn Dell kiểu cổ, điện thoại, ghế văn phòng, sọt rác bằng kim loại và giá sách. Giá sách có bộ các thư mục và ba sổ tay khống. Hai ngăn kéo bàn để mấy cái bút bi, kẹp giấy và sổ tay. thành cửa sổ là chậu cây, lá nâu và khô quắt. Salander tư lự nhìn cái cây tựa như lần đầu tiên trông thấy nó rồi dứt khoát cho nó vào sọt rác.

      ít có việc dính đến buồng làm việc, cả năm thăm thú nó chừng năm sáu bận, chủ yếu khi ngồi mình chuẩn bị báo cáo ngay trước khi nộp nó. Armsnky nài phải có gian riêng. Ông lập luận rằng như thế cảm thấy là phần của công ty tuy làm việc như người tự do. nghi Armansky hy vọng bằng cách đó giám sát và xen được vào công việc của . Lúc đầu được giao cho chỗ xa hơn ở dưới hành lang, trong gian buồng lớn hơn mà người ta toan cho đồng nữa cùng chia sẻ. Nhưng vì bao giờ ở đó nên cuối cùng Armansky chuyển đến cái lỗ vuông vức này ở cuối hành lang.

      Salander lấy cái vòng đeo tay ra. nhìn nó, đăm chiêu cắn môi dưới.

      quá 11 giờ và mình tầng gác. chợt thấy bực dọc hết sức.

      Lúc sau, đứng dậy đến cuối gian sảnh rồi mở cửa buồng giấy của Armansky. Khóa. nhìn quanh. Mối nguy có ai quay trở lại hành lang vào quãng nửa đêm ngày 26 tháng Mười hai hầu như là tồn tai. mở cánh cửa bằng chiếc thẻ chìa khóa làm nhái theo thẻ của công ty, cách đây mấy năm trước chịu bỏ công ra làm việc này.

      Buồng giấy của Armansky rộng rãi: ở trước bàn làm việc của ông là cái ghế cho khách và bàn họp đủ chỗ cho tám người ở góc. Ngăn nắp thể chê được. thời gian lẻn vào buồng giấy của ông nhưng nay ở đây… dành thời gian bên bàn làm việc để cập nhật thông tin bằng cách xem công việc điều tra gián điệp nghi là mai phục trong công ty, trong các đồng của được cấy công khai vào xí nghiệp mà ở đó chuông báo động được cho hoạt động và các biện pháp nào được áp dụng hoàn toàn bí mật để bảo vệ thân chủ sợ đứa con của bà có nguy cơ bị ông bố bắt cóc. Cuối cùng để các giấy tờ y nguyên vào lại chỗ cũ, khóa cửa buồng giấy Armansky lại và bộ về nhà. cảm thấy thỏa mãn với ngày hôm nay.

      - Tôi biết chúng ta có tìm ra hay nhưng khi mà chưa thử việc ấy lần cuối cùng tôi từ chối đến ngôi mộ của tôi, - ông già . – Tôi chỉ đơn giản muốn giao cho việc rà kỹ lại hết các bằng chứng lần cuối.

      - Thế là điên, - Blomkvist .

      - Sao lại điên?

      - Tôi nghe đủ, Henrik, tôi hiểu nỗi đau buồn của ông nhưng tôi cần phải trung thực với ông. Việc ông nhờ tôi chỉ là lãng phí thời gian của tôi và tiền bạc của ông mà thôi. Ông bảo tôi dựng ra lời giải đáp cho bí mật mà cảnh sát và các nhà điều tra có kinh nghiệm cùng với các nguồn lực lớn hơn vô kể cũng phải chịu giải quyết được trong suốt những năm vừa qua. Ông bảo tôi giải quyết vụ án mạng sau khi nó xảy ra bốn chục năm. Tôi làm thế nào được việc đó cơ chứ?

      - Chúng ta còn chưa bàn đến tiền công của , - Vanger .

      - Việc đó cần thiết mà.

      - Tôi ép được nhưng hãy nghe điều tôi đưa ra. Frode thảo hợp đồng. Chúng ta có thể thảo luận các chi tiết nhưng bản hợp đồng này đơn giản, và tất cả những gì nó cần bây giờ là chữ ký của thế thôi.

      - Henrik, như thế là phi lý. Tôi tình tin rằng tôi lại tìm ra bí mật của việc Harriet biến mất.

      - Theo hợp đồng, cần phải làm chuyện đó. Tất cả những gì bản hợp đồng cầu làm hết sức . Nếu thất bại đó là ý Chúa, hay - nếu tin ở Người – đó là số phận.

      Blomkvist thở dài. ngày càng thấy thoải mái và muốn chấm hết cuộc thăm viếng này ở Hedeby, nhưng mủi lòng.

      - Được, chúng ta hãy nghe nó xem nào.

      - Tôi muốn sống và làm việc ở Hedeby đây năm. Tôi muốn đọc kỹ lưỡng từng trang của báo cáo điều tra về vụ Harriet mất tích. Tôi muốn xem xét mọi việc với con mắt mới. Tôi muốn với mọi kết luận cũ đều đặt câu hỏi đúng như cách mà phóng viên điều tra cần phải làm. Tôi muốn tìm ra cái gì đó mà tôi và cảnh sát cũng như các nhà điều tra khác để tuột mất.

      - Ông bảo tôi dẹp đời tôi, nghiệp của tôi sang bên để cống hiến suốt cả năm dòng bản thân tôi cho cái gì đó hoàn toàn chỉ là lãng phí thời gian.

      Vanger mỉm cười.

      - Về nghiệp của , chúng tôi có thể tán thành rằng trong lúc này nó có phần nào đó bị nắm giữ.

      Blomkvist biết trả lời thế nào câu này.

      - Tôi muốn mua năm của đời . Cho công việc. Lương cao hơn bất kỳ mức lương nào nhận được suốt từ trước tới nay. Tôi trả cho 2 triệu curon tháng – nếu bằng lòng và ở lại cả năm là 2 triệu tư curon.

      Blomkvist ngẩn ra.

      - Tôi ảo tưởng. Khả năng thành công là nhưng nếu ngược lại với những quái gở, phá vỡ bí mật tôi lại còn thưởng khoản tiền gấp đôi lương nữa có nghĩa là 4,8 triệu curon. Chúng ta hãy rộng rãi, thôi cứ cho nó tròn là 5 triệu nhỉ!

      Vanger ngả người lại đằng sau, gật gù.

      - muốn tài khoản ở ngân hàng nào, chúng tôi rót tiền vào đó, bất kỳ ở đâu thế giới. cũng có thể lấy ngay tiền mặt để ở trong vali, như vậy muốn khai báo thu nhập với thuế vụ hay đó là do quyết định.

      - Như thế… lành mạnh, - Blomkvist lắp bắp.

      - Tại sao thế? – Vanger bình thản . – Tôi tám mươi hai và vẫn còn nguyên vẹn mọi khả năng. Tôi có gia sản cá nhân lớn; tôi có thể chi tiêu nó như thế nào tùy tôi. Tôi có con và tuyệt đối có ham muốn để lại bất cứ đồng nào cho họ hàng mà tôi ghét bỏ. Tôi làm di chúc cùng ý nguyện cuối cùng của tôi; Tôi chuyển phần lớn tài sản của tôi cho Quỹ Động vật hoang dã Thế giới. ít người gần gũi với tôi nhận khoản tiền có ý nghĩa - kể cả Anna.

      Blomkvist lắc đầu.

      - Hãy cố hiểu tôi, - Vanger . – Tôi là người chẳng chóng chầy chết. Có điều ở thế giới này mà tôi muốn có – đó là câu trả lời cho cái câu hỏi nó từng dày vò hết nửa cuộc đời tôi. Tôi mong tìm câu trả lời nhưng tôi có nguồn lực để làm toan tính cuối cùng. Cái đó có hợp lý ? Tôi nợ Harriet cái đó. Và tôi nợ cả cái đó với chính bản thân tôi.

      - Ông trả cho tôi nhiều triệu curon để chả được gì cả. Tất cả những gì tôi cần là ký vào bản hợp đồng rồi đan chéo hai ngón tay cái lại trong năm trời.

      - làm thế. Trái lại – làm hăng hơn như chưa hề hăng như thế trong đời .

      - Sao ông có thể cả quyết thế?

      - Vì tôi có thể cho cái mà thể mua được bằng bất cứ giá nào mà lại muốn nó hơn bất cứ thứ gì thế giới này.

      - Nó là cái gì vậy?

      Mắt Vanger nheo lại.

      - Tôi có thể cho Hans-Erik Wennerstrom. Tôi có thể chứng minh tên lừa bịp. Ba mươi năm trước, tình cờ bắt đầu nghiệp cùng với tôi, và tôi có thể cho cái đầu để ở đĩa. Giải được bí mật là có thể xoay thất bại của ở tòa án ra thành câu chuyện của năm đấy.


      Stieg Larsson

      Có Hình Xăm Rồng

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 7

      Thứ sáu, ngày 3 tháng Giêng


      DDặt tách cà phê xuống bàn, Erika đến bên cửa sổ nhìn ra cảnh quan Gamla Stan. 9 giờ sáng. Trận mưa ngày Năm mới rửa sạch hết tuyết đường phố.

      - Em luôn cảnh này, - , - căn hộ như thế này làm cho em thôi muốn sống ở Saltsjobaden mất.

      - Em có chìa khóa đấy. Bất cứ khi nào em muốn, em đều có thể rời cái khu thượng lưu của em đến đây, - Blomkvist . đóng vali lại và đặt nó ở bên cửa ra vào.

      Berger quay lại nhìn , vẻ tin.

      - nghiêm chỉnh được, Blomkvist, - . – Chúng ta ở trong cơn khủng hoảng tồi tệ nhất khăn gói để lên sống tận Tjottahejti.

      - Ở Hedestad thôi. Hai giờ đồng hồ tàu. Và đâu phải là mãi mãi.

      - Đấy có lẽ cũng giống như Ulan Bator. thấy như thế nom như là kẹp đuôi vào hai cẳng mà lỉnh mất hay sao?

      - Đúng là như thế . Ngoài ra còn phải làm vài tháng tù nữa.

      Christer Malm ngồi sofa. thoải mái. Đây là lần đầu tiên từ ngày họ lập ra Millennium thấy Berger và Blomkvist bất đồng như thế này. Những năm tháng qua, họ từng rời nổi nhau. Đôi khi cũng có xung đột dữ dội nhưng cãi cọ luôn luôn là về chuyện làm ăn và họ y xì lại giải quyết mọi chuyện trước khi ôm lấy nhau rồi đâu lại về góc đấy. Hay là về giường. Mùa thu vừa rồi vui nhộn là thế mà bây giờ giữa hai người cứ như vừa mới mở ra cái vịnh vậy. Malm nghĩ liệu nhìn thấy Millennium bắt đầu kết thúc đấy .

      - chỉ còn có cách ấy, - Blomkvist . – Chúng ta chỉ còn cách ấy.

      rót cho mình tách cà phê rồi ngồi ở bàn bếp. Berger lắc đầu và đến ngồi xuống trước mặt .

      - Christer, nghĩ sao? – .

      Christer chờ câu hỏi này và sợ cái lúc phải có lập trường. là đối tác thứ ba nhưng họ đều hiểu Millennium là Berger và Blomkvist. Lần duy nhất họ hỏi ý là khi họ nhất trí.

      - thà mà , - Malm , - hai người đều biết tôi nghĩ thế nào là quan trọng.

      im ngay. vẽ tranh. thích làm đồ hoạ. bao giờ coi mình là nghệ sĩ nhưng biết tay thiết kế ra trò. Nhưng lại kém cỏi trong mưu lược và quyết định chính sách.

      Berger và Blomkvist nhìn nhau qua bàn. lạnh lùng và hung dữ. nghĩ lung.

      Đây phải là cãi nhau mà là cuộc li hôn, Malm nghĩ.

      - Thôi được, để tôi trình bày trường hợp của tôi lần cuối cùng- Blomkvist . Thế này có nghĩa là tôi bỏ Millennium. Chúng ta dành quá nhiều thời gian và làm hết tâm huyết để cho nó ra đời rồi.

      - Nhưng nay ở cái tạp chí này nữa, Christer và tôi phải thồ cái gánh nặng này. thấy được điều ấy sao? là người tự dấn mình vào chỗ bắt mình lưu đày.

      - Đây là việc thứ hai. Tôi cần quãng nghỉ, Erika. Tôi chả còn vị trí nào ở đây. Tôi cạn sạch năng lượng rồi. Có lẽ đợt nghỉ và ăn lương ở Hedestad là cái tôi cần.

      - Toàn bộ câu chuyện này là ngu xuẩn, Mikael. Chả khác gì nhận việc ở rạp xiếc.

      - Tôi biết. Nhưng nhờ ngồi ở ghế hậu trong năm và phí phạm thời gian ấy mà tôi sắp được hai triệu tư đấy. Đó là việc thứ ba. Hiệp với Wennerstrom kết thúc và đo ván tôi. Hiệp hai bắt đầu - cố cho Millennium đắm tàu vĩnh viễn vì biết chừng nào mà tờ báo còn tồn tại ban biên tập đây còn biết làm những trò gì.

      - Tôi biết làm gì chứ. Tôi thấy cái đó ở trong doanh số quảng cáo hàng tháng trong sáu tháng vừa qua.

      - Đúng là vì thế mà tôi cần khỏi đây. Tôi như mảnh vải đỏ phất ở trước mặt . Chừng nào dính đến tôi còn cứ đến. Bây giờ chúng ta cần chuẩn bị cho hiệp ba. Để có cơ may nhất chống lại Wennerstrom, chúng ta cần lui quân và đưa ra chiến lược mới hoàn toàn. Chúng ta phải tìm ra cái gì đó bắt lao đao khốn đốn. Đó là việc tôi làm trong năm nay.

      - Tôi biết tất cả những cái đó, - Berger . - Vậy hãy cứ tới và nghỉ chuyến. Ra nước ngoài, nằm cả tháng ở bãi biển. Tìm hiểu đời sống đương ở Costa Brava ấy. Thư giãn. Ra Sandhamn mà nhìn sóng.

      - Và khi tôi quay về chả có gì khác cả. Wennerstrom nghiền nát Millennium trừ khi nguôi cơn do tôi bị hạ đài. Hai người biết như thế mà. Mặt khác việc duy nhất có thể chặn lại là chúng ta vớ được cái gì đó về .

      - Và nghĩ tìm thấy cái đó ở Hedstad?

      - Tôi soát lại những bài báo cắt dán, Wennerstrom làm việc ở công ty Vanger từ 1969 đến 1972. làm quản lý và chịu trách nhiệm về các đầu tư chiến lược. bỏ gấp. Tại sao chúng ta loại bỏ khả năng Vanger làm điều gì đó với ?

      - Nhưng nếu điều làm xảy ra từ ba chục năm trước nay chứng minh cái đó là gay đấy.

      - Vanger hứa là trình bày đến chi tiết cái điều mà ông ta biết. Ông ta bị ám ảnh chuyện đứa cháu mất tích – có vẻ đó là chuyện ông ta quan tâm nhất và nếu như thế có nghĩa là ông ta phải cho Wennerstrom tong tôi nghĩ có cơ may là ông ta làm việc đó. Chắc chắn chúng ta thể lờ cơ hội này – ông ta là người đầu tiên muốn tiếp tục ghi bằng chứng chống lại Wennerstrom.

      - Chúng ta thể dùng cái đó ngay cả khi quay về với bằng chứng mười mươi là Wennerstrom bóp cổ bé. Sau quá nhiều năm tháng, chuyện đó là được. tàn diệt chúng ta ở tòa án mất.

      - Tôi mới thoáng nghĩ ra thế này nhưng hay; khi bé mất tích “gạo” ở trường kinh tế Stockholm, có quan hệ với công ty Vanger, - Blomlvist ngừng lại, - Erika, bỏ Millennium, nhưng quan trọng cho nó nếu như em coi việc bỏ nó là cần. Em và Christer cần tiếp tục cai quản tờ tạp chí. Nếu em có thể... nếu em có cơ hội... dàn xếp cuộc ngừng chiến với Wennerstrom em hãy cứ làm . Nếu vẫn còn ở trong ban biên tập tạp chí em thể làm được việc đó.

      - OK, nhưng tình huống này nhố nhăng và em nghĩ đến Hedestad là bám vào cọng rơm đấy.

      - Em có ý nào hay hơn ?

      Berger nhún vai.

      - Chúng ta cần săn các nguồn tin ngay từ bây giờ. Dựng câu chuyện lên từ đầu. Và lần này làm tắp lự.

      - Erika – câu chuyện ấy chết hẳn rồi mà.

      Ngán ngẩm, Erika gục đầu xuống hai bàn tay. Khi lên tiếng, thoạt đầu còn tránh nhìn vào mắt Blomkvist.

      - Em giận . phải vì bài báo viết có cơ sở - em cũng có phần ở trong đó nhiều như thôi. Và cũng phải bỏ công việc chủ bút của – trong tình thế này đó là quyết định đúng. Em có thể theo cùng, làm cho nó nom có vẻ như là giữa và em có chia rẽ hay tranh giành quyền lực vậy – em càng phải hiểu cách lô gíc rằng chuyện này cốt làm cho Wennerstrom tin rằng em là ả khoe mẽ vô tích , còn là mối đe doạ thực thụ, - ngừng lại và cả quyết nhìn vào mắt . – Nhưng em nghĩ phạm sai lầm. Wennerstrom đổ vì chuyện đó đâu. vẫn tiếp tục phá Millennium. Chỗ khác duy nhất là từ hôm nay trở em đơn độc tay bo với biết là ban biên tập cần đến hơn bao giờ hết. OK, em khai chiến chống lại Wennerstrom nhưng điều làm em nổi điên lên chính là việc đột nhiên rời bỏ đồng đội. bỏ em giữa cơn nghiêng ngửa khi mọi tồi tệ nhất.

      Blomkvist vươn tay sang vỗ vỗ tóc .

      - Em đơn độc. Em có Christer và em trong ban biên tập.

      - Nhưng Janne Dahlman . Nhân đây em nghĩ sai khi mướn ta. ta có tài nhưng ta gây khó khăn hơn là làm lợi. Suốt mùa thu ta lượn quanh khoái trá nhìn vào các rắc rối của . Em biết có phải ta hy vọng nhận lấy vai trò của hay chỉ là trò cá nhân kị nhau giữa ta và cũng như chị em còn lại của ban biên tập.

      - e là em đúng, - Blomkvist .

      - Vậy em nên thế nào? Tống ta ?

      - Erika, em là Tổng biên tập và là cổ đông chính của Millennium mà. Cần em cứ tống ta .

      - Chúng ta chưa sa thải ai, Mikael. Bây giờ cũng lại chụp cái quyết định ấy lên em. Sáng đến tòa soạn còn có gì vui.

      Lúc ấy Malm đứng lên làm cho hai người ngạc nhiên.

      - Nếu bắt chuyến tàu ấy chúng ta phải thôi, - Berger bắt đầu phản đối nhưng giơ tay lên. – Khoan, Erika, hỏi tôi nghĩ thế nào. Được, tôi nghĩ đến nước này là tồi tệ lắm rồi. Nhưng tình mà như cách Blomkvist - rằng cậu ấy suýt vập tường – đúng ấy cần phải bỏ vì an toàn của cậu ấy . Chúng ta nợ cậu ấy nhiều.

      Họ sửng sốt nhìn Malm còn ngượng nghịu nhìn Blomkvist.

      - Cả hai người đều biết Millennium là của hai người. Tớ là đối tác và các cậu luôn tử tế với tớ, mà tớ tạp chí này, các cậu có thể dễ dàng thay tớ bằng giám đốc mỹ thuật nào đó khác. Các cậu hỏi ý kiến tớ đây Erika, ý kiến của tớ đây. Liên quan đến Dahlman như nay tớ tán thành với các cậu. Còn nếu cậu, Erika, muốn sa thải ta tớ làm hộ cho cậu. Chừng nào chúng ta có lý do có thể tin được. ràng là Mikael bỏ ngay vào lúc này là cực kỳ may nhưng tớ nghĩ chúng ta chả còn lựa chọn nào khác. Mikael, tớ lái xe cho cậu ra ga. Erika và tớ cố thủ pháo đài cho đến khi cậu trở lại.

      - Điều mà tôi sợ là Mikael chẳng trở về. – Berger bình thản .

      Armansky đánh thức Salander khi ông gọi vào khoảng 1 giờ 30 phút chiều.

      - Chuyện gì vậy ông? – , còn ngái ngủ. Miệng như có vị hắc ín.

      - Mikael Blomkvist. Tôi vừa chuyện với thân chủ của chúng ta, luật sư Frode.

      - Vậy ư?

      - Ông ta gọi để là chúng ta có thể cho buông việc điều tra Wennerstrom.

      - Buông? Nhưng chúng ta vừa mới bắt tay làm.

      - Frode còn thích thú nữa.

      - à?

      - Ông ta là người quyết định mà.

      - Chúng ta thỏa thuận về tiền công.

      - bỏ vào đó bao nhiêu thời gian?

      Salander nghĩ.

      - Tròn ba ngày.

      - Chúng ta thỏa thuận giá trần là bốn chục nghìn curon. Tôi viết hóa đơn mười nghìn; được nửa, công ba ngày bỏ ra mà như thế là có thể nhận được. Ông ta phải trả vì ông ta là người khởi xướng lên tất cả câu chuyện.

      - Những cái tôi thu nhặt được nên thế nào đây?

      - Có cái gì quan trọng ?

      - .

      - Frode đòi có báo cáo. Cứ cất vào giá sách, phòng trường hợp ông ta quay lại. có thể xé vụn nó . Tuần sau tôi có việc mới cho .

      Armansky đặt máy, Salander còn ngồi lúc, điện thoại trong tay. đến góc làm việc ở phòng khách, nhìn lên những ghi chú ghim lên tường và các tờ báo vất đống lên bàn làm việc. Phần lớn những cái thu lượm được là các cắt dán báo chí và bài báo tải từ Internet xuống. cầm các tờ báo lên ném chúng vào trong ngăn kéo bàn. cau mày. Ứng xử lạ lùng của Blomkvist ở tòa cho ra thách đố thú vị còn Salender thích bỏ công việc mà bắt đầu. Người ta ai cũng có bí mật. Chỉ là vấn đề để tìm xem chúng là gì mà thôi.


      Stieg Larsson

      Có Hình Xăm Rồng

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      HẬU QUẢ


      3 THÁNG GIÊNG - 17 THÁNG BA

      PHẦN 2


      Chương 8

      Thứ sáu, 3 tháng Giêng


      Chủ nhật, 5 tháng Giêng


      K

      Bốn mươi sáu phần trăm phụ nữ ở Thuỵ Điển

      từng bị đàn ông bạo hành

      hi Blomkvist từ tàu đặt chân xuống Hedestad lần thứ hai, trời có màu xanh lơ của phấn màu và khí băng giá. Nhiệt kế tường nhà ga chỉ 0 độ F. Đôi giầy hợp với thời tiết này. giống như lần trước, ông Frode đón với chiếc xe ấm áp. Blomkvist chỉ bảo họ ngày đến mà báo chuyến tàu nào. ngỡ có xe buýt Hedeby nhưng thích vật lộn với hai chiếc va li nặng trịch và cái ba lô nên băng qua quảng trường đến chỗ taxi đỗ.

      Giữa Noel và dịp Năm Mới, tuyết rơi đầy suốt dọc bờ biển Norrland, nhìn những luống tuyết, đống tuyết bị xe xúc ủi có thể thấy các đội cầu đường ở Hedestad được huy động hết công suất. Người lái taxi, theo thẻ căn cước cài cửa xe, tên là Hussein, gật đầu khi Blomkvist hỏi có phải họ gặp phải thời tiết khắc nghiệt . Giọng sặc Norrland, ta bảo rằng đây là trận bão tuyết tệ hại nhất trong nhiều chục năm qua, rồi ta tiếc là Hy Lạp trong kỳ nghỉ Noel.

      Blomkvist chỉ lối cho tài đến cái sân vườn mới xới của nhà Henrik Vangger, nhấc va li đặt lên lớp sỏi, nhìn theo chiếc taxi cho tới khi nó quay đầu về phía Hedestad. Chợt thấy đơn và thấp thỏm.

      nghe thấy tiếng cửa mở ở đằng sau . Vanger quấn kín trong chiếc khăn quàng lông dầy cộp, ủng to đùng và mũ mỏ vịt che tai. Blomkvist quần jean và áo jacket da mỏng.

      -Nếu vào thời kỳ này trong năm mà định sống ở đây phải biết ăn mặc cho ấm hơn. -Họ bắt tay nhau - Chắc chắn là thích ở toà nhà này chứ? Phải ? Trước hết hãy để cho sắp xếp chỗ sinh hoạt tạm thời của cho .

      trong những điều kiện trong thương lượng của với Vanger và Dirch Frode là có khu sinh hoạt riêng và về về tuỳ ý. Vanger dắt Blomkvist quay lại dọc con đường đến cây cầu rồi rẽ để mở cái cổng vào sân vườn khác mới được cuốc xới ở đằng trước căn nhà gỗ gần với đầu cuối của cây cầu. Căn nhà khoá. Họ bước vào hành lang đơn sơ và Blomkvist thở dài nhõm đặt hai va li xuống.

      -Chúng tôi gọi đây là nhà khách. Chúng tôi thường vẫn để dành cho những người lưu lại trong thời gian dài ở đây. Đây là nơi bố mẹ sống hồi 1963. Nó là trong những ngôi nhà lâu đờì nhất trong làng này nhưng được đại hoá. Tôi nhờ Nilsson, người quản gia đốt lò sáng nay.

      Căn nhà gồm có bếp lớn và hai phòng hơn, tổng cộng chừng trăm bảy chục mét vuông. Gian bếp chiếm nửa gian và khá đại, với lò điện và tủ lạnh . Dựa vào tường, đối lại với cửa ra vào là lò gang cổ được đốt lửa từ sáng sớm hôm nay.

      - cần đốt củi trong lò trừ khi nào quá rét. Kho củi ở trong hành lang còn lán để củi có thể tìm thấy ở sau nhà. Căn nhà được sửa mùa thu này. Các lò điện thông thường đều đủ chạy. Hãy cẩn thận đừng treo bất cứ quần áo nào lò ấy, kẻo có thể bốc cháy.

      Blomkvist nhìn quanh. Các cửa sổ quay ra ba hướng khác nhau, từ bàn bếp có thể nhìn thấy cây cầu, cách xa chừng bảy tám chục mét. Đồ đạc trong bếp, gồm ba tủ li, vài chiếc ghế, ghế dài cũ và giá để báo. cùng là tờ See từ 1967. Ở góc là chiếc bàn có thể dùng làm bàn giấy.

      Hai cửa hẹp dẫn đến hai buồng hơn. ở bên phải, gần với bức tường ở bên ngoài nhất, hơn chốn náu núp mấy tí với bàn giấy, ghế tựa và vài cái giá dọc tường. Buồng kia, ở giữa hành lang và phòng làm việc phòng ngủ bé với chiếc giường đôi hẹp, có cái bàn kê ở đầu giường và tủ quần áo. Các bức tranh phong cảnh treo ở tường. Đồ đạc và giấy dán tường đều cũ và phai màu, nhưng gian phòng chung thơm, sạch. Ai đó cọ rửa sàn nhà bằng xà phòng. Buồng ngủ lại có cửa khác ra hành lang, ở đấy nhà kho được chuyển thành buồng tắm có vòi hoa sen.

      - có thể bị rắc rối về nước nôi, - Vanger , - Chúng tôi kiểm tra nước sáng nay nhưng các ống dẫn đều chôn quá sâu nên nếu trời còn rét nước có thể bị đóng băng. Trong hành lang có cái xô để nếu cần có thể lấy nước ở chỗ chúng tôi.

      -Tôi cần cái điện thoại. - Blomkvist .

      -Tôi đặt mua cái. Ngày kia họ đến lắp. Nào, nghĩ sao? Nếu đổi ý được hoan nghênh ở toà nhà chính bất cứ lúc nào.

      -Thế rất là hay, - Blomkvist .

      -Tuyệt vời. Trời còn sáng khoảng tiếng nữa. Chúng ta có bộ lát để có thể làm quen với ngôi làng ? Tôi có thể gợi ý bít tất dầy và bốt ? có thể thấy chúng ở cửa ra vào. - Blomkvist theo lời gợi ý và quyết định ngày mai mua quần áo lót dài và đôi giầy mùa đông tử tế.

      Ông già mở đầu cuộc bằng giới thiệu rằng hàng xóm bên kia đường của Blomkvist là Gunnar Nilsson, người giúp việc mà Vanger gọi là "quản gia". Nhưng Blomkvist sớm nhận ra chỉ thế, ông ta còn là người quản lý đối với tất cả các toà nhà ở đảo Hedeby và ông ta cũng chịu trách nhiệm đối với nhiều toà nhà ở Hedestad.

      -Bố ông ta là Magnus Nilsson, những năm 60 ông ấy là quản gia cho tôi, trong những người từng giúp giải quyết tai nạn cầu. Magnus về hưu và đến sống ở đây. Gunnar sống với vợ tên là Helena. Các con của họ khỏi đây cả.

      Vanger ngừng lại lát để sắp xếp các điều ông sắp :

      -Mikael, tôi giải thích chính thức việc có mặt ở đây là để giúp tôi viết tự truyện. Như thế cho có cớ dò quanh vào trong những góc tối tăm và đặt các câu hỏi. Còn cái việc đích thực mà tôi nhờ giữ ngặt ở giữa , tôi và Dirch Frode.

      -Tôi hiểu. Và tôi nhắc lại điều tôi trước đây: tôi nghĩ là tìm ra được bí mật này.

      -Chỉ cần cố hết sức. Nhưng chúng ta cần cẩn thận khi trước bất kỳ ai. Gunnar sáu mươi sáu, nghĩa là khi Harriet mất tích ông ta mười chín. Có câu hỏi mà tôi trả lời được bao giờ - Harriet và Gunnar là bạn tốt và tôi nghĩ có đôi chút lãng mạn gì đó giữa hai người. Gì ta cũng để mắt đến con bé. Nhưng cái ngày con bé mất tích, ta ở Hedestad; ta là trong những người mắc kẹt bên đất liền. Vì quan hệ của hai người, ta bị theo dõi ngặt. Khá là thú vị chút nào cho ta. Cả ngày ta ở với mấy người bạn và chỉ tối đến ta mới quay về đây. Cảnh sát kiểm tra và xác định ta có bằng chứng ngoại phạm.

      -Tôi cho là ông có danh sách của mọi người đảo và những việc họ làm hôm ấy.

      -Đúng. Chúng ta tiếp tục chứ?

      Họ dừng ở ngã tư đồi và Vanger chỉ xuống bến cá cũ nay là bến tàu.

      -Tất cả đất đai đảo Hedeby là gia đình Vanger sở hữu - hay để cho chính xác hơn tôi quản lý. Trừ đất trang trại ở Ostergarden và ít nhà ở trong làng đây. Các ngôi lều ở dưới bến cá kia là sở hữu tư nhân nhưng là những nhà nghỉ mùa hè, vào mùa đông phần lớn chúng trống . Trừ cái nhà xa nhất ở đằng kia - có thể thấy khói bay từ ống khói ra.

      Blomkvist trông thấy khói bốc lên. lạnh buốt thấu xương.

      -Đó là nơi tồi tàn, gió lùa thảm hại quanh năm. Eugen Norman sống ở đó. Ông ta gần tám chục và là hoạ sĩ vẽ đủ thứ. Tôi nghĩ tác phẩm của ông ta là những trò hào nhoáng nhưng ông ta cũng được tiếng là hoạ sĩ phong cảnh. có thể gọi ông ta là dị nhân bất đắc dĩ ở trong làng.

      Vanger dắt Blomkvist đến tận nơi, nhận dạng lần lượt từng ngôi nhà. Ngôi làng có sáu toà nhà to ở về phía tây của con đường và bốn nhà ở phía đông. Nhà đầu tiên, gần hơn cả với nhà khách của Blomkvist và cơ ngơi của Vanger, thuộc về Harald, của Henrik Vanger. Nó hình chữ nhật, hai tầng bằng đá, thoạt nhìn thấy ngay là có người ở. Rèm rủ, con đường đến cửa chính được quét dọn; tuyết phủ dầy đến mười lăm, hai mươi centimét. Nhìn kỹ thêm họ có thể thấy các vết chân của ai đó sục vào tuyết từ ngoài đường lên đến cửa.

      -Harald là người ở . Hai em tôi bao giờ nhìn vào mắt nhau. Ngoài các bất đồng về làm ăn kể - Harald là cổ đông - trong gần 60 năm qua chúng tôi ít khi chuyện với nhau. Năm nay ông tôi chín hai, người duy nhất còn sống trong bốn ông của tôi. Tôi với các chi tiết sau nhưng ấy được học để làm bác sĩ, phần lớn thời gian tôi làm việc ở Uppsala. Từ bảy mươi tuổi ấy quay về Hedeby.

      -Là hàng xóm của nhau mà các ông quan tâm đến nhau.

      -Tôi thấy ấy đáng ghét, thà ấy ở Uppsala lại hay nhưng ấy sở hữu ngôi nhà này. Tôi nghe có giống người mang tâm địa độc ác ?

      - Ông nghe như của mình lắm.

      - Tôi bỏ hai mươi lăm năm đầu của đời tôi để xin lỗi cho những người như Harald vì chúng tôi cùng chung gia đình. Rồi tôi phát thấy dính dấp họ hàng phải là bảo đảm của tình và tôi có ít lý do để bảo vệ Harald.

      Ngôi nhà kế theo của Isabella, mẹ của Harriet Vanger.

      - Năm nay Isabella bảy lăm nhưng vẫn điệu đàng và vô dụng như muôn thuở là vậy. Isabella cũng là người duy nhất trong làng này trò chuyện với Harald và thỉnh thoảng thăm ông tôi nhưng họ chả giống nhau gì mấy.

      - Quan hệ của bà ấy với Harriet ra sao?

      -Câu hỏi hay đấy. Phụ nữ là cần đưa vào đám nghi can. Tôi bảo là Isabella vất con cái cho chúng tự xoay xở lấy rồi mà. Tôi dám chắc nhưng tôi nghĩ lòng dạ bà ấy cũng tử tế, có điều là Isabella thể gánh trách nhiệm. Hai mẹ con bao giờ thân nhau nhưng cũng phải là kẻ thù của nhau. Isabella có thể rắn nhưng đôi khi bà ấy ở đấy hẳn. hiểu ý tôi khi gặp Isabella.

      Hàng xóm của Isabella là Cecilia Vanger, con của Harald.

      -Cecilia này từng kết hôn và sống ở Hedestad nhưng hai chục năm trước hai vợ chồng li thân. Có ngôi nhà, tôi để cho cháu dọn đến. Nó là giáo, thẳng thừng đối chọi lại bố nó ở nhiều mặt. Hai bố con nhà này chỉ với nhau khi cần thiết.

      -Chị ấy bao nhiêu tuổi?

      -Sinh năm 1946. Vậy là hai mươi khi Harriet mất tích. Ừ đúng, con bé là trong những khách khứa đảo ngày hôm ấy. Nom có vẻ lơ ma lơ mơ nhưng Cecilia là tinh khôn hơn phần lớn. Chớ đánh giá thấp nó. Nếu có ai lùng ra được đến đây để làm gì nó là trong số họ đấy. Tôi cần thêm là trong họ hàng, tôi trọng nó nhất.

      -Như thế có nghĩa là ông nghi chị ấy?

      -Tôi thế. Tôi muốn suy nghĩ vấn đề mà bị cưỡng ép nào, bất chấp tôi nghĩ hay tôi tin ra sao.

      Ngôi nhà gần với Cecilia nhất cũng là Henrik Vanger sở hữu nhưng đôi vợ chồng già trước đây có chân trong kíp điều hành các công ty Vanger thuê ở. Họ chuyển đến đảo Hedeby vào những năm 80 nên liên quan đến việc Harriet mất tích. Nhà tiếp theo nữa là thuộc sở hữu của Birger Vanger, trai Cecilia. Ngôi nhà để nhiều năm từ ngày Birger dọn đến ngôi nhà đại ở Hedestad.

      Phần lớn các ngôi nhà dọc đường là những cấu trúc bằng đá vững chắc làm từ đầu thế kỷ hai mươi. Ngôi nhà cuối cùng là kiểu khác, ngôi nhà đại do kiến trúc sư thiết kế, gạch trắng với các khung cửa sổ màu đen. Nó ở địa thế hẹp, từ tầng thượng, Blomkvist có thể thấy nó nhìn ra với biển ở phía đông và Hedestad ở phía tây, cảnh quan tuyệt vời.

      -Martin - của Harriet và CEO của tập đoàn Vanger - sống ở đây. Đây từng là nhà của mục sư, nhưng những năm 70 có trận hoả hoạn, nên nó bị phá huỷ, năm 1978, khi làm CEO của công ty, Martin xây ngôi nhà này.

      Gerda Vanger, vợ goá của Greger, của Henrik, và con trai Alexander sống ở ngôi nhà cuối cùng về phía đông của con đường.

      -Gerda hay đau ốm. Chị ấy bị thấp khớp. Alexander sở hữu phần của Tập đoàn Vanger nhưng nó trông nom số doanh nghiệp của riêng nó gồm có các nhà ăn. Alexander thường mỗi năm lại đến Barbados ở vài ba tháng, nó đầu tư khoản tiền lớn vào du lịch.

      Ở giữa nhà của Gerda và Henrik là tràn đất với hai toà nhà hơn, để . Chúng thường được dùng làm nhà khách cho mọi người trong gia đình. Ở phía bên kia của nhà Henrik là cơ ngơi tư nhân, nhân viên làm thuê về hưu khác sống với vợ ở đó, nhưng vào mùa đông khi hai vợ chồng này tới Tây Ban Nha, nó để .

      Hai người quay về ngã tư và đến đây chấm hết chuyến dạo. Hoàng hôn bắt đầu buông. Blomkvist chủ động .

      - Henrik, tôi làm cái việc mà tôi được mướn để làm. Tôi viết tự truyện của ông và tôi làm cho ông vui bằng việc đọc cẩn thận, đọc có phê phán tất cả các tài liệu về Harriet. Tôi chỉ mong ông hiểu cho rằng tôi phải là thám tử tư.

      - Tôi chả mong đợi gì.

      - Tốt.

      - Tôi là con cú đêm. - Vanger . - Sau bữa trưa tôi sẵn sàng "phục vụ" . Tôi thu xếp cho văn phòng ở bên kia để cho có thể sử dụng nó bất cứ lúc nào mà thích.

      - , cảm ơn. Tôi có chỗ làm việc ở nhà khách rồi, tôi làm công việc của tôi ở đấy.

      - Tuỳ vậy.

      - Nếu tôi cần chuyện trò với ông chúng ta làm việc đó ở văn phòng của ông nhưng đêm nay tôi chưa quăng các câu hỏi vào ông vội đâu.

      - Tôi hiểu. - Ông già nom hình như có vẻ e dè.

      - Đọc cho hết giấy tờ cũng phải mất hai tuần. Chúng ta làm việc hai mặt trận. Hàng ngày chúng ta gặp nhau ít giờ để tôi có thể hỏi ông và thu thập tư liệu để viết tự truyện của ông. Khi tôi bắt đầu có các câu hỏi về Harriet mà tôi cần thảo luận với ông, tôi xin báo ông biết.

      - Nghe lọt đấy.

      - Tôi cần rảnh tay để làm việc và tôi đặt ra lịch liếc gì cả.

      - Việc nên thế nào là tự quyết định.

      - Tôi cho là ông biết tôi phải ngồi tù hai ba tháng. Tôi biết chính xác là khi nào nhưng chắc chắn tôi kháng án. Chắc lúc nào đó trong năm nay thôi.

      Vanger nhăn mặt.

      - may. Khi nào chuyện này đến, chúng ta phải giải quyết. có thể xin hoãn hạn cơ mà.

      -Nếu được phép và tôi có đủ tư liệu, tôi viết quyển sách của ông ở trong tù. điều nữa: tôi vẫn là chủ đồng sở hữu của tờ Millennium và nó là tạp chí gặp hạn. Nếu có chuyện gì đó xảy ra mà cần tôi ở Stockholm, tôi phải vất cái việc tôi làm để đến đó.

      - Tôi muốn làm cu ly. Tôi muốn làm chu đáo cái nhiệm vụ tôi giao cho nhưng dĩ nhiên có thể lập ra kế hoạch của và làm việc như thấy là thích hợp. Nếu cần nghỉ thời gian, cứ tự do nghỉ nhưng nếu tôi phát làm việc tôi coi đó là phá vỡ hợp đồng.

      Vanger nhìn sang bên kia cây cầu. Trông ông gầy còm và Blomkvist nghĩ lúc này ông giống như con bù nhìn u hoài.

      - Còn liên quan đến Millennium chúng ta nên bàn xem cái khó khăn mà nó trải qua kia là thuộc loại gì và liệu tôi có thể giúp được như thế nào đó .

      - Cái ông giúp tôi tốt nhất là cho tôi cái đầu của Wennerstrom để sẵn ở đĩa ngay vào lúc này và ngay ở đây.

      - Ồ , tôi nghĩ làm chuyện đó bây giờ. - Ông già nghiêm nghị nhìn Blomkvist - Lý do duy nhất để nhận việc này là vì tôi hứa "xì" Wennerstrom ra. Nếu tôi cho thông tin bây giờ có thể ngừng việc bất cứ lúc nào thích. Tôi cho thông tin này sau năm.

      - Henrik, tôi xin lỗi như thế nhưng tôi chắc năm nữa ông vẫn còn sống.

      Vanger thở dài, tư lự nhìn sang đằng cảng cá.

      - Thôi được. Tôi với Frode để xem chúng tôi có thể xoay ra được cái gì . Nhưng hễ còn liên quan đến Millennium, tôi đều có thể giúp bằng cách nào đấy. Như tôi hiểu các khách hàng đăng quảng cáo rút dần.

      - Đây là vấn đề tức thời nhưng cuộc khủng hoảng diễn ra còn sâu sắc hơn thế nữa. Nó là vấn đề uy tín. Chúng tôi có bao nhiêu đối tác đăng quảng cáo, với chúng tôi cái ấy quan trọng bằng có ai mua tạp chí.

      -Tôi hiểu điều đó. Tôi còn ở trong ban giám đốc của tập đoàn khá lớn, tuy vai trò có bị động. Chúng tôi cần đăng quảng cáo ở đâu đó. Để chúng tôi bàn vấn đề này ở cấp nào đó xem. có muốn ăn tối...

      - , tôi muốn sắp xếp ổn định, mua ít đồ lặt vặt và ngó quanh. Ngày mai tôi Hedestad mua quần áo rét.

      - Ý hay đấy.

      - Tôi muốn các hồ sơ về Harriet được chuyển đến chỗ tôi.

      - Chúng cần phải được giữ...

      - Hết sức cẩn thận, tôi hiểu.

      Blomkvist quay về nhà khách. Lúc vào nhà, răng va lập cập. Nhiệt kế bên ngoài cửa sổ chỉ 5 độ F, sau cuộc bộ kéo dài chỉ có ba mươi phút vừa rồi, thể nhớ ra là từng có phen nào bị lạnh như thế này.

      bỏ giờ thu xếp cho mình ở trong cái mà năm tới đây là ngôi nhà của . xếp quần áo vào tủ quần áo ở trong buồng ngủ rồi đến buồng tắm. Chiếc va li thứ hai của cái hòm có bánh xe. lấy ở đó ra nào là sách, đĩa CD, máy nghe nhạc, sổ tay, máy ghi Sanyo, máy quét hình Microtek, máy in phun mực, máy ảnh số Minolta và số thứ khác coi là đồ lề cần thiết cho năm "lưu vong".

      đặt sách và đĩa CD lên giá ở trong phòng làm việc cùng với hai cặp bìa đựng tài liệu nghiên cứu về Hans-Erik Wennerstrom. Tài liệu này vô dụng nhưng thể buông nó. Muốn thế nào nghiệp còn tiếp tục của , cũng phải cho hai tập hồ sơ ấy quay vào các toà cao ốc.

      Cuối cùng mở cái ba lô ra, lấy iBook để lên bàn làm việc. Rồi dừng lại bối rối nhìn quanh. Những cái lợi của việc sống ở đồng quê đây. có chỗ cắm cáp băng thông rộng. có cả giắc điện thoại để nối mạng qua modem dial-up cũ.

      Blomkvist gọi công ty điện thoại Telia bằng điện thoại di động. Sau ít tiếng lọc sọc ọ ẹ gọi được ai đó để tìm lệnh mua sắm đồ đạc mà Vanger đặt cho nhà khách. muốn biết là kết nối được băng thông rộng ADSL chưa, người ta bảo có thể kết nối bằng rơ le ở Hedeby và như vậy mất vài ba ngày.

      Lúc Blomkvist xong mọi thứ 4 giờ. xỏ chân vào đôi tất dầy, đôi bốt mượn và chui đầu vào cái áo ấm ngoại cỡ. đứng sững lại ở cửa ra vào: có chìa khoá của nhà này, và cái thói quen của người thành thị ở , bèn nổi loạn với cái ý cứ để cửa khoá. lại vào trong bếp mở các ngăn kéo. Cuối cùng tìm được chiếc chìa treo ở cái đinh trong tủ bát đĩa.

      Nhiệt độ tụt xuống 1 độ F. rảo chân qua cầu và lên đồi qua trước nhà thờ. Cửa hàng Khôngnsum ở chỗ tiện đường cách đó khoảng hơn hai mươi mét. nhét đầy căng hai túi giấy các thứ cần dùng rồi mang về nhà trước khi quay lại qua cầu lần nữa. Lần này dừng lại ở quán Cà phê & bánh đầu cầu Susanne. Người phụ nữ đứng sau quầy chừng năm chục tuổi. hỏi có phải chị ta là Susanne rồi tự giới thiệu, chắc chắn mình là khách hàng đều đặn. Lúc này là khách hàng duy nhất, Susanne đem cho cà phê khi gọi bánh kẹp thịt và mua ổ bánh mì. lấy tờ Hedestad Courier ở giá báo, ngồi xuống bàn, trước mặt là cảnh cây cầu và nhà thờ mà giờ mặt tiền được thắp sáng. Trông nó như bưu ảnh Noel. đọc tờ báo mất bốn phút. Tin lý thú duy nhất là cái mẩu ngắn ngủn giải thích việc nhà chính trị sở tại với tên Birger Vanger (đảng Tự do) sắp đầu tư vào "IT TechCent" - trung tâm phát triển công nghệ ở Hedestad. Blomkvist ngồi đó cho tới khi quán cà phê đóng cửa lúc 6 giờ.

      7 giờ 30 phút, gọi Berger nhưng được bảo rằng người ở số này gọi được. ngồi lên chiếc ghế dài trong bếp, cố đọc cuốn tiểu thuyết mà, theo như lời lẽ ở bìa sau là về khởi đầu đầy li kì của thiếu nữ hoạt động bảo vệ nữ quyền. Cuốn tiểu thuyết đại khái về việc tác giả mưu tính làm chủ đời sống tình dục của bản thân trong chuyến đến Paris, Blomkvist thầm nghĩ nếu viết cuốn tiểu thuyết về đời sống tình dục của bằng cái giọng của sinh viên cao đẳng liệu có được gọi là nhà bảo vệ nữ quyền . Chắc . mua cuốn này vì nhà xuất bản tâng bốc tiểu thuyết gia đầu tay này là " Carina Rydberg 1 mới". mau chóng xác nhận trường hợp đây phải là thế, cả về văn phong lẫn nội dung. bỏ quyển sách lúc, thay vào đó đọc truyện của Hopalong Cassidy ở trong số Rekhôngrdmagazinet từ giữa những năm 50.

      Cứ nửa giờ đồng hồ , lại nghe thấy tiếng rền ngắn ngủn, nghèn nghẹn của chuông nhà thờ. Trông thấy ánh sáng bên trong cửa sổ nhà người quản gia bên kia đường nhưng Blomkvist nhìn thấy ai ở trong nhà. Nhà Harald tối. Khoảng 9 giờ chiếc xe chạy qua cầu và biến mất ở đầu làng. Vào nửa đêm, ánh sáng ở mặt tiền nhà thờ tắt. Đây ràng là trọn vẹn của việc tiêu khiển vào tối thứ Sáu đầu tháng Giêng tại Hedeby. Nó yên ắng lạ lùng.

      lại thử gọi Berger, nhận được lời nhắn hãy để lại tên và thông tin. làm theo rồi tắt đèn và lên giường. Điều cuối cùng nghĩ trước khi ngủ thiếp sắp đứng trước nguy cơ cao phát điên hoá rồ vì bị cầm cố ở Hedeby.

      Lạ lùng khi tỉnh giấc trong im lặng tuyệt đối. Trong phần giây, ngủ say, Blomkvist chuyển sang tỉnh táo ngay lập tức và vẫn nằm yên nghe ngóng. Gian buồng lạnh. quay đầu nhìn vào chiếc đồng hồ tay để ở cái ghế bên đầu giường. 7 giờ 8 phút - bao giờ là người dậy sớm lắm, với thành thói quen khi tỉnh dậy nếu có ít nhất hai chiếc đồng hồ báo thức. Hôm nay hoàn toàn tự thức dậy và cảm thấy được nghỉ ngơi.

      lấy ít nước để pha cà phê rồi đứng dưới vòi hoa sen. thình lình thấy vui vui với tình cảnh của mình. Kalle Blomkvist - chuyến tìm kiếm vào tận đằng sau chốn đèo heo hút gió.

      Chỉ khẽ đụng vào, vòi hoa sen chuyển từ nóng bỏng sang lạnh buốt. có báo buổi sáng bàn bếp. Bơ đông cứng. có dao cắt pho mát trong ngăn kéo đồ dùng bếp núc. Bên ngoài vẫn tối như mực. Hàn thử biểu thị 6 độ. Hôm nay thứ Bảy.

      Bến xe buýt Hedestad ở đường từ cửa hàng Khôngnsum và Blomkvist bắt đầu cuộc lưu đày bằng việc mang theo kế hoạch mua sắm trong thị trấn. xuống xe ở cạnh ga tàu, làm vòng quanh thị trấn. đường, mua đôi bốt mùa đông dầy nặng, hai bộ quần áo lót dài, vài chiếc sơ mi flanen, cái jacket mùa đông dài đến ngang đùi, mũ mỏ vịt ấm và găng tay có lót. Ở cửa hàng điện tử, tìm được tivi xách tay với đôi tai thỏ. Nhân viên bán hàng đảm bảo với rằng ở ngoài Hedeby có thể bắt được ít nhất là SVT, kênh truyền hình Nhà nước, và Blomkvist giao hẹn đòi lại tiền nếu như ta .

      vào thư viện để xin cái thẻ và mượn hai cuốn truyện hình của Elizabeth George. mua sổ tay, bút. cũng mua cái ba lô để đựng những thứ đồ vừa mua.

      Cuối cùng mua hộp thuốc lá. thôi hút mười năm trước, nhưng thỉnh thoảng cũng hút lại. nhét hộp thuốc lá vào đáy túi, bóc ra. Chỗ dừng sau đó là cửa hàng kính, mua hai mắt kính áp tròng và đặt những mắt kính mới.

      2 giờ quay về Hedeby, vừa tháo mác giá tiền ra khỏi mấy cái quần áo nghe thấy tiếng cửa chính mở. phụ nữ tóc vàng - có lẽ chừng năm chục tuổi - gõ vào cửa bếp mở khi bước qua ngưỡng cửa. Bà ta mang tới đĩa bánh gatô.

      - Chào , tôi chỉ muốn đến để tự giới thiệu. Tôi là Helena Nilsson, tôi ở bên kia đường. Tôi nghe chúng ta là hàng xóm của nhau.

      Họ bắt tay và Blomkvist tự giới thiệu.

      -Ồ vâng, tôi thấy ông tivi. Tối đến thấy có ánh đèn ở đây là hay.

      Blomkvist mời cà phê. Mới đầu bà ta từ chối nhưng rồi cũng ngồi xuống bên chiếc bàn bếp, liếc vội cái ra ngoài cửa sổ.

      -Henrik và chồng tôi đến kìa. Trông như có vài cái hộp cho ông.

      Henrik và Gunnar Nilsson đỗ ở bên ngoài với xe kéo chở hàng, Blomkvisst nhào vội ra chào đón họ và giúp mang bốn cái sọt đựng đồ vào trong. Họ để những cái hộp xuống sàn ở gần bếp lò, Blomkvist lấy tách cà phê ra và cắt bánh của bà Nilsson.

      Vợ chồng Nilsson là những người vui tính. Họ hình như tò mò tại sao Blomkvist lại ở Hedestad đây - việc làm cho Henrik Vanger ràng đủ giải thích. Blomkvist quan sát quan hệ qua lại giữa nhà Nilsson và Vanger, đó là mối quan hệ thoải mái và có cái hố ngăn cách giữa chủ nhân với đầy tớ. Họ về cái làng, về người xây cất ngôi nhà khách mà Blomkvist ở. Vợ chồng Nilsson nhắc Vanger mỗi khi ông quên. Về phía mình, Vanger kể câu chuyện vui về đêm Nilsson đến nhà phát thằng rồ trong làng ở bên kia cầu cố đập vỡ cái cửa sổ của nhà khách. Nilsson hỏi tay dở người tại sao vào bằng cửa chính khoá. Nilsson ngờ vực kiểm tra chiếc tivi của Blomkvist, mời qua nhà mình nếu có chương trình tivi muốn xem.

      Vanger ngồi lại lát sau khi vợ chồng Nilsson . Ông nghĩ tốt nhất là Blomkvist tự tay sắp xếp các hồ sơ và có thể đến nhà nếu có vấn đề gì.

      Khi còn lại chỉ có mình, Blomkvist mang những cái hộp vào trong phòng làm việc và làm cuộc kiểm kê nội dung của chúng.

      Vanger tiếp tục điều tra việc đứa cháu mất tích ba mươi sáu năm. Blomkvist nghĩ đây là ám ảnh lành mạnh hay theo với thời gian nó hoá ra trò chơi trí tuệ. Điều ràng là vị trưởng lão này xử lý công việc đó với cách tiếp cận có hệ thống của nhà khảo cổ học nghiệp dư - tài liệu xếp đầy cả sáu bảy mét giá sách.

      Phần lớn nhất của nó gồm hai mươi sáu cặp hồ sơ là các bản sao về điều tra của cảnh sát. Khó tin được rằng trường hợp người mất tích bình thường mà lại có những tài liệu toàn diện đến thế. ràng là Vanger có đủ phép để khiến cho cảnh sát Hedestad lần theo các đầu mối đáng tin lẫn đáng tin.

      Rồi có những cuốn cắt dán tư liệu, các album ảnh, bản đồ, bài viết về Hedestad và doanh nghiệp Vanger, nhật ký của Harriet( tuy nhiều trang), các sách học của , các giấy chứng nhận y tế. Có mười sáu tập giấy khổ A4, mỗi tập trăm trang hay hơn, vốn là sổ sách về lộ trình điều tra của Vanger. Trong các sổ sách này, ông tự viết tay rất đẹp các suy diễn, lý thuyết, các lạc đề của ông. Blomkvist lần giở chúng. Ông già viết rất mạch lạc và cảm thấy các bản viết này sao chép lại trung thành các sổ tay mà nội dung có lẽ còn nhiều hơn thế. Có mười cặp hồ sơ đựng tài liệu về các thành viên của gia đình Vanger; những trang này được đánh máy và tích lại theo năm tháng từng diễn ra các cuộc điều tra của Vanger về chính gia đình của ông.

      Khoảng 7 giờ nghe tiếng meo meo ở cửa chính. con mèo nâu hung hung đỏ len nhanh qua vào trong buồng tắm.

      -Con mèo này khôn, - .

      Con mèo đánh hơi lúc quanh ngôi nhà khách. Mikael đổ sữa vào cái đĩa. Vị khách của liếm sạch ngay. Rồi con mèo nhảy lên chiếc ghế dài trong bếp, cuộn tròn người lại. Và ở lại đấy.

      Blomkvist chưa kịp có được ở trong đầu cái nhìn bao quát và ràng về đống tài liệu và sắp xếp chúng lên các ngăn giá quá 10 giờ. pha bình cà phê và làm hai chiếc bánh kẹp thịt. Cả ngày chưa ăn bữa nào ra hồn nhưng lạ là lại để tâm đến chuyện ăn uống. cho con mèo miếng lạp xường và vài miếng xúc xích gan. Uống cà phê xong, lấy thuốc lá trong túi jacket ra và mở hộp.

      xem điện thoại di động. Berger gọi. thử lần nữa, lại chỉ có lời dặn nhắn lại tin.

      trong những bước Blomkvist phải làm trước tiên là ra xem tấm bản đồ đảo Hedeby mượn của Vanger. Trong khi những cái tên còn tươi mới ở trong đầu, ghi vào sổ nhà của từng người. Gia tộc Vanger là bảng phân vai rộng lớn như thế, phải mất rất nhiều thời gian mới biết được từng người.

      Ngay trước nửa đêm mặc quần áo ấm, giầy mới, bộ qua cầu. quẹo khỏi đường và men dọc theo eo biển bên dưới nhà thờ. Băng đóng ở eo biển và trong cảng cũ nhưng ngoài xa giữa trời vẫn có thể trông thấy dải nước tối màu hơn. Lúc dừng lại, ánh sáng ở mặt tiền nhà thờ biến mất, xung quanh hoàn toàn tối đen. Buốt giá và sao đầy trời.

      Chợt Blomkvist cảm thấy nản. thể hiểu tại sao vì cuộc sống của mình mà lại chịu cho Vanger xui khiến để nhận lấy công việc này. Berger đúng, nên ở Stockholm - chẳng hạn cùng ở giường với - và đặt kế hoạch chống lại Wennerstrom. Nhưng cũng thấy vô cảm với chuyện đó và thậm chí cũng chả có lấy được chút ý mờ nhạt nào về chuyện mở đầu chiến lược phản đòn.

      Nếu là ban ngày ban mặt, thẳng tới nhà Vanger, huỷ bản hợp đồng, rồi về nhà. Nhưng từ chỗ đất nhô ở cạnh nhà thờ, có thể phân biệt tất cả các ngôi nhà ở phía đảo. Nhà Harald tối, nhưng có ánh đèn trong nhà Cecilia cũng như ở biệt thự của Martin bên ngoài mũi đất đầu làng và trong ngôi nhà cho thuê. Trong cảng cho tàu đậu, có ánh sáng trong gian cabin trống gió của người họa sĩ, còn ở trong ống khói tàu ông ta có những đám tia lửa nho bốc lên. Có cả ánh sáng ở tầng thượng của quán cà phê và Blomkvist nghĩ liệu Susanne có sống ở đó , nếu có liệu có thân mình .

      Sáng Chủ nhật, hoảng hốt thức dậy vì nhà khách đầy những tiếng ầm ĩ thể tin nổi. mặc vội quần áo và nhận ra đó là các chuông của nhà thờ thỉnh gọi con chiên làm lễ buổi sáng. nằm ở giường cho đến khi thấy tiếng meo khẩn cấp ở lối ra cửa đứng dậy để cho con mèo ra ngoài.

      Buổi trưa tắm vòi sen và ăn điểm tâm. cả quyết vào buồng làm việc, lấy cặp hồ sơ thứ nhất của cuộc điều tra của cảnh sát. Rồi ngập ngừng. Ở cửa sổ đầu hồi, có thể trông thấy quán Cà phê & bánh đầu cầu Susanne. nhét cặp hồ sơ vào balô rồi mặc quần áo để ngoài nhà. Ở quán cà phê, thấy đầy khách và chính ở đấy có câu trả lời cho câu hỏi từng nằm ở trong đầu : ở nơi heo hút xa xôi như Hedeby quán cà phê làm sao mà lại có thể sống được? Susanne chuyên phục vụ những người lễ nhà thờ và có thể làm cà phê, bánh ngọt cho các tang lễ và các công việc khác.

      vào mà bộ tiếp. Chủ nhật cửa hàng Khôngnsum đóng cửa, vài trăm mét đến Hedestad, mua mấy tờ báo ở trạm xăng. bộ giờ quanh Hedeby, làm quen với cái thị trấn ở đằng trước cây cầu. Khu vực gần nhà thờ nhất và ở quá Khôngnsum là trung tâm, với các toà nhà cổ hơn - hai kiến trúc bằng đá có gác mà Blomkvist đồ chừng xây từ những năm 1910 hay 1920 làm nên phố chính ngăn ngắn. Mạn bắc con đường vào thị trấn là những toà nhà chung cư được bảo quản tốt cho các gia đình có trẻ . Dọc biển và đến phía nam nhà thờ phần lớn là những ngôi nhà của các gia đình chưa có con. Hedeby xem vẻ là khu vực tương đối thú vị cho những người ra quyết định và viên chức dân sống.

      Khi trở lại cây cầu, cuộc tiến công vào quán cà phê dịu nhưng Susanne vẫn dọn dẹp tách đĩa ở các bàn.

      - Giờ cao điểm Chủ nhật? - thay chào.

      Chị gật đầu, gài lọn tóc vào sau tai.

      - Chào, Mikael.

      - Thế ra chị nhớ tên tôi.

      - Khó quên đấy. - chị . - Tôi theo dõi vụ xử tivi.

      - Họ phải nhồi cái gì đó vào các tin tức. - lầm bầm rồi dạt đến bàn cà phê ở trong góc để có thể nhìn thấy cầu. Khi bắt gặp mắt Susanne, chị mỉm cười.

      3 giờ, Susanne chị đóng cửa quán. Sau giờ cao điểm nhà thờ, chỉ có ít khách đến rồi . Blomkvist đọc được hơn phần năm cặp hồ sơ thứ nhất về điều tra của cảnh sát. nhét sổ tay vào balô, bộ gấp qua cầu về nhà.

      Con mèo chờ ở cửa. nhìn quanh nghĩ xem con mèo của ai. Dẫu sao cứ cho nó vào nhà, ít ra con mèo cũng là thứ bầu bạn nào đó.

      lại uổng công gọi Berger. ràng vẫn còn điên tiết với . có thể gọi bằng trực tuyến ở văn phòng toà soạn hay số của nhà nhưng lưu lại kha khá tin nhắn mất rồi. Thay vào gọi, pha cà phê, xua con mèo ra xa chiếc ghế dài trong bếp và mở cặp hồ sơ ra để lên bàn.

      đọc thong thả và cẩn thận, muốn để mất bất cứ chi tiết nào. Khuya, khi đóng cặp hồ sơ lại, nhiều trang trong sổ tay của được ghi đầy - với những điều gợi nhớ và những câu hỏi mà hy vọng tìm ra câu trả lời ở trong các cặp hồ sơ tiếp theo. Tất cả tài liệu được xếp đặt theo trật tự thời gian. thể đó là cách Vanger tổ chức lại chúng hay đó là hệ thống được cảnh sát thời đó sử dụng.

      Trang đầu là bản sao báo cáo viết tay mang tiêu đề Trung tâm Khẩn cấp của cảnh sát Hedestad. Viên cảnh sát nhận điện thoại ký tên là T.B.Ryttinger và Blomkvist cho rằng T.B. là viết tắt chữ "Trực Ban". Người gọi là Henrik Vanger. Địa chỉ và số điện thoại của ông ghi ở đây. Bản báo cáo đề ngày Chủ nhật, 25 tháng Chín, 1966, 11 giờ 14 phút sáng. Báo cáo ngắn gọn.

      Hrk, Vanger gọi, báo rằng con (?) của trai ông, Harriet Ulrika VANGER, sinh 15 thg.1.1950 (16 tuổi) bị mất tích ở nhà ta ở đảo Hedeby từ chiều thứ Bảy. Người gọi tỏ ra rất hoang mang.

      tin gửi đến lúc 11 giờ 20 báo rằng P-014 (xe cảnh sát? Xe tuần tra? Hoa tiêu con tàu?) được phái đến trường.

      tin khác lúc 11giờ 35 viết dễ đọc hơn báo cáo của Ryttinger gài thêm rằng Sq. Magnusson báo cáo cầu đến đảo Hedeby vẫn bị tắc. lại bằng tàu. Bên lề, chữ ký đọc ra nổi.

      Lúc 12 giờ 14, Ryttinger trở lại: Chuyện điện thoại Sq. Magnusson ở H-by xác nhận rằng Harriet Vanger 16 tuổi mất tích từ đầu buổi chiều thứ Bảy. Gia đình rất hoang mang. Tin rằng ngủ ở giường ta đêm hôm trước. thể rời đảo vì cầu tắc. ai trong gia đình biết chút gì về HV.

      Lúc 12 giờ 19 chiều: G.M. thông báo tình hình bằng điện thoại.

      Tin cuối cùng ghi lúc 1 giờ 42 chiều: G.M. tại trường ở H-by, tiếp quản vấn đề.

      Trang sau cho biết hai chữ tắt G.M. là cảnh sát điều tra Gustaf Morell, người đến đảo Hedeby bằng tàu và nhận quyền chỉ huy ở đấy, chuẩn bị báo cáo chính thức về việc Harriet Vanger mất tích. giống nhưng ghi nhận đầu tiên với những chữ viết tắt cần thiết, các báo cáo của Morell được đánh máy và câu cú thành văn có thể đọc được rất trôi chảy. Các trang sau thuật lại các biện pháp nào được áp dụng. Tính khách quan và sức mạnh của chi tiết làm cho Blomkvist ngạc nhiên.

      Morell phỏng vấn trước tiên Henrik Vanger cùng Isabella Vanger, mẹ của Harriet. Rồi lần lượt ông chuyện với Ulrika Vanger, Harald Vanger, Greger Vanger, Martin Vanger, của Harriet và Anita Vanger. Blomkvist đến kết luận rằng các phỏng vấn này được làm theo thứ bậc quan trọng giảm dần.

      Ulrika là mẹ của Henrik Vanger và ràng là bà giữ địa vị như nữ hoàng nhiếp chính. Ulrika sống trong cơ ngơi của gia đình Vanger nhưng cho ra được thông tin nào. Đêm hôm trước bà nằm sớm và mấy ngày trông thấy Harriet. Bà nài gặp cảnh sát điều tra Morell hình như là chỉ cốt cho ra vẻ là theo ý bà cảnh sát hành động ngay lập tức.

      Harald Vanger xếp thứ hai trong danh sách. Ông chỉ thấy chốc nhát Harriet lúc vừa ở lễ hội tại Hedestad trở về nhưng trông thấy từ khi xảy ra tai nạn xe cộ cầu và ông biết nay có thể ở đâu.

      Greger Vanger, của Henrik và em của Harald, khai ông thấy mười sáu tuổi ở trong phòng làm việc của Henrik, muốn chuyện với Henrik sau khi đến Hedestad sáng hôm đó. Greger Vanger, khai ông được gì với cháu, chỉ là chào tiếng thế thôi. Ông biết tìm được cháu ở đâu nhưng cho hay là theo ông chắc bất chợt thăm vài người bạn mà bảo ai và trở về sớm thôi. Khi hỏi cầu bị tắc, rời đảo làm sao được ông thể trả lời.

      Martin Vanger được hỏi lướt qua. Cậu ở lớp cuối cùng của trường dự bị ở Uppsala, cậu sống trong nhà của Harald nên cậu tàu về nhà ở Hedeby, đến nơi muộn quá đến nỗi cậu bị kẹt ở phía đầu cầu khi có vụ tại nạn, mãi tối muộn mới có thể qua được eo biển bằng tàu. Cậu được phỏng vấn với hy vọng em cậu tâm với cậu và cho cậu đôi ba manh mối nếu nghĩ đến chuyện bỏ . Câu hỏi bị mẹ của Harriet Vanger phản đối nhưng lúc ấy thanh tra Morell có lẽ lại nghĩ Harriet bỏ chạy có thể lại là điều mà họ mong mỏi nhất. Nhưng Martin chuyện trò với em từ dạo nghỉ hè và có thông tin giá trị nào cả.

      Anita Vanger bị liệt nhằm vào danh sách " chị em họ bậc " của Harriet. học năm thứ nhất ở đại học Stockholm, về nghỉ hè ở Hedeby. với Harriet gần như cùng tuổi và hai người thành bạn thân. khai đến đảo ngày thứ Bảy cùng với bố và tìm gặp Harriet nhưng kiếm ra. Anita cảm thấy khó chịu và việc bỏ báo với gia đình như thế này phải là kiểu của Harriet. Henrik và Isabella xác nhận điều này là đúng.

      Trong khi phỏng vấn các thành viên gia đình, thanh tra Morell bảo Magnusson và Bergman - tuần tra 014 - hãy tổ chức cuộc lùng kiếm thứ nhất trong khi trời còn sáng. Cầu vẫn cấm qua lại cho nên khó gọi thêm tăng viện. Nhóm tìm kiếm có khoảng ba chục người, cả đàn ông đàn bà ở các tuổi khác nhau. Các khu vực họ tìm kiếm chiều hôm ấy gồm các nhà người ở tại cảng cá, mũi bờ biển, đầu làng và dọc eo biển, khu rừng gần làng nhất, quả đồi tên là Soderberget ở đằng sau cảng cá. Sở dĩ tìm chỗ này vì có người lập luận là Harriet có thể lên đó để nhìn được cây cầu hơn. Các đội tuần tra cũng được phái đến Ostergarden và căn lều của Gottfried ở phía bên kia đảo, nơi thỉnh thoảng Harriet vẫn đến thăm. Nhưng cuộc tìm kiếm có kết quả, mãi sau 10 giờ đêm, đến lúc tối om, mới dừng lại. Nhiệt độ suốt đêm tụt xuống đông cứng.

      Buổi chiều cảnh sát điều tra Morell đặt ban chỉ huy của ông ở phòng khách mà Henrik Vanger bố trí cho ông dùng ở tầng trệt của văn phòng bất động sản Vanger. Ông tiến hành số đo đạc.

      Ở công ty của Isabella Vanger, ông xem xét gian buồng của Harriet và thử xác định xem liệu có thứ gì bị mất: quần áo, va li đại loại, thứ có thể chỉ ra cho thấy là Harriet bỏ nhà . Isabella, ghi nhận kèm theo, giúp đỡ và hình như quen thuộc với tủ quần áo của con . Nó thường mặc quần jean mà trông tất cả đều giống nhau phải? Túi xắc của Harriet ở bàn làm việc, trong có giấy căn cước, ví tiền có chín curon và năm mươi ore, cái lược, chiếc gương và khăn tay. Sau khi khám xét, buồng của Harriet được khoá lại.

      Morell triệu tập để phỏng vấn nhiều người nữa, thành viên gia đình và nhân viên. Tất cả các phỏng vấn đều được báo cáo tỉ mỉ.

      Khi những người dự cuộc tìm kiếm bắt đầu quay về với các báo cáo làm nản lòng, viên cảnh sát quyết định phải mở cuộc tìm kiếm có hệ thống hơn nữa. Ngoài những người khác, Morell còn gặp chủ tịch của Câu lạc bộ Chạy định hướng của Hedestad, và kêu gọi giúp đỡ bằng việc mời những người tình nguyện làm cuộc tìm kiếm. Vào nửa đêm người ta bảo ông rằng năm mươi ba thành viên, phần lớn là từ các đoàn thanh thiếu niên đến cơ ngơi đất đai Vanger vào hồi 7 giờ sáng mai. Henrik Vanger gọi phần ca sáng, ước khoảng năm chục người, của nhà máy giấy. Ông cũng sửa soạn đồ ăn thức uống cho tất cả họ.

      Blomkvist có thể tưởng tượng thấy cảnh diễn ra cơ ngơi đất đai Vanger những ngày ấy. Vụ tai nạn cầu chắc chắn làm cho những giờ đầu tiên bị lúng túng - khiến khó đưa tăng viện đến và vì người ta phần nào cứ nghĩ rằng hai kiện bi thảm xảy ra ở cùng chỗ và gần vào cùng lúc kia là có liên quan đến nhau. Khi cẩu chiếc xe tẹc , Morell xuống tận cầu để cầm chắc Harriet vài xoay vần khó có thể có của đời mà bị chết đuối ở dưới đống xe đổ nát. Đây là việc làm phi lý duy nhất mà Blomkvist có thể tìm thấy ở trong hành xử của viên cảnh sát, bởi lẽ nghi ngờ gì cả, sau khi xảy ra tai nạn xe, mất tích vẫn còn được trông thấy ở đảo.

      Trong hai mươi tư giờ lúng túng ban đầu ấy, các hy vọng của họ rằng tình hình được giải quyết nhanh chóng và vui vẻ cứ dần dà chìm . Thay vào đó, hai lí luận dần thay thế chúng. Mặc dù ràng là rất khó rời hòn đảo mà bị để ý, Morell vẫn chấp nhận khả năng bỏ . Ông quyết định nên gửi lệnh báo động về Harriet Vanger và ông chỉ thị cho các viên cảnh sát tuần tra ở Hedestad mở to mắt ra tìm mất tích. Ông cũng phái đồng nghiệp trong đội hình phỏng vấn các tài xế xe buýt và nhân viên các ga tàu để tìm xem liệu có ai đó nhìn thấy .

      Khi các báo cáo có kết quả gửi về người ta càng có vẻ thiên nhiều hơn về cái ý Harriet Vanger là nạn nhân của bất hạnh nào đó. Lý luận này rút cục khống chế công việc điều tra của những ngày tiếp theo.

      Theo Blomkvist ràng là sau khi bị mất tích hai ngày, người ta tiến hành cuộc tìm kiếm quy mô. Cảnh sát và lính cứu hoả từng dầy dạn kinh nghiệm với các tác chiến tương tự tổ chức việc tìm kiếm. Đảo Hedeby có những chỗ gần như thể vào nổi nhưng dù sao nó vẫn chỉ là khu vực bé và nó được rà rà lại suốt ngày trời. tàu cảnh sát và hai tàu tình nguyện Pettersson làm hết sức để tìm kiếm những vùng nước ở xung quanh đảo.

      Ngày hôm sau, cuộc tìm kiếm tiếp tục với nhân lực ít hơn. Các đội tuần tra được cử để làm cuộc càn quét thứ hai ở chỗ đất đặc biệt gồ ghề, cũng như ở khu vực có tên là "Pháo đài" - hệ thống hầm boong ke xây từ Đại chiến thứ hai nay bỏ . Họ cũng tìm các hầm hố, giếng nước, kho rau quả, nhà vệ sinh, gác thượng, sân thượng ở trong làng.

      Có thể đọc thấy thất vọng ở trong các ghi nhận chính thức khi cuộc tìm kiếm lắng xuống vào ngày thứ ba sau hôm mất tích. Dĩ nhiên Morell chưa nhận ra điều đó nhưng lúc ấy trong cuộc điều tra ông cũng với xa đến hết khả năng của ông. Ông bối rối và phải vật lộn để nhận ra khâu công việc tiếp theo tất yếu hay nơi phải tiến hành tìm kiếm. Harriet Vanger hình như tan biến vào khí mong manh và từ đó những năm tháng tra tấn dằn vặt Henrik Vanger bắt đầu.


      Chú thích

      1 (Carina Rydberg: Nữ nhà văn Thuỵ Điển, sinh năm 1962, sáng tác từ năm 1987 đến nay)


      Stieg Larsson

      Có Hình Xăm Rồng

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :